Professional Documents
Culture Documents
Bố cục:
- Phần 1 (từ đầu...thế giới mới) : tầm quan trọng, ý nghĩa cần thiết của việc đọc
sách.
- Phần 2 (tiếp ... tự tiêu hao lực lượng) : khó khăn, nguy hại trong việc đọc sách.
- Phần 3 (còn lại) : phương pháp đọc sách (cách lựa chọn và cách đọc).
Vấn đề nghị luận : Đọc sách là con đường quan trọng để tích lũy, nâng cao học vấn,
đọc sách có những khó khăn và phải có phương pháp đọc hiệu quả.
(Ba luận điểm của bài viết là nội dung ba phần trong mục Bố cục đã nêu trên).
- Tầm quan trọng của việc đọc sách : ghi chép, lưu truyền mọi tri thức, thành tựu ;
Sách là những cột mốc trên con đường phát triển học thuật.
- Ý nghĩa của việc đọc sách : là con đường quan trọng của học vấn, sự chuẩn bị cho
cuộc trường chinh vạn dặm trên con đường học vấn, phát triển thế giới mới.
- Trước tiên phải lựa sách mà đọc vì sách nhiều cũng có những nguy hại của nó :
+ Sách nhiều khiến người ta không chuyên sâu, không biết nghiền ngẫm.
+ Sách nhiều khó lựa chọn, người đọc dễ lạc hướng, lãng phí thời gian.
+ Không tham đọc nhiều, đọc lung tung, phải đọc kĩ những cuốn thực sự có giá
trị.
+ Đọc kĩ về sách, tài liệu thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình.
+ Khi đọc chuyên sâu, không thể xem thường loại sách gần gũi với chuyên môn.
- Không nên đọc lướt mà phải đọc kĩ, vừa đọc vừa suy ngẫm.
- Không đọc một cách tràn lan kiểu hứng thú mà phải đọc có hệ thống.
→ Đọc sách là học tập tri thức, hơn thế còn là rèn luyện tính cách, học làm người.
- Bố cục chặt chẽ, hợp lí. Cách viết giàu hình ảnh, ví von cụ thể, thú vị.
- Phân tích cụ thể, dẫn dắt tự nhiên bằng giọng trò chuyện, tâm tình của một học
giả uy tín. Nội dung các lời bàn rất đúng đắn, có tính triết lí sâu sắc.
Luyện tập
(trang 7 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2): Phát biểu điều mà em thấm thía ...
Bài Bàn về đọc sách gây cho em rất nhiều tư tưởng thấm thía :
- Đọc sách vô cùng quan trọng trong việc trau dồi tri thức và rèn luyện nhân cách.
- Không nên đọc sách tràn lan, phải biết chọn sách mà đọc, cũng như phải biết áp
dụng phương pháp đọc cho phù hợp, hiệu quả.
- Phần 1 (từ đầu ...cách sống của tâm hồn) : Nội dung tiếng nói của văn nghệ.
- Phần 2 (còn lại) : Sức mạnh lớn lao của văn nghệ trong đời sống con người.
Bài viết có bố cục khá chặt chẽ với hệ thống luận điểm mạch lạc :
- Văn nghệ không chỉ phản ánh thực tại khách quan mà còn là nhận thức mới mẻ,
là tư tưởng, tình cảm của cá nhân nghệ sĩ.
- Sức mạnh của văn nghệ trong đời sống tâm hồn con người và cuộc sống.
- Văn nghệ có khả năng cảm hoá, có sức lôi cuốn kỳ diệu.
Câu 2 (trang 17 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
+ Phản ánh thực tại xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại.
+ Thể hiện tư tưởng, tình cảm người nghệ sĩ gói vào tác phẩm một lá thư, một
lời nhắn nhủ.
+ Tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm, nhận thức người đọc như rọi vào
bên trong chúng ta một thứ ánh sáng riêng...làm thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ.
Con người cần tiếng nói văn nghệ vì văn nghệ có sức mạnh to lớn trong đời sống tâm
hồn, trong cuộc sống con người :
- Văn nghệ làm cho đời sống tinh thần của con người được đầy đủ, phong phú hơn,
đem đến cảm xúc yêu ghét, ý đẹp xấu, niềm vui buồn trong lao động, cuộc sống.
- Văn nghệ góp phần làm tươi mát cuộc sống vất vả, giúp con người biết rung cảm
và ước mơ, giữ niềm tin trong cuộc sống.
Tư tưởng, nội dung của văn nghệ phản ánh đời sống, người đọc cùng hòa nhập vào
cuộc sống của các nhân vật trong đó, tác phẩm văn nghệ đi từ trái tim đến trái tim,
tác động vào tình cảm mỗi người.
Đặc sắc nghệ thuật nghị luận của Nguyễn Đình Thi :
- Cách viết giàu hình ảnh, có nhiều dẫn chứng về thơ văn, về đời sống thực tế.
Luyện tập
(trang 17 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2): Nêu một tác phẩm văn nghệ ...
Mỗi tác phẩm văn nghệ là tiếng lòng của người nghệ sĩ, tác động kì diệu đến tâm tư
người đọc. Đọc Thời thơ ấu của Mác-xim Go-rơ-ki, đại văn hào người Nga, tôi thấu
hiểu tâm hồn và nỗi đau khổ của những đứa trẻ đáng thương trong xã hội. Đó là
những kí ức tuổi thơ không được thơ mộng như chúng ta bây giờ, chứa đựng đầy khổ
cực và kìm hãm. Tôi hiểu sâu sắc những đau khổ ấy và nhìn lại bản thân mình, tôi
được bố mẹ nuông chiều, được đi học đầy đủ, được sống trong cảnh hòa bình. Tôi
biết quanh mình còn rất nhiều người, rất nhiều đứa trẻ không có tuổi thơ màu hồng
tươi đẹp. Và vì vậy, tôi càng trân quý hơn cuộc sống của mình, biết rằng mình cần
phải cố gắng, phấn đấu, không chỉ cho tôi mà còn cho tương lai đất nước mình,
tương lai những đứa trẻ là con, là cháu tôi.
Bố cục:
- Phần 1 (từ đầu ... càng nổi trội) : Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới.
- Phần 2 (tiếp ... điểm yếu của nó) : Bối cảnh thế giới và những yêu cầu của nó.
- Phần 3 (tiếp ... và hội nhập) : Điểm mạnh, điểm yếu của người Việt Nam.
- Tác giả viết bài này vào đầu năm 2001, chuyển giao giữa hai thế kỉ của toàn thế
giới, với nước ta là tiếp bước công cuộc đổi mới từ cuối thế kỉ trước.
- Vấn đề : Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới → Tính thời sự nóng hổi, có ý nghĩa
lâu dài với sự phát triển hội nhập của đất nước.
- Nhiệm vụ : nhìn nhận những hạn chế cần khắc phục để không bị tụt hậu và bắt
kịp bước đi của thời đại. Đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận nền kinh tế tri thức.
- Sự cần thiết trong nhận thức của lớp trẻ về cái mạnh yếu của con người Việt
Nam.
- Nêu và phân tích những đặc điểm con người Việt Nam (cái mạnh, yếu, mặt đối
lập)
- Con người Việt Nam phải tự thay đổi, hoàn thiện mình để hội nhập với toàn cầu.
“Sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất”. Vì máy móc và các yếu tố khác
có tân tiến hiện đại đến bao nhiêu cũng là do con người sản xuất, sáng tạo ra, không
thể thay thế được con người, đặc biệt trong nền kinh tế tri thức.
Điểm mạnh yếu của con người Việt Nam và tác động tới nhiệm vụ đất nước :
- Thông minh nhạy bén với cái mới, song thiếu kiến thức cơ bản, kém khả năng
thực hành → Không thích ứng với nền kinh tế mới.
- Cần cù sáng tạo nhưng thiếu tính tỉ mỉ, không coi trọng /quy trình → Ảnh hưởng
nặng nề của phương thức sản xuất nhỏ và thôn dã, là vật cản ghê gớm.
- Đùm bọc, đoàn kết trong chiến đấu nhưng đố kị trong làm ăn và cuộc sống →
Ảnh hưởng tới đạo đức, giảm đi sức mạnh và tính liên kết
- Bản tính thích ứng nhanh dễ hội nhập nhưng có tính kì thị trong kinh doanh, khôn
vặt → Cản trở kinh doanh và hội nhập.
- Nhận xét của tác giả với các sách lịch sử và văn học :
+ Điểm giống : phân tích, nhận xét những ưu điểm của người Việt : thông minh,
cần cù, sáng tạo, nhạy bén với cái mới, đoàn kết trong chiến đấu...
+ Điểm khác : còn phê phán những khuyết điểm, hạn chế như thiếu kĩ năng thực
hành, đố kị, khôn vặt, thiếu cẩn trọng...
- Thái độ tác giả : khách quan khoa học, chân thực đúng đắn.
Những thành ngữ, tục ngữ được sử dụng : nước đến chân mới nhảy, liệu cơm gắp
mắm, trâu buộc ghét trâu ăn, bóc ngắn cắn dài... → Tác dụng : cho bài viết sinh
động, cụ thể, vấn đề mang tính uyên bác trở nên gần gũi dể hiểu.
Luyện tập
Câu 1 (trang 31 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Dẫn chứng cho điểm mạnh yếu của người Việt như tác giả đã nêu :
- Con người Việt Nam rất thông minh : đạt giải cao trong các cuộc thi toán, lí,
hóa...
Yêu thương đùm bọc nhau : giúp đỡ những vùng bão lũ ngập lụt.
- Bệnh lề mề, ý thức kém trong cộng đồng (giữ vệ sinh kém, rác bừa bãi...), khôn
vặt (chặt chém khách du lịch,...)
Học sinh nhìn nhận bản thân và đối chiếu với những điểm mạnh, điểm yếu mà tác giả
đã nêu ra.
`1/ Tìm hiểu chung bài Tiếng nói của văn nghệ
a/ Tác giả
- Cuộc đời:
+ Ông là một nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, soạn kịch,sáng tác nhạc, viết tiểu luận
phê bình,..
+ Là một nghệ sĩ tiên phong trong việc tìm tòi, đổi mới nghệ thuật, đặc biệt là thơ ca.
+ Ông là một nghệ sĩ gắn bó với Hải Phòng, có nhiều sáng tác nổi tiếng về Thành phố
Cảng như: Nhớ Hải Phòng (thơ), Vỡ bờ (tiểu thuyết)…
+ Năm 1996, ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học –
nghệ thuật.
b/ Tác phẩm
- Văn bản được viết ở chiến khu Việt Bắc (1948) – giai đoạn đầu cuộc kháng chiến
chống Pháp – thời kì đang nỗ lực xây dựng một nền văn nghệ với phương châm: dân
tộc – khoa học – đại chúng.
- Tác phẩm in trong tập "Mấy vấn đề văn học", xuất bản năm 1956.
c/ Bố cục
Bố cục của bài nghị luận này có thể chia làm hai phần:
- Phần 1: Từ đầu đến "một cách sống của tâm hồn": Trình bày nội dung của văn nghệ.
- Phần 2: Còn lại: Sức mạnh kì diệu của văn nghệ đối với đời sống của con người.
- Văn nghệ phản ánh hiện thực cuộc sống nhưng văn nghệ không chỉ phản ánh khách
quan cái hiện thực ấy mà còn biểu hiện cái chủ quan của người sáng tác – qua lăng
kính của tác giả.
+ "Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần mình
góp vào đời sống chung quanh".
- Để làm nổi bật luận điểm này, tác giả đã đưa ra 2 dẫn chứng:
+ Hai câu thơ tả cảnh mùa xuân tươi đẹp trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du – đây
không chỉ là tả cảnh mùa xuân mà còn là sự rung động của Nguyễn Du trước cảnh
mùa xuân đem đến cho người đọc sự sống, tuổi trẻ…
+ Cái chết của nhân vật An-na Ca-rê-nhi-na khiến người đọc bâng khuâng, thương
cảm.
→ Người đọc đã nhận ra được tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ gửi vào cái hiện
thực cuộc sống ấy. Chính lời nhắn gửi toát lên từ hiện thực khách quan được biểu hiện
trong tác phẩm đã đem đến cho người đọc một nhận thức mới mẻ.
⇒ Phép lập luận phân tích cùng với những dẫn chứng tiêu biểu cụ thể, Nguyễn Đình
Thi cho thấy: nội dung văn nghệ là phản ánh hiện thực. Hiện thực ấy mang tính hình
tượng cụ thể, sinh động, là đời sống, tư tưởng, tình cảm của con người thông qua cái
nhìn và tình cảm của người nghệ sĩ.
b/ Tiếng nói của văn nghệ rất cần thiết đối với đời sống con người
- Văn nghệ giúp cho con người có cuộc sống đầy đủ hơn, cảm thấy cuộc đời đẹp hơn
và có ý nghĩa hơn:
+ Văn nghệ giúp con người tự nhận thức chính bản thân mình, giúp ta sống đầy đủ,
phong phú hơn cuộc sống của chính mình.
+ Trong những trường hợp con người bị ngăn cách giữa cuộc sống, tiếng nói của văn
nghệ là sợi dây buộc chặt họ với cuộc đời thường bên ngoài với tất cả những sự sống,
hành động vui buồn, gần gũi.
+ Văn nghệ góp phần làm tươi mát sinh hoạt khắc khổ hằng ngày, giữ cho đời vẫn
tươi. Tác phẩm văn nghệ giúp cho con người vui lên, biết rung động và ước mơ trong
cuộc đời còn vất vả, cực nhọc.
⇒ Văn nghệ rất cần thiết đối với cuộc sống của mỗi người chúng ta.
- Chỗ đứng của văn nghệ chính là chỗ giao nhau giữa tâm hồn con người với cuộc
sống sản xuất, chiến đấu; là ở tình yêu ghét, nỗi buồn vui trong đời sống tự nhiên với
đời sống xã hội.
- Nghệ thuật là tư tưởng nhưng là tư tưởng đã được nghệ thuật hóa – tư tưởng cụ thể
sinh động, lắng sâu, kín đáo chứ không lộ liễu, khô khan, áp đặt.
⇒ Tác phẩm văn nghệ lay động cảm xúc, đi vào nhận thức, tâm hồn người đọc bằng
con đường tình cảm. Qua tác phẩm văn nghệ, chúng ta sống cùng cuộc sống được
miêu tả trong đó, được yêu ghét, buồn vui đợi chờ, cùng với các nhân vật và người
nghệ sĩ.
* Tổng kết
Nội dung: Văn nghệ nối sợi dây đồng cảm kì diệu giữa nghệ sĩ với bạn đọc thông qua
những rung động mãnh liệt, sâu xa của trái tim. Văn nghệ giúp cho con người được
sống phong phú hơn và tự hoàn thiện nhân cách, tâm hồn mình. Nguyễn Đình Thi đã
phân tích, khẳng định ấy qua bài tiểu luận Tiếng nói của văn nghệ.
Nghệ thuật
- Cách viết giàu hình ảnh, có nhiều dẫn chứng về thơ văn, về đời sống thực tế để
khẳng định, thuyết phục các ý kiến, nhận định, để tăng thêm sức hấp dẫn cho tác
phẩm.
3/ Bài tập minh họa bài Tiếng nói của văn nghệ
Đề bài: Phân tích tác phẩm Tiếng nói của văn nghệ.
1/ Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tiểu luận Tiếng nói của văn nghệ.
2/ Thân bài
- Tác phẩm văn nghệ lấy chất liệu từ thực tại đời sống nhưng không sao chép thực tại.
Khi sáng tạo tác phẩm, người nghệ sĩ gửi vào đó một cách nhìn, một lời nhắn nhủ của
mình nên nội dung tác phẩm không chỉ là hiện thực khách quan mà còn là tư tưởng
tấm lòng của nhà nghệ sĩ.
- Tác phẩm văn nghệ không phải là những lời thuyết lí khô khan mà là tiếng nói sinh
động bởi nó chứa đựng những say sưa, vui buồn, yêu ghét, mơ mộng, phẫn khích của
nhà nghệ sĩ. Nó mang đến cho chúng ta bao rung động, bao ngỡ ngàng trước những
điều tưởng chừng rất quen thuộc, đặc biệt, nó giúp ta tự phát hiện ra mình có thể làm
chúng ta thay đổi cách nghĩ, cách sống.
⇒ Khác với khoa học khám phá các quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội, văn
nghệ tập trung khám phá tính cách, số phận, thế giới bên trong của tâm hồn con
người. Hiện thực trong tác phẩm văn nghệ là hiện thực mang tính cụ thể sinh động
qua cái nhìn và tình cảm của nhà nghệ sĩ. Đó là nội dung chủ yếu của văn nghệ.
- Khi con người bị ngăn cách với cuộc sống, văn nghệ là sợi dây buộc chặt họ với
cuộc đời bên ngoài, với những sự sống, những hoạt động, những vui buồn gần gũi.
- Văn nghệ góp phần làm tươi mát cuộc sống khắc khổ hằng ngày, giúp cho con người
biết rung cảm và ước mơ khi cuộc đời còn lắm vất vả, cực nhọc.
⇒ Văn nghệ rất quan trọng trong cuộc sống của chúng ta.
c/ Sức mạnh cảm hóa kì diệu của văn nghệ đối với con người.
- Sức mạnh riêng của văn nghệ bắt nguồn từ nội dung của nó và con đường mà nó đến
với người đọc, người nghe.
- Nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm. Tác phẩm văn nghệ chứa đựng thái độ, tình
cảm của con người. Tư tưởng của nghệ thuật là tư tưởng thấm đẫm cảm xúc. Thông
qua con đường cảm xúc, tình cảm, tác phẩm văn nghệ lay động tâm hồn, tác động vào
nhận thức của người đọc.
- Đến với một tác phẩm văn nghệ, chúng ta càng được sống cùng cuộc sống miêu tả
trong đó, được yêu ghét, vui buồn, chờ đợi cùng các nhân vật. Nghệ thuật đốt lửa
trong lòng người thôi thúc con người hành động.
- Văn nghệ góp phần giúp mọi người tự nhận thức mình, tự xây dựng mình và góp
phần xây dựng đời sống tâm hồn cho xã hội.
⇒ Tác phẩm văn nghệ lay động cảm xúc, đi vào nhận thức, tâm hồn người đọc bằng
con đường tình cảm.
3/ Kết bài
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa của tiếng nói văn nghệ.
4/ Tổng hợp các cách mở bài và kết bài cho tác phẩm Tiếng nói của văn nghệ
Mở bài Tiếng nói của văn nghệ mẫu 1
Chúng ta nhắc đến Nguyễn Đình Thi không chỉ với tư cách là một nhà thơ mà còn
nhắc đến ông với tư cách là một nhà văn, nhà soạn kịch, sáng tác nhạc, một nhà lí
luận phê bình văn học. Ông đã có rất nhiều đóng góp cho kho tàng văn chương Việt
Nam. Về lĩnh vực lí luận phê bình nói riêng, Nguyễn Đình Thi đã ghi dấu ấn khó quên
trong lòng bạn đọc bởi lối viết giản dị, giàu hình ảnh, tiêu biểu phải kể đến bài tiểu
luận “Tiếng nói của văn nghệ”. Bài tiểu luận này được ông viết năm 1948 và in trong
tập “Mấy vấn đề văn học” xuất bản năm 1956.
Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) quê ở Hà Nội. Ông là một trong những thành viên
đầu tiên của tổ chức Văn hóa cứu quốc do mặt trận Việt Minh thành lập từ năm 1943.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông được bầu làm Tổng thư kí Hội Văn hóa cứu quốc, đại
biểu Quốc hội khóa đầu tiên. Từ năm 1958 đến 1989, Nguyễn Đình Thi là Tổng Thư
kí Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1995, ông là Chủ tịch ủy ban toàn quốc Liên hiệp các
hội văn học nghệ thuật.
Kết bài Tiếng nói của văn nghệ mẫu 1
Cách lập luận chặt chẽ, sử dụng nhiều hình ảnh cùng với các dẫn chứng xác thực, bài
tiểu luận “Tiếng nói của văn nghệ” đã góp phần tạo nên một phong cách phê bình, lí
luận riêng của Nguyễn Đình Thi. Bài tiểu luận đã làm rõ vai trò, giá trị của văn nghệ
đối với cuộc sống con người. Nhờ có văn nghệ mà tâm hồn con người được mở rộng,
nó giúp con người có cái nhìn đa dạng, phong phú hơn về thế giới bên ngoài.
Bài tiểu luận của Nguyễn Đình Thi thành công trước tiên do bố cục hết sức chặt chẽ,
hợp lí và cách dẫn dắt vấn đề rất tự nhiên. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, có nhiều dẫn
chứng bằng thơ văn, bằng câu chuyện thực tế để khẳng định và tăng sức thuyết phục,
sức hấp dẫn cho bài viết. Giọng văn toát lên thái độ chân thành, say sưa, giàu nhiệt
huyết của tác giả. Qua bài viết này, chúng ta hiểu được nội dung Tiếng nói của văn
nghệ và sức mạnh kì diệu của nó đối với đời sống con người; đồng thời hiểu thêm
cách viết một bài văn nghị luận văn học ngắn gọn, chặt chẽ và giàu hình ảnh.
Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten
Bố cục:
- Phần 1 (từ đầu ... tốt bụng như thế) : Hình tượng con cừu trong thơ La Phông-ten.
- Phần 2 (còn lại) : Hình tượng chó sói trong thơ La Phông-ten.
Hai phần của bố cục đều dùng biện pháp phân tích đặc điểm của đối tượng từ ngòi
bút của La Phông-ten đến Buy-phông, cuối cùng trở về dưới ngòi bút của La Phông-
ten, nhưng khi triển khai thì không lặp lại : Đoạn 1 dẫn chứng bằng thơ của La
Phông-ten. Đoạn 2 đi sâu vào mô tả đặc điểm đối tượng.
- Buy-phông nhận xét về loài cừu, loài chó sói căn cứ vào đặc tính trong cuộc sống
bầy đàn và đời sống riêng theo quan điểm một nhà khoa học.
- Ông không nói đến “sự thân thương” của loài cừu và “nỗi bất hạnh” của loài chó
sói, bởi nó không phải đặc tính cơ bản của chúng.
Để xây dựng hình tượng con cừu, La Phông-ten dựa vào đặc điểm thực của loài, sống
hiền lành, thân thương tốt bụng của cừu non. Phần sáng tạo của nhà thơ là đã nhân
cách hóa con cừu, ông làm bật lên tính ngây thơ đến tội nghiệp của chú cừu.
1/ Tìm hiểu chung bài Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten
a/ Tác giả
- Cuộc đời:
+ Là triết gia, sử gia đồng thời cũng là nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng của Pháp,
Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp.
+ Ông đã dành nhiều thời gian nghiên cứu về truyện ngụ ngôn của La-phông-ten.
b/ Tác phẩm
Đây là một bài nghị luận văn chương, trích từ chương II, phần II của công trình La-
phông-ten và thơ ngụ ngôn của ông, in năm 1853.
c/ Bố cục
- Phần 1: Từ đầu đến "tốt bụng như thế": hình tượng con cừu trong thơ La-phông-ten.
- Phần 2: Còn lại: Hình tượng chó sói trong thơ La-phông-ten.
2/ Đọc - hiểu văn bản Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten
a/ Hình tượng con cừu trong thơ La-phông-ten
- Dưới con mắt nhà khoa học Buy - phông, cừu là con vật đần độn, sợ hãi, thụ động,
không biết trốn tránh nguy hiểm.
- Trong con mắt của nhà thơ La-phông-ten, ngoài những đặc tính trên, cừu là con vật
dịu dàng, tội nghiệp, đáng thương, tốt bụng, giàu tình cảm. Cừu có sợ sệt nhưng
không đần độn, sắp bị sói ăn thịt mà cừu vẫn dịu dàng, rành mạch đáp lời sói. Không
phải cừu không ý thức được tình huống của mình mà thể hiện tình mẫu tử cao đẹp, là
sự chịu đựng tự nguyện hy sinh của cừu mẹ cho con, bất chấp nguy hiểm.
→ La-phông-ten đã động lòng thương cảm, đó là cái nhìn khách quan kết hợp với
cảm xúc chủ quan. Tạo được hình ảnh vừa chân thực vừa xúc động về con vật này.
b/ Hình tượng chó sói trong cái nhìn của Buy-phông và La-phông-ten
- Theo Buy-phông chó sói là tên bạo chúa khát máu và đáng ghét, sống gây hại, chết
vô hại, bẩn thỉu, hôi hám, hư hỏng. Biểu hiện bản năng về thói quen và sự xấu xí.
- Theo La-phông-ten Chó sói có tính cách phức tạp, độc ác mà khổ sở, trộm cướp bất
hạnh, vụng về, thường xuyên đói meo, bị ăn đòn, truy đuổi, đáng ghét, đáng thương.
- Chó sói độc ác, gian xảo, muốn ăn thịt cừu non một cách hợp pháp nhưng những lý
do nó đưa ra đều vụng về, sơ hở bị cừu non vạch trần, bị dồn vào thế bí. Cuối cùng sói
đành ăn thịt cừu non bất chấp lý do. Chó sói vừa là bi kịch độc ác, vừa là hài kịch của
sự ngu ngốc.
- Nhà khoa học: Tả chính xác, khách quan, dựa trên quan sát, nghiên cứu, phân tích để
khái quát những đặc tính cơ bản của từng loài vật.
- Nhà nghệ sĩ: Tả với quan sát tinh tế, nhạy cảm bằng cả trái tim, trí tưởng tượng
phong phú. Đó là đặc điểm, bản chất của sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ khi tả đối
tượng thì không chỉ hiểu sâu, kỹ mà còn phải tưởng tượng, nhập thân vào đối tượng.
- La-phông-ten viết về hai con vật giúp người đọc hiểu thêm, nghĩ thêm về đạo lý trên
đời, đó là sự đối mặt giữa thiện và ác, kẻ yếu và kẻ mạnh. Chú cừu và chó sói đã được
nhân hóa, nói năng, hành động như người với những tâm trạng khác nhau.
Tổng kết
Nội dung: Bằng cách so sánh hình tượng con cừu và con chó sói trong thơ ngụ ngôn
La-phông-ten với những dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy-phông, H.
Ten nêu bật đặc trưng của sáng tác nghệ thuật là in đậm dấu ấn cách nhìn, cách nghĩ
riêng của nhà văn.
Nghệ thuật
- Cách lập luận, sử dụng phân tích, so sánh, chứng minh để làm nổi bật, sáng tỏ, sống
động, thuyết phục.
- Mạch nghị luận được triển khai theo trình tự, từng con vật hiện ra dưới ngòi bút của
La-phông-ten và Buy-phông.
3/ Bài tập minh họa bài Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten
Đề bài: Phân tích và nêu cảm nhận về bài "Chó sói và cừu non trong thơ ngụ ngôn của
La-phông-ten" của H. Ten.
1/ Mở bài
- Nêu vài nét sơ lược về tác giả H. Ten và tác phẩm "Chó sói và cừu non trong thơ
ngụ ngôn của La-phông-ten"
2/ Thân bài
- Buy phông đã mô tả và chỉ ra những đặc tính tự nhiên của con cừu như ngu ngốc và
sợ sệt, hay tụ tập thành bầy, co cụm lại với nhau, sợ sệt và đần độn. Chỉ biết đứng
nguyên trong mưa hay trên tuyết. Chỉ biết làm theo con đầu đàn, nếu không bị gã
chăn cừu thôi thúc hay bị chó xua đi.
- Còn La Phông-ten trong bài thơ ngụ ngôn của mình, đã chỉ ra đời sống tâm hồn của
con cừu.
- "Nghe tiếng cừu con kêu thì cừu mẹ liền chạy tới, nó có thể nhận ra con mình trong
đàn cừu, nó đứng yên trên nền đất lạnh và bùn lầy cho con bú xong, với vẻ nhẫn nhục,
mắt nhìn lơ đãng".
→ Có thể nói, hình tượng con cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten còn ngụ ý về
tình mẫu tử và đức hy sinh của người mẹ trong cuộc đời. Đúng như Hi-pô-lít Ten đã
nói: “La Phông-ten đã động lòng thương cảm với bao nỗi buồn rầu và tốt bụng như
thế...”.
- Chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten là một tên trộm cướp nhưng khốn khổ
và bất hạnh. Mắt thì lấm lét, cơ thể gầy gò, bị truy đuổi. Nó là “một gã vô lại, luôn
luôn đói dài và luôn luôn bị ăn đòn”.
- Buy-phông đã nói lên bản năng của chó sói, một con thú dữ, hoang dã. Chúng chỉ
biết kết bầy lúc săn mồi, khi cuộc chinh chiến đã xong xuôi thì mỗi con một nơi, sống
lặng lẽ và cô đơn. Bộ mặt lấm lét, dáng vẻ hoang dã, tiếng hú rùng rợn, mùi hôi gớm
ghiếc... là đặc tính tự nhiên của loài sói.
- Sói trong thơ La-phông-ten là một bạo chúa. Hắn vu khống đặt điều. Hắn gầm lên.
Và cuối cùng “Sói nhai Chiên nhỏ, chẳng cần đôi co”. Nếu nhà bác học Buy-phông
chỉ nhìn thấy sói là con vật có hại thì nhà thơ với đầu óc phóng khoáng và trí tưởng
tượng đã phát hiện ra những khía cạnh khác: con sói độc ác mà khổ sở, thường bị mắc
mưu, vụng về, bị đói meo, và vì đói mà hóa rồ!
- Buy-phông "dựng một vở bi kịch về sự độc ác" (thú dữ hoang dã), còn La Phông-ten
"dựng một vở hài kịch về sự ngu ngốc" (bị đói khát, thường bị mắc mưu và ăn đòn).
- Qua văn bản Hi-pô-lít Ten đã chỉ ra sự khác biệt giữa hai loại văn bản khoa học và
văn bản nghệ thuật.
3/ Kết bài
"Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten" trong thơ ngụ ngôn là một văn
bản nghệ thuật. Chó sói là một bạo chúa, độc ác, quỷ quyệt. Cừu là một thần dân, một
vật tế thần đau khổ, đáng thương.
Qua đây ta cần nắm rõ đặc trưng của văn bản nghệ thuật, đó là ngôn ngữ hình tượng
và biểu cảm được tưởng tượng, hư cấu.
Con cò
(Chế Lan Viên)
Bố cục:
- Đoạn (I) : Hình ảnh con cò qua lời ru đến với con người từ thuở ấu thơ.
- Đoạn (II) : Con cò qua lời ru đi vào tiềm thức tuổi thơ và theo đường đời.
- Đoạn (III) : Từ hình ảnh con cò, suy ngẫm và triết lí về ý nghĩa lời ru và lòng mẹ.
Qua hình tượng con cò, tác giả khai thác và xây dựng ý nghĩa biểu tượng cho tấm
lòng người mẹ và những lời hát ru.
Bố cục như đã chia ở phần trên. Qua bố cục, hình tượng con cò phát triển từ trong lời
ru thơ ấu, rồi theo dấu trên những chặng đường đời, cuối cùng khơi nguồn cho những
triết lí sâu xa về lòng mẹ và lời ru.
Trong đoạn đầu bài thơ, những câu ca dao được vận dụng là :
Hình ảnh con cò được gợi ra trực tiếp từ các câu ca dao, tác giả chỉ lấy vài chữ trong
mỗi câu ca dao nhằm gợi nhớ chứ không lấy nguyên vẹn. Cách vận dụng ấy ít nhiều
thể hiện sự phong phú trong ý nghĩa biểu tượng của “con cò”.
→ Khái quát một quy luật tình cảm ý nghĩa bền vững, rộng lớn và sâu sắc - Tình mẹ.
→ Đúc kết ý nghĩa phong phú của hình tượng con cò trong những lời ru.
Thể thơ tự do, ít vần, câu dài ngắn khác nhau. Cùng với giọng điệu triết lí suy ngẫm,
nhịp điệu bắt vần tạo âm hưởng như lời hát ru con. Việc thể hiện tư tưởng, cảm xúc
của tác giả nhất quán, đa dạng và sáng tạo.
Luyện tập
Câu 1 (trang 48 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ vừa trò chuyện với đối tượng (những em
bé Tà-ôi trên lưng mẹ) với giọng điệu gần như lời ru, lại có những lời ru trực tiếp từ
người mẹ, thống nhất tình yêu con với tình yêu cách mạng. Bài thơ Con cò gợi lại
điệu hát ru để nói về ý nghĩa lời ru và ngợi ca tình mẹ.
Dù ở gần con,
...
Tình mẹ là thiêng liêng, cao quý. Bàn tay mẹ che chở, nâng đỡ con trên mỗi bước
đường đời. Hình ảnh cò trắng đi từ lời ru ra đời thực, cò mẹ ben con suốt đời, mãi
yêu cò con bé bỏng. Dù có lớn khôn, mẹ vẫn dõi theo con, mẹ là hiện thân của sức
mạnh diệu kì, với tình thương bao la, một tình cảm không thể thay thế.
- Khổ thơ đầu : Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên đất trời.
- Khổ cuối : Lời ngợi ca quê hương đất nước qua điệu ca Huế.
Mạch cảm xúc của bài thơ : từ cảm xúc trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa
xuân đất nước, tác giả thể hiện khát vọng được dâng hiến “mùa xuân nho nhỏ” của
mình vào mùa xuân lớn của cuộc đời chung.
- Mùa xuân thiên nhiên, đất nước tràn đầy sức sống :
+ Hình ảnh chọn lọc : dòng sông, bông hoa, chim chiền chiện.
- Cảm xúc tác giả : Từng giọt long lanh rơi – Tôi đưa tay tôi hứng. Nhà thơ say
sưa, ngây ngất, cảm nhận hình ảnh, âm thanh không chỉ bằng thính giác, thị giác mà
còn bằng xúc giác.
Phân tích đoạn thơ “Ta làm con chim hót... Dù là khi tóc bạc” :
- Nhà thơ khát vọng được hòa nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt
đẹp, dù nhỏ bé của mình : muốn làm “con chim hót”, “một cành hoa”, hay “một nốt
trầm” trong bản thanh âm tươi đẹp.
- Với lối điệp ngữ, ẩn dụ trong hình ảnh “tuổi hai mươi”, “khi tóc bạc”, ta thấy tinh
thần cống hiến vì đất nước của nhà thơ bền bỉ và to lớn nhường nào.
- Thể thơ năm chữ nhẹ nhàng, tha thiết, gần với dân ca, gieo vần liền tạo sự liền
mạch cho cảm xúc.
- Sự hài hòa giữa hình ảnh tự nhiên, giản dị với hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng.
Ngôn ngữ thơ trong sáng, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc với các ẩn dụ, điệp ngữ.
- Cấu tứ bài thơ chặt chẽ, dựa trên sự phát triển của hình ảnh mùa xuân.
- Nhan đề : là một sáng tạo độc đáo. Khác với Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử), Mùa
xuân xanh (Nguyễn Bính),... Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải không chỉ là mùa
xuân đất trời mà còn là mùa xuân đời người, nhỏ bé với khát khao cống hiến.
- Chủ đề bài thơ : rung cảm trước mùa xuân thiên nhiên, đất nước và khát vọng
cống hiến cho đất nước, cho cuộc đời.
Luyện tập
(trang 58 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2): Viết một đoạn văn ngắn ...
Bình luận về một khổ thơ yêu thích (Khổ thơ đầu) :
Khổ thơ đầu mở một bức tranh mùa xuân thiên nhiên bình dị, đơn sơ nhưng không
kém phần nên thơ và sâu sắc. Mùa xuân của Thanh Hải chỉ đơn giản là một bông hoa
tím mọc lên giữa dòng sông xanh, và tiếng chim chiền chiện trong trẻo, màu sắc nhẹ,
hài hòa, tràn đầy sức sống. Những thanh âm, màu sắc, hình ảnh ấy kết tụ thành “giọt
long lanh”, để rồi tác giả không ngần ngại mà “hứng” lấy. Mùa xuân đất trời thiên
nhiên tươi đẹp không chỉ được cảm nhận bằng thị giác, thính giác, mà còn bằng xúc
giác nữa.
Thanh Hải (1930 - 1980), tên thật Phạm Bá Ngoãn, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ông xuất thân trong một gia đình trí thức, nhưng nghèo. Cha ông làm nghề dạy học, mẹ
ông là nông dân. Khi Thanh Hải 17 tuổi, ông đã tham gia cách mạng ở huyện Hương
Thủy làm chính trị viên Đoàn Văn công Thừa Thiên Huế
Ông đã từng làm Ủy viên chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Chi hội phó chi Hội văn
nghệ giải phóng Bình Trị Thiên. Từ sau năm 1975, ông làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ
Bình Trị Thiên, đồng thời là Ủy viên thường vụ Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt
Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam.
b. Sự nghiệp sáng tác và những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Thanh Hải
Trong suốt thời gian 50 năm cuộc đời của nhà thơ Thanh Hải có tất cả cho mình là 5 tập
thơ gồm: Ánh mắt (1956); Người đồng chí trung kiên (1962); Huế mùa xuân (tập 1, tập 2
1970 – 1972); Mùa xuân nho nhỏ (1980).
Với những đóng góp của mình cho nền văn học của nước nhà ông đã được nhà nước
phong tặng một số giải thưởng như: Giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu năm 1965
và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2000.
Bên cạnh tập những đồng chí trung kiên, nhà thơ Thanh Hải còn viết về những hình ảnh
của những người phụ nữ yêu nước. Đó là những hình ảnh người mẹ, người vợ, những cô
thanh niên xung phong, những người em giao liên,…
Nhà thơ Thanh Hải ra đi vào ngày 15 tháng 12 năm 1980, kết thúc một cuộc đời gắn bó
với cách mạng. Sau 2 năm ngày ông mất, tập thơ cuối cùng của ông được NXB Tác phẩm
mới xuất bản năm 1982, trong tập thơ Mùa xuân đất này. Tập thơ mà ông viết vào những
năm cuối cùng của cuộc đời. Ông viết với sự hối thúc bên trong, vì cái gọi là nghĩa tình
sâu nặng với cuộc sống mà ông cảm thấy chân quý.
- Hoàn cảnh sáng tác: Viết khi ông đang nằm trên giường bệnh.
+ “Dòng sông xanh”, “hoa tím”, “chim hót”: màu sắc hài hòa gợi cảm, âm thanh náo nức.
+ Nghệ thuật đảo ngữ, động từ “mọc” đứng trước chủ ngữ tạo sự đột ngột.
+ Cảnh thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng và tràn đầy sức sống.
+ “Giọt long lanh”, “Tôi đưa tay tôi hứng”: sự chuyển đổi cảm giác (thính giác và thị
giác) diễn tả cảm xúc say mê, ngây ngất sự nâng niu trân trọng vẻ đẹp đất trời.
- “Người cầm súng”, “người ra đồng”, “lộc giắt quanh lưng”. “lộc trải dài nương mạ”: sức
sống mạnh mẽ, khí thế đi lên của dân tộc.
- Nghệ thuật: láy “hối hả”, “xôn xao”, điệp từ “tất cả” nhịp thơ nhanh, gấp, Không khí
tưng bừng, khẩn trương, niềm vui rạo rực lòng người.
- So sánh “Đất nước như vì sao”: nâng đất nước lên tầm cao mới.
- Mùa xuân của đất nước nhộn nhịp, hối hả, khẩn trương trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ tổ quốc.
- “Ta làm”: khẳng định sự tự nguyện mang niềm vui đến cho cuộc đời.
- “Ta làm con chim hót”, "làm cành hoa”, “một nốt trầm”: tác giả khao khát hóa thân
thành những thứ bình dị để làm đẹp cho cuộc đời.
- Đại từ “Ta”: vừa chỉ số ít, vừa chỉ số nhiều: vừa diễn tả niềm riêng và cái chung.
- “Dù là tuổi hai mươi”, “Dù là khi tóc bạc”: sự cống hiến không kể tuổi tác.
- “Lặng lẽ dâng cho đời”: ước nguyện khiêm nhường, nhỏ bé, thầm lặng.
- Ước nguyện dâng hiến cách khiêm nhường, nhỏ bé và lặng lẽ của tác giả.
d/ Khổ 4: Lời ca ngợi quê hương đất nước qua điệu dân ca xứ Huế
- Cách gieo vần: bình, minh, tình: thể hiện chất nhạc dân ca xứ Huế.
- Cách gieo vần phối âm khá độc đáo và có dụng ý câu đầu và câu cuối kết thúc bằng hai
thanh trắc: hát, Huế.
- Lời tự biệt, thân tình, ấm áp đầy xúc động của người con xứ Huế sắp xa quê mãi mãi
làm rung động lòng người.
III. Bài tập minh họa bài Mùa xuân nho nhỏ
Phân tích 3 khổ thơ đầu trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
1/ Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh sáng tác.
- Nói sơ về mùa xuân.
- Trích thơ
2/ Thân bài
a/ Khổ 1
- Hình ảnh: dòng sông, chim hót, bông hoa nói về mùa xuân thơ mộng. Nghệ thuật đảo
ngữ tạo ấn tượng đột ngột, bất ngờ.
- Mùa xuân rộn ràng tươi vui và tràn đầy sức sống.
- Cảm giác say mê, ngây ngất trước cảnh mùa xuân tươi đẹp của tác giả.
- Bức tranh mùa xuân thơ mộng và tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Cảm giác say mê của
tác giả trước cảnh đẹp của thiên nhiên đất trời.
b/ Khổ 2
- Cụ thể hóa hai nhiệm vụ của đất nước chiến đấu và xây dựng.
c/ Khổ 3
- “Đất nước bốn ngàn năm”: Lịch sử hào hùng của dân tộc trải qua những gian nan vất vả.
⇒ Đất nước cũng luôn trường tồn và phát triển trên bầu trời nhân loại.
3/ Kết bài
- Hình ảnh mộc mạc bình dị, thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước con người.
Viếng lăng bác
(Viễn Phương)
Bố cục:
- Cảm xúc bao trùm của tác giả : niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết
ơn và tự hào pha lẫn xót xa khi vào viếng lăng Bác.
- Mạch cảm xúc đi theo trình tự vào viếng lăng Bác : bên ngoài lăng (dòng người,
hàng tre), bên trong (xúc động thấy Bác trong giấc ngủ bình yên), và khi sắp phải trở
về (mong ước mãi bên Bác).
Hình ảnh hàng tre bên lăng Bác xanh xanh, thẳng hàng trong bão táp gần gũi, biểu
tượng cho dân tộc Việt Nam với sức mạnh bền bỉ, kiên cường, bất khuất. Cây tre
trong câu thơ cuối bài thể hiện sự lưu luyến, thiết tha muốn lòng mình mãi bên Bác.
Tình cảm nhà thơ và mọi người với Bác qua khổ thơ 2, 3, 4 :
- Lòng thành kính của người viếng lăng : dòng người...thương nhớ.
- Mặt trời trong lăng : hình ảnh ẩn dụ, Bác to lớn, vĩ đại như Mặt trời thiên nhiên
tỏa sáng sự sống muôn loài.
- Nỗi nhớ thương và xót xa vô hạn của mọi người thể hiện trong khổ 3 :
+ Vầng trăng sáng dịu hiền gợi nhớ đến tâm hồn cao đẹp, trong sáng và những
vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người.
+ Trời xanh là mãi mãi : Bác ra đi nhưng vẫn còn mãi với quê hương đất nước,
như trời xanh còn mãi.
+ Câu thơ biểu hiện cụ thể và trực tiếp nỗi đau xót vì sự ra đi của Người : Mà
sao nghe nhói ở trong tim!
- Khổ cuối diễn tả chân thành, mộc mạc tình cảm của nhà thơ, bày tỏ niềm mong
mỏi, muốn hóa thân vào những cảnh vật bên lăng Bác : trào nước mắt, làm con chim,
đóa hoa, cây tre.
Sự thống nhất giữa nội dung tình cảm, cảm xúc với nghệ thuật :
- Giọng điệu trang nghiêm, đau xót, tự hào thể hiện đúng cảm xúc tác giả, nhịp
điệu chậm, thành kính, lắng đọng, khổ cuối nhanh thể hiện sự tha thiết và lưu luyến.
- Thể thơ tám chữ (nhưng có dòng thơ 7 hoặc 9 chữ) với hình ảnh ẩn dụ đẹp, sáng
tạo và gợi cảm, vừa quen thuộc vừa sâu sắc, ngôn ngữ bình dị, cô đúc... tất cả đều
góp phần vào việc diễn tả tâm trạng, tình cảm, cảm xúc của nhà thơ.
Luyện tập
(trang 60 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Khổ thơ thứ hai của bài thơ thể hiện tấm lòng yêu quý, thành kính của tác giả cũng
như người dân Việt Nam với con người vĩ đại của dân tộc :
Hai câu thơ sóng đôi được tạo nên từ hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ. Ví Bác như
mặt trời là để nói lên sự trường tồn vĩnh cửu của Bác, Bác vĩ đại to lớn giống như
mặt trời tự nhiên soi tỏa ánh sáng tự do cho sự sống, cho dân tộc. Đây chính là hình
ảnh sáng tạo độc đáo của Viễn Phương.
Sự hình dung về dòng người nối tiếp dài vô tận hàng ngày đến viếng lăng Bác bằng
tất cả lòng thành kính và thương nhớ, hình ảnh đó như những tràng hoa kết lại dâng
người. Hai từ ngày ngày được lặp lại trong câu thơ như tạo nên một cảm xúc về cõi
trường sinh vĩnh cửu. Cách so sánh này vừa thích hợp và mới lạ, diễn ra được sự
thương nhớ, tôn kính của nhân dân đối với Bác. Tràng hoa là hình ảnh ẩn dụ những
người con từ khắp miền đất nước về đây viếng Bác giống như những bông hoa được
Bác ươm trồng, chăm sóc nay nở rộ ngát hương về đây tụ hội kính dâng lên Bác.
- Viễn Phương (1928 – 2005), tên khai sinh là Phan Thanh Viễn,
- Cuộc đời
+ Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ , là một
trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam
thời kì chống Mĩ cứu nước.
+ Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, giàu chất mộng mơ ngay trong hoàn cảnh
khốc liệt của chiến trường.
+ Tác phẩm tiêu biểu: Mắt sáng học trò (1970); Như mây mùa xuân (1978); Phù sa
quê mẹ (1991);…
b/ Tác phẩm
- Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền
Nam,đất nước vừa được thống nhất.
c/ Bố cục
- Phần 1: Khổ 1: Cảm xúc của nhà thơ khi đến lăng Bác
- Phần 2: Khổ 2: Cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác.
- Phần 3: Khổ 3: Cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng.
- Phần 4: Khổ 4: Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăng Bác.
- Từ miền Nam thăm lăng Bác: Đất nước thống nhất tác giả từ miền Nam - mảnh đất
mấy chục năm chiến đấu gian khổ ra thăm Bác.
- Hình ảnh cây tre là biểu tượng cho dân tộc Việt Nam. Thể hiện sự kiên cường bất
khuất của dân tộc với sức sống bất diệt của dân tộc Việt Nam.
b/ Cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác
- "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng": Mặt trời tự nhiên, là nguồn sáng cho trái đất.
- "Mặt trời trong lăng rất đỏ": hình ảnh ẩn dụ, đây chính là mặt trời soi sáng cho dân
tộc Việt Nam sưởi ấm tim người dân Việt Nam.
- Nhà thơ đã đặt mặt trời ẩn dụ với Bác sóng đôi, trường tồn cùng với mặt trời tự
nhiên: Tỏa sức sáng sưởi ấm bằng tình yêu thương của Bác.
- Hình ảnh "dòng người": Tạo nhịp thơ chậm, trang nghiêm, điệp từ "ngày ngày" sợi
cảm giác về sự lặp đi lặp lại liên tục.
- Hình ảnh ẩn dụ "tràng hoa" thể hiện sự tôn kính thiêng liêng, sự ngưỡng mộ chân
thành của nhân dân và của nhà thơ đối với Bác.
→ Cuộc đời của Bác như mặt trời, giấc ngủ của Bác như vầng trăng. Bác trở nên bất
tử, hòa nhập với trời xanh. Tác giả sử dụng những hình ảnh kỹ vĩ: Vầng trăng, trời
xanh nối tiếp nhau làm nổi bật sự cao cả, vĩ đại của Người.
- Với sự đối lập: Trời xanh...mãi mãi...nghe nhói: Thấy sự mâu thuẫn giữa tình cảm lý
trí, đó chính là nỗi tiếc thương vô hạn, lời thơ nghẹn ngào diễn tả sự mất mát, sự nhớ
thương không gì bù đắp được trong lòng tác giả.
c/ Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăng Bác
- Mai về miền Nam thương trào nước mắt: sự lưu luyến bịn rịn khi phải rời xa Người.
Đó là tình cảm chân thành, xúc động của tác giả.
- Mong ước làm con chim, làm cây tre, làm đóa hoa để hót quanh lăng Bắc, để trung
hiếu và để tỏa hương thơm.
- Sử dụng điệp ngữ, khẳng định sự gắn bó của đồng bào Miền Nam đối với Bác. Hình
ảnh cây tre được lặp lại ở cuối khổ thơ, sự mong muốn trong tâm tưởng luôn được ở
bên Bác.
* Tổng kết
Nội dung: Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và
của mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng bác.
Nghệ thuật
- Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng thể hiện tình cảm mến thương đối với Bác
Hồ.
Giới thiệu về bài thơ Viếng lăng Bác và khái quát nội dung, cảm xúc chủ đạo của khổ
1 bài thơ.
2. Thân bài
- Hoàn cảnh sáng tác bài thơ: Sáng tác năm 1976 khi lăng Bác vừa được khánh thành,
tác giả lần đầu được ra thăm Bác.
- Lời thông báo mộc mạc nhưng chứa đựng bao yêu thương, xúc động của người con
miền Nam.
+ Sử dụng từ “thăm” để giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát, đồng thời cũng gợi sự gần
gũi, gắn bó.
+ Trong trái tim, khối óc của hàng triệu con người Việt Nam Bác vẫn sống mãi.
- Hình ảnh hàng tre bát ngát bên lăng Bác mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc:
+ Ẩn dụ "hàng tre xanh xanh Việt Nam" để chỉ con người, dân tộc Việt Nam
+ Thành ngữ "bão táp mưa sa" và nghệ thuật nhân hóa "đứng thẳng hàng" gợi ra vẻ
đẹp thanh cao, ý chí bất khuất kiên cường của con người Việt Nam.
+ Hàng tre ấy còn như một đội quân anh dũng đứng canh bảo vệ giấc ngủ của Bác.
3. Kết bài
Cảm nhận chung
Giới thiệu tác giả Viễn Phương và bài thơ Viếng lăng Bác.
2. Thân bài
a. Khổ thơ 1
Tác giả ở tận miền Nam mãi sau ngày độc lập dân tộc mới được ra thăm vị lãnh tụ
kính yêu của dân tộc. Hai từ “miền Nam” như nhấn mạnh hơn sự xa xôi trong khoảng
cách địa lý giữa hai đầu Tổ quốc.
Nhìn hàng tre quanh lăng Bác, nhà thơ chợt cảm thấy rằng những cây tre kia như ý chí
con người Việt Nam qua bao năm tháng luôn luôn bất khuất, kiên cường, hiên ngang.
Dù có trải qua “bão táp mưa sa” nhưng vẫn đoàn kết một lòng cùng nhau đứng lên.
Từ láy “xanh xanh” diễn tả con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ luôn luôn
“xanh” màu xanh bất diệt.
b. Khổ thơ 2
“Ngày ngày” là sự liên tục của thời gian, sự lặp lại tuần hoàn của thiên nhiên cũng
như lý tưởng, ý chí của Người sẽ luôn luôn sáng tỏ như mặt trời kia vậy. Biện pháp
nghệ thuật hoán dụ: nếu mặt trời soi sáng cho nhân loại thì Bác Hồ là mặt trời của cả
dân tộc Việt Nam, mang đến ánh sáng độc lập, tự do cho dân tộc.
Lần thứ hai, “ngày ngày” được lặp lại khi diễn tả dòng người đang lặng lẽ vào lăng
thăm Người. Hàng người đi trong sự trang nghiêm và tĩnh lặng, trong nỗi tiếc thương,
đau xót vô vàn.
Người đọc như cảm thấy được sự tĩnh lặng, sự trải dài miên man vô tận của hàng
người vào viếng Bác. Cả đoàn người ấy cứ lặng lẽ “đi trong thương nhớ”, thương nhớ
vị lãnh tụ vĩ đại vô vàn kính yêu của dân tộc.
Viễn Phương hòa cùng dòng người đem tấm lòng yêu kính chân thành của mình dâng
lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” của Người. Cả cuộc đời Người, với bảy
mươi chín mùa xuân, tất cả đều cống hiến cho dân tộc, không một phút giây nào ngơi
nghỉ dành cho bản thân mình.
c. Khổ thơ 3
Bác đang nằm ở đó, nhẹ nhàng thanh thản như đang chìm trong một giấc ngủ ngon.
Cả cuộc đời Người chỉ có một niềm mong ước, đó là đất nước được hòa bình. Vậy
nên khi đất nước được hòa bình, độc lập Người đã được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên
bình.
Bầu trời bao năm tháng vẫn xanh một màu trường tồn vĩnh cửu, vậy mà vị Cha già
của dân tộc đã phải ra đi. Vẫn biết quy luật sinh tử của tạo hóa nhưng vẫn thấy xót xa,
đau đớn vô cùng. Dù lý trí luôn tỏ tường rằng quy luật của thiên nhiên là bất biến,
nhưng vẫn “nghe nhói ở trong tim”.
Bao nhiêu nỗi đau xót, nghẹn ngào cứ thế tuôn theo dòng lệ trào.
Điệp từ “muốn” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ. Đó là một
ước muốn mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng được ở lại bên cạnh Người chỉ để làm
“một con chim hót”, “một đóa hoa”, “một cây tre trung hiếu”.
→ Cả khổ thơ đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là mong
ước của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh
tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc.
3. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Đề 3: Phân tích "Bài thơ Viếng Lăng Bác" của Viễn Phương
1/ Mở bài
- Nhân dân Miền Nam tha thiết chờ mong ngày Nam Bắc thống nhất để đón Bác.
- Bác đã ra đi để lại nỗi tiếc thương vô hạn. Sau ngày thống nhất, nhà thơ ra Hà Nội
thăm lăng Bác cảm xúc dâng trào tác giả đã sáng tác bài thơ Viếng Lăng Bác.
2/ Thân bài
a/ Khổ 1
- Hình ảnh hàng tre xanh: hình ảnh đức tính cần cù, chịu khó, kiên cường bất khuất
của dân tộc.
- Cây tre Việt Nam: biểu trưng của sức sống bền bỉ, kiên cường của người dân Việt
nam dù bão táp mưa xa vẫn đứng thẳng hàng.
b/ Khổ 2
- Điệp từ "ngày ngày": lặp đi lặp lại nhiều lần như dòng chảy.
- Với niềm xúc động chân thành, Viễn Phương đã bày tỏ lòng yêu kính, biết ơn sâu
sắc đối với Bác
- Hình ảnh tiêu biểu, sinh động “dòng người đi trong thương nhớ” gợi lên trước mắt
người đọc cảnh nhân dân từ mọi miền đất nước về thủ đô Hà Nội để viếng thăm lăng
Bác
- Trong tình cảm nhớ thương, biết ơn Bác vô hạn, họ kết thành những “tràng hoa” đời
tuyệt đẹp thành kính dâng lên Bác. Những tràng hoa tươi thắm ấy tượng trưng cho
muôn triệu cuộc đời nở hoa dưới ánh sáng mặt trời rực rỡ của Bác. Cả dân tộc đời đời
tưởng nhớ và ghi khắc trong lòng công ơn to lớn của Bác.
c/ Khổ 3
- Hình ảnh của Bác vừa vĩ đại, vừa bình dị và gần gũi.
- Hình ảnh vầng trăng vĩnh hằng của trời đất, tượng trưng cho sự bất tử của Bác. Vị
cha già kính yêu của dân tộc còn sống mãi cùng non sông, đất nước, sống mãi trong
tâm trí mỗi người dân đất Việt.
- Trong tình cảm của dân tộc thì Bác vẫn còn sống mãi nhưng trong thực tế, Bác đã
vĩnh biệt chúng ta. Vì vậy, nhà thơ vô cùng đau đớn thương tiếc Bác
- Khi tạm biệt Bác để trở về miền Nam, trong lòng nhà thơ dâng trào một nỗi buồn
thương da diết.
d/ Khổ 4
- Với tất cả tấm lòng thành kính, biết ơn Bác, người con miền Nam đã bày tỏ ước
nguyện tha thiết của mình.
- Điệp ngữ “muốn làm” được đặt ở đầu 3 câu thơ liên tiếp nhau gắn liền với hình ảnh
“con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương” và “cây tre trung hiếu” thể hiện ước nguyện
giản dị, chân thành và sâu sắc của nhà thơ.
- Hình ảnh nhân hóa sinh động giàu sức biểu cảm “cây tre trung hiếu” gợi lên hình
ảnh những người con trung kiên, hiếu nghĩa, một lòng vì nước vì dân. Tác giả nguyện
sống xứng đáng là người con trung hiếu của dân tộc.
3/ Kết bài
- Âm hưởng bài thơ tha thiết sâu lắng cùng với nghệ thuật ẩn dụ làm tăng hiệu quả
biểu cảm.
- Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và của nhân
dân đối với Bác khi vào viếng lăng Bác.
Sang thu
(Hữu Thỉnh)
Bố cục:
Sự biến đổi đất trời sang thu được cảm nhận bắt đầu từ những tín hiệu chuyển mùa :
hương ổi phả vào gió se, gió thu giăng mắc chầm chậm, dòng sông dềnh dàng trôi,
những cánh chim bắt đầu vội vã, đám mây hạ - thu, nắng cuối hạ vơi dần cơn mưa.
Tâm trạng tác giả ngỡ ngàng, bâng khuâng qua các từ bỗng, hình như.
Sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về những chuyển biến trong không gian :
- Cảm nhận bằng xúc giác : gió se, sương – thời tiết se se lạnh của mùa thu.
- Hình ảnh vạn vật đang chuyển mình : sông dềnh dàng, chim vội vã, đám mây
mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” (hình ảnh nhân hóa).
- Hình ảnh đặc sắc của thời điểm giao mùa : có đám mây mùa hạ - vắt nửa mình
sang thu. Đây là hình ảnh nhân hóa, đầy liên tưởng gợi hình, gợi cảm, một ranh giới
mơ hồ, nên thơ.
- Hai dòng thơ cuối Sấm cũng bớt bất ngờ - Trên hàng cây đứng tuổi :
+ Ý nghĩa tả thực : sấm gắn với cơn mưa mùa hạ cũng đã bớt dần.
+ Ý nghĩa ẩn dụ : Sấm - những gì bất thường dữ dội trong cuộc sống, hàng cây
đứng tuổi - người từng trải. Con người từng trải sẽ bình thản hơn, trưởng thành hơn,
điềm đạm chín chắn hơn với những bão tố của cuộc đời.
Luyện tập
(trang 72 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2): Dựa vào hình ảnh ...
Mùa thu là mùa giao thời của đất trời từ những cơn mưa rào, những ngày nắng hè
sang tiết trời se lạnh, chấm sương sớm mai. Cảm nhận tinh tế trước đất trời thiên
nhiên, nhà thơ Hữu Thỉnh thể hiện được một góc nhìn đất nước qua bài “Sang thu” .
...
Bài thơ mang cái hương vị ấm nồng của chớm thu ở miền quê nhỏ. Với những dấu
hiệu tinh tế nhất : hương ổi chín, làn gió se lạnh, màn sương mỏng manh đầu ngõ.
Rồi thì những hình ảnh như sông chậm chạp, “dềnh dàng” hơn, chim vội vã, đám
mây trên không trung như còn lưỡng lự níu kéo mùa hạ sang với mùa thu.
Nhưng thiên nhiên vẫn luôn vận chuyển, còn nắng, bớt mưa, thời gian trôi đi, con
người cũng lớn dần, trưởng thành, chín chắn hơn nhiều sau bão táp phong ba như
hàng cây đứng tuổi trải nắng giãi mưa.
Guồng quay của thiên nhiên là tất yếu, là quy luật. Lời thơ ngắn gọn hàm súc, hình
ảnh giàu sức biểu cảm đã phần nào thể hiện sự chuyển biến đất trời nhẹ nhàng, rõ rệt
với cảm nhận vô cùng tinh tế của Hữu Thỉnh.
Hữu Thỉnh (15/2/1942) tại Phú Vinh - Duy Phiên - Tam Đảo (Tam Dương) - Vĩnh Phúc.
Hữu Thỉnh sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống Nho học nhưng ông đã trải
qua tuổi thơ ấu không dễ dàng: ở 6 năm với bác ruột, 10 tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao
dịch cho các đồn binh Pháp: Vân Tập, chợ Vàng, Thứa, Thanh Vân.
Từ sau hòa bình lập lại, vào năm 1954, Ông mới được đến trường. Năm 1963 ông tốt nghiệp
phổ thông và nhập ngũ, trở thành một người lính thuộc Trung đoàn 202. Từ đây Hữu Thỉnh đã
tham gia một số hoạt động như chăn bò, học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc văn
hoá, viết báo và làm cán bộ tuyên huấn. Nhiều năm tham gia chiến đấu tại miền Bắc, đã trải
qua hầu khắp các chiến trường máu lửa như Đường 9. Sau 1975, Hữu Thỉnh học trường Viết
văn Nguyễn Du và là một trong số những học sinh khóa đầu tiên của trường. Từ 1982, ông lần
lượt đảm nhiệm các chức vụ cán bộ biên tập, Trưởng ban Thơ, Phó Tổng Biên tập của Tạp chí
Văn nghệ Quân đội. Từ 1990 đến nay, Hữu Thỉnh chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn Việt
Nam, trở thành Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ, tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn các
khoá 3, 4, 5, Ủy viên Ban Thư ký khoá 3.
Hữu Thỉnh nguyên là Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, đồng thời là Tổng biên tập Báo Văn
nghệ, ông từng là Đại biểu quốc hội Việt Nam (khóa X).
Hữu Thỉnh đã lần lượt đảm nhiệm chức trách Phó Tổng Thư ký Thường trực Hội Nhà văn Việt
Nam (nay là chức Phó Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam), Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (3
lần), đồng thời kiêm nhiệm Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Khối Tư tưởng Văn hoá Trung ương,
Bí thư Đảng ủy Đảng bộ Cơ quan Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt
Nam. Đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (khoá X). Từ năm 2000,
Hữu Thỉnh là Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.
Tác phẩm tiêu biểu: “Thương lượng với thời gian”, “Sang thu”, “Âm vang chiến hào”…
Phong cách sáng tác: Ông là người viết nhiều, viết hay về con người và cuộc sống ở nông thôn.
Thơ ông giản dị nhưng vô cùng tinh tế và sâu sắc
2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: được sáng tác vào gần cuối năm 1977.
- Bố cục: 3 phần
+ “Hương ổi + cái se lạnh của gió” -> lan tỏa trong không gian vườn quê thôn xóm, bằng mùi
hương quen thuộc, bình dị.
+ “Phả” : tỏa vào, trộn lẫn hương thơm như sánh lại, luồn vào trong gió.
+ “Bỗng”: sự ngạc nhiên, đột ngột, bất ngờ khi nhận ra dấu hiệu mùa thu về.
- Sự giao thoa của tạo vật, cảm xúc ngỡ ngàng, xao xuyến của tác trước những biến đổi không
gian của mùa thu.
- Hình ảnh đám mây “vắt nửa mình sang thu”: Nghệ thuật nhân hóa, hình dung như một dải
lụa treo trên bầu trời. Nhưng nửa nghiêng về mùa hạ, nửa nghiêng về mùa thu.
- Cảm xúc say sưa, tâm hồn giao cảm với thiên nhiên.
3. Cảm nhận thời tiết sang thu bằng tâm tưởng, suy tư
- “Vẫn còn”, “vơi dần”, “bớt”: Từ chỉ mức độ. Cảnh vật thời tiết thay đổi, những dấu hiệu
mùa hạ vẫn còn nhưng mức độ giảm dần, còn mùa thu thêm đậm nét hơn ⇒ Quan sát tinh tế,
tâm hồn nhạy cảm.
+ Tả thực: Sang thu sấm thư và nhỏ dần, không đủ sức lay động hàng cây đã lớn tuổi.
+ Nghệ thuật nhân hóa: “bất ngờ”, “đứng tuổi” trạng thái của con người.
+ Hình ảnh ẩn dụ: Con người từng trải sẽ vững vàng, bình tĩnh hơn trước.
- Hai câu thơ cuối không chỉ tả cảnh sang thu mà chất chứa suy nghiệm về con người và cuộc
sống.
4. Tổng kết
Nội dung
- Từ cuối hạ sang đầu mùa thu, đất trời có những biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt, Sự biến
chuyển này đã được Hữu Thỉnh gợi lên bằng cảm nhận tinh tế, qua những hình ảnh quen thuộc
giàu sức biểu cảm.
- Bài thơ cũng nói lên cuộc sống và con người từng trải.
Nghệ thuật
- Thể thơ năm chữ, gần với các làn điệu dân ca.
- Kết hợp những hình ảnh tự nhiên, giản dị, hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng khái quát và cảm
xúc.
- Câu từ chặt chẽ, sự thay đổi tự nhiên của đất trời từ mùa hạ sang mùa thu với các phép tu từ
đặc sắc.
Giới thiệu tác giả Hữu Thỉnh và bài thơ Sang thu.
Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách viết mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực
của bản thân mình.
2. Thân bài
Hương ổi: đặc trưng của mùa thu, báo hiệu mùa thu đã về.
Chùng chình: tính từ, tạo cảm giác chậm chạp, lững thững.
Bức tranh mùa thu được tác giả Hữu Thỉnh khắc họa qua hình ảnh, cách nhìn, cảm nhận và cả
tận hưởng: hương ổi, gió, sương,… đây là sự kết hợp của nhiều giác quan khác nhau mang qua
bốn câu thơ ngắn ngủi nhưng cũng đủ làm cho bạn đọc hình dung ra những đặc trưng của mùa
thu và bức tranh mùa thu nơi quê nhà thanh bình như được hiện ra rõ nét hơn, đẹp đẽ hơn.
Dòng sông: không còn mang dòng chảy vội vã, hối hả mà giờ đây đi chậm lại để cảm nhận, tận
hưởng vẻ đẹp yên bình của mùa thu.
Đàn chim: trong mùa thu tươi đẹp này, hình ảnh đàn chim nang nét đối lập với dòng sông. Nếu
dòng sông lững thững, dềnh dàng để cảm nhận thời tiết mát mẻ, dịu dàng thì đàn chim lại vội
vã, hối hả đi tìm thức ăn và sửa soạn lại tổ ấm của mình để đón chờ mùa đông khắc nghiệt sắp
đến.
Đám mây: không còn mang màu xanh biếc của mùa hè oi bức, mây như trở nên dịu dàng hơn,
hiền hòa hơn và uốn mình thành một đường cong mềm mại để chuyển dần sang mùa thu.
Động từ “vắt” thể hiện sư nghịch ngợm, dí dỏm của đám mây đồng thời làm cho đám mây như
có hồn hơn, hình ảnh chuyển đổi như mềm mại hơn, thú vị hơn. Đám mây mới chỉ “nửa mình
sang thu” vì vẫn còn lưu luyến mùa hè rộn rã.
→ Bốn câu thơ đã khắc họa những biến chuyển tinh tế của cảnh vật từ mùa hè sang mùa thu.
Mỗi cảnh vật lại có một đặc trưng riêng nhưng tất cả đã làm cho bức tranh mùa thu thêm thi vị
hơn.
Những dư âm của mùa hạ vẫn còn: đó là ánh nắng, là những cơn mưa, là tiếng sấm giòn. Tuy
nhiên, tất cả đã trở nên dịu dàng hơn, hiền hòa hơn, không còn bất ngờ và gắt gỏng nữa.
Hai câu thơ cuối: Hình tượng sấm thường xuất hiện bất ngờ đi liền với những cơn mưa rào chỉ
có ở mùa hạ. Đó cũng là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. “Hàng
cây đứng tuổi” gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những
thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, con người càng trở nên vững vàng hơn.
3. Kết bài
Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của bài thơ đồng thời nêu cảm nghĩ về giá trị của tác phẩm.
- Trích thơ
2/ Thân bài
a/ Đoạn 1
- Khứu giác (hương ổi) -> xúc giác (gió se) -> cảm nhận thị giác (sương chùng chình) -> cảm
nhận lý trí (hình như thu đã về).
- “Bỗng”: sự ngạc nhiên, đột ngột, bất ngờ khi nhận ra dấu hiệu mùa thu về.
- “Hương ổi + cái se lạnh của gió” -> lan tỏa trong không gian vườn quê thôn xóm, bằng mùi
hương quen thuộc, bình dị.
- “Phả” : tỏa vào, trộn lẫn hương thơm như sánh lại, luồn vào trong gió.
⇒ Tác giả yêu thiên nhiên, yêu làng quê, gắn bó với quê hương vậy nên mới có cảm giác tinh tế
như vậy.
b/ Đoạn 2
+ Chim: vội vã
⇒ Sông không ào ạt cuộn chảy như mùa hè mà lặng lẽ, phẳng lặng. Những cánh chim cũng vội
vã bay về phương Nam tránh rét.
- Nghệ thuật nhân hóa: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, “đám mây vắt nửa mình sang thu”
cảnh vật trở nên sinh động và có hồn.
c/ Đoạn 3
- “Vẫn còn”, “vơi dần”, “bớt”: Từ chỉ mức độ. Cảnh vật thời tiết thay đổi, những dấu hiệu
mùa hạ vẫn còn nhưng mức độ giảm dần, còn mùa thu thêm đậm nét hơn. ⇒ Quan sát tinh tế,
tâm hồn nhạy cảm.
- Hình ảnh tả thực “mưa, nắng, sấm” nhưng gợi cho ta liên tưởng đến ý nghĩa về con người và
cuộc sống.
3/ Kết bài
Bố cục:
- Phần 1 (từ đầu ... đẹp nhất trên đời) : Nói với con về tình cảm cội nguồn.
- Phần 2 (còn lại) : Tự hào về sức sống bền bỉ của quê hương và lời dặn dò của
người cha.
Bố cục của bài thơ theo mạch cảm xúc đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra tình
cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên lẽ sống.
Con lớn lên trong tình thương của cha mẹ, trong sự đùm bọc của quê hương :
- 4 câu thơ đầu Chân phải...tiếng cười có những hình ảnh cụ thể, cách diễn đạt
dường như vô ý song lại tạo ra sự độc đáo trong tư duy và cách diễn đạt người miền
núi.
- Con người trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng,
trữ tình của quê hương : người đồng mình, cài nan hoa, ken câu hát, rừng cho hoa...
Đức tính cao đẹp của “người đồng mình” và lời nhắc nhở của cha :
+ Yêu lắm, thương lắm ... không lo cực nhọc : sống vất vảmà mạnh mẽ, bền bỉ →
mong con có nghĩa tình thủy chung, biết chấp nhận vượt gian nan bằng ý chí.
+ Thô sơ da thịt ... Nghe con : mộc mạc (thô sơ da thịt) nhưng giàu ý chí, niềm
tin (tự đục đá kê cao quê hương), chan chứa niềm tự hào quê hương (quê hương thì
làm phong tục) → mong con hãy tự hào về truyền thống, tự tin xây dựng quê hương.
- Tình cảm người cha với con : trìu mến, thiết tha và tin tưởng.
- Điều lớn lao nhất người cha muốn truyền cho con là lòng tự hào, sức sống mạnh
mẽ, bền bỉ, tự tin bước vào đời.
Cách diễn tả tình cảm và suy nghĩ bằng hình ảnh của nhà thơ : từ ngữ, hình ảnh mộc
mạc, có sức gợi tả, có tính khái quát mà giàu chất thơ, độc đáo và đậm chất dân tộc.
Luyện tập
(trang 74 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2): Đặt mình là nhân vật ...
- Yêu mến truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình.
Hiều thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, thêm yêu quý gắn
bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
- Chúng ta từng viện cớ thiếu thốn, khó khăn mà đánh mất đạo đức, văn hóa, dường
như ngày nay các con em dân tộc không mấy mặn mà với truyền thống, họ đang dần
tự nguyện nhập ngoại một cách dễ dãi. Nghe lời cha nói, tôi ủng hộ hòa nhập nhưng
không hòa tan. Văn hóa là tài sản vô cùng to lớn.
Bố cục:
- Phần 1 (từ đầu ... xanh thẳm): Thuật lại cuộc trò chuyện với những người trên
mây.
- Phần 2 (còn lại): Thuật lại cuộc trò chuyện những người trong sóng
- Giống : kết cấu, số dòng thơ, cách xây dựng hình ảnh đều theo trình tự thuật lại
lời rủ rê, lời từ chối và sự tưởng tượng sáng tạo trò chơi.
→ Tác dụng : Tạo sự trùng điệp, nâng cao, làm nổi bật chủ đề - Tình mẹ con.
b. Phần thứ hai cho ý thơ trọn vẹn hơn, tác động trùng điệp, hô ứng, khẳng định
những tình cảm đã được thể hiện trong thử thách thứ nhất.
Dòng thơ “Con hỏi : ...” được đặt sau lời mời, lời rủ rê và đặt trước lời đáp của
những người trên mây và người trong sóng. Chi tiết này chứng tỏ tính xác thực, hấp
dẫn của trò chơi. Trẻ con nào mà chẳng ham chơi. Khi nghe những lời mời gọi, lần
nào chú bé cũng tỏ ra băn khoăn. Dù vậy, tình yêu mẹ vẫn luôn chiến thắng để từ
chối những lời gọi.
So sánh những cuộc vui chơi của người “trên mây” và người “trong sóng”:
Đó đều là những cuộc vui từ sáng sớm đến chiều muộn, chơi với thiên nhiên, thế giới
kì diệu, rực rỡ sắc màu và những trò chơi vô cùng thú vị.
→ Nói lên sức mạnh của tình mẫu tử. Tấm lòng mẹ bao la như “bến bờ kì lạ”, tình
mẹ con gắn bó như mây – trăng, biển – bờ, tình cảm ấy đã lên kích cỡ vũ trụ, thiêng
liêng, bất diệt.
Thành công nghệ thuật bài thơ trong xây dựng hình ảnh thiên nhiên :
Mây, trăng, sóng, bờ, bầu trời... vốn đã là những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng,
chúng đều do trí tưởng tượng của em bé tạo ra nên càng lung linh kì ảo. Chúng cũng
là những hình ảnh ẩn dụ cho cuộc sống rộn rã, cuốn hút xung quanh.
Ý nghĩa câu thơ “Con lăn, lăn, lăn mãi...ở chốn nào” : Lòng mẹ bao la luôn sẵn sàng
đón tiếp con. “Mẹ con ta” ở khắp mọi nơi, không ai tách rời được cũng là tình mẫu tử
ở khắp mọi nơi, thiêng liêng, bất diệt.
Ngoài ca ngợi tình mẹ con, bài thơ còn gợi suy ngẫm :
- Những cám dỗ cuộc đời là vô vàn, muốn khước từ chúng cần phải có điểm tựa
vững chắc, tình cảm gia đình, tình mẫu tử chính là điểm tựa ấy.
- Hạnh phúc không xa xôi bí ẩn, nó ở quanh ta, do chúng ta tạo nên.
- Gia tài văn học đồ sộ, tinh thần dân chủ dân tộc sâu sắc
b/ Tác phẩm
c/ Bố cục
- Phần 1: Từ đầu đến bầu trời xanh thẳm: Lời mời gọi của người trên mây.
- Phần 2: Còn lại: Lời mời gọi của người trong sóng.
- Sóng: Ca hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn, ngao du từ nơi này đến nơi nọ mà
không biết từng đến nơi nào.
⇒ Đó là một thế giới vô cùng hấp dẫn giữa vũ trụ rực rỡ sắc màu với bình minh vàng,
vầng trăng bạc, tiếng đàn du dương, bất tận và được đi khắp nơi.
+ Đưa tay lên trời → nhấc bổng lên tận tầng mây.
+ Đến rìa biển, nhắm nghiền mắt lại → làn sóng nâng lên.
⇒ Cách hòa nhập rất thú vị, rất hấp dẫn. Em bé bị hấp dẫn, cuốn hút bởi những lời rủ
rê của những người sống trên mây, trên sóng bởi thiên nhiên rực rỡ, bí ẩn, bao điều
mới lạ, hấp dẫn tuổi thơ. Chính vì trò chơi của mây và sóng nên em hỏi lại mây và
sóng
- Thiên nhiên rực rỡ, bí ẩn, bao điều mới lạ, hấp dẫn tuổi thơ. Dường như khó có thể
từ chối lời mời nhưng em đã từ chối vì:
⇒ Sức níu giữ của tình mẫu tử. Lời từ chối của em bé với lý do thật dễ thương, tình
yêu thương mẹ tha thiết. Mặc dù em bé luyến tiếc cuộc vui chơi nhưng tình yêu
thương mẹ đã thắng. Tinh thần nhân văn sâu sắc thể hiện ở sức mạnh của tình mẫu tử.
- Trò chơi em tự nghĩ ra, trò chơi có mẹ, cùng mẹ và em. "Con sẽ là mây, mẹ sẽ là
trăng. Con sẽ là sóng, mẹ là bến bờ. Hai tay con nâng mặt mẹ, con lăn lăn mãi".
- Em bé đã nghĩ ra hình thức tuyệt diệu để hòa hợp tình yêu thiên nhiên và tình mẫu tử
bằng cách biến mình thành mây rồi thành sóng còn mẹ thành trăng và bến bờ kì lạ.
- Trò chơi của em quả là hay, thú vị hơn vì không chỉ có em, có mây, có trăng mà có
cả mẹ. Mẹ sẽ ôm ấp, yêu thương em. Em không chỉ có sáng mà còn có bến bờ kì lạ đó
là mẹ, bờ biển bao dung, rộng lớn luôn sẵn sàng tiếp đón em.
⇒ Ba câu thơ không chỉ tả cách chơi trong trò chơi sáng tạo của em bé mà còn thể
hiện niềm hạnh phúc vô biên tràn ngập của con, của sự hòa hợp thương yêu là của hai
mẹ con, giữa chiều sâu khái quát triết lý về tình yêu thương mẹ con, hạnh phúc của
tình mẹ con thật gần gũi, giản dị nhưng vô cùng lớn lao, thiêng liêng, vĩnh hằng như
vũ trụ và kì diệu thay điều đó lại do chính con người tạo ra.
* Tổng kết
Nội dung: Bài thơ thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt, giản dị mà lớn lao, mang
ý nghĩa tượng trưng cao cả. Qua đó mỗi người chúng ta nhận ra tình yêu thương mẫu
tử và đó là điểm tựa vững chắc trong cuộc sống mỗi người.
Nghệ thuật
- Xây dựng hình ảnh thiên nhiên mang ý nghĩa tượng trưng: mây, sóng,..
- Tứ thơ phát triển theo bố cục tương đối cân xứng nhưng không trùng lặp.
- Đối thoại lồng trong lời kể, tác giả hóa thân vào nhân vật trữ tình.
1/ Mở bài
- R.Ta-go (1861-1941) là nhà thơ lớn nhất của Ấn Độ, nửa đầu thế kỉ XX.
- “Mây và sóng” in trong tập “Trẻ thơ”, xuất bản năm 1909 bằng tiếng Ben-gan. Sau
này, tác giả tự dịch sang tiếng Anh, in trong tập Trăng non, xuất bản năm 1915. Nội
dung ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.
2/ Thân bài
Những câu chuyện tưởng tượng kì diệu của cậu bé kể cho mẹ nghe:
- Những người sống trên mây khoe với cậu bé cuộc sống tự do rong chơi suốt cả
ngày, được đi khắp nơi, đến cả những chốn có bình minh vàng và vầng trăng bạc.
- Rủ rê và hướng dẫn cậu bé cách đi: Hãy đưa tay lên trời, cậu sẽ được nhấc bổng lên
tận tầng mây.
- Thái độ của cậu bé: thích thú nhưng băn khoăn vì:Làm sao có thể rời mẹ mà đến
được? Nghĩ ra trò chơi thay thế: Con là mây và mẹ sẽ là mặt trăng. Hai tay con ôm lấy
mẹ, và mái nhà ta sẽ là bầu trời xanh thẳm.
- Rủ rê và hướng dẫn cậu bé: Hãy đến rìa biển cá, nhắm nghiền mắt lại, cậu sẽ được
làn sóng nâng đi.
- Thái độ của cậu bé: phân vân, do dự vì làm sao có thể rời mẹ mà đi được? Nghĩ ra
trò chơi thay thế: Con là sóng và mẹ là bến bờ kì lạ...
+ Nhà thơ đã mượn những hình ảnh tuyệt đẹp và vĩnh hằng của thiên nhiên để so sánh
với tình cảm mẹ con ruột thịt, khẳng định tình mẫu tử là không gì thay thế được.
+ Nêu lên quy luật của tình mẫu tử: với con, mẹ là tất cả và đối với người mẹ thì con
là tất cả. Tình mẹ con hiện diện khắp nơi trên trái đất này và đó là cội nguồn của sự
sống bất diệt.
3/ Kết bài
- Bài thơ “Mây và Sóng” ghi đậm dấu ấn trong lòng người đọc vì tác giả đã sử dụng
những hình ảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và gửi gắm vào trong đó những ý nghĩa tượng
trưng sâu sắc.
- Bài thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của tuổi thơ bay bổng đồng thời cũng là bài
học thấm thía cho tất cả mọi lứa tuổi: hạnh phúc đích thực chính là những tình cảm
yêu thương chân thành, tha thiết nhất quanh ta.
Bến quê
Bố cục
- Phần 1 (từ đầu … trước cửa sổ nhà mình): Tình cảnh của nhân vật Nhĩ qua cuộc trò
chuyện của Nhĩ và Liên
- Phần 2 (tiếp … lá buồm cánh dơi in bật trên một vùng nước đỏ): Hành trình sang
bên kia sông của Tuấn
- Phần 3 (còn lại): Chuyến ghé thăm Nhĩ của cụ giáo Khuyến
Từng đi khắp nơi trên thế giới nhưng cuối đời lại gắn chặt với giường bệnh bởi căn
bệnh hiểm nghèo, nên không thể tự mình dịch chuyển được
- Nhĩ phát hiện vùng đất bên kia đẹp, bình yên thì không có khả năng chạm tới
- Đặt nhân vật vào tình huống nghịch lý ấy, tác giả muốn dẫn bạn đọc trải nghiệm về
cuộc đời
- Cuộc sống và số phận con người chứa đựng nhiều điều bất thường, nghịch lý, ngẫu
nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn, hiểu biết và dự tính của con người
- Con người ta trên đường đời khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng
chình, và sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp gần gũi, như cái bãi bôi bên kia sông, người vợ
tần tảo, giàu tình yêu, đức hi sinh tới khi giã biệt cuộc đời Nhĩ mới cảm nhận được
Qua khung cửa sổ, Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp trước đây dù có đi khắp nơi trên thế giới,
anh cũng không thấy được
- Không gian có chiều sâu và bề rộng: những bông bằng lăng ngay phía ngoài cửa sổ
đến con sông Hồng màu đỏ nhạt lúc đã vào thu, vòm trời và bãi bồi bên kia sông
- Cảnh đẹp bình dị gần gũi ngay xung quanh Nhĩ nhưng phải tới cuối đời, khi nằm
trên giường bệnh anh mới nhận ra
- Nhĩ khao khát đặt chân lên bãi bồi bên kia sông, điều ước muốn ấy chính là sự thức
tỉnh giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống, những giá trị thường bị
bỏ quên
Ngòi bút miêu tả tâm lý Nguyễn Minh Châu tinh tế, giàu tinh thần nhân đạo
- Tác giả đặt nhân vật vào vào tình huống ngặt nghèo để nhân vật suy ngẫm, tự trải
nghiệm về cuộc đời với những suy nghĩ sâu sắc về bản thân mình
- Nhĩ suy nghĩ về lẽ sống, về cuộc đời, về những người cụ thể như vợ, con, chính
cuộc đời mình
+ Mọi cảnh vật trước mắt Nhĩ trở nên đẹp, khi Nhĩ sắp từ giã cõi đời
+ Hình ảnh người vợ gầy guộc với sự tần tảo là " nơi nương tựa" cho cả gia đình
+ Sự thức tỉnh của Nhĩ về vẻ đẹp bên kia bãi bồi tô đậm hình ảnh đứa con mải chơi
không thấy bãi bồi hấp dẫn
+ Là tình yêu với cuộc sống, được trải nghiệm qua cuộc đời nhiều thăng trầm
- Nhĩ suy nghĩ về Liên: anh nhận ra tất cả sự tần tảo, đức hi sinh thầm lặng của vợ
- Nhĩ khao khát được đặt chân tới bãi bồi bên kia sông
Kết truyện tác giả miêu tả chủ yếu về chân dung, cử chỉ nhân vật với vẻ khác thường.
- "Anh cố thu nhặt mọi sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài,
giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát"
→ Hành động chứng tỏ sự khẩn thiết, muốn ra hiệu cho đứa con mau kẻo lỡ chuyến
đò duy nhất trong ngày
- Có một ý nghĩa khác: muốn thức tỉnh mọi người về những cái "vòng vèo, chùng
chình" để hướng tới những giá trị đích thực vốn rất giản gị, gần gũi, bền vững
Các hình ảnh trong bài mang tính đa nghĩa, nghĩa thực và nghĩa biểu tượng:
- Hình ảnh bãi bồi, bến sông ngoài ý nghĩa thực còn là vẻ đẹp đời sống bình dị, gần
gũi, thân thuộc rộng ra là quê hương, xứ sở
- Những bông hoa bằng lăng cuối mùa, tiếng những tảng đất lở ở bờ sông bên này đổ
ụp vào giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng… có ý nghĩa nhân vật Nhĩ đang đi tới những
ngày cuối cùng
- Đứa con trai ham chơi gợi ý nghĩa về sự chùng chình, vòng vèo trong đời sống của
con người
- Hành động, cử chỉ Nhĩ cuối truyện thể hiện sự thức tỉnh cũng như nguyện vọng của
Nhĩ muốn con thực hiện ước nguyện của mình
Chủ đề truyện thể hiện trong đoạn văn: "Trong cuộc sống, con ngừơi thường khó
tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình. Cần phải thức tỉnh những giá trị và vẻ
đẹp đích thực của đời sống ở những cái gần gũi, bình thường mà bền vững."
- Tác giả nhắc nhở con người cần thức tỉnh để nhìn nhận đúng đường hướng cần phải
đi
- Khẳng định giá trị bền vững vẫn luôn tồn tại trong những điều bình dị, gần gũi nhất
Luyện tập
Bài 1 ( 108 sgk ngữ văn 9 tập 2)
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của tác giả trong đoạn đầu đặc sắc:
+ Những bông hoa bằng lăng đậm sắc hơn giống như chút sức lực cuối cùng của
Nhĩ cố đặt chân tới bãi bồi bên kia sông
+ Vẻ đẹp thiên nhiên đẹp đẽ giàu màu sắc trữ tình, qua hình ảnh bãi bồi bên kia
sông, thể hiện tình yêu tha thiết của nhân vật Nhĩ với quê hương
Đoạn văn trên gửi gắm tâm tư của tác giả về triết lý cuộc đời qua dòng suy nghĩ của
nhân vật Nhĩ. Dòng suy nghĩ đánh thức trong lòng người đọc về nghịch lý cuộc sống.
Con người ta không thể thoát khỏi những chùng chình, vòng vèo khiến ta quên lãng
đi giá trị hạnh phúc, lâu bền ở ngay cạnh ta. Tuổi trẻ, ai cũng chăm chăm kiếm tìm
giá trị hạnh phúc ở nơi xa mà không nhận ra rằng chính quê hương, gia đình là giá
trị, vẻ đẹp đích thực. Tới khi nhận ra được chân lí này thì cũng đã muộn.
- Về nghệ thuật: Học sinh phân tích được nghệ thuật miêu tả tâm lí đặc sắc cùng
những hình ảnh giàu tính biểu tượng và cách xây dựng tình huống, trần thuật theo
dòng tâm trạng của nhân vật trong ngòi bút của tác giả.
- Phần 2 (tiếp… chị Thao bảo): Sự chăm sóc của hai người chị với Nho
Truyện được kể theo ngôi kể thứ nhất, theo lời của nhân vật Phương Định. Ngôi kể
này giúp truyện có tính chân thực hơn. Tạo thuận lợi để tác giả miêu tả, biểu hiện thế
giới tâm hồn, xúc cảm của nhân vật.
Tóm tắt
Ba nữ thanh niên xung phong làm thành một tổ trinh sát mặt đường tại một trọng
điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Nhiệm vụ của họ là quan sát địch, ném bom, đo
khối lượng đất đá phải san lấp, đánh dấu vị trí nổ, chưa nổ của bom mìn sau đó phá
bom mìn và san lấp mặt đường. Cuộc sống của ba cô gái phải đối mặt với cái chết
trong mỗi lần phá bom, tuy khắc nghiệt, gian khổ nhưng họ vẫn lạc quan, giàu cảm
xúc và mơ mộng.
Ba cô gái thanh niên xung phong yêu thương, đoàn kết với nhau:
- Cùng chung nhiệm vụ trinh sát mặt đường, đo đất đá cần san lấp, phá bom mìn
- Là những cô gái trẻ, giàu tinh thần, trách nhiệm với công việc, yêu thương đồng đội
- Chiến đấu dũng cảm, sống giản dị, lạc quan, thích ca hát, trêu đùa
- Phương Định: con gái thành phố, đẹp, thích mơ mộng, hay hát
Phương Định:
- Ý thức được vẻ đẹp của bản thân "một cô gái khá, hai bím tóc dày, tương đối mềm,
một cái cổ cao, kiêu hãnh" đôi mắt "có cái nhìn sao mà xa xăm"
- Nhạy cảm nhưng chưa dành riêng tình cảm cho ai, cô không biểu lộ tình cảm của
mình, tỏ ra kín đáo giữa đám đông tưởng chừng như kiêu kì
- Tâm lí nhân vật qua những lần phá bom được miêu tả chi tiết, tinh tế
+ Có thể quen với công việc nhưng mỗi lần phá bom đều là một lần thử thách với
thần kinh
+ Cảm giác trở nên sắc nhọn hơn khi lưỡi xẻng chạm vào quả bom, tiếp đó căng
thẳng đợi chờ tiếng quả bom nổ
→ Ngòi bút của tác giả miêu tả chân thực, sinh động tâm lí nhân vật trong truyện.
Cái nhìn và cách thể hiện con người thiên về cái trong sáng, tốt đẹp, hướng thiện
- Phương thức trần thuật: ngôi thứ nhất, chân thực, phù hợp với thế giới nội tâm đa
dạng, sâu sắc của nhân vật
- Đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lí
- Ngôn ngữ trần thuật phù hợp với nhân vật, lời kể theo nhịp, lúc nhanh, chậm
Câu chuyện cho ta thấy tuổi trẻ thế hệ thanh niên kháng chiến chống Mĩ gặp nhiều
gian lao, hiểm nguy nhưng ở họ vẫn luôn ngời sáng tinh thần tự do, dũng cảm, ngang
tàng. Họ dũng cảm, không sợ cái chết, ở họ có tình yêu sâu đậm với quê hương, đất
nước
Luyện tập
Bài 1 (trang 122 sgk ngữ văn 9 tập 2)
Một số tác phẩm viết về thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ
- Phương Định là cô gái Hà Nội vào chiến trường dữ dội, khốc liệt
+ Vào chiến trường ba năm quen với thử thách, hiểm nguy, một ngày đối diện với
cái chết nhưng ở cô không mất đi sự hồn nhiên, trong sáng
+ Phương Định yêu mến những người đồng đội trong tổ trinh sát, dành tình cảm
đặc biệt cho những người chiến sĩ cô gặp hằng đêm trên trọng điểm con đường vào
mặt trận
+ Những lần phá bom, mặc dù không khí chứa đựng sự căng thẳng, nhưng Phương
Định vẫn dũng cảm, hành động phá bom dứt khoát, dũng cảm
→ Phương Định là cô gái trẻ, cá tính, có lòng dũng cảm, tinh thần trách nhiệm cao
với công việc
- Về nghệ thuật: Học sinh phân tích được giá trị biểu đạt của việc sử dụng ngôi kể
thứ nhất, cùng cách kể chuyện tự nhiên, ngôn ngữ trẻ trung và sinh động đặc biệt là
nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc mà tác giả đã sử dụng.
- Phần 3 ( tiếp… bên khẩu súng của tôi): vũ khí bảo vệ Rô-bin-xơn
Phần miêu tả chân dung chỉ chiếm lượng ít. Vì Rô-bin-xon tự thuật, tự kể về chính
mình
Điều này là do ngôi kể, nhân vật chính tự miêu tả về mình, vì thế chàng chỉ có thể
miêu tả những gì chàng trông thấy
- Khi viết về các chi tiết về trang bị vũ khí, trang phục được miêu tả khá kỹ
- Từ góc nhìn độc đáo của tác giả, tác giả miêu tả một bộ dạng kỳ khôi, thu hút sự
chú ý của bạn đọc
Rô-bin-xơn là người nước Anh, chàng bị đắm tàu nên trôi dạt một đảo hoang thuộc
xích đạo trong một chuyến đi biển xuất phát từ Bra-xin
- Rô-bin- xơn sống một mình trên đảo hoang suốt 15 năm với mũ, quần áo, ủng bằng
da dê
- Thời gian và thời tiết khắc nghiệt làm cho giày, mũ, quần áo rách hết không dùng
được nữa
- Trang phục của Rô-bin-xơn tất cả đều bằng da dê, trên hoang đảo có rất nhiều dê
rừng. May mà Rô-bon-xơn giữ được cây súng, thuốc súng, đạn ghém
+ Rô-bin-xơn duy trì được cuộc sống bằng cách săn bắn, da dê làm trang phục
- Rô-bin-xơn tận dụng những thứ còn sót lại những thứ vớt vát từ con tàu đắm: mấy
hạt lúa mì còn sót lại, bẫy cả dê về nuôi cho chúng sinh sản
- Rô-bin-xơn không có kẻ thù phải chống chọi nhưng vẫn cần những công cụ lao
động như cái cưa, cái rìu cần thiết cho chàng vào rừng chặt cây
→ Qua trang phục, vật dụng Rô-bin-xơn cho ta thấy một nghị lực phi thường, ý chí
sắt đá, bản lĩnh sống không gì khuất phục nổi
-Cuộc sống khó khăn, khổ cực của Rô-bin-xơn ngoài đảo được kể bằng giọng hài
hước, hóm hỉnh
- Rô-bin-xơn thể hiện tinh thần lạc quan (khi kể về bộ ria mép)
→ Dù rơi vào hoàn cảnh cực kì khó khăn. Một người khác ở vào hoàn cảnh ấy có lẽ
chán nản, tuyệt vọng, buông xuôi rồi chết nhưng Rô-bin-xơn luôn nỗ lực vươn lên để
cuộc sống tốt hơn, chàng không khuất phục trước số phận.
- Đoạn 1 (từ đầu… em chỉ khóc hoài): nỗi tuyệt vọng của Xi- mông
- Đoạn 3 (tiếp… bỏ đi rất nhanh): bác Phi-líp đưa Xi-mông về với mẹ và nhận làm
bố của em
- Đoạn 4 (còn lại) Xi- mông đến trường, khoe với các bạn em có ông bố là Phi-líp
- Xi- mông đau đớn khi bị trêu chọc là không có bố → bạn bè trêu chọc và đánh em
- Bị bạn bè trêu chọc, em đau đớn đến mức muốn tự tử. Cảnh vật bờ sông làm em
nguôi ngoai, vẫn đau khổ vô cùng
+ Nỗi khổ thể hiện ở giọng nghẹn ngào, mắt đẫm lệ khi em trả lời bác Phi-líp, ở
giọng nói ngắt quãng xen với tiếng nấc buồn tủi
- Bản chất của chị được thể hiện qua hình ảnh ngôi nhà "quét vôi trắng, hết sức sạch
sẽ"- thái độ sống đứng đắn, nghiêm túc
- Blăng- sốt một mình nuôi dạy Xi- mông trở thành đứa trẻ ngoan ngoãn.
- Bản chất Blăng- sốt được thể hiện qua cách chị đối xử với khách.
+ Đứng nghiêm nghị trước cửa nhà, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa
của ngôi nhà
- Khi nghe con nói bị đánh, bị chế giễu vì không có bố "đôi má thiếu phụ đỏ bừng và,
tê tái đến tận xương tủy… nước mắt lã chã tuôn rơi"
+ Khi nghe đứa con hỏi "bác có muốn làm bố cháu không?" thì chị "lặng ngắt và
quằn quại, dựa người vào tường, hai tay ôm ngực"
→ Blăng- sốt là người phụ nữ đứng đắn, giàu lòng tự trọng, thương con
- Khi gặp Xi- mông: thấy sự đau khổ của em, thương và an ủi em
- Trên đường đưa Xi-mông về nhà: nghĩ là mẹ em bé có thể lầm lỡ thêm lần nữa
- Khi gặp mẹ của Xi-mông: lúng túng, bối rối trước sự nghiêm nghị của chị, nhưng
cũng cảm phục, thấu hiểu cho hoàn cảnh của Blăng
- Khi nói chuyện với Xi- mông: thương và muốn nhận Xi-mông làm con, thương sự
hồn nhiên, ngây thơ của Xi-mông
→ Diễn biến tâm trạng của bác Phi-líp đầy phức tạp, bất ngờ
- Đoạn trích thức tỉnh học sinh về lòng thương yêu bè bạn mà mở rộng ra là lòng
thương yêu con người, sự đồng cảm với những nỗi đau hoặc lỡ lầm của người khác.
- Phần 1 (từ đầu… mới khơi dậy lên được): khẳng định tình thương yêu đến tôn thờ,
cuồng nhiệt cảu chú chó Bấc với người chủ Thooc- tơn
- Phần 2 (tiếp… hầu như biết nói đấy!): tình cảm của Thooc- tơn đối với Bấc
- Phần 3 (đoạn còn lại) tình cảm của Bấc dành cho Thooc-tơn
- Thooc-tơn đối xử với những con chó của anh, đặc biệt con Bấc "như con cái của
anh vậy"
+ Trong suy nghĩ và tình cảm, anh xem Bấc là người, đồng loại, bạn bè của anh
- Thooc-tơn là "ông chủ lý tưởng" của con chó Bấc, khác với những ông chủ chăm
sóc chó vì lợi ích kinh doanh và nghĩa vụ
- Biểu hiện tình cảm đặc biệt của Thooc-tơn: chào hỏi thân mật hoặc nói lời vui vẻ,
trò chuyện tầm phào với chó
- Tình cảm biểu hiện ngay cả trong tiếng rủa "rủ rỉ bên tai" như "những lời nói nựng
âu yếm"
- Thooc-tơn là ông chủ đặc biệt coi trọng tình cảm, ngay cả đối với con vật của mình
→ Đáng lí phải nói tới những biểu hiện tình cảm của con chó Bấc. Nhưng tác giả nói
về tình cảm của Thooc-tơn đối với các con chó của anh nói chung và đối với con Bấc
trước, mục đích làm sáng tỏ tình cảm của con chó Bấc đối với anh.
Tình cảm của chú cho Bấc được tác giả kể lại giản dị, có sức hấp dẫn đặc biệt.
+ Những cử chỉ, hành động được miêu tả xen kẽ với những chi tiết cụ thể, sinh
động cho thấy tình cảm giữa Thooc-tơn và Bấc
+ Tác giả kể lại giản dị, có sức hấp dẫn đặc biệt cho thấy tình cảm của Thooc- tơn
dành cho Bấc vượt qua quan hệ chủ tớ thông thường
+ Anh chăm sóc những con chó "như thể chúng là con cái của anh vậy"
+ Bấc vốn là con chó thông minh, hiểu cử chỉ của chủ nên nó đáp lại bằng tình cảm
chân thành
+ Cái cách nó ép hai hàm răng vào tay chủ cho thấy tình cảm mãnh liệt dành cho
Thooc- tơn
+ Sự giao cảm bằng ánh mắt với Thooc- tơn nói lên sự ngưỡng mộ, thành kính
- Phần cuối đoạn trích thể hiện tình cảm sâu hơn
+ Càng yêu chủ bao nhiêu, Bấc lại càng sợ mất bấy nhiêu
+ Chi tiết Bấc không ngủ "trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe
tiếng thở đều đều của chủ" thể hiện khả năng quan sát tinh tế của tác gỉa
Tác giả không nhân cách hóa con chó Bấc theo kiểu của La- Phông ten, không để
cho nó nói tiếng người như các con vật trong thơ ngụ ngôn
- "Qua lời kể của tác giảm dường như con chó Bấc biết suy nghĩ (trước kia nó chưa
hề cảm thấy một tình thương yêu như vậy", "Bấc cảm thấy không có gì vui sướng
bằng cái ôm ghì mạnh mẽ ấy")
Bấc biết vui mừng và lo sợ ("Việc thay thầy đổi chủ xoành xoạch… làm nảy sinh
trong lòng nó nỗi lo sợ là…")
- Bấc còn nằm mơ "ngay cả ban đêm, trong các giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám
ảnh.."
→ Tất cả thể hiện trí tưởng tượng tuyệt vời của nhà văn, và lòng yêu thương loài vật
của ông
Ý nghĩa - Giá trị
Qua trích đoạn này, học sinh thấy được những nhận xét tinh tế khi viết về những
con chó, thể hiện trí tưởng tượng tuyệt vời, phong phú khi đi sâu vào “tâm hồn” của
con chó Bấc, đồng thời bộc lộ tình cảm yêu thương của mình đối với loài vật.
Câu 1 (trang 166 sgk ngữ văn 9 tập 2)
- Lớp I: lời tóm tắt, giới thiệu tình huống truyện của tác giả
- Lớp II: Cuộc đối thoại giữa Thơm và hai người cán bộ cách mạng là Cửu và Thái
Tình huống: Trước cái chết của cha, Thơm dần nhận ra bộ mặt phản bội của Ngọc,
chồng cô. Cô vô cùng đau xót, ân hận. Khi Thái và Cửu, hai chiến sĩ cách mạng bị
giặc truy bắt thì chạy nhầm vào nhà Thơm được Thơm che giấu và cứu giúp.
Tình huống đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong vở kịch. Nó thúc đẩy nhanh diễn
biến sự việc, buộc nhân vật phải hành động, bộc lộ tính cách, phẩm chất, tư tưởng,
quan điểm…
Xung đột kịch: Ngọc (chồng Thơm) dẫn lính đi lùng bắt cán bộ, du kích. Thái và
Cửu chạy đúng vào nhà Ngọc. Tình huống ấy buộc Thơm phải có sự lựa khoát: hoặc
là để cho Ngọc bắt cán bộ sẽ được yên, hoặc che giấu họ ngay trong nhà mình, vô
cùng nguy hiểm. Thơm quyết định che dấu cán bộ, chiến sĩ và đứng hẳn về phía cách
mạng
- Sự xuất hiện của Thái, Cửu đẩy mâu thuẫn kịch phát triển theo hướng khác: Trong
hoàn cảnh nguy kịch, lòng tin của người cán bộ với nhân dân có ý nghĩa vô cùng
quan trọng, quyết định tới thành bại của cách mạng
Hoàn cảnh Thơm: quen cuộc sống an nhàn, được chồng chiều chuộng, mặc dù cha và
em trai theo cách mạng thì cô vẫn đứng ngoài khởi nghĩa
- Tâm trạng:
+ Sự ân hận, day dứt của Thơm: người cha lúc hi sinh, những lời cuối cùng của
ông, khẩu súng trao lại cho Thơm, sự hi sinh của em trai, hình ảnh người mẹ hóa
điên ám ảnh cô
+ Sự nghi ngờ của cô đối với Ngọc tăng: Thơm dò xét nhưng Ngọc lảng tránh, cô
không dễ gì từ bỏ cuộc sống nhàn nhã mà chồng tạo ra
+ Tình huống bất ngờ xảy ra: Thái và Cửu chạy trốn vào nhà cô, cô phải lựa chọn
giữa việc báo cho chồng biết hoặc che dấu cho hai chiến sĩ cách mạng
→ Đặt nhân vật vào tình huống gay cấn, căng thẳng để bộc lộ đời sống nội tâm, nỗi
day dứt, đau xót, ân hận của Thơm để nhân vật lựa chọn đứng hẳn về phía cách mạng
- Tác giả khẳng định ngay cả khi cuộc đấu tranh bị đàn áp khốc liệt, cách mạng vẫn
không bị tiêu diệt do sự bảo vệ, che chở của người dân
- Ngọc bộc lộ đầy đủ bản chất tên Việt gian bán nước
+ Nuôi tham vọng thỏa mãn muốn địa vị, tiền bạc
+ Ngọc che giấu bản chất Việt gian trước Thơm, y ra sức truy lùng người cách
mạng lẩn trốn trong vùng,
- Tác giả xây dựng nhân vật phản diện như Ngọc khắc họa tính cách của một người
nhất quán nhưng không đơn giản
- Thái bình tĩnh, sáng suốt, tin tưởng vào sự che chở của quần chúng, ngay cả khi
người đó là vợ tên Việt gian
- Cửu có sự nôn nóng, thiếu chín chắn, ban đầu anh nghi ngờ và có ý định muốn bắn
Thơm
Đồng thời xung đột kịch diễn ra ngay trong nội tâm nhân vật T hơm, thúc đẩy diễn
biến tâm trạng nhân vật đi tới bước ngoặt quan trọng
- Xây dựng tình huống éo le, bất ngờ, bộc lộ rõ xung đột, thúc đẩy hành động kịch
phát triển
- Ngôn ngữ đối thoại: nhịp điệu, giọng điệu phù hợp với nhân vật, giai đoạn kịch
Luyện tập
Bài 1 (trang 167 sgk ngữ văn 9 tập 2)
- Học sinh thấy được nghệ thuật viết kịch đặc sắc của Nguyễn Huy Tưởng qua cách
tạo dựng tình huồng để bộc lộ xung đột, tổ chức đối thoai, thể hiên tâm lí và tính
cách nhân vật.
- Phần 2 (tiếp… các đồng chí giải tán): kế hoạch vấp phải sự phản đối của phó giám
đốc Nguyễn Chính, trưởng phòng Hoàng Việt.
- Phần 3 (còn lại): Phản ứng của mọi người khi kế hoạch được quyết định thi hành
Đọc kĩ chú thích để hiểu nội dung, chủ đề, vị trí các nhân vật
Mâu thuẫn cơ bản trong truyện tôi và chúng ta thể hiện: mâu thuẫn giữa cái cũ vốn
có lạc hậu, lỗi thời với cái mới hiệu quả, thiết thực
- Không thể tạo ra hiệu quả bằng thứ chủ nghĩa tập trung, vì cái chung (chúng ta)
được tạo lập từ những cái tôi cụ thể
- Cuộc sống, nguồn lợi mỗi cá nhân cần được chú trọng, quan tâm một cách thiết
thực
- Không thể giữ quy chế, nguyên tắc cũ đã lỗi thời, lạc hậu, mà cần thay đổi phương
thức tổ chức để thúc đẩy sản xuất
- Vấn đề cấp thiết vở kịch đặt ra lúc bấy giờ có ý nghĩa thực tiễn lớn lao, trực tiếp
ảnh hưởng, thay đổi tới sự đổi mới đi lên của đất nước
Câu 3 (trang 180 sgk ngữ văn 9 tập 2)
- Tình trạng ngưng trệ sản xuất tới lúc cần phải giải quyết bằng những biện pháp
quyết liệt, mạnh bạo
+ Giám đốc Hoàng Việt quyết định mở rộng sản xuất và phương án làm ăn mới
+ Lời công bố gây bất ngờ với nhiều người (Phó giám đốc, Quản đốc phân xưởng)
- Phản ứng của Trưởng phòng Tổ chức lao động, Trưởng phòng Tài vụ liên quan đến
biên chế, quỹ lương
- Phản ứng của Quản đốc phân xưởng Trương, liên quan tới hiệu quả tổ chức, quản lí
khi Hoàng Quốc Việt khẳng định không cần vị trí
- Những xung đột gay gắt trên chứng tỏ muốn mở rộng quy mô sản xuất phải có
nhiều thay đổi mạnh mẽ, đồng bộ
Cảnh ba này đã diễn ra mâu thuẫn quyết liệt giữa hai tuyến nhân vật: tiên tiến, dám
nghĩ dám làm, người bảo thủ, máy móc
Vở kịch thể hiện rõ tính cách của các nhân vật tiêu biểu, cả ban cảnh đều tập trung
thể hiện mâu thuẫn cơ bản của tác phẩm:
- Giám đốc Hoàng Việt: người lãnh đạo có tinh thần trách nhiệm cao, năng động,
dám nghĩ dám làm vì sự nghiệp của xí nghiệp và quyền lợi của công nhân
- Kĩ sư Lê Sơn: người có năng lực, trình độ chuyên môn, gắn bó nhiều năm với xí
nghiệp
+ Biết cuộc đấu tranh khó khăn nhưng vẫn cùng Hoàng Việt cải tiến toàn diện hoạt
động đơn vị
- Phó giám đốc Nguyễn Chính: tiêu biểu cho người máy móc, bảo thủ, nhưng gian
ngoan, mánh khóe
+ Luôn vin vào cơ chế, nguyên tắc để chống lại sự đổi mới
- Giám đốc phân xưởng Trương: suy nghĩ và làm việc như cái máy, khô cằn tình
người
+ Thích tỏ ra quyền thế, hách dịch với anh chị em công nhân
- Là cuộc đấu tranh gay gắt: tình huống xung đột có tính thời sự nóng bỏng trong
thực tiễn cuộc sống
- Các quan niệm, cách làm mới táo bạo trong giai đoạn đầu sẽ vấp phải nhiều cản trở
- Cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, cuối cùng phần thắng thuộc về cái mới, cái tiến
bộ
+ Cách nghĩ, cách làm của Hoàng Việt, Lê Sơn… phù hợp với xu thế, nhu cầu thời
đại, thực tiễn, thúc đẩy sự đi lên của xã hội, họ được sự ủng hộ của đông đảo công
nhân trong xí nghiệp