You are on page 1of 29

II. Phép biện chứng duy vật.

1. Phép biện chứng và phép biện chứng duy vật.


● Biện chứng: là những mối liên hệ tương tác, chuyển hóa, vận động và phát triển theo quy luật
của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới.
● Hai loại hình biện chứng:
- Biện chứng khách quan.
- Biện chứng chủ quan.
vd: Cây táo→ mối liên hệ với thời tiết, nhiệt độ biện chứng khách ⇒ quan.Con người quan sát
mối liên hệ trên→ rút ra quy luật Lượng chất biện chứng ⇒ chủ quan. Khái niệm phạm trù quy
luật Lượng chất do con người tạo nên, những nội dung của khái niệm phạm trù quy luật lại phản
ánh biện chứng khách quan( mối liên hệ của cây táo với thời tiết, nhiệt độ).
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật (2 nguyên lý, 3 quy luật, 6 cặp phạm trù)
a. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật.
● Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
- Khái niệm:
➢ Mối liên hệ : sự quy định, tác động qua lại chuyển hóa lẫn nhau, làm điều kiện, tiền đề cho
nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của một sự vật, hiện tượng.
vd: thầy trò có mối liên hệ quy định cho sự tồn tại, chuyển hóa lẫn ⇒ nhau ( thông qua quá trình
giảng bài→ thầy phải ngừng đọc soạn tài liệu, thông qua quá trình học của sinh viên→ trí thức
không ngừng phát triển cả lượng và chất, không có sinh viên thì không có giảng viên, không có
giảng viên thì không có sinh viên.)
➢ Mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới có tính phổ biến
- Tính chất của mối liên hệ:
➢ Tính khách quan: không phụ thuộc vào ý thức của con người, phụ thuộc vào nhu cầu vận
động của mỗi sự vật→ nhờ vào sự vận động của các mặt đối lập bên trong nó→ chiến đấu với
nhau→ thúc đẩy→ xuất hiện mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác.
➢ Tính phổ biến: một sự vật có nhiều mối liên hệ khác nhau, tác động qua lại lẫn nhau→ quy
định cho sự tồn tại của nhau.
➢ Tính đa dạng: mối liên hệ bên trong-bên ngoài, chủ yếu-thứ yếu, trực tiếp-gián tiếp Phân loại
mang tính tương đối. ⇒ - Ý nghĩa phương pháp luận.
➢ Quan điểm toàn diện:
❖ Phải xem xét tất cả các mối liên hệ của sự vật. ⇒ một sự vật có nhiều mối liên hệ → nhận
thức tổng quan đầy đủ về sự vật.
❖ Tập trung vào các mối liên hệ cơ bản, chủ yếu. ⇒ phát hiện bản chất đặc trưng của sự vật
trong từng thời điểm cụ thể → đảm bảo độ tổng quát đầy đủ và sâu sắc (nhưng phải phân loại).
❖ Chống quan điểm phiến diện, chiết trung.
➢ Quan điểm lịch sự-cụ thể:
❖ Phải chú ý tới hoàn cảnh lịch sử-cụ thể đã làm phát sinh, phát triển sự vật, hiện tượng. ⇒ lý
giải sự vật tại sao như thế nào trong thời điểm, hoàn cảnh nào.
● Nguyên lý về sự phát triển.
- Khái niệm:
➢ Phát triển là phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
- Đặc điểm sự phát triển:
➢ Nguồn gốc phát triển nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng⇒ xuất phát từ bên trong sự vật,
toàn diện về lượng và chất.
➢ Phát triển cả lượng và chất.
➢ Khuynh hướng phát triển diễn ra theo đường “xoắn ốc”.
- Tính chất:
➢ Tính khách quan: quá trình phát triển nằm bên trong sự vật, do sự vận động phát triển quy
định, không phụ thuộc ý thức con người.
➢ Tính phổ biến: mọi sự vật luôn trong quá trình vận động phát triển không ngừng.
➢ Tính đa dạng: mỗi sự vật, hiện tượng thường tồn tại trong môi trường hoàn cảnh khác nhau,
nên quá trình phát triển không giống nhau hoàn toàn.
- Ý nghĩa pp luận:
➢ Phải xem xét sự vật hiện tượng trong trạng thái vận động phát triển không ngừng⇒ biết được
xu hướng vận động phát triển trong tương lai→ đối phó tránh sự bị động khi ứng phó, xử lý nó.
➢ Phải ủng hộ tạo điều kiện cho cái mới phát triển⇒ cái mới ra đời là tất yếu không chống lại
được→ tạo điều kiện để nó trở nên thân thiện.
➢ Chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, sợ hoặc ngại cái mới.
b. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt thuộc tính, những mối liên hệ
chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định
● Quan hệ biện chứng của phạm trù triết học với phạm trù các khoa học cụ thể : Cái riêng và cái
chung:
- Cái đơn nhất: những nét, những mặt, thuộc tính chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định.( dấu
vân tay, tính cách,con mắt...)
- Cái chung: những mặt, những thuộc tính chung được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng, quá
trình riêng lẻ⇒ tồn tại ở nhiều cái riêng. (mê cái đẹp, khuôn mặt ( xét ở phạm vi rộng, phạm vi
xã hội,...) - Cái riêng: một sự vật, hiện tượng, quá trình riêng lẻ nhất định.
● Quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất ⇒ cái riêng có trước từ đó tổng
hợp, khái quát nên cái chung.
- Cái chung: chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của mình ⇒
tập trung vào một vài đặc điểm→ sâu sắc.
- Cái riêng: chỉ tồn tại trong mối quan hệ đưa đến cái chung⇒ chỉ cái riêng→ phong phú. - Cái
riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, còn cái chung là cái bộ phận nhưng là cá sâu sắc
hơn cái riêng.
- Trong quá trình phát triển của sự vật. trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất và cái
chung có thể chuyển hóa lẫn nhau.
vd: cây lúa được nuôi trồng ở 1 điều kiện nhất định→ chỉ có một cá thể với đặc điểm riêng biệt,
duy nhất→ nhân bản→ đặc điểm riêng biệt ban đầu đã trở thành cái chung của nhiều cái riêng→
cái riêng thành cái chung→ nuôi trồng đến một thời điểm cây không còn năng suất→ thoái
hóa→ từ cái chung thành cái riêng.
● Ý nghĩa phương pháp luận
- Muốn phát hiện ra cái chung cần tìm trong cái riêng (vì cái chung là một bộ phận của cái riêng).
- Hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng⇒ pháp luật ra đời từ cái riêng
(thể hiện ý chí nguyện vọng) → pháp luật ra đời người dân phải tuân theo.
- Tạo điều kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi trở thành “cái chung” và ngược lại.
- Cần tránh và chống: chủ nghĩa giáo điều (máy móc sách vở), tả khuynh ( phủ nhận tích lũy về
lượng muốn có ngay sự thay đổi về chất)…⇒ áp dụng cái chung vào cái riêng phải linh hoạt
không được cứng nhắc.
● Nguyên nhân và kết quả.
- Nguyên nhân: sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự
vật hiện tượng với nhau gây ra một biến đổi nhất định.
- Kết quả: những biến đổi do sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật , hiện tượng hoặc các mặt
trong cùng một sự vật, hiện tượng gây ra.
● Tính chất:
- Tính khách quan: mối liên hệ nhân quả tồn tại khách quan không tồn tại phụ thuộc vào ý thức
mà phụ thuộc vào sự vận động đối lập bên trong.
- Tính phổ biến: mối liên hệ nhân quả tồn tại ở mọi sự vật hiện tượng (tự nhiên, xã hội, tư duy)
⇒ không có sự vật nào xuất hiện mà không có nguyên nhân, không có nguyên nhân nào mà
không mang đến sự xuất hiện của sự vật.
- Tính tất yếu: cùng một nguyên nhân giống nhau thì tất yếu tạo ra kết quả giống nhau tương ứng
● Quan hệ biện chứng nguyên nhân kết quả:
- Nguyên nhân sinh ra kết quả, xuất hiện trước kết quả ⇒ nhưng không phải cái nào xuất hiện
trước cũng là nguyên nhân của cái có sau.
- Sau khi xuất hiện, kết quả có ảnh hưởng ngược trở lại đối với nguyên nhân. vd: nguồn nhân lực
chất lượng cao là nguyên nhân kinh tế phát triển→ ngân sách lớn → thúc đẩy nhân lực chất
lượng phát triển tiếp ở giai đoạn sau (tích cực).
- Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau. vd: con gà hay trứng có trước: chuỗi
nhân quả vô tận→ có thể đảo vị trí kết quả cho nhau( hôm nay con gà có trước, hôm sau trứng có
trước) → ta phải có quan điểm lịch sử cụ thể trong bối cảnh không gian thời gian.
● Ý nghĩa phương pháp luận:
- Khi tìm hiểu nguyên nhân của sự vật thì cần tìm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng đó.
Khi nhận tức nguyên nhân cần chú ý mối liên hệ nhân quả tồn tại khách quan→ chỉ có thể tìm
hiểu nguyên nhân của một hiện tượng trong chính thế giới hiện thực, trong bản thân các hiện
tượng.
- Trong hoạt động thực tiễn phải biết phân loại nguyên nhân( một sự vật có nhiều nguyên nhân:
bên trong-ngoài, trực tiếp-gián tiếp, chủ yếu-thứ yếu giúp tập trung giải quyết nguyên nhân cơ
bản rồi đến nguyên nhân phụ), có quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể khi nhận
thức, giải quyết, vận dụng quan hệ nhân quả.
● Tất nhiên và ngẫu nhiên.
- Phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên:
➢ Tất nhiên: cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật chất quyết định và
trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thể khác.
➢ Ngẫu nhiên: cái do sự ngẫu hợp của nhiều nguyên nhân, hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do
đó, nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, cũng có thể xuất
hiện như thế khác.
● Khả năng và hiện thực
c. Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
● Quy luật là mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và được lặp đi lặp lại giữa các
mặt yếu tố, các thuộc tính trong một sự vật hay giữa các sự vật với nhau.
● Quy luật tồn tại khách quan
Câu 1. Phân biệt chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm quan niệm
như thế nào về bản chất của thế giới?
Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; thế giới vật chất tồn tại một
cách khách quan, độc lập với ý thức con người và không do ai sáng tạo ra; còn ý thức là sự phản
ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con người; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có
vật chất.
Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và cho đến nay, lịch sử phát triển của nó luôn
gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Chủ nghĩa duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích
thế giới. Hạn chế của nó là còn mang tính trực quan, trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật
chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể. Ví dụ như quan niệm của Talét,
Hêraclit, Đêmôcrit...
Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII: Do ảnh hưởng của cơ học cổ điển nên chủ
nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của phơng pháp tư duy siêu hình, máy móc
- phương pháp nhìn nhận thế giới trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng
hiện thực, nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh
chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Ví dụ như quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà
duy vật Pháp thế kỷ XVIII.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ
XIX, sau đó được Lênin tiếp tục phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học
trước đó và vận dụng các thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay
từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó, thể hiện là
đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực
mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần có trước và quyết định giới tự nhiên. Giới tự
nhiên chỉ là một dạng tồn tại khác của tinh thần, ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách
quan.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thừa nhân tính thứ nhất của ý thức con người. Trong
khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâmchủ quan khẳng định mọi sự
vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.(dùng để chỉ tất cả sự vật hiện tượng bên
trong y thức và lệ thuộc vào ý thức)
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của y thức nhưng coi đó là thứ tinh
thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người (Platon; Hêghen). Thực thể tinh thần
khách quan này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau như y niệm, tinh thần tuyệt đối,
lý tính thế giới,..(dùng để chỉ tất cả sự vật hiện tượng bên ngoài y thức và không lệ thuộc vào ý
thức)
( 2. Tính thống nhất vật chất của thế giới )
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở
tính vật chất. Theo quan điểm đó:
- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có trước, tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức con người.
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra, không mất đi.
- Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng
đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật chất, do vật
chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những qui luật khách quan, phổ biến của thế giới vật
chất. Trong thế giới vật chất không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và
chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận được rút ra từ việc khái quát
những thành tựu của khoa học, được khoa học và cuộc sống hiện thực của con người kiểm
nghiệm. Nó không chỉ định hướng cho con người giải thích về tính đa dạng của thế giới mà còn
định hướng cho con người tiếp tục nhận thức về tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo
hợp qui luật
Câu 2. Tri thức là gì? Vì sao nói tri thức là phương pháp tồn tại của ý thức? Hãy lấy 1 ví dụ
cụ thể về hoạt động của bản thân để chứng minh điều này
1. Tri thức là gì
1.1. Tri thức trong tư tưởng
Tri thức là sự kết hợp của nhận thức, kinh nghiệm, giá trị và thông tin trong ngữ cảnh, giúp cung
cấp một thức đo chuẩn mực để đánh giá và nhận xét. Trong kinh doanh, tri thức được thể hiện
trong các tài liệu, nhưng tri thức cũng có thể xuất hiện trong thực tiễn, nguyên tắc làm việc, hoặc
bài học kinh nghiệm.
1.2. Tri thức trong khoa học
Sự phát triển của công việc sản xuất và các hoạt động xã hội là nguyên nhân khiến con người đi
sâu nghiên cứu về thế giới và hiểu được khả năng nhận thức của bản thân. Tri thức trong khoa
học là một hệ thống trí tuệ, khái quát về sự vật, hiện tượng của thế giới và quy luật vận động của
chúng. Đây là một hệ thống kiến thức được thiết lập trên cơ sở hợp lệ, có thể kiểm chứng và có
thể áp dụng được. Mặc dù khoa học và kiến thức chung khác nhau, nhưng chúng có liên quan
chặt chẽ với nhau. Tri thức khoa học có thể được rút ra từ môi trường xung quanh và được
nghiên cứu theo một lộ trình. Tuy nhiên, tri thức khoa học không phải là kiến thức sống đơn
giản, tri thức khoa học là kết quả của hoạt động nghiên cứu của một ngành khoa học cụ thể.
1.3. Tri thức trong thực tiễn
Khi con người có tri thức, có hiểu biết, am hiểu sâu rộng tới mọi vấn đề hay lĩnh vực xã hội, thì
con người ta dễ dàng thực hiện được những mục tiêu, ước nguyện của bản thân. Chỉ có tri thức
được đổi bằng chính mồ hôi công sức thì mới mang lại được hiệu quả. Và hiển nhiên, một xã hội
với những con người thành đạt giúp xã hội phát triển không ngừng về tri thức. Đơn giản rằng khi
xã hội được hình thành bởi từng cá nhân, sự kết hợp của các cá nhân có tri thức mang lại hiệu
quả quá trình rèn luyện không ngừng đối với thế hệ trẻ, việc học tập như nào, trau dồi bản thân ra
sao để mang lại cho xã hội có sự đóng góp hiệu quả nhất. Tri thức còn mang lại cho xã hội cơ hội
hội nhập thế giới, để trao đổi kiến thức hay giao lưu văn hóa của các nước, tham gia các cuộc thi
quốc tế. Xã hội sẽ sánh vai với các cường quốc năm châu nhờ sự sáng tạo và những phát minh
mới là điều không thể thiếu đối với những công dân toàn cầu đề cao tri thức. Tri thức hiện là
công cụ giúp giải quyết mọi vấn đề. Khó khăn không chỉ của bản thân, của gia đình mà còn của
gia đình. Vì đất nước, vì toàn xã hội. Vì mỗi học sinh đều rất ý thức trong việc học, không chỉ
biết giá trị của tri thức mà còn cần học hỏi ở nhiều lĩnh vực khác nên xã hội, nhà trường và gia
đình đưa ra rất nhiều chương trình cho học sinh, sinh viên trong học tập. Việc đào tạo các kỹ
năng mềm hoặc kiến thức chuyên sâu cũng là cơ hội để chuẩn bị tốt hơn cho các bạn trẻ trên con
đường theo đuổi thành công.
KẾT CẤU CỦA Ý THỨC
Có kết cấu nhiều yếu tố phức tạp.
Nếu xét về:

 Các lớp cấu trúc của ý thức ( Chiều dọc )

- Tri thức : là phương thức tồn tại cơ bản của ý thức. Theo C.Mác “ Phương thức tồn tại của ý
thức và của một cái gi đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào ý thức thức biết cái đó”.
Nói đến tri thức, ta nói đến sự hiểu biết của con người : Tri thức về tự nhiên, xã hội, về con
người ( về bản thân của chúng ta)… => Tri thức đúng, hiểu biết đúng
- Tình cảm: là một hình thái đạc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh mối quan hệ giữa
người với người, và giữa con người với thế giới khách quan. Tham gia trở thành một trong
những động lực quan trọng của hoạt động của con người.
- Ý chí: chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng trong mỗi con người
vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại, đạt được mục đích đề ra.
=> Song, tất cả những yếu tố đó có mối quan hệ với nhau, đan xen vào nhau. Trong tri thức có
tình cảm và trong tình cảm có cái tri thức. ( yêu bằng con tim hay lí trí. Một số bạn thường bảo
rằng yêu phải bằng con tym, thế nhưng nếu chúng ta ko có tri thức, cái lí trí thì ta sẽ đặt niềm tin
vào sai người). Mỗi yếu tố đều có cái vị trí và vai trò của nó.
=> Hay nếu ta có ý chí mà ko có tri thức ( Ví dụ : Ta có ý chí, ta mong muốn được tìm hiểu về
văn hóa của một đất nước nào đó, muốn tìm hiểu về cách sống của họ, thế nhưng ta ko có tri thức
( về ngôn ngữ ) thì ta ko thể giao tiếp dc, ko thể nào tìm hiểu trao đổi với họ một cách dễ dàng
dc. Và tri thức là yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất. Nó có vai trò định hướng cho ta. Nếu tri
thức đúng, nó sẽ định hướng cho ta con đường đắn, thành công. Nếu tri thức sai thì sẽ định
hướng cho ta con đường dễ thất bại.

 Các cấp độ của ý thức: ( Chiều ngang)

- Tự ý thức: là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế
giới bên ngoài. Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, con người cũng tự phân biệt tách
mình, đối lập mình với thế giới đó để đánh giá mình thông qua các mối quan hệ.
=> Con người tự ý thức về bản thân như 1 thực thể hoạt động có cảm giác, tư duy, tự đánh giá
năng lực và có trình độ hiểu biết về thế giới… Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân, mà
còn là tự ý thức của các nhóm xã hội ( như 1 tập thể, 1 giai cấp, 1 dân tộc,…) về vị trí của họ
trong hệ thống quan hệ sản xuất, về lợi ích và lí tưởng của mình.
- Tiềm thức: là những hoạt động tâm lí diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức. Là những tri
thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đó gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm
trong tầng sau của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Có vai trò quan trọng trong đời
sống tư duy và khoa học. Tiềm thức gắn bó chặt chẽ với loại hình tư duy chính xác, được lặp lại
nhiều lần.
- Vô thức: là những hiện tượng tâm lí không phải do lí trí điều khiển, nằm ngoài phạm vi của lí
trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. Chúng điều khiển những hành vi thuộc
về bản năng, thói quen,,.. trong con người thông qua phản xạ không điều kiện. Là những trạng
thái tâm lí ở tầng sâu điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái động ứng xử của con người mà chưa
có sự can thiệp của lí trí. Có nhiều hiện tượng như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, lỡ
lời,… => chức năng chung là giải tỏa những cái ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng,
nhất là những ham muốn bản năng không được phép lộ và thực hiện trong quy tắc của đời sống
cộng đồng. Nhờ vô thức mà những chuẩn mực con người đặt ra được thực hiện 1 cách tự nhiên,
không có sự khiên cưỡng.
Câu 3. Lực lượng sản xuất là gì? Quan hệ sản xuất là gì? Trong cấu trúc của lực lượng sản
xuất yếu tố nào là quan trọng nhất? Tại sao?
Khái niệm về lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là tổng hợp toàn bộ những yếu tố vật chất và ý thức tạo thành sức mạnh cải
biến giới tự nhiên theo nhu yếu sống sót và tăng trưởng của con người. Nó được dùng trong quá
trình sản xuất của xã hội qua các thời kỳ nhất định.
Về mặt cấu trúc, Lực lượng sản xuất gồm có hai bộ phận cơ bản đó là tư liệu sản xuất và người
lao động.
 Tư liệu sản xuất là những tư liệu để triển khai sản xuất, gồm có tư liệu lao động và đối
tượng người dùng lao động. Trong đó tư liệu lao động gồm có công cụ lao động và đối
tượng người dùng lao động khác (phương tiện đi lại luân chuyển và dữ gìn và bảo vệ mẫu
sản phẩm,..). Đối tượng lao động là những yếu tố nguyên nhiên vật tư có sẵn trong tự
nhiên (gỗ, than đá,..) hoặc tự tạo (polime,…)
 Người lao động là chủ thể của quy trình lao động sản xuất, là người tạo ra và sử dụng tư
liệu lao động vào đối tượng người tiêu dùng lao động để tạo ra loại sản phẩm.
Trong quá trình sản xuất, công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật
chất thì tư liệu lao động được hoàn thiện nhằm đạt được năng suất lao động cao. Còn trong tư
liệu lao động tức là tất cả các yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng
lao động thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất linh hoạt nhất. Bởi vậy, khi công cụ lao
động đã đạt đến trình độ tin học hoá được tự động hoá thì vai trò của nó lại càng quan trọng.
Trong mọi thời đại công cụ sản xuất luôn là yếu tố đông nhất của lực lượng sản xuất. Chính sự
chuyển đổi cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã gây lên những biến đổi sâu sắc trong
toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình độ phát triển công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự
nhiên của con người. Có thể coi yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất chính là con
người.
Trong thời đại ngày nay khoa học đã phát triển tới mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của
nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời sống nó đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó
vừa là ngành sản xuất riêng vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất đem lại
thay đổi về chất cho lực lượng sản xuất. Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời
đại của sản xuất nó hoàn toàn có thể coi là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại
Khái niệm về quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người và con người trong quá trình sản xuất vật chất. Theo
một nghĩa chung nhất thì quan hệ sản xuất là một yếu tố của phương thức sản xuất, là mặt xã hội
của phương thức sản xuất. Mối quan hệ giữa con người và con người trong quan hệ sản xuất bao
giờ cũng thể hiện tính chất, bản chất của quan hệ lao động và dưới góc độ chung nhất nó thể hiện
bản chất kinh tế của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức - quản
lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. Với tính chất
là những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của con người, quan hệ sản
xuất là những quan hệ mang tính vật chất của đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
 Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất: tức là quan hệ giữa người với tư liệu sản xuất. Tính
chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất. Biểu hiện thành chế độ sở hữu trong hệ thống các quan hệ sản xuất thì quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với các quan hệ xã hội khác.
 Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: tức là quan hệ giữa người với người
trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải. Trong hệ thống các quan hệ sản xuất
các quan hệ về mặt tổ chức quản lý sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết định một
cách quy mô tốc độ hiệu quả và xu hướng mỗi nền sản xuất cụ thể đi ngược lại các quan
hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu ảnh hưởng tiêu cực đến kinh
tế xã hội.
 Quan hệ phân phối sản xuất sản phẩm: tức là quan hệ chặt chẽ với nhau cùng mục tiêu
chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng
được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng nâng cao phúc lợi cho người lao động.
Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức quản lý, trong hệ thống quan hệ sản xuất, các
quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức
to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy
tốc độ và nhịp điệu của sản xuất nhưng ngược lại nó có khả năng kìm hãm sản xuất kìm
hãm sự phát triển của xã hội.

Người lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất vì người lao động là chủ thể
của quá trình sản xuất, là người tạo ra và sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm. Người lao
động cũng có năng lực sáng tạo và chinh phục tự nhiên
Câu 4. Tại sao trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng thực tế khách quan đồng thời phải phát huy tính năng động sáng tạo chủ
quan? Hãy phân tích luận điểm trên thông qua 1 ví dụ thực tế của bản thân em.
Vì nhận thức là một nhu cầu tự nhiên, khách quan của con người.
Thế giới hiện thực vận động phát triển theo những quy luật khách quan của nó được phản ánh
vào ý thức mới có nội dung của ý thức mang tính lịch sử, xã hội. Đây là yếu tố quyết định nội
dung nhận thức phản ánh. Ngoài ra hoạt động thực tiễn là động lực quyết định tính phong phú
của ý thức cải biến tự nhiên và xã hội. Trong hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con
người, là cơ sở để hình thành và phát triển ý thức. Xã hội ngày càng phát triển thì trò nhận thức
ngày càng to lớn cùng với sự tiến bộ của sản xuất và đời sống, nhận thức của con người dần dần
đạt đến trình độ cao hơn trong việc giải thích thế giới một cách hệ thống, lôgích và nhân quả...
Nhận thức là dạng lý luận tổng hợp, giải quyết tất cả các vấn đề lý luận chung về tự nhiên, xã hội
và tư duy. Do nhu cầu của sự tồn tại, con người không thỏa mãn với các tri thức riêng lẻ, cục bộ
về thế giới, càng không thỏa mãn với cách giải thích của các tín điều và giáo lý tôn giáo. Thực
tiễn xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan để làm cơ sở cho mọi hoạt động, đời sống, sinh
hoạt của con người
Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thếgiới khách quan vào bộ óc
con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó. Nên
từ nhận thức đúng đắn, con người sẽ nhìn ra được thực tiễn của thực tại khách quan sẽ trở nên
như thế nào, sẽ phát triển theo chiều hướng nào trong thực tại và tương lai gần.
=> Do đó, khi nói Nhận Thức và Thực Tiễn đều xuất phát từ Thực Tại Khách Quan là chính xác.
Ý nghĩa của nguyên tắc tôn trọng khách quan
Trong hoạt động thì chúng ta phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, mọi chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật, mục tiêu, phương hướng thì đều phải xuất phát từ thực tế khách
quan. Tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con
người.
Lấy khách quan làm nguyên nhân để đưa ra các phương hướng giải quyết các vấn đề phù hợp
phản ánh trung thực nội dung của bản chất sự vật hiện tượng không được lấy ý kiến chủ quan,
định kiến của mình áp đặt cho sự vật hiện tượng Bên cạnh đó sinh viên phải lấy hiện thực khách
quan làm cơ sở để đưa ra đường lối, chủ trương, kế hoạch học tập, mục tiêu cho phù hợp. Cần
khái quát, tổng kết hoạt động thực tiễn để thường xuyên nâng cao năng lực nhận thức, năng lực
chỉ đạo thực tiễn, chống tư tưởng thụ động, ngồi chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh và điều kiện vật chất.
Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố con người để cải tạo thế giới khách
quan và tạo ra động lực hoạt động cho con người bằng cách quan tâm tới đời sống kinh tế, lợi ích
thiết thực của quần chúng, phát huy dân chủ rộng rãi
Đánh giá đúng thực tế
Phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan đã và đang có làm cơ sở cho mọi hoạt động của
mình. Không được lấy ý kiến chủ quan làm quan điểm xuất phát. Khi đề ra mục tiêu, nhiệm vụ
và các biện pháp thực hiện người lãnh đạo phải nắm chắc tình hình thực tế khách quan có như
vậy thì mới nêu ra mục đích chủ trương và sẽ đi đến thắng lợi trong hoạt động thực tiễn. Phát
phát huy vai trò năng động sáng tạo của nhân tố chủ quan trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn sinh viên phải xuất phát từ thực tế khách quan lấy thực tế khách quan làm căn cứ
cho mọi hoạt động của mình
Câu 1. Có phải chỉ cần thông qua 1 hoặc vài hiện tượng đơn lẻ thì có thể kết luận được bản
chất của 1 sự vật hiện tượng nào đó không? Tại sao? Cho ví dụ?

Bản chất và hiện tượng đều tồn tại một cách khách quan. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-
Lenin quan điểm duy tâm không thừa nhận hoặc chưa hiểu đúng sự tồn tại khách quan của bản
chất và hiện tượng, quan điểm của họ cho rằng bản chất không tồn tại thật sự, bản chất chỉ là tên
gọi trống không do con người đặt ra, tồn tại trong suy nghĩ chủ quan của con người, họ chỉ thừa
nhận bản chất là những thực thể tinh thần.
Với chủ nghĩa duy vật biện chứng của Triết học Mác-Lenin đưa ra quan điểm cả bản chất và hiện
tượng đều tồn tại khách quan, đây là cái vốn có của sự vật không do ai sáng tạo ra, bởi vì sự vật
nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định, những yếu tố này liên kết với nhau bằng
những mối liên hệ khách quan, đan xen, chằng chịt, trong đó có những mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định, những mối liên hệ tất nhiên đó tạo thành bản chất của sự vật. Vì vậy bản chất
chính là sự tồn tại khách quan gắn liền với sự vật còn hiện tượng là biểu hiện bên ngoài của bản
chất, là khách quan không phải do cảm giác chủ quan của con người quyết định.
 Bản chất và hiện tượng có tính thống nhất
Bản chất luôn được bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất
ở một mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần tuý ngoài hiện tượng, đồng thời
không có hiện tượng nào không biểu hiện bản chất. Bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau,
mỗi bản chất được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng, bản chất như thế nào tương ứng với
hiện tượng như vậy, mỗi bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau, khi bản
chất thay đổi thì hiện tượng đó cũng thay đổi theo và khi bản chất biến mất thì hiện tượng sẽ
chấn dứt tồn tại.
 Bản chất và hiện tượng có tính mâu thuẫn
+ Bản chất và hiện tượng bao hàm sự mâu thuẫn
+ Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật nhưng
hiện tượng lại phản ánh những cái riêng, cái cá biệt.
+ Bản chất biểu hiện cái bên trong, còn hiện tượng biểu hiện cái bên ngoài, bản chất không chỉ
biểu lộ rõ ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau.
+ Hiện tượng chỉ biểu hiện một phần của bản chất. Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra nhiều
hiên tượng khác nhau tuỳ vào sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh, hiện tượng phong phú hơn
bản chất, tuy nhiên bản chất sâu sắc hơn hiện tượng, bản chất mang tính ổn định còn hiện tượng
là thường xuyên biến đổi.
Ví dụ: Khi đưa một cái đũa vào cốc nước, ta thấy chiếc đũa như bị gãy nhưng thực tế không phải
vậy, do hiện tượng khúc xạ ánh sáng mà ta thấy hiện tượng chiếc đũa bị gãy khi để vào cốc
nước.

Câu 2. Tại sao nói thế giới tôn giáo phù hợp và tương đồng với thế giới quan duy tâm? Cho
ví dụ?

Thế giới quan tôn giáo là loại hình mà niềm tin của tôn giáo đóng vai trò chủ yếu, phần tín
ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thực và cái thần vượt trội hơn cái người. Thế giới quan
duy tâm cho rằng bản chất của thế giới là tinh thần, duy tâm là cái có trước và nó sẽ quyết định
thế giới của con người và vật chất. Có thể nói rằng thế giới quan tôn giáo phù hợp và tương đồng
với thế giới quan duy tâm vì cả hai đều coi tinh thần là yếu tố quan trọng nhất trong cuộc sống.

Một ví dụ về sự phù hợp và tương đồng này là niềm tin vào sự tồn tại và sức mạnh của lực lượng
siêu nhiên, thần thánh trong các tôn giáo. Đây cũng là một đặc điểm của thế giới quan duy tâm
khách quan, coi tinh thần là một ý niệm tuyệt đối

Câu 3. Có phải bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay
không? Tại sao? Cho ví dụ minh họa?
a. Chất và lượng có mối quan hệ thống nhất với nhau.
- Chất và lượng không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng bởi vì mỗi sự
vật hiện tượng đều phải phải có tính quy định về chất lại vừa vừa có tính quy định về lượng, nên
không có chất thiếu lượng và ngược lại.
- Tuy nhiên không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đển sự thay đổi về chất. Ở một
giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay
đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là Độ.(Độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống
nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi
căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là
nó, chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.)
Vd: Người sống lâu nhất trên thế giới theo Guinness công nhận có tuổi thọ là 118 tuổi. Như vậy
giới hạn từ 0→118 năm là “độ” của con người xét về mặt tuổi.
b. Lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất.
- Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi lượng
thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó
chính là Điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất
yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới(sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút). Đây chính là bước
nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Vd: 0°C, 100°C, 118 tuổi là điểm nút,...
=> Không phải bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay. Chỉ khi
lượng thay đổi đến giới hạn nhất định (đến độ) mới dẫn đến sự thay đổi về chất1.
Ví dụ, khi nước đun sôi, nhiệt độ của nước là lượng, còn trạng thái của nước là chất. Khi nhiệt độ
của nước tăng lên từ 0°C đến 100°C, trạng thái của nước không thay đổi, chỉ là nước lỏng.
Nhưng khi nhiệt độ của nước đạt 100°C, trạng thái của nước chuyển từ lỏng sang khí

Câu 4. Hình thái kinh tế xã hội là gì? Vì sao trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, cần phải
xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng đồng thời phải tiến hành đổi mới chính trị và
các mặt khác của đời sống xã hội.

● Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội: Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa
duy vật lịch sử (hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng
giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với
một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được
xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự
thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt
cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái
kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.

Quá trình đổi mới ở Việt Nam là một sự nghiệp cách mạng to lớn của nhân dân Việt Nam vì
mục tiêu hoà bình, độc lập, dân chủ và giàu mạnh1. Đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng đồng thời
phải tiến hành đổi mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội vì các mặt này có liên quan
và tác động lẫn nhau2. Đổi mới chính trị và xã hội cũng là cách để phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân, tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế
quốc tế

Câu 1. Lực lượng sản xuất có vai trò gì trong đời sống xã hội?
2.1. Vai trò của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất quan trọng trong đời sống và xã hội, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Sự phát triển của nó phụ thuộc vào quan hệ sản xuất, tiến bộ của người lao động,
khoa học kỹ thuật hiện đại và các yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, dân số, thời đại, thể chế
chính trị. Khoa học công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
a. Lực lượng sản xuất quyết định lượng và chất
Lực lượng sản xuất đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định lượng và chất của đời sống xã
hội. Lực lượng sản xuất tạo ra của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu của con người, từ tư liệu sản
xuất đến công cụ lao động, từ đơn giản như đồ đá đến phức tạp, hiện đại như máy móc thông
minh. Theo quy luật phát triển của xã hội, sản xuất không ngừng phát triển và mâu thuẫn với
những cái cũ, lạc hậu, kìm hãm nó. Quan hệ sản xuất lỗi thời sẽ được thay thế bằng một quan hệ
sản xuất mới tiên tiến hơn. Sự phát triển của sản xuất đã đưa những chú vượn người trở thành
người hiện đại có những bộ não thiên tài như ngày hôm nay. Đây chính là sự đóng góp về chất
của lực lượng sản xuất đối với đời sống và xã hội. Trong quá trình đấu tranh cho sự phát triển
của xã hội, Lê-nin đã nói: “Suy cho cùng phương thức sản xuất này thắng phương thức sản xuất
kia chính là ở chỗ tạo ra năng suất cao hơn”.
b. Lực lượng sản xuất là phương tiện tiến hành sản xuất vật chất
C.Mác nhận thấy rằng con người chế tạo công cụ lao động để thỏa mãn nhu cầu cơ bản. Sự tồn
tại và phát triển của loài người không phải do phép màu, mà do sự phát triển của các phương
thức sản xuất trong lịch sử. Con người là nhân tố quyết định của lực lượng sản xuất, và chính lực
lượng sản xuất này đóng góp vào sự phát triển xã hội. Lao động là không thể thiếu trong sự tồn
tại và phát triển của xã hội loài người. Từ những công cụ lao động thô sơ đến những máy móc
hiện đại, tất cả đều do con người tạo ra. Vai trò của con người không thể phủ nhận trong sản xuất
và xã hội.
2.2. Lực lượng sản xuất là phương tiện tiến hành sản xuất vật chất
Theo C.Mác, con người tồn tại và phát triển nhờ chế tạo công cụ lao động, hay lực lượng sản
xuất, không phải do sự can thiệp của thần linh hay vĩ nhân. Sự phát triển của loài người dựa trên
sự tiến hóa của các phương thức sản xuất trong lịch sử.
a. Vai trò của yếu tố con người đối với sự phát triển xã hội
Con người, qua lao động và sáng tạo, là chủ thể quyết định của sự phát triển xã hội và lực lượng
sản xuất. Họ không chỉ tạo ra công cụ lao động từ thô sơ đến hiện đại, mà còn thúc đẩy sự tiến
bộ trong mọi lĩnh vực của xã hội.
b. Vai trò của nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ và máy móc tăng năng suất lao động, thúc đẩy “kinh tế tri thức” và phát
triển xã hội. Máy móc hiện đại giúp con người tập trung phát triển toàn diện.
2.3. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất làm cho xã hội
chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế cao hơn
Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác, sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội và
phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của xã hội. Xã hội không phải là sự kết hợp
ngẫu nhiên của các cá nhân, mà là một cơ thể sống động với quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản
nhất. Sự vận động, phát triển của xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, diễn ra theo các quy luật
khách quan

Câu 2. Phát triển là gì? Phát triển và tăng trưởng khác nhau như thế nào? Cho ví dụ.

Phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất
cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn. Như vậy, phát triển là vận động nhưng không phải mọi vận
động đều là phát triển, mà chỉ vận động nào theo khuynh hướng đi lên thì mới là phát triển. Vận
động diễn ra trong không gian và thời gian, nếu thoát ly chúng thì không thể có phát triển. Do
vậy, ở phương Tây trước Kant chưa có quan niệm về phát triển, vì trước đó người ta mới chỉ suy
tư về không gian mà chưa đặt vấn đề suy tư sâu về thời gian. Còn ở phương Đông với văn hóa
coi trọng truyền thống, mà Nho giáo là điển hình, thì quan niệm phát triển không hẳn hướng về
tương lai mà thường hướng về quá khứ. Một xã hội lý tưởng không phải là xã hội sẽ có mà là đã
có. Như vậy, nếu người phương Tây xem vật chất vận động trong thời gian tuyến tính, thì người
phương Đông lại xem vật chất vận động trong thời gian tuần hoàn. Xét từ cách tiếp cận phương
Tây thì phương Đông không có khái niệm “phát triển”, mà chỉ có khái niệm “tăng trưởng”

Phát triển là quá trình biến đổi theo chiều hướng nâng cao về chất của sự vật, còn tăng trưởng là
quá trình biến đổi theo chiều hướng tăng lên đơn thuần về lượng của sự vật, nó không phản ánh
quá trình biến đổi theo chiều hướng nâng cao về chất của sự vật. Phát triển và tăng trưởng có mối
liên hệ tất yếu với nhau, nhưng không phải lúc nào cũng đồng nhất và đồng bộ

Ví dụ, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế: tăng trưởng kinh tế là điểu kiện
quan trọng để phát triển kinh tế và ngược lại, sự phát triển kinh tế lại tạo ra điều kiện cho sự tăng
trưởng kinh tế có thể đạt được sự tăng trưởng bền vững và với một quy mô, tốc độ mới lớn hơn.

Câu 3. Tri thức là gì? Vì sao nói tri thức là phương thức tồn tại của ý thức? Tri thức có vai
trò gì trong hoạt động thực tiễn, lấy một ví dụ từ nhận thức và hoạt động của bản thân để
chứng minh điều này?

Tri thức là hiểu biết, kiến thức của con người về thế giới. Nói đến tri thức là nói đến học vấn, tri
thức là phương thức tồn tại của ý thức. Sự hình thành và phát triển của ý thức có liên quan mật
thiết với qúa trình con người nhận biết và cải tạo thế giới tự nhiên. Con người tích lũy được càng
nhiều tri thức thì ý thức thật cao, càng đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo thế giới có hiệu quả
hơn. Tính năng động của ý thức nhờ đó mà tăng lên. Nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản, quan
trọng nhất của ý thức có nghĩa là chống lại quan điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình cảm, niềm
tin và ý chí. Quan điểm đó là biểu hiện chủ quan, duy ý chí của sự tưởng tượng chủ quan. Tuy
nhiên cũng không thể coi nhẹ nhân tố tình cảm, ý chí. Ngược lại nếu tri thức biến thành tình cảm,
niềm tin, ý chí của con người hoạt đọng thì tự nó không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực

1.1. Trong 3 yếu tố tạo nên ý thức, yếu tố nào quan trọng nhất, vì sao?
Như Triết học của chủ nghĩa Mac-Lenin khẳng định: ý thức là một phạm trù triết học dùng để chỉ
toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn ra trong não người, hình thành trong
quá trình lđ và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ. Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng
động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Ý thức gồm các yếu tố cấu thành như: tình cảm, ý chí, tri thức. Trong đó, tri thức là yếu tố
quan trọng nhất. Như chúng ta đã biết, tri thức (sự hiểu biết về các lĩnh vực của đời sống xã hội)
là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, tái hiện trong tư duy
những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng bằng ngôn ngữ. Từ đó ta có
thể nhận thấy được :
+ Tri thức phương thức tồn tại cơ bản của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển.
+ Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức
+ Nếu ý thức mà không bao hàm tri thức, không dựa vào tri thức thì sự trừu tượng trống rỗng,
không giúp ích thực tiễn gì cho con người
+ Tri thức định hướng sự phát triển và quy định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác cấu thành
ý thức
+ Mọi hoạt động của con người đều có tri thức , được tri thức định hướng Bên cạnh đó, tri thức
có nhiều loại (về tự nhiên, xã hội, con người), nhiều cấp độ (Cảm tính, kinh nghiệm tiền khoa
học), tri thức khoa học (lý tính, lý luận, khoa học),.. Nên ngày nay, vai trò của tri thức đối với sự
phát triển kinh tế xã hội là điều không thể chối cãi được. Tuy nhiên nếu tri thức không có sự
đồng hành và hỗ trợ của niềm tin và ý chí thì vai trò đối với đời sống hiện thực cũng hạn chế hơn
rất nhiều nên chúng ta cũng không thể phủ nhận tầm quan trọng các yếu tố còn lại cấu thành ý
thức.
1.2. Vì sao ý thức có thể tác động trở lại vật chất?
==>Do ý thức có tính độc lập tương đối, tính năng động sáng tạo nên ý thức tác động trở lại vật
chất. Cụ thể như sau:
+ Ý thức phản ánh thế giới vật chất vào bộ óc con người, do vật chất sinh ra nhưng khi đã ra đời
thì ý thức có đời sống riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc máy móc vào
vật chất.
+ Ý thức tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức
chính là của con người nên nói đến vai trò của ý thức chính là nói đến vai trò của con người. Nhờ
hoạt động thực tiễn, ý thức tạo ra những điều kiện, hoàn cảnh giúp con người, phục vụ cho đời
sống con người.
+ Bản thân ý thức không trực tiếp làm thay đổi bất cứ gì trong hiện thực khách quan, mà nó nhận
thức hiện thực khách quan -> xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu ý chí để hoạt động của con
người có thể tác động trở lại vật chất.
 Xét về mặt tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển theo quy luật
khách quan của mình nếu phản ánh đúng hiện thực, có những lý luận đúng đắn.
 Song, nếu xét về mặt tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của
vật chất khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy luật vận động khách quan của vật
chất.
+ Xã hội càng phát triển, vai trò của ý thức càng to lớn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của
tri thức khoa học, tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng. Một vài ví dụ có
thể minh chứng cho việc ý thức có thể tác động trở lại vật chất như:
+ Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt độ hơn 10000C, người ta tạo ra các
nhà máy gang thép để sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng phương pháp thủ công cổ
xưa
+ Từ nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước. Từ sau Đại hội VI, đảng ta chuyển nền
kinh tế từ tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường, để sau gần 30 năm bộ mặt nước ta đã
thay đổi hẳn.
+ Bạn A bị hack nick facebook , kẻ gian đã dùng nick của bạn A để nhắn tin giả mượn tiền bạn
thân của A là B , vì nhận thức sai rằng đó đúng là bạn mình và đang cần giúp đỡ nên B đã
chuyển tiền qua theo số tài khoản mà kẻ gian cung cấp.
+ Em là học sinh rất yếu anh văn nhưng ý thức được tầm quan trọng của việc học tiếng Anh
trong cuộc sống và công việc sau này nên xem đó là mục tiêu để phấn đấu, cải thiện thì ý thức sẽ
tác động vào chủ thể để cố gắng học hành đạt được mục tiêu.

Câu 4. Vì sao nói sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên

1. Sự vận động, phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử
chịu sự tác động, chi phối của các quy luật xã hội khách quan.
– Mỗi hình thái kinh tế – xã hội nhất định có các thành tố tương ứng là lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Các thành tố đó tác động qua lại với
nhau theo những quy luật xã hội khách quan: Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng.
– Xét đến cùng, sự thay thế hình thái kinh tế – xã hội này bằng một hình thái kinh tế – xã hội
khác bắt nguồn sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức một mức độ nhất định mà quan hệ sản xuất hiện tồn
trở nên mâu thuẫn, chật hẹp, trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất đó, thì tất yếu sẽ diễn ra
cách mạng xã hội để xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp.
Khi đó cơ sở hạ tầng mới cũng xuất hiện, kéo theo kiến trúc thượng tầng mới tương ứng. Và
đương nhiên, hình thái kinh tế – xã hội mới xuất hiện thay thế cho hình thái kinh tế – xã hội cũ.
Như thế, sự phát triển, thay thế nhau từ thấp lên cao của các hình thái kinh tế – xã hội chịu sự tác
động, chi phối của các quy luật nội tại: Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản
xuất, quy luật cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng.
Rõ ràng, đây là quá trình lịch sử – tự nhiên. Tức là quá trình này không phải ngẫu nhiên. Tuy là
quá trình diễn ra thông qua hoạt động của con người (tức là mang tính “lịch sử”), nhưng không
phải do con người, vĩ nhân hoặc đấng siêu nhiên nào đó sắp đặt, mà là quá trình tự thân, theo quy
luật khách quan (tức là mang tính “tự nhiên”).
2. Quy luật chi phối các hình thái kinh tế – xã hội là quy luật xã hội, thể hiện thông qua
hoạt động của con người, nhưng không vì thế mà quy luật đó không mang tính khách
quan.
Quy luật xã hội không những phụ thuộc vào ý thức, ý chí con người mà ngược lại, khi xét đến
cùng, quy luật xã hội quyết định, chi phối cả ý thức, ý chí của con người. Mỗi hình thái kinh tế –
xã hội được coi như một cơ thể xã hội phát triển theo những quy luật vốn có của nó. Sống trong
mỗi hình thái kinh tế – xã hội, con người làm ra lịch sử của mình, đó là xã hội. Nhưng xã hội của
con người vận động theo quy luật khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người, không phụ thuộc vào vĩ nhân hay mệnh trời.
– Lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự tiến hóa của các hình thái kinh tế – xã hội. Quá trình tiến
hóa là quá trình kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế – xã hội như: Xã hội cộng sản nguyên thủy
được kế tiếp bằng xã hội chiếm hữu nô lệ, sau đó được kế tiếp bằng xã hội phong kiến, tiếp đó là
sự kế tiếp của xã hội tư bản chủ nghĩa… Quá trình tiến hóa đó là khách quan, là quá trình lịch sử
– tự nhiên.
3. Lịch sử phát triển ở một số quốc gia có thể có những đặc trưng riêng biệt, nhưng sự
riêng biệt đó vẫn là một bộ phận của quá trình lịch sử – tự nhiên.
– Khi nghiên cứu quy luật phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, C. Mác đi đến kết luận
khoa học rằng sẽ xuất hiện một hình thái kinh tế – xã hội mới thay thế cho hình thái tư bản chủ
nghĩa: Đó là hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là hình thái xã hội
chủ nghĩa.
Với sự ra đời của nước Nga Xô-viết sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, nhân loại đã được
kiểm chứng kết luận của Mác. Sự sụp đổ của Liên Xô không phải là sụp đổ của tư tưởng xã hội
chủ nghĩa mà là sự thất bại của một mô hình không thích hợp. Mô hình phát triển của Trung
Quốc đã phần nào đã chứng minh điều này.
– Như thế, nếu xem xét ở phạm vi toàn nhân loại thì sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã
hội trên thực tế đã theo một tuần tự từ thấp lên cao, tuần tự của quá trình lịch sử – tự nhiên.
Song, nếu chỉ xét riêng ở phạm vi một quốc gia riêng lẻ, thì do các yếu tố lịch sử, không gian và
thời gian, không phải quốc gia nào cũng phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế – xã hội một
cách tuần tự, mà có thể bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế – xã hội nào đó
Ví dụ: Việt Nam và Lào là hai quốc gia đã bỏ qua hình thái tư bản chủ nghĩa để quá độ từ hình
thái phong kiến lên hình thái xã hội chủ nghĩa. Rõ ràng, một số quốc gia như Việt Nam, Lào…
dù là quốc gia riêng biệt nhưng vẫn là bộ phận thuộc nhân loại, gắn với nhân loại. Sự bỏ qua
hình thái tư bản chủ nghĩa ở các quốc gia đó không hề mâu thuẫn với tính tuần tự của các hình
thái kinh thế – xã hội trên toàn nhân loại.
Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của C. Mác có ý nghĩa khái quát đối với toàn nhân loại, nên
nếu chỉ lấy hoàn cảnh đóng khung ở một quốc gia riêng biệt để minh họa phản bác thì minh họa
đó không mang có giá trị.
– Sở dĩ có hiện tượng “phát triển rút ngắn”, bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế – xã hội
ở một số quốc gia là vì có quy luật kế thừa của lịch sử loài người.
Quy luật kế thừa luôn cho phép một cộng đồng người vốn có xuất phát điểm thấp, cơ sở kinh tế
lạc hậu có thể giao lưu, hợp tác, kế thừa từ những cộng đồng người khác đang có trình độ phát
triển cao hơn.
Trong lịch sử nhân loại thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất vật
chất, kỹ thuật, văn hóa, chính trị… Nhờ có quá trình giao lưu, hợp tác với các trung tâm đó, nhất
là trong bối cảnh của toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0),
một số nước vốn có xuất phát điểm thấp có thể rút ngắn tiến trình lịch sử mà không phải lặp lại
tuần tự các quá trình đã qua của lịch sử các hình thái kinh tế – xã hội.
– Trong thời đại ngày nay, chiến lược phát triển rút ngắn để đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số
quốc gia như Việt Nam chẳng những không mâu thuẫn với quy luật phát triển theo một quá trình
lịch sử – tự nhiên, mà còn là biểu hiện sinh động của quá trình lịch sử – tự nhiên ấy.
Chỉ khi người ta “rút ngắn” quá trình phát triển một cách duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan
thì lúc đó chiến lược “rút ngắn” mới đối lập với quá trình lịch sử – tự nhiên. Có thể nói, cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0) và bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay chính là cơ
hội, là điều kiện thuận lợi, tạo cơ sở thực tế để Việt Nam thực hiện thành công công cuộc Đổi
Mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sự vận động, phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử chịu sự
tác động, chi phối của các quy luật xã hội khách quan.
 HTKT-XH vận động, phát triển theo các quy luật khách quan, vừa bị chi phối bởi các quy luật
phổ biến, vừa bị chi phối bởi các quy luật riêng, đặc thù: quy luật về sự phù hợp của QHSX với
trình độ ptriển của LLSX, quy luật CSHT quyết định KTTT và các quy luật khác.
– Mỗi hình thái kinh tế – xã hội nhất định có các thành tố tương ứng là lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Các thành tố đó tác động qua lại với nhau theo những quy luật xã hội khách quan: Đó là quy luật
về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ
sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
– Xét đến cùng, sự thay thế hình thái kinh tế – xã hội này bằng một hình thái kinh tế – xã hội
khác bắt nguồn sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức một mức độ nhất định mà quan hệ sản xuất hiện tồn
trở nên mâu thuẫn, chật hẹp, trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất đó, thì tất yếu sẽ diễn ra
cách mạng xã hội để xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp. Khi đó cơ sở hạ tầng mới cũng
xuất hiện, kéo theo kiến trúc thượng tầng mới tương ứng. Và đương nhiên, hình thái kinh tế – xã
hội mới xuất hiện thay thế cho hình thái kinh tế – xã hội cũ. Như thế, sự phát triển, thay thế nhau
từ thấp lên cao của các hình thái kinh tế – xã hội chịu sự tác động, chi phối của các quy luật nội
tại: Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng sinh ra
kiến trúc thượng tầng. Rõ ràng, đây là quá trình lịch sử – tự nhiên. Tức là quá trình này không
phải ngẫu nhiên. Tuy là quá trình diễn ra thông qua hoạt động của con người (tức là mang tính
“lịch sử”), nhưng không phải do con người, vĩ nhân hoặc đấng siêu nhiên nào đó sắp đặt, mà là
quá trình tự thân, theo quy luật khách quan (tức là mang tính “tự nhiên”).
Nói sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên có bác bỏ vai trò
con người hay không tại sao
Không, khi nói rằng sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, không
có nghĩa là bác bỏ vai trò của con người. Thực tế, quan điểm này không phủ nhận vai trò tích cực
và quan trọng của con người trong quá trình phát triển xã hội.

Quan điểm này, đặc biệt được phổ biến trong triết học lịch sử của Karl Marx, không phủ nhận
vai trò của con người mà thực chất là nhấn mạnh vào sự tương tác phức tạp giữa con người và
điều kiện vật chất xã hội. Điều này có thể được giải thích như sau:

1. Con người là lực lượng chủ động: Trong quan điểm của Marx, con người không phải là
đối tượng chịu đựng, mà ngược lại, họ là lực lượng chủ động tham gia vào quá trình đổi
mới, sản xuất, và đấu tranh xã hội. Con người đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra và
biến đổi cơ sở hạ tầng kinh tế và hình thái tư tưởng của xã hội.
2. Quá trình sản xuất và lực lượng sản xuất: Marx nhấn mạnh quá trình sản xuất và lực
lượng sản xuất là yếu tố quyết định trong sự phát triển của xã hội. Con người không chỉ
là người lao động mà còn là người sáng tạo và quản lý quá trình sản xuất. Sự phát triển
của công nghiệp, công nghệ, và tổ chức sản xuất phản ánh sự tương tác giữa con người và
môi trường sản xuất.
3. Đấu tranh giai cấp: Marx và Engels nhìn nhận sự đấu tranh giai cấp như một lực động
chủ yếu trong lịch sử xã hội. Con người, thông qua đấu tranh và tương tác xã hội, đóng
vai trò quan trọng trong việc thay đổi hình thái kinh tế xã hội để đạt được lợi ích và
quyền lực

Câu 1. (a)Thế nào là chủ nghĩa duy vật? (b)Tại sao chủ nghĩa duy vật biện chứng lại là
hình thức phát triển cao nhất trong các loại hình duy vật?

(a). Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trớc, ý thức có sau; thế giới vật chất tồn tại một
cách khách quan, độc lập với ý thức con ngời và không do ai sáng tạo ra; còn ý thức là sự phản
ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con người; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có
vật chất.
Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và cho đến nay, lịch sử phát triển của nó luôn
gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, tồn tại dới nhiều hình thức khác nhau.
+ Chủ nghĩa duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích
thế giới. Hạn chế của nó là còn mang tính trực quan, trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật
chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể. Ví dụ nh quan niệm của Talét,
Hêraclit, Đêmôcrit...
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII: Do ảnh hởng của Cơ học cổ điển nên chủ
nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của phơng pháp t duy siêu hình, máy móc -
phơng pháp nhìn nhận thế giới trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện
thực, nhng CNDV siêu hình vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại thế giới
quan duy tâm và tôn giáo. Ví dụ nh quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp thế
kỷ XVIII.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế
kỷ XIX, sau đó đợc V.I. Lênin tiếp tục phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết
học trớc đó và vận dụng các thành tựu của khoa học đơng thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng
ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục đợc những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trớc đó, thể hiện
là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực
mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lợng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy
(b) CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG: là thế giới quan triết học khoa học, một trong
những bộ phận hợp thành của triết học macxit; do Mac, Enghen sáng lập từ những năm 40 thế kỉ
19, được Lênin và những người macxit khác phát triển thêm. Triết học của chủ nghĩa Mac là chủ
nghĩa duy vật. Nhưng Mac không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật của thế kỉ 18 mà đưa nó lên một
trình độ cao hơn bằng cách tiếp thu có phê phán những thành quả của triết học cổ điển Đức, nhất
là của hệ thống triết học Hêghen, với thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về
mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hêghen là phép biện
chứng duy tâm. Vì vậy, để sử dụng phép biện chứng đó, Mac, Enghen đã cải tạo nó, đặt nó trên
cơ sở duy vật. Chính trong quá trình cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen và phát triển
tiếp chủ nghĩa duy vật, trên cơ sở khái quát những thành tựu khoa học tự nhiên và thực tiễn xã
hội giữa thế kỉ 19, Mac, Enghen đã sáng tạo phép biện chứng duy vật.

1/ Các nguyên lí của chủ nghĩa duy vật đã được giải thích một cách biện chứng. Ý thức là sản
phẩm của vật chất có tổ chức cao (bộ óc con người) và là sự phản ánh tự giác, tích cực các sự vật
và quá trình của thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên, khác
với chủ nghĩa duy vật cũ, CNDVBC không chỉ khẳng định sự phụ thuộc của ý thức vào vật chất
mà còn thừa nhận tác dụng tích cực trở lại của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động của
con người.
2/ Các nguyên lí của phép biện chứng được giải thích trên lập trường duy vật:
a) mỗi kết cấu vật chất có muôn vàn mối liên hệ qua lại với các sự vật và hiện tượng, quá trình
khác của hiện thực;
b) tất cả các sự vật cũng như sự phản ánh của chúng vào trong đầu óc con người đều ở trạng thái
biến đổi, phát triển không ngừng.
3/ Phép biện chứng duy vật còn bao gồm lí luận nhận thức. Nhận thức là sự phản ánh giới tự
nhiên bởi con người, nhưng đó không phải là sự phản ánh đơn giản, trực tiếp, hoàn toàn, mà là
quá trình tư duy không ngừng tiến gần đến khách thể. Cơ sở, động lực và mục đích của toàn bộ
quá trình này là thực tiễn.

Câu 2. Phân tích luận điểm ý thức không chỉ phản ánh mà còn cải tạo thế giới
Ý thức không chỉ phản ánh, mà còn cải tạo thế giới bởi vì ý thức do thế giới khách quan quy định
tuy nhiên ý thức lại là hình ảnh chủ quan. Là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật
lý, vật chất như chủ nghĩa duy tâm quan niệm.
Ý thức không chỉ phản ánh, mà còn cải tạo thế giới cũng có nghĩa là khi mà mắt ta nhìn thấy
những hình ảnh sự vật sự việc quanh ta sau đó bộ não sẽ làm việc sẽ phân tích và nhìn nhận. Tuy
nhiên thì sự cảm nhận và nhìn nhận này lại chịu phụ thuộc nhiều vào ý thức chủ quan của người
cảm nhận con người sáng tạo thế giới. Bộ não của mỗi chúng ta là khác nhau có nên ý thức của
mỗi người cũng là khác nhau.
Cùng một sự việc xảy ra thì mỗi người sẽ có những cảm nhận và đánh giá ở những mức độ khác
nhau đó chính là ý thức của mỗi người. Và ý thức của mỗi con người là hoàn toàn khác nhau tùy
thuộc vào bộ não của mỗi người, quá trình lao động của mỗi người…. Tất cả những thứ đó làm
cho ý thức của mỗi người cũng khác nhau.
Có hai hướng mà sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất có thể xảy ra, đó là:tích cực và
tiêu cực. Khi con người có nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tìnhcảm cách mạng, có nghị
lực, có ý chí thì lúc đó hành động của con người sẽ đượccoi là phù hợp với các quy luật khách
quan. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Conngười còn phải có năng lực vượt qua những thử thách
trong quá trình hiện thức hóamục tiêu của mình. Nếu hai điều trên được con người kết hợp ăn ý
thì cuối cùngthế giới được cải tạo – đây mới là sự tác động tích cực của ý thức. Mặt khác, nếu
ýthức của con người phản ánh khồn đúng với hiện thực khách quan, bản chất, quyluật khách
quan thì ngay từ đầu, hướng đi này của con người đã đi ngược lại vớicác quy luật khách quan, từ
đó sẽ dẫn đến tác động tiêu cực đối với hoạt động thựctiễn, đối với hiện thực khách quan
Ví dụ: Cùng học tập trong một môi trường giáo dục như nhau, sống trong một môi trường như
nhau nhưng những đứa trẻ lại có những nhận thức khác nhau và sự phản ánh thế giới của chúng
cũng khác nhau. Cùng được học ở một lớp nhưng do bộ não tiếp nhận và phân tích khác nhau
nên khả năng tiếp thu của mỗi người khác nhau dó đó có sự khác nhau giữa học sinh giỏi và học
sinh kém.
Hoặc là cùng nhìn vào một sự việc cụ thể đó là cảnh tan trường mà mỗi học sinh lại có những
cảm nhận khác nhau và có những quan điểm khác nhau về việc này. Và đưa ra những nhận xét
về hiện tượng khách quan nhưng lại mang tính chủ quan vào trong đó.

Câu 3. Tồn tại xã hội là gì? Ý thức xã hội là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội?
- Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với tự nhiên và giữa con
người với nhau.
- Trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người với
nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội
loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội
VD: Thời tiền sử, các bộ lạc săn bắt, hái lượm, dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công cụ còn rất
thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kỹ thuật chế tác, có nhiều loại hình ổn định nhằm
phục vụ đời sống. Thời kì này con người nhận biết và tận dụng nhiều loại nguyên vật liệu như
đá, đất sét, xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đó điều kiện khí hậu thuận lợi cộng với sự đa dạng
của các loài động thực vật tạo nên nguồn tài nguyên rất phong phú.

- Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng
cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã
hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Ví dụ: Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa; truyền thống hiếu học
được truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra Việt Nam có hệ thống tư tưởng lớn và chi phối
dân tộc Việt trong nhiều thế kỷ, nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo.
Vì sao ở Việt Nam hiện nay tư tưởng sản xuất nhỏ vẫn còn phổ biến? Làm thế nào để cải
tạo tư tưởng đó?
Tư tưởng sản xuất nhỏ là sự phản ánh đời sống xã hội trong điều kiện nền kinh tế chủ yếu là sản
xuất nông nghiệp lạc hậu, sống theo lối tự cung, tự cấp, tự lo
Tư tưởng sản xuất nhỏ đã tồn tại trong nhân dân ta hàng ngàn đời, người nông dân không dám từ
bỏ ruộng đất, mọi sinh hoạt đều bó hẹp trong luỹ tre làng, luôn giữ nguyên cách thức sản xuất
như hàng đời cha ông để lại, bảo thủ và không chịu đổi mới, ít có điều kiện giao lưu với bên
ngoài, và vì không có bước chuyển biến trong tư tưởng ấy, tâm lý sản xuất nhỏ vẫn cứ luôn
thường trực, ăn sâu trong lòng nhân dân, khó thể nào thay đổi được, “tâm lý sản xuất nhỏ trực
tiếp là rào cản, “níu kéo” bước chuyển mình của đất nước hoà nhập vào thời đại mới”
Tâm lý sản xuất nhỏ được hình thành và tồn tại trên nền tảng kinh tế - xã hội là do sự tồn tại nền
kinh tế sản xuất nhỏ tự cung, tự cấp, manh mún, nhỏ bé, công cụ sản xuất thô sơ, lạc hậu. Do đó,
để thay đổi, hạn chế, xoá bỏ tư tưởng kém phát triển này thì ta cần xoá bỏ tồn tại xã hội đã hình
thành và củng cố tư tưởng đó, mà ở đây là nền kinh tế tiểu nông, nền kinh tế sản xuất nhỏ. Để
thay đổi nền tảng kinh tế đó thì chúng ta cần phải đưa những tư tưởng mới, tiến bộ vào trong đời
sống nhân dân, hay nói cách khác phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn, qua đó từng bước xoá bỏ nền sản xuất nhỏ, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh việc xoá bỏ cơ sở vật chất, kỹ thuật cũ, thêm vào những phương pháp tiên tiến, hiện
đại mới thì ta cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để chính chủ thể nhân dân tự
giác từ bỏ biểu hiện tiêu cực này, thay đổi cả yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan
Ta cần tuyên truyền cho người dân về tác hại của tư tưởng sản xuất nhỏ tới sự phát triển, đi lên
của đất nước; tuyên truyền về ý thức làm chủ, bộc lộ tiếng nói, cái “tôi” của bản thân; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân gắn với việc vận động nhân dân sống và làm việc theo kỷ luật, kỉ
cương và Hiến pháp, pháp luật; đổi mới, thay thế những phương pháp giáp cũ, lạc hậu, thiếu hiệu
quả; đổi mới giáo dục gia đình theo hướng tiến bộ, nhân văn, người trong gia đình tôn trọng ý
kiến của các thành viên, cha mẹ không áp đặt những quan niệm cũ lên con cái, từng bước hình
thành một lớp trẻ văn minh, tiên tiến, sẵn sàng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nước nhà

Câu 4. Dựa vào nội dung thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng hãy giải thích tại sao mọi hoạt động của con người luôn có xác xuất rủi ro? Về
nguyên tắc, để hạn chế rủi ro cần làm gì?
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi mọi hoạt động của con người như là một phần của quá trình
phát triển và biến đổi liên tục của thế giới. Theo triết lý này, mọi sự tồn tại và phát triển đều phụ
thuộc vào sự chuyển động và biến đổi, và do đó, có tính chất rủi ro và không chắc chắn.

1. Quan điểm về Sự Biến Đổi và Phát Triển: Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi sự thay
đổi và mâu thuẫn như là một phần không thể tránh khỏi của thế giới. Mọi hình thức tồn
tại và phát triển đều xuất phát từ sự đối lập và xung đột, tạo nên quá trình biến đổi không
ngừng. Sự rủi ro xuất phát từ tính chất này của sự chuyển động liên tục.
2. Nguyên Tắc Chuyển Động và Phổ Quát Hóa: Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhấn
mạnh nguyên tắc chuyển động, không ngừng tìm kiếm sự phát triển và tiến triển. Đồng
thời, triết lý này coi sự phổ quát hóa là cách tiếp cận lý thuyết, tức là mọi hiện tượng cụ
thể đều có xuất phát từ và đưa ra cái nhìn tổng thể về thế giới. Sự không chắc chắn và rủi
ro nằm ở sự đa dạng và đa dạng của các yếu tố trong quá trình này.
3. Tính Tương Tác và Đối Ngẫu Của Mọi Sự Tồn Tại: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
nhấn mạnh tính tương tác và đối ngẫu của mọi sự tồn tại. Mọi sự vụ, mọi hiện tượng
không chỉ tồn tại độc lập mà còn tương tác và đối ngẫu với nhau. Điều này tạo ra sự
không chắc chắn và khả năng xuất hiện của rủi ro.
Để hạn chế rủi ro, chủ nghĩa duy vật biện chứng không đề xuất việc loại bỏ hoặc tránh né rủi ro,
mà thay vào đó, nó tập trung vào việc hiểu rõ và điều chỉnh các mối liên kết tương tác giữa các
yếu tố. Điều này đòi hỏi sự linh hoạt, khả năng thích ứng, và sự hiểu biết sâu rộng về mối quan
hệ giữa các yếu tố trong hệ thống phức tạp. Cũng như, cần phải thiết lập cơ sở hạ tầng xã hội,
kinh tế và chính trị mạnh mẽ để giảm thiểu và ổn định tác động của rủi ro.

Câu 1.
1. Mâu thuẫn là gì?
– Trong phép biện chứng duy vật:
Mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng. Hoặc giữa
các sự vật, hiện tượng với nhau. Thông qua thống nhất và đấu tranh, chuyển hóa. Từ các ý nghĩa
dường như đối lập, nhưng lại thể hiện các mặt khác nhau triển khai trên thực tế. Qua đó thấy
được đặc điểm khi nhìn sự vật, hiện tượng theo các khía cạnh khác nhau. Vừa mang đến sự hiểu
biết sâu sắc, toàn diện về sự vật, hiện tượng đó.
– Theo quan niệm siêu hình:
Mâu thuẫn là cái đối lập phản logic, mang đến khuynh hướng vận động và phát triển đối lập.
Không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối lập. Mang đến các
hướng vận động cũng như cách thức không liên quan đến nhau. Nhưng vẫn phản ánh chung
trong khía cạnh nhìn nhận của sự vật, hiện tượng. Từ đó, trở thành nhân tố tạo thành mâu thuẫn
biện chứng là mặt đối lập. Nhưng là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau. Cũng như xác định đối
với các tiếp cận về sự vật, hiện tượng.
Ví dụ:
Trong mỗi con người có hai hoạt động đối lập nhau: hoạt động ăn, hoạt động bài tiết. Khi đó, thể
hiện cho tính chất hấp thụ dinh dưỡng và loại bỏ chất thải không được cơ thể hấp thụ. Mặc dù
chúng đối lập nhau về cơ chế. Nhưng lại không thể tách rời nhau và phụ thuộc vào nhau. Là cần
thiết đối với cơ thể trong duy trì sự sống. Từ đó cho thấy hai hoạt động này có sự thống nhất với
nhau. Hướng đến ý nghĩa chung trong các hoạt động và chức năng của nó trong cơ thể sống.
2. Có phải bất kì mâu thuẫn nào cũng là nguồn gốc và động lực phát triển của sự phát triển
không? Cho ví dụ minh họa
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là việc coi mọi mâu thuẫn đều là nguồn gốc và động
lực phát triển. Thay vào đó, nó coi mâu thuẫn là một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển
và tiến triển, nhưng không phải tất cả mâu thuẫn đều dẫn đến sự tiến bộ. Mâu thuẫn có thể có cả
tính tích cực và tiêu cực.
Dưới đây là một số điểm cần lưu ý:
Mâu thuẫn có thể tạo ra sự chuyển động và phát triển: Mâu thuẫn giữa các lực lượng xã hội
có thể tạo ra động lực cho sự phát triển và tiến triển. Chẳng hạn, mâu thuẫn giai cấp có thể thúc
đẩy sự chuyển đổi từ một hình thái kinh tế xã hội sang hình thái mới, thúc đẩy sự tiến bộ.
Mâu thuẫn có thể gây rủi ro và nguy cơ: Mâu thuẫn cũng có thể tạo ra những nguy cơ và rủi
ro cho xã hội. Chẳng hạn, mâu thuẫn quốc tế có thể dẫn đến xung đột và chiến tranh, không phải
lúc nào cũng tạo ra sự phát triển tích cực.
Quan trọng là cách xã hội xử lý mâu thuẫn: Mâu thuẫn không chỉ dẫn đến sự phát triển mà
còn phụ thuộc vào cách mà xã hội xử lý chúng. Sự đối đầu và giải quyết mâu thuẫn có thể dẫn
đến sự phát triển xã hội tích cực hoặc có thể gây ra sự giằng co và suy thoái.
Mâu thuẫn có thể đưa ra những cơ hội mới: Một số mâu thuẫn có thể mở ra cơ hội mới và
thách thức, thúc đẩy sự sáng tạo và tìm kiếm giải pháp mới cho các vấn đề xã hội.
Ví dụ minh họa:
Mâu thuẫn giai cấp: Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân trong thời kỳ Cách
mạng Công nghiệp tại châu Âu đã tạo ra động lực cho sự chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp
sang nền kinh tế công nghiệp. Mặc dù đã có những thách thức và mâu thuẫn, nhưng quá trình
này cũng mở ra một kỷ nguyên mới với những tiến bộ đáng kể trong công nghệ, sản xuất và xã
hội.
Tóm lại, mâu thuẫn có thể có vai trò trong quá trình phát triển, nhưng điều quan trọng là cách xã
hội xử lý và đối phó với chúng. Không tất cả mâu thuẫn đều dẫn đến sự phát triển tích cực, và
vai trò của chúng thường phụ thuộc vào ngữ cảnh cụ thể và các biện pháp xã hội.

Câu 2. Vật chất là gì? căn cứ vào đâu để xác định 1 hiện tượng nào đó có phải là vật chất
hay không? Giải thích về căn cứ đó
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác
Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
1) Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng vừa có tính cụ thể.
a) Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất- đó là đặc
tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đây cũng là tiêu chí duy nhất để phân
biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.
b) Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất bằng các giác quan
của con người; chỉ có thể nhận thức được vật chất thông qua việc nghiên cứu các sự vật, hiện
tượng vật chất cụ thể.
2) Vật chất là “thực tại khách quan” có đặc tính cơ bản (cũng là đặc trưng cơ bản) là tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức. Dù con người có nhận thức được hay chưa nhận thức được nó nó
vẫn tồn tại.
3) Vật chất có tính khách thể- con người có thể nhận biết được vật chất bằng các giác quan.
4) ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách quan. Bằng các giác quan của
mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được thực tại khách quan; chỉ có những
sự vật, hiện tượng của thực tại khách quan chưa được nhận biết biết chứ không thể không biết.
5) được suy ra từ nội dung trên để xác định mối quan hệ biện chứng giữa thực tại khách quan
(vật chất) với cảm giác (ý thức). Vật chất (cái thứ nhất) là cái có trước, tồn tại độc lập, không phụ
thuộc vào ý thức và quy định ý thức. ý thức (cái thứ hai) là cái có sau vật chất, phụ thuộc vào vật
chất và như vậy, vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức, là nguyên nhân làm
cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên, ý thức tồn tại độc lập tương đối so với vật chất và có tác động,
thậm chí chuyển thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng và được quần chúng
vận dụng

Câu 3. Nêu và phân tích sự khác nhau cơ bản giữa quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và
chủ nghĩa duy vật biện chứng về vai trò của ý thức. Từ vai trò của ý thức có thể rút ra
được ý nghĩa của phương pháp luận gì?

Chủ Nghĩa Duy Tâm


 Chủ đề chủ nghĩa:
Quan Điểm: Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức là yếu tố cơ bản và quyết định trong thế giới. Ý thức
là nguyên tố chủ đạo, và thực tại được xem là một phản ánh hay sản phẩm của ý thức.
 Quan Hệ Giữa Ý Thức và Thực Tại:
Quan Điểm: Ý thức tạo ra thực tại và quyết định sự tồn tại của nó. Thực tại không tồn tại độc lập
mà phụ thuộc vào ý thức để có thể được nhận thức.
 Vai Trò của Ý Thức:
Quan Điểm: Ý thức đóng vai trò quyết định, làm thay đổi và tạo ra thực tại. Các quá trình tinh
thần được coi là chủ động và tự chủ.
Chủ Nghĩa Duy Vật Biện Chứng
 Chủ Đề Chủ Nghĩa:
Quan Điểm: Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi vật chất là yếu tố cơ bản và quyết định trong thế
giới. Ý thức được xem là một sản phẩm của vật chất.
 Quan Hệ Giữa Ý Thức và Thực Tại:
Quan Điểm: Vật chất tồn tại độc lập và không phụ thuộc vào ý thức để có thể tồn tại. Ý thức xuất
phát từ vật chất và phản ánh thực tại.
 Vai Trò của Ý Thức:
Quan Điểm: Ý thức có vai trò phản ánh và phản ứng đối với thực tại. Nó không đơn độc quyết
định thực tại mà thực tại cũng ảnh hưởng và tác động lên ý thức.
Phân Tích:
1. Vai Trò Quyết Định:
Chủ Nghĩa Duy Tâm: Ý thức có vai trò quyết định và tạo ra thực tại.
Duy Vật Biện Chứng: Vật chất có vai trò quyết định và tạo ra ý thức.
2. Quan Hệ Ôm Trọn:
Chủ Nghĩa Duy Tâm: Ý thức và thực tại không có quan hệ ôm trọn và độc lập nhau.
Duy Vật Biện Chứng: Ý thức và thực tại có quan hệ tương tác và ôm trọn lẫn nhau.
3. Quá Trình Phát Triển:
Chủ Nghĩa Duy Tâm: Phát triển xuất phát từ ý thức và ý thức quyết định sự phát triển.
Duy Vật Biện Chứng: Phát triển xuất phát từ vật chất và sự tương tác phức tạp giữa vật chất và ý
thức.
4. Hệ Quả và Tác Động:
Chủ Nghĩa Duy Tâm: Ý thức tác động và tạo ra thực tại.
Duy Vật Biện Chứng: Thực tại tác động và tạo ra ý thức.
Tóm lại, sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy tâm và duy vật biện chứng về vai trò của ý thức chủ
yếu liên quan đến cách họ hiểu về quan hệ giữa ý thức và thực tại, cũng như vai trò quyết định
của mỗi yếu tố trong sự phát triển của thế giới.

Từ vai trò của ý thức, ta có thể rút ra ý nghĩa của một số phương pháp luận và quan điểm triết
học, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học, triết học tự nhiên và xã hội. Dưới đây là một số ý nghĩa
của phương pháp luận và quan điểm có liên quan:

1. Phương Pháp Luận Duy Tâm:


 Ý Nghĩa: Phương pháp luận này chủ trương việc nghiên cứu và hiểu sự thật dựa
trên ý thức và tâm hồn. Nó thường chú trọng vào quá trình tìm hiểu và phân tích ý
thức, cảm xúc, và ý nghĩa cá nhân của người nghiên cứu.
2. Phương Pháp Luận Duy Vật Biện Chứng:
 Ý Nghĩa: Phương pháp luận này chấp nhận tầm quan trọng của vật chất trong sự
tồn tại và phát triển của thế giới. Nó hỗ trợ sự phân tích đa chiều, xem xét mối
liên kết giữa ý thức và vật chất, và đặt câu hỏi về quá trình biến đổi và phát triển.
3. Phương Pháp Luận Khoa Học:
 Ý Nghĩa: Khoa học thường hướng đến việc nghiên cứu và mô tả thế giới dựa trên
quan sát và kiểm nghiệm. Tuy nhiên, vai trò của ý thức trong quá trình nghiên cứu
khoa học cũng được nhấn mạnh, đặc biệt trong việc xây dựng lý thuyết, đặt ra giả
định, và diễn giải dữ liệu.
4. Phương Pháp Luận Duy Vật:
 Ý Nghĩa: Các phương pháp luận duy vật thường chú trọng vào nghiên cứu và
phân tích vật chất, và nhìn nhận ý thức là một phản ánh của thực tại vật chất. Điều
này có thể thúc đẩy sự chú ý đối với các quan hệ tương tác phức tạp giữa vật chất
và ý thức.
Câu 4. Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, hãy phân tích tính tất yếu của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần ở Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được hình thành trong quá trình
sản xuất, thể hiện năng lực thực tế của con người trong việc khống chế tự nhiên và tạo ra của cải
vật chất cho xã hội. Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá
trình sản xuất, phân chia và sử dụng của cải, thể hiện hình thức kinh tế của quá trình đó.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại
không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất
của sự vận động, phát triển xã hội.
Vận dụng lý luận này vào thực tiễn Việt Nam, ta có thể phân tích như sau:

 Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam là
một quá trình biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đó là một quá
trình cần thiết để thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam là một nền kinh tế có sự góp mặt của
nhiều loại hình sở hữu và các thành phần kinh tế khác nhau, trong đó nhà nước đóng vai
trò chỉ đạo và điều tiết. Đây là một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.
 Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam cũng
là một quá trình chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, từ nền
kinh tế dân túy sang nền kinh tế công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đây là một quá trình cần
thiết để đưa Việt Nam từ một nước nghèo, lạc hậu sang một nước giàu, mạnh, dân chủ,
công bằng và văn minh.

Tính tất yếu của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thể hiện trong sự tương tác động và phản ánh
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đặt ra nhu cầu
chuyển đổi quan hệ sản xuất, và sự chuyển đổi này thường đi kèm với thay đổi cơ sở hạ tầng và
hệ thống kinh tế.

Câu 1. Phát triển là gì? Phân biệt quan niệm siêu hình và biện chứng về sự phát triển. Cho
ví dụ.
-Khái niệm phát triển Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động của sự
vật theo khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn Quan điểm siêu hình,nói chung,phủ nhận sự phát triển,tuyệt đối hóa mặt ổn định
của sự vật,hiện tượng.Phát triển ở đây chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về mặt lượng,chỉ là sự tuần
hoàn,lặp đi,lặp lại mà không có sự thay đổi về chất,không có sự ra đời của sự vật,hiện tượng mới
và nguồn gốc của sự “phát triển” đó nằm ngoài sự vật. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng coi sự phát triển là sự vận động đi lên,là quá trình tiến lên thông qua bước nhảy.Quá trình
đó diễn ra vừa dần dần,vừa có những bước nhảy vọt..làm cho sựu phát triển mang tính quanh
co,phức tạp,có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự tiến lên.Nguồn gốc bên trong của
sự vận động,phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật,hiện tượng.Khuynh
hướng chung của sự phát triển là tính tiến lên theo đường xoáy ốc,có kế thừa,có sự dường như
lặp lại sự vật,hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn Phát triển là khuynh hướng chung của sự
vật,hiện tượng. Điều đó không có nghĩa là tất cả mọi sự vật,hiện tượng đều phát triển.
-Quan niệm siêu hình là quan điểm phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mặt ổn định của sự vật,
hiện tượng. Phát triển chỉ là sự tăng hoặc giảm về lượng, không có sự thay đổi về chất. Quan
niệm biện chứng là quan điểm công nhận sự phát triển, khẳng định mặt động của sự vật, hiện
tượng. Phát triển là quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Ví dụ: Quan niệm siêu hình xem con người chỉ là một loài động vật có trí tuệ cao, không có gì
khác biệt về bản chất so với các loài khác. Quan niệm biện chứng xem con người là một loài
động vật có trí tuệ cao, nhưng cũng có những nét riêng biệt về bản chất so với các loài khác, như
khả năng ngôn ngữ, tư duy, sáng tạo, tự ý thức.

Câu 2. Phân tích định nghĩa của Lênin về vật chất. Định nghĩa của Lênin về vật chất đã
phân biệt sự khác nhau giữa vật chất và ý thức như thế nào?
- Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng vừa có tính cụ thể.
+ Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất - đó là đặc
tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đây cũng là tiêu chí duy nhất để phân
biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.
VD: Nhà nước phong kiến có bản chất là giai cấp địa chủ phong kiến chống lại nông dân và
những người lao động khác nhằm củng cố, bảo vệ sự thống trị về mọi mặt của địa chủ.
+ Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất bằng các giác quan
của con người; chỉ có thể nhận thức được vật chất thông qua việc nghiên cứu các sự vật, hiện
tượng vật chất cụ thể.
VD: Tính nóng của nước sôi được cảm nhận thông qua xúc giác, qua nghiên cứu biết được rằng
nước sôi nóng 100 độ C.
- Vật chất là “thực tại khách quan” có đặc tính cơ bản (cũng là đặc trưng cơ bản) là tồn tại không
phụ thuộc vào ý thức. Dù con người có nhận thức được hay chưa nhận thức được nó, nó vẫn tồn
tại.
VD: Thủy triều là hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu kỳ thời gian phụ
thuộc vào biến chuyển thiên văn, là đặc tính cơ bản của sông nước. Nó tồn tại một cách tự nhiên,
không phụ thuộc vào nhận thức của con người.
- Vật chất có tính khách thể - con người có thể nhận biết vật chất bằng các giác quan.
VD: Sự tăng trưởng về cân nặng, kích thước của đàn lợn sau một thời gian nuôi dưỡng có thể
được người chủ nhận biết bằng thị giác, xúc giác,…
- Ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách quan. Bằng các giác quan của
mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được thực tại khách quan; chỉ có những
sự vật, hiện tượng của thực tại khách quan chưa được nhận biết chứ không thể không biết. VD:
Kiến thức của nhân loại là kết quả của quá trình con người tiếp xúc và nghiên cứu thế giới khách
quan. Mọi khía cạnh về thế giới được con người cảm nhận và ghi chép lại.
1 là) được suy ra từ nội dung trên để xác định mối quan hệ biện chứng giữa thực tại khách quan
(vật chất) với cảm giác (ý thức). Vật chất (cái thứ nhất) là cái có trước, tồn tại độc lập với ý thức
và quy định ý thức. Ý thức (cái thứ hai) là cái có sau vật chất, phụ thuộc vào vật chất. Như vậy,
vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức, là nguyên nhân làm cho ý thức phát
sinh. Tuy nhiên, ý thức tồn tại độc lập tương đối so với vật chất và có tác động, thậm chí chuyển
thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng và được quần chúng vận dụng. VD:
Trước thời kì Đổi mới, do những ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh (đàn ông ra trận và hi sinh
nhiều, ở hậu phương chỉ còn đàn bà và người già) thì kinh tế không thể phát triển. Vì thếm, nếu
đường lối chủ trương chính sách lúc đó mà không phù hợp với thực tế thì kinh tế (vật chất) cũng
không thể đi lên
- Định nghĩa của Lênin đã trả lời được câu hỏi: Vật chất có trước hay ý thức có trước?" Vật chất
chính là cái có trước ý thức có sau. Vật chất chính nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức
con người. Ý thức phản ánh thực tại khách quan đó và con người có khả năng nhận thức thế
giới.

Câu 3. Chất của sự vật là gì? Lượng của sự vật là gì? Vì sao trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn chúng ta cần tôn trọng sự tích lũy về lượng? Nếu không tôn trọng hoặc tuyệt đối
hóa sự tích lũy về lượng sẽ dẫn đến sai lầm như thế nào? Lấy 1 ví dụ về hoạt động thực tiễn
để chứng minh ý nghĩa trên

Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, đó là
sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật,
hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế
giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện
tượng khác.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô,
trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng
con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định
sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật
biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp,
nhịp điệu nhanh hay chậm…
Trong hoạt động nhận thức thực tiễn, cần phải coi trọng quá trình tích luỹ về lượng, nếu không coi
trọng quá trình này thì sự không có sự biến đổi về chất. Ví dụ không có sự tích lũy về lượng thì khó
có thể có được sự thay đổi về chất.
Ví dụ: Đối với người học, lượng kiến thức được tích lũy dần dần và thay đổi khi đạt được tới một
mức độ nhất định. Một sinh viên năm nhất sẽ hoàn thành năm học đầu tiên khi tích lũy đủ lượng kiến
thức và trở thành sinh viên năm 2, nếu không tích lũy đủ lượng kiến thức thì sinh viên năm nhất vẫn
chưa thể thay đổi chất thành sinh viên năm 2.

Theo quy luật lượng – chất, sự vật tích luỹ về lượng đến một mức nhất định sẽ dẫn đến biến đổi
về chất. Nếu không tôn trọng quá trình tích luỹ về lượng ở mức độ cần thiết cho sự biến đổi về
chất thì sẽ dẫn đến những hậu quả không mong muốn. Ví dụ, trong quá trình học tập, nếu học
sinh không tích luỹ kiến thức một cách đầy đủ, vững chắc thì khi thi cử sẽ không đạt được kết
quả cao. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa sự tích lũy về lượng mà không chú ý đến sự biến đổi về
chất thì cũng sẽ gặp phải những khó khăn và trở ngại. Ví dụ, nếu chỉ quan tâm đến số lượng sản
phẩm mà không quan tâm đến chất lượng sản phẩm thì sẽ làm giảm uy tín và hiệu quả kinh
doanh
Câu 4. Theo quan điểm toàn diện và lịch sử - cụ thể khi thực hiện một quyết sách trong
quản lý cần phải làm gì để nâng cao tính khả thi và hiệu quả thực hiện quyết sách đó? Cho
1 ví dụ.

You might also like