You are on page 1of 264

[NGỮ VĂN 9] ÔN TẬP "CHIẾC LƯỢC NGÀ"

Đề bài : Phân tích nhân vật ông Sáu trong đoạn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn
Quang Sáng.
============== ===============
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
I. Mở bài
- Nguyễn Quang Sáng là nhà văn của những số phận người dân Nam Bộ.
- Tác phẩm Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi cuộc kháng
chiến chống Mĩ đang diễn ra rất ác liệt.
- Tác phẩm là một câu chuyện cảm động về tình cha con trong hoàn cảnh của chiến
tranh. Trước hết, đó là câu truyện về một người cha – người chiến sĩ cách mạng dũng
cảm và cũng là người cha rất yêu thương con.
II/ Thân bài
1) Ông Sáu là người chiến sĩ cách mạng dũng cảm
- Ông Sáu đi kháng chiến chống Pháp 7-8 năm chưa một lần về thăm nhà mặc dù nhớ
nhà, nhớ vợ con khôn xiết. Người chiến sĩ ấy đã luôn đặt nhiệm vụ đối với Tổ quốc,
với kháng chiến lên trên tình cảm riêng tư.
- Trong một trận càn của giặc, ông Sáu đã bị thương, vết sẹo làm khuôn mặt không
giống như trước.
- Sau đợt nghỉ phép, ông Sáu cùng đồng đội trở lại chiến trường miền Đông tiếp tục
chiến đấu.
- Một ngày cuối năm năm mươi tám, trong một trận càn lớn của quân Mĩ- ngụy ông
Sáu đã bị thương nặng và hi sinh.
Như vậy, ông Sáu là người chiến sĩ có lòng yêu nước, dũng cảm, luôn biết hi sinh vì
độc lập dân tộc. Đó cũng là vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng, của con người Việt
Nam trong những năm chiến tranh đau thương mà anh dũng.
2) Ông Sáu là người cha rất yêu thương con
a/ Tình huống thứ nhất : Ông Sáu đi kháng chiến chống Pháp sau 7-8 năm được về
nhà thăm nhưng bé Thu lại không nhận ba.
- Nỗi khao khát gặp con của ông Sáu:
+ Hai cha con không hề biết mặt nhau, chỉ biết qua tấm ảnh cách đó bảy năm. Vì vậy,
ông Sáu hồi hộp và mong chờ được gặp con bằng tất cả tình cảm yêu thương mà ông
đã dồn nén trong xa cách.
+ Bằng linh cảm của người cham, ông đã nhận ra con – đứa bé độ tám tuổi đang chơi
dưới bóng cây xoài trước nhà, ông chạy ngay đến chỗ con. Nhưng bất ngờ. Nhưng bất
ngờ Thu hoảng sợ bỏ chạy, không chịu nhìn nhận cha mình. Lúc đ, “ Anh đứng sững
lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai
tay buông xuống như bị gãy”. Ông Sáu hụt hẫng, đau đớn khi đứa con không nhận ra
mình.
- Nỗi khổ và niềm vui trong ba ngày về thăm nhà:
+ Ông Sáu tranh thủ ba ngày phép ngắn ngủi để chăm chút, bù đắp cho con cả vật chất
lẫn tinh thần “ suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con”. Ông tìm mọi
cách để gần gũi để trò chuyện với con nhưng dù phải mới ba ăn cơm hay nhờ chắt
nước nồi cơm. Thu đều lảng tránh không gọi một tiếng “ ba”. Vui vì gặp lại gia đình,
vợ con, nhưng ông Sáu đau khổ lắm, những lúc con lảng tránh, ông chỉ “nhìn con vừa
khe khẽ lắc đầu vừa cười”, cười “ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được”.
+ Bị con đối xử lạnh nhạt, ông vẫn cố gắng kiên trì chờ đợi, mong con nhận ra và gọi
tiếng “ Ba” âu yếm. Bé Thu đã từ chối sự quan tâm của ông Sáu, bé “hắt đổ miếng
trứng cá khỏi chén cơm” khiến ông sáu nổi nóng đánh con để rồi sau này dằn vặt, ân
hận mãi. Tình tiết này cho thấy sự tức giận, thất vọng của ông Sáu khi không làm thế
nào để con nhận ba và cũng thể hiện niềm khát khao của người cha muốn được cảm
nhận tình cảm của con.
- Giây phút cảm động khi bé Thu nhận cha:
+ Trước khi chia tay gia đình để vào chiến trường, ông Sáu đã rất buồn vì đứa con
không chịu nhận mặt cha, nỗi ân hận vì trót nóng nảy đánh con khiến đứa trẻ càng xa
cách. Nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông “ muốn ôm con, hôn con”, nhưng “ lại
sợ nó giãy lên lại bỏ chạy” nên ông Sáu chỉ đứng nhìn, đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu,
khe khẽ nói…
- Bất ngờ bé Thu cất tiếng gọi: “ Ba…a…a…ba!”, tiếng kêu như xé ruột vừa yêu
thương, kính trọng xen lẫn hối hận ( bé Thu đã biết “ ba nó đi đánh Tây bị Tây bắn bị
thương”), rồi nó chạy thót lại, ôm lấy ba, “ hôn ba cùng khắp”, “ hôn cả vết thẹo dài
trên má”, nó dang cả hai tay xiết chặt lấy cổ, dang cả hai chân câu chặt lấy ba nó để
níu giữ. Ông Sáu đã xúc động đến khóc, và “ không muốn cho con thấy mình khóc,
anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”.
Hai cha con nhận ra nhau thật hạnh phúc, sung sướng nhưng cũng thật đớn đau bởi
giây phút đó thật ngắn ngủi. Tình cảm cha con thiêng liêng cao đẹp nhưng đặt trong
một hoàn cảnh thật éo le của cuộc chiến tranh với những chia li, xa cách.
b/ Tình huống thứ 2: ông Sáu làm cây lược tặng con nhưng chưa kịp tặng thì ông đã hi
sinh. Tình huống này đã bộc lộ tình yêu con sâu nặng của người cha.
- Ở chiến khu, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông luôn suốt nhiều ngày sau khi chia tay
với gia đình là việc ông đã đánh con khi nóng giận.
- Lời dặn của đứa con “ Ba về! Ba mua cho con một cây Lược nghe Ba!”, đã thúc đẩy
ông nghĩa đến việc làm một chiếc lược ngà dành cho con. Khi tìm được khúc ngà ông
vô cùng vui mừng, sung sướng, rồi đánh hết tâm trí, công sức vào việc vào việc làm
cây lược: “ những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược , thận trọng, ti mỉ và cố công
như người thợ bạc”.
- Ông làm cây lược bằng tất cả tình yêu thương con, trên sống có khắc một hành chữ
nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn, khắc từng nét: “ Yêu nhớ tặng Thu con của Ba”.
Những đêm nhớ con, ông lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược
thêm bóng, thêm mượt. Mỗi lần chải tóc như vậy là mỗi lầm ông Sáu gửi gắm yêu
thương vào chiếc lược nhỏ xinh. Chiếc lược ngà đã trở thành một vật quý giá, thiêng
liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu
mến, nhớ thương, mong đợi của người cha với đứa con xa cách.
- Nhưng trong một trận chiến đấu, ông đã bị thương nặng. Trước lúc hi sinh, không
thể trăng trổi được điều gì, ông có trao cây lược cho người đồng đội và chỉ đến khi tin
rằng chiếc lược đó sẽ đến tận tay bé Thu ông mới nhắm mắt. Qua ánh mắt nhìn đồng
đội lúc lâm chung, bác Ba hiểu không chỉ mang cây lược về cho Thu mà còn trao lại
một tình cha con thiêng liêng cao đẹp. Một tình cha con không bao giờ chết!
- Sau nhiều lần tìm Thu không gặp, tình cờ bác Ba gặp Thu, bấy giờ là môt cô giao
liên trên một tuyến đường bí mật. Bác trao cho Thu cây lược ngà mà người cha yêu
quý nhất đã tự tay mình làm và gửi tặng con gái “ Cây lược như đánh thức kỉ niệm
ngày chia tay…”
Như vậy, cả cuộc đời người cha đã dành cho con một tình cảm yêu thương sâu nặng.
3. Kết bài :
- Xây dựng nhân vật ông sáu, tác giả đã đặt nhân vật vào các tình huống éo le để khai
thác những diễn biến tâm lí, tình cảm; ngôn ngữ lời thoại nhân vật có sự chọn lọc, chi
tiết cụ thể giàu biểu cảm…
- Truyện đã ca ngợi ông Sáu - người chiến sĩ cách mạng dũng cảm và là người cha có
tình thương con sâu nặng và cao đẹp. Qua đó, tác giả khẳng định tình cảm cha con là
thứ tình cảm nhân bản bền vững, có thể tồn tại trong bất cứ hoàn cảnh nào; đồng thời
cũng cho thấy những nỗi đau thương, mất mát mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống
con người.
[NGỮ VĂN 9] ÔN TẬP : LÀNG - BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH“
…Nền tảng của bất kì tác phẩm nào phải là chân lí được khắc họa bằng tất cả
tài nghệ của nhà văn. Cần phải hát đúng giai điệu về thời đại của mình và phải miêu tả
nó một cách trung thực bằng những hình ảnh hấp dẫn, không một chút giả tạo”.
(Đọc – hiểu văn bản Ngữ văn 9, 2005, tr. 160)
Qua trích đoạn”Làng”(Kim Lân) và”Bài thơ về tiểu đội xe không kính”(Phạm Tiến
Duật), hãy chứng minh rằng: các nhà văn đã “hát đúng giai điệu về thời đại của mình”
và “miêu tả một cách trung thực bằng những hình ảnh hấp dẫn, không một chút giả
tạo”.
=============== ==============
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
1/ Giải thích
- Văn học là tấm gương phản chiếu hiện thực thông qua lăng kính chủ quan và sự sáng
tạo của người cầm bút.
- Hiện thực được phản ánh phải trung thực, phù hợp với hoàn cảnh của thời đại. Hiện
thực mỗi thời kì khác nhau nên văn học mang lại nội dung cụ thể của thời đại: thời đại
nào, văn học ấy.
- Bằng sở trường của mỗi nhà văn, hiện thực cuộc sống được ghi lại trong tác phẩm
bằng những hình ảnh hấp dẫn, không một chút giả tạo. Mỗi tác phẩm tồn tại như một
thông điệp báo cho người đọc hôm nay biết tác phẩm ấy đang ở đâu trong chiều ngang
của không gian và khoảng nào
trong chiều dọc của lịch sử. Lời bàn trên về mối quan hệ giữa cuộc sống, tác giả, tác
phẩm thật sâu sắc.
2/ Chứng minh qua tác phẩm "Làng"
- Giai điệu về thời đại được nhà văn Kim Lân khai thác là đời sống kháng chiến của
nhân dân ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Truyện diễn tả chân thực
và sinh động tình yêu làng, yêu quê hương đất nước và tinh thần kháng chiến của nhân
vật ông Hai - nhân vật tiêu biểu cho người nông dân yêu nước thời kì đó.
Chọn lọc, phân tích dẫn chứng:
+ Ở nơi tản cư ông nhớ làng, khi nghe tin quân ta thắng trận ở khắp nơi, ông vui tươi
phấn khởi như mở cờ trong bụng.
+ Khi đột ngột nghe tin dữ làng Chợ Dầu theo giặc, ông đau đớn và thể hiện thái độ
yêu ghét rõ ràng, tự hứa với lòng mình quyết tâm theo kháng chiến, theo Cụ Hồ,…Khi
nghe được tin cải chính…
+ Kim Lân đã”hát đúng giai điệu về thời đại của mình…”. Nông dân là lực lượng cơ
bản của Cách mạng, những con người hiền lành, chất phác trong đời sống hàng ngày
nhưng rất giàu lòng yêu nước, đặc biệt là khi đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng xả thân
cho Tổ quốc. Người nông dân không còn u mê, ngu muội, cam chịu đời sống nô lệ
như trước nữa. Ánh sáng của Đảng, Cách mạng đã soi sáng, dìu dắt họ thoát khỏi đêm
trường khổ ải, bước đi trên con đường độc lập, tự do, được làm chủ bản thân, làm chủ
cuộc đời. Đó chính là những chuyển biến trong nhận thức, trong tâm tư, tình cảm của
người nông dân mà Kim Lân là người rất thấu đáo, tường tận.
- Hình ảnh người nông dân từ hiện thực đi vào trong tác phẩm không hề tô vẽ. Nhân
vật ông Hai cũng chính là bóng dáng, là tấm lòng, tình cảm, tinh thần của Kim Lân và
biết bao người Việt Nam đối với quê hương, đất nước. Làng không chỉ nói về một
làng Chợ Dầu cụ thể mà tất cả mọi làng quê trên đất nước Việt Nam đều có chung tinh
thần ấy. Cũng nhờ vậy mà vẻ đẹp của “Làng”được tỏa sáng.
3/ Chứng minh qua "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"
- Giai điệu về thời đại được nhà thơ khai thác là hiện thực của đất nước trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước với lớp lớp thanh niên”xẻ dọc Trường Sơn đi cứu
nước”…Dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, những chiếc xe không kính vẫn tiến thẳng
ra mặt trận, đã trở thành biểu tượng của một dân tộc anh hùng, phản ảnh đúng tính
chất khốc liệt của cuộc chiến.
- Song giai điệu về thời đại mà nhà thơ Phạm Tiến Duật muốn ca hát, đó là vẻ đẹp của
hình tượng người chiến sĩ lái xe. (Chọn lọc, phân tích dẫn chứng để làm rõ: tư thế ung
dung, tinh thần lạc quan, yêu đời, thái độ coi thường hiểm nguy, thử thách, trẻ trung,
sôi nổi, ấm áp tình đồng chí, đồng đôij, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam).
- Bài thơ vừa mang không khí của thời đại, vừa mang tầm vóc lịch sử. Đó là tiếng nói
của cuộc sống hiện thực hào hùng, oanh liệt thời chống Mĩ, là biểu tượng tuyệt vời về
người lính Trường Sơn. Bài thơ góp phần làm sống mãi hình ảnh thể hệ thanh niên
thời đại Hồ Chí Minh gian khổ mà oanh liệt, trở thành bài thơ nổi tiếng, được nhiểu
người yêu thích.
4/Đánh giá
- Hai tác phẩm là hai giai điệu hát cho hai thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mĩ xâm lược, là”những hình ảnh hấp dẫn, không một chút giả tạo”giúp cho
thế hệ sau thấy được học đã sống, chiến đấu và chiến thắng oanh liệt như thế nào.
- Kim Lân và Phạm Tiến Duật là những tác giả có sự sáng tạo độc đáo, tạo nên hai tác
phẩm tiêu biểu cho hai thể loại văn học ở hai thời kì – hai bài ca hát mãi với thời gian
làm rung động lòng người. Vẻ đẹp của nó đã minh chứng cho nhận định”hát đúng giai
điệu về thời đại của mình”và”miêu tả một cách trung thực bằng những hình ảnh hấp
dẫn, không một chút giả tạo”.

NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI


Đề bài: Cảm nhận của em về nhân vật ông Hai trong đoạn trích sau:
Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?
- Là con thầy mấy lại con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
- Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:
- À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé dơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
- Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.
Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lại
thủ thỉ với con như vậy. Ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho
mình nữa.
Anh em đồng chí biết cho bố con ông.
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ
dám đơn sai: Mỗi lần nói ra được đôi câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vơi đi
được đôi phần.
(Trích Làng - Kim Lân, Ngữ văn lớp 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.169 -
170)
========================================
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
I/ Mở bài:
- Giới thiệu tác giả: Kim Lân là một nhà văn có sở trường về truyện ngắn. Ông am
hiểu sâu sắc về đời sống nông dân, nông thôn Việt Nam.
- Giới thiệu văn bản: Truyện ngắn Làng viết vào thời kì đầu cuộc kháng chiến chống
Pháp đăng trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, là một trong những truyện ngắn thành
công nhất của ông.
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Truyện đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai với
tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến hài hòa, nồng thắm. Điều đó được
đặc biệt thể hiện trong đoạn đối thoại của ông Hai với con trai mình – thằng cu Húc
sau khi ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
II/ Thân bài:
1. Khái quát tình huống truyện, vị trí đoạn trích
- Khi kháng chiến chống Pháp nổ ra: ông Hai muốn ở lại làng để tham gia kháng chiến
nhưng vì hoàn cảnh gia đình buộc ông phải rời làng đi tản cư, lòng ông luôn day dứt
nỗi nhớ làng.
- Nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống có ý nghĩa: là một nông dân suốt đời sống ở
quê hương, gắn bó máu thịt với từng con đường, nếp nhà, thửa ruộng và biết bao
nhiêu người ruột thịt, xóm giềng. Vậy mà vì giặc ngoại xâm, ông phải rời xa quê
hương đi tản cư, sống nhờ nơi đất khách. Do đó, lòng ông luôn đau đáu nỗi nhớ quê.
Ban ngày lo sản xuất, ổn định cuộc sống, nhưng buổi tối lại sang hàng xóm giãi bày
nỗi nhớ của mình. Nỗi nhớ của ông đều bắt nguồn từ những kỉ niệm trong cuộc sống
hàng ngày.
- Thế rồi, đột ngột ông nghe tin dữ làng Dầu theo giặc, giữa lúc tâm trạng của ông
đang phấn chấn vì nghe những tin thắng trận. Tâm trạng ông trở nên đau đớn, nặng nề,
tủi hổ tràn ngập lòng ông. Trước ông Hai hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì nay
lại đau đớn, nhục nhã bấy nhiêu. Tình huống này buộc ông Hai phải lựa chọn giữa
tình yêu làng và tình yêu nước.
- Cao trào tâm trạng của nhân vật cũng là lúc bộc lộ một cách sâu sắc, cảm động nhất
tình cảm chân thành, thiêng liêng của ông Hai với quê hương, đất nước, cách mạng.
Đó là cảnh ông Hai trò chuyện với đứa con.
2) Phân tích nhân vật ông Hai trong đoạn trích
a/ Nỗi đau đớn của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.
- Mấy hôm liền ông chỉ ru rú ở xó nhà, không dám đi đâu vì tủi hổ, nhục nhã, sợ
người ta biết ông là người chợ Dầu.
- Ông lão ôm đứa con trai út vào lòng, trò chuyện với nó như đẻ giải tỏa nỗi lòng: “
Những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lão lại thủ thỉ với con như vậy.
ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa”.
- Chuyện về làng Dầu như một nỗi ám ảnh, xoắn chặt lấy tâm can ông. Dù đau đớn và
tủi nhục, ông vẫn không khỏi hướng về làng nên đã hỏi con: “ Thế nhà con ở đâu?”..
Thế con có thích về làng không?”. Ông hỏi nó nhưng là hỏi chính lòng mình và câu
trả lời của đứa trẻ chính là nỗi lòng của ông.
- Ông lão khóc, nước mắt giàn giụa “ chảy ròng ròng hai bên má”. Đó là giọt nước
mắt của biết bao cay đắng, tủi nhục ê chề nà chỉ những người giàu lòng tự trọng như
ông mới có được.
b/ Tấm lòng chung thủy với cách mạng của ông Hai.
- Tình yêu cách mạng, lòng tin yêu cụ Hồ của ông lão đã truyền sang cho cả đứa con.
Cả hai b ố con ông đều một lòng “ Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”.
- Tình cảm đó còn thể hiện rõ qua những câu văn nửa trực tiếp- lời văn như lời độc
thoại nội tâm của nhân vật: “ Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu
trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám
đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Lời văn rất mộc mạc, giản dị nhưng
thấm đẫm tình cảm chân thành và dường như thấm cả những giọt nước mắt của ông
lão. Ông lão nói với con chính là để giãi bày tấm lòng và minh oan cho mình vậy. Mỗi
lời của ông như một lời thề sắt đá, cả cái chết cũng không làm ông thay đổi!
Tình yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng nơi ông thật sâu sắc, mãnh liệt!
3) Nhận xét:
- Nhà văn Kim Lân đã tạo dựng một tình huống thử thách tâm lí nhân vật rất đặc sắc,
qua đó, tính cách, phẩm chất của nhân vật nổi lên thật rõ ràng. Lối kể chuyện giản dị
tự nhiên, gần gũi., ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo, sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ
đối thoại và độc thoại nội tâm cũng góp phần tạo nên một hình tượng chân thực và đẹp
đẽ về người nông dân Việt Nam.
- Đoạn trích đã cho ta thấy sự phát triển trong nhận thức của người nông dân Việt
Nam: tình yêu làng là cơ sở của tình yêu nước, yêu cách mạng song tình yêu nước vẫn
bao trùm lên tất cả và là định hướng hành động cho họ.
III/ Kết bài: Khẳng định lại vẻ đẹp của người nông dân Việt Nam và tấm lòng của nhà
văn đối với họ.
- Ông Hai tiêu biểu cho tầng lớp nông dân thời kì kháng chiến chống Pháp.
- Qua nhân vật ông Hai trong tác phẩm nói chung và trong cuộc trò chuyện với thằng
cu Húc nói riêng, tác giả muốn biểu đạt một cách thấm thía, xúc động tình yêu làng,
yêu nước sâu sắc của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp.
- Tác giả viết bằng trái tim, tình cảm của mình nên dễ tìm được sự đồng cảm từ người
đọc.
[NGỮ VĂN 9] ÔNG TẬP NÂNG CAO "ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ"
Bàn về ngôn ngữ trong thơ, Nguyễn Đình Thi viết:
“Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng
gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc,
những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức
mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy.”
Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
============== ==============
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
I/ Mở bài
- Giới thiệu nhận định của nhà thơ Nguyễn Đình Thi
- Dẫn dắt, giới thiệu bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
II/ Thân bài
1/ Giải thích ý kiến của Nguyễn Đình Thi:
– Ngôn ngữ thơ (chữ và nghĩa trong thơ) vừa có nghĩa do bản thân câu chữ mang lại
(nghĩa của nó, nghĩa gọi tên) vừa có nghĩa do câu chữ gợi ra (cảm xúc, hình ảnh, vùng
ánh sáng lay động, sức gợi).
– Khẳng định: Sức mạnh nhất của thơ là sức gợi ấy.
 Bằng cách diễn đạt hình ảnh rất cụ thể và sinh động, Nguyễn Đình Thi đã nhấn
mạnh và làm nổi bật một đặc trưng bản chất của thơ ca: ngôn ngữ trong thơ, vấn đề
chữ và nghĩa. Tác giả vừa khẳng định vừa cắt nghĩa, lí giải sức mạnh của thơ nằm ở
sức gợi.
2/ Bình luận sức mạnh của thơ
a/ Công dụng trước hết của thơ là gọi tên sự vật: Mọi loại hình nghệ thuật đều phải lấy
hiện thực làm chất liệu sáng tác cho mình. Một tác phẩm thơ có giá trị phải bắt rễ thật
chặt với hiện thực cuộc sống để phản ánh một cách trung thực, sinh động những vấn
đề tiêu biểu, điển hình trong cuộc sống.
b. Không chỉ gọi tên sự vật, thơ ca “tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó
những cảm xúc, hình ảnh, toả ra... vùng ánh sáng động đậy”:
- Vùng ánh sáng trong tác phẩm thơ: đó là ánh sáng của những kí thác, tâm sự, tư
tưởng, tình cảm, cảm xúc mãnh liệt của tác giả gửi gắm vào tác phẩm của mình, có
khả năng tung toả, mở rộng, khơi gợi cảm xúc, hình ảnh về cuộc sống; đặc biệt chiếu
toả, soi rọi vào sâu thẳm tâm trí ta, làm thay đổi mắt ta nhìn, óc ta nghĩ, lay thức tâm
hồn ta những tình cảm tốt đẹp: biết rung động, say mê trước cái đẹp; biết buồn, vui,
yêu ghét, căm thù; biết cho và nhận, hưởng thụ và cống hiến... từ đó hướng đến cải tạo
xã hội, hoàn thiện tâm hồn, nhân cách mỗi người.
c. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy: Cái đẹp của hiện thực hay thế giới tâm
hồn con người trong thơ được thể hiện ở “sức gợi”bằng ngôn ngữ có tính hàm súc của
nghệ thuật, mang hơi thở cuộc đời, cảm xúc tâm hồn con người, thể hiện qua từ ngữ,
hình ảnh, nhịp điệu, âm thanh... Đó là thứ ngôn ngữ có giá trị thẩm mĩ cao, gắn với cá
tính, phong cách riêng của người nghệ sĩ.
=> Nguyễn Đình Thi đã khái quát vấn đề có ý nghĩa sâu sắc về giá trị sức mạnh của
thơ ca trong việc phản ánh hiện thực và khơi gợi những cảm xúc, tình cảm tốt đẹp cho
mỗi người (gắn với bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận)
3/ Chứng minh
a/ Giới thiệu tác giả, tác phẩm
b/ Chứng minh nhận định vào tác phẩm
- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã “gọi tên sự vật” bằng sự phản ánh chân thực, sinh
động về hiện thực (Khái quát được hiện thực không khí lao động dựng xây CNXH ở
miền Bắc những năm 1958; hoàn cảnh ra đời bài thơ gắn với sự thay đổi tư tưởng của
Huy Cận về cuộc sống.)
- Thi phẩm Đoàn thuyền đánh cá là sự”giải toả”những cảm xúc của nhà thơ trước vẻ
đẹp hoà hợp giữa bức tranh thiên nhiên, vũ trụ với người lao động, qua đó thể hiện
tình yêu cuộc sống, niềm lạc quan, tin yêu phơi phới của nhà thơ trước cuộc đời, con
người. (Phân tích, làm rõ vẻ đẹp hoà hợp giữa thiên nhiên và người lao động ở 3 phần,
theo trình tự chuyến ra khơi đánh cá cùng những tình cảm của nhà thơ trong tác phẩm)
- Bài thơ đã tác động sâu sắc tới người đọc, giúp ta nhận ra vẻ đẹp và giá trị thực sự
của cuộc sống, thôi thúc ta sống có hoài bão, lí tưởng, biết yêu thiên nhiên, đất nước,
hăng say lao động để góp phần dựng xây Tổ quốc.
- “Sức gợi” cảm xúc, tình cảm con người trước hiện thực cuộc sống ở Đoàn thuyền
đánh cá được thể hiện ở dấu ấn đặc sắc về ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện (Phân tích,
làm rõ giá trị nghệ thuật ở các phương diện: thể thơ 7 chữ; âm hưởng hào hùng, khoẻ
khoắn; hình ảnh liên tưởng, kì vĩ; bút pháp pháp khoa trương, phóng đại, lãng mạn,
bay bổng; sử dụng kết hợp hiệu quả các biện pháp nghệ thuật như kết cấu lặp lại, so
sánh, nhân hoá, hoán dụ, ẩn dụ, liệt kê, nói quá, từ láy...)
4. Đánh giá, nâng cao
- Về ý nghĩa của vấn đề: ý kiến của Nguyễn Đình Thi về một trong những đặc trưng
bản chất của thơ không chỉ có tác dụng nhất thời mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị
bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn, tính nghệ thuật mang giá trị thẩm mĩ
– đặc trưng cơ bản của thơ ca văn học.
- Đối với người sáng tác: định hướng cho sự sáng tạo, làm thơ phải biết lựa chọn ngôn
ngữ hàm súc, giàu sức gợi, có sức hấp dẫn, lôi cuốn ở các hình tượng nghệ thuật, hình
ảnh, nhạc điệu... Làm sao đó để thông qua ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật giàu sức
gợi trong thơ, người đọc như nhận ra cả thể giới đang hiện hữu, nhận ra chính mình ở
trong đó, thêm hiểu về con người và bản thân mình hơn.
- Đối với người thưởng thức: định hướng tiếp nhận, đọc thơ không chỉ hiểu nghĩa câu
chữ mà phải dựng dậy lớp nghĩa được gợi ra từ câu chữ gắn với thời đại, xã hội, con
người cụ thể bằng cảm xúc chân thành của bản thân và sự đồng sáng tạo với người
nghệ sĩ trong tác phẩm thơ ca.
III/ Khẳng định lại vấn đề nghị luận, bày tỏ suy nghĩ của bản thân.
Bàn về ngôn ngữ trong thơ, Nguyễn Đình Thi viết:
“Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng
gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc,
những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức
mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy.”
Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
I/ Mở bài
- Giới thiệu nhận định của nhà thơ Nguyễn Đình Thi
- Dẫn dắt, giới thiệu bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
II/ Thân bài
1/ Giải thích ý kiến của Nguyễn Đình Thi:
– Ngôn ngữ thơ (chữ và nghĩa trong thơ) vừa có nghĩa do bản thân câu chữ mang lại
(nghĩa của nó, nghĩa gọi tên) vừa có nghĩa do câu chữ gợi ra (cảm xúc, hình ảnh, vùng
ánh sáng lay động, sức gợi).
– Khẳng định: Sức mạnh nhất của thơ là sức gợi ấy.
 Bằng cách diễn đạt hình ảnh rất cụ thể và sinh động, Nguyễn Đình Thi đã nhấn
mạnh và làm nổi bật một đặc trưng bản chất của thơ ca: ngôn ngữ trong thơ, vấn đề
chữ và nghĩa. Tác giả vừa khẳng định vừa cắt nghĩa, lí giải sức mạnh của thơ nằm ở
sức gợi.
2/ Bình luận sức mạnh của thơ
a/ Công dụng trước hết của thơ là gọi tên sự vật: Mọi loại hình nghệ thuật đều phải lấy
hiện thực làm chất liệu sáng tác cho mình. Một tác phẩm thơ có giá trị phải bắt rễ thật
chặt với hiện thực cuộc sống để phản ánh một cách trung thực, sinh động những vấn
đề tiêu biểu, điển hình trong cuộc sống.
b. Không chỉ gọi tên sự vật, thơ ca “tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó
những cảm xúc, hình ảnh, toả ra... vùng ánh sáng động đậy”:
- Vùng ánh sáng trong tác phẩm thơ: đó là ánh sáng của những kí thác, tâm sự, tư
tưởng, tình cảm, cảm xúc mãnh liệt của tác giả gửi gắm vào tác phẩm của mình, có
khả năng tung toả, mở rộng, khơi gợi cảm xúc, hình ảnh về cuộc sống; đặc biệt chiếu
toả, soi rọi vào sâu thẳm tâm trí ta, làm thay đổi mắt ta nhìn, óc ta nghĩ, lay thức tâm
hồn ta những tình cảm tốt đẹp: biết rung động, say mê trước cái đẹp; biết buồn, vui,
yêu ghét, căm thù; biết cho và nhận, hưởng thụ và cống hiến... từ đó hướng đến cải tạo
xã hội, hoàn thiện tâm hồn, nhân cách mỗi người.
c. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy: Cái đẹp của hiện thực hay thế giới tâm
hồn con người trong thơ được thể hiện ở “sức gợi”bằng ngôn ngữ có tính hàm súc của
nghệ thuật, mang hơi thở cuộc đời, cảm xúc tâm hồn con người, thể hiện qua từ ngữ,
hình ảnh, nhịp điệu, âm thanh... Đó là thứ ngôn ngữ có giá trị thẩm mĩ cao, gắn với cá
tính, phong cách riêng của người nghệ sĩ.
=> Nguyễn Đình Thi đã khái quát vấn đề có ý nghĩa sâu sắc về giá trị sức mạnh của
thơ ca trong việc phản ánh hiện thực và khơi gợi những cảm xúc, tình cảm tốt đẹp cho
mỗi người (gắn với bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận)
3/ Chứng minh
a/ Giới thiệu tác giả, tác phẩm
b/ Chứng minh nhận định vào tác phẩm
- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã “gọi tên sự vật” bằng sự phản ánh chân thực, sinh
động về hiện thực (Khái quát được hiện thực không khí lao động dựng xây CNXH ở
miền Bắc những năm 1958; hoàn cảnh ra đời bài thơ gắn với sự thay đổi tư tưởng của
Huy Cận về cuộc sống.)
- Thi phẩm Đoàn thuyền đánh cá là sự”giải toả”những cảm xúc của nhà thơ trước vẻ
đẹp hoà hợp giữa bức tranh thiên nhiên, vũ trụ với người lao động, qua đó thể hiện
tình yêu cuộc sống, niềm lạc quan, tin yêu phơi phới của nhà thơ trước cuộc đời, con
người. (Phân tích, làm rõ vẻ đẹp hoà hợp giữa thiên nhiên và người lao động ở 3 phần,
theo trình tự chuyến ra khơi đánh cá cùng những tình cảm của nhà thơ trong tác phẩm)
- Bài thơ đã tác động sâu sắc tới người đọc, giúp ta nhận ra vẻ đẹp và giá trị thực sự
của cuộc sống, thôi thúc ta sống có hoài bão, lí tưởng, biết yêu thiên nhiên, đất nước,
hăng say lao động để góp phần dựng xây Tổ quốc.
- “Sức gợi” cảm xúc, tình cảm con người trước hiện thực cuộc sống ở Đoàn thuyền
đánh cá được thể hiện ở dấu ấn đặc sắc về ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện (Phân tích,
làm rõ giá trị nghệ thuật ở các phương diện: thể thơ 7 chữ; âm hưởng hào hùng, khoẻ
khoắn; hình ảnh liên tưởng, kì vĩ; bút pháp pháp khoa trương, phóng đại, lãng mạn,
bay bổng; sử dụng kết hợp hiệu quả các biện pháp nghệ thuật như kết cấu lặp lại, so
sánh, nhân hoá, hoán dụ, ẩn dụ, liệt kê, nói quá, từ láy...)
4. Đánh giá, nâng cao
- Về ý nghĩa của vấn đề: ý kiến của Nguyễn Đình Thi về một trong những đặc trưng
bản chất của thơ không chỉ có tác dụng nhất thời mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị
bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn, tính nghệ thuật mang giá trị thẩm mĩ
– đặc trưng cơ bản của thơ ca văn học.
- Đối với người sáng tác: định hướng cho sự sáng tạo, làm thơ phải biết lựa chọn ngôn
ngữ hàm súc, giàu sức gợi, có sức hấp dẫn, lôi cuốn ở các hình tượng nghệ thuật, hình
ảnh, nhạc điệu... Làm sao đó để thông qua ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật giàu sức
gợi trong thơ, người đọc như nhận ra cả thể giới đang hiện hữu, nhận ra chính mình ở
trong đó, thêm hiểu về con người và bản thân mình hơn.
- Đối với người thưởng thức: định hướng tiếp nhận, đọc thơ không chỉ hiểu nghĩa câu
chữ mà phải dựng dậy lớp nghĩa được gợi ra từ câu chữ gắn với thời đại, xã hội, con
người cụ thể bằng cảm xúc chân thành của bản thân và sự đồng sáng tạo với người
nghệ sĩ trong tác phẩm thơ ca.
III/ Khẳng định lại vấn đề nghị luận, bày tỏ suy nghĩ của bản thân.
Bàn về ngôn ngữ trong thơ, Nguyễn Đình Thi viết:
“Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng
gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc,
những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức
mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy.”
Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
I/ Mở bài
- Giới thiệu nhận định của nhà thơ Nguyễn Đình Thi
- Dẫn dắt, giới thiệu bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
II/ Thân bài
1/ Giải thích ý kiến của Nguyễn Đình Thi:
– Ngôn ngữ thơ (chữ và nghĩa trong thơ) vừa có nghĩa do bản thân câu chữ mang lại
(nghĩa của nó, nghĩa gọi tên) vừa có nghĩa do câu chữ gợi ra (cảm xúc, hình ảnh, vùng
ánh sáng lay động, sức gợi).
– Khẳng định: Sức mạnh nhất của thơ là sức gợi ấy.
 Bằng cách diễn đạt hình ảnh rất cụ thể và sinh động, Nguyễn Đình Thi đã nhấn
mạnh và làm nổi bật một đặc trưng bản chất của thơ ca: ngôn ngữ trong thơ, vấn đề
chữ và nghĩa. Tác giả vừa khẳng định vừa cắt nghĩa, lí giải sức mạnh của thơ nằm ở
sức gợi.
2/ Bình luận sức mạnh của thơ
a/ Công dụng trước hết của thơ là gọi tên sự vật: Mọi loại hình nghệ thuật đều phải lấy
hiện thực làm chất liệu sáng tác cho mình. Một tác phẩm thơ có giá trị phải bắt rễ thật
chặt với hiện thực cuộc sống để phản ánh một cách trung thực, sinh động những vấn
đề tiêu biểu, điển hình trong cuộc sống.
b. Không chỉ gọi tên sự vật, thơ ca “tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó
những cảm xúc, hình ảnh, toả ra... vùng ánh sáng động đậy”:
- Vùng ánh sáng trong tác phẩm thơ: đó là ánh sáng của những kí thác, tâm sự, tư
tưởng, tình cảm, cảm xúc mãnh liệt của tác giả gửi gắm vào tác phẩm của mình, có
khả năng tung toả, mở rộng, khơi gợi cảm xúc, hình ảnh về cuộc sống; đặc biệt chiếu
toả, soi rọi vào sâu thẳm tâm trí ta, làm thay đổi mắt ta nhìn, óc ta nghĩ, lay thức tâm
hồn ta những tình cảm tốt đẹp: biết rung động, say mê trước cái đẹp; biết buồn, vui,
yêu ghét, căm thù; biết cho và nhận, hưởng thụ và cống hiến... từ đó hướng đến cải tạo
xã hội, hoàn thiện tâm hồn, nhân cách mỗi người.
c. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy: Cái đẹp của hiện thực hay thế giới tâm
hồn con người trong thơ được thể hiện ở “sức gợi”bằng ngôn ngữ có tính hàm súc của
nghệ thuật, mang hơi thở cuộc đời, cảm xúc tâm hồn con người, thể hiện qua từ ngữ,
hình ảnh, nhịp điệu, âm thanh... Đó là thứ ngôn ngữ có giá trị thẩm mĩ cao, gắn với cá
tính, phong cách riêng của người nghệ sĩ.
=> Nguyễn Đình Thi đã khái quát vấn đề có ý nghĩa sâu sắc về giá trị sức mạnh của
thơ ca trong việc phản ánh hiện thực và khơi gợi những cảm xúc, tình cảm tốt đẹp cho
mỗi người (gắn với bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận)
3/ Chứng minh
a/ Giới thiệu tác giả, tác phẩm
b/ Chứng minh nhận định vào tác phẩm
- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã “gọi tên sự vật” bằng sự phản ánh chân thực, sinh
động về hiện thực (Khái quát được hiện thực không khí lao động dựng xây CNXH ở
miền Bắc những năm 1958; hoàn cảnh ra đời bài thơ gắn với sự thay đổi tư tưởng của
Huy Cận về cuộc sống.)
- Thi phẩm Đoàn thuyền đánh cá là sự”giải toả”những cảm xúc của nhà thơ trước vẻ
đẹp hoà hợp giữa bức tranh thiên nhiên, vũ trụ với người lao động, qua đó thể hiện
tình yêu cuộc sống, niềm lạc quan, tin yêu phơi phới của nhà thơ trước cuộc đời, con
người. (Phân tích, làm rõ vẻ đẹp hoà hợp giữa thiên nhiên và người lao động ở 3 phần,
theo trình tự chuyến ra khơi đánh cá cùng những tình cảm của nhà thơ trong tác phẩm)
- Bài thơ đã tác động sâu sắc tới người đọc, giúp ta nhận ra vẻ đẹp và giá trị thực sự
của cuộc sống, thôi thúc ta sống có hoài bão, lí tưởng, biết yêu thiên nhiên, đất nước,
hăng say lao động để góp phần dựng xây Tổ quốc.
- “Sức gợi” cảm xúc, tình cảm con người trước hiện thực cuộc sống ở Đoàn thuyền
đánh cá được thể hiện ở dấu ấn đặc sắc về ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện (Phân tích,
làm rõ giá trị nghệ thuật ở các phương diện: thể thơ 7 chữ; âm hưởng hào hùng, khoẻ
khoắn; hình ảnh liên tưởng, kì vĩ; bút pháp pháp khoa trương, phóng đại, lãng mạn,
bay bổng; sử dụng kết hợp hiệu quả các biện pháp nghệ thuật như kết cấu lặp lại, so
sánh, nhân hoá, hoán dụ, ẩn dụ, liệt kê, nói quá, từ láy...)
4. Đánh giá, nâng cao
- Về ý nghĩa của vấn đề: ý kiến của Nguyễn Đình Thi về một trong những đặc trưng
bản chất của thơ không chỉ có tác dụng nhất thời mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị
bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn, tính nghệ thuật mang giá trị thẩm mĩ
– đặc trưng cơ bản của thơ ca văn học.
- Đối với người sáng tác: định hướng cho sự sáng tạo, làm thơ phải biết lựa chọn ngôn
ngữ hàm súc, giàu sức gợi, có sức hấp dẫn, lôi cuốn ở các hình tượng nghệ thuật, hình
ảnh, nhạc điệu... Làm sao đó để thông qua ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật giàu sức
gợi trong thơ, người đọc như nhận ra cả thể giới đang hiện hữu, nhận ra chính mình ở
trong đó, thêm hiểu về con người và bản thân mình hơn.
- Đối với người thưởng thức: định hướng tiếp nhận, đọc thơ không chỉ hiểu nghĩa câu
chữ mà phải dựng dậy lớp nghĩa được gợi ra từ câu chữ gắn với thời đại, xã hội, con
người cụ thể bằng cảm xúc chân thành của bản thân và sự đồng sáng tạo với người
nghệ sĩ trong tác phẩm thơ ca.
III/ Khẳng định lại vấn đề nghị luận, bày tỏ suy nghĩ của bản thân.
Bàn về ngôn ngữ trong thơ, Nguyễn Đình Thi viết:
“Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng
gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc,
những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức
mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy.”
Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
I/ Mở bài
- Giới thiệu nhận định của nhà thơ Nguyễn Đình Thi
- Dẫn dắt, giới thiệu bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
II/ Thân bài
1/ Giải thích ý kiến của Nguyễn Đình Thi:
– Ngôn ngữ thơ (chữ và nghĩa trong thơ) vừa có nghĩa do bản thân câu chữ mang lại
(nghĩa của nó, nghĩa gọi tên) vừa có nghĩa do câu chữ gợi ra (cảm xúc, hình ảnh, vùng
ánh sáng lay động, sức gợi).
– Khẳng định: Sức mạnh nhất của thơ là sức gợi ấy.
 Bằng cách diễn đạt hình ảnh rất cụ thể và sinh động, Nguyễn Đình Thi đã nhấn
mạnh và làm nổi bật một đặc trưng bản chất của thơ ca: ngôn ngữ trong thơ, vấn đề
chữ và nghĩa. Tác giả vừa khẳng định vừa cắt nghĩa, lí giải sức mạnh của thơ nằm ở
sức gợi.
2/ Bình luận sức mạnh của thơ
a/ Công dụng trước hết của thơ là gọi tên sự vật: Mọi loại hình nghệ thuật đều phải lấy
hiện thực làm chất liệu sáng tác cho mình. Một tác phẩm thơ có giá trị phải bắt rễ thật
chặt với hiện thực cuộc sống để phản ánh một cách trung thực, sinh động những vấn
đề tiêu biểu, điển hình trong cuộc sống.
b. Không chỉ gọi tên sự vật, thơ ca “tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó
những cảm xúc, hình ảnh, toả ra... vùng ánh sáng động đậy”:
- Vùng ánh sáng trong tác phẩm thơ: đó là ánh sáng của những kí thác, tâm sự, tư
tưởng, tình cảm, cảm xúc mãnh liệt của tác giả gửi gắm vào tác phẩm của mình, có
khả năng tung toả, mở rộng, khơi gợi cảm xúc, hình ảnh về cuộc sống; đặc biệt chiếu
toả, soi rọi vào sâu thẳm tâm trí ta, làm thay đổi mắt ta nhìn, óc ta nghĩ, lay thức tâm
hồn ta những tình cảm tốt đẹp: biết rung động, say mê trước cái đẹp; biết buồn, vui,
yêu ghét, căm thù; biết cho và nhận, hưởng thụ và cống hiến... từ đó hướng đến cải tạo
xã hội, hoàn thiện tâm hồn, nhân cách mỗi người.
c. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy: Cái đẹp của hiện thực hay thế giới tâm
hồn con người trong thơ được thể hiện ở “sức gợi”bằng ngôn ngữ có tính hàm súc của
nghệ thuật, mang hơi thở cuộc đời, cảm xúc tâm hồn con người, thể hiện qua từ ngữ,
hình ảnh, nhịp điệu, âm thanh... Đó là thứ ngôn ngữ có giá trị thẩm mĩ cao, gắn với cá
tính, phong cách riêng của người nghệ sĩ.
=> Nguyễn Đình Thi đã khái quát vấn đề có ý nghĩa sâu sắc về giá trị sức mạnh của
thơ ca trong việc phản ánh hiện thực và khơi gợi những cảm xúc, tình cảm tốt đẹp cho
mỗi người (gắn với bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận)
3/ Chứng minh
a/ Giới thiệu tác giả, tác phẩm
b/ Chứng minh nhận định vào tác phẩm
- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã “gọi tên sự vật” bằng sự phản ánh chân thực, sinh
động về hiện thực (Khái quát được hiện thực không khí lao động dựng xây CNXH ở
miền Bắc những năm 1958; hoàn cảnh ra đời bài thơ gắn với sự thay đổi tư tưởng của
Huy Cận về cuộc sống.)
- Thi phẩm Đoàn thuyền đánh cá là sự”giải toả”những cảm xúc của nhà thơ trước vẻ
đẹp hoà hợp giữa bức tranh thiên nhiên, vũ trụ với người lao động, qua đó thể hiện
tình yêu cuộc sống, niềm lạc quan, tin yêu phơi phới của nhà thơ trước cuộc đời, con
người. (Phân tích, làm rõ vẻ đẹp hoà hợp giữa thiên nhiên và người lao động ở 3 phần,
theo trình tự chuyến ra khơi đánh cá cùng những tình cảm của nhà thơ trong tác phẩm)
- Bài thơ đã tác động sâu sắc tới người đọc, giúp ta nhận ra vẻ đẹp và giá trị thực sự
của cuộc sống, thôi thúc ta sống có hoài bão, lí tưởng, biết yêu thiên nhiên, đất nước,
hăng say lao động để góp phần dựng xây Tổ quốc.
- “Sức gợi” cảm xúc, tình cảm con người trước hiện thực cuộc sống ở Đoàn thuyền
đánh cá được thể hiện ở dấu ấn đặc sắc về ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện (Phân tích,
làm rõ giá trị nghệ thuật ở các phương diện: thể thơ 7 chữ; âm hưởng hào hùng, khoẻ
khoắn; hình ảnh liên tưởng, kì vĩ; bút pháp pháp khoa trương, phóng đại, lãng mạn,
bay bổng; sử dụng kết hợp hiệu quả các biện pháp nghệ thuật như kết cấu lặp lại, so
sánh, nhân hoá, hoán dụ, ẩn dụ, liệt kê, nói quá, từ láy...)
4. Đánh giá, nâng cao
- Về ý nghĩa của vấn đề: ý kiến của Nguyễn Đình Thi về một trong những đặc trưng
bản chất của thơ không chỉ có tác dụng nhất thời mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị
bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn, tính nghệ thuật mang giá trị thẩm mĩ
– đặc trưng cơ bản của thơ ca văn học.
- Đối với người sáng tác: định hướng cho sự sáng tạo, làm thơ phải biết lựa chọn ngôn
ngữ hàm súc, giàu sức gợi, có sức hấp dẫn, lôi cuốn ở các hình tượng nghệ thuật, hình
ảnh, nhạc điệu... Làm sao đó để thông qua ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật giàu sức
gợi trong thơ, người đọc như nhận ra cả thể giới đang hiện hữu, nhận ra chính mình ở
trong đó, thêm hiểu về con người và bản thân mình hơn.
- Đối với người thưởng thức: định hướng tiếp nhận, đọc thơ không chỉ hiểu nghĩa câu
chữ mà phải dựng dậy lớp nghĩa được gợi ra từ câu chữ gắn với thời đại, xã hội, con
người cụ thể bằng cảm xúc chân thành của bản thân và sự đồng sáng tạo với người
nghệ sĩ trong tác phẩm thơ ca.
III/ Khẳng định lại vấn đề nghị luận, bày tỏ suy nghĩ của bản thân.
Bàn về ngôn ngữ trong thơ, Nguyễn Đình Thi viết:
“Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng
gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc,
những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức
mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy.”
Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
I/ Mở bài
- Giới thiệu nhận định của nhà thơ Nguyễn Đình Thi
- Dẫn dắt, giới thiệu bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
II/ Thân bài
1/ Giải thích ý kiến của Nguyễn Đình Thi:
– Ngôn ngữ thơ (chữ và nghĩa trong thơ) vừa có nghĩa do bản thân câu chữ mang lại
(nghĩa của nó, nghĩa gọi tên) vừa có nghĩa do câu chữ gợi ra (cảm xúc, hình ảnh, vùng
ánh sáng lay động, sức gợi).
– Khẳng định: Sức mạnh nhất của thơ là sức gợi ấy.
 Bằng cách diễn đạt hình ảnh rất cụ thể và sinh động, Nguyễn Đình Thi đã nhấn
mạnh và làm nổi bật một đặc trưng bản chất của thơ ca: ngôn ngữ trong thơ, vấn đề
chữ và nghĩa. Tác giả vừa khẳng định vừa cắt nghĩa, lí giải sức mạnh của thơ nằm ở
sức gợi.
2/ Bình luận sức mạnh của thơ
a/ Công dụng trước hết của thơ là gọi tên sự vật: Mọi loại hình nghệ thuật đều phải lấy
hiện thực làm chất liệu sáng tác cho mình. Một tác phẩm thơ có giá trị phải bắt rễ thật
chặt với hiện thực cuộc sống để phản ánh một cách trung thực, sinh động những vấn
đề tiêu biểu, điển hình trong cuộc sống.
b. Không chỉ gọi tên sự vật, thơ ca “tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó
những cảm xúc, hình ảnh, toả ra... vùng ánh sáng động đậy”:
- Vùng ánh sáng trong tác phẩm thơ: đó là ánh sáng của những kí thác, tâm sự, tư
tưởng, tình cảm, cảm xúc mãnh liệt của tác giả gửi gắm vào tác phẩm của mình, có
khả năng tung toả, mở rộng, khơi gợi cảm xúc, hình ảnh về cuộc sống; đặc biệt chiếu
toả, soi rọi vào sâu thẳm tâm trí ta, làm thay đổi mắt ta nhìn, óc ta nghĩ, lay thức tâm
hồn ta những tình cảm tốt đẹp: biết rung động, say mê trước cái đẹp; biết buồn, vui,
yêu ghét, căm thù; biết cho và nhận, hưởng thụ và cống hiến... từ đó hướng đến cải tạo
xã hội, hoàn thiện tâm hồn, nhân cách mỗi người.
c. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy: Cái đẹp của hiện thực hay thế giới tâm
hồn con người trong thơ được thể hiện ở “sức gợi”bằng ngôn ngữ có tính hàm súc của
nghệ thuật, mang hơi thở cuộc đời, cảm xúc tâm hồn con người, thể hiện qua từ ngữ,
hình ảnh, nhịp điệu, âm thanh... Đó là thứ ngôn ngữ có giá trị thẩm mĩ cao, gắn với cá
tính, phong cách riêng của người nghệ sĩ.
=> Nguyễn Đình Thi đã khái quát vấn đề có ý nghĩa sâu sắc về giá trị sức mạnh của
thơ ca trong việc phản ánh hiện thực và khơi gợi những cảm xúc, tình cảm tốt đẹp cho
mỗi người (gắn với bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận)
3/ Chứng minh
a/ Giới thiệu tác giả, tác phẩm
b/ Chứng minh nhận định vào tác phẩm
- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã “gọi tên sự vật” bằng sự phản ánh chân thực, sinh
động về hiện thực (Khái quát được hiện thực không khí lao động dựng xây CNXH ở
miền Bắc những năm 1958; hoàn cảnh ra đời bài thơ gắn với sự thay đổi tư tưởng của
Huy Cận về cuộc sống.)
- Thi phẩm Đoàn thuyền đánh cá là sự”giải toả”những cảm xúc của nhà thơ trước vẻ
đẹp hoà hợp giữa bức tranh thiên nhiên, vũ trụ với người lao động, qua đó thể hiện
tình yêu cuộc sống, niềm lạc quan, tin yêu phơi phới của nhà thơ trước cuộc đời, con
người. (Phân tích, làm rõ vẻ đẹp hoà hợp giữa thiên nhiên và người lao động ở 3 phần,
theo trình tự chuyến ra khơi đánh cá cùng những tình cảm của nhà thơ trong tác phẩm)
- Bài thơ đã tác động sâu sắc tới người đọc, giúp ta nhận ra vẻ đẹp và giá trị thực sự
của cuộc sống, thôi thúc ta sống có hoài bão, lí tưởng, biết yêu thiên nhiên, đất nước,
hăng say lao động để góp phần dựng xây Tổ quốc.
- “Sức gợi” cảm xúc, tình cảm con người trước hiện thực cuộc sống ở Đoàn thuyền
đánh cá được thể hiện ở dấu ấn đặc sắc về ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện (Phân tích,
làm rõ giá trị nghệ thuật ở các phương diện: thể thơ 7 chữ; âm hưởng hào hùng, khoẻ
khoắn; hình ảnh liên tưởng, kì vĩ; bút pháp pháp khoa trương, phóng đại, lãng mạn,
bay bổng; sử dụng kết hợp hiệu quả các biện pháp nghệ thuật như kết cấu lặp lại, so
sánh, nhân hoá, hoán dụ, ẩn dụ, liệt kê, nói quá, từ láy...)
4. Đánh giá, nâng cao
- Về ý nghĩa của vấn đề: ý kiến của Nguyễn Đình Thi về một trong những đặc trưng
bản chất của thơ không chỉ có tác dụng nhất thời mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị
bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn, tính nghệ thuật mang giá trị thẩm mĩ
– đặc trưng cơ bản của thơ ca văn học.
- Đối với người sáng tác: định hướng cho sự sáng tạo, làm thơ phải biết lựa chọn ngôn
ngữ hàm súc, giàu sức gợi, có sức hấp dẫn, lôi cuốn ở các hình tượng nghệ thuật, hình
ảnh, nhạc điệu... Làm sao đó để thông qua ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật giàu sức
gợi trong thơ, người đọc như nhận ra cả thể giới đang hiện hữu, nhận ra chính mình ở
trong đó, thêm hiểu về con người và bản thân mình hơn.
- Đối với người thưởng thức: định hướng tiếp nhận, đọc thơ không chỉ hiểu nghĩa câu
chữ mà phải dựng dậy lớp nghĩa được gợi ra từ câu chữ gắn với thời đại, xã hội, con
người cụ thể bằng cảm xúc chân thành của bản thân và sự đồng sáng tạo với người
nghệ sĩ trong tác phẩm thơ ca.
III/ Khẳng định lại vấn đề nghị luận, bày tỏ suy nghĩ của bản thân.
Bàn về ngôn ngữ trong thơ, Nguyễn Đình Thi viết:
“Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng
gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc,
những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức
mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy.”
Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
I/ Mở bài
- Giới thiệu nhận định của nhà thơ Nguyễn Đình Thi
- Dẫn dắt, giới thiệu bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
II/ Thân bài
1/ Giải thích ý kiến của Nguyễn Đình Thi:
– Ngôn ngữ thơ (chữ và nghĩa trong thơ) vừa có nghĩa do bản thân câu chữ mang lại
(nghĩa của nó, nghĩa gọi tên) vừa có nghĩa do câu chữ gợi ra (cảm xúc, hình ảnh, vùng
ánh sáng lay động, sức gợi).
– Khẳng định: Sức mạnh nhất của thơ là sức gợi ấy.
 Bằng cách diễn đạt hình ảnh rất cụ thể và sinh động, Nguyễn Đình Thi đã nhấn
mạnh và làm nổi bật một đặc trưng bản chất của thơ ca: ngôn ngữ trong thơ, vấn đề
chữ và nghĩa. Tác giả vừa khẳng định vừa cắt nghĩa, lí giải sức mạnh của thơ nằm ở
sức gợi.
2/ Bình luận sức mạnh của thơ
a/ Công dụng trước hết của thơ là gọi tên sự vật: Mọi loại hình nghệ thuật đều phải lấy
hiện thực làm chất liệu sáng tác cho mình. Một tác phẩm thơ có giá trị phải bắt rễ thật
chặt với hiện thực cuộc sống để phản ánh một cách trung thực, sinh động những vấn
đề tiêu biểu, điển hình trong cuộc sống.
b. Không chỉ gọi tên sự vật, thơ ca “tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó
những cảm xúc, hình ảnh, toả ra... vùng ánh sáng động đậy”:
- Vùng ánh sáng trong tác phẩm thơ: đó là ánh sáng của những kí thác, tâm sự, tư
tưởng, tình cảm, cảm xúc mãnh liệt của tác giả gửi gắm vào tác phẩm của mình, có
khả năng tung toả, mở rộng, khơi gợi cảm xúc, hình ảnh về cuộc sống; đặc biệt chiếu
toả, soi rọi vào sâu thẳm tâm trí ta, làm thay đổi mắt ta nhìn, óc ta nghĩ, lay thức tâm
hồn ta những tình cảm tốt đẹp: biết rung động, say mê trước cái đẹp; biết buồn, vui,
yêu ghét, căm thù; biết cho và nhận, hưởng thụ và cống hiến... từ đó hướng đến cải tạo
xã hội, hoàn thiện tâm hồn, nhân cách mỗi người.
c. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy: Cái đẹp của hiện thực hay thế giới tâm
hồn con người trong thơ được thể hiện ở “sức gợi”bằng ngôn ngữ có tính hàm súc của
nghệ thuật, mang hơi thở cuộc đời, cảm xúc tâm hồn con người, thể hiện qua từ ngữ,
hình ảnh, nhịp điệu, âm thanh... Đó là thứ ngôn ngữ có giá trị thẩm mĩ cao, gắn với cá
tính, phong cách riêng của người nghệ sĩ.
=> Nguyễn Đình Thi đã khái quát vấn đề có ý nghĩa sâu sắc về giá trị sức mạnh của
thơ ca trong việc phản ánh hiện thực và khơi gợi những cảm xúc, tình cảm tốt đẹp cho
mỗi người (gắn với bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận)
3/ Chứng minh
a/ Giới thiệu tác giả, tác phẩm
b/ Chứng minh nhận định vào tác phẩm
- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã “gọi tên sự vật” bằng sự phản ánh chân thực, sinh
động về hiện thực (Khái quát được hiện thực không khí lao động dựng xây CNXH ở
miền Bắc những năm 1958; hoàn cảnh ra đời bài thơ gắn với sự thay đổi tư tưởng của
Huy Cận về cuộc sống.)
- Thi phẩm Đoàn thuyền đánh cá là sự”giải toả”những cảm xúc của nhà thơ trước vẻ
đẹp hoà hợp giữa bức tranh thiên nhiên, vũ trụ với người lao động, qua đó thể hiện
tình yêu cuộc sống, niềm lạc quan, tin yêu phơi phới của nhà thơ trước cuộc đời, con
người. (Phân tích, làm rõ vẻ đẹp hoà hợp giữa thiên nhiên và người lao động ở 3 phần,
theo trình tự chuyến ra khơi đánh cá cùng những tình cảm của nhà thơ trong tác phẩm)
- Bài thơ đã tác động sâu sắc tới người đọc, giúp ta nhận ra vẻ đẹp và giá trị thực sự
của cuộc sống, thôi thúc ta sống có hoài bão, lí tưởng, biết yêu thiên nhiên, đất nước,
hăng say lao động để góp phần dựng xây Tổ quốc.
- “Sức gợi” cảm xúc, tình cảm con người trước hiện thực cuộc sống ở Đoàn thuyền
đánh cá được thể hiện ở dấu ấn đặc sắc về ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện (Phân tích,
làm rõ giá trị nghệ thuật ở các phương diện: thể thơ 7 chữ; âm hưởng hào hùng, khoẻ
khoắn; hình ảnh liên tưởng, kì vĩ; bút pháp pháp khoa trương, phóng đại, lãng mạn,
bay bổng; sử dụng kết hợp hiệu quả các biện pháp nghệ thuật như kết cấu lặp lại, so
sánh, nhân hoá, hoán dụ, ẩn dụ, liệt kê, nói quá, từ láy...)
4. Đánh giá, nâng cao
- Về ý nghĩa của vấn đề: ý kiến của Nguyễn Đình Thi về một trong những đặc trưng
bản chất của thơ không chỉ có tác dụng nhất thời mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị
bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn, tính nghệ thuật mang giá trị thẩm mĩ
– đặc trưng cơ bản của thơ ca văn học.
- Đối với người sáng tác: định hướng cho sự sáng tạo, làm thơ phải biết lựa chọn ngôn
ngữ hàm súc, giàu sức gợi, có sức hấp dẫn, lôi cuốn ở các hình tượng nghệ thuật, hình
ảnh, nhạc điệu... Làm sao đó để thông qua ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật giàu sức
gợi trong thơ, người đọc như nhận ra cả thể giới đang hiện hữu, nhận ra chính mình ở
trong đó, thêm hiểu về con người và bản thân mình hơn.
- Đối với người thưởng thức: định hướng tiếp nhận, đọc thơ không chỉ hiểu nghĩa câu
chữ mà phải dựng dậy lớp nghĩa được gợi ra từ câu chữ gắn với thời đại, xã hội, con
người cụ thể bằng cảm xúc chân thành của bản thân và sự đồng sáng tạo với người
nghệ sĩ trong tác phẩm thơ ca.
III/ Khẳng định lại vấn đề nghị luận, bày tỏ suy nghĩ của bản thân.
[NGỮ VĂN 9] LẶNG LẼ SA PA
Nguyễn Thành Long
I/ Vài nét về tác giả - tác phẩm
1.Tác giả
- Nhà văn Nguyễn Thành Long ( 1925 – 1991), quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam, thuở nhỏ, ông sống chủ yếu ở Quy Nhơn ( Bình Định), năm 18 tuổi ông chuyển
ra học ở Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Thành Long tham gia kháng
chiến chống Pháp ở khu V và bắt đầu viết văn. Sau năm 1954, ông tập kết ra Bắc,
công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam, chuyền về sáng tác và biên tập. Ông là cây bút
chuyên về truyện ngắn và bút kí.
- Đặc điểm phong cách nghệ thuật: truyện của Nguyễn Thành Long hấp dẫn người đọc
bằng giọng văn trong sáng, giàu chất thơ, nhẹ nhàng, thoải mái, cốt truyện tưởng như
giản đơn mà rất giàu ý nghĩa khái quát, tiêu biểu cho phong cách nhẹ nhàng, kín đáo
mà rất sâu sắc và thấm đẫm chất thơ.
- Tác phẩm chính:
+ Kí : Bát cơm Cụ Hồ ( 1955); Gió bắc nồm (1956)…
+ Truyện : Ta và chúng nó ( 1950), Chuyện nhà chuyện xướng ( 1962), những tiếng
vỗ cánh ( 1967), Giữa trong xanh ( 1972), Nửa đêm về sáng ( 1978), Lí Sơn mùa tỏi
( 1980), sáng mai nào, xế chiều nào ( 1984)…
2, Văn bản
a/ Xuất xứ, vị trí:
“Lặng lẽ Sa Pa” là kết quả của chuyến công tác ở Lào Cai trong mùa hè năm 1970,
sau này được in trong tập Giữa trong xanh ( 1972). Đây là truyện ngắn tiêu biểu ở đề
tài viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc.
b/ Ngôi kể thứ ba
c/ Tóm tắt:
“Lặng lẽ Sa Pa” kể về nhân vật chính là một anh thanh niên 27 tuổi sống một mình
trên đỉnh núi Yên Sơn quanh năm mây mù bao phủ. Công việc chính của anh là công
tác khí tượng thuỷ văn kiêm vật lí địa cầu. Công việc ấy đòi hỏi anh phải có tinh thần
trách nhiệm cao vì thế 4 năm anh chưa về nhà một lần. Ở đây, anh luôn thèm người vì
vậy anh đã dùng cây chắn ngang đường để mong được tiếp xúc với người qua đường.
Trong một lần anh làm quen với bác lái xe và nhờ bác giới thiệu, anh gặp gỡ với hành
khách trên xe trong đó có ông hoa sĩ và cô kĩ sư ,họ đã lên thăm chỗ anh ở. Trong
cuộc gặp gỡ anh thanh niên hào hứng giới thiệu với khách về công việc hằng ngày của
mình – những công việc âm thầm nhưng vô cùng có ích cho cuộc sống. Họa sĩ già
phát hiện ra phẩm chất đẹp đẽ, cao quý của anh thanh niên nên đã phác họa một bức
chân dung. Qua lời kể của anh, các vị khách còn được biết thêm về rất nhiều gương
sáng trong lao động, sản xuất, đem hết nhiệt tình phục vụ sự nghiệp xây dựng và chiến
đấu bảo vệ Tổ quốc. Sau ba mươi phút ngắn ngủi, họ chia tay. Trước khi ra về anh
không quên tặng hành khách trên xe một làn trứng để ăn trưa. Anh đã để lại ấn tượng
tốt trong lòng ông họa sĩ và cô kĩ sư. Ông họa sĩ đ hứa sẽ có dịp quay trở lại thăm anh.
3, Ý nghĩa nhan đề
- Lặng lẽ Sa Pa là một nhan đề giàu chất thơ, góp phần khắc họa chủ đề tư tưởng của
tác phẩm:
+ Phép đảo ngữ, đưa tính từ “lặng lẽ” đảo lên trước để nói đến một Sa Pa yên bình,
thơ mộng
+ Ngoài ra nhan đề còn gợi hình ảnh những con người Sa pa âm thầm làm việc, cống
hiến cho sự đổi thay của đất nước. Họ chính là những dòng sông cuộn chảy mang phù
sa bồi đắp cho đất nước thêm giàu đẹp.
II/ PHÂN TÍCH
1, Tình huống truyện và hệ thống nhân vật
- Tình huống truyện khá đơn giản, đó chỉ là một cuộc gặp gỡ tình cờ giữa anh thanh
niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn với bác lái xe và hai hành khách
- Tác dụng:
+ Để cho nhân vật chính là anh thanh niên xuất hiện một cách tự nhiên, khách quan và
không đột ngột
+ Được soi chiếu, đánh giá và cảm nhận một cách khách quan từ những nhân vật khác
+ Các nhân vật trong truyện dần xuất hiện một cách tự nhiên, lặng lẽ đã góp phần làm
nổi bật chủ đề, tư tưởng của tác phẩm
- Hệ thống nhân vật:
+ Nhân vật chính là anh thanh niên, hiện lên như một bức chân dung. Song chưa được
xây dựng thành một tính cách hoàn chỉnh và hầu như chưa có cá tính
+ Các nhân vật trong truyện, từ các nhân vật chính đến các nhân vật phụ đều không có
tên riêng, chỉ được gọi tên qua đặc điểm giới tính, nghề nghiệp, tuổi tác (anh thanh
niên, bác lái xe, ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ, ông kĩ sư, anh cán bộ,...)
+ Các nhân vật phụ xuất hiện có vai trò làm nổi bật phẩm chất của nhân vật chính
 Hệ thống nhân vật được xây dựng theo dụng ý nghệ thuật của tác giả để thể hiện chủ
đề, tư tưởng của tác phẩm. Họ là những con người vô danh (không tên), ở mọi lứa
tuổi, ngành nghề, giới tính, ở nhiều nơi trên đất nước đang ngày đêm lặng lẽ, say mê
trong công việc để cống hiến cho đất nước. Điều đó làm tăng thêm sức khái quát của
tác phẩm.
2. Bức tranh thiên nhiên của Sa Pa
- Thiên nhiên Sa Pa hiện lên êm đềm, lãng mạn và thật sống động: “Nắng bất ngờ bắt
đầu len tới, đốt cháy rừng cây . Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng
những ngón tay bằng bằng bạc dưới cái nhìn bao che của cây tử kinh thỉnh thoảng nhô
cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng
cục, lăn trên những vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe...”
+Sử dụng biện pháp liệt kê để phô bày tất cả những nét riêng, đặc và độc đáo của
thiên nhiên Sa Pa. Vẻ đẹp ấy làm say đắm lòng người và như mời gọi con người hãy
đến vùng đất này để khám phá, thưởng thức.
+ Sử dụng biện pháp nhân hóa qua hình ảnh “nắng...đốt cháy rừng cây”, “nắng mạ bạc
cả con đèo” gợi không gian như bừng sáng, khiến cảnh vật thêm lung linh, rực rỡ.
- Nghệ thuật nhân hóa “nắng...cháy rừng cây”, “mây bị nắng xua” khiến cho cảnh vật
sống động như mang được linh hồn của thiên nhiên Sa Pa.
- Tác giả đã khắc họa được một bức tranh tráng lệ, rực rỡ, thơ mộng với những đường
nét,hình khối,màu sắc đặc trưng của thiên nhiên Sa Pa. Và đó còn là cái nền để
Nguyễn Thành Long tô đậm, khắc sâu vẻ đẹp của con người.
3. Nhân vật anh thanh niên
a. Một người yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm trong công việc
- Một người yêu nghề, dám chấp nhận hy sinh:
+Chấp nhận sống và làm việc trong một hoàn cảnh, môi trường đặc biệt:Trên đỉnh núi
Yên Sơn cao 2600m, quanh năm chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo.
+Coi công việc như một người bạn: “Khi ta làm việc,ta với công việc là đôi,sao gọi là
một mình được?.... Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi,cháu buồn chết
mất”.
+Tìm thấy những ý nghĩa trong công việc: “báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản
xuất, phục vụ chiến đấu”.
+Tự hào và hạnh phúc bởi anh không chỉ giúp ích cho lao động mà cả rong chiến đấu:
Phát hiện một đám mây khô giúp không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên
cầu Hàm Rồng.
- Có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc:
+Làm việc một mình trên đỉnh núi cao,không có ai giám sát song anh vẫn luôn tự
giác,tận tụy: Mỗi ngày đều có 4 lần đi “ốp” để báo về nhà,không ngần ngại những
đêm mưa tuyết,...
+Tác phong làm việc khoa học,nghiêm túc,đúng giờ giấc và chính xác đến từng phút:
Anh đếm từng phút trong cuộc gặp gỡ vì sợ hết ba mươi phút.
+Anh luôn hoàn thành xuất sắc công việc của mình
- Anh thanh niên là hiện thân cho những con người lao động mới trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ quê hương,đất nước thêm giàu đẹp.
b. Một người có tinh thần lạc quan và yêu tha thiết cuộc sống
- Anh biết tạo ra niềm vui trong cuộc sống của mình bằng việc trồng đủ các loài hoa
rực rỡ để làm đẹp cho ngôi nhà mình ở; nuôi gà,nuôi ong để làm giàu nguồn lương
thực cho mình.
- Luôn tự trau rồi bản thân bằng cách đọc qua sách, để nâng cao hiểu biết và chất
lượng cuộc sống.
- Không chỉ sắp xếp, tổ chức công việc một cách khoa học, mà ngay trong cuộc sống
anh cũng thật gọn gàng,ngăn nắp: Một căn nhà ba gian sạch sẽ khiến ông họa sĩ phải
trầm trồ và bất ngờ.
- Tinh thần lạc quan đã là điểm tựa vững bền giúp anh chủ động vượt lên hoàn cảnh
còn nhiều khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần và tìm được niềm vui,ý nghĩa của cuộc
sống.
c. Một con người chân thành,cởi mở và hiếu khách
- Thể hiện ở nỗi thèm người, muốn được nhìn ngắm,trò truyện với con người. Vì thế,
anh đã lấy khúc cây chắn ngang đường để dừng những chuyến xe hiếm hoi.
- Khi gặp được người thì anh mừng đến mức tất cả cuống cuồng như không kiềm
được cảm xúc: “anh chạy vụt đi,cũng tất tả như khi đến”, “người con trai nói to những
điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ”.
- Anh là một người thân thiện,cởi mở ngay cả với những người mới gặp lần đầu: Niềm
nở,hồ hởi không giấu lòng,pha trà,tặng hoa và cả quà ăn đường.
- Trân trọng từng giây từng phút gặp gỡ:Đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút
gặp gỡ vô cùng quý báu.
-Anh quan tâm, chu đáo đến cả những người tình cờ gặp gỡ và sẵn sàng yêu thương,
sẻ chia:Nghe bác lái xe kể về việc vợ mình bị bệnh, anh đã lặng lẽ đi tìm củ tam thất
để bác gái ngâm rượu uống.
-Anh thanh niên xứng đáng trở thành biểu tượng cho phẩm chất và con người nơi
mảnh đất Sa Pa.
d. Một con người khiêm tốn.
-Công việc của anh đang làm góp một phần quan trọng cho những bước chuyển mình
của đất nước:phục vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu. Nhưng anh lại cho những đóng
góp của mình là vô cùng nhỏ bé so với bao người khác.
-Khi ông họa sĩ xin kí họa chân dung, anh từ chối, e ngại: “Không, không, đừng vẽ
cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ hơn”.
Qua những nét phác họa của Nguyễn Thành Long, anh thanh niên hiện lên thật chân
thực, sinh động, đẹp đẽ. Giữa thiên nhiên im lặng, hắt hiu, giữa cái lặng lẽ muôn thuở
của Sa Pa đã vang lên những âm thanh trong sáng,những sắc màu lung linh của những
con người lao động mới như anh.
4. Các nhân vật phụ
a. Nhân vật ông họa sĩ
- Tuy không phải là nhân vật chính của truyện, nhưng ông họa sĩ có vị trí quan
trọng,mang quan điểm trần thuật của tác giả.Người kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và
suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để quan sát,miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật
chính của truyện.
- Trước hết,ông là một nghệ sĩ chân chính, nghiêm túc, say mê đi tìm cái đẹp: “Hơn
bao nhiêu người khác, ông biết rất rõ
Sự bất lực của nghệ thuật, của hội họa trong cuộc hành trình vĩ đại của cuộc đời ...Đối
với chính nhà họa sĩ, vẽ bao giờ cũng là một việc khó, nặng nhọc, gian nan”.
- Ngay từ những phút đầu gặp anh thanh niên,anh họa sĩ đã xúc động và bối rối. “Vì
họa sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết. Ôi! Một nét thôi cũng đủ
định một tâm hồn,khơi gợi một ý sáng tác”.
- Trước chàng trai trẻ đáng yêu,ông họa sĩ bỗng thấy như “nhọc quá” vì những điều
người ta suy nghĩ về anh.
- Những lời tâm sự anh thanh niên,khiến ông chấp nhận những thử thách của quá trình
sáng tác.
- Những cảm xúc và suy tư của ông họa sĩ về anh thanh niên và những vấn đề của
nghệ thuật,của đời sống được gợi lên từ câu chuyện của anh thanh niên,đã làm cho
chân dung nhân vật chính thêm sáng đẹp và tạo được chiều sâu tư tưởng của tác phẩm.
b, Nhân vật cô kĩ sư
- Cô kĩ sư là một hình ảnh đẹp đẽ, biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ: cô
vừa tốt nghiệp đã tình nguyện lên miền núi Lai Châu nhận nhiệm vụ.
- Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh than niên, được nghe những điều anh tâm sự, chia sẻ về
bản thân và những người khác khiến cô “bàng hoàng”
- Cái “bàng hoàng” như một sự va đập giúp cô bừng dậy những tình cảm và suy nghĩ
lớn lao, đẹp đẽ:
+ Cô đánh giá, kiểm điểm đúng hơn mối tình đầu nhạt nhẽo mà cô đã từ bỏ
+ Vững tin và quyết tâm về quyết định cho chuyến ra đi đầu đời của mình.
- Từ quý mến, khâm phục cô dần dần thấy biết ơn vô cùng anh thanh niên. Không
phải chỉ vì bó hoa to mà anh tặng mà còn vì “một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của
những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô”
 Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những tình cảm và những suy nghĩ
mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống. Đó là sự đồng cảm về lý tưởng của thế
hệ thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ. Đồng thời, qua tâm tư, cảm xúc của cô kĩ sư,
ta nhận ra vẻ đẹp và sức mạnh của nhân vật anh thanh niên.
c, Nhân vật bác lái xe
- Là người xuất hiện từ đầu tác phẩm, bác là người dẫn dắt, giới thiệu một cách sơ
lược và kích thích sự chú ý về nhân vật chính của tác phẩm – “Người cô độc nhất thế
gian”
- Bác là một người yêu nghề và có trách nhiệm với công việc: Đã có ba mươi năm lái
xe và hiểu tường tận Sa Pa
- Là một con người niềm nở và cởi mở: trên khuôn mặt hồ hởi, bác giới thiệu về thiên
nhiên và cảnh sắc Sa Pa; chia sẻ với ông họa sĩ và cô kĩ sư về anh thanh niên
- Có một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa
- Bác là cầu nối giữa anh thanh niên với cuộc đời: bác mua sách giúp anh; giới thiệu
anh với những người bạn mới; ...
 Mặc dù chỉ xuất hiện qua một vài chi tiết của truyện nhưng bác họa sĩ là một phần
quan trọng giúp nhân vật anh thanh niên xuất hiện một cách tự nhiên và góp phần dẫn
dắt chuyện
d, Những nhân vật được giới thiệu gián tiếp
- Đó là những con người làm việc miệt mài, cống hiến thầm lặng: anh bạn trên trạm
đỉnh Phan – Xi – Păng cao 3142 mét; ông kĩ sư vườn rau dưới Sa Pa ngày ngày ngồi
im trong vườn xu hào rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa xu hào
- Dám hi sinh cả tuổi và hạnh phúc cá nhân: anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét, luôn
trong tư thế sẵn sàng chờ sét, “nửa đêm mưa gió, rét buốt, mặc, cứ nghe sét là choáng
choàng chạy ra” và mười một năm chưa ngày nào xa cơ quan
 Trong tác phẩm, những nhân vật này không xuất hiện một cách trực tiếp mà chỉ
được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên. Song, họ đã thể hiện được
những phảm chất vàng trong tâm hồn, cách sống và góp phần làm sáng tỏ chủ đề, tư
tưởng của truyện được mở rộng.
III/ TỔNG KẾT
1/ Nghệ thuật và nội dung
a/ Nghệ thuật
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện : tạo ra một cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa anh
thanh niên làm công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn với ông họa sĩ già, cô kĩ
sư trẻ và những người khách trên một chuyến xe. Từ cuộc gặp ấy tính cách nhân vật
được bộc lộ, chủ đề tư tưởng của tác phẩm được thể hiện.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật; sử dụng những chi tiết tiêu biểu để khắc họa chân
dung các nhân vật với những nét đẹp về tinh thần, tình cảm, cách sống. Từ nhân vật
chính đến nhân vật phụ đều không có tên riêng để truyện có sức khái quát cao hơn.
- Chất trữ tình toát lên phong cảnh thiên nhiên đẹp và thơ mộng, trong tâm hồn các
nhân vật với những suy nghĩ về cuộc sống, về con người và nghệ thuật thật trong sáng,
đẹp đẽ.
- Ngôn ngữ truyện trong sáng, giàu sức biểu cảm và giàu chất thơ.
b/ Nội dung:
Truyện đã khắc họa thành công hình ảnh những con người lao động bình thường mà
tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng một mình trên đỉnh Yên Sơn. Qua
đó truyện khẳng định và ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của công
việc thầm lặng họ đã làm.
NGHỊ LUẬN VỀ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI
Dàn ý chuI/ Mở bài: Giới thiệu tác phẩm và nhân vật cần nghị luận.
II/ Thân bài:
Các em cần làm nổi bật các vấn đề trọng tâm thông qua các bước sau:
• Bước 1: Xác định các yếu tố khắc họa lên một nhân vật: Hoàn cảnh xuất thân, phẩm
chất, tính cách, công việc.
• Bước 2: Phân tích các lời nói, hành động của nhân vật thông qua các tình huống để
khái quát lên phẩm chất của nhân vật.
• Bước 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
III/ Kết bài: Khái quát ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm thể hiện qua nhân vật.
BÀI TẬP MINH HỌA
Đề bài: Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn "Làng" của Kim Lân.
Gợi ý chi tiết
I/ MỞ BÀI
1/ Giới thiệu chung để dẫn vào vấn đề nghị luận
Mỗi người Việt Nam đều yêu thương, gắn bó với quê hương mình. Đó là nơi cha ông
đã sinh cơ lập nghiệp từ bao đời. Đó là nơi “chôn nhau cắt rốn”, nơi có những người
thân yêu đang cần cù làm lụng một nắng hai sương. Vì vậy, lòng yêu quê hương trở
thành tình cảm truyền thống của con người Việt Nam, đặc biệt là người nông dân.
2/Đánh giá sơ lược, nêu nhân vật và ấn tượng về nhân vật
Nếu như trước Cách mạng tháng Tám, Ngô Tất Tố phác hoạ chân dung chị Dậu với
sức sống mãnh liệt tiêu biểu của người nông dân; Nam Cao đưa tới một lão Hạc đầy
lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến… thì sau Cách mạng tháng Tám, Kim
Lân mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân vô cùng độc đáo. Đó chính là
nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng với tình yêu làng, yêu đất nước sâu đậm, tha
thiết.
II/ THÂN BÀI
1/ Khái quát chung về tác giả, tác phẩm
Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác, nhà
văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc sống nông thôn. Đây cũng là
đề tài chính trong các sáng tác của ông. Trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống
Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông đã viết truyện ngắn Làng, thể
hiện tình yêu làng quê, đất nước của những người nông dân chân lấm tay bùn. Tác
phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, đánh dấu bước chuyển
biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhận thức của họ, đặc biệt qua nhân
vật ông Hai.
2/Phân tích các phương diện của nhân vật
Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với làng
mình. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí. Ở đó
là tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với cuộc sống của họ. Làng chính là quê
hương, là cuộc đời họ. Ông Hai cũng vậy, vốn yêu làng nên ông có tính hay khoe làng
với tất cả niềm hãnh diện: “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ
thường. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động”. Tình yêu làng
đã biến ông Hai thành một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù
túng trong căn bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối
này đến tối khác, ông nhắc đi nhắc lại về cái làng của ông. Kim Lân điểm nhịp câu
chuyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng
kì thực là để ta thấy rằng, ông Hai không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính
mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thoả nỗi nhớ làng. “Ông lại nghĩ vể cái làng
của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em… Ông lại muốn về làng,
lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá”. Những kí ức về
làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần
được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em thì như có một luồng sinh lực mới chảy
dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm đến thế nào ông cũng chịu
được.
Thế nhưng, đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi
nhớ lại, trong ông lại trào dâng xúc cảm khôn nguôi: “Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái
làng quá”. Với ông, ngôi làng vốn đã vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở trong căn
bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành niềm mong ước, khao khát
mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của
một người gắn bó với làng tha thiết; yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính.
Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng
mình theo Tây. Như sét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó: “Cổ ông lão
nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được.
Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ”. Nếu tin dữ ấy là làng của
ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ ông cũng không
đau khổ bằng tin làng mình theo Tây. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải
“cúi gằm mặt đi thẳng”, “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Giá ông không quá yêu làng,
không quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ “cả làng
chúng nó Việt gian theo Tây” như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng
mà ông yêu vô cùng.
Tất cả những gì ông trân trọng, giữ gìn trong tim giờ đây như sụp đổ. Ông không chấp
nhận được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dử dội. Lúc đầu là nghi ngại (“Nhưng sao
lại nảy ra cái tin như vậy được?”), sau đó thì đau đớn khi được biết những bằng chứng
rõ ràng (“Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi”). Không thể nào tả
được nỗi đau của ông lúc ấy khi phải thừa nhận cái tin đó. “Chao ôi! Cực nhục chưa,
cả làng Việt gian!”. Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay thậm chí
tưởng tượng được nỗi đau, nỗi nhục nào như thế. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái
tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc củng như cảm
nhận được nỗi xót xa, tủi nhục ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng,
ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ: “Lại còn bao nhiêu người
làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?”. Có
thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi
nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi dậy mạnh mẽ, đánh thức tình đồng hương trong
ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tiếp trong
nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải chịu
đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn nhau cắt rốn nữa mà lớn lao hơn, là
lòng tự trọng, là danh dự.
Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc
ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất
tuyệt vể làng mình bao nhiêu thì bây giờ, ông xấu hổ, trốn tránh bấy nhiêu. Cái tin đồn
quái ác kia trở thành nỗi ám ảnh, nỗi sợ vô hình luôn đè nặng tâm trí ông. “Một đám
đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào
ông củng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái
chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra
một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”. Lẽ thường tình, khi người ta suy nghĩ
quá nhiều về một điều gì đó, lúc nào củng có cảm tưởng những người khác cũng như
vậy. Vậy thì, nỗi ám ảnh và lo sợ của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông dằn vặt
như vậy? Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể và sâu
Sắc tâm trạng nặng nề ấy. Ông Hai đã trải qua những giờ phút không thể đau đớn và
tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận
được từng lời, từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã chịu quá nhiều
tổn thương của ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ
tình cảm sâu đậm với làng quê, vì thế ông càng đau xót, tủi hổ hơn.
Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong lòng người đọc bằng lòng
yêu nước và tinh thần kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về
những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui
quá!”. Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt.
Dù bị tin đồn làng mình theo Tây dồn vào cảnh “tuyệt đường sinh sống”, ông vẫn nhất
quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng
chừng rất đơn giản, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý
thức, hoà nhập với lòng yêu nước: “Về làm gì cái làng ấy nữa. Vể làng là bỏ kháng
chiến, bỏ Cụ Hồ”.
Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rỏ ràng,
đúng đắn. Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhận thức cách
mạng rõ ràng: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Nhận
thức rất mới này là một nét đặc biệt trong tính cách của ông Hai, đánh dấu sự thay đổi
của người nông dân sau Cách mạng tháng Tám. Ông luôn muốn được giãi bày nỗi
lòng ấy của mình. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời
đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong
lòng mà ông không nói ra được: “ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hổ con nhỉ”. Ông Hai nói với
đứa con như thể nói với anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật của
mình, để nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông
thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. Chính điểu ấy đã giúp
ông chịu đựng được tin đồn quái ác vể làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng,
vào kháng chiến.
Đến khi tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông
Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại: “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày
bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được
thể hiện một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông.
Ông Hai lại là ông Hai ngày xưa. Ông lại nói về làng mình, đi đâu ông cũng kể: “Tây
nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn!”. Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên,
chân thật và mãnh liệt. Có lẽ, không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị
đốt như thế. Nhưng với ông Hai, điểu đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh
của làng được rửa sạch. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu
mà ông hằng yêu và xứng đáng với tình yêu ấy: làng Chợ Dầu kháng chiến.
3/ Đánh giá chung và mở rộng tác phẩm
Tình yêu làng là cơ sở; là biểu hiện hùng hổn nhất của tình yêu nước trong ông Hai.
Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói: “Lòng yêu nhà; yêu làng xóm;
yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Nếu so với lão Hạc của Nam Cao hay chị
Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám – những người nông dân cả cuộc
đời đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ ràng về
cách mạng; về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng: “Đất nước còn thì làng còn, đất
nước mất thì làng cũng mất”. Đây không chỉ là sự thay đổi trong suy nghĩ của người
nông dân, mà còn là suy nghĩ của mỗi người dân Việt Nam thời điểm đó. Họ sẵn sàng
hi sinh những cái riêng; cái nhỏ của mình vì sự nghiệp chung; vì cuộc kháng chiến
trường kì của dân tộc. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở
trong tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng quê hương; đất nước.
4/ Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật
Truyện ngắn Làng đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai; đặc biệt qua tình huống
làng Chợ Dầu bị đồn theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói: “Tình huống là một loại
sự kiện đặc biệt của đời sống; được sáng tạo ra theo hướng lạ hoá. Tại đó; vẻ đẹp nhân
vật hiện ra sắc nét; ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện”. Kim Lân đã sáng tạo được một
tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiểu
sâu của tâm hổn nhân vật ông Hai; những nét tính cách; những chuyển biến trong
nhận thức và tình cảm của ông; và hơn hết là tình yêu làng; yêu nước tha thiết. Nhà
văn củng vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật; khi thì miêu tả
cử chỉ hành động; khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại; đối thoại đê’ lột tả tính cách
nhân vật. Ngôn ngữ kê’ chuyện rất linh hoạt; tự nhiên, lúc thong thả; lúc đột ngột tuỳ
theo diễn biến. Bên cạnh đó; tác giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên đê’ cho
ông Hai sử dụng rất nhiều khẩu ngữ; rất bình dị và gần gũi, đậm chất người nông dân
Bắc Bộ. Với nhân vật ông Hai; Kim Lân quả thực rất xứng đáng là một cây bút “quý
hồ tinh; bất quý hổ đa”.
III/ KẾT BÀI
1/ Đánh giá, khái quát lại nhân vật đối với sự thành công của tác phẩm
Nguyễn Đình Thi từng đánh giá: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng
những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà
còn muốn nói một điểu gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn
nhủ; anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh”. Truyện ngắn
Làng đã được viết nên từ những điểu nhà văn từng trải nghiệm, khắc hoạ một cách
chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu
cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình
cảm của họ.
2/ Cảm xúc của bản thân về nhân vật
Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân
vật, Kim Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và
lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha.
ÔN THI VĂN

[NGỮ VĂN 9] KIẾN THỨC CƠ BẢN "CHIẾC LƯỢC NGÀ"


Nguyễn Quang Sáng
A. Vài nét khái quát về tác giả - tác phẩm
I. Tác giả:
- Nguyễn Quang Sáng – sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
- Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam
Bộ. Từ sau 1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những
năm chống Mỹ ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.
- Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch
bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong 2 cuộc kháng
chiến cũng như sau hoà bình.
II. Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác: truyện ngắn "Chiếc lược ngà” được viết năm 1966 khi tác giả
hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên.
2. Khái quát nội dung và nghệ thuật :
* Nội dung: thể hiện tình cha con cảm động và sâu nặng trong hoàn cảnh éo le, khắc
nghiệt của chiến tranh.
* Nghệ thuật: tình huống bất ngờ, tự nhiên, hợp lý; thành công trong việc miêu tả tâm
lý và xây dựng tính cách nhân vật, đặc biệt là nhân vật trẻ em (bé Thu).
3. Tóm tắt truyện:
- Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi ông mới có dịp về
thăm nhà, thăm con. Bé Thu – con ông – không nhận ra cha vì vết thẹo trên mặt làm
ông không giống với người cha trong bức ảnh mà em biết. Em đối xử với ba như với
người xa lạ. Cho đến lúc em nhận ra cha, tình cha con trỗi dậy mãnh liệt trong em thì
cũng là lúc ông Sáu phải ra đi.
- Ở khu căn cứ, người cha ấy đã dồn hết tình cảm yêu thương và nỗi nhớ mong con
vào một việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một
trận càn, ông đã hy sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược ngà nhờ
người bạn gửi về cho con gái của mình.
B. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Tình huống truyện :
Truyện ngắn đã thể hiện tình cha con sâu sắc của hai cha con ông Sáu trong hai tình
huống:
- Tình huống thứ nhất: hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu
là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông
Sáu lại phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản của truyện.
- Tình huống thứ hai: ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ
đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông Sáu đã hy sinh khi chưa
kịp trao món quà ấy cho con gái.
=> Nếu tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha thì tình
huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc của người cha với đứa con.
2. Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu.
a. Trước khi nhận ra cha:
- Thu rất yêu ba, thường ngắm nhìn ba qua bức ảnh chụp chung với má.
- Ta tưởng chừng như khi được gặp cha, nó sẽ bồi hồi, sung sướng và sà vào vòng tay
của ba nó nũng nịu với tình cảm mãnh liệt hơn bao giờ hết. Nhưng không,Thu đã làm
cho người đọc phải bất ngờ qua hành động quyết liệt không chịu nhận ông Sáu là ba.
“Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn…ngơ ngác, lạ lùng.”. Khi ông Sáu đến
gần, giọng lặp bặp run run:“Ba đây con! Ba đây con” thì “Con bé thấy lạ quá, mặt
bỗng tái đi,rồi vụt chạy và kêu thét lên : Má!Má !”.
- Suốt ba ngày, ông Sáu chẳng đi đâu xa, muốn ở bên con vỗ về, chăm sóc, bù đắp cho
con sự thiếu thốn tình cảm. Song, ông càng xích lại gần thì nó càng tìm cách xa lánh,
nhất định không gọi một tiếng “ba”.
- Khi má dọa đánh bắt kêu “ba” vào ăn cơm, nó nói trổng: “Vô ăn cơm!”; “Cơm chín
rồi!”; “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” làm ông Sáu đau
lòng đến mức không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười.
- Đến bữa sau, má giao cho nó nhiệm vụ ở nhà trông nồi cơm,nó không thể tự chắt
nước. Tưởng chừng nó phải cầu cứu đến người lớn, phải gọi “ba”. Nhưng quyết
không, nó vẫn nói trổng “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!”.Bác Ba mở đường cho nó,
nhưng nó không để ý, nó lại kêu “Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!”. Ông Sáu cứ vẫn ngồi
im. Và nó đã tự mình làm lấy công việc nguy hiểm và quá sức, mà nhất định không
chịu nhượng bộ, nhất định không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong chờ.
- Đỉnh điểm của kịch tính: bé Thu hất cái trứng cá mà ông Sáu đã gắp cho nó, làm
cơm văng tung tóe. Ông Sáu không thể chịu đựng nổi nữa trước thái độ lạnh lùng của
đứa con gái mà ông hết mực yêu thương, ông đã nổi giận và chẳng kịp suy nghĩ, ông
vung tay đánh vào mông nó. Bị ông Sáu đánh,Thu không khóc, gắp lại trứng cá rồi bỏ
sang nhà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây lòi tói kêu rổn rảng.
=> Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ
em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp,nhất là khi chúng có sự hiểu
lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất
là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu.Người đọc nhiều khi thấy giận em,
thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Bởi nguyên nhân sâu
xa của sự chối từ ấy vẫn là tình yêu ba.Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với
người ba trong tấm ảnh chụp chung với má - người ba với gương mặt không có vết
thẹo dài.
b. Khi nhận ra cha
- Tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây
phút ông Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận.
- Bằng sự quan sát tinh tế, bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu trong
“vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Điều
đó cho thấy trong tâm hồn đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã có ý thức về cảm giác chia li,
giây phút này em thèm biểu lộ tình yêu với ba hơn hết, nhưng sự ân hận về những gì
mình đã làm ba buồn khiến em không dám bày tỏ. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh
liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em với cái nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp
“thôi, ba đi nghe con!”. Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả ông Sáu, Thu thốt
lên tiếng kêu thét “Ba...a...a...ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và
ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu
năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ
nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời
xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim,của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi
mong chờ giây phút gặp ba.
- Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu:
chạy xô tới, nhảy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc,
hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má,khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không
cho ba đi...Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi
mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được
nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình”.
- Dường như nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng muốn kéo dài thêm giây phút chia ly
của cha con Thu trong cảm nhận của người đọc bằng cách rẽ mạch truyện sang một
hướng khác, để bác Ba nghe bà ngoại Thu kể lại cuộc chuyện trò của hai bà cháu đêm
qua. Chi tiết này vừa giải thích cho ta hiểu thái độ bướng bỉnh không nhận ba hôm
trước của bé Thu và sự thay đổi trong hành động của em hôm nay. Như vậy, trong
lòng cô bé, tình yêu dành cho ba luôn là một tình cảm thống nhất, mãnh liệt. Dù cách
biểu hiện tình yêu ấy thật khác nhau trong hai hoàn cảnh, nhưng nó vẫn xuất phát trừ
một cội nguồn trong trái tim đứa trẻ luôn khao khát tình cha. Tuy nhiên, Thu trước sau
vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món
quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà
bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng
liêng, bất tử.
=> Qua những biểu hiện tâm lí và hành đông của bé Thu,người đọc cảm nhận được
tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát,rạch ròi của bé Thu. Sự cứng
đầu, tưởng như ương ngạnh ở Thu là biểu hiện của một cá tính mạnh mẽ ( cơ sở để
sau này trở thành một cô giao liên mưu trí, dũng cảm). Tuy nhiên, cách thể hiện tình
cảm của em vẫn rất hồn nhiên, ngây thơ.
=> Qua những diễn biến tâm lí của Thu, ta thấy tác giả đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ
thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến,trân trọng những tình cảm trẻ thơ.
3. Tình cha con sâu nặng và cao đẹp của ông Sáu:
- Nỗi khao khát gặp lại con sau tám năm xa cách :
+ Khi gặp lại con, không chờ xuồng cập bến, ông đã “nhún chân nhảy thót lên, xô
chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài rồi dừng lại kêu to: Thu! Con”
Anh vừa bước vào vừa khom người đưa tay đón chờ con… Anh không ghìm nổi xúc
động….
+ Khi bé Thu sợ hãi bỏ chạy, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến
mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy.
- Nỗi khổ và niềm vui trong ba ngày về thăm nhà :
+ Trước thái độ lạnh nhạt, ông đã đau khổ, cảm thấy bất lực: Suốt ngày anh chẳng đi
đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về, con bé càng đẩy ra. Anh mong
được nghe một tiếng ba của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi. Anh đau
khổ lắm nhưng chỉ “nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười” vì “khổ tâm đến nỗi
không khóc được”.
+ Hôm chia tay, nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông muốn ôm con, hôn con nhưng
“sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy” nên “chỉ đứng nhìn nó” với đôi mắt “trìu mến lẫn buồn
rầu”… Cho đến khi nó cất tiếng gọi Ba, ông xúc động đến phát khóc và “không muốn
cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con,một tay rút khăn lau nước mắt, rồi
hôn lên mái tóc của con”.Đây là những giọt nước mắt hạnh phúc của người cha, của
người cán bộ kháng chiến.
- Tình yêu con tha thiết của ông còn được thể hiện rất sâu sắc khi ông ở khu căn cứ:
+ Xa con, ông luôn nhớ con trong nỗi day dứt, ân hận ám ảnh vì mình đã lỡ tay đánh
con.
+ Lời dặn của con lúc chia tay đã thôi thúc ông làm cho con cây lược.
+ Tác giả diễn tả tình cảm của ông Sáu xung quanh chuyện ông làm chiếc lược:
+ Kiếm được khúc ngà voi, ông hớn hở như đứa trẻ được quà:“từ con đường mòn
chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi.
Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.
+ Rồi ông dồn hết tâm trí và công sức vào việc làm cho con cây lược: “anh cưa từng
chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc”. Trên sống lưng
lược, ông đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét chữ:“Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông
gửi vào đó tất cả tình yêu và nỗi nhớ.
+ Nhớ con “anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng,
thêm mượt”. Ông không muốn con ông đau khi chải lược.Yêu con, ông Sáu yêu đến
từng sợi tóc của con . Chiếc lược trở thành vật thiêng liêng đối với ông Sáu, nó làm
dịu đi nỗi ân hận, nó chứa đựng bao tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong ngóng của
người cha với đứa con xa cách. Cây lược ngà chính là sự kết tinh của tình phụ tử
thiêng liêng.
- Ông Sáu đã hi sinh trong trận càn lớn của quân Mĩ – ngụy khi chưa kịp trao cây lược
cho con gái. “Trong giờ phút cuối cùng,không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình
như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho
ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là
điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chức. Nó là sự ủy
thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút
ấy, cây lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội của ông Sáu thành một người cha
thứ hai của bé Thu.
=> Qua nhân vật ông Sáu, người đọc không chỉ cảm nhận tình yêu con tha thiết sâu
nặng của ngườicha chiến sĩ mà còn thấm thía bao đau thương mất mát đối với những
em bé, những gia đình. Tình yêu thương con của ông Sáu còn như một lời khẳng định:
Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt được sự sống của con người, còn tình cảm của
con người – tình phụ tử thiêng liêng thì không bom đạn nào có thể giết chết được.
III – Tổng kết:
1. Nội dung:
-Truyện “Chiếc lược ngà” đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu
nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.
-Truyện còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương, éo
le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.
2. Nghệ thuật:
- Xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí
- Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Truyện
được kể theo ngôi thứ nhất,đặt vào nhân vật bác Ba,người bạn chiến đấu của ông Sáu
và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện. Với ngôi kể này, người kể
chuyện xen vào những lời bình luận, suy nghĩ,bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân
vật, và câu chuyện vẫn mang tính khách quan.
- Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé Thu.
- Ngôn ngữ truyện mang đậm chất địa phương Nam Bộ.
THAM KHẢO ĐỀ THÌ GIỮA KÌ 1 – NGỮ VĂN 9
ĐỀ SỐ 1
Câu 1 (2,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Chuyện kể, một danh tướng có lần đi ngang qua trường học cũ của mình, liền ghé vào
thăm. Ông gặp lại người thầy từng dạy mình hồi nhỏ và kính cẩn thưa:
- Thưa thầy, thầy còn nhớ con không ? Con là…
Người thầy giáo già hoảng hốt:
- Thưa ngài, ngài là…
- Thưa thầy, với thầy, con vẫn là đứa học trò cũ. Con có được những thành công hôm
nay là nhờ sự giáo dục của thầy ngày nào…
(Theo Ngữ văn 9, Tập 1, NXBGDVN, 2013, trang 40)
a/ Xác định thành phần biệt lập và khởi ngữ trong câu sau: Thưa thầy, với thầy, con
vẫn là đứa học trò cũ. (1,0 điểm)
b/ Em hiểu thế nào về câu nói: Con có được những thành công hôm nay là nhờ sự giáo
dục của thầy ngày nào… (0,5 điểm)
c/ Em có đồng tình với cách ứng xử của vị danh tướng trong câu chuyện trên không?
Vì sao? (0,5 điểm)
Câu 2 (3,0 điểm)
Hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của em về đức tính khiêm nhường của
con người.
Câu 3 (5,0 điểm)
Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều qua đoạn trích sau trong “Chị em Thúy
Kiều”:
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh, lại càng não nhân.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều, Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019)
-Hết-
GỢI Ý
Câu 1 (2,0 điểm)
a/ - Thành phần biệt lập (Thành phần gọi – đáp): thưa thầy
-Khởi ngữ: (với) thầy
b/ Câu nói: Con có được những thành công hôm nay là nhờ sự giáo dục của thầy ngày
nào… nhấn mạnh ghi nhận của vị danh tướng ngày nay, cũng chính là người học trò
ngày xưa, về công ơn dạy dỗ lớn lao của người thầy. Qua đó, câu nói cũng cho chúng
ta nhận ra thái độ biết ơn của người học trò dành cho thầy giáo của mình.
c/ - Em đồng tình với cách ứng xử của vị danh tướng trong câu chuyện trên.
-Bởi vì: điều đó đã thể hiện một ý thức và thái độ sống tốt đẹp của vị tướng khi đối
diện với thầy học cũ của mình.
+ Hành động của ông cho thấy ông rất biết ơn người đã dạy dỗ khi mình còn đi học 
cách ứng xử như vậy cũng đã làm sáng lên nhân cách của vị tướng.
Câu 2 (3,0 điểm)
*Hình thức: một bài văn ngắn, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ.
*Nội dung:
A. Mở bài:
- Dẫn dắt, giới thiệu về đức tính khiêm nhường.
- Nêu nhận định khái quát về vấn đề: là một phẩm chất đáng quý, có tầm quan trọng
trong việc rèn luyện nhân cách của con người,...
B. Thân bài:
1. Giải thích khái niệm:
- Khiêm nhường là khiêm tốn trong quan hệ ứng xử, biết đánh giá cái hay của mình
một cách vừa phải và dè dặt, không tự đề cao cá nhân; là biết nhường nhịn, không
dành cái hay, cái lợi về mình.
- Khiêm nhường là một đức tính tốt của con người.
2. Bàn luận:
a. Biểu hiện của khiêm nhường trong đời sống:
- Người có đức tính khiêm nhường là người luôn hiểu mình, biết người, do vậy
thường có thái độ nhã nhặn, hay lắng nghe ý kiến của người khác.
- Luôn khiêm tốn học hỏi, có tinh thần cầu tiến, tự nỗ lực để tiến bộ.
- Không tự đề cao mình, không khoe khoang bản thân mình với những người xung
quanh.
- Dẫn chứng: Khiêm tốn trong ứng xử, trong hành động, trong lời nói… trong các mối
quan hệ:
+Trong gia đình: Thể hiện quan hệ giữa anh chị em trong nhà, giữa con cái với cha
mẹ... Nếu không có tính khiêm nhường thì những người trong nhà có thể tranh giành
nhau, đấu đá nhau, sẽ không thể có một gia đình thuận hòa, yên ấm.
+Ngoài xã hội: Thể hiện quan hệ bạn bè, đồng nghiệp, cấp trên cấp dưới, học trò với
thầy cô giáo... Khiêm nhường giúp cho ta giữ lại những cái tình trong nhau. Khiêm
nhường đúng lúc sẽ giúp ta nhìn thấy những khiếm khuyết của bản thân cũng như học
tập được nhiều ưu điểm từ người khác.
b/ Vì sao cần phải khiêm nhường?
- Khiêm nhường sẽ giúp mỗi cá nhân tiến bộ hơn trong cách cư xử, lối sống, trong
việc rèn luyện, tu dưỡng. Sự khiêm tốn, thái độ cầu tiến, ham học hỏi sẽ giúp ta tiến
bộ, thành công trên đường đời. Đó là cơ sở để mỗi người tự hoàn thiện nhân cách.
- Khiêm nhường sẽ giúp cho việc giao tiếp, đối xử giữa người với người trong xã hội
trở nên tốt đẹp hơn.
- Khiêm nhường là phẩm chất cần có của mỗi con người trong tập thể, trong xã hội.
Người có đức tính khiêm nhường thường được mọi người yêu quý, nể phục.
c/ Mở rộng, phản đề:
- Phê phán những người có tính tự kiêu, tự mãn, coi thường người khác; có lối sống
tham lam, ích kỉ, hay khoe khoang, thích tranh giành hơn kém với người khác.
- Cũng cần phải thấy rằng: khiêm nhường không có nghĩa là tự ti, tự hạ thấp mình.
Khiêm nhường thực sự là đức tính góp phần nâng cao giá trị của con người.
3. Bài học nhận thức và hành động:
- Nhận thức được đức tính khiêm nhường là một đức tính tốt mà bản thân mỗi người
cần tạo dựng và gìn giữ.
- Là học sinh, chúng ta cần tích cực tu dưỡng, rèn luyện đạo đức; chăm lo học tập trau
dồi kiến thức để nâng cao tri thức và có cách ứng xử phù hợp trong cuộc sống.
C. Kết bài:
- Khái quát, khẳng định trở lại về tầm quan trọng của việc rèn luyện đức tính khiêm
nhường đối với con người.
- Đúc kết kinh nghiệm cho bản thân.
Câu 3 (5 điểm)
A. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm, giới thiệu đoạn trích: “Chị em Thúy Kiều” viết về
vẻ đẹp của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều đặc biệt là sắc đẹp và tài năng của Kiều.
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Qua mười hai câu thơ đặc sắc, tác giả Nguyễn Du đã gợi
lên vẻ đẹp của nhân vật chính, thể hiện bút pháp tả người tài tình và một tình cảm
thương mến đặc biệt mà thi nhân dành cho Thúy Kiều.
- Trích thơ.
B. Thân bài:
1/ Giới thiệu về đoạn trích:
- Vị trí, giá trị nội dung của đoạn trích, mười hai câu thơ tả Kiều.
1/ Khái quát về vẻ đẹp của nhân vật: Vẻ đẹp của Kiều được đặt trong tương quan với
Thúy Vân  tác giả đã miêu tả sắc đẹp của Vân trước như một thủ pháp “đòn bẩy” để
làm nổi bật lên vẻ đẹp của Kiều: “sắc sảo mặn mà, so bề tài sắc lại là phần hơn”.
-Vẻ đẹp của Kiều được Nguyễn Du tái hiện trên hai phương diện: sắc đẹp ngoại hình
và tài năng:
2/ Vẻ đẹp ngoại hình của Kiều:
- Thúy Kiều là hiện thân vẻ đẹp của nhan sắc: nhan sắc tuyệt mĩ, một vẻ đẹp “nghiêng
nước nghiêng thành”:
+ Vẻ đẹp của Kiều ở đôi mắt "làn thu thủy": trong veo, êm dịu, đượm buồn như nước
hồ mùa thu
+ Vẻ đẹp ở đôi mày "nét xuân sơn": như nét bút vẽ núi mùa xuân trong bức tranh thủy
mặc.
=> Phép tu từ ẩn dụ, nghệ thuật lấy điểm tả diện: chỉ đặc tả đôi mắt, đôi mày nhưng đã
làm hiện lên gương mặt của một trang giai nhân tuyệt mỹ.
- Nhan sắc của Kiều: đẹp như hoa, yểu điệu như liễu nhưng vẻ đẹp vượt trên vẻ đẹp
thông thường => khiến trời đất "ghen", "hờn", thiên nhiên đố kị.
- Sắc đẹp của Kiều ví như sắc đẹp của người con gái khiến cho quân vương say đắm
mà để quốc gia nghiêng ngả.
=> Kiều mang vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt mỹ, thế nhưng vẻ đẹp ấy khiến trời đất
ghen tị => dự báo cuộc đời nhiều chông gai, trắc trở của nàng sau này.
3/ Vẻ đẹp tài năng của Kiều:
- Nhan sắc của Kiều sắc sảo là vậy nhưng tài năng của nàng còn tuyệt vời hơn.
- Tất cả tài năng của nàng đều được thiên phú, nàng am hiểu cả cầm - kỳ - thi - họa
người con gái lý tưởng trong xã hội phong kiến "pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm".
- Kiều am hiểu mọi phương diện nghệ thuật nhưng nổi bật nhất là thi ca, “nghề riêng
ăn đứt hồ cầm một trương"  sáng tác khúc đàn bạc mệnh (khúc nhạc khiến ai cũng
phải thương tâm, đau lòng).
=>Dự báo cuộc đời, vận mệnh của nàng như khúc đàn Bạc mệnh.
4/ Nhận xét chung:
- Vẻ đẹp nhan sắc cùng tài năng của Kiều đã ở mức tuyệt mỹ, khiến cho trời đất cũng
phải ghen tị, đố kỵ báo hiệu cuộc đời khổ ải sau của nàng.
- Nghệ thuật lấy điểm tả diện, đòn bẩy, ước lệ được Nguyễn Du vận dụng để miêu tả
vẻ đẹp tuyệt mỹ của Kiều  thể hiện ngòi bút tả người đặc biệt sắc sảo, tài hoa của đại
thi hào Nguyễn Du.
C/ Kết bài:
- Chốt ý, khẳng định vẻ đẹp nhan sắc, tâm hồn cùng tài năng của Kiều.
- Liên hệ, mở ý, bộc lộ xúc cảm của người viết.
ĐỀ SỐ 2
Câu 1 (2,0 điểm)
Đọc câu chuyện sau và trả lời câu hỏi:
HOA HỒNG TẶNG MẸ
Anh dừng lại tiệm bán hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện. Mẹ anh sống cách
chỗ anh khoảng ba trăm ki lô mét. Khi bước ra khỏi xe, anh thấy một bé gái đang
đứng khóc bên vỉa hè. Anh đến và hỏi nó sao lại khóc.
- Cháu muốn mua một bông hoa hồng để tặng mẹ cháu - Nó nức nở - nhưng cháu chỉ
có bảy mươi lăm xu trong khi giá hoa hồng đến hai đô la.
Anh mỉm cười và nói với nó :
- Đến đây, chú sẽ mua cho cháu.
Anh liền mua hoa cho cô bé và đặt một bó hồng để gửi cho mẹ anh. Xong xuôi, anh
hỏi cô bé có cần đi nhờ xe về nhà không. Nó vui mừng nhìn anh trả lời :
- Dạ, chú cho cháu đi nhờ đến nhà mẹ cháu.
Rồi nó chỉ đường cho anh lái xe đến một nghĩa trang, nơi có một phần mộ vừa mới
đắp. Nó chỉ ngôi mộ và nói :
- Đây là nhà của mẹ cháu.
Nói xong, nó ân cần đặt nhánh hoa hồng lên mộ.
Tức thì anh quay lại tiệm bán hoa hủy bỏ dịch vụ gửi hoa vừa rồi và mua một bó hồng
thật đẹp. Suốt đêm đó, anh đã lái một mạch ba trăm ki lô mét về nhà mẹ anh để trao
tận tay bà bó hoa.
(Theo Quà tặng của cuộc sống, NXB Trẻ, 2006)
a/ Chỉ ra thành phần biệt lập và gọi tên cụ thể của thành phần đó trong câu: Cháu
muốn mua một bông hoa hồng để tặng mẹ cháu - Nó nức nở - nhưng cháu chỉ có bảy
mươi lăm xu trong khi giá hoa hồng đến hai đô la. (1,0 điểm)
b/ Em hiểu thế nào về chi tiết?:
Rồi nó chỉ đường cho anh lái xe đến một nghĩa trang, nơi có một phần mộ vừa mới
đắp. Nó chỉ ngôi mộ và nói :
- Đây là nhà của mẹ cháu. (0,5 điểm)
c/ Em có đồng tình với hành động của anh thanh niên trong chi tiết sau không? Vì
sao?:
Suốt đêm đó, anh đã lái một mạch ba trăm ki lô mét về nhà mẹ anh để trao tận tay bà
bó hoa. (0,5 điểm)
Câu 2 (3,0 điểm)
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 10 – 15 dòng) trình bày suy nghĩ của em về lòng hiếu
thảo của con người.
Câu 3 (5,0 điểm)
Phân tích đoạn trích sau:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai biết mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều, Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019)
GỢI Ý ĐỀ SỐ 2
Câu 1 (2,0 điểm)
a/ - Thành phần biệt lập: nó nức nở
- Gọi tên thành phần biệt lập: thành phần phụ chú
b/ - Cách hiểu về chi tiết đó là:
+ Mẹ em bé vừa mới mất.
+ Em bé rất thương mẹ, xem ngôi mộ như nhà mới của mẹ => cảm nhận mẹ vẫn gần
gũi bên mình.
c/ - Em đồng tình với chi tiết đó của câu chuyện.
- Có thể lý giải:
+ Chính tình yêu vô bờ của cô gái nhỏ với người mẹ đã khuất khiến người đàn ông
trong câu chuyện hiểu được niềm hạnh phúc lớn lao của mình khi còn mẹ. Anh đã
chọn cách đúng đắn hơn để thể hiện tình cảm của mình với mẹ: bày tỏ trực tiếp tình
yêu của mình với mẹ khi còn cơ hội.
+ Lòng hiếu thảo, tình yêu với mẹ không đo bằng giá trị món quà mà bằng cách trao
tặng và thái độ trao tặng.
Câu 2 (3,0 điểm)
*Hình thức: đoạn văn khoảng 10 -15 dòng, có cấu trúc cân đối, lập luận chặt chẽ.
*Nội dung: có các ý gợi như sau:
1/ Lòng hiếu thảo là gì?
-Lòng hiếu thảo có nghĩa là sự tôn trọng, kính trọng ông bà, cha mẹ và tổ tiên của
mình. Hiếu thảo còn là hành động yêu thương, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, cha
mẹ khi già yếu và thờ phụng sau khi họ qua đời. Hiếu thảo vốn là ý tưởng trung tâm
trong hệ thống đạo đức của Nho giáo.
2/ Biểu hiện của lòng hiếu thảo:
- Lòng hiếu thảo của con người không những được thể hiện trong thái độ, tình cảm mà
còn được biểu hiện qua hành động cụ thể.
+ Người có lòng hiếu thảo là người luôn biết cung kính ông bà, cha mẹ. Họ luôn biết
vâng lời và làm cho cha mẹ được vui vẻ, tinh thần được an ổn. Họ luôn biết sống đúng
chuẩn mực, thực hiện lễ nghi hiếu nghĩa đối với các bậc sinh thành. Lúc cha mẹ còn
khỏe mạnh, họ hiếu thuận vâng lời, lắng nghe dạy bảo. Lúc cha mẹ ốm đau, già yếu,
họ hết lòng chăm sóc, phụng dưỡng. Khi cha mẹ qua đời, họ thành tâm thờ cúng.
3/ Vì sao con người sống phải có lòng hiếu thảo?
- Vì ông bà, cha mẹ là những người đã sinh thành và dưỡng nuôi ta khôn lớn. Họ luôn
dành cho ta những gì tốt đẹp nhất trên cuộc đời này mà không cần đòi hỏi điều kiện gì
ở chúng ta. Bởi thế, ta phải biết ơn những người đã sinh thành, dưỡng nuôi và giáo
dục ta nên người.
- Hiếu thảo còn là một lối sống tốt đẹp đã trở thành chuẩn mực trong truyền thống văn
hóa Việt Nam.
- Sống có lòng hiếu thảo là lối sống cao đẹp: Biết quý trọng công ơn dưỡng dục của
ông bà cha mẹ, biết thể hiện niềm tri ân sâu sắc đối với các bậc sinh thành. Lòng hiếu
thảo thể hiện sự bao dung, sống có trách nhiệm. Người có lòng hiếu thảo luôn được
mọi người yêu mến, trân trọng và thành công trong cuộc sống.
- Lòng hiếu thảo luôn luôn được tôn vinh, ngưỡng mộ. Hiếu thảo với cha mẹ ngày nay
thì ngày sau ta mới nhận được lòng hiếu thảo từ con cái. Có cho đi mới được nhận lại.
Bởi đó là quy luật nhận quả trong cuộc sống này.
4/ Cần phải làm gì để thể hiện lòng hiếu thảo?
- Biết kính trọng ông bà, cha mẹ, biết chăm sóc, phụng dưỡng ông bà cha mẹ khi họ
tuổi già sức yếu. Đó cũng là cách mỗi con người tự trau dồi nhân cách tốt đẹp, để trở
thành niềm tự hào của gia đình.
- Thực hiện tốt các nhiệm vụ và công việc làm để có thể bảo đảm vật chất hỗ trợ các
bậc cha mẹ; nhận lãnh trách nhiệm thờ phụng tổ tiên chu toàn, vẹn tất.
- Thể hiện tình yêu, sự tôn trọng và hỗ trợ cho ông bà, cha mẹ.
5/ Phê phán người có lối sống bất hiếu:
Trong xã hội có nhiều người sống bất hiếu, vô lễ, đánh đập đối xử tàn nhẫn, bỏ rơi cha
mẹ già. Họ thể hiện một lối sống vô ơn, một nhân cách kém cỏi. Những người như thế
thật đáng chê trách.
6/ Bài học giáo dục:
- Sống phải có lòng hiếu thảo. Sống biết ơn ông bà, cha mẹ và các bậc sinh thành
khác.
- Phải thể hiện lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ ngay từ hôm nay. Mỗi hành vi biết
ơn đều thể hiện một nét đẹp trong đời sống con người.
Câu 3 (5,0 điểm)
A/ Mở bài:
-Dẫn dắt ý tưởng, giới thiệu thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng
Bích”.
- Giới thiệu cụ thể tám câu thơ trong đoạn trích trên  Trích thơ.
- Định hướng nghị luận.
B/ Thân bài:
I/ Khái quát nội dung tác phẩm và đoạn trích: Nhấn mạnh hoàn cảnh của Kiều ở lầu
Ngưng Bích.
II/ Phân tích tám câu thơ tiếp - Nỗi thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều:
1/ Nỗi nhớ Kim Trọng:
-Trước hết, Kiều nhớ đến Kim Trọng bởi trong cơn gia biến, Kiều đã phải hi sinh mối
tình đầu đẹp đẽ để cứu gia đình, Kiều đã phần nào “đền ơn sinh thành” cho cha mẹ. Vì
thế trong lòng Kiều, Kim Trọng là người mất mát nhiều nhất, chịu thiệt thòi nhiều
nhất, nỗi đau ấy cứ vò xé tâm can Kiều khiến Kiều luôn nghĩ đến Kim Trọng.
+ Từ “tưởng” là cách sử dụng từ ngữ đặc sắc. Nguyễn Du không dùng chữ “nhớ” mà
dùng chữ “tưởng”. “Tưởng” vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người mình
yêu, vừa là nghĩ tới người mình nhớ nhung.
+ Thúy Kiều như tưởng tượng thấy, ở nơi xa kia, người yêu cũng đang hướng về
mình, đang ngày đêm đau đáu chờ tin nàng: “Tin sương luống những rày trông mai
chờ”.
+ Nàng liên tưởng đến thân phận “bên trời góc biển bơ vơ” của mình. Kiều băn khoăn
tự hỏi: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?”
 Lưu ý: Phép tu từ ẩn dụ “Tấm son”: *Câu thơ muốn nói tới tấm lòng son của Kiều,
tấm lòng nhớ thương Kim Trọng sẽ không bao giờ phai mờ, nguôi quên dù cho có gặp
nhiều trắc trở trong đường đời.
*Câu thơ còn gợi ra một cách hiểu thêm: Tấm lòng son trong trắng của Kiều bị những
kẻ như Tú Bà, Mã Giám Sinh làm cho dập vùi, hoen ố, biết bao giờ mới gột rửa được?
 Trong bi kịch tình yêu, Thúy Kiều có cả nỗi đau về nhân phẩm.
2/ Nỗi nhớ cha mẹ:
+ Chữ “xót” diễn tả tấm lòng Kiều dành cho những người sinh ra mình  thể hiện xót
xa, lo âu:
- Lo lắng, xót xa nghĩ đến hình bóng tội nghiệp của cha mẹ, khi sáng sớm, lúc chiều
hôm tựa cửa ngóng tin con, hay mong chờ con đến đỡ đần, chăm sóc.
- Lo lắng không biết giờ đây ai là người chăm sóc cha mẹ khi thời tiết đổi thay.
- Xót xa khi cha mẹ ngày một thêm già yếu mà mình không được ở bên cạnh để phụng
dưỡng.
-> Tác giả đã sử dụng các thành ngữ “rày trông mai chờ”, “quạt nồng ấp lạnh”, “cách
mấy nắng mưa” và các điển tích, điển cố “sân Lai, gốc Tử”để nói lên tâm trạng nhớ
thương, lo lắng và tấm lòng hiếu thảo của Kiều dành cho cha mẹ.
 Nguyễn Du đã miêu tả khách quan tâm trạng của Thúy Kiều vượt qua những định
kiến của tư tưởng phong kiến: đặt chữ tình trước chữ hiếu (nhớ Kim Trọng trước nhớ
cha mẹ).
- Trong cảnh ngộ khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng
vẫn quên mình để nghĩ đến người yêu, nghĩ đến cha mẹ. Kiều là một người thủy
chung hiếu nghĩa, đáng trân trọng.
III/ Nhận xét chung về nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Nguyễn Du.
C/ Kết bài:
-Chốt ý, khẳng định giá trị nghệ thuật và nội dung của đoạn trích.
- Liên hệ, mở ý, định hướng.
ĐỀ SỐ 3
Câu 1: (2,0 điểm)
Đọc văn bản sau:
NHÀ LÀ NƠI ĐỂ VỀ
Nhà, một tiếng gọi thân thương với rất nhiều tình yêu và sự quan tâm, chia sẻ. Hai
tuần cách ly giúp chúng con thấu hiểu rằng chúng ta luôn có nhiều hơn một Mái nhà,
nơi luôn dang rộng vòng tay chào đón, chân thành yêu thương và cùng chung bước đi
qua những thăng trầm cuộc sống.
Sau bao nhiêu khát vọng bay nhảy của tuổi trẻ, những biến cố cuộc sống giúp chúng
con càng thêm yêu và trân quý sự thiêng liêng, ấm áp của hai tiếng “Gia đình”, “Tổ
quốc” và sự biết ơn dành cho những người đã yêu thương chúng con vô điều kiện.
(Con đã về nhà, Tăng Quang, NXB Phụ nữ Việt Nam, 2020, tr. 71)
Thực hiện các yêu cầu:
a/ Chỉ ra thành phần phụ chú trong câu văn sau:
Hai tuần cách ly giúp chúng con thấu hiểu rằng chúng ta luôn có nhiều hơn một Mái
Nhà, nơi luôn dang rộng vòng tay chào đón, chân thành yêu thương và cùng chung
bước đi qua những thăng trầm cuộc sống.
b/ Theo văn bản, sau những biến cố cuộc sống, tác giả hướng tình cảm đến những đối
tượng nào?
c/ “Hai tuần cách ly” gợi nhắc đến những ngày cả nước phòng chống đại dịch
COVID-19. Trong biến cố ấy, việc tốt nào của người Việt Nam để lại ấn tượng nhất
trong em? Vì sao?
Câu 2 (3,0 điểm):
Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, em hãy trình bày suy nghĩ của bản thân về ý
nghĩa của sự biết ơn.
Câu 3: (5,0 điểm)
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
(...)
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi
(Trích Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận)
Cảm nhận của em về hai khổ thơ trên. Từ đó liên hệ với một tác phẩm khác hoặc với
thực tế cuộc sống để thấy được tình yêu, sự gắn bó của con người Việt Nam với biển
quê hương.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI ĐỀ 3
Câu 1:
a/ Thành phần phụ chú: "nơi luôn dang rộng vòng tay chào đón, chân thành yêu
thương và cùng chung bước đi qua những thăng trầm cuộc sống".
b/ Theo văn bản, sau những biến cố cuộc sống, tác giả hướng tình cảm đến những đối
tượng: gia đình, Tổ quốc và những người đã yêu thương tác giả vô điều kiện
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Huy Cận và bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
- Dẫn dắt và khái quát nội dung hai khổ thơ cần phân tích
II. Thân bài
1. Cảnh đoàn thuyền ra khơi
- Khúc tráng ca lao động được mở đầu bằng cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi
hoàng hôn đang buông xuống
+ Một khung cảnh thiên nhiên biển cả lúc hoàng hôn rất đẹp, rất nên thơ, kì vĩ, tráng
lệ làm nền cho đoàn thuyền đưa con người lên đường ra chinh phục biển cả:
+ Biển bao la trở nên gần gũi, hiền hòa trong sự liên tưởng rất thú vị: Sóng đã cài then
đêm sập cửa. Biển như một ngôi nhà chung rộng lớn mà màn đêm đang buông xuống
chính là cánh cửa khổng lồ, còn những lượn sóng là những chiếc then cài. Phép nhân
hóa làm cho biển vào đêm trở nên hiền hòa gần gũi chứ không huyền bí, lạnh lẽo, rợn
ngợp.
+ Trên nền cảnh thiên nhiên tráng lệ là hình ảnh con người lao động phấn khởi, say
mê với niềm lạc quan phơi phới. Đoàn thuyền ra khơi khi đêm đang dần tới là trở về
chính ngôi nhà thân quen
• Câu hát căng buồm cùng gió khơi: Bằng bút pháp lãng mạn, Huy Cận đã xây dựng
một hình ảnh thơ thật khỏe khoắn, mới lạ. Ba sự vật, hiện tượng: câu hát – gió – cánh
buồm gắn kết thật tự nhiên và kì thú. Tiếng hát ấy làm nổi bật tinh thần lạc quan, niềm
vui lao động, khí thế hồ hởi của người lao động đang ra khơi chinh phục biển cả.
2. Cảnh đoàn thuyền khi trở về:
- Đoàn thuyền trở về trong câu hát mang niềm vui của thành quả bội thu trở về trong
bình minh rực rỡ, tráng lệ, thể hiện niềm hân hoan tin vào một ngày mai tươi sáng của
người lao động:
+ Câu thơ Câu hát căng buồm với gió khơi gần như lặp lại nguyên vẹn câu thơ cuối
của khổ đầu. Khi trở về, câu hát khỏe khoắn mang niềm vui sung sướng trước thành
quả lao động bội thu của người ngư dân vươn lên làm chủ cuộc đời.
+ Bình minh ngày mới của sự sống sinh sôi nảy nở. Bình minh khởi đầu cho niềm vui,
niềm hạnh phúc mà ngư dân sau chuyến hành trình vất vả.
+ Tác giả đã xây dựng một hình ảnh thơ rất thực, hào hùng mà cũng rất bay bổng:
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời. Phép nhân hóa cùng lối nói khoa trương đã nâng
cao tầm vóc, vị thế con người trong tư thế làm chủ công việc, chinh phục thiên nhiên
vũ trụ.
+ Đoàn thuyền trở về bến trong niềm vui phấn chấn của người chiến thắng. Thiên
nhiên biển cả nhuộm ánh nắng hồng rạng rỡ của bình minh như mang một sắc màu
mới.
+ Tác giả đã có một liên tưởng rất thú vị: Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Muôn
ngàn con cá tươi rói nằm xếp trên khoang thuyền, mỗi mắt cá như một mặt trời nhỏ
xíu tỏa rạng niềm vui.
3. Tổng hợp, đánh giá
- Khái quát vẻ đẹp thiên nhiên tráng lệ, tươi sáng và con người lạc quan, phơi phới
qua cảm hứng lãng mạn bay bổng của nhà thơ
4. Liên hệ, so sánh
- Bài thơ Quê hương của Tế Hanh
- Nhận thức được vẻ đẹp, sự giàu có của thiên nhiên biển cả cũng như vẻ đẹp của con
người lao động hăng say. Đặc biệt là sự gắn bó, tình yêu của ngư dân với biển quê
hương.
III. Kết bài
- Khẳng định giá trị của đoạn thơ
- Suy nghĩ, nhận thức của bản thân
ĐỀ SỐ 4
Câu 1: Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Sau khi Công viên nước Hồ Tây tạm đóng cửa vì quá tải, hàng trăm thanh niên, phụ
huynh, trẻ em đã mạo hiểm trèo rào vào trong tắm miễn phí gây nên cảnh hỗn loạn
sáng 19/4. Để được vào chơi trong công viên nước Hồ Tây, không ít người đã bất
chấp nguy hiểm, vượt qua hàng rào sắt sắc nhọn để vào bên trong. Thậm chí, nhiều cô
gái mặc váy cũng táo tợn leo rào vào công viên nước, mặc kệ bao người “mắt tròn mắt
dẹt” bên dưới. Các bậc phụ huynh cũng bế con leo rào, dù những đứa trẻ khóc lóc sợ
hãi…
(Theo dân http://xn--tr-oja.com/
)
a. Nội dung đoạn văn đề cập đến hiện tượng gì? (0,5 điểm)
b. Xác định một phép liên kết câu được sử dụng trong câu 1 và 2 của văn bản (0,5
điểm)
c. Em có nhận xét gì về tâm lí a dua theo đám đông của con người hiện nay (1.0 điểm)
Câu 2 (3,0 điểm):
“Trong thế giới này, chúng ta xót xa không chỉ vì lời nói và hành động của những kẻ
xấu mà còn vì sự im lặng đáng sợ của người tốt”. (M. Luther King )
Trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên bằng một bài viết ngắn (khoảng 1 trang giấy
thi)
Câu 3: (5,0 điểm)
Cảm nhận hình ảnh người lính trong các đoạn thơ sau:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
(Đồng chí, Chính Hữu, Ngữ Văn 9, tập một)
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật, Ngữ Văn 9, tập một)
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI ĐỀ 04
Câu 1:
a. Đoạn văn đề cập đến hiện tượng mọi người mạo hiểm trèo rào vào trong công viên
Hồ Tây để tắm miễn phí.
b. Phép liên kết câu 1 và câu 2: Phép lặp từ ngữ công viên nước Hồ Tây
c. - Hiện tượng tâm lí a dua theo đám đông là một hiện tượng xấu trong xã hội hiện
nay xuất phát từ sự vô ý thức, trách nhiệm, sự ích kỉ, tham lam.
- Nó hình thành cho con người thói quen xấu, chỉ biết làm theo người khác mà thiếu
bản lĩnh, chính kiến, làm xã hội hỗn loạn, lòng người hoang mang, đánh mất các giá
trị đạo đức tốt đẹp
- Hiện tượng này thật đáng để chúng ta suy ngẫm, lên án và loại bỏ.
Câu 2:
I. Xác định yêu cầu
- - Kiểu bài: nghị luận về một hiện tượng xã hội
- - Vấn đề nghị luận: Sự im lặng của người tốt thật đáng sợ và xót xa.
- - Phạm vi kiến thức: Trong đời sống xã hội
- II. Dàn ý
- 1. Mở bài:
- - Nêu vấn đề nghị luận: Cuộc sống ngày càng hiện đại, con người dần trở nên vô
cảm, sợ hãi, dửng dưng với những gì xung quanh. Đặc biết, sự im lặng của người tốt
làm chúng ta phải xót xa, suy ngẫm.
- - Dẫn câu nói của M.Luther King
- 2. Thân bài:
- a. Giải thích ý nghĩa câu nói của M. Luther King
- “Xót xa” là chỉ trạng thái cảm xúc đau đớn, nuối tiếc trong lòng
- Sự im lặng là không có hành động hay phản ứng gì trước những tình huống, sự việc
cụ thể.
- Người tốt là những người sống có chuẩn mực, đạo đức, có thái độ và hành vi được
đánh giá cao
- Câu nói của Luther King đặt ra một vấn đề buộc chúng ta suy ngẫm: Nỗi đau đớn
trước những lời nói và hành động của người xấu không xót xa bằng việc người tốt
không có hành động thái độ hay bất kì phản ứng nào trước những việc làm sai trái ấy.
b/ Phân tích, chứng minh, bình luận:
- Xót xa trước hành động, lời nói của kẻ xấu là một phản ứng tự nhiên, phù hợp với
quy luật cảm xúc và đạo đức, lối sống của xã hội.
- Sự im lặng của người tốt trước những hiện tượng xấu là cách ứng xử bất thường vì
bản thân người tốt thường có khả năng, trách nhiệm phản ứng tích cực tác động đến xã
hội dựa trên tư cách, chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của họ
- Sự im lặng ấy có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Vì bất lực; vì cô đơn, lạc lõng;
vì mải chăm lo lợi ích bản thân mà thờ ơ với xung quanh; vì sợ hãi cái xấu, cái ác, sợ
những hệ lụy không tốt mà họ phải gánh chịu; vì thiếu niềm tin vào công bằng, công
lí… Nhưng đó là biểu hiện của sự bất ổn trong nhận thức, lối sống, đi ngược lại cách
hành xử văn minh, tiến bộ.
- Sự im lặng của người tốt trước cái xấu, cái ác làm mọi người mất lòng tin vào các
giá trị tốt đẹp, sống thờ ơ, vô cảm; làm xã hội đứng bên bờ vực phá sản các giá trị tinh
thần; cái ác, cái xấu không bị lên án, loại bỏ thì ngày càng gia tăng, gây rối loạn xã
hội.
c/ Liên hệ, mở rộng vấn đề:
- Trong xã hội, vẫn có những người tốt kiên quyết chống lại cái xấu, cái ác bằng lời
nói và hành động nhưng sự im lặng, dửng dưng đang gia tăng như một căn bệnh lây
lan trong cộng đồng đến nỗi người ta chứng kiến cái ác diễn ra trước mắt mà cảm thấy
bình thường (Dẫn chứng)
d/ Rút ra bài học nhận thức và hành động:
- Về nhận thức: Ý kiến của Martin Lutherking là một lời cảnh báo nghiêm khắc cảnh
tỉnh con người trước nguy cơ về sự băng hoại của những giá trị tinh thần để nhận thức
rõ im lặng, chấp nhận “Lùi bước cho cái xấu cũng là một tội ác”
- Về hành động:
 Chủ động lên án cái xấu, cái ác, khuyến khích mọi người biết bênh vực cho lẽ phải
bằng lời nói và hành động
 Khi đấu tranh với cái ác, các xấu, cần đoàn kết tạo tiếng nói chung của cộng đồng,
không sống thờ ơ, vô cảm
 Có chính sách bảo vệ người tốt dám lên tiếng vạch trần cái xấu, cái ác
3. Kết bài: Khẳng định vấn đề và liên hệ với suy nghĩ của bản thân
- Đừng bao giờ thỏa hiệp và làm ngơ trước cái xấu để xã hội văn minh, tốt đẹp, con
người được sống yên vui, hạnh phúc.
Câu 3:
I/ Xác định yêu cầu:
1. Kiểu bài: Nghị luận so sánh hai đoạn thơ
2. Nội dung: Vẻ đẹp của hình ảnh người lính trong hai đoạn trích.
II/ Dàn ý:
1. Mở bài:
- Giới thiệu đề tài người lính trong thơ ca.
- Giới thiệu hai đoạn thơ và khái quát về vẻ đẹp của người lính.
2. Thân bài
a/ Vị trí của hai đoạn trích
b/ Cảm nhận hình ảnh người lính trong hai đoạn thơ:
Đoạn 1:
Khổ cuối trong “Đồng chí” của Chính Hữu là bức tranh đẹp vừa hiện thực vừa lãng
mạn mang biểu tượng của tình đồng chí cao đẹp giữa những người lính trong kháng
chiến chống Pháp:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
- Hoàn cảnh hiện thực: cảnh rừng hoang vắng, lạnh lẽo, cái giá rét khắc nghiệt của
rừng đêm sương lạnh buốt giá, người lính đang ở giữa giây phút căng thẳng chờ giặc
tới.
- Hình ảnh người lính nổi bật trong tư thế đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới.
- Tác giả xây dựng một hình ảnh thơ lãng mạn đầy thi vị: Đầu súng trăng treo.
+ Những đêm canh gác chờ giặc tới, nòng súng người lính vươn cao, vầng trăng tròn
như treo đầu mũi súng.
+ Hình ảnh thơ vừa thực vừa mang tính biểu tượng.. Súng và trăng, kết hợp với nhau
tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính và tình đồng chí thắm thiết.
 Hiện thực cuộc chiến đầy gian khổ không làm mất đi vẻ đẹp tâm hồn, sự lãng mạn
thơ mộng của người lính. Họ cầm súng chiến đấu là để mang lại sự yên bình cho quê
hương, Tổ quốc.
Đoạn 2:
Bức chân dung người lính lái xe Trường Sơn trong thời kì chống Mỹ giàu lòng yêu
nước, ý chí hướng về giải phóng miền Nam:
- Yêu nước, hướng về miền Nam là động lực thôi thúc họ vượt qua mọi hiểm nguy,
gian khổ, thiếu thốn đến mức tối thiểu:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Sự gian khổ, khốc liệt của chiến trường chống Mĩ càng nhân lên gấp bội qua hình ảnh
những chiếc xe bị tàn phá đến mức trần trụi, biến dạng gần như hoàn toàn.
- Tác giả cũng sử dụng phép nghệ thuật tương phản để tạo nên sự đối lập giữa những
cái không và có, giữa vật chất bên ngoài và sức mạnh bên trong, để từ đó làm nổi bật
vẻ đẹp trái tim người lính.
- Hình ảnh hoán dụ một trái tim chỉ người lính lái xe, cũng thể hiện vẻ đẹp của người
lính lái xe Trường Sơn, lý giải sức mạnh đưa những đoàn xe ra trận, sức mạnh của
cuộc chiến đầy thử thách, gian khổ. Vẻ đẹp của người lính, của cả đoàn xe kết đọng ở
trái tim gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước, tràn đầy niềm tin, ý chí vì miền
Nam phía trước.
c/ So sánh điểm giống và khác nhau về hình ảnh người lính trong hai đoạn thơ:
- Giống nhau:
+ Cả hai đoạn thơ đã thể hiện chân thực, sâu sắc hiện thực kháng chiến gian khổ:
• “Đồng chí”: thời chống Pháp thiếu thốn, khắc nghiệt “rừng hoang sương muối”
• “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”: Chiến tranh thời chống Mĩ ác liệt với hình ảnh
những chiếc xe không kính bị tàn phá.
+ Vẻ đẹp của người lính lạc quan, giàu lí tưởng, ý chí chiến đấu, vượt qua gian khổ
bằng tình yêu nước và tình đồng chí, đồng đội thắm thiết hiện lên rõ nét ở hai đoạn
thơ.
+ Họ đều có tinh thần bất khuất vượt lên mọi khó khăn, thử thách.
+ Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đều ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp những người lính anh
hùng trong kháng chiến.
- Khác nhau:
+ Người lính trong bài thơ “Đồng chí” mang vẻ đẹp chân chất, mộc mạc của người
lính xuất thân từ nông dân thời chống Pháp còn người lính trong “Bài thơ về tiểu đội
xe không kính” luôn trẻ trung, sôi nổi với khí thế mới mang tinh thần thời đại thời
chống Mĩ.
+ Trong thơ Chính Hữu, hình ảnh người nông dân cầm súng được miêu tả với vẻ đẹp
mộc mạc, bình dị nhưng cũng thật lãng mạn, bay bổng. Hình ảnh “Đầu súng trăng
treo” cũng là một hình ảnh lãng mạn tuyệt đẹp thể hiện được tâm hồn lãng mạn, trẻ
trung, thi vị của người lính trong bài “Đồng chí”. Chính Hữu kết hợp bút pháp hiện
thực và lãng mạn, sử dụng hình ảnh thơ mang tính biểu tượng.
Cờn ở thơ Phạm Tiến Duật, hình ảnh thơ chân thực, ngồn ngộn chất sống từ hiện thực
đời sống chiến trường.. Đồng thời, ngôn ngữ giản dị, giàu tính khẩu ngữ rất gần với
lời nói thường, giọng điệu ngang tàng, trẻ trung, sôi nổi, tinh nghịch, tự nhiên, thể
hiện sự hiên ngang, bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm của các anh lính lái xe Trường
Sơn.
3. Kết bài: Khẳng định giá trị, ý nghĩa hai đoạn thơ và suy nghĩ của em
Hình ảnh người lính lạc quan, giàu ý chí và lòng yêu nước trong hai đoạn thơ “Đồng
chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là hình ảnh đẹp mang dư âm hào hùng của
hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
[NGỮ VĂN 9] ÔN TẬP TRUYỆN NGẮN "LÀNG"
Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim
Lân.
============= ============
DÀN Ý CHI TIẾT
I/ Mở bài
- Kim Lân là một nhà văn có sở trường về truyện ngắn. Ông am hiểu sâu sắc về đời
sống nông dân, nông thôn Việt Nam.
- Truyện ngắn “Làng” viết vào thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp đăng trên tạp
chí Văn nghệ năm 1948. Ông Hai là nhân vật chính của tác phẩm - một người nông
dân phải rời làng đi tản cư để lại những ấn tượng sâu sắc bởi tình yêu làng, yêu nước,
tinh thần kháng chiến, trung kiên với cách mạng.
II/ Thân bài:
1/ Ông Hai là một nông dân có tình yêu làng sâu sắc, đặc biệt với cái làng Chợ Dầu
nơi chôn rau cắt rốn của ông.
- Làng Chợ Dầu là nơi tổ tiên ông Hai sinh cơ lập nghiệp, nơi chôn rau cắt rốn của
ông. Biết bao tình cảm đã gắn bó với ông với dân làng, với cảnh vật, với mảnh đất quê
hương.
- Trước Cách mạng, với tâm lí nông dân, mang tính địa phương, ông thường tự hào
làng mình giàu đẹp to lớn, thường khoe cái “sinh phần của viên Tổng đốc người làng”.
Ông yêu tất cả những gì thuộc làng ông: “ những nhà ngói san sát, những đường làng
lát đá xanh trời mưa gió bùn không dính đến gót chân”…
- Kháng chiến chống Pháp nổ ra, tình yêu làng của ông Hai có sự chuyển biến:
+ Ông thấy căm thù cái “ sinh phần” của viên Tổng đốc vì nó là tàn tích của phong
kiến, vì phục địch xây nó mà ông và người làng phải khổ.
+ Tự hào về làng, ông tự hào về phong trào cách mạng, tinh thần kháng chiến sôi nổi
của làng, những buổi tập quân sự, những buổi đào đường, đắp ụ, xẻ giao thông hào …
tự hào luôn cả “ cái phòng thông tin tuyên truyền rộng rãi, cái chòi phát thanh cao”.
Trong con mắt ông Hai, cái gì của làng Chợ Dầu cũng đáng tự hào. Cuộc đời, số phận
ông Hai đã thật sự gắn bó với những buồn vui của làng Chợ Dầu.
2/ Tình cảm yêu làng của ông Hai hòa quyện, thống nhất với tình yêu đất nước, yêu
kháng chiến, cách mạng.
a/ Khi ở khu tản cư:
- Ông Hai tản cư đến vùng tự do theo chính sách của Cụ Hồ: tản cư là yêu nước.
- Khi mới lên khu tản cư, chưa quen người, quen việc nên ông hay nhớ về cái làng của
mình “ Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá”.
- Khi được nói chuyện về làng. Ông vui náo nức lạ thường: “ Hai con mắt ông sáng
hẳn lên, cái mặt biến chuyển hoạt động”.
- Ông thường ra phòng thông tin để nắm tin tức kháng chiến: trẻ em cắm cờ trên Tháp
Rùa Hà Nội, anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã hi sinh, đội nữ dân
quân du kích Trung Trắc bắt sống tên quan Hai Pháp…Khi biết những tin đó. Ông vui
như người trong cuộc lập được chiến công. Điều đó cho thấy ở khu tản cư nhưng ông
luôn hướng lòng về kháng chiến, lấy niềm vui kháng chiến để vơi bớt nỗi nhớ làng.
Tình yêu làng, yêu nước, gắn bó với kháng chiến đã hòa quyện.
b/ Khi nghe tin làng Dầu là làng Việt gian theo Tây:
- Tác giả đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay cấn để làm bộc lộ sâu sắc tình
cảm yêu làng, yêu nước của ông. Tình huống ấy là cái tin làng ông theo giặc mà chính
ông nghe được từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên.
• Khi nghe tin:
+ Ông bàng hoàng, sững sờ “ Cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão
lặng đi, tường như đến không thở được”…
+ Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn chưa tin mà hỏi lại. Giọng lạc hẳn đi. Lời
khẳng định của người đàn bà “ Việt gian từ thẳng chủ tịch mà đi cơ” làm ông không
còn nói gì được nữa, vớ vớ đứng làng ra chỗ khác, rồi đi thẳng.
- Trên đường về : trong tâm lí ông Hai chỉ còn cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó trở thành
nỗi ám ảnh day dứt. Ông hổ thẹn, nhục nhã, “ cúi gằm mặt xuống mà đi”.
- Về đến nhà: Ông “ nằm vật ra giường”, rồi tủi thân khi nhìn đàn con, “nước mắt ông
lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị
người ta rẻ rúng hắt hủy đấy ư?”.
- Tối đến khi bà Hai trở về : gia đình ông Hai bao trùm không khí căng thẳng.
Chỉ bằng một đoạn văn ngắn nhà văn đã diễn tả nhiều tâm trạng đau đớn, vò xé trong
lòng ông Hai. Phải là một người có tình yêu làng sâu nặng, tha thiết ông Hai mới có
những tâm trạng như vậy.
• Những ngày sau đó:
- Suốt mấy ngày sau, ông Hai không dám đi đâu. Ông chỉ quanh quẩn ở nhà, nghe
ngóng tình hình bên ngoài: “ một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng
cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta
đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng
Tây, Việt gian là ông lại lủi vào một góc nhà, nín thít. Tất cả những biểu hiện ấy đã
diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến tháng sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai
cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc.
- Rồi tin này ai cũng biết: mụ chủ nhà đuổi khéo nhà ông đi, người làng Dầu ở đây
cũng bị đuổi như đuổi hùi. Đi đâu bây giờ? Không ai muốn chứa chấp dân của làng “
Việt gian”, cũng không thể quay về làng, “ Về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho
thằng Tây”, tức là “bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Ông Hai đã bị đẩy vào tình thế bế tắc,
tuyệt vọng, mỗi mâu thuẫn nội tâm diễn ra gay gắt giữa về làng hay ở lại.
- Ông dứt khoát lựa chọn theo cách của ông: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây
mất rồi thì phải thù”, tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng
quê. Nhưng dù đã xác định như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê,
vì thế mà càng đau xót, tủi hổ.
- Ông Hai nói chuyện với con trai để giãi bày nỗi lòng mình:
+ Ông Hai hỏi con: “ Thế nhà con ở đâu?”, “ Ùng hộ Cụ Hồ con nhỉ?”.
+ Đứa con trai út trả lời : “ Nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “ Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn
năm!”
+ Ông tự nhủ: “ Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi
cho bố con ông”, “ Cái lòng của bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai…”
Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ và lời tự nhủ với mình, tự giãi bày nỗi lòng
mình, ta thấy rõ ở ông Hai tình yêu sâu nặng với cái làng Chợ Dầu của ông và tấm
lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ. Tỉnh cảm
ấy là sâu nặng, bền vững, thiêng liêng.
• Khi nghe tin cải chính:
- Ông chủ tịch làng Chợ Dầu lên cải chính tin: làng ông vẫn là làng kháng chiến, làng
bị giặc tàn phá vì không theo Tây, bằng chứng là: “ Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt
nhẵn!”.
- Ông Hai lật đật đi khoe với tất cả mọi người tin cái chính, lại vén quần lên tận bẹn
mà nói chuyện về cái làng của ông.
Niềm vui mừng kì lạ thể hiện một cách đau xót, cảm động về tinh thần yêu nước và
cách mạng của ông Hai. Nhà bị giặc đốt nhưng ông không buồn tiếc vì đó là bằng
chứng về lòng trung thành với cách mạng và kháng chiến của ông. Đây là tình cảm
đặc biệt của ông Hai, tình cảm chung của những những người nông dân của nhân dân
ta thời kháng chiến chống Pháp. Đối với họ lúc này, trước hết và trên hết là Tổ quốc,
nên họ sẵn sàng hy sinh tất cả tính mạng và tài sản.
3/ Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Để xây dựng thành công nhân vật ông Hai, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống thử
thách bên trong để bộc lộ chiều sâu tâm trạng; miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn
biến tâm lí phức tạp: bàng hoàng, đau đớn, căng thẳng, tuyệt vọng, sung sướng …;
ngôn ngữ nhân vật sinh động, giàu tính khẩu ngữ và thể hiện cá tính.
III/ Kết luận: Khẳng định lại vấn đề
Có thể nói, hình ảnh ông Hai tiêu biểu cho vẻ đẹp của người nông dân trong buổi đầu
của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là những con người mộc mạc, chất phác, có
tình cảm bền chặt, sâu sắc với làng quê, đất nước và cách mạng, kháng chiến.
[NGỮ VĂN 9] CÂU HỎI ÔN TẬP BÀI THƠ "BẾP LỬA"
Câu 1: Hãy nêu nhận xét về hình ảnh tượng trưng của hình tượng “bếp lửa”.
Gợi ý:
- Hình ảnh bếp lửa vốn là hình ảnh thật của bếp lửa mà ngày ngày người bà nhen lửa
nấu cơm.
- Nhưng bếp lửa lại trở thành hình ảnh tượng trưng, gợi lại tất cả những kỷ niệm ấm
áp của hai bà cháu. Lửa thành ra ngọn lửa tình yêu, lửa niềm tin, ngọn lửa bất diệt của
tình bà cháu, tình quê hương đất nước.
- Bếp lửa mà người bà ấp iu hay chính là tình yêu thương mà bà nâng niu dành tất cả
cho cháu, từ việc dạy cháu làm, chăm cháu học, bảo cháu nghe.
- Bếp lửa cũng là nơi bà nhóm lên tình cảm, khát vọng cho người cháu. Nhóm lửa do
đó cũng vừa có nghĩa thực, vừa có ý nghĩa tượng trưng.
Câu 2: Bài thơ Bếp lửa là lời của nhân vật nào nói với nhân vật nào, nói với ai và nói
về việc gì? Nêu mạch cảm xúc của bài thơ?
Trả lời:
- Bài thơ là lời của người cháu nói với bà, nói về kỉ niệm tuổi thơ bên bà và những suy
ngẫm về cuộc đời bà và hình ảnh bếp lửa.
- Mạch cảm xúc của bài thơ: Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, bài thơ giống
như lời tâm sự của người cháu hiếu thảo gửi cho người bà.
- Bắt đầu ngọn nguồn cảm xúc từ hình ảnh bếp lửa. Từ đó gợi lại kỉ niệm tuổi thơ
được bà chăm sóc, nuôi nâng. Từ những kỉ niệm người cháu thấu hiểu, suy ngẫm về
cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị và cao quý. Mạch cảm xúc thơ đi từ hồi tưởng đến hiện
tại, từ kỉ niệm tới suy ngẫm.
Câu 3: Phân tích giá trị nghệ thuật của điệp từ “nhóm” trong khổ thơ sau:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạp mới xẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình cuổi nhỏ”.
Trả lời:
- Điệp từ "nhóm" được nhắc lại 4 lần làm toả sáng hơn nét “kỳ lạ” và thiêng liêng bếp
lửa. Bếp lửa của tình bà đã nhóm lên trong lòng cháu bao điều thiêng liêng, kỳ lạ.
- Từ: "nhóm" đứng đầu mỗi dòng thơ mang nhiều ý nghĩa : Từ bếp lửa của bà những
gì được nhóm lên, khơi lên ?
+ Khơi dậy tình cảm nồng ấm.
+ Khơi dậy tình yêu thương, tình làng nghĩa xóm, quê hương.
+ Khơi dậy những kỷ niệm tuổi thơ, bà là cội nguồn của niềm vui, của ngọt bùi nồng
đượm, là khởi nguồn của những tâm tình tuổi nhỏ.
=> Đó là bếp lửa của lòng nhân ái, chia sẻ niềm vui chung.
Câu 4: Trong bài thơ “Bếp lửa” nhà thơ Bằng Việt có viết:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
a. Vì sao ở hai câu cuối, tác giả dùng từ “ ngọn lửa” mà không nhắc lại từ “bếp lửa”?
Ngọn lửa ở đây có ý nghĩa gì? Em hiểu những câu thơ trên như thế nào?
b. Viết một đoạn văn ngắn (8-10 câu) nêu nhận xét về ý nghĩa tượng trưng của hình
tượng bếp lửa trong bài thơ.
Gợi ý:
– Ở cầu đầu dùng “bếp lửa” => đây là hình ảnh tả thực xuyên suốt bài thơ thể hiện chủ
đề tư tưởng của tác phẩm => là cơ sở để xuất hiện hình ảnh ngọn lửa ở hai câu thơ
sau.
– Từ “bếp lửa” chuyển thành “ngọn lửa” có ý nghĩa:
+ Ngọn lửa của tình yêu thương.
+ Ngọn lửa của sức sống , niềm tin, hy vọng mà bà muốn truyền cho cháu.
+ Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, sức sống niềm
tin cho các thế hệ tiếp nối.
Câu 5: Chỉ ra từ láy trong đoạn thơ đầu. Những từ láy ấy giúp em hiểu hình dung gì về
hình ảnh “bếp lửa” mà tác giả nhắc tới.
Trả lời:
- Từ láy gợi lên hình ảnh về bếp lửa:
+ Chờn vờn: dòng hồi tưởng được bắt đầu bằng hình ảnh thân thương, ấm áp: bếp lửa
“chờn vờn sương sớm”. Gợi tả hình ảnh bếp lửa có thật được cảm nhận bằng thị giác
ẩn hiện trong sương sớm “chờn vờn”.
+ Ấp iu: gợi bàn tay dịu dàng, kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút, tỉ mỉ của
người nhóm lửa.
→ Điệp ngữ “một bếp lửa” kết hợp với các từ láy “chờn vờn”, “ấp iu” gợi lên hình
ảnh sống động, chân thực và lung linh của một bếp lửa gần gũi, thân thuộc trong gia
đình người Việt.
- Hình ảnh bếp lửa tự nhiên, đánh thức dòng hồi tưởng của cháu về bà, người nhóm
lửa mỗi sớm mai. Hình ảnh bài thơ lúc nào cũng chập chờn, lay động.
-
Câu 6: Trong bài thơ “Bếp lửa” nhà thơ Bằng Việt
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng …”
a. Chép chính xác 8 câu thơ tiếp nối đoạn thơ trên.
b. Trong những dòng thơ em vừa chép có hiện tượng dùng từ chuyển nghĩa. Chỉ ra
những từ đó và cho biết ý nghĩa biểu đạt của nó trong câu thơ.
c. Cho những từ: le lói, liu riu. Theo em, những từ này có thể thay thế cho từ “ấp iu”
trong đoạn thơ em vừa chép được không? Vì sao?
d. Đoạn thơ được trích dẫn là những suy ngẫm sâu sắc và tình cảm chân thành của nhà
thơ đối với người bà vô cùng yêu thương và kính trọng.
Hãy triển khai nội dung trên thành một đoạn văn nghị luận theo phương pháp lập luận
quy nạp (khoảng 12 câu). Trong đoạn có sử dụng câu chứa lời dẫn trực tiếp và câu
nghi vấn bộ lộ cảm xúc (có gạch chân và ghi chú thích).
Gợi ý:
b. Từ “nhóm” trong hai câu thơ: “Nhóm niềm yêu thương …”và “ nhóm dậy cả tâm
tình…” được dùng với nghĩa chuyển (theo phương thức ẩn dụ)
=> có nghĩa là khơi dậy hay gợi lên niềm yêu thương, những kí ức đẹp, có giá trị trọng
cuộc đời con người.
c. Những từ này không thể thay thế cho từ “ấp iu” và :
– căn cứ vào sự kết hợp với từu sau nó là từ “nồng đượm” thì không thể là “le lói nồng
đượm” hay “liu riu nồng đượm” => vô lý.
– từ “nhóm” của câu thơ này được hiểu theo nghĩa chuyển nên chỉ có từ “ấp iu” mới
diễn tả được sự yêu thương, quan tâm lo lắng của người bà dành cho cháu.
Câu 8: Dưới đây là đoạn thơ cuối trong bài thơ “ Bếp lửa” của Bằng Việt.
“ … Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”
a. Đoạn thơ trên là lời của nhân vật nào, nói về ai và về điều gì?
b. Bài thơ được kết thúc bằng câu nghi vấn : “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Nêu tác dụng của câu nghi vấn?
c. Bằng một đoan văn khoảng 10 câu: có sử dụng phép lặp liên kết và một câu đảo trật
tự từ em hãy phân tích đoạn thơ trên để thấy được tình cảm sâu nặng với bà, với quê
hương, đất nước của người cháu.
Gợi ý:
a. Lời của nhân vật người cháu.
- Nói về người bà
- Nói về tình cảm sâu nặng của cháu với bà, quê hương đất nước.
b. Tác dụng: gợi cho người đọc cảm nhận như có một nỗi nhơ khắc khoải, thưởng trực
một nỗi nhớ đau đáu, khôn nguôi, luôn nhớ về bà cũng chính là nhớ về quê hương đất
nước, cội nguồn của đứa cháu.
(câu nghi vấn được dùng để bộc lộ cảm xúc).
c. Câu chủ đề: tình cảm sâu nặng với bà, với quê hương đất nước của người cháu.
Triển khai:
– Khoảng cách về không gian, thời gian: Khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm
ngả không thể làm cháu lãng quên ánh sáng và hơi ấm từ bếp lửa của bà, của quê
hương, không quên được những tận tụy hi sinh của đời bà
=> đó là đạo lý thủy chung cao đẹp của con người Việt Nam.
Nghệ thuật: cần phân tích điệp từ nối “nhưng” ở câu thơ thứ 3
Phân tích câu thơ kết (xem ý b).
Câu 9. Hình ảnh bếp lửa gợi lại những kỷ niệm nào giữa bà và cháu? Vì sao người
cháu có “ngọn lửa trăm tàu, có lửa trăm nhà, có niềm vui trăm ngả mà vẫn không quên
nhắc về bếp lửa”?
Gợi ý:
Hình ảnh bếp lửa gợi lại trong lòng cháu kỷ niệm về năm lên bốn tuổi đói kém, bếp
khói hun nhèm mắt. Rồi những mùa vải chín, chim tu hú kêu, những câu chuyện kể
của bà. Những việc bà dạy bảo, bà chăm cháu học, bà lo lắng cho mọi người. Bếp lửa
gợi lại những niềm vui của nồi xôi gạp mới, niềm yêu thương, những tâm tình tuổi
thơ. Bếp lửa tượng trưng cho tình cảm vững bền của bà cháu, tình quê hương sâu
nặng. Chính vì thế, khi người cháu đi xa, có những niềm vui mới, có những tình cảm
mới, có những bến bờ mới, nhưng vẫn không thể quên bếp lửa, nơi ủ sẵn tình cảm bà
cháu, quê hương.
Câu 10: Phân tích đoạn thơ sau:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
…………..
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa!”
Gợi ý:
• Mở đoạn: Những suy ngẫm sâu sắc của tác giả về người bà, về bếp lửa.
• Thân đoạn:
– Suy ngẫm của người cháu về bà.
– Đó là sự tần tảo, đức hinh sinh, tấm lòng yêu thương chia sẻ của bà, hình ảnh bà
luôn gắn với hình ảnh bếp lửa ( HS cần căn cứ vào cụm từ chỉ thời gian: đời bà, mấy
chục năm, từ láy tượng hình lận đận, hình ảnh ẩn dụ : nắng mưa)
– Bà đã nhóm dậy những gì cao quý, thiêng liêng nhất của một con người: nhóm niêm
yêu thương, niềm tin, nghị lực (phân tích đa nghĩa của từ “nhóm”).
– Suy ngẫm của người cháu về bếp lửa (câu cuối) hình ảnh bà gắn với bếp lửa. Bếp
lửa vốn thân thuộc trong mỗi gia đình bỗng trở lên kì lạ => bếp lửa kì diệu thiêng
liêng có sức tỏa sáng nâng đỡ tâm hồn cháu trong suốt cuộc đời.
• Kết đoạn : suy nghĩ và ước mơ của tác giả.
Câu 11: Vì sao đã bao lâu rồi mùi khói của bếp lửa khiến người cháu có cảm giác
“Nghĩ lại tới giờ sống mũi còn cay”.
Trả lời:
- Đứa cháu sau bao năm xa cách với bếp lửa và mùi khói nhưng vẫn mang cảm giác
“Nghĩ lại tới giờ sống mũi còn cay”:
+ Người cháu luôn xúc động, bồi hồi mỗi khi nghĩ về những năm tháng khốn khó của
tuổi thơ.
+ Cháu cảm thấy kỉ niệm sống dậy, người cháu thương nhớ bà và tình bà cháu vẫn vẹn
nguyên.
→ Đây là dòng cảm xúc chân thật và xúc động của đứa cháu về bà và về tuổi thơ của
mình.
Câu 12: Đoạn thơ có nhắc tới tiếng chim tu hú, trong chương trình ngữ văn THCS
cũng có bài thơ nói tới tiếng chim tu hú, nêu tên bài thơ và tác giả. Âm thanh tiếng
chim tu hú ở hai bài thơ có ý nghĩa khác nhau như thế?
Trả lời:
Bài thơ nhắc tới tiếng chim tu hú trong chương trình ngữ văn THCS: "Khi con tu hú"
của Tố Hữu.
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Tiếng chim tu hú trong hai bài thơ:
+ Trong bài "Bếp lửa" của Bằng Việt: tiếng chim tu hú báo hiệu mùa hè, mở ra sự ấm
áp, tha thiết của tình bà cháu, tiếng chim tu hú gợi nhớ về những ngày tháng tuổi thơ
được bà chăm sóc, dạy dỗ.
+ Trong bài "Khi con tu hú" của Tố Hữu: tiếng chim tu hú quen thuộc, báo hiệu mùa
hè. Tiếng tu hú gọi bầy như thôi thúc người chiến sĩ phá bỏ rào cản để đón nhận vẻ
đẹp, sự tự do của sự sống tươi đẹp bên ngoài.
Câu 13. Tìm biện pháp tu từ và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong hai câu thơ
dưới đây:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Trả lời:
Hai câu thơ trên sử dụng biện pháp liệt kê:
+ Các cụm từ: bà bảo, bà dạy, bà chăm diễn tả sâu sắc tấm lòng nhân hậu, tình yêu
thương bao la và sự chăm sóc tận tình của bà dành cho người cháu.
+ Từ “bà” và “cháu” được lặp lại nhiều lần nhằm gợi tả tình bà cháu quấn quít, yêu
thương.
+ Người bà thay thế cha mẹ là chỗ dựa vững chắc cho cháu.
→ Hình ảnh người bà tần tảo, khuya sớm, bà là sự kết hợp cao quý tình cha, nghĩa mẹ,
công thầy.
Những hình ảnh về bà in đậm trong tâm trí người cháu và gây xúc động mỗi khi cháu
nhớ về.
Câu 14. Hình ảnh bếp lửa xuyên suốt cả bài thơ. Hãy phân tích ý nghĩa của hình tượng
đó.
Trả lời:
Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ là hình ảnh đa nghĩa:
- Bếp lửa gắn chặt với hình ảnh người bà, vì vậy khi người cháu bắt gặp hình ảnh “bếp
lửa chờn vờn sương sớm” ở xứ người thì tuổi thơ sống dậy.
- Bếp lửa tượng trưng cho sự tần tảo, đức hi sinh cảu người bà. Bàn tay bà nhóm lên
tình yêu thương, sự hiểu biết cho đứa cháu.
- Bếp lửa còn là biểu tượng của gia đình, của quê hương.
- Bếp lửa là minh chứng cho tình bà cháu ấm áp, tha thiết.
- Hình ảnh ngọn lửa góp phần bổ sung ý nghĩa cho hình ảnh bếp lửa:
+ Ngọn lửa là niềm tin thiêng liêng, cao đẹp nâng đỡ người cháu trên hành trình cuộc
đời.
+ Ngọn lửa là tấm lòng, sự vững vàng, tình yêu thương của người bà luôn dạt dào, bất
tận.
Câu 15. Viết đoạn văn khoảng 12 câu làm rõ tình cảm của người cháu dành cho người
bà trong khổ thơ cuối bài thơ.
Đoạn văn tham khảo
Bài thơ Bếp Lửa kết thúc với 4 câu thơ cuối là tất cả tình cảm chất chứa, nỗi niềm
thương nhớ của cháu gửi về bà. “Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu” – Câu thơ
với dấu chấm giữa dòng như một nốt lặng của cảm xúc, như một khoảng trống khoảng
trắng đong đầy kỉ niệm để hồi tưởng quá khứ ùa về chiếm trọn tâm tư. Dù cháu có xa
bà, ở nơi xứ người thì tình yêu thương, sự kính trọng và nỗi nhớ vẫn luôn đong đầy
theo năm tháng. Cuộc sống hiện đại, tiện nghi với “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”,
“niềm vui trăm ngả” chẳng làm cháu quên đi những năm tháng tuổi theo sống bên bà,
cũng bà đi qua quãng đời gian khó. Lời tự bộc bạch chân thành của tác giả thể hiện
nỗi niềm khắc khoải, trăn trở chỉ với một câu hỏi “Sớm mai này bà nhóm bếp lên
chưa?”. Câu hỏi tu từ chứa chan bao cảm xúc, hình ảnh bà và bếp lửa mãi vẹn nguyên
trong tâm tưởng của người cháu đã trưởng thành. Sự xa cách về thời gian, sự cách trở
về không gian không làm cháu lãng quên đi ánh sáng ấp áp từ bếp lửa thân thuộc chốn
quê nhà, cũng như hình ảnh bà tảo tần, hiền hậu. Bởi tất cả những điều thân thiết từ
tuổi thơ, gia đình, quê hương đã nâng đỡ giúp cháu có sức mạnh trên suốt hành trình
dài rộng của cuộc đời. Tất cả sự biết ơn, thương kính bà cũng chính là biểu hiện cao
đẹp cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, đất nước.

[NGỮ VĂN 9] LẶNG LẼ SA PA


(Trích - Nguyễn Thành Long)
I - ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
1. Tác giả:
Nhà văn Nguyễn Thành Long (1925-1991), quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam, viết văn từ thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông là cây bút chuyên về truyện
ngắn.
"Tập trung nhiệt thành ngợi ca những con người lao động mới, dám nghĩ, dám làm,
không sợ khó khăn gian khổ, say mê trong lao động sáng tạo, nhân hậu và tha thiết
yêu cuộc sống... Truyện của Nguyễn Thành Long hấp dẫn người đọc bằng văn trong
sáng, giàu chất thơ, nhẹ nhàng thoải mái, cốt truyện tưởng như giản đơn mà rất giàu ý
nghĩa khái quát. Lặng lẽ Sa Pa là một truyện ngắn tiêu biểu như thế. Truyện viết về
một thị xã nhỏ bé của tỉnh Lào Cai luôn chìm đắm trong sương mù: Sa Pa. Đến với
nơi ấy là những con người thật đẹp: một anh thanh niên làm công tác khí tượng thuỷ
văn trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét, một cô kỹ sư nông nghiệp mới ra trường, một
bác lái xe già đã chạy suốt 30 năm trên tuyến đường Sa Pa, một hoạ sĩ đi thực tế
chuyến đi cuối của cuộc đời công tác trước lúc nghỉ hưu, bốn gương mặt tiêu biểu,
bốn tính cách khác nhau: anh thanh niên đầy nhiệt huyết bộc trực, chân thành, cô kỹ
sư trẻ hồn nhiên nhưng kín đáo, tế nhị, ông hoạ sĩ trầm tĩnh, sâu lắng, còn bác lái xe
thì sôi nổi, vui tính... Họ tình cờ gặp nhau trên đường tới Sa Pa mà bỗng trở nên gần
gũi và thân thiết như trong một gia đình. Tuy tính cách và nghề nghiệp khác nhau,
nhưng tất cả đều có chung một tâm hồn trong sáng, tinh tế, một suy nghĩ lành mạnh,
sâu sắc, và nhất là họ có chung một thái độ sống, lao động, làm việc và cống hiến hết
mình cho tổ quốc một cách vô tư, hồn nhiên, âm thầm và lặng lẽ. Đó là một truyện
ngắn hay và tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Thành Long: nhẹ nhàng kín đáo mà rất
sâu sắc và thấm đẫm chất thơ" (Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho
nhà trường, Sđd).
2. Tác phẩm:
- Nhà văn đã cho xuất bản nhiều truyện ngắn, trong đó nổi bật là các tập: Bát cơm Cụ
Hồ (1955); Chuyện nhà chuyện xưởng (1962); Những tiếng vỗ cánh (1967); Giữa
trong xanh (1972); Nửa đêm về sáng (1978); Lí Sơn mùa tỏi (1980); Sáng mai nào, xế
chiều nào (1984); Lặng lẽ Sa Pa (1990),...
Ông đã được Giải thưởng Phạm Văn Đồng với tập truyện ký Bát cơm Cụ Hồ (1953).
- Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được nhà văn Nguyễn Thành Long viết năm 1970, sau
chuyến đi Lào Cai của tác giả.
Thông qua một tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa ông hoạ sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh
thanh niên làm công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn thuộc Sa Pa, tác giả
khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.
3. Tóm tắt:
Lặng lẽ Sa Pa có một cốt truyện đơn giản. Chỉ là cuộc hội ngộ giữa bốn người: ông
hoạ sĩ già, cô kĩ sư mới tốt nghiệp, bác lái xe và anh thanh niên phụ trách trạm khí
tượng trên núi Yên Sơn. Tác giả không hề cho biết tên của các nhân vật. Qua cuộc hội
ngộ của những con người "không có tên" ấy, hiện ra chân dung con người lao động
thầm lặng, trên cái nền lặng lẽ thơ mộng của Sa Pa. Câu chuyện về cuộc hội ngộ chỉ
diễn ra trong vòng ba mươi phút, người hoạ sĩ chỉ kịp phác thảo bức chân dung của
mình nhưng chân dung của chàng thanh niên, của những con người đang cống hiến
tuổi xuân, ngày đêm lặng lẽ làm việc thì đã hiện ra rõ nét. Chân dung ấy hiện ra trước
hết qua sự giới thiệu của bác lái xe vui tính, qua sự quan sát, cảm nhận, suy ngẫm nhà
nghề của bác hoạ sĩ, qua sự cảm nhận của cô gái trẻ và qua sự tự hoạ của chàng trai.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long nhẹ nhàng mà sâu sắc, thẫm đẫm
chất thơ. Nhẹ nhàng, kín đáo như Sa Pa thành phố trong sư¬ơng, và cũng giàu sức
sống với hoa trái ngát hương bốn mùa. Lặng lẽ mà không buồn tẻ, những con ngư¬ời
nơi đây đang từng ngày thầm lặng cống hiến sức lực của mình, thầm lặng đem lại
hương sắc cho cuộc sống. Đọc truyện ngắn này, chúng ta chúng ta có thể đồng cảm
với nhau:
"Sa Pa không chỉ là một sự yên tĩnh. Bên dưới sự yên tĩnh ấy, người ta làm việc!"
Theo lời giới thiệu của bác lái xe, cái con người "cô độc nhất thế gian" là một thanh
niên hai mươi bảy tuổi, làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Trong câu chuyện
phác thảo chân dung của bác lái xe, đáng chú ý là chuyện "thèm người" của anh chàng
"cô độc nhất thế gian" kia. Không phải anh ta "sợ người" mà lên làm việc ở đây, trái
lại, anh ta từng chặt cây ngáng đường ngăn xe dừng lại để được gặp người "nhìn trông
và nói chuyện một lát".
Qua cái nhìn của người hoạ sĩ, anh thanh niên hiện ra với "tầm vóc nhỏ bé, nét mặt
rạng rỡ". Anh ta sống trong "Một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu
đồ, thống kê, máy bộ đàm. Cuộc đời riêng của anh thanh niên thu gọn lại một góc trái
gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách.". Một cuộc sống giản dị,
ngăn nắp của một người yêu đời, say mê công việc và không có vẻ gì của sự buồn
chán.
Trong sự cảm nhận của cô kĩ sư mới ra trường, cuộc sống của người thanh niên là
"cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp", anh mang lại cho cô "bó hoa của những
háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên"
Nếu như người hoạ sĩ lão thành mới chỉ ghi được "lần đầu gương mặt của người thanh
niên" thì chính những lời tâm sự của một kẻ "thèm người" khi được gặp người đã là
một bức chân dung tự hoạ khá hoàn chỉnh. Chân dung là gì nếu không phải là những
nét vẽ tinh thần, những nét gợi tả phẩm chất? Những nét tự hoạ của anh thanh niên về
cả những con người đang làm việc như anh khiến người hoạ sĩ già, dù đã trải nhiều
chuyện đời phải suy ngẫm rất nhiều:
"Người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm
cho người ta suy nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ trong cái vắng vẻ vòi
vọi hai nghìn sáu trăm mét trên mặt biển, cuồn cuộn tuôn ra khi gặp người."
Vậy những điều gì ở chàng thanh niên đã làm cho người hoạ sĩ già suy nghĩ và thậm
chí làm thay đổi cả cái quan niệm về mảnh đất Sa Pa vốn có trong ông?
Nỗi "thèm người" ở anh thanh niên không phải nỗi nhớ cuộc sống đông đúc, tiện nghi,
an nhàn, như anh nói: "Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì xoàng". Người thanh niên
hiểu rất rõ công việc của mình, chấp nhận sống trong hoàn cảnh buồn tẻ, cô độc để
làm công việc "đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc
báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu". Nhưng con người
ấy không hề thấy buồn tẻ, cô độc. Cái sự "thèm người" của chàng thanh niên là lẽ bình
thờng của con người, nhất lại là tuổi trẻ. Anh sống với triết lí: "khi ta làm việc, ta với
công việc là đôi, sao gọi là một mình được?". Được làm việc có ích đối với anh thế là
niềm vui. Hơn nữa công việc của anh gắn liền với công việc của bao anh em đồng chí
khác ở những điểm cao hơn hoặc thấp hơn. Người hoạ sĩ đã thấy bối rối khi bất ngờ
được chiêm ngưỡng một chân dung đẹp đẽ đến thế: "bắt gặp một con người như anh là
một cơ hội hãn hữu cho sáng tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường
dài". Và chắc chắn ông sẽ còn bối rối khi muốn dựng lên chân dung của Sa Pa. Bởi vì,
trong sự tự hoạ của chàng trai còn hiện ra những chân dung khác nữa, cũng quên
mình, say mê với công việc như anh kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa "Ngày này sang
ngày khác... ngồi im trong vườn su hào, rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa
su hào...", nhà nghiên cứu sét mười một năm không rời xa cơ quan một ngày vì sợ có
sét lại vắng mặt. Cái lặng lẽ của cảnh sắc Sa Pa thì cây cọ trên tay người hoạ sĩ có thể
lột tả không mấy khó khăn, nhưng cái không lặng lẽ của Sa Pa như ông đã thấy qua
những con người kia thì vẽ thế nào đây? Người hoạ sĩ nhận thấy rất rõ "sự bất lực của
nghệ thuật, của hội hoạ trong cuộc hành trình vĩ đại là cuộc đời".
Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy trong Lặng lẽ Sa Pa, có hai nhân vật hầu như chỉ
lặng lẽ nghe và suy ngẫm. Đó là người hoạ sĩ và cô kĩ sư trẻ. Trước chàng trai trẻ
trung yêu đời, hiểu và yêu công việc thầm lặng của mình, người hoạ sĩ nhận ra rằng Sa
Pa, cái tên mà chỉ nghe đến "người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi", có những con
người làm việc và lo nghĩ cho đất nước. Thoạt đầu, đáp lại lời bác lái xe, người hoạ sĩ
nói: "Thích chứ, thích lắm. Thế nào tôi cũng về ở hẳn đấy. Tôi đã định thế. Nhưng bây
giờ chưa phải lúc". Sau khi gặp, được nghe chàng thanh niên nói, được chứng kiến và
hiểu cuộc sống của những con người đang làm việc thực sự, cống hiến thực sự, quan
niệm của người hoạ sĩ đã thay đổi. Lúc chia tay, người hoạ sĩ già còn chụp lấy tay
người thanh niên lắc mạnh và nói: "Chắc chắn rồi tôi sẽ trở lại. Tôi ở với anh mấy
hôm được chứ?" Đây không chỉ là sự thay đổi trong cái nhìn về Sa Pa mà còn là sự
thay đổi trong quan niệm của một nghệ sĩ về cuộc sống, về cái đẹp. Còn cô gái? Khi
từ biệt, "Cô chìa tay ra cho anh nắm, cẩn trọng, rõ ràng, như người ta trao cho nhau
cái gì chứ không phải là cái bắt tay". Cô đã hiểu được nhiều điều từ cuộc sống, công
việc của chàng trai. Có lẽ trong cái bắt tay ấy là niềm tin, là ý nghĩa đích thực của lao
động, là cả sự thầm lặng cống hiến cho đời,... Những điều đó sẽ giúp cô vững vàng
hơn trong những bước đầu tiên vào đời.
Nguyễn Thành Long đã cho người đọc thấy cái không lặng lẽ của Sa Pa. Với những
nét vẽ mộc mạc, bức chân dung về mảnh đất trên cao ấy có sức ấm toả ra từ những
bàn tay, khối óc đang từng ngày bền bỉ, thầm lặng cống hiến.
[NGỮ VĂN 9] TRUYỆN NGẮN "LÀNG"
I - ĐÔI NÉT KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1. Tác giả:
Nhà văn Kim Lân (tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài), sinh năm 1921, mất năm 2007,
quê gốc: thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Nhà văn Kim Lân đã qua hoạt động văn hóa cứu quốc, trong kháng chiến chống Pháp
công tác ở chiến khu Việt Bắc. Từng là ủy viên Ban phụ trách Nhà xuất bản Văn học,
Trường bồi dưỡng những người viết trẻ, tuần báo Văn nghệ, Nhà xuất bản Tác phẩm
mới.
"Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Trong những năm 1941- 1944, ông viết
khá đều trên những tờ báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung bắc chủ nhật. Thế giới nghệ
thuật của ông chỉ tập trung ở khung cảnh làng quê cùng với cuộc sống, thân phận
người nông dân. Những tác phẩm đầu tay (Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô
đầu, Cô vịa, Người kép già v.v.) ít nhiều có tính chất tự truyện nhưng vẫn có ý nghĩa
xã hội nhất định. Những con người của quê hương ông, thân thiết ruột thịt với ông, từ
cuộc sống đói nghèo lam lũ trực tiếp bước vào tác phẩm, tự nó toát lên ý nghĩa hiện
thực, mặc dù nhà văn chưa thật sự tự giác về điều đó.
Kim Lân viết rất hay về những cái gọi là "thú đồng quê" hay "phong lưu đồng ruộng".
Đó là những thú chơi lành mạnh mang màu sắc văn hóa truyền thống của người dân
quê như đánh vật, nuôi chó săn, gà chọi, thả chim v.v. Những truyện của Kim Lân viết
về phong tục (Đuổi từ, Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn, Pháo Đồng Kỵ, Thổi
ống suỳ đồng, Tông chim Cả Chuống, Ông Cản Ngũ, Thượng tướng Trần Quang
Khải, Trạng Vật...) hấp dẫn không chỉ vì đã cung cấp được những tri thức về phong
tục mà chủ yếu là vì nhà văn đã làm hiển hiện lên được cuộc sống và con người của
làng quê Việt Nam cổ truyền, tuy nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn có nhiều thú vui thanh
lịch. Những con người thật thà, chất phác, nhưng thông minh, hóm hỉnh và tài hoa, đã
đặt tất cả niềm say mê của mình vào những thú chơi giản dị mà tao nhã tinh tế ấy,
chẳng khác gì những tâm hồn nghệ sĩ say mê sáng tạo nghệ thuật.
Sau 1945, Kim Lân vẫn tiếp tục viết về làng quê Việt Nam. Ông thường viết về những
cảnh tội nghiệp, cuộc sống khốn khó đến cùng cực của người nông dân dưới chế độ cũ
và sự đổi đời của họ nhờ cách mạng. Trong số những tác phẩm viết về đề tài này,
Làng, Vợ nhặt xứng đáng thuộc loại những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt
Nam hiện đại (Từ điển văn học, Sđd).
2. Tác phẩm:
Nhà văn đã cho xuất bản: Nên vợ nên chồng (truyện ngắn, 1955); Con chó xấu xí
(truyện ngắn, 1962); Hiệp sĩ gỗ, Ông cả Ngũ.
Truyện ngắn Làng được nhà văn Kim Lân viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.
3. Tóm tắt:
Ông Hai đột ngột nghe tin làng ông theo giặc. Từ lúc ấy, "cổ ông lão nghẹn ắng lại, da
mặt tê rân rân", mang nỗi ám ảnh nặng nề, thậm chí "cúi gằm mặt mà đi". Suốt mấy
ngày, ông luôn chột dạ, đau đớn, tủi hổ khi nghe tin làng mình theo giặc vì ông rất yêu
làng, yêu nước. Khi được tin cải chính, ông vui sướng như người đã chết đi được sống
lại.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Khi nói về công việc sáng tác, nhà văn Kim Lân thường thổ lộ rằng ông muốn thể hiện
con người mình qua trang viết. Có lẽ, ở trường hợp như Kim Lân, sự tự thể hiện thành
ra một nhu cầu, và chính nó tạo ra hơi thở, sức sống cho tác phẩm của ông. Những gì
nhà văn chứng kiến, trải nghiệm trong những thời điểm quan trọng của lịch sử đất
nước trở thành nguồn nguyên liệu trực tiếp để ông sáng tạo nên những hình tượng đặc
sắc. Truyện ngắn Làng, với nhân vật ông Hai, chứng tỏ cho chúng ta về điều này. Kim
Lân từng nói:
"Cái không khí ngày đầu kháng chiến ở nông thôn, tôi đã đưa vào Làng. Lúc ấy Tây
còn đóng tại cầu Đuống, tôi về làng chơi mấy lần, chứng kiến tận mắt thế nào là "làng
chiến đấu". Trong không khí ấy, cùng với dư luận bán tín bán nghi về làng chợ Dầu
theo Tây làm Việt gian đã khiến tôi viết truyện ngắn này. Ông lão Hai chính là tôi".
Tình yêu quê hương đất nước trong mỗi con người cụ thể mang một hình hài riêng. Có
thể là sự hi sinh anh dũng của những chiến sĩ ngoài mặt trận, có thể là công sức khai
hoang, vun trồng những thửa ruộng, có thể là cái mượt mà hay hùng tráng của một ca
khúc ca ngợi tình người, tình đời, v.v... Và ở đây là tình yêu, sự gắn bó thuỷ chung với
cái làng của mình, của một người nông dân phải rời làng đi tản cư trong những năm
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Thành công của truyện Làng chính là ở hình tượng nhân vật lão Hai với những trạng
huống tâm lí, ngôn ngữ được khắc hoạ sắc sảo, chân thực và sinh động. Tuy nhiên, để
nhân vật bộc lộ được tâm lí hay ngôn ngữ, trước hết, nhà văn phải xây dựng được tình
huống truyện. Tính cách nhân vật chỉ được thể hiện trong một sự việc cụ thể nào đó.
Hiểu lầm rồi vỡ lẽ là dạng tình huống thường được các nhà văn sử dụng. Việc rời làng
đi tản cư là sự việc có ý nghĩa tạo khung cho câu chuyện. Đó chưa phải là tình huống.
Phải đến khi ông Hai nghe tin đồn làng của ông theo Tây làm Việt gian thì tình huống
mới thực sự bắt đầu. Tình huống truyện kết thúc khi ông Hai biết được sự thực làng
của ông không theo giặc. Qua tình huống này, hình ảnh một lão nông dân tha thiết yêu
làng quê của mình, một lòng một dạ theo kháng chiến hiện ra sắc nét, với chiều sâu
tâm lí, ngôn ngữ mang đậm màu sắc cá thể hoá.
Sở dĩ cái tin làng chợ Dầu theo giặc làm ông Hai khổ tâm là vì nó đã động chạm đến
điều thiêng liêng, nhạy cảm nhất trong con người ông. Cái làng đối với người nông
dân quan trọng lắm. Nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. Đời này qua đời
khác, người nông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất đai,
là tổ tiên, là hiện thân cho đất nước đối với họ. Trước Cách mạng tháng Tám, ông Hai
thuộc loại "khố rách áo ôm", từng bị "bọn hương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu
dạt đi, lang thang hết nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn
kiếm ăn. Ba chìm bảy nổi mười mấy năm trời mới lại được trở về quê hương bản
quán". Nên ông thấm thía lắm cái cảnh tha hương cầu thực. Ông yêu cái làng của
mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ
thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Trước
Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông: "Chết!
Chết, tôi chả thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi". Và
mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên tổng đốc là "cụ tôi" một cách rất hả
hê! Sau Cách mạng, "người ta không còn thấy ông đả động gì đến cái lăng ấy nữa", vì
ông nhận thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọi người, là kẻ thù của cả làng: "Xây
cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. [...] Cái
chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy''. Bây giờ ông khoe làng ông khởi nghĩa, khoe
"ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong bóng tối", rồi những buổi tập quân sự,
khoe những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông,... Cũng vì yêu làng quá
như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Đến khi buộc phải cùng gia
đình đi tản cư, ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào
cũng lầm lầm". Ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày làm việc
cùng với anh em, "Ô, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra.[...] Trong lòng
ông lão lại thấy náo nức hẳn lên". Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe
tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng chợ Dầu của ông đánh Tây. Thế mà,
đùng một cái ông nghe được cái tin làng chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt gian.
Càng yêu làng, hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy
đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng
phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi
miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.
Ông lão đang náo nức, "Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" vì những tin kháng
chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Cái tin làng chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng
người: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như
đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, [...]
giọng lạc hẳn đi", "Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà
chủ nhà. Ông lão như vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn
diễn tả tâm trạng thật xúc động: "Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ trào ra...
Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt
hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ
ông lão đến khổ sở: "Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn
buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt
Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước...". Cả nhà
ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm: "Gian nhà lặng đi, hiu hắt. ánh lửa vàng
nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa
trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà". Ông
Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê
chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là "chuyện
ấy". Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, "không dám bước chân ra đến ngoài" vì xấu
hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia
đình ông, chỉ vì họ là người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng
thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: "Thật là tuyệt đường sinh
sống! [...] đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi Mà cho dẫu vì
chính sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi
nào đi đến đâu".
Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về làm gì cái làng
ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ...". Và
"Nước mắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia.
Bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò
chuyện cùng đứa con thơ dại:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
- Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:
- À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
- Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy
danh dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với
kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông,
chân thành và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông:
Anh em đồng chí biết cho bố con ông
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ
dám đơn sai.
Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong người nông dân chân lấm
tay bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về
làng bất kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điểm tâm lí vì cộng đồng,
vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của trạng
thái tâm lí hết sức đặc trưng của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng
mình phản bội. Nếu như trong biến cố ấy, tâm trạng của ông Hai đau đớn, tủi cực bao
nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng chợ Dầu của ông không
hề theo giặc, sự vui sướng càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ông Hai như người vừa
được hồi sinh. Một lần nữa, những thay đổi của trạng thái tâm lí lại được khắc hoạ
sinh động, tài tình: "Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm
bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi: "Tây nó
đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn![...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả", "Tây nó
đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn.[...] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự
mục đích cả!". Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập
trong niềm vui vì thoát khỏi cái ách "người làng Việt gian". Cái tin ấy xác nhận làng
ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại được sống như
môt người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình,... Mâu
thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu
tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như thế.
Mặt khác, cũng như các nhân vật quần chúng (chị cho con bú loan tin làng chợ Dầu
theo giặc, bà chủ nhà,)... cái khó quên ở nhân vật này còn là nét cá thể hoá rất đậm về
ngôn ngữ. Lúc ông hai nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ
đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: "Nắng này là bỏ mẹ
chúng nó","không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy", "Thì vẫn", "có bao
giờ dám đơn sai",... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc
quá hưng phấn của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ
của người nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng
từ ngữ chưa hiểu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phần nào cũng
nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này.
Kim Lân đã từng được đánh giá là một cây bút hàng đầu về đề tài phong tục. Trong
truyện Làng, sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê được ông vận dụng hết
sức khéo léo vào xây dựng tâm lí, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản,
sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu
chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo. Trong số rất nhiều những nhân
vật nông dân khác, người đọc khó có thể quên một ông Hai yêu làng quê, yêu đất
nước, thuỷ chung với kháng chiến, với sự nghiệp chung của dân tộc. Một ông Hai
thích khoe làng, một ông Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị, một ông Hai tủi nhục,
đau đớn khi nghe tin làng mình theo giặc, một ông Hai vui mừng như trẻ thơ khi biết
tin làng mình không theo giặc,... Ai đó đã một lần thấy nhà văn Kim Lân, nghe ông
nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình như ta gặp ông đâu đó trong Làng rồi thì phải.
[NGỮ VĂN 9] ÔN TẬP BÀI THƠ "ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ"
Đề bài : Cảm nhận của em về bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
=============== ===============
BÀI LÀM THAM KHẢO
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới .Sau cách
mạng, ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của
dân tộc .Hoà bình lập lại ,từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang
lên . Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân dịp nhà
thơ có một chuyến đi thực tế dài ngày về với vùng mỏ Quảng Ninh . Bài thơ thực sự là
một bài ca dạt dào hứng khởi ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới .
Với đôi mắt quan sát sắc sảo ,trí tưởng tượng phong phú ,trái tim nhạy cảm và tài năng
nghệ thuật điêu luyện ,nhà thơ đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng
say trên biển .Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy những sắc màu huyền ảo
,cuốn hút vô cùng :
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi .
Đoàn thyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn ,mặt trời như hòn lửa đỏ rực đang lặn
dần vào lòng đại dương mênh mông , màn đêm buông xuống ,kết thúc một ngày .Biển
kín đáo như một gian phòng lớn của thiên nhiên bởi cách nói thật riêng biệt “sóng đã
cài then đêm sập cửa”.Chính vào thời điểm ấy, ngư dân bắt tay vào công việc quen
thuộc của mình : Ra khơi đánh cá !Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi
tiếng hát âm vang, náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của người lao động được giải
phóng , tiếng hát hoà cùng gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi .Lời hát ca
ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong
đêm :
Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!
Sự say mê vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt bao nỗi nhọc nhằn vất vả trong việc đánh
cá,đem lại niềm vui và sức mạnh cho ngư dân . Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ
miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt . Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên,
công việc ,và con người :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ,
khổng lồ hoà nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Con thuyền đó
đang bay giữa không gian trong một đêm thuỷ tinh tuyệt đẹp.Những hình ảnh “lái
gió”, “buồm trăng”, “ mây cao”, “ biển bằng ”phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng
vẫn đậm chất hiện thực .Chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh thật sự
hào hùng .Cũng thăm dò ,cũng dàn đan thế trận và bủa vây bằng…lưới! Đã bao đời
nay ,ngư dân có quan hệ chặt chẽ với biển cả .Họ thuộc biển như lòng bàn tay , bao
loài cá họ thuộc tên ,thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng :
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long .
Trên mặt biển đêm ,ánh trăng lung linh dát bạc ,cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng,
tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến . Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang : lúc náo
nức ,lúc lại thật tha thiết.Trăng thức cùng ngư dân ,trăng cùng sóng dập dờn bên mạn
thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát ,trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được
những mẻ cá đầy …Với ngư dân, biển cả bao la “như lòng mẹ”,bởi vậy thiên nhiên và
con người thật hoà hợp,nhịp nhàng .Nhịp điệu công việc càng khẩn trương ,sôi nổi khi
bóng đêm dần tàn ,ngày đang đến :
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng .
Bao công lao vất vả đã được đền bù ,dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng
người dồn tất cả sức mạnh vào đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu
mới đẹp làm sao!Màu sắc phong phú ,lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng
khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ .Nhịp điệu câu thơ “lưới xếp buồm lên đón
nắng hồng ”chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phán ánh tâm trạng hài lòng
của ngư dân trước những kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.
Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của ngư dân dạn dày sông nước đang vươn lên làm chủ
cuộc đời .Tiếng hát hoà trong gió ,thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước
nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến . Hình ảnh “đoàn thuyền chạy
đua cùng mặt trời” rất thực mà cũng rất hào hùng .Nó phản ánh một thói quen lâu đời
của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế
đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn
của mọi người ,nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng .Đoàn
thuyền đi trên biển ,giữa màu hồng rạng rỡ tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong
muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng đến hàng ngàn những mặt trời nhỏ xíu
đang toả rạng nềm vui .Đến đây bức tranh biển cả ngập tràn màu sắc tươi sáng và ăm
ắp chất sống trong từng dáng hình ,từng đường nét của cảnh, của người .
“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng .Bài ca ấy dành
cho biển hào phóng ,cho những con người cần cù, gan góc đang làm giàu cho đất nước
.Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện được tác giả sử dụngtrong bài thơ đã
cuốn hút người đọc thật sự .Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ,với tất
cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới
tương lai tươi sáng .
168168
214 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ
Cảm nhận về tình cha con trong "Lão Hạc" của Nam Cao và "Chiếc lược ngà"
của Nguyễn Quang Sáng.
============= =============
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Giới thiệu khái quát
- Dẫn dắt vấn đề: Có thể đi từ tình cha con trong văn học.
- Nêu vấn đề: Cùng viết về tình cha con nhưng hai tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao và
Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng lại có những khám phá sáng tạo riêng, độc
đáo.
2. Cảm nhận về tình cha con qua hai tác phẩm
2.1. Tình cha con trong "Lão Hạc"
- Giới thiệu khái quát về nhân vật lão Hạc.
- Tình thương của lão Hạc dành cho con bộc lộ qua nhiều chi tiết:
+ Lão luôn day dứt vì không có tiền cưới vợ cho con. Bao tình thương yêu, lão gửi
gắm qua con chó Vàng- kỉ vật duy nhất còn lại của đứa con. Cách lão gọi "cậu Vàng",
cách lão chăm sóc, trò chuyện, cưng nựng...con chó Vàng, nỗi đau đớn khi lão phải
bán đi con chó …
+ Ở nhà, tuy sức tàn lực kiệt nhưng lão vẫn cố gắng bòn vườn, tích cóp tiền cho con
về cưới vợ và có chút vốn làm ăn. Lão thà chịu đói khổ chứ nhất quyết không tiêu vào
số tiền dành dụm của con.
+ Lão thà chết chứ nhất định không chịu bán mảnh vườn của con.
=> Lão Hạc là một người cha rất mực thương con, hết lòng vì con.
2.2. Tình cha con trong "Chiếc lược ngà"
- Giới thiệu khái quát về nhân vật ông Sáu, bé Thu
- Biểu hiện tình cha con của ông Sáu:
+ Khi ở chiến trường, ông Sáu mong mỏi đến cháy lòng được gặp con.
+ Khi mới gặp lại con, ông vô cùng xúc động (chú ý phân tích những chi tiết về hành
động, ngoại hình, tâm trạng...).
+ Cố tìm cách gần gũi, làm thân, chăm sóc con trong những ngày nghỉ phép mà không
được, ông Sáu vô cùng khổ tâm, day dứt.
+ Khi con cất tiếng gọi ba, ông Sáu xúc động rơi nước mắt. Người cha ấy đã mang
vào chiến trường một mong ước giản dị của con: "Ba về! Ba mua cho con một cây
lược nghe ba".
+ Ở chiến trường, ông dồn hết tâm huyết để làm cho con một cây lược. (Khi kiếm
được khúc ngà, ông thận trọng, tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc. ông tỉ mẩn gò
công khắc từng nét , nâng niu, trân trọng như một vật báu… Có thể nói, lòng yêu con
đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân sáng tạo ra một tác phẩm thiêng liêng, cao
quý. Cây lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, đơn sơ mà
thật kì diệu.
+ Kỉ vật thiêng liêng chưa kịp trao thì ông Sáu đã hi sinh. Ông Sáu đã hi sinh, nhưng
tình cha con không bao giờ chết. Chiến tranh khốc liệt có thể cướp đi sinh mạng,
nhưng không thể cướp đi tình cha con cao quý, sâu nặng. Nó sẽ sống mãi trong chiếc
lược ngà mà ông đã kì công làm cho con.
- Tình cha con của bé Thu:
+ Đằng sau sự bướng bỉnh, cương quyết không nhận cha của bé Thu ẩn chứa một tình
yêu cha tha thiết, một niềm kiêu hãnh rất đỗi trẻ thơ: tin rằng cha của em rất đẹp. Em
chỉ yêu cha khi tin chắc đó là cha của mình.
+ Tâm trạng ân hận của em khi biết rõ sự thật qua lời kể của bà ngoại.
+ Đỉnh cao của tình cha con là buổi sáng tiễn đưa ông Sáu lên đường (chú ý phân tích
những chi tiết về vẻ ngoài, hành động, tiếng thét xé lòng...của bé Thu).
3. Điểm gặp gỡ và sự sáng tạo trong cách thể hiện tình cha con của hai tác phẩm
3.1. Điểm gặp gỡ
- Hai người cha, hai thời đại, hai cảnh ngộ khác nhau nhưng họ có chung một phẩm
chất: yêu thương con nhất mực. Lão Hạc quyên sinh để dành lại mảnh vườn cho con.
Ông Sáu dồn tình yêu thương vào việc làm chiếc lược ngà. Cả hai nhân vật đều là biểu
tượng sáng ngời cho tình phụ tử sâu nặng: dành cho con tất cả, thậm chí sẵn sàng hi
sinh tất thảy vì con.
- Để khắc họa tình cha con, cả hai tác phẩm đều xây dựng được những chi tiết nghệ
thuật đặc sắc, tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế.
3.2. Điểm độc đáo, sáng tạo
- Ở "Lão Hạc", Nam Cao khám phá tình cha con của người nông dân Bắc Bộ trước
Cách mạng tháng 8 trước thử thách khốc liệt của cái đói và miếng ăn, của cảnh ngộ
khốn cùng, qua đó, tác giả thể hiện niềm tin bất diệt vào vẻ đẹp, bản chất lương thiện
của họ.
- Ở "Chiếc lược ngà", NQS khắc sâu chủ đề về tình cha con của người chiến sĩ cách
mạng miền Nam trong thử thách khốc liệt của chiến tranh trên cả hai phương diện:
tình cha với con và ngược lại, từ đó cho người đọc thấy những nỗi đau tột cùng mà
chiến tranh gây ra cho cuộc sống con người
- Cùng viết về tình cha con nhưng ở "Lão Hạc", Nam Cao chọn nhân vật tôi - ông giáo
là người trần thuật lại câu chuyện. Hành trình nhận thức của nhân vật tôi cũng chính là
hành trình mà người đọc khám phá những vẻ đẹp nhân cách cao cả của lão Hạc.
- Trong khi đó, ở "Chiếc lược ngà", NQS để nhân vật tôi là người bạn chiến đấu lâu
năm với ông Sáu kể lại câu chuyện cảm động về tình cha con. Do đó, câu chuyện
được kể lại bằng giọng điệu thân mật, dân dã, thể hiện sự cảm thông, thấu hiểu của
tình bạn, tình đồng chí, giàu tính nhân văn.
- Truyện ngắn của NQS thấm đẫm chất Nam Bộ. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
rất tinh tế, đặc biệt là tâm lí của trẻ thơ. Truyện của Nam Cao giàu chất trữ tình và triết
lí.
4. Đánh giá chung
- Cùng viết về tình cha con nhưng hai tác phẩm có những sáng tạo độc đáo trên là do:
bản chất của văn học (phải không ngừng sáng tạo), do sự khác biệt của thời đại, mục
đích sáng tác, đặc điểm sáng tác của hai tác giả.
- Ý nghĩa của sự tương đồng và khác biệt trong việc thể hiện tình cha con ở hai tác
phẩm:
+ Sự tương đồng: góp phần làm nên chất nhân bản, nhân văn của văn học.
+ Sự khác biệt làm nên vẻ đẹp phong phú, đa dạng của văn học.
- Thành công của hai tác phẩm là xây dựng được hình tượng những người cha mẫu
mực. Trong tình cảnh éo le, tình cha con càng thắm thiết, sâu nặng, để lại trong lòng
người đọc những xúc động sâu xa, những giá trị nhân bản đẹp đẽ, thiêng liêng.
- Bài học cho người sáng tác và tiếp nhận.
[NGỮ VĂN 9] LUYỆN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN
Đề bài: Em hãy viết đoạn văn theo mô hình Tổng - phân - hợp khoảng 12 câu nêu cảm
nhận của em về vẻ đẹp của nàng Kiều qua đoạn thơ sau:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân"
=======================================
Đoạn văn minh họa
(1) Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, bức chân dung Thúy Kiều được tác giả
Nguyễn Du gợi tả thật sinh động, gợi cảm và giàu sức hút. (2) Trước hết, chân dung
nàng Kiều được hiện lên qua những nét vẽ về nhan sắc. (3) Và trước khi đi vào gợi tả
vẻ đẹp sắc nước hương trời của nàng, tác giả cũng có câu thơ mang tính khái quát
“Kiều càng sắc sảo mặn mà”, đó là vẻ đẹp sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn, nàng
hơn hẳn Thúy Vân cả tài lẫn sắc. (4)Gợi tả vẻ đẹp của Kiều, tác giả vẫn dùng các hình
ảnh ước lệ: thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu và đặc biệt là tập trung gợi tả vẻ đẹp của đôi
mắt theo lối điểm nhãn – vẽ hồn cho nhân vật. (5) Hình ảnh “Làn thu thủy, nét xuân
sơn” là hình ảnh ước lệ mang tính ẩn dụ để gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt long lanh, linh
hoạt, sâu thẳm như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú, đậm nét như sắc núi mùa
xuân. (6) Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, là sự thể hiện phần tinh anh của tâm hồn
và trí tuệ, qua đôi mắt, người ta thấy được chiều sâu tâm hồn và sức cuốn hút lạ lùng
cũng nằm ở đôi mắt ấy. (7) Vẻ đẹp của Kiều vượt trội, hơn hẳn với thiên nhiên, tạo
vật, khiến hoa cũng phải ghen trước sắc thắm của nàng, liễu cũng phải hờn trước sức
sống rời rợi tươi xanh của nàng. ( Nguyễn Du không miêu tả trực tiếp nhân vật mà
miêu tả sự ghen ghét, đố kị hay ngưỡng mộ, say mê trước vẻ đẹp ấy cho thấy đây là vẻ
đẹp có chiều sâu, có sức quyến rũ, cuốn hút đến lạ lùng. (9) Bên cạnh đó, bức chân
dung nàng Kiều lại được khắc sâu hơn qua những vần thơ nói lên tài năng của nàng.
(10) Đó là tài năng thiên bẩm “vốn sẵn tính trời”, là cái tài đạt đến độ lí tưởng theo
quan niệm thẩm mĩ phong kiến hội đủ cả cầm, kì, thi , họa. (11) Không chỉ vậy, qua
việc ngợi ca nhan sắc, tài năng của nàng, tác giả Nguyễn Du còn muốn ngợi ca vẻ đẹp
tâm hồn của nàng – đó là một trái tim đa sầu, đa cảm. (12) Cung đàn “Bạc mệnh” do
nàng tự sáng tác chính là tiếng lòng của một tâm hồn thiếu nữ thiết tha rung động
trước cuộc đời, nhạy cảm với mọi niềm vui, nỗi buồn của cuộc sống. (13) Chân dung
Thúy Kiều là chân dung mang tính cách số phận, cả vẻ đẹp lẫn tài năng và nhân cách
của nàng đều là sự dự báo cho số phận truân chuyên, sóng gió bởi xưa nay hồng nhan
vốn mang phận bạc. (14) Với tài năng nghệ thuật bậc thầy, với tầm lòng nhân đạo yêu
thương, đại thi hào Nguyễn Du đã làm hiện lên trước mắt chúng ta một nàng Kiều
tuyệt đẹp khiến cho chúng ta không khỏi ngưỡng mộ, ngợi ca, yêu thương, trân trọng.
[NGỮ VĂN 9] ĐỒNG CHÍ - CHÍNH HỮU
I – Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả:
Nhà thơ Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926, quê huyện Can
Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946 ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong
quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Chính Hữu
hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh.
"Bài thơ đầu tiên của Chính Hữu được biết đến là bài Ngày về (1947), thể hiện ý chí
của những người chiến sĩ Hà Nội quyết trở về giành lại quê hương đang nằm trong tay
giặc. Chính Hữu thành công thực sự là bài Đồng chí (1948). Bài thơ được viết ngay
sau chiến dịch Việt Bắc, thể hiện chân thực hình ảnh người lính cách mạng trong vẻ
đẹp bình dị và tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng, thắm thiết của họ. Trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cũng như trong hòa bình, Chính Hữu gần như
chỉ viết về người chiến sĩ và cuộc chiến đấu: tình đồng chí, đồng đội (Đồng chí, Giá
từng thước đất), cảm xúc và suy nghĩ của người lính về nhân dân, đất nước (Tháng
Năm ra trận, Sáng hôm nay, Lá nguỵ trang. Ngọn đèn đứng gác...), tình cảm tha thiết
với gia đình (Gửi mẹ, Thư nhà), nỗi đau thương và căm giận trước tội ác của kẻ thù
thúc giục người chiến sĩ ra trận (Trang giấy học trò). Thơ Chính Hữu in đậm những
hình ảnh của một đất nước ngày đêm đánh giặc, với khí thế mạnh mẽ và hào hùng của
những cuộc hành quân không ngừng nghỉ. Mọi khung cảnh, âm vang của thời đại đã
được đón nhận và tái hiện với sức vang ngân rất sâu trong tâm khảm nhà thơ, để trở
thành những hình ảnh và ấn tượng đậm nét, giàu sức gợi cảm và ý nghĩa biểu trưng.
Hiện Chính Hữu mới chỉ công bố: tập thơ Đầu súng trăng treo (1966), Thơ Chính Hữu
(1977), Tuyển tập Chính Hữu (1988). Thơ Chính Hữu giàu hình ảnh, nhiều suy tưởng,
ngôn ngữ chọn lọc, cô đọng. Ông thường sử dụng thể thơ tự do, giàu nhạc điệu, mà
chủ yếu là nhạc điệu của nội tâm, vừa lắng đọng vừa có sức âm vang. Chính Hữu làm
thơ không nhiều nhưng vẫn có một vị trí xứng đáng trong nền thơ hiện đại Việt Nam,
và một số bài thơ của ông thuộc số những tác phẩm tiêu biểu nhất của thơ ca kháng
chiến (Đồng chí, Đường ra mặt trận, Ngọn đèn đứng gác, Trang giấy học trò). Chính
Hữu được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000" (Nguyễn
Văn Long - Từ điển văn học, Sđd).
2. Tác phẩm:
Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948, thể hiện những cảm xúc sâu xa và
mạnh mẽ của nhà thơ Chính Hữu với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc. Cảm hứng
của bài thơ hướng về chất thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp và chất thơ
trong sự bình dị của đời thường.
Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội gắn bó thắm thiết của những người nông dân
mặc áo lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong hoàn
cảnh khó khăn, thiếu thốn, tình cảm đó thật cảm động, đẹp đẽ.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Nói đến thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp không thể không nói đến Đồng chí
(1948) của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí giản dị, mộc
mạc mà sâu sắc của những người lính cách mạng trong những tháng ngày kháng chiến
gian lao.
Nhà thơ Chính Hữu đã từng nói về tác phẩm của mình:
"... Trong bài thơ Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cả cuộc
chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu là tình
đồng chí, tình đồng đội. Đồng chí ở đây là tình đồng đội. Không có đồng đội, tôi
không thể nào hoàn thành được trách nhiệm, không có đồng đội, có thể nói, tôi cũng
chết lâu rồi. Bài Đồng chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nông
dân của mình."
Thật vậy, không gian trữ tình trong Đồng chí giá buốt mà không lạnh lẽo. Hơi ấm toả
ra từ tình người, từ tình tri kỉ, kề vai sát cánh bên nhau của những con người chung lí
tưởng, chung chí hướng. Đứng trong hàng ngũ cách mạng, chiến đấu cho độc lập, tự
do của Tổ quốc, người lính vượt lên trên mọi gian khó bằng sự sẻ chia, đồng tâm hiệp
lực. Họ sống trong tình đồng đội, nhờ đồng đội, vì đồng đội.
Những người đồng đội ấy thường là những người "nông dân mặc áo lính". Điểm
giống nhau về cảnh ngộ xuất thân giúp họ có thể dễ dàng gần gũi, đồng cảm với nhau:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
"Anh và tôi" từ những vùng quê khác nhau, chỉ giống nhau cái nghèo khó của đất đai,
đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển: "nước mặn đồng chua". Tôi từ vùng đất cao
"cày lên sỏi đá". Hai người xa lạ, từ hai phương trời xa lạ trở thành tri kỉ:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Những người "nông dân mặc áo lính" ấy gặp nhau trong cuộc chiến đấu vì chính cuộc
sống của họ, cùng đứng trong hàng ngũ những "người lính cụ Hồ". Sự nghiệp chung
của dân tộc đã xoá bỏ mọi khoảng cách xa lạ về không gian nơi sinh sống của mỗi
người. ""Súng bên súng" là chung chiến đấu, "đầu sát bên đầu" thì chung rất nhiều:
không chỉ là gần nhau về không gian mà còn chung nhau ý nghĩ, lí tưởng" (Trần Đình
Sử - Đọc văn học văn, Sđd). Đến khi đắp chung chăn trong đêm giá rét thì họ đã thực
sự là anh em một nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: "Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp
cùng" để thể hiện tình kháng chiến gắn bó, bền chặt. Để nói về sự gần gũi, sẻ chia, về
cái thân tình ấm áp không gì hơn là hình ảnh đắp chăn chung. Như thế, tình đồng chí
đã bắt nguồn từ cơ sở một tình tri kỉ sâu sắc, từ những cái chung giữa "anh" và "tôi".
Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai tiếng: "Đồng chí". Nếu không kể nhan đề thì đây là lần
duy nhất hai tiếng "đồng chí" xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu thơ.
Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó đánh dấu một mốc mới
trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng
đội tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩa là
không chỉ có sự gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những
người đồng chí - chiến sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi
nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể, là
những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của "một cây" trong sự giao kết
của "rừng cây", nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa
giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế.
ở phần tiếp theo của bài thơ, với những chi tiết, hình ảnh cụ thể tác giả đã thể hiện tình
cảm sâu sắc của những người đồng chí. Trước hết, họ cùng chung một nỗi nhớ quê
hương:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Trong nỗi nhớ quê hương ấy có nỗi nhớ ruộng nương, nhớ ngôi nhà, nhớ giếng nước,
gốc đa. Nhưng ruộng nương cũng như nhớ tay ai cày xới, ngôi nhà nhớ người trong
lúc gió lung lay, và giếng nước, gốc đa cũng đang thầm nhớ người ra đi. Nỗi nhớ ở
đây là nỗi nhớ hai chiều. Nói "giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính" cũng là thổ lộ
nỗi nhớ cồn cào về giếng nước, gốc đa. Tình quê hương luôn thường trực, đậm sâu
trong những người đồng chí, cũng là sự đồng cảm của những người đồng đội. Người
lính hiện ra cứng cỏi, dứt khoát lên đường theo tiếng gọi non sông song tình quê
hương trong mỗi người không khi nào phai nhạt. Và bên cạnh hình bóng quê hương,
điểm tựa vững chắc cho người lính, là đồng đội:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Kể sao xiết những gian khổ mà người lính phải trải qua trong chiến đấu. Nói về cái
gian khổ của người lính trong kháng chiến chống Pháp, ta nhớ đến cái rét xé thịt da
trong bài Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu:
Cuộc đời gió bụi pha sương máu
Đợt rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa
Nhớ đến cái ác nghiệt của bệnh sốt rét trong Tây Tiến của Quang Dũng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Ta cũng có thể thấy cái buốt giá của núi rừng Việt Bắc, cái ớn lạnh toát mồ hôi của
bệnh sốt rét trong những câu thơ của Chính Hữu. Nhưng nếu như Thôi Hữu viết về cái
rét xé thịt da để khắc hoạ những con người chấp nhận hi sinh, "Đem thân xơ xác giữ
sơn hà", Quang Dũng nói đến sốt rét để tô đậm vẻ đẹp bi tráng của những người chiến
sĩ thì Chính Hữu nói về cái rét, cái ác nghiệt của sốt rét là để nói về tình đồng đội,
đồng chí trong gian khổ, là sự thấu hiểu, cảm thông giữa những người lính. Trong bất
cứ sự gian khổ nào cũng thấy họ sát cánh bên nhau, san sẻ cho nhau: "Anh với tôi
biết...", "áo anh... - Quần tôi...", "tay nắm lấy bàn tay". Cái "Miệng cười buốt giá" kia
là cái cười trong gian khổ để vượt lên gian khổ, cười trong buốt giá để lòng ấm lên,
cũng là cái cười đầy cảm thông giữa những người đồng đội. Giá buốt mà không lạnh
lẽo cũng là vì thế.
Bài thơ kết bằng hình tượng những người đồng chí trong thời điểm thực tại, khi họ
đang làm nhiệm vụ chiến đấu:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Có thể xem đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính trong thơ ca
kháng chiến. Ba câu thơ phác ra một bức tranh vừa mang chất chân thực của bút pháp
hiện thực, vừa thấm đẫm cái bay bổng của bút pháp lãng mạn. Trên sắc xám lạnh của
nền cảnh đêm rừng hoang sương muối, hiện lên hình ảnh người lính - khẩu súng -
vầng trăng. Dưới cái nhìn của người trong cuộc, người trực tiếp đang cầm súng, trong
một sự kết hợp bất ngờ, đầu súng và vầng trăng như không còn khoảng cách xa về
không gian, để thành: "Đầu súng trăng treo.". Sự quan sát là hiện thực, còn sự liên
tưởng trong miêu tả là lãng mạn. Hình ảnh súng tượng trưng cho hành động chiến đấu,
tinh thần quyết chiến vì đất nước. Trăng tượng trưng cho cái đẹp yên bình, thơ mộng.
Hình ảnh "đầu súng trăng treo" mang ý nghĩa khái quát về tư thế chủ động, tự tin
trong chiến đấu, tâm hồn phong phú của người lính. Nói rộng ra, hai hình ảnh tương
phản sóng đôi với nhau tạo nên biểu tượng về tinh thần, ý chí sắt đá mà bay bổng, trữ
tình của dân tộc Việt Nam.
Những người lính là đồng đội, đồng chí, cả dân tộc là đồng chí. Người nghệ sĩ cũng
trở thành đồng chí, nên Hồng Nguyên và Chính Hữu đồng cảm với nhau trước những
người áo vải:
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi "một hai"
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm dao kiếm,
áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Chung nhau cảnh ngộ, chung nhau lí tưởng, chung nhau cái rét, cái khổ,... những
người lính - những người đồng chí sống, chiến đấu vì sự nghiệp chung của dân tộc.
Bài thơ Đồng chí đã thể hiện rất rõ vẻ đẹp của những con người sống và chiến đấu cho
hạnh phúc, tự do.
[NGỮ VĂN 9] KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
I – Khái quát chung về tác giả - tác phẩm
1. Tác giả:
- Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê làng Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; sinh trưởng trong một gia đình đại quí tộc, nhiều đời
làm quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ
chức Tể tướng, anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng từng làm quan to dưới
triều Lê - Trịnh.
Nguyễn Du sống trong một thời đại có nhiều biến động: cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu
thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, bão táp phong trào
nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn đánh đổ các tập
đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn, quét sạch hai mươi vạn quân Thanh, rồi phong
trào Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn được thiết lập. Những biến cố đó đã in dấu ấn trong
sáng tác của Nguyễn Du, như chính trong Truyện Kiều ông viết: Trải qua một cuộc bể
dâu - Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Nguyễn Du từng trải một cuộc đời phiêu bạt: sống nhiều nơi trên đất Bắc, ở ẩn ở Hà
Tĩnh, làm quan dưới triều Nguyễn, đi sứ Trung Quốc. Vốn hiểu biết sâu rộng, phong
phú về cuộc sống của Nguyễn Du có phần do chính cuộc đời phiêu bạt, trải nghiệm
nhiều tạo thành.
2. Tác phẩm:
- Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn, cả bằng chữ
Hán và chữ Nôm. Thơ chữ Hán có ba tập, gồm 243 bài. Thơ chữ Nôm, xuất sắc nhất
là cuốn truyện Đoạn trường tân thanh, còn gọi là Truyện Kiều.
- "Có thể tìm thấy một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Du từ thơ
chữ Hán đến Truyện Kiều, Văn chiêu hồn. Nguyễn Du vĩ đại chính vì Nguyễn Du là
một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa. Mặc dù xuất thân từ giai tầng quý tộc, nhưng
Nguyễn Du lăn lộn nhiều trong cuộc sống của quần chúng, đã lắng nghe được tâm hồn
và nguyện vọng của quần chúng, nhà thơ đã ý thức được những vấn đề trọng đại của
cuộc đời và, với một nghệ thuật tuyệt vời, ông đã làm cho những vấn đề trọng đại ấy
trở thành bức thiết hơn, da diết hơn, ám ảnh hơn trong tác phẩm của mình. Thơ
Nguyễn Du dù viết bằng chữ Nôm hay chữ Hán đều đạt đến trình độ điêu luyện.
Riêng những tác phẩm viết bằng chữ Nôm của ông, đặc biệt là Truyện Kiều là một
cống hiến to lớn của nhà thơ đối với sự phát triển của ngôn ngữ văn học dân tộc. Về
phương pháp sáng tác, qua Truyện Kiều, chúng ta thấy Nguyễn Du đã phá vỡ rất
nhiều nguyên tắc của mĩ học truyền thống, những yếu tố ước lệ tưởng tượng của nghệ
thuật phong kiến phương Đông để đi đến chủ nghĩa hiện thực. Nhưng do những giới
hạn về mặt lịch sử, cho nên mặc dù Nguyễn Du là một thiên tài vẫn không thể phá vỡ
được triệt để, vẫn chưa thể thực sự đến được với chủ nghĩa hiện thực. Cuối cùng,
Nguyễn Du vẫn là một nhà thơ dừng lại trước ngưỡng cửa của chủ nghĩa hiện thực.
(Nguyễn Lộc - Từ điển văn học, NXB Thế giới, 2005).
- Khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã mượn cốt truyện từ một cuốn tiểu thuyết (Kim
Vân Kiều truyện) của Thanh Tâm Tài Nhân, một nhà văn Trung Quốc. Khi sáng tác,
Nguyễn Du đã thay đổi, bổ sung nhiều yếu tố trong cốt truyện cho phù hợp với hoàn
cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Tác phẩm được viết lại bằng chữ Nôm, gồm 3524 câu, theo thể thơ lục bát truyền
thống. Ngoài các yếu tố như ngôn ngữ, thể loại (vốn đã là những sáng tạo đặc sắc,
đóng góp lớn của Nguyễn Du vào quá trình phát triển ngôn ngữ dân tộc), tác phẩm
còn thể hiện rất rõ hiện thực cuộc sống đương thời, đằng sau đó là "con mắt trông thấu
sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới muôn đời" của nhà văn.
Có thể tóm tắt Truyện Kiều theo bố cục ba phần:
- Gặp gỡ và đính ước: Kiều xuất thân như thế nào? Có đặc điểm gì về tài sắc? Kiều
gặp Kim Trọng trong hoàn cảnh nào? Mối tình giữa Kiều và Kim Trọng đã nảy nở ra
sao? Họ kiếm lí do gì để gần được nhau? Kiều và Kim Trọng đính ước.
- Gia biến và lưu lạc: Gia đình Kiều bị mắc oan ra sao? Kiều phải làm gì để cứu cha?
Làm gì để không phụ tình Kim Trọng? Kiều bị bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh
lừa gạt, đẩy vào cuộc sống lầu xanh; Kiều được Thúc Sinh cứu ra khỏi lầu xanh; Kiều
trở thành nạn nhân của sự ghen tuông, bị Hoạn Thư đày đoạ; Kiều trốn đến nương nhờ
cửa Phật, Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà - Kiều rơi vào lầu xanh lần thứ ha
i; Thuý Kiều đã gặp Từ Hải như thế nào? Tại sao Từ Hải bị giết? Kiều bị Hồ Tôn
Hiến làm nhục ra sao? Kiều trẫm mình xuống sông Tiền Đường, được sư Giác Duyên
cứu.
-Đoàn tụ: Kim Trọng trở lại tìm Kiều như thế nào? Tuy kết duyên cùng Thuý Vân
nhưng Kim Trọng chẳng thể nguôi được mối tình với Kiều; Kim Trọng lặn lội đi tìm
Kiều, gặp Giác Duyên, gặp lại Kiều, gia đình đoàn tụ; Chiều ý mọi người, Thuý Kiều
nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai cùng nguyện ước điều gì?
2. Đoạn trích:
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai trong Truyện Kiều (Gia biến và lưu lạc). Gia đình Kiều
gặp cơn nguy biến. Do thằng bán tơ vu oan, cha và em Kiều bị bắt giam. Để chuộc
cha, Kiều quyết định bán mình. Tưởng gặp được nhà tử tế, ai dè bị bắt vào chốn lầu
xanh, Kiều uất ức định tự tử. Tú Bà (chủ quán lầu xanh) vờ hứa hẹn gả chồng cho
nàng, đem nàng ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, sau đó mụ sẽ nghĩ cách để bắt nàng
phải tiếp khách làng chơi.
Đoạn trích gồm hai mươi hai câu. Sáu câu thơ đầu thể hiện hoàn cảnh cô đơn, tội
nghiệp của Thuý Kiều; tám câu thơ tiếp thể hiện nỗi thương nhớ của nàng về Kim
Trọng và về cha mẹ; tám câu còn lại thể hiện tâm trạng đau buồn, âu lo của Thuý
Kiều.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Nguyễn Du là một bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi như
là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển:
- Dưới trăng, quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông.
- Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng...
Với những câu thơ này, Nguyễn Du đã làm đẹp, làm giàu có thêm rất nhiều cho ngôn
ngữ dân tộc. Từng có ý kiến cho rằng, so với tiếng Hán vốn có tính hàm súc, tính biểu
hiện rất cao thì tiếng Việt trở nên quá nôm na, ít khả năng biểu hiện. Tuy nhiên,
Nguyễn Du đã chứng minh rằng ngôn ngữ tiếng Việt có một khả năng biểu hiện vô
giới hạn.
Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng.
Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền
với nhau, bổ sung cho nhau. Ví dụ, trong hai câu thơ tả cảnh chị em Thuý Kiều đi chơi
xuân:
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Cảnh rất đẹp và thanh, ứng với tâm hồn hai chị em đang nhẹ nhàng thơi thới. Ngược
lại, khi người buồn thì cảnh cũng buồn theo. Trong một đoạn thơ khác thuộc Truyện
Kiều, ông viết:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Hai câu thơ này thể hiện rất rõ quan niệm của Nguyễn Du về mối quan hệ giữa tâm
trạng của con người và cảnh vật. Cảnh vật đẹp hay không đẹp, nhẹ nhàng, thanh thoát
hay nặng nề, u ám phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng của con người trước cảnh đó.
Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là sự kết hợp, giao hoà của hai yếu tố cảnh vật và
tâm trạng. Về cảnh vật có lầu cao, có non xanh nước biếc, sơn thuỷ hữu tình. Nếu
Thuý Kiều ở vào một hoàn cảnh khác, trong tâm trạng khác thì hẳn cảnh đó sẽ rất đẹp.
Tuy nhiên, tâm trạng Kiều lại đang rất u ám, sầu não: bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng
Bích, Kiều da diết nhớ cha mẹ, nhớ người yêu, đồng thời lại rất đau xót cho thân phận
mình. Cảnh vật, do đó, nhuốm màu tâm trạng:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.
Kiều ngắm cảnh hay Kiều đối cảnh? Thật khó có thể nói là "ngắm" theo nghĩa thông
thường của từ này. Bởi "ngắm" có nghĩa là chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn. Kiều đang
trong tâm trạng như thế sao có thể thưởng ngoạn cho được? Bởi vậy, dù có cả "vẻ non
xa" lẫn "tấm trăng gần" nhưng cảnh vật ấy chẳng thể nào gợi lên một chút tươi vui hay
ấm áp. Nhà thơ đã dùng hai chữ "ở chung" thật khéo. Kiều trông thấy tất cả những thứ
đó nhưng với nàng, chúng chẳng khác gì nhau và càng không có gì đặc biệt. Hai yếu
tố trái ngược (non xa, trăng gần) tưởng như phi lí nhưng thực ra đã diễn tả rất chính
xác sự trống trải của cảnh vật qua con mắt của Kiều. Khung cảnh "bốn bề bát ngát"
chỉ càng khiến cho lòng người thêm gợi nhớ:
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mang đang trải rộng ra trước mắt Kiều.
Một người bình thường đứng trước không gian ấy cũng khó ngăn được nỗi buồn. Với
Kiều, không gian rộng rãi, trống trải ấy chỉ càng khiến nàng suy nghĩ về cuộc đời
mình:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Bởi trong những câu thơ tả cảnh trên đã thấm đẫm cái "tình" (tâm trạng) của Kiều nên
đến những câu thơ này, Nguyễn Du đã bắt vào mạch tả tâm trạng một cách hết sức tự
nhiên. ý thơ chuyển đổi rất linh hoạt: tả cảnh gắn với không gian. Không gian cao
rộng (non xa, trăng gần) càng khiến cho cảnh mênh mang, dàn trải. Tả tâm trạng lại
gắn với thời gian. Thời gian dằng dặc (mây sớm, đèn khuya) càng cho thấy tâm trạng
chán nản, buồn tủi của Kiều. "Nửa tình nửa cảnh"  trước mắt là tình hay là cảnh,
dường như cũng không còn phân biệt được nữa.
Theo dòng tâm trạng của Kiều câu thơ bắt vào nỗi nhớ:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Nhớ nhà, trước hết Kiều nhớ đến Kim Trọng, nhớ đến chén rượu thề nguyền dưới
trăng. Đối với một người luôn đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa như Thuý Kiều,
cảm xúc ấy thật xa xót. Càng nhớ đến Kim Trọng thì Kiều lại càng đau đớn cho thân
phận mình. Việc Kiều thương Kim Trọng đang chờ mong tin mình một cách vô vọng
đã cho thấy một vẻ đẹp khác trong tâm hồn nàng: Kiều luôn nghĩ đến người khác
trước khi nghĩ đến bản thân mình. Tấm lòng ấy thật cao đẹp và đáng quý biết bao!
Tiếp theo là Kiều nhớ đến cha mẹ. Có ý kiến cho rằng, Kiều đã nhớ đến người yêu
trước rồi mới nhớ đến cha mẹ, phải chăng là nàng đã đặt chữ "tình" lên trên chữ
"hiếu"? Thực ra, việc Nguyễn Du miêu tả nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng
trước rồi mới miều tả nỗi nhớ cha mẹ là hoàn toàn hợp lí. Kiều không hề đặt chữ
"hiếu" sau chữ "tình". Khi gia đình gặp tai biến, trước câu hỏi "Bên tình bên hiếu bên
nào nặng hơn?", Kiều đã dứt khoát lựa chọn chữ "hiếu" bằng hành động bán mình
chuộc cha. Giờ đây, khi cha và em nàng đã được cứu, người mà nàng cảm thấy mình
có lỗi chính là Kim Trọng. Nhưng không vì thế mà nỗi nhớ cha mẹ kém phần day dứt:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Những thành ngữ, điển tích, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, Sân Lai,
gốc tử) liên tục được sử dụng đã thể hiện rất rõ tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng
như những băn khoăn trăn trở của Thuý Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận
làm con của mình. Trong hoàn cảnh thực tế, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng
tỏ nàng là một người con rất mực hiếu thảo.
Tám câu thơ cuối cũng nằm trong số những câu thơ tả cảnh hay nhất của Truyện Kiều.
Chúng thể hiện rất rõ nét nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" của Nguyễn Du:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh...
Nếu tách riêng các yếu tố ngoại cảnh ra mà xét thì có thể thấy đó là một khung cảnh
thật thơ mộng và lãng mạn: có cánh buồm thấp thoáng, có man mác hoa trôi, có nội cỏ
chân mây mặt đất một màu... Thế nhưng khi đọc lên, những câu thơ này chỉ khiến cho
lòng người thêm sầu muộn, ảo não. Nguyên nhân là bởi trước mỗi cảnh vật kia, sừng
sững án ngữ cụm từ "buồn trông". Không phải là "xa trông" như người ta vẫn nói,
cũng không phải là "ghé mắt trông" như Xuân Hương đã từng tinh nghịch mà điền
trước đền thờ Sầm Nghi Đống, ở đây, nhân vật trữ tình chỉ có một tâm thế duy nhất:
"buồn trông". Tâm trạng nàng đang ngổn ngang trăm mối: nhớ người yêu, nhớ cha
mẹ, cảm giác mình là người có lỗi,... và nhất là đang hết sức đau xót cho thân phận
mình. Bởi vậy, cảnh vật ấy cần được cảm nhận theo con mắt của Thuý Kiều: cánh
buồm thấp thoáng nổi trôi vô định, hoa trôi man mác càng gợi nỗi phân li, nội cỏ
không mơn mởn xanh mà "dàu dàu" trong sắc màu tàn úa... Nổi bật lên trong cảnh vật
đó là những âm thanh mê hoặc:
Buồn trông sóng cuốn mặt duềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã nhiều lần miêu tả âm thanh. Có thể nói lần
nào ông cũng thành công. Có khi chỉ qua một vài từ, ông đã diễn tả rất chính xác cảnh
huyên náo trong nhà Thuý Kiều khi bọn vô lại kéo đến nhà:
Trước thầy sau tớ xôn xao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Nguyễn Du đặc biệt thành công khi ông tả tiếng đàn của Kiều. Tuỳ theo tâm trạng,
mỗi lần tiếng đàn của Kiều cất lên là một lần người nghe phải chảy nước mắt khóc
cho số phận oan nghiệt của nàng.
Trong đoạn thơ này, Nguyễn Du không tả tiếng đàn mà tả tiếng sóng. Trong khung
cảnh bát ngát, mênh mang, tiếng sóng vỗ "ầm ầm" (lưu ý: nhà thơ đã đảo ngữ để cho
ấn tượng đó càng rõ ràng hơn) quả là một thứ âm thanh hết sức bất thường. Dường
như nó muốn phá vỡ khung cảnh nặng nề nhưng yên tĩnh, nó dứt Kiều ra khỏi dòng
suy tư về gia đình, người thân mà trả nàng về với thực tại nghiệt ngã.
Ngoài ra, dường như đó còn là những dự cảm về quãng đời đầy những khổ đau, tủi
nhục ê chề mà Kiều sắp phải trải qua.
CHỊ EM THUÝ KIỀU
(Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
I – Khái quát chung về tác giả - tác phẩm
1. Tác giả:
- Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê làng Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; sinh trưởng trong một gia đình đại quí tộc, nhiều đời
làm quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ
chức Tể tướng, anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng từng làm quan to dưới
triều Lê - Trịnh.
Nguyễn Du sống trong một thời đại có nhiều biến động: cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu
thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, bão táp phong trào
nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn đánh đổ các tập
đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn, quét sạch hai mươi vạn quân Thanh, rồi phong
trào Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn được thiết lập. Những biến cố đó đã in dấu ấn trong
sáng tác của Nguyễn Du, như chính trong Truyện Kiều ông viết: Trải qua một cuộc bể
dâu - Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Nguyễn Du từng trải một cuộc đời phiêu bạt: sống nhiều nơi trên đất Bắc, ở ẩn ở Hà
Tĩnh, làm quan dưới triều Nguyễn, đi sứ Trung Quốc. Vốn hiểu biết sâu rộng, phong
phú về cuộc sống của Nguyễn Du có phần do chính cuộc đời phiêu bạt, trải nghiệm
nhiều tạo thành.
2. Tác phẩm:
- Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn, cả bằng chữ
Hán và chữ Nôm. Thơ chữ Hán có ba tập, gồm 243 bài. Thơ chữ Nôm, xuất sắc nhất
là cuốn truyện Đoạn trường tân thanh, còn gọi là Truyện Kiều.
- "Có thể tìm thấy một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Du từ thơ
chữ Hán đến Truyện Kiều, Văn chiêu hồn. Nguyễn Du vĩ đại chính vì Nguyễn Du là
một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa. Mặc dù xuất thân từ giai tầng quý tộc, nhưng
Nguyễn Du lăn lộn nhiều trong cuộc sống của quần chúng, đã lắng nghe được tâm hồn
và nguyện vọng của quần chúng, nhà thơ đã ý thức được những vấn đề trọng đại của
cuộc đời và, với một nghệ thuật tuyệt vời, ông đã làm cho những vấn đề trọng đại ấy
trở thành bức thiết hơn, da diết hơn, ám ảnh hơn trong tác phẩm của mình. Thơ
Nguyễn Du dù viết bằng chữ Nôm hay chữ Hán đều đạt đến trình độ điêu luyện.
Riêng những tác phẩm viết bằng chữ Nôm của ông, đặc biệt là Truyện Kiều là một
cống hiến to lớn của nhà thơ đối với sự phát triển của ngôn ngữ văn học dân tộc. Về
phương pháp sáng tác, qua Truyện Kiều, chúng ta thấy Nguyễn Du đã phá vỡ rất
nhiều nguyên tắc của mĩ học truyền thống, những yếu tố ước lệ tưởng tượng của nghệ
thuật phong kiến phương Đông để đi đến chủ nghĩa hiện thực. Nhưng do những giới
hạn về mặt lịch sử, cho nên mặc dù Nguyễn Du là một thiên tài vẫn không thể phá vỡ
được triệt để, vẫn chưa thể thực sự đến được với chủ nghĩa hiện thực. Cuối cùng,
Nguyễn Du vẫn là một nhà thơ dừng lại trước ngưỡng cửa của chủ nghĩa hiện thực.
(Nguyễn Lộc - Từ điển văn học, NXB Thế giới, 2005).
- Khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã mượn cốt truyện từ một cuốn tiểu thuyết (Kim
Vân Kiều truyện) của Thanh Tâm Tài Nhân, một nhà văn Trung Quốc. Khi sáng tác,
Nguyễn Du đã thay đổi, bổ sung nhiều yếu tố trong cốt truyện cho phù hợp với hoàn
cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Tác phẩm được viết lại bằng chữ Nôm, gồm 3524 câu, theo thể thơ lục bát truyền
thống. Ngoài các yếu tố như ngôn ngữ, thể loại (vốn đã là những sáng tạo đặc sắc,
đóng góp lớn của Nguyễn Du vào quá trình phát triển ngôn ngữ dân tộc), tác phẩm
còn thể hiện rất rõ hiện thực cuộc sống đương thời, đằng sau đó là "con mắt trông thấu
sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới muôn đời" của nhà văn.
Có thể tóm tắt Truyện Kiều theo bố cục ba phần:
- Gặp gỡ và đính ước: Kiều xuất thân như thế nào? Có đặc điểm gì về tài sắc? Kiều
gặp Kim Trọng trong hoàn cảnh nào? Mối tình giữa Kiều và Kim Trọng đã nảy nở ra
sao? Họ kiếm lí do gì để gần được nhau? Kiều và Kim Trọng đính ước.
- Gia biến và lưu lạc: Gia đình Kiều bị mắc oan ra sao? Kiều phải làm gì để cứu cha?
Làm gì để không phụ tình Kim Trọng? Kiều bị bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh
lừa gạt, đẩy vào cuộc sống lầu xanh; Kiều được Thúc Sinh cứu ra khỏi lầu xanh; Kiều
trở thành nạn nhân của sự ghen tuông, bị Hoạn Thư đày đoạ; Kiều trốn đến nương nhờ
cửa Phật, Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà - Kiều rơi vào lầu xanh lần thứ ha
i; Thuý Kiều đã gặp Từ Hải như thế nào? Tại sao Từ Hải bị giết? Kiều bị Hồ Tôn
Hiến làm nhục ra sao? Kiều trẫm mình xuống sông Tiền Đường, được sư Giác Duyên
cứu.
-Đoàn tụ: Kim Trọng trở lại tìm Kiều như thế nào? Tuy kết duyên cùng Thuý Vân
nhưng Kim Trọng chẳng thể nguôi được mối tình với Kiều; Kim Trọng lặn lội đi tìm
Kiều, gặp Giác Duyên, gặp lại Kiều, gia đình đoàn tụ; Chiều ý mọi người, Thuý Kiều
nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai cùng nguyện ước điều gì?
Đoạn trích Chị em Thuý Kiều nằm ở phần mở đầu tác phẩm.
Đoạn thơ này miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân. Với ngòi bút tài
hoa, khả năng vận dụng khéo léo ngôn ngữ dân tộc kết hợp với các điển tích, điển cố,
có thể nói Nguyễn Du đã giúp bạn đọc hình dung được những chuẩn mực về vẻ đẹp
của người phụ nữ trong xã hội xưa, đó cũng có thể coi là chuẩn mực của cái đẹp trong
của văn học trung đại.
Không chỉ miêu tả những hình mẫu, chân dung Thuý Kiều và Thuý Vân trong tác
phẩm còn thể hiện những dụng ý nghệ thuật sâu xa của tác giả. Mặc dù "Mỗi người
một vẻ, mười phân vẹn mười" nhưng với mỗi nhân vật, sự miêu tả của Nguyễn Du
dường như đã dự báo những số phận khác nhau của hai chị em. Điều đó vừa thể hiện
bút pháp miêu tả nhân vật khá sắc sảo của Nguyễn Du nhưng đồng thời cũng cho thấy
quan niệm "tài mệnh tương đố" của ông.
II- GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Khi nói đến tác giả của Truyện Kiều, không chỉ nhân dân lao động mà tất cả các nhà
văn, nhà nghiên cứu đều thống nhất tên gọi: "Đại thi hào dân tộc". Với "con mắt trông
thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ tới muôn đời" (Mộng Liên Đường), Nguyễn Du nổi
tiếng trước hết bởi cái tâm của một người luôn nghĩ đến nhân dân, luôn bênh vực cho
những cuộc đời, những số phận éo le, oan trái, đặc biệt là thân phận người phụ nữ
trong xã hội cũ. Mặt khác, những câu thơ của Nguyễn Du sở dĩ có thể khắc sâu trong
lòng nhân dân như vậy còn bởi trong Truyện Kiều, ông đã bộc lộ sự tài hoa, sắc sảo
trong việc miêu tả nhân vật, trong việc khắc hoạ những nét tâm lí nhất quán đến từng
chi tiết... Trong phần mở đầu tác phẩm, đoạn miêu tả hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân
có thể coi là một ví dụ tiêu biểu.
Trong những câu miêu tả khái quát, vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều đã có thể xếp vào
hàng "tuyệt thế giai nhân":
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Chỉ trong một câu thơ sáu chữ, tác giả đã khẳng định được một vẻ đẹp toàn bích, từ
nhan sắc cho đến tính tình của cả hai chị em. Điều kì diệu là cả hai vẻ đẹp đều hoàn
thiện ("mười phân vẹn mười") nhưng "Mỗi người một vẻ", không ai giống ai.
Đọc những câu thơ tiếp theo, ta càng có thể khẳng định tài năng của Nguyễn Du trong
việc miêu tả nhân vật. Không chỉ phân biệt được "Mỗi người mỗi vẻ", tác giả còn chỉ
ra sự khác nhau đó được biểu hiện cụ thể như thế nào. Mặt khác, Nguyễn Du tả nhan
sắc nhưng dường như mục đích của tác giả không dừng lại ở đó. Càng tả càng gợi.
Qua những câu thơ của Nguyễn Du, người đọc luôn cảm nhận được những suy nghĩ
trăn trở của nhà thơ về cuộc đời, về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến
đầy dẫy những cạm bẫy:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Trong phần tả khái quát, vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều đã được miêu tả rất toàn vẹn,
tưởng khó có thể ca ngợi hơn nữa. Trong bốn câu này, ba câu trên là lời khẳng định vẻ
đẹp "mười phận vẹn mười" kia. Thế nhưng câu thơ thứ tư thật sự khiến bạn đọc bất
ngờ bởi khả năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ. Tả một người con gái đẹp mà
"Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang" là đã đạt đến chuẩn mực, thêm "Hoa cười,
ngọc thốt, đoan trang" thì nghe chẳng khác gì những tiếng trầm trồ của một người
đang được chiêm ngưỡng một vẻ đẹp chưa từng có. Thế mà vẫn chưa hết, người con
gái ấy còn đẹp đến mức "Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da" thì vẻ đẹp ấy còn
vượt lên trên cả vẻ đẹp của thiên nhiên. Đó là một sự khác thường bởi nếu chúng ta
đọc lại thơ ca trung đại, thậm chí đọc cả ca dao dân ca, vẻ đẹp của con người cùng lắm
cũng chỉ sánh ngàng với vẻ đẹp của thiên nhiên mà thôi:
Cổ tay em trắng như ngà
Đôi mắt em sắc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen...
Rõ ràng là Thuý Vân rất đẹp, một vẻ đẹp khá sắc nét nhưng vẫn hồn hậu, thuỳ mị. Giả
sử được ngắm một người con gái như vậy, người ta thường nghĩ đến hạnh phúc, đến
một cuộc sống ấm áp, êm đềm.
Đọc đoạn miêu tả Thuý Vân, ta đã có thể thấy được cái tài, cái khéo của Nguyễn Du
trong việc sử dụng từ ngữ. Thế nhưng việc miêu tả Thuý Vân mới chỉ là bước đệm để
tác giả miêu tả Thuý Kiều. Một lần nữa, tác giả lại khiến bạn đọc phải sửng sốt vì
năng lực miêu tả của mình:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Các giá trị thẩm mĩ tưởng như đã được đẩy lên đến tận cùng của các giới hạn nhưng
rồi lại còn được đẩy lên cao thêm nữa:
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Hội hoạ cổ điển phương Đông có những bút pháp khá độc đáo: "lấy điểm để tả diện",
"vẽ mây nẩy trăng", ý là khi muốn tả một người con gái đẹp, không cần tả mọi đường
nét, chỉ chọn những nét tiêu biểu nhất, hay như khi muốn tả một vầng trăng sáng có
thể không cần tả vầng trăng, chỉ cần tả đám mây xung quanh mà người xem biết ngay
đó là trăng rất sáng. Nguyễn Du đã tả Thuý Kiều qua "Làn thu thuỷ, nét xuân sơn" 
những yếu tố nghệ thuật đầy tính ước lệ, thật khó hình dung nàng Kiều đẹp như thế
nào nhưng ai cũng phải thừa nhận, tả như thế là tuyệt khéo. Lại thêm "Hoa ghen thua
thắm, liễu hờn kém xanh"  không cần nói nhan sắc của Kiều ra sao, chỉ cần nói hoa
còn phải ghen, liễu còn phải hờn với nhan sắc của Kiều thì tưởng như với nhan sắc ấy,
không lời nào có thể diễn tả nổi nữa.
Tuy nhiên, nếu đọc kĩ lại từng câu, từng lời, ta sẽ thấy dường như trong vẻ đẹp của
Kiều đã ẩn chứa những mầm tai hoạ. Nếu như với vẻ đẹp của Thuý Vân, "Mây thua
nước tóc, tuyết nhường màu da", sự "thua" và "nhường" còn rất hiền hoà thì với vẻ
đẹp của Thuý Kiều, hoa đã phải "ghen" (tức), liễu đã phải "hờn" (giận). Có thể nói, vẻ
đẹp của Thuý Vân tuy có phần trội hơn nhưng chưa tạo ra sự đố kị, trong khi đó vẻ
đẹp của Thuý Kiều đã vượt hẳn lên, ngạo nghễ thách thức với thiên nhiên, vượt ra
khỏi vòng kiềm toả của tạo hoá.
Không chỉ nhan sắc, tài năng của Kiều cũng hàm chứa một sự thách thức:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.
Những từ ngữ đầy tính ước lệ (làn thu thuỷ, nét xuân sơn, nghiêng nước nghiêng
thành) xuất hiện với mật độ cao càng chứng tỏ tài năng của Nguyễn Du trong việc sử
dụng từ ngữ. Một lần nữa, vẻ đẹp của nàng Kiều lại được khẳng định dù sự khẳng
định ấy càng tô đậm thêm sự "bất an" của nhan sắc. Vậy mà sự thách thức của nhan
sắc vẫn chưa phải là yếu tố duy nhất, tài năng của Kiều còn là một sự thách thức khác
nữa:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương, lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ cho rằng nhan sắc là một cái hoạ tiềm ẩn
đối với người phụ nữ ("hồng nhan bạc mệnh") mà còn nhiều lần nhấn mạnh: tài năng
cũng là một cái hoạ khác:
- Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
- Chữ tài liền với chữ tai một vần.
- Tài tình chi lắm cho trời đất ghen...
Thuý Kiều vừa có tài lại vừa có sắc, hơn nữa, cả hai yếu tố đều nổi bật đến mức cây
cỏ còn phải ghen tức, oán giận... Xét trên nhiều yếu tố, có thể nói qua cách miêu tả,
Nguyễn Du đã ngầm báo trước những điều không may sẽ xảy đến với người con gái
này. Hãy nghe tiếng đàn của Kiều, đó không phải là những âm thanh nhàn tản, thảnh
thơi:
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên "bạc mệnh" lại càng não nhân.
Có thể cho là Kiều chỉ vô tình, nhưng bài nhạc mà nàng đã lựa chọn, đã thể hiện nó
trong tiếng đàn sầu não kia cho thấy rằng, đó là một người con gái rất đa sầu đa cảm.
Theo quan niệm từ xa xưa, đây cũng là một yếu tố tạo nên số phận đau khổ của con
người. Những sự biến sau này của cuộc đời Kiều (gặp Đạm Tiên, phải bán mình
chuộc cha, gặp Thúc Sinh, gặp Từ Hải,...) đều chứng tỏ sự miêu tả của Nguyễn Du về
Thuý Kiều là hoàn toàn có ngụ ý.
Đoạn cuối như lời vĩ thanh, Nguyễn Du để cho lời thơ buông trôi, nhấn mạnh phẩm
chất gia giáo của Thuý Kiều.
Đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du dành đến 24 câu thơ, trong
đó có bốn câu tả khái quát, bốn câu tả Thuý Vân, còn đến 16 câu chỉ để nói về Thuý
Kiều. Có thể chúng ta chưa hiểu hết quan niệm về nhân sinh, nhất là về người phụ nữ
của ông, có thể còn nhiều vấn đề xung quanh tư tưởng "tài mệnh tương đố" cần tiếp
tục xem xét nhưng qua 24 câu thơ, Nguyễn Du không chỉ chứng tỏ một tài năng bậc
thầy về sử dụng ngôn ngữ mà còn cho thấy những nét rất đặc sắc trong nghệ thuật
miêu tả con người.
[NGỮ VĂN 9] VỀ BÀI THƠ "BẾP LỬA" CỦA BẰNG VIỆT
I – TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả:
Nhà thơ Bằng Việt (tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng), sinh năm 1941, quê ở huyện
Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 của thế kỉ XX và
thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
"Bằng Việt là một nhà thơ được bạn đọc biết đến từ phần thơ in chung với Lưu Quang
Vũ trong tập Hương cây - Bếp lửa (1968). Nỗi nhớ quê hương đầu tiên thành thơ là
dành cho bếp lửa:"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm, một bếp lửa ấp iu nồng đượm"
gắn với hình ảnh người bà và bên người bà là người cháu. Bài thơ nói về tình bà cháu
vừa sâu sắc, vừa thấm thía trong những năm đầu đất nước đói kém, loạn lạc, cuối đời
gian khổ khó khăn. Cảm xúc tinh tế, đượm buồn của ông về những kỷ niệm về cuộc
sống gia đình, về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt nam. Bài thơ biều hiện một
triết luận thầm kín: những gì là thân thiết nhất của mỗi tuổi thơ mỗi con người, đều có
sức toả sáng, nâng đỡ họ trong suốt cuộc đời. Mạch triết luận thầm kín được khởi đầu
từ "Bếp lửa" còn được tiếp nối trong nhiều bài thơ khác như "Trở lại trái tim mình"
khi ông coi thủ đô Hà Nội như một cội nguồn tình cảm, cội nguồn sức mạnh. Cùng
với "Thư gửi người bạn xa đất nước", "Tình yêu và báo động", "Trở lại trái tim", nhà
thơ ghi lại được những trạng thái phong phú của một tâm hồn thanh niên rất mực mến
yêu đất nước, con người, nêu bật được một thủ đô hào hoa, thanh lịch, trầm tĩnh và
anh hùng. Bằng Việt còn có những bài thơ khá tài hoa diễn đạt những suy tư về những
danh nhân văn hoá nhân loại như Béttôven, Pauxtôpxki, Plixetxcaia. Người đọc còn
biết đến ông về những lo toan chu đáo, những bồi hồi thương nhớ của một người cha
ở nơi xa chăm chú theo dõi từng bước đi chập chững của đứa con, trong bài thơ Về
Nghệ An thăm con với lời thơ điềm đạm, kiệm lời mà có sức vang xa. Có thể nói với
20 bài thơ trong tập Hương cây - Bếp lửa, Bằng Việt đã khắc hoạ được một triết luận
thầm kín của riêng mình. Ông là một trong số không nhiều nhà thơ trẻ được bạn đọc
tin yêu ngay từ ban đầu của thơ. Thơ Bằng Việt thường nghiêng về một lời tâm sự,
một sự trao đổi nghĩ suy, gây được một cảm giác gần gũi, thân thiết đối với người đọc.
Thơ ông thường sâu lắng trầm tư thích hợp với người đọc thơ trong sự trầm tĩnh, vắng
lặng. Đó là một dấu ấn riêng của thơ Bằng Việt, còn lưu lại trong ký ức người đọc"
(Từ điển văn học, Sđd).
2. Tác phẩm:
- Các tác phẩm chính: Hương cây - Bếp lửa (thơ, in chung, 1968); Những gương mặt
những khoảng trời (thơ, 1973); Đất sau mưa (thơ, 1977); Khoảng cách giữa lời (thơ,
1983); Cát sáng (thơ, 1986); Bếp lửa - khoảng trời (thơ tuyển, 1988), Phía nửa mặt
trăng chìm (thơ, 1986); Mozart (truyện danh nhân, 1978); Lọ lem (dịch thơ
Eptusenkô); Hãy nói bằng ngôn ngữ của tình yêu (dịch thơ Ritsos).
- Tác giả đã được nhận: Giải nhất văn học - nghệ thuật Hà Nội năm 1967 với bài thơ
Trở lại trái tim mình; Giải thưởng chính thức về dịch thuật văn học quốc tế và phát
triển giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa Bình (Liên Xô) trao tặng năm 1982.
- Bài thơ Bếp lửa được tác giả Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi tác giả là sinh viên
đang học ở nước ngoài.
Bài thơ gợi lại những kỉ niệm sâu sắc của người cháu về người bà và tuổi ấu thơ được
ở cùng bà.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Chỉ là một tiếng gà mái nhảy ổ cục tác trong nắng trưa, chỉ là một bếp lửa chờn vờn
trong sương sớm,... mà có biết bao nghĩa tình, mà sao tha thiết, lắng sâu đến thế! Thì
ra, có khi những điều nhỏ nhoi, giản dị nhất lại ẩn chứa tâm tình, chắt đọng những
điều thiêng liêng, là hiện hình của những tình cảm thiết tha, chân thành, không thể nào
quên. Tiếng gà trưa đánh thức trong Xuân Quỳnh những kỉ niệm về một thời ấu thơ
sống trong tình thương yêu của bà. Còn với Bằng Việt, trong bài thơ Bếp lửa (1963),
như chính nhan đề của nó (cũng như nhan đề của bài thơ của Xuân Quỳnh: Tiếng gà
trưa), "Bếp lửa" đã trở thành một hình ảnh biểu trưng cho sự ấm áp, nồng đư¬ợm của
tình bà cháu. "Bếp lửa" khơi gợi, làm nhen lên, lan toả, cháy mãi dòng hồi ức tuổi ấu
thơ, thao thức, đượm buồn.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Bài thơ đã bắt đầu như thế. Bắt đầu bằng hình ảnh bếp lửa "chập chờn trong sương
sớm, chập chờn trong kí ức. Hơi ấm của bếp lửa bắt đầu truyền thấm, bắt đầu nhen
nhóm, khơi nguồn cho mạch cảm xúc thương yêu của cháu khi nhớ về bà. Hình ảnh
"Một bếp lửa" điệp lại hai lần như nhắc nhớ, như hơi thổi vào bếp lửa đang "ấp iu", để
nhịp hồi tưởng bắt đầu... Để trong những dòng thơ tiếp theo, bao kỉ niệm thân thương
ùa về:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
(...)
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Cháu nhớ, từ lúc cháu mới lên bốn tuổi, sống bên bà "tám năm ròng"... Nhớ quê mình
ngày ấy, những ngày "đói mòn đói mỏi", những ngày "bố đánh xe khô rạc ngựa gầy",
nhớ "khói hun nhèm mắt", "sống mũi còn cay" đến tận bây giờ... Nhớ bà kể chuyện
Huế trong tha thiết tiếng tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu từ cánh đồng xa, da diết, khắc
khoải vọng về, nghe chộn rộn, nao nao, lại như se sắt, xa xăm. Nhớ khi vắng bố mẹ,
"bà bảo cháu nghe", "dạy cháu làm", "chăm cháu học". Nhớ "Năm giặc đốt làng",
cháu giúp bà dựng lại nhà. Nhớ lời bà dặn khi viết thư để bố yên tâm,... Cứ thế, trong
dòng hồi nhớ nôn nao, những sự việc cụ thể hiện về nguyên vẹn từng chi tiết như thể
vừa mới xảy ra hôm qua đây thôi. Và thấm đẫm trong từng hình ảnh, từng sự việc ấy
là tình cảm sâu nặng của cháu với bà, hướng về bà. Hình ảnh người bà được khắc hoạ
gắn liền với bếp lửa, là khi "cháu cùng bà nhóm lửa", "Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà
khó nhọc", "Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen", "Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm -
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm",...
Hình ảnh bếp lửa trở đi trở lại (12 lần) trong suốt bài thơ. Cuộc đời bà lận đận, khó
nhọc, giãi dầu mưa nắng nhưng bà luôn dành cho cháu tình thương yêu, săn sóc, chở
che ấm nồng như bếp lửa. Bà - bếp lửa là hai mà như một, hoà quyện, hun thấm,
thiêng liêng. Bếp lửa gợi nhắc hình bóng thân thiết của bà, và nhớ đến bà là cháu lại
không thể quên bếp lửa ấm tình thủa ấy. Bếp lửa đã không còn chỉ là bếp lửa thông
thường nữa. Bà nhen lửa là bà nhen lên:
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Bà nhóm lửa là bà:
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Từ ngọn lửa được nhen lên từ bếp lửa của bà hoá thành ngọn lửa của tình thương yêu
ấp ủ, ngọn lửa của niềm tin yêu bền bỉ cháy mãi không thôi. Bà nhóm lửa là bà nhóm
lên, truyền cho cháu lẽ sống, lòng cảm thông chia sẻ. Mỗi khi xúc cảm kết thành
những suy ngẫm sâu xa, lời thơ lại trào dâng lên như những điệp khúc bập bùng, chứa
đựng niềm xúc động rưng rưng, rần rật cháy trong mạch tự sự của nhân vật trữ tình.
Những hình ảnh thực, cụ thể, vốn rất đỗi gần gũi, thân quen đã được tác giả nâng lên
thành những hình ảnh biểu tượng mang ý nghĩa khái quát sâu sắc. Điều bình dị đã trở
nên quý giá, thiêng liêng, kì lạ. Kì lạ, thiêng liêng vì nó nhỏ bé, giản đơn mà đã trở
thành hành trang theo cháu trong suốt cuộc đời. Kì lạ, thiêng liêng là vì "đã mấy chục
năm rồi" mà bếp lửa của bà vẫn nồng đượm trong cháu, ngọn lửa của bà vẫn thầm
cháy trong cháu "đến tận bây giờ".
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...
Bài thơ Bếp lửa được sáng tác khi Bằng Việt đang là sinh viên ngành Luật của Trường
Đại học Tổng hợp Ki-ép (Liên Xô cũ). Kì lạ và thiêng liêng biết bao khi trong cuộc
sống đã " Có ngọn khói trăm tàu, Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả" mà lòng vẫn
khôn nguôi hình ảnh người bà với bếp lửa ở tận miền kí ức ấu thơ.
Cứ nhẹ nhàng, mộc mạc mà thấm thía, sâu xa, bếp lửa của bà, ngọn lửa của bà, tình
thương yêu của bà, cuộc đời bà đã soi rọi, toả ấm con đường cháu đi. Có thể cuộc
sống hiện đại sẽ không còn nhiều người biết đến bếp lửa như ở nơi quê nghèo ấy nữa,
nhưng nó đã thành biểu tượng, sẽ còn mãi giá trị "khơi gợi cho người đọc những kỉ
niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt Nam". Điều
nhỏ nhoi, giản dị mà có ý nghĩa sâu sắc, lớn lao là như vậy.
[NGỮ VĂN 9] KIẾN THỨC CƠ BẢN "LÀNG"
I/ KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
1/ Tác giả
- Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, (1920-2007), quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh.
- Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và đã có sáng tác đăng báo trước Cách mạng
tháng Tám 1945. Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn, Kim Lân hầu
như chỉ viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân.
2/ Tác phẩm
a. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm: truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kỳ đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.
b. Khái quát nội dung và nghệ thuật
- Nội dung chính: Truyện đã thể hiện thành công tình yêu làng quê và lòng yêu nước,
tinh thần kháng chiến của người nông dân phải dời làng đi tản cư nhân vật ông Hai –
một người nông dân có tình yêu làng quê, tình yêu đất nước thiết tha, sâu sắc, bền
chặt.
- Nghệ thuật: Tác giả đã thành công trong việc xây dựng tình huống truyện, trong
nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
c. Tóm tắt
Câu chuyện kể về ông Hai Thu, người làng Chợ Dầu. Khi cuộc kháng chiến chống
Pháp bùng nổ, theo lời kêu gọi của cụ Hồ, toàn dân tham gia kháng chiến, kể cả hình
thức tản cư. Do hoàn cảnh neo đơn, ông Hai đã cùng vợ con lên tản cư ở Bắc Ninh dù
rất muốn ở lại làng chiến đấu. Ở nơi tản cư, tối nào ông cũng sang nhà bác Thứ bên
cạnh để khoe về làng mình rằng làng ông có nhà cửa san sát, đường thôn ngõ xóm
sạch sẽ. Ông khoe cái phòng thông tin, cái chòi phát thanh và phong trào kháng chiến
của làng, khi kể về làng ông say mê, háo hức lạ thường. Ở đây, ngày nào ông cũng ra
phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến, ông vui mừng trước những chiến thắng
của quân dân ta. Nhưng rồi một hôm, ở quán nước nọ, ông nghe được câu chuyện của
một bà dưới xuôi lên tản cư nói rằng làng Dỗu của ông theo giặc. Ông vô cùng đau
khổ, xấu hổ, cúi gầm mặt đi thẳng về nhà, suốt ngày chẳng dám đi đâu, chẳng dám nói
chuyện với ai, chỉ nơm nớp lo mụ chủ nhà đuổi đi. Buồn khổ quá, ông tâm sự với đứa
con út cho khuây khoả. Ông chớm có ý định về làng để xác minh sự thật nhưng lại tự
mình phản đối vì nghĩ về làng, làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ bởi làng ông đã theo
Tây mất rồi. Thế rồi một hôm có ông chủ tịch dưới xã lên chơi cải chính tin làng ông
theo giặc. Ông lão sung sướng mùa tay đi khoe khắp làng rằng nhà ông đã bị đốt nhẵn.
Tối hôm ấy, ông lại sang nhà bác Thứ kể về làng mình.
II/ PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1/ Tình huống truyện
- Truyện « Làng » đã xây dựng được một tình huống truyện làm bộc lộ sâu sắc tình
cảm yêu làng, yêu nước ở người nông dân. Ông Hai trong truyện là người rất yêu cái
làng chợ Dầu của mình, luôn hãnh diện khoe về làng, ấy thế mà ông lại phải nghe cái
tin làng ông theo giặc, lập tề từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên.
Nhận xét: Tình huống ấy khiến ông đau xót, tủi hổ, day dứt trong sự xung đột giữa
tình yêu làng quê và tình yêu nước, mà tình cảm nào cũng mãnh liệt, thiết tha. Đặt
nhân vật vào tình huống gay gắt ấy, tác giả đã làm bộc lộ sâu sắc cả hai tình cảm nói
trên ở nhân vật và cho thấy tình yêu nước, tinh thần kháng chiến lớn rộng bao trùm lên
tình yêu làng, nó chi phối và thống nhất, mọi tình cảm khác trong con người Việt Nam
thời kháng chiến.
2. Diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai
a. Trước khi nghe tin dữ : ở nơi tản cư, tình yêu làng của ông hai hoà nhập với tình
yêu nước.
- Xa làng, ở nơi tản cư ông nhớ làng da diết. Nỗi nhớ làng khiến ông thay tâm đổi
tính: “Lúc nào ông cũng thấy bực bội, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm, hơi một
tí là gắt, hơi một tý là chửi”.
- Khi được nói chuyện về làng, ông vui náo nức đến lạ thường “Hai con mắt ông sáng
hắt lên, cái mặt biến chuyển hoạt động”.
- Ông quan tâm đến tình hình chính trị thế giới, đến các tin chiến thắng của quân ta:
+ Tin một em bé trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm
quốc kỳ trên tháp rùa.
+ Một anh trung đội trưởng sau khi giết được 7 tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn
cuối cùng.
+ Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng đã bắt sóng được tên quan hai
bốt ngay giữa chợ mà “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên” -> đso là niềm vui cảu một
con người biết gắn bó tình cảm của mình với vận mệnh của toàn dân tộc, là niềm vui
mộc mạc của một tấm lòng yêu nước chân thành.
b. Khi nghe tin làng Dầu theo giặc:
- Nỗi bất hạnh lớn đã đổ sụp xuống đầu ông, ông sững sờ “Cổ ông lão nghẹn ắng lại,
da mặt tê rân rân ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được”. Khi trấn tĩnh được
phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt
quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”, làm ông không thể không tin.
- Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám
ảnh, day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Về đến
nhà, ông “nằm vật ra giường”, rồi tủi thân khi nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ
giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ
rúng, hắt hủi đấy ư?”.
- Nỗi tủi hổ khiến ông không dám ló mặt ra ngoài. Lúc nào cũng nơm nớ, hễ thấy đám
đông nào tụ tập nhắc đến hai từ “Việt gian”, “Cam nhông” thì ông lại tự nhủ “Thôi lại
chuyện ấy rồi”.
=> Tác giả diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên
trong ông Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc.
+ Khi nghe tin làng Dầu theo giặc, tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước của ông
Hai đã có một cuộc xung đột nội tâm gay gắt. Ông Hai đã dứt khoát chọn lựa theo
cách của ông: “Làng thì yêu thật nhưng làng đã theo Tây thì phải thù”, tình yêu làng
nước đã rộng lớn hơn bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng dù xác định như thế,
ông Hai vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê, vì thế mà càng đau xót, tủi hổ.
+ Khi mụ chủ nhà biết chuyện, có ý muốn đuổi khéo gia đình ông đi, ông đã rơi vào
tình trạng tuyệt vọng, bế tắc hoàn toàn. Đi đâu bây giờ? Không ai muốn chứa chấp
dân của cái làng Việt gian. Ông thoáng có ý nghĩa “Hay là trở về làng”. Tuy nhiên ông
đã gạt bỏ ý nghĩ ấy bởi “Làng đã theo Tây, về làng nghĩa là rời bỏ Kháng chiến, bỏ cụ
Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ”. Mối mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế của
nhân vật như đã thành sự bế tắc, đòi hỏi phải được giải quyết.
+ Đau khổ, ông không biết tâm sự cùng ai ngoài đứa con bé bỏng. Yêu làng Dầu, ông
muốn khắc sâu vào trái tim bé nhỏ của con tình cảm với làng, với kháng chiến, với Cụ
Hồ, đó cũng chính là tấm lòng thuỷ chung “trước sau như một” với cách mạng của
ông. Đây là một đoạn văn diễn tả rất cảm động và sinh động nỗi lòng sâu xa, bền chặt,
chân thành của ông Hai – một người nông dân – với quê hương, đất nước, với cách
mạng và kháng chiến. Ngần ấy tuổi đầu mà nước mắt ông cứ ròng ròng khi nghĩ về
làng. Nỗi đau ấy mới đáng trân trọng làm sao bởi đó là nỗi đau của một con người
danh dự của Làng như chính bản thân mình.
c. Khi tin đồn được cải chính:
+ Thái độ của ông thay đổi hẳn “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ
hẳn lên”. Ông lại chạy đi khoe khắp nơi “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn! Ông
chủ tịch làng tôi vừa mới lên đây cải chính cái tin làng Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy
mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”.
III/ TỔNG KẾT
1/ Nội dung:
Truyện khắc hoạ thành công nhân vật ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu
nước tha thiết.
2/ Nghệ thuật
- Nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống cụ thể góp phần thể hiện tính cách, diễn biến
tâm trạng nhân vật.
- Ngôn ngữ nhân vật lúc đối thoại, lúc độc thoại mang đậm chất nông thôn, nhuần
nhuỵ mà đặc sắc, gợi cảm.
=> Ông Hai chính là bức chân dung sống động, đẹp đẽ của người nông dân thời kỳ
đầu kháng chiến.
NGỮ VĂN 9] CHIẾC LƯỢC NGÀ - CÂU CHUYỆN VỀ TÌNH CHA CON ĐẰM
THẮM, BẤT DIỆT...
Câu chuyện được kể “Vào một đêm trời sáng trăng suông, trong một ngôi nhà nhỏ
giữa Tháp Mười mà xung quanh nước đã lên đầy…”. Người kể chuyện là “đồng chí
già”- một chiến sĩ lão thành từng trải qua biết bao nỗi buồn, niềm vui trong hai cuộc
kháng chiến. Ông vừa là người chứng kiến, vừa là nhân vật của câu chuyện. “Chuyện
xảy ra cách đây đã hơn một năm rồi, mà mỗi lần nhớ lại, tôi cứ bàng hoàng như vừa
thấy một giấc mơ…”. Ông già cất tiếng. Giọng trầm đục, đầu hơi cúi xuống, mặt
ngước nhìn mênh mông. Ngay từ mấy dòng đầu ấy của tác phẩm, Nguyễn Quang
Sáng đã tạo được không khí cho câu chuyện. Ông không trực tiếp kể mà dùng nhân
vật người già với cái giọng trầm ấm để dẫn dắt bạn đọc. Do đó, truyện ngắn hiện đại
mà âm vang như một truyện cổ tích, một huyền thoại, với biết bao nhân vật, bao chi
tiết, tình huống bất ngờ, kì diệu. Đây là sự sáng tạo của nhà văn hay chính là cuộc
chiến đấu của đồng bào miền Nam anh hùng đầy những điều diệu kì, sáng tạo nên ?
Xung quanh “chiếc lược ngà” ấy, chúng ta gặp những con người nhân hậu, thông
minh, dũng cảm và cũng… sáng tạo biết bao !
Tác phẩm khá dài, có nhiều tình huống, sự việc éo le, hấp dẫn diễn ra trong nhiều
quãng thời gian, hiện tại, quá khứ đan xen, lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối, ở đây,
chúng ta chỉ đọc hiểu và suy ngẫm về đoạn trích trong sách Ngữ văn 9. Theo lời kể
chuyện – nhân vật xưng tôi – chúng ta có thể tóm tắt những tình tiết như sau:
Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm
nhà, thăm con. Bé Thu – con gái ông – không nhận cha, trái lại đã đối xử lạnh nhạt, có
lúc vô lễ với cha. Điều đó làm cho ông Sáu đau lòng, nhưng ông vẫn yêu thương con
bằng tất cả tình cha con ruột thịt. Sau vài ngày ngắn ngủi sum họp gia đình, õng Sáu
phải ra đi. Đến lúc ấy bé Thu bỗng thay đổi thái độ. Em ôm chặt lấy cha không muốn
cha con phải xa nhau. Mọi người ngỡ ngàng sửng sốt. Thì ra, mấy ngày trước, do nhìn
thấy trên mặt ông Sáu có vết sẹo lớn, bé Thu thấy ông không giống cha chụp chung
ảnh với mẹ. Nhờ bà ngoại giảng giải, Thu đã hiểu ra mọi chuyện. Em cất tiếng gọi
“Ba… ba !..” và hẹn “Ba mua cho con một cây lược nghe”, ở khu căn cứ, ông Sáu dồn
hết tình cảm yêu quý nhớ thương con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để
mang về tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng trong một cuộc chiến đấu ông đã ngã xuống.
Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược nhờ người bạn, gửi về tận tay cho con.
Xung quanh câu chuyện về chiếc lược ngà ấy, hai hình tượng nhân vật nổi bật lên.
Nhân vật thứ nhất : cô bé Thu – một em gái tám tuổi – có một tình yêu cha đằm thắm
và kì lạ. Cha đi chiến đấu biền biệt xa nhà. Đến khi Thu lên tám tuổi, hai cha con mới
được ‘gặp mặt nhau. Cô bé tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo hoa đỏ, hồn nhiên,
xinh đẹp, mới nhìn, ông Sáu đã nhận ra ngay con gái mình. Vậy mà, trong suốt ba
ngày gần gũi, cô bé đã không nhận ra cha của mình. Cô đã nói năng cộc lốc, đã cư xử
vùng vằng, ương ngạnh. Tình cảm cha con tưởng chừng không hình thành được. Song
đến giây phút cuối cùng, trước khi ông Sáu đi xa, thì tình cảm thiêng liêng ấy bỗng
cháy bùng lên. Khi nhìn thẳng, đối diện với người cha “đôi mắt mênh mông của con
bé bỗng xôn xao”. Đằng sau đôi mắt mênh mông, chắc đang xáo động biết bao ý nghĩ,
tình cảm. Mấy tiếng gọi “Ba… ba !” cùng cử chỉ ôm chặt lấy cổ ba, hôn khắp mọi nơi,
“hôn cả vết thẹo dài trên má của ba”, biểu hiện một tình yêu ruột thịt nồng nàn của
đứa con đối với cha. Và khi nghe ông Sáu nói “Ba đi rồi ba về với con”, cô bé hét lên
“không”, rồi hai tay siết chặt cổ, dang cả hai chân quặp chặt lấy ba, đôi vai nhỏ run
run ! Chắc cô bé khóc ? Phải chăng lúc ấy Thu thực sự thấy xót xa, ân hận về lỗi lầm
của mình, thực sự thấy xót thương người cha đau khổ ? Trong trí nhớ ngây thơ của cô,
cha cô đẹp lắm. Vì bom đạn quân thù, cha mang sẹo trên mặt. Đấy là điều đau khổ.
Vậy mà, cô không hiểu, cô lại xa lánh khiến cha đau khổ thêm. Được bà ngoại giảng
cho, cô mới hiểu ra mọi lẽ. Khi bé Thu hiểu thì đã… muộn rồi. Cha sắp đi xa, xa mẹ,
xa con, và tiếp tục cuộc đời gian khổ. Vì vậy, Thu siết chặt cổ cha, níu chặt lấy người
cha, như muốn đền bù những hụt hẫng đã qua. Nhà văn không viết nhiều, song chỉ
bằng một chi tiết nhỏ ấy, đủ cho chúng ta xúc động trước những nỗi niềm, tâm trạng
của nhân vật. Nỗi niềm, tâm trạng ấy trong trẻo, chân thành xiết bao. Vì thế, khi thấu
tỏ nguyên cớ khiến bé Thu ương ngạnh, chưa chịu nhân ông Sáu là cha, mọi người và
bạn đọc chúng ta đều có thể cảm thông, và lượng thứ cho Thu. Trong tâm hồn cô bé
tám tuổi ấy, người cha đẹp lắm, trẻ lắm. Giờ đây, cô lại vỡ thêm một vẻ đẹp nữa là :
cha cô thật anh hùng. Cái giây phút “vỡ” ra ấy của nhân vật được nhà văn miêu tả
bằng một đoạn văn thật đặc sắc : “Ba…a…a…ba ! Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé
sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người… tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó,…
nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tôi (người kể chuyện) thấy làn
tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Dường như từ giờ phút thức tỉnh đó, Thu bắt đầu
thay đổi. Cô bé không chỉ yêu cha, mà còn thương cha, tự hào về cha. Tinh yêu
thương và niềm tự hào ấy, phải chăng đã trở thành sức mạnh thôi thúc, rèn giũa để
Thu trưởng thành sau này, khi cô trở thành một chiến sĩ giao liên, gan dạ, dũng cảm ?
Có thể nói, ở tuổi thiếu nhi, Thu là một em gái có tình cảm thật mạnh mẽ, sâu sắc, hồn
nhiên, ngây thơ,… Tất cả nét cá tính ấy đều tập trung biểu hiện tình cảm con đối với
cha thật đằm thắm, bất diệt.
Nhân vật thứ hai : ông Sáu – một người cha hi sinh cả cuộc đời để gìn giữ tình cha con
bất diệt. Vì cuộc chiến đấu chung của dân tộc, ông Sáu đã mang vết sẹo trên mặt, đã hi
sinh cả vẻ đẹp của một thời trai trẻ. Đấy là nỗi đau thể xác. Mấy ngày về thăm nhà,
ông lại phải trải qua nỗi đau tinh thần : đứa con gái duy nhất ông hằng mong nhớ,
không chịu nhận ông là cha, không một lời gọi “ba”. Cho đến phút cuối cùng trước lúc
chia tay, ông mới được hưởng hạnh phúc của người cha. Nhưng phút ấy ngắn ngủi
quá. Để rồi cuối cùng ông vĩnh viễn phải xa con. Ông đã ngã xuống trong thầm lặng,
không một lời trăng trối, không nấm mồ, không bia mộ : “Các bạn ạ ! Trong những
ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật thì cũng đã đành một lẽ, còn người chết
cũng phải chết bí mật nữa”. Lời ông Ba nói với đổng đội khi kể chuyện, hay đấy chính
là lời nhắn gửi thiêng liêng của ông Sáu gửi lại người ruột thịt, gửi lại tới chúng ta ?
Sống rồi hi sinh, khổ đau và lặng lẽ, song người chiến sĩ ấy không chết. Vì ông là một
người cha hết mực yêu thương con. Mang lời hẹn ước của con gái ra đi, ông đã miệt
mài, say sưa, cưa giũa, thân trọng, tỉ mỉ như một nghệ nhân, làm chiếc lược bằng ngà
voi tặng con gái. “Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ
rối được phần nào tâm trạng” của ông. Nó trở thành vật thiêng, an ủi ông, nuôi dưỡng
trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Hằng đêm, ông đã nhìn ngắm chiếc
lược, mài nó lên tóc, cho chiếc lược thêm bóng, thêm mượt. Tác giả không miêu tả rõ,
song người đọc vẫn hình dung cái kỉ vật nhỏ bé mà thân thương ấy, mỗi ngày mỗi đẹp
lên, trắng ngà, anh ánh, toả sáng lung linh. Đó là biểu tượng trắng trong, quý giá, bất
diệt của tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Do đó, trước khi vĩnh biệt con, ông Sáu
vẫn nhớ chiếc lược, đã chuyển nó cho người bạn như một cử chỉ chuyển giao sự sống,
một ước nguyện gìn giữ muôn đời tình cảm cha con, ruột thịt. Điều đó đúng như ông
Ba nói “chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Chiếc lược ngà đã tìm được địa
chỉ trao lại cho người con gái để “tình cha con không… chết !”. Và hơn thế nữa, nó
đang sống lại trong sự sống của người đồng chí già, của bé Thu – nay đã là cô giao
liên mười tám tuổi… Câu chuyện về chiếc lược ngà không chỉ ngợi ca tình cha con
đậm đà, sâu nặng, bất diệt của hai cha con ông Sáu mà còn gợi cho người đọc thấm
thìa những đau thương, mất mát, éo le mà chiến tranh gieo xuống cho bao con người,
bao nhiêu gia đình trên đất nước Việt Nam.
Gấp sách lại, chia tay ông Ba, câu chuyện về Chiếc lược ngà với lời nói cuối cùng của
ông – giọng trầm ấm khoan thai – cứ âm vang mãi trong bạn đọc chúng ta, như sự âm
vang của một truyện cổ tích. Truyện cổ tích hiện đại đó đã thành công trong việc tạo
tình huống truyện, miêu tả tâm lí, tình cảm nhân vật và một giọng kể nhẹ nhàng, thấm
thìa, truyền cảm. Ông Ba – người kể chuyện – hay chính là nhà văn Nguyễn Quang
Sáng ? Phải là người từng trải đã sống hết mình với công cuộc kháng chiến của quê
hương, gắn bó máu thịt với những con người quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu
mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo
được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được giọng vãn dung dị và cảm
động như vậy. Qua cuộc đời mỗi nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba, Nguyễn
Quang Sáng như muốn nói rằng : trong cuộc kháng chiến gian khổ chống ngoại xâm
vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam, nhất là tình cha con, đồng đội,
sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết và người sống… mãi mãi bất diệt. Như
chiếc lược ngà ba tặng lại không bao giờ có thể mất, tình cha con của bé Thu cũng sẽ
mãi mãi bất diệt !
Bình giảng văn 9

[NGỮ VĂN 8] CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG


Chiếc lá cuối cùng - bức thông điệp màu xanh về tình yêu thương...
=============== ==============
« Chiếc lá cuối cùng » là một trong những truyện tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật
của O.Henri. Số lượng nhân vật không nhiều, chỉ có 3 nhân vật : Giôn xi - cô hoạ sĩ bị
ốm, Xiu- cô bạn cùng chung phòng trọ, người bác sĩ đến chữa bệnh cho Giôn xi và cụ
già Bơ-men - hoạ sĩ già sống cùng ngôi nhà trọ đó.
Với « Chiếc lá cuối cùng », chúng ta bước vào thế giới của những nghệ sĩ nghèo. Họ
tìm đến quảng trường Gri-niz gần công viên Oa- sinh- tơn không phải vì cái vẻ cổ
kính, kì quặc, cũng không phải vì cái phong cảnh tuyệt vời của nó mà vì « tiền thuê rẻ
». Trong cái xã hội mà thước đo là đồng tiền thì « tiền thuê rẻ » cũng nói lên khá
nhiều điều và tác giả cũng mỉa mai nhận xét : « Phố này có một khả năng rất quý. Hãy
tưởng tượng xem một tay thu ngân nào đó mang hoá đơn đòi tiền sơn hay giấy và vải
vẽ đi qua con đường này, đột nhiên lại gặp ngay chính mình quay trở ra, tiền nợ không
thu được một xu nhỏ ». Và cái không gian đó cho dù nó được gọi là quảng trường thì
nó vẫn bị chia nhỏ thành những quảng trường « chằng chịt » khiến cho phạm vi không
gian bị thu hẹp lại. Sự « chật hẹp » hiện ra như « mọc rêu » khiến cho khu nhà càng
thêm vẻ cô quạnh, hoang tàn. Cái không gian nghèo nàn ngay từ vẻ bên ngoài ấy chỉ
tiếp nhận những con người ngụ cư.
" Chiếc lá cuối cùng" - bức thông điệp màu xanh về tình yêu thương và sự sống con
người...
Trước hết đó là bức thông điệp về tình bạn cảm động.
- Hai nữ hoạ sĩ trẻ ở hai miền quê khác nhau : một cô từ bang Men tới, cô kia quê ở
Ca-li-pho-ni-a và họ cùng thuê chung một phòng trọ nơi phố nghèo.
+ Họ có cùng sở thích về món rau diếp xoăn trộn dầu dấm và kiểu ống tay rộng .
+ Cùng lựa chọn nghề hội hoạ : « hàng ngày làm việc lát con đường dẫn tới nghệ thuật
bằng những bức tranh minh hoạ cho những truyện ngắn của các tạp chí, do các nhà
văn trẻ viết để lát con đường của họ dẫn tới văn học »
+ Cùng cảnh nghèo. Họ vẽ tranh để kiếm cái lèn chặt dạ dầy thường hay trống rỗng
của họ và cao hơn nữa là để duy trì sự sống của chính họ mỗi khi mùa đông băng giá
đến.
- Tình cảm giữa Xiu và Giôn – xi không đơn thuần là sự quan tâm giữa những người
cùng thuê trọ mà họ yêu thương nhau như chị em ruột thịt. Mùa đông năm ấy, chứng
viêm phổi hoành hành đã « đánh ngã hàng chục nạn nhân ». Đối với những người
nghèo, cho dù họ là hoạ sĩ, thì đói rét và bệnh tật thường xuyên là khách không mời,
thường xuyên gõ cửa rình rập và đe doạ họ. Trong mùa đông, điều đó càng trở nên ác
liệt hơn.
=> Đây là nghệ thuật tạo dựng tình huống. Tác giả chọn bệnh tật làm đối tượng miêu
tả trực tiếp để đặc tả những phương diện khác. Chọn một nhân vật trong trạng thái ốm
đau bệnh tật làm tiêu điểm cho hành vi hoạt động của các nhân vật khác là đòn bẩy để
từ đó làm nổi lên các tình cảm nhân đạo, tạo ra thước đo phẩm chất nhân vật (chính
trong hoàn cảnh bi đát ấy, tình bạn được thử thách). Đây là một cách tạo dựng tình
huống có vấn đề để dẫn dắt tới cách giải quyết đột biến bất ngờ khi kết thúc truyện.
- Giôn xi bị viêm phổi, nằm liệt giường. Bác sĩ nói : « Bệnh tình của cô ấy có thể nói
là mười phần chỉ còn hy vọng được một thôi ». Bản thân Giôn xi là một cô gái ốm yếu
và thiếu máu. Nghèo khổ , không có tiền và cô cũng hưa từng thành công trong sự
nghiệp  Giôn xi không có một sợi dây ràng buộc nào đáng kể với cuộc sống.
- Cảnh ngộ ấy khiến Giôn xi rơi vào trạng thái phó mặc, buông xuôi. Cô thường ngồi
nhìn ra cửa để xem chiếc lá thường xuân cuối cùng bên cửa sổ đã rụng chưa. Một cô
gái trong tình trạng sức khoẻ yếu ớt, gần như cạn kiệt sức sống, Giôn xi cảm thấy
mình bất hạnh, bất lực trước bệnh tật, không tha thiết với cuộc sống, đó là tâm trạng
chán nản của kẻ chờ đợi phút chia tay với cuộc đời.
- Giôn xi vô cùng yếu đuối và tuyệt vọng. Giôn xi có những dự cảm mình sẽ chết,
đáng sợ hơn là Giôn xi không cảm thấy luyến tiếc cuộc sống. Tâm hồn cô đã chuẩn bị
sẵn sàng cho một chuyến đi xa, chỉ chờ cho chiếc lá thường xuân bé nhỏ đang quằn
quại trong gió lạnh kia rụng xuống.
- Sự sụp đổ về tinh thần của cô hoạ sĩ trẻ bất hạnh làm cho bệnh tình ngày thêm trầm
trọng. Cuộc sống của Giôn xi giờ đây được ví như chiếc lá nhỏ nhoi, yếu ớt, mảnh mai
kia. Và cuộc đấu tranh để bảo vệ cái cuộc sống nhỏ nhoi, yêu ớt ấy là một cuộc đấu
tranh với sự chiến thắng tuyệt vời của tình người.
Cô bệnh nhân ấy « yên trí là mình không thể khỏi được » đã bình thản lạnh lùng làm
cái việc nhìn qua cửa sổ trong tư thế nằm trên giường bệnh đếm từng chiếc lá thường
xuân đang rụng dần trong gió lạnh. Đối với Giôn Xi : chiếc lá là biểu tượng của thước
đo thời gian, thước đo cuộc đời. Cuộc đời của cô, cô đã xây dựng cho mình một niềm
tin bất hạnh : cô sẽ ra đi khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống. Một niềm tin
định mệnh đớn đau. « Trong khắp thế gian, cái cô đơn nhất là một tâm hồn đã chuẩn
bị sẵn sàng cho chuyến đi xa xôi bí ẩn của mình. Những sợi dây ràng buộc cô với tình
bạn, với thế gian này cứ lơi lỏng dần từng cái một thì ý nghĩ kì quặc kia hình như lại
càng choán lấy tâm trí cô mạnh mẽ hơn ». Sự so sánh cuộc đời con người với chiếc lá
mong manh trước làn gió mạnh trong giá rét phũ phàng của mùa đông là một sự so
sánh tuyệt vời sâu sắc. Đồng thời nó cũng nói lên sự đồng cảm xót xa của nhà văn
trước đồng loại. Nghèo thường đi đôi với hèn, nhưng ở đây không phải là hèn trong
phẩm cách mà là yếu đuối trong niềm tin, trong bản lĩnh. Trong cuộc sống tựa vai vào
người khác như vậy, Giôn xi tự cảm thấy mình là gánh nặng cho người khác, cô đau
khổ tự giầy vò vì thấy người khác phải chăm sóc mình, phải bận tâm vì mình. Niềm hi
vọng ở đây duy nhất cô đặt cả vào chiếc lá thường xuân vàng úa, mỏng manh, nhỏ
nhoi đang quằn quại trong gió lạnh. Cuộc đời của cô sẽ chấm dứt khi chiếc lá cuối
cùng đó lìa cành. Đây quả là một sự so sánh tuyệt vời rất phù hợp với kiểu tư duy hình
tượng Đông phương. Cuộc đời được ví với những cái mảnh mai yếu ớt, để đổ, dễ vỡ,
là ngọn đèn cạn dầu leo lét trước gió. Và cuộc đấu tranh để bảo tồn cái nhỏ nhoi ấy, để
bảo vệ cái yếu ớt ấy là phẩm chất tuyệt vời của tình người.
- Chính trong hoàn cảnh bi đát ấy, tình bạn được thử thách, Xiu thương bạn vô cùng,
cô đã khóc « đến ướt đẫm cả một chiếc khăn trải bàn Nhật Bản ». Xiu lo âu và đã làm
tất cả để cứu Giôn xi. Cô vẽ nhiều hơn để có tiền mua thuốc và mua thức ăn cho
bạn.Cô chăm sóc, động viên bạn, nén nỗi xót thương lo lắng để nâng đỡ tinh thần cho
bạn. khi đứa em tội nghiệp « nằm yên lặng và trắng nhợt như một pho tượng bị đổ »
thì Xiu vẫn kiên nhẫn an ủi em. Cô nói qua làn nước mắt : « Em thân yêu, em yêu
dấu !... Em hãy hứa với chị là hãy nhắm mắt lại và không nhìn ra ngoài cửa sổ nữa...
Em hãy cố ngủ đi »Xiu đã tận tình chăm sóc em, lúc thì quấy nước súp gà, lúc thì pha
sữa với rượu Boóc đô, lúc thì đặt thêm gối, lúc thì mời bác sĩ, lúc thì cầu cứu bác Bơ
men. Xiu đã giành giật với tử thần để chạy chữa cho đứa em nuôi bé bỏng tội nghiệp.
=>Xiu là hiện thân của lòng trắc ẩn, vị tha, là một con người giầu đức hy sinh thầm
lặng, có một trái tim nhân hậu mênh mông. Xiu là một nhân vật rất đẹp làm ta xúc
động và ngưỡng mộ về một tình bạn, tình chị em thuỷ chung, cao quý. Nhân vật Xiu
toả sáng « bức thông điệp màu xanh » của « chiếc lá cuối cùng ».
Và chiếc lá còn là bức thông điệp về tình người ấm áp
- Bác Bơ men là một hoạ sĩ nghèo đã 60 tuổi, không thành đạt trong nghệ thuật : « cụ
múa cây bút vẽ đã bốn mươi năm mà vẫn không với tới được gấu áo vị nữ thần của
mình » nhưng sống rất lương thiện và luôn khát vọng sáng tạo một kiệt tác. Đã ngoài
sáu mươi, nhưng bác Bơ men vẫn sống cô độc « trong một gian buồng tối om om ở
tầng dưới » Chỉ có những người nghèo mới phải ở trong một gian buồng như thế.
Trong một gian buồng như thế thì vẽ thế nào được tranh, cho nên trên giá vẽ ở góc
buồng của bác vẫn là một tấm vải trống trơn chưa có một nét vẽ. Không có tranh để
bán, hàng ngày bác « kiếm được chút ít bằng cách ngồi làm mẫu cho các nghệ sĩ trẻ
không đủ tiền thuê người làm mẫu chuyên nghiệp ». Cuộc sống của Bác thật khổ và
thật bấp bênh.
Tuy sống trong nghèo khổ, suốt đời chỉ uống loại rượu nặng rẻ tiền, nhưng ước mơ
sáng tạo lúc nào cũng cháy bỏng trong lòng bác. Bác luôn có ý định vẽ một bức tranh
kiệt tác. Ước mơ, khát vọng của bác thật đẹp, thật chân chính.
- Để cứu người khỏi tai hoạ, kéo dài sự sống cho một tâm hồn yếu đuối đang đếm lá
rụng chờ chết, có những con người đứng trước cái chết không hề sợ chết. Cụ già Bơ-
men, một hoạ sĩ già là một con người giầu đức hi sinh như vậy. Cụ đã vẽ chiếc lá
thường xuân lên tường ngay sau khi chiếc lá thật rụng xuống. Cụ vẽ âm thầm, bí mật
trong đêm mưa gió lạnh buốt ngoài trời, chứng cớ là « người ta tìm thấy một chiếc đèn
bão vẫn còn thắp sáng và một chiếc thang đã bị lôi ra khỏi chỗ để của nó, và vài chiếc
bút lông rơi vung vãi, và một bảng pha màu có màu xanh và màu vàng trộn lẫn ».
- Cụ bị viêm phổi nặng và đã chết vì sưng phổi. Cái chết của Bơ men thật là cao cả.
Cụ không chỉ thương xót, mà đã tìm ra cách để chữa căn bệnh nguy hiểm trong trí não
Giôn-xi, dù có phải xông pha trong bão tuyết. Cụ Bơ Men trở về và làm việc thầm
lặng dưới ngọn đèn bão tuyết tù mù. Trong đêm mưa rét ấy, một kiệt tác đã hoàn
thành, kịp thời thay thế cho chiếc lá vừa rung. Và cũng trong đêm mưa gió bão bùng
ấy, sau khi vẽ bức kiệt tác trong tình thương của mình lên bức tường cáo tới sáu
thước, bước xuống khỏi cái thang chông chênh, ông già đã bị viêm phổi nặng, rồi hai
ngày sau ông đã lặng lẽ đi vào cõi vĩnh hằng. Cái chết lặng lẽ, sự hi sinh thầm lặng
của ông ít ai biết đến, nhưng chính nó đã cứu sống được một mạng người - một con
người còn rất trẻ và biết đâu, đó lại là một tài năng vĩ đại sau này sẽ tiếp tục con
đường nghệ thuật chân chính mà Bơ men đã theo đuổi suốt đời. Cái chết là rất đáng
ghét nhưng trong trường hợp của Bơ men, nó vô cùng đang kính trọng, bởi nó càng
khẳng định lòng yêu thương con người, sự hi sinh cao cả vì con người của người nghệ
sĩ già. Bơ men đã chết nhưng tác phẩm kiệt xuất của cụ vẫn sống mãi với hai cô gái
nghèo, vẫn sống mãi trong lòng các thế hệ bạn đọc. Bởi vì tác phẩm đó đã biểu hiện
tất cả phẩm chất cao đẹp của bác : nghèo nhưng vô cùng nhân hậu, giàu lòng yêu
thương và đức hi sinh. Cụ Bơ men là biểu tượng của nghệ thuật vị nhân sinh cao cả.
[NGỮ VĂN 9] HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
Trong vô số những nạn nhân của xã hội phong kiến, có một tầng lớp mà hết thảy các
nhà văn nhân đạo đều đau xót, trân trọng và tập trung viết về họ, đó là người phụ nữ.
Họ là Hình tượng tiêu biểu cho những số kiếp bi đát, cho những con người trong cuộc
đời bế tắc. Họ là những con người có đủ tài năng, có đức hạnh thanh cao nhưng lại bị
cuộc đời vùi dập xô đẩy. Trong số những tác phẩm viết về đề tài này, nổi bật nhất phải
kể đến sáng tác thuộc trào lưu nhân đạo thế kỉ XVII – XVIII, những tác phẩm của
những tác giả nổi tiếng như Nguyễn Dữ với Chuyện người con gái Nam Xương,
Nguyễn du với Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương với Làm lẽ, Bánh trôi nước vv ... Đó là
những tác phẩm mà đến nay như vẫn còn vang vọng tiếng kêu cứu não nùng đau đớn
của những con người quằn quại trong vũng lầy xã hội cũ.
"Hồng nhan đa truân" – câu ấy có lẽ lại là một lời nhận xét rút ra từ hiện thực cuộc
sống của người xưa. Có lẽ lời nhận xét ấy cũng phần nào đúng với thực tế vì trong hầu
hết các tác phẩm, những người phụ nữ bất hạnh lại thường là những người phụ nữ
đẹp. Đấy là những người có vẻ đẹp trung hậu, dịu dàng của người phụ nữ nông thôn
như nàng Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương, có " tư dung tốt đẹp "
hay vẻ đẹp khỏe mạnh tràn đầy sức sống của cô gái đương độ nhan sắc với nước da
trắng và thân hình khỏe mạnh.
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Đến những người con gái có sắc đẹp khuynh nước khuynh thành như nàng Kiều trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen đua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành...
Vẻ đẹp của nàng làm lu mờ tất cả những gì được gọi là thanh cao nhất, đẹp nhất của
thiên nhiên, đôi mắt trong thăm thẳm như làn nước mùa thu, nét mày thanh tú mơn
mởn như rặng núi mùa xuân. Và vẻ tươi thắm của hoa, dáng vẻ yêu kiều mềm mại của
liễu cũng phải "hờn" phải "ghen" với người con gái tuyệt sắc đó.
Không chỉ đẹp ở tư dung bên ngoài, họ còn có đủ tài năng đức hạnh. Đó là Vũ Nương
tính thùy mị, nết na, giữ gìn khuôn phép. Chồng đi lính xã nhà, nàng ở nhà nuôi con,
phụng dưỡng mẹ già và chung thủy đợi chồng. Đó là nàng Kiều với lòng hiếu thảo cao
cả. Nàng sẵn sàng hi sinh thân mình cứu lấy gia đình khỏi cơn nguy biến, chấp nhận
mọi sóng gió cuộc đời.
Với nhan sắc và phẩm hạnh cao quý như thế, đáng lẽ họ phải được sống cuộc đời êm
đềm, hạnh phúc. Nhưng trớ trêu thay, bất hạnh lại ập đến với họ. Nỗi đau đớn nhất
của người phụ nữ là gia đình tan vỡ và họ phải chịu nỗi giày vò cả thể xác lẫn tinh
thần. Nỗi oan nghiệt đã đổ ập xuống đầu Vũ Nương. Khi chồng nàng trở về, chỉ vì
lòng ghen tuông mù quáng, nghi vợ con tư tình, bèn đuổi nàng đi, để nàng nhục nhã
đến nỗi phải tìm tới cái chết. Đến khi chồng nàng hiểu ra thì đã quá muộn màng. Ước
mơ lớn nhất của nàng là được sống bình dị, nhưng hạnh phúc mãi mãi không bao giờ
trở thành hiện thực đối với nàng.
Với Kiều, Người con gái "sắc đành đòi một, tài đành họa hai", cuộc đời nàng con gian
truân lận đận hơn nữa. Mối tình tuyệt đẹp giữa nàng và Kim Trọng, một văn nhân hào
hoa, phong nhã, vừa mới chớm nở cũng là lúc nàng đau đớn dứt bỏ với tiếng gọi xé
lòng :
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Chỉ sau một cơn gia biến, vì sự vu oan trắng trợn của thằng bán tơ, vì "ba trăm lạng
bạc việc này mới xong", mà nàng trở thành một món hàng để cho bọn buôn thịt bán
người cò kè ngã giá:
Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm
Người đọc đã không nén được xúc động trước nỗi đau khổ dằn vặt của người con gái
liễu yếu đào tơ ấy "Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng". Nhưng đó chỉ mới mở đầu
cho cả những chuỗi ngày đau khổ nhất cuộc đời nàng. Trong những chuỗi ngày ấy,
nàng đã khóc không biết bao nhiêu lần. Từ tay Mã Giám Sinh, Kiều rơi vào tay Tú Bà,
vốn nổi tiếng là mụ chủ của làng thanh lâu. Là con gái của gia đình Vương viên ngoại
"Gia tư nghi cũng thường thường bậc trung", vốn có dòng dõi cao quý, là một cô gái
con nhà gia giáo. Thúy Kiều không thể chấp nhận trở thành gái thanh lâu. Nàng đã
chịu bao trận đòn tàn khốc của Tú Bà, sau cùng Tú Bà lại bày mưu thuê Sở Khanh lừa
nàng để buộc nàng trở thành một cô gái lầu xanh thực thụ. Bắt đầu những ngày ảm
đạm nhất trong cuộc đời của nàng Kiều. Từ một cô gái trinh trắng, đức hạnh, nàng trở
thành món đồ cho bọn khách làng chơi. Nàng xót xa thay cho số phận mình.
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân
Không phải không có lúc dịp may đến với nàng. Nhưng đó là một chút ánh sáng lóe
lên rồi chợt tắt ngấm khiến cho cuộc đời tối tăm của nàng tưởng hửng sáng nhưng rồi
lại càng tối tăm mịt mù hơn. Ấy là nàng được Thúc Sinh một khách làng chơi hào
phóng, ái mộ tài sắc của nàng chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và cưới nàng làm vợ.
Nhưng nàng lại rơi vào tay vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư, một tiểu thư con nhà
quan, lại có thừa mưu mô xảo quyệt. Nàng đã bị tra tấn thật tàn nhẫn:
Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi
Hoạn Thư bày ra một cách thật ngang trái. "Ngay trong đêm hàn huyên của hai vợ
chồng mụ, nàng đã phải đánh đàn, hầu rượu mua vui cho cả hai vợ chồng, để cho nàng
đau đớn cả cõi lòng", "Người ngoài cười nụ" mà "người trong khóc thầm".
Đau khổ đến cùng cự, nàng đã định nương nhờ cửa Phật nhưng món nợ trần gian còn
mãi đeo đẳng nàng. Nàng lại rơi vào lầu xanh lần thứ hai và lại được Từ Hải – vị anh
hùng của cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình cứu ra khỏi lầu xanh. Cuộc hôn nhân
của hai con người "trai anh hùng, gái thuyền quyên" đó đã tưởng được bền lâu. Cho
đến khi công thành danh toại "Triều đình riêng một góc trời", đã báo ân báo oán, nàng
lại rơi vào cái bẫy hiểm độc của Hồ Tôn Hiến khiến cho nàng vô tình tiếp tay cho kẻ
giết chồng mình. Lúc đó Từ Hải chết cũng là lúc Kiều tắt hết niềm hi vọng. "Sống
thừa tôi đã nên liều mình tôi". Ngay sau cái chết của chồng, nàng bị ép gảy đàn mua
vui cho chiến thắng của chúng. Tên tổng đốc Hồ Tôn Hiến bỉ ổi làm nhục nàng, và khi
chợt tỉnh hẳn đã không ngại gả nàng cho một viên thổ quan. Lần này nàng tự tử và lại
được cứu thoát. Nàng may mắn trở về gặp gia đình, gặp lại người tình xưa nhưng đối
với nàng, cuộc sống lứa đôi không còn ý nghĩa. Đó là niềm an ủi cuối cùng của nàng
Kiều như một lời nhận xét của nhà phê bình văn học. Đối với những người phụ nữ
bình dân, thân phận của họ cũng không hạnh phúc. Bao người con gái đã chịu cảnh
sống mà như chết trên cõi đời. Trẻ trung, có chồng nhưng sống như những góa phụ,
thực chất họ chỉ là những đầy tớ không công, không hơn không kém. Hồ Xuân Hương
có lần chua xót thốt lên:
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Người con gái trong xã hội phong kiến không được quyền định đoạt bất kì một vấn đề
gì. Thông qua hình tượng chiếc bánh trôi bập bềnh, trôi nổi. Hồ Xuân Hương đã nói
đến cuộc sống cũng như đức hạnh của người phụ nữ:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Như chiếc bánh trôi nước, thân phận người phụ nữ tùy thuộc vào bàn tay của người
khác, họ đành cam chịu số phận đã sắp đặt sẵn và cố giữ lấy cho mình một phẩm chất
tốt đẹp đó là tấm lòng kiên định trong sáng.
Phản ánh những bi thảm của người phụ nữ, các nhà văn nhân đạo không thể giấu nổi
tình cảm xót xa, đau đớn của mình. Nhiều khi tác giả đóng vai trò người ngoài cuộc
nhưng cũng không thể không bộc lộ những cảm xúc :
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Với nàng Kiều người con gái được coi là biểu tượng của một nỗi đau khổ. Nguyễn Du
dành cho tình cảm đặc biệt. Ông cũng nức nở như nàng khi mối tình đầu của nàng tan
vỡ, cũng đau đớn khi những lằn roi quất lên làn da thịt nàng, cũng bao đêm cùng nàng
thao thức: "Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy, năm canh" Tình yêu thương con người đã
khiến nàng vượt lên chính bản thân mình. Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc
ở một chừng mực nào đó, ông cũng là đại diện cho từng lớp quý tộc phong kiến,
nhưng ông đã thẳng thừng lên án bọn quan lại, những kẻ gây lên cuộc đời đau khổ cho
nàng Kiều. Đối với những phường buôn thịt, bán người ông chủ trương trừng trị đích
đáng tội ác của chúng ngay tại kiếp này, chứ không cho đến kiếp sau.
Hồ Xuân Hương và một số nhà thơ khác cũng có thái độ tương tự. Chưa bao giờ cuộc
sống gia đình và hạnh phúc riêng tư được đề cập đến nhiều như giai đoạn này. Thông
qua hình ảnh một người phụ nữ chịu kiếp làm lẽ hẩm hiu, khao khát hạnh phúc. Hồ
Xuân Hương đã nói lên tiếng nói đòi quyền được hưởng hạnh phúc, được sống trong
mái ấm gia đình của người phụ nữ. Mặt khác bà cũng lột trần bộ mặt của những kẻ
được gọi là văn nhân, tài tử trong xã hội phong kiến, chúng mang bộ mặt đạo đức giả
luôn tỏ ra cao đạo nhưng thực chất là những kẻ dâm ô nhất. Lên tiếng đòi quyền sống,
quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ, đồng thời các nhà văn, nhà thơ cũng
lên tiếng đả phá chế độ đa thê đã từng chôn vùi cuộc sống của nhiều cô gái trẻ. Đó là
dấu hiệu của sự rạn nứt ý thức hệ phong kiến nặng nề đã tồn tại từ bao đời nay.
Viết về người phụ nữ là một sự tiến bộ vượt bậc của các tá giả văn học cổ Việt Nam.
Khi phản ánh số phận của những người phụ nữ bất hạnh, các nhà văn đã không khỏi
băn khoăn và tìm đến cách lý giải những nỗi khổ của người phụ nữ không tránh khỏi
những sai lệch. Nguyễn Du đã lý giải nỗi đau khổ của nàng Kiều là bởi "tài mệnh
tương đồ", vì "trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" "Ông trời một thế lực tối cao
vô hình vốn ghen ghét đối với những người đàn bà đẹp. Nhưng bằng hiện thực tác
phẩm, Nguyễn Du đã lý giải, những kẻ đê tiện, bỉ ổi từng hãm hại cuộc đời nàng Kiều
đã hiện lên rất thực rất sinh động. Từ tên bán tơ xảo quyệt, mụ Tú Bà buôn thịt bán
người hay tên quan xử vụ kiện họ Vương ăn đút lót "Có ba trăm lạng việc này mới
xong", tới tên tổng đốc trọng thần dâm ô, bỉ ổi Hồ Tôn Hiến ... cả xã hội hỗn loạn đó
đã vùi dập cuộc đời nàng Kiều chứ không phải ai khác. Một thế lực tuy vo hình nhưng
vô cùng tàn bạo cũng là nguyên nhân dẫn đến khổ đau của người phụ nữ. Đó là thế lực
của đồng tiền. Đồng tiền làm đảo lộn mọi người phụ nữ. Đó là thế lực của đồng tiền.
Đồng tiền làm đảo lộn mọi sinh hoạt của xã hội. Chẳng thế mà đã bao lần nhà thơ đau
đớn thốt lên:
- Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền
- Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong
Những hủ tục phong kiến như nam quyền, chế độ đa thê cũng tạo nên đau khổ cho
người phụ nữ. Đứng trước nỗi đau đớn ấy, nhiều nhà văn không thể né tránh trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình. Văn học thời kỳ này đã góp cho nền văn học Việt Nam
một trào lưu văn học nhân đạo cao cả với nhiều tác phẩm có giá trị. Đó cũng là khởi
đầu cho mọi trào lưu nhân đạo sau này.
Những tác phẩm văn học đó cho ta thấy lại cả một quãng đời đau thương, tủi nhục của
cả một tầng lớp người xưa trong xã hội và nỗi cảm thương sâu sắc với họ, của những
nhà văn nhân đạo. Đó là những tác phẩm nghệ thuật chân chính cần được gìn giữ và
lưu truyền.
[Ngữ văn 9] ĐỒNG CHÍ - CHÍNH HỮU
Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
(Đồng chí – Chính Hữu)
BÀI LÀM
Văn chương giống như một cây bút đa màu vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng những
gam màu phong phú của hiện thực và tình cảm. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim của
mình để “hút nhụy đời” tưới tắm cho những cánh đồng thơ văn. Ở cánh đồng ấy có
một khoảng trời dành cho thơ văn cách mạng- mảng văn học của nghệ thuật tàn khốc
mà cũng đẹp đẽ vô cùng. Trong cuộc chiến bảo vệ Tổ Quốc vĩ đại, có lẽ hình ảnh
những người lính – những anh bộ đội cụ Hồ mãi là hình ảnh cao quý và đẹp đẽ nhất.
Hình ảnh ấy đã đi vào lòng người và văn chương với tư thế, tình cảm và phẩm chất
cao đẹp. Một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất, thành công nhất viết về tình cảm
của người lính cụ Hồ là bài thơ “Đồng Chí” của tác giả chính hữu. Bằng những rung
động mới mẻ và sâu lắng cũng như sự trải nghiệm của người trong cuộc, qua khổ thơ
2 bài thơ “Đồng Chí”, Chính Hữu đã diễn tả một cách sâu sắc tình đồng chí gắn bó
thiên liêng của những anh bộ đội thời kì kháng chiến chống Pháp.
Trong làng thơ Việt Nam , Chính Hữu là một trường hợp đáng để nhiều người mơ
ước. Tuy viết ít nhưng thời kỳ nào, ông cũng có những bài thơ rất hay, mang đậm hơi
thở thời đại. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông chỉ công bố 3 tập thơ với khoảng
gần 30 bài nhưng đã ghi dấu vào thi đàn của Việt Nam như một gương mặt tiêu biểu
của thơ ca kháng chiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948, khi tác giả Chính Hữu là chính
trị viên đại đội thuộc Trung đoàn Thủ đô.Trong những năm tháng kháng chiến chống
Pháp gian lao, lẽ đương nhiên hình ảnh người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh
hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Với nhịp
điệu trầm lắng ấm áp, ngôn ngữ bình dị đời thường, bài thơ “Đồng chí” đã trở thành
những vẫn thơ của niềm tin yêu, sự hy vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một người
chiến sĩ cách mạng làm thơ. Đặc biệt qua khổ 2 ta cảm nhận được vẻ đẹp sức mạnh
của thứ tình cảm chân tình, giản dị mà thiêng liêng , một sợi dây gắn kết vô hình
nhưng bền chặt giữa những người lính cách mạng, đó chính là tình đồng đội.
Bằng bút pháp nghệ thuật tài tình, bằng sự thấu hiểu tận cùng của một người trong
cuộc mà chỉ với vẻn vẹn mười câu thơ Chính Hữu đã cho ta thấy sức mạnh và biểu
hiện của tình đồng chí. Trải qua những khó khăn nơi chiến trường, tình đồng chí đã
giúp các anh có được sự cảm thông, thấu hiểu được nỗi lòng, tình cảm của nhau. Họ
ngồi lại để cùng nhau dẻ chia những tâm tư, nỗi niềm của nhau hướng về hậu phương
thương nhớ:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Hoàn cảnh của “anh” nhưng do “tôi” kể lại, họ là những người lính gác tình riêng ra đi
vì nghĩa lớn, để lại sau lưng bao nỗi niềm trăn trở. Từ những câu thơ nói về gia cảnh,
về cảnh ngộ ta bắt gặp được sự thay đổi trong tâm trí của người lính, nó phá vỡ mọi
nguyên tắc mà ta từng thấy. Bởi đối với người nông dân không có gì quý hơn gian
nhà, thửa ruộng. Không những vậy, gian nhà còn là mái ấm gia đình, là trách nhiệm,
là điểm tựa tinh thần đối với mỗi người. Bởi vậy mà người lính lên đường chiến đấu
không thể không mang theo bao nỗi niềm day dứt, băn khoăn về gia đình, vườn ruộng.
Đó là những tình cảm, sự trăn trở rất thực. Nhưng vì Tổ Quốc, vì độc lập của dân tộc
mà họ ra đi không tiếc cho đời mình , nguyện “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, họ đã
bỏ lại tất cả những gì thương yêu nhất. Và tất cả những thứ tài sản quý giá ấy các anh
đều “gửi bạn thân cày” và “mặc kệ gió lung lay”- biểu hiện cho sự cứng cỏi, dẹp đi
mơ ước riêng tư để đặt lợi ích của Tổ Quốc lên hàng đầu. Người nông dân đi vào sa
trường thì tự họ hiểu rằng nước nhà còn chưa yên thì làng quê và những người thân
của họ chưa được yên ổn. Chính vì thế mà hai tiếng “mặc kệ” vang lên một cảnh dõng
dạc, khắc họa sự quyết tâm của người ra đi vì đất nước. “Mặc kệ” ở đây không phải là
dửng dung vô tình mà là sự dứt khoát đầy tin tưởng, trong ngôn ngữ của người lính
được hiểu là “Cứ chờ đó, Cách mạng xong ta sẽ làm lại sau”. Đó cũng chính là ý
tưởng lớn, lí tưởng cao đẹp của những con người hy sinh thân mình để đem lại hòa
bình cho Tổ Quốc và độc lập cho dân tộc.
Không chỉ hiểu thấu những nỗi lòng của nhau mà các anh còn thấu hiểu nỗi lòng nơi
chốn hậu phương dành cho nhau. “Giếng nước gốc đa” là một hình ảnh hoán dụ chỉ
người thân chốn quê nhà của người lính. Đó có thể là người mẹ, người chị, người e,
người yêu của người lính, sau mỗi buổi đi làm đồng về lại hội tụ bên giếng nước gốc
đa để hỏi thăm tin tức của người đi xa. Quê nhà đang nhớ người lính hay người lính
đang nhớ về quê nhà? Đây chính là nỗi nhớ hai chiều tiếp thêm sức mạnh để người
lính chiến đấu và chiến thắng.
Không chỉ thấu hiểu và cảm thông với những nỗi niềm của nhau, các anh còn sẻ chia
những thiếu thốn, gian lao cũng như là những tiếng cười, giọt nước mắt bên chiến
thềm cuộc chiến đấu:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Những người lính trải qua bao khó khăn gian khổ, không ai chưa từng trải qua bao
cảm giác bị sốt rét nơi núi rừng Việt Bắc sâu thẳm, càng đắp thêm chăn, càng lạnh.
Lại ko có đầy đủ thuốc men. Lại thường xuyên sống trong cảnh thiếu thốn manh áo và
tiết trời đông lạnh vào cái thời kháng chiến mà những anh vệ quốc quân còn được gọi
là vệ nâu, vệ tốn nhưng chính họ lại là người kiên cường chiến đấu trên mọi mặt trận,
để bảo vệ Tổ Quốc khỏi giặc ngoại xâm. Trong hoàn cảnh đầy khó khăn như vậy thì
hình ảnh đối xứng “anh-tôi”, “áo anh-quần tôi” tạo sự gắn kết của những người đồng
chí luôn kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã
cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật, cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng
chia sẻ những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc quan “miệng cười buốt giá”. Khó
khăn là vậy, khắc nghiệt là thế nhưng nụ cười chưa bao giờ tắt trên môi của mỗi người
lính. Khi nhắc đến những cơn sốt rét làm cho người ta nhớ đến hiện thực của chiến
tranh với những cơn rét rừng “lạnh trong, nóng ngoài’ và những cơn sốt rét rừng ấy đã
được rất nhiều nhà thơ miêu tả lại trong những trang viết của mình:
“Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”
(Nguyễn Đức Mậu)
Dù các cơn sốt rét rừng đau, lạnh đến cứa cả da thịt nhưng các chiến sĩ của ta vẫn lạc
quan, vẫn tin tưởng, không chùn bước trước bất cứ điều gì. Hình ảnh “miệng cười
buốt giá” gợi nụ cười sáng bừng lên trong đêm đông giá lạnh, trong cái lạnh hoang vu
nơi rừng Việt Bắc xa xôi cách trở.Đó là không gian khó không dễ vượt qua bởi đó là
thử thách có thực, luôn hiện hữu mỗi ngày trong cuộc đời người lính. Và có lẽ trong
khoảnh khắc khó khăn ấy, các anh đã nắm tay nhau để truyền cho nhau thêm sức
mạnh:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Ở cái nơi chiến trường xa xôi và hẻo lánh này chắc hẳn các anh rất cần những cuộc trò
chuyện, những cái nắm tay. Mặc dù chỉ là những cái nắm tay giản dị nhưng nó chứa
chan và gửi gắm rất nhiều tâm tư, cảm tình trong đó. Các anh nắm tay nhau để truyền
hơi ấm cho nhau, niềm tin và sức mạnh, tạo sự đoàn kết gắn bó, là biểu hiện giản dị
mà sâu sắc của tình thươn không nói nên lời. Thật hiếm khi nào thấy cái bắt tay nồng
hậu đến vậy!
Lịch sử đã sang một trang mới – một trang hoàn toàn khác nhưng có lẽ hình ảnh
những người nông dân mặc áo lính vẫn sống mãi trong lòng các thế hệ mai sau. Ngời
sáng nơi các anh chính là tình đồng đội keo sơn, sát cánh kề vai trong mọi hành động,
thử thách. Nhà thơ Chính Hữu đã thấu hiểu và viết về tình đồng chí ấy với tất cả sự
trân trọng, ngợi ca . Tình cảm ấy giản dị mà thiêng liêng, sẽ chẳng thể bị bụi thời gian
làm phai mờ. Vẻ đẹp của các anh sẽ chẳng thể bị bụi thời gian cuốn đi mất:
“Đồng đội ta
Là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết”
(Chính Hữu)
Bài làm của bạn Nguyễn Thủy Tiên- học sinh Lớp văn cô Thu.
[NGỮ VĂN 9] ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
VẺ ĐẸP CỦA BỨC TRANH THIÊN NHIÊN...
=============== ================
Cách mạng tháng Tám thành công đã mang tới bước chuyển mình cho hồn thơ Huy
Cận . Ông tìm thấy ánh sáng, con đường, lí tưởng cho mình trở nên hăm hở, hăng hái,
vì thế những vần thơ cũng trở nên tươi sáng, tràn ngập tình yêu cuộc đời, yêu thiên
nhiên đất nước. Trong chuyến đi thực tế Quảng Ninh ông đã sáng tác tác phẩm “Đoàn
thuyền đánh cá”, bài thơ không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp con người mà qua đó còn làm
nổi bật vẻ đẹp trù phú của quê hương, đất nước.
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá" được sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở
vùng mỏ Quảng Ninh của nhà thơ Huy Cận. Bằng bút pháp tả thực kết hợp bút pháp
lãng mạn, các hình ảnh đẹp, tráng lệ, bài thơ đã giúp ta nhận ra sự hoà hợp giữa thiên
nhiên và con người lao động đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về
quê hương, đất nước.
Thiên nhiên được miêu tả theo trình tự vận động từ hoàng hôn đến minh bình với
khung cảnh có sự biến đổi linh hoạt. Cảnh tưởng như ngừng vận động sau một ngày
dài, nhưng thực tế lại liên tục vận động, khung cảnh thiên nhiên vì thế mà ngập tràn
sức sống.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh mặt trời dần dần lặn vào đại dương, hình ảnh đó được Huy
Cận tái hiện hết sức huy hoàng:
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa."
Thật khéo léo, tài tình tác giả đã kết hợp những hình ảnh cụ thể như mặt trời, sóng,
biển với biện pháp so sánh, nhân hóa để tạo nên một bức tranh hoàng hôn tuyệt mĩ.
Mặt trời được ví như hòn lửa khổng lồ đang từ từ xuống biển, chìm vào màn đêm yên
tĩnh. Sóng và biển được nhân hóa như những sinh thể, để đánh dấu sự nghỉ ngơi thực
sự của mặt trời. Nhưng ở đây chỉ có mặt trời đi ngủ, còn tất cả các sự vật khác lại như
bừng thức :
"Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi."
Bút pháp tả thực kết hợp với trí tưởng tượng vô cùng phong phú, những con cá thu
được ví như những đoàn thoi, với tốc độ bơi vun vút, dệt lên tấm vải khổng lồ giữa
biển cả, khiến cả không gian bừng lên muôn luồng sáng, đó là luồng sáng của sự
phong phú, giàu có. Sự giàu có ấy tiếp tục được tác giả liệt kê ở khổ thơ tiếp theo, đến
đây không chỉ có các bạc, cá thu mà còn có muôn ngàn loài cá khác : cá nhụ, cá chim,
cá đé, cá song,… Với hình thức liệt kê, ông đã khẳng định và ngợi ca tài nguyên
phong phú, dồi dào của đất nước ta. Đặc biệt trong khổ thơ thứ tư, Huy Cận đã sử
dụng những nét bút hết sức tài hoa, vẽ lên bức tranh sơn mài tuyệt mĩ. Bức tranh ấy
được sáng tạo trên cơ sở của trí tưởng tượng, sự liên tưởng bay bổng, mơ mộng nhưng
đồng thời vẫn có cơ sở hiện thực. Trên nền cảnh của không gian đêm tối, với ánh
trăng trên cao rọi chiếu khiến cho cảnh vật trở nên huyền bí, mờ ảo. Trong không gian
ấy, mọi sự vận động của thiên nhiên đều trở nên lấp lánh, phát ra thứ ánh sáng diệu kì:
chiếc đuôi của cá song lấp lánh đuốc đen hồng, với hành động cái đuôi em quẫy trăng
vàng chóe đã khiến bức tranh trở nên đa dạng về màu sắc, sinh động, có hồn hơn. Vẻ
đẹp thiên nhiên thật đẹp đẽ, tràn đầy hơi thở sự sống: Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.
Thiên nhiên trù phú, giàu có chính là nguồn sống nuôi dưỡng con người khôn lớn,
trưởng thành, bởi vậy, ngay sau đó, tiếng thơ tha thiết như một lời cảm ơn chân thành
của đứa con với bà mẹ biển cả: Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự buổi
nào.
Thời gian có sự vận động không ngừng, mặt trời sau một đêm dài nghỉ ngơi, đã dần
dần lóe rạng đông:
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Vẻ đẹp hoàng hôn rực rỡ bao nhiêu thì vẻ đẹp của nó khi bình minh lại huy hoàng bấy
nhiêu. Màu mới ở đây là màu gì? Có thể hiểu màu mới là màu nắng lúc bình minh,
màu nắng lúc ấy bao giờ cũng rực rỡ, đẹp đẽ hơn, nó mang vẻ đẹp của sự khởi đầu,
khơi nguồn sự sống. Hình ảnh đẹp đẽ nhất, thể hiện rõ nhất bút pháp lãng mạn của
Huy Cận là câu thơ cuối cùng: Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Hình ảnh hoán dụ
mắt cá cho người đọc liên tưởng dường như con muôn vàn mắt cá được phản chiếu
dưới ánh nắng mặt trời, khiến nó trở nên lung linh, huy hoàng hơn. Câu thơ vừa tả
được cái rực rỡ của ngày mới sang, vừa tả được sự trù phú, giàu có của biển cả. Đây
quả là một câu thơ hay, xuất sắc thể hiện được tài năng nghệ thuật và trường liên
tưởng độc đáo của Huy Cận.
Bức tranh thiên nhiên biển cả được tạo nên từ trường liên tưởng độc đáo, cùng bút
pháp khoa trương, phóng đại. Với việc ông vận dụng linh hoạt các biện pháp nghệ
thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ (mặt trời như hòn lửa, cá như đoàn thoi, mắt cá,…)
đã tái hiện trước mắt chúng ta bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ, tràn đầy sự sống, một
thiên nhiên giàu có và trù phú.
Qua bức tranh thiên nhiên, ta thấy được tài năng quan sát, trí tưởng tượng phong phú,
tài hoa của Huy Cận. Không chỉ vậy còn thấy được vẻ đẹp trù phú của quê hương đất
nước. Đó là sự hồi sinh của thiên nhiên sau bao năm gánh chịu nỗi đau chiến tranh.
Thiên nhiên cũng như con người mỗi ngày lại hồi sinh, làm giàu cho tổ quốc. Tác
phẩm là bài ca, ca ngợi vẻ đẹp của đất nước Việt Nam.
MỘT SỐ CÂU HỎI ÔN TẬP VĂN BẢN “CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM
XƯƠNG”
Câu 1: Nêu những nguyên nhân dẫn tới cái chết oan khuất của Vũ Nương?
a/ Nguyên nhân trực tiếp
Do lời nói ngây thơ của bé Đản. Đêm đêm, ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, Vũ
Nương thường “trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản”. Vậy nên Đản mới ngộ nhận đó là
cha mình, khi người cha thật chở về thì không chịu nhận và còn vô tình đưa ra những
thông tin khiến mẹ bị oan.
b/ Nguyên nhân gián tiếp
- Do người chồng đa nghi, hay ghen. Ngay từ đầu, Trương Sinh đã được giới thiệu là
người “đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”, lại thêm “không có học”. Đó chính
là mầm mống của bi kịch sau này khi có biến cố xảy ra. Biến cố đó là việc Trương
Sinh phải đi lính xa nhà, khi về mẹ đã mất. Mang tâm trạng buồn khổ, chàng bế đứa
con lên ba đi thăm mộ mẹ, đứa trẻ lại quấy khóc không chịu nhận cha. Lời nói ngây
thơ của đứa trẻ làm đau lòng chàng:“Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết
nói, chứ không như cha tôi trước kia, chỉ nín thin thít” Trương Sinh gạn hỏi đứa bé lại
đưa thêm những thông tin gay cấn, đáng nghi: “Có một người đàn ông đêm nào cũng
đến” (hành động lén lút che mắt thiên hạ), “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đảng ngồi cũng
ngồi” (hai người rất quấn quýt nhau), “chẳng bao giờ bế Đản cả” (người này không
muốn sự có mặt của đứa bé). Những lời nói thật thà của con đã làm thổi bùng lên ngọn
lửa ghen tuông trong lòng Trương Sinh.
- Do cách cư xử hồ đồ, thái độ phũ phàng, thô bạo của Trương Sinh. Là kẻ không có
học, lại bị ghen tuông làm cho mờ mắt, Trương Sinh không đủ bình tĩnh, sáng suốt để
phân tích những điều phi lý trong lời nói con trẻ. Con người độc đoán ấy đã vội vàng
kết luận, “đinh ninh là vợ hư”. Chàng bỏ ngoài tai tất cả những lời biện bạch, thanh
minh, thậm chí là van xin của vợ. Khi Vũ Nương hỏi ai nói thì lại giấu không kể lời
con. Ngay cả những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm cũng không thể cời bỏ oan
khuất cho Vũ Nương. Trương Sinh đã bỏ qua tất cả những cơ hội để cứu vãn tấn thảm
kịch, chỉ biết la lên cho hả giận. Trương Sinh lúc ấy không còn nghĩ đến tình nghĩa vợ
chồng, cũng chẳng quan tâm đến công lao to lớn của Vũ Nương đối với gia đình, nhất
là gia đình nhà chồng. Từ đây có thể thấy Trương Sinh là con đẻ của chế độ nam
quyền bất công, thiếu lòng tin và thiếu tình thương, ngay cả với người thân yêu nhất.
- Do cuộc hôn nhân không bình đẳng, Vũ Nương chỉ là “con nhà kẻ khó”, còn Trương
Sinh là “con nhà hào phú”. Thái độ tàn tệ, rẻ rúng của Trương Sinh đối với Vũ Nương
đã phần nào thể hiện quyền thế của người giàu đối với người nghèo trong một xã hội
mà đồng tiền đã bắt đầu làm đen bạc thói đời.
- Do lễ giáo hà khắc, phụ nữ không có quyền được nói, không có quyền được tự bảo
vệ mình. Trong lễ giáo ấy, chữ trinh là chữ quan trọng hàng đầu; người phụ nữ khi đã
bị mang tiếng thất tiết với chồng thì sẽ bị cả xã hội hắt hủi, chỉ còn một con đường
chết để tự giải thoát.
- Do chiến tranh phong kiến gây nên cảnh sinh ly và cũng góp phần dẫn đến cảnh tử
biệt. Nếu không có chiến tranh, Trương Sinh không phải đi lính thì Vũ Nương đã
không phải chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm như vậy.
Câu 2: Nêu ý nghĩa của chi tiết kỳ ảo trong tác phẩm
a/ Các chi tiết kỳ ảo trong câu chuyện:
- Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
- Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa, gặp Linh Phi, được cứu giúp; gặp lại Vũ
Nương, được sứ giả của Linh Phi rẽ đường nước đưa về dương thế.
- Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh, huyền ảo
rồi lại biến đi mất.
b/ Cách đưa các chi tiết kỳ ảo:
- Các yếu tố này được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực về địa danh, về thời điểm
lịch sử, những chi tiết thực về trang phục của các mỹ nhân, về tình cảnh nhà Vũ
Nương không người chăm sóc sau khi nàng mất… Cách thức này làm cho thế giới kỳ
ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần với cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người
đọc không cảm thấy ngỡ ngàng.
c/ Ý nghĩa của các chi tiết kỳ ảo:
- Cách kết thúc này làm nên đặc trưng của thể loại truyện truyền kỳ.
- Làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương: nặng tình, nặng nghĩa, quan
tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.
- Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện.
- Thể hiện về ước mơ, về lẽ công bằng ở cõi đời của nhân dân ta.
- Chi tiết kỳ ảo đồng thời cũng không làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ
Nương trở về mà vẫn xa cách ở giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương chia
lìa đôi ngả, hạnh phúc đã vĩnh viễn rời xa. Tác giả đưa người đọc vào giấc chiêm bao
rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh giấc mơ - giấc mơ về những người phụ nữ đức hạnh vẹn
toàn. Sương khói giải oan tan đi, chỉ còn một sự thực cay đắng: nỗi oan của người phụ
nữ không một đàn tràng nào giải nổi. Sự ân hận muộn màng của người chồng, đàn cầu
siêu của tôn giáo đều không cứu vãn được người phụ nữ. Đây là giấc mơ mà cũng là
lời cảnh tỉnh của tác giả. Nó để lại dư vị ngậm ngùi trong lòng người đọc và là bài học
thấm thía về giữ gìn hạnh phúc gia đình.
Câu 3: Phân tích ba lời thoại của Vũ Nương kể từ khi Trương Sinh hiểu lầm nàng cho
tới khi nàng tự vẫn.
- Lần 1: “ Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu được nương tựa nhà giàu.
Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm
giữ gìn mọt tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề
bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói..Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi
ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”
 Nàng phân trần để chồng hiểu rõ lòng mình. Nàng đã nói đến thân phận, tình nghĩa
vợ chồng, khẳng định tấm lòng thuỷ chung trong trắng, xin chồng đừng nghi oan, có
nghĩa là nàng hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình.
- Lần 2: “ Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã
bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết
bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đầu còn có thể lại
lên núi .Vọng Phu kia nữa”
 Nàng đã nói lên nỗi đau đớn thất vọng khi không hiểu sao mình bị nghi oan, bị đối
xử bất công. Đồng thời đó còn là sự tuyệt vọng đến cùng cực khi khao khát của cả đời
nàng vun đắp đã tan vỡ. Tình yêu không còn. Cả nỗi đau khỏ chờ chồng đến hoá đá
như trước đây cũng không còn có thể làm được nữa.
- Lần 3: “ Kể bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay
buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan
trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin
làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi
cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhố”
 Đây là lời độc thoại. Lời thoại là một lời than, một lời nguyền xin thần sông chứng
giám nỗi oan khuất và tiết hạnh trong sạch của nàng. Lời thoại đã thể hiện nỗi thất
vọng đến tột cùng, nỗi đau cùng cực của người phụ nữ phẩm giá nhưng bị nghi oan
nên tự đẩy đến chỗ tận cùng là cái chết
Câu 4: Tại sao Vũ Nương không muốn trở về với chồng con rồi lại quyết định trở về.
Trở về rồi lại không trở về . Tác giả muốn nhắn gửi điều gì ?
Vũ Nương dù khi sống hay lúc đã thác làm ma đều khát khao hạnh phúc gia đình.
Nàng vì phải chịu nỗi oan cay nghiệt mà chết . Nhưng vì lòng thanh sạch mà được
sống dưới thủy cung. Trong những ngày sống cuộc sống nơi cung nước, Vũ Nương
vẫn không quên mong nhớ dương gian và thầm mong chồng sẽ giải oan cho nàng. Vũ
Nương nhờ Phan Lang nhắn Trương Sinh lập đàn giải oan là để chính chồng nàng
chiêu tiết cho nàng, và hiểu tấm lòng chung thủy của nàng. Âm dương cách trở, nàng
chỉ hiện về trong thoáng chốc rồi biến mất. Qua chi tiết này tác giả không chỉ khắc
họa sâu sắc bi kịch của Vũ Nương mà còn khẳng định một lần nữa vẻ đẹp tâm hồn của
nàng. Lời thoại của Vũ Nương không trở về vì đã thề sống chết với đức Linh Phi còn
chứng tỏ nàng là người sống tình nghĩa, đã mắc ân với Linh Phi thì nàng sẽ ở lại trả ân
đức đó.
Câu 5: Phân tích ý nghĩa của lời thoại sau: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề
sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trờ về nhân gian được nữa.”
- Đây là lời nó cuối cùng của Vũ Nương với Trương Sinh vọng vào từ giữa dòng sông
khi chàng lập đàn giải oan cho Vũ Nương.
- Xây dựng lời thoại cuối cùng của tác phẩm, Nguyễn Dữ đã hoàn thiện vẻ đẹp tâm
hồn nhân vật Vũ Nương. Cho dù Vũ Nương không thể trở về nhân gian nhưng khát
vọng về cuộc sống nơi trần thế cũng như khát vọng trong nàng từ trước kia vẫn tha
thiết khôn nguôi.
- Câu nói còn cho thấy dù ở trong hoàn cảnh nào (cả khi bị đẩy đến chỗ phải tìm đến
cái chết) thì Vũ Nương vẫn là con người giàu ân nghĩa, thủy chung.
- Sự trân trọng ân nghĩa, thủy chung của Vũ Nương chính là sự trân trọng danh dự
phẩm giá của chính mình. Đối với nàng, điều đó quan trọng hơn cả sinh mệnh của bản
thân, nó còn thiêng liêng hơn cả khát vọng trở về nhân gian dù khát vọng ấy vô cùng
tha thiết. Đó cũng chính là lí do mà Vũ Nương không thể “Trở về nhân gian”.
- Câu nói còn là lời tố cáo nhẹ nhàng mà sâu sắc xã hội phong kiến – một xã hội đầy
bất công ngang trái, xã hội không có đất để cho những người phụ nữ như Vũ Thị Thiết
được sống.
[NGỮ VĂN 9]
VẦNG SÁNG RƯNG RƯNG...
(Về bài thơ ÁNH TRĂNG của Nguyễn Duy)
Trăng trong thơ vốn là một vẻ đẹp trong trẻo tròn đầy, đó là cái gì lãng mạn nhất trong
cuộc đời, nhất là trong hai trường hợp : khi con người ta còn ở tuổi ấu thơ hoặc rơi
vào những vùng tâm sự cần phải chia sẻ, giãi bày. Ánh trâng của Nguyễn Duy là cái
nhìn xuyên suốt cả hai thời điểm vừa nêu. Chỉ có điều, đây không phải là một cái nhìn
xuôi, bình lặng từ trước đến sau, mà là cách nhìn ngược : từ hôm nay mà nhìn lại để
thấy có cái hôm qua trong cái hôm nay. Nó không xuôi chiều, phẳng lặng nữa. Tính
chất tâm sự, đời tư có ý nghĩa như một hối hận, ăn năn tạo nên con sóng ngầm đằng
sau một câu chuyện kể. Câu chuyện kể trong thơ, cũng là một cách cấu tứ của văn
xuôi, hấp dẫn chúng ta một cách bất ngờ từ khả năng dựng cảnh. Cảnh mất điện ở
thành phố mà gặp ánh trăng tròn. Nay đã gặp xưa, trong một bối cảnh mà con người
rất khó ngoảnh mặt quay lưng như thế.
 Ba khổ thơ đầu bởi vậy mới như một hồi tưởng, hồi tưởng về cái đã quên tưởng
chừng thời gian đã xoá nhoà tất cả. Quá khứ tưởng đã quên hiện về trong hai cái mốc.
Cả hai đều xuất phát từ Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Cả một hệ thống những đồng, sông, biển gọi một vùng không gian quen thuộc của tuổi
ấu thơ, nó cứ mở rộng dần ra cùng với thời gian lớn dần lên của đứa trẻ. Nhưng cái
chính là nó diễn tả một nỗi niềm sung sướng đến hả hê được chan hoà, ngụp lặn trong
cái mát lành của quê hương như dòng sữa ngọt. Ba chữ với giàu có biết bao như một
mối ân tình. Cái thế bè đôi thật quấn quýt chia sẻ, cảm thông, dìu đỡ con người, và
đồng hay sông, rồi biển như những người bạn vô tư. ơ hai câu đầu không thấy nói đến
vầng trăng. Thì ra cái thứ ánh sáng bàng bạc lúc này nó cũng dễ nhớ, dễ quên như khí
trời hít thở. Chỉ đến khi lớn lên, cái ánh sáng mơ hồ kia mới neo đậu vào trí nhớ con
người khi phải xa cách quê hương. Vầng trăng đối với người cầm súng ở trong rừng
đã thay thế cho tất cả, cả đồng, sông, biển để trở nên một người bạn đồng hành, thành
“vầng trăng tri kỉ”. Như vậy là tuổi thơ như một chớp mắt đã qua. Cái còn lại lúc này
là vầng trăng thật đơn sơ nhưng chung thuỷ. Nó đã gieo hạt vào tâm hồn người lính và
tưởng như nó sẽ mãi mãi xanh tươi :
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa.
Đoạn thơ nếu tách khỏi toàn bài sẽ có cảm giác hụt hẫng chơi vơi. Tuy hai câu đầu là
khá hay khi nhà thơ so sánh sự ngang hàng của sự tri âm giữa hồn người với cây cỏ
(mà cây cỏ, thiên nhiên ấy chính là đồng, là sông, là biển ở khổ đầu), hai câu cuối
dường như chỉ là một lời “nói thêm”, thêm vào một cái gì đã đủ đầy, đã nặng sâu ở hai
câu trước. Nhưng sự thực, đó là chiếc cầu nối ngôn từ, vừa khép lại vừa mở ra, tạo nên
sức bật cho khổ thơ thứ ba tiếp nối:
Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện, cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường.
Hiện tượng tâm lí mà cũng là đạo lí này thường vẫn xảy ra khi nay đã khác xưa, hoàn
cảnh sống của con người thay đổi. Bởi thế, ca dao mới lên tiếng hỏi từ lâu : “Thuyền
ơi có nhớ bến chăng” ? Trong thơ Tố Hữu, nhân dân Việt Bắc ở lại cũng băn khoăn
một tâm trạng ấy khi tiễn đưa cán bộ về xuôi :
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đêm, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Những câu thơ đã cũ, nhưng tính thời sự vẫn còn, vẫn chờ đợi chúng ta những lời giải
đáp. Và quả thật trong bài thơ của Nguyễn Duy, sự giải đáp là rất đáng buồn. Câu hỏi
thì thiết tha như tiếng khèn, tiếng sáo (như trong bài Việt Bắc) mà không có hồi âm !
Thay cho ánh trăng đó là cửa gương, ánh điện. Nhưng có lẽ nào sự biến đổi về kinh tế,
về điều kiện sống tiện nghi lại kéo theo sự thay dạ đổi lòng ? Vầng trăng tình nghĩa
của ngày xưa đã không còn nguyên vẹn như xưa, thậm chí còn đáng trách hơn nhiều,
nó chỉ là người khách qua đường xa lạ bởi tình cảm con người đâu còn son sắt thuỷ
chung ? Câu thơ thật nhức nhối, xót xa, bởi sự phản bội ở đây không chỉ với lịch sử,
với thiên nhiên mà còn với chính bản thân mình nữa.
 Sự xuất hiện trở lại của vầng trăng thật đột ngột, ở vào một tâm thế không ngờ.
Sống giữa nơi phố phường, mấy ai còn nghĩ đến một vầng trăng hoài cổ :
Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn-đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn.
Vầng trăng đến thật đột ngột. Ấn tượng về sự đột ngột này ở tình thế, đã đành, còn đột
ngột ở khía cạnh chân dung của “người mới đến”, về tình thế, ánh sáng của vầng trăng
đối lập với ánh sáng, nhất là ở phía chân dung. “Vầng trăng tròn” vẫn đầy đặn, vẫn
nguyên vẹn như xưa. Nó trang trọng, nó thuỷ chung như ngày xưa. Điều quan trọng
hơn chăng là nó làm sáng lên cái góc tối ở con người, đánh thức sự ngủ quên trong
điều kiện sống của con người đã hoàn toàn khác trước ?
 Trăng lãng du và con người lãng quên đã gặp nhau trong một phút tình cờ. Con
người không còn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa. Tư thế ở
đây là tư thế đối mặt : mặt người và mặt trăng, khuôn mặt của hai linh hồn sống :
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng.
“Rưng rưng” diễn tả nỗi xúc động đến không nói được bằng lời, ngôn ngữ bây giờ là
nước mắt dưới hàng mi. Một tình cảm chừng như nén lại nhưng nó cứ trào ra đến thổn
thức, đến xót xa chính là tâm trạng ấy. Cuộc gặp gỡ không “tay bắt mặt mừng”, nó đã
lắng xuống ở độ sâu cảm nghĩ. Trăng thì vẫn vô tư, phóng khoáng, độ lượng biết bao,
như “bể”, như “rừng” mà con người thì phụ tình phụ nghĩa. Trước cái nhìn sám hối
của nhà thơ, vầng trăng một lần nữa, như gợi lên bao cái “còn” mà con người tưởng
như đã mất. Nhịp thơ hối hả, dâng trào khi trăng đã trả lại cho người tất cả. Cái quý
nhất mà nó trả lại ấy là tình người, một tình người dào dạt “như là đồng là bể – như là
sông là rừng”.
Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao. Hai gương
mặt đối diện nhau ở đây làm người đọc nhớ đến cái giây phút “Mặt nhìn mặt càng
thêm tươi” của tình yêu mới bén giữa Kim Trọng với Thuý Kiều. Nghĩa là nó lấp lánh
bao điều không dễ nói. Tuy nhiên, cái vô tư mà vầng trăng trả lại, nhà thơ chỉ dám
nhận về một nửa của sự vô tư. Nửa còn lại kia dành cho những ăn năn dại dột của sự
“vô tình” :
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
Khổ thơ kết lại bài thơ bằng hai vế đối lập mà song song. Đối lập giữa “tròn vành
vạnh” nghĩa là sự đầy đặn của vầng trăng với cái hụt vơi của kẻ “vô tình”. Đối lập
giữa cái im lặng của ánh trăng (im phăng phắc) và con người thức tỉnh. Thì ra những
bài học sâu sắc về đạo lí làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái
niệm trừu tượng xa xôi. Và sự bừng thức của con người, trong trường hợp đó không
thể nào quên, vì nó là tiếng nói bên trong, của chính lòng mình khi lương tâm mỗi
người mách bảo.
Bài thơ ngắn gọn, đơn sơ như dáng dấp một câu chuyên ngụ ngôn ít lời mà giàu hàm
nghĩa. Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của
mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta đôi khi để mất.
[NGỮ VĂN 9] ĐỒNG CHÍ & BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ: “Đồng chí” và “Tiểu đội xe
không kính”.
============= ============== I/ Mở bài
Cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh
hùng ca bất diệt. Trong những tháng năm sục sôi khí thế ấy, không biết đã có biết bao
bài thơ, câu chuyện nói về họ - những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Tiêu
biểu trong số ấy là hai bài thơ: “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tiểu đội xe không
kính” của Phạm Tiến Duật. Hình ảnh người lính trong hai bài thơ thuộc hai thế hệ
khác nhau nhưng ở họ có nhiều nét đẹp chung của người lính cách mạng và của con
người Việt Nam trong các cuộc kháng chiến cứu nước.
II.Thân bài.
1/ Họ đều là những con người bình dị, mộc mạc, thấm nhuần tinh thần yêu nước, khát
vọng độc lập tự do để đi vào cuộc chiến đấu.
Người lính trong bài thơ “Đồng chí” xuất thân từ những cảnh ngộ nghèo khó: “nước
mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Họ là những người nông dân vừa được cách
mạng giải phóng khỏi kiếp nô lệ lầm than. Bởi vậy, tình nguyện ra nhập bộ đội cầm
lấy khẩu súng của cách mạng cũng chính là cầm vũ khí để giải phóng triệt để cho thân
phận của mình, cho quần chúng và cho cả dân tộc. Vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ
quốc mà họ “mặc kệ” tất cả, sẵn sàng từ biệt làng quê với ruộng nương, nhà cửa vốn
hết sức thân thiết, gắn bó để ra đi, dấn thân vào cuộc đời người chiến sĩ:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Cũng mang trong mình tình yêu tổ quốc, khát vọng độc lập, tự do, những người lính
trong thơ Phạm Tiến Duật là những chàng trai còn rất trẻ, có tri thức, họ sẵn sàng gác
lại những ước vọng tương lai của mình để cống hiến tuổi thanh xuân theo tiếng gọi
thiêng liêng của miền Nam yêu dấu:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước.
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
2/ Nhờ có tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó bền chặt, chan hoà và nhờ lòng
dũng cảm, hiên ngang, mà họ đã bất chấp những gian khổ, thiếu thốn đến tột cùng để
hoàn thành nhiệm vụ.
Hai bài thơ đã đem đến cho ta hình ảnh thật đẹp về anh bộ đội Cụ Hồ - nhân vật trung
tâm của thời đại, thể hiện khá tập trung những đặc điểm của con người mới trong
chiến đấu. Trong thơ ca, họ không phải là anh lính thời xa “áo đỏ đuôi gà”, “chân
bước xuống thuyền nước mắt như mưa” mà là anh lính thật thà, chân thật nhưng dũng
cảm, kiên cường. Đọc bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu ta thấy hiện lên hình ảnh
chân thực mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp còn nhiều khó khăn thiếu thốn. Họ là những người nông dân nghèo khổ từ “tứ
xứ ” nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà tạm xa quê hương lên đường
chiến đấu. Họ “mặc kệ” quê nhà, gia đình, người thân và cả những gì rất đỗi thân
thuộc. Ở chiến trường, họ cùng chung mục đích, cùng chung lí tưởng chiến đấu vì độc
lập tự do của dân tộc; cùng chia sẻ gian lao thiếu thốn của cuộc sống quân ngũ để
“súng bên súng, đầu sát bên đầu...” trở thành tri kỉ và cao hơn là thành đồng chí đồng
đội kề vai sát cánh bên nhau:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Rừng hoang sương muối không chỉ là một hiện thực mà cao hơn đó là điều kiện thiên
nhiên thử thách ngửời lính. Trước hiện thực khốc liệt ấy, họ vẫn đứng vững vàng với
cây súng trong tay sẵn sàng chờ giặc. Đây là hành động sẵn sàng chiến đấu vì lí tưởng
cao đẹp, vì độc lập tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Với cây súng trong tay, các anh trở
thành linh hồn của đất nước. Chính Hữu đã tạc nên bức tượng đài về người chiến sỹ
cách mạng từ tình đồng chí. Từ những ngửời lính nông dân nghèo khổ “áo vải chân
không” được tình cảm cách mạng cao đẹp nâng bước, họ mang trong mình dáng hình
mới dáng đứng Việt Nam ở thế kỉ XX anh dũng, hiên ngang, bất khuất, kiên cường.
Sự sáng tạo của Chính Hữu là ở chỗ kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước của
thơ văn yêu nước thời kỳ trước để làm mới, làm đẹp cho hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ.
Vẫn là những anh lính Việt Nam nhưng đến bài thơ “Tiểu đội xe không kính” của
Phạm Tiến Duật, người lính lại có một thái độ, tư thế, tình cảm, khí phách mới mang
tính hiện đại của những con người không phải chờ giặc mà là “tìm giặc” để đánh,
“nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Thế hệ các anh là thế hệ của những Nguyễn Văn
Thạc, Đặng Thuỳ Trâm đã có thời mộng mơ, sôi nổi trên ghế nhà trường nay hăm hở
ra đi chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước với một lòng yêu nước rực
lửa: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Con đường Trường Sơn được coi là một con
đường huyền thoại trong cuốn sử vàng đánh Mĩ. Hàng triệu tấn bom của giặc Mĩ dội
xuống làm biến dạng chiếc xe quân sự: không kính, không đèn, không mui. Nhưng
người lính vẫn dũng cảm, can trường trong tư thế:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng „
Một tư thế ung dung tới mức ngang tàng của người lính lái xe. Một sự tự tin, niềm
kiêu hãnh của những con người rất đỗi tự hào về sứ mệnh của mình - sứ mệnh giải
phóng đất nước:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim „
Hình ảnh hoán dụ “trái tim” là biểu tượng của ý chí, của bản thân, của bầu nhiệt huyết,
của khát vọng tự do, hoà bình cháy bỏng trong trái tim người chiến sĩ. Cho dù xe
không kính, không đèn, không mui thì người lính vẫn còn một trái tim yêu nước, một
lòng khát khao giải phóng miền Nam cháy bỏng. Phạm Tiến Duật mang theo cái nhìn
của tuổi trẻ Việt Nam anh hùng, của những người lính Trường Sơn đã tạo dựng bức
tượng đài người lính với nét ngang tàng, dũng cảm tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng
cách mạng.
Trên trận tuyến gay go ác liệt, các anh phải cùng chịu biết bao khó khăn gian khổ,
thiếu thốn. Nhưng có lẽ, trên chính sự đồng cam cộng khổ ấy đã khiến tình cảm giữa
các anh trở nên gắn bó bền chặt hơn. Thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô
cùng gian nan vất vả, các anh đã từng chịu những cơn “sốt run người vầng trán ướt mồ
hôi”, cùng cảnh “áo rách vai, quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không giầy”… Cũng
chính từ trong gian khổ và thiếu thốn của những ngày đầu tiên bước vào quân ngũ ấy
đã nẩy sinh ở họ mối tình cao đẹp – tình đồng chí! Và chính có tình đồng chí, đồng
đội gắn bó keo sơn, chia bùi sẻ ngọt mà họ có đủ sức mạnh lớn lao để vượt qua tất cả.
Đẹp làm sao giữa đêm rừng hoang đầy sương muối, ở nơi mà sự sống và cái chết chỉ
trong gang tấc, những người chiến sĩ vẫn ôm súng đứng canh gác quân thù trong đêm
trăng sáng. Các anh vẫn chiến đấu và vẫn cứ tin có ngày chiến thắng. Ta thấy được ở
các anh một tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường, một niềm lạc quan bất diệt.
Đời lính gian khổ nhưng luôn giữ mãi nụ cười dẫu cho có cận kề cái chết. “Đầu súng
trăng treo”, một biểu tượng đẹp của hình ảnh người lính, biểu tượng cao quý của mối
tình đồng chí đã khắc sâu trong tâm trí mọi người. Cái tình mới nhất đó là tình đồng
chí, đồng đội. Và đồng chí cũng là một chủ đề hết sức mới mẻ của thi ca lúc bấy giờ.
Nhà thơ Chính Hữu đã phát hiện tình cảm mới, quan hệ mới giữa người với người
trong cách mạng và kháng chiến qua những vần thơ bay bổng nhưng giàu chất hiện
thực - Đồng chí. Theo lí giải của nhà thơ, điểm xuất phát của tình cảm này là từ sự
giống nhau ở cảnh ngộ, xuất thân nghèo khổ và cùng chung lí tưởng, mục đích, nhiệm
vụ:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành tri kỉ”
Một chữ “chung” khiến những người lính vốn xa lạ lại trở thành “Đồng chí”. Tình
cảm này không phải chỉ vì cái chung lớn lao mà còn là sự cảm thông sâu xa tâm tư nỗi
lòng của nhau, là sự chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời cách mạng:
“Anh với tôi từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
áo anh rách vai
Quần tôi có mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay „
Mở đầu bài thơ là hình ảnh „Anh với tôi đôi người xa lạ“ nhưng kết thúc lại là
„Thương nhau tay nắm lấy bàn tay“. Một hình ảnh giàu cảm xúc, một biểu tượng đẹp
đẽ của tình đồng chí đích thực, của sức mạnh đoàn kết. Chính tình đồng chí sâu nặng,
thắm thiết đã gắn bó những người lính cách mạng. Sức mạnh của tình đồng chí đã
giúp họ đứng vững bên nhau vượt lên tất cả những điều khắc nghiệt của thời tiết và
mọi gian khổ để đi tới thắng lợi cuối cùng. Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ Tây
Tiến cũng cho ta thấy rõ điều đó:
“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Chính điều đó đã giúp ta hiểu được sự quyết tâm của người lính và ta thêm cảm phục
sự hi sinh ấy hơn. Tấm lòng của các anh thật cao đẹp và lớn lao biết chừng nào! Đó
cũng là hình ảnh chung của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp -
những con người bình dị mà cũng thật anh dũng, hiên ngang.
Cuộc kháng chiến chống Pháp đã giành được thắng lợi vẻ vang với trận Điện Biên
Phủ lẫy lừng. Đất nước vẫn chưa được bình yên, cả Miền Nam lại chìm vào máu lửa
và những người con của quê hương lại tiếp tục lên đường. Những anh chiến sĩ lái xe
trên tuyến đường Trường Sơn hiện lên trong trang thơ của Phạm Tiến Duật là những
anh lính thật ngang tàng, yêu đời, dũng cảm, hóm hỉnh. Từng giây, từng phút, các anh
phải đối mặt với nhiều gian khổ và sự ác liệt, dữ dội của bom đạn quân thù hằng ngày
trút xuống con đường và nhằm vào những chiếc xe của họ. Những gian khổ và ác liệt
hiện hình trong hình ảnh những chiếc xe không kính rồi không cả đèn, cả mui xe,
thùng xe có xước, méo mó. Gian khổ tưởng chừng như không thể vượt qua được, cái
chết như kề bên, vậy mà lúc nào các anh cũng “ung dung buồng lái ta ngồi. Nhìn đất
nhìn trời nhìn thẳng”.
Mở đường Trường Sơn để xe tăng tiến vào phía Nam thực hiện chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử là giai đoạn gay go nhất, ác liệt nhất và cũng hào hùng nhất. Có lẽ chỉ có
những chàng trai tuổi trẻ ngạo nghễ ngang tàng kia mới có sức thực hiện nhiệm vụ
thiêng liêng cao cả này. Những chiếc xe tưởng chừng như không thể sử dụng được
vậy mà nó vẫn tiến lên phía trước bởi có những nụ cười rất ngang tàng, rất nghịch
ngợm của những anh lái xe rất phớt đời:
“Không có kính, ừ thì có bụi.
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…
Bằng sự đồng cảm của một người lính và cảm xúc của một nhà thơ, Phạm Tiến Duật
đã xây dựng nên hình ảnh những chiến sĩ lái xe thật hào hùng, thật tếu táo. Cái cử chỉ:
“phì phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha ha” như một lời thách thức của họ đối
với quân thù. Trong khó khăn, trong bom đạn, ranh giới sự sống và cái chết chỉ là rất
mong manh, ng¬ười lính thấu hiểu sâu sắc giá trị đích thực của sự sống và ý nghĩa cao
đẹp của tình đồng chí đồng đội:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đ¬ường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”
Đó là một cái bắt tay rất độc đáo qua cửa kính vỡ rồi. Qua ô cửa kính vỡ, họ truyền
hơi ấm cho nhau và cho nhau những hứa hẹn lập công. Cái bắt tay nồng ấm tình bạn,
tình người hay chính là sự sống đang nở hoa trong sự huỷ diệt của kẻ thù. Có thể nói
rằng tình đồng chí, đồng đội là bản chất, là sức mạnh của người lính. Từ cái nắm lấy
bàn tay trong thơ Chính Hữu đến cái bắt tay trong thơ Phạm Tiến Duật là cả một quá
trình trưởng thành và hiện đại của quân đội ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc,
đất nước. Đó là sức mạnh thứ nhất, còn sức mạnh nào nữa khiến cho những chiếc xe
ấy vẫn băng băng lên phía trước? Tác giả đã trả lời một cách mạnh mẽ và dứt khoát,
trong những chiếc xe không kính có những trái tim yêu nước, luôn hướng về Miền
Nam phía trước với là khát vọng cháy bỏng là giải phóng Miền Nam, thống nhất đất
nước:
“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
3/Qua hình ảnh anh chiến sĩ Trường Sơn, chúng ta chợt nhận ra sự gần gũi, thân quen
giữa những người lính qua các thời kì. Từ anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống
Pháp trong thơ Chính Hữu đến anh chiến sĩ Trường Sơn thời chống Mĩ trong thơ PTD
đều có chung một nét đẹp truyền thống đó là sự kiên cường, bất khuất, dũng cảm và
đầy tinh thần lạc quan yêu đời. Với điều kiện thuận lợi hơn, người lính thời chống Mĩ
đã được trau rèn, huấn luyện. Các anh đã kế thừa và phát huy được tinh thần cách
mạng vốn đã vững vàng nay lại vững vàng hơn nữa.
- Tuy cùng khai thác chất liệu thơ từ đời sống thực với những chi tiết thật đến trần trụi
của cuộc sống người lính nhưng hai bài thơ còn khác nhau bởi bút pháp và giọng điệu
riêng của mỗi tác giả và cảm hứng nổi bật ở mỗi bài. Cảm hứng của Chính Hữu hướng
vào vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội của người lính, còn Phạm Tiến Duật thì lại tập
trung làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng, tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn và
bom đạn kẻ thù của những người lính lái xe.
III . Kết bài:
Nhìn lại những chặng đường lịch sử đã đi qua, đọc lại hai bài thơ về người lính qua
hai thời kì, trong ta bỗng dấy lên niềm xúc động lẫn tự hào. Hình ảnh những người
lính ấy trở nên bất tử và đẹp rực rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ dày những trang sách
và những đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những anh
lính cụ Hồ, anh giải phóng quân đến các anh chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong
lòng mọi người với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ.
[NGỮ VĂN 9] TRUYỆN KIỀU - NGUYỄN DU
ĐOẠN TRÍCH "KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH"
Nửa tình, nửa cảnh...
Trích đoạn chia làm ba phần rõ rệt, nhất quán trong phong cách ngôn từ, và thi pháp tả
tình, tả cảnh. Cho nên nếu cho rằng chỉ ở phần thứ ba, nghệ thuật biểu hiện mới là tả
tình qua tả cảnh thì tuy có đúng nhưng không đủ, nhất là không thấy được tính nhất
quán của Nguyễn Du. Để đảm bảo tính ổn định khách quan này, nên chăng cần một
cách đặt tên :
Nỗi buồn hiện tại;
Lòng thương nhớ người thân ;
Tương lai vô vọng và vô định của kiếp người ?
Cả ba phần tuy có hướng đến những khía cạnh khác nhau, song đều quy tụ vào “cái
tôi” chủ thể : nàng Kiều. “Cái tôi” ở đây là “cái tôi” tâm trạng.
Trước hết, ở sáu câu thơ đầu của bài thơ, tâm trạng của Kiều là một nỗi niềm khắc
khoải triền miên trong nỗi buồn vô hạn. Nhưng buồn như thế nào, nếu phải cụ thể hơn,
thì có đến hai quan điểm. Cách nhìn nhận thứ nhất cho rằng cả sáu câu đầu gợi tả hoàn
cảnh cô đơn với những căn cứ ngôn từ có trong văn bản, chẳng hạn như : “khoá xuân”
thực chất là bị ‘giam lỏng, nàng trơ trọi giữa không gian mênh mông hoang vắng
(mênh mang trời nước, dãy núi mờ xa, cồn cát bụi mù, không một bóng người), Kiều
sống trong một thời gian tuần hoàn khép kín (mây sớm đèn khuya, V.V.). Cách hiểu
ấy rõ ràng là có cơ sở nhưng dường như đã bỏ quên (hay là bỏ qua?) hai câu thơ vô
cùng quan trọng là :
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh, như chia tấm lòng.
ở câu lục, ý kiến nhận xét trên không đả động gì đến hai chữ “bẽ bàng” còn ở câu bát
hoàn toàn không được nhắc tới. Bởi vậy chúng tôi cho rằng, nên hiểu đoạn thơ theo
cách thứ hai. Cách hiểu này lấy hai câu dẫn làm căn cứ mới có khả năng phát hiện
được tâm trạng đích thực của nhân vật nàng Kiều. Trong cách hiểu này, ta phải tách
đôi câu sáu :
Bẽ bàng / mây sớm đèn khuya
Đây là một câu thơ hai đối tượng : “bẽ bàng” thuộc về Thuý Kiều còn “mây sớm đèn
khuya” thuộc về thiên nhiên. Soi vào thiên nhiên, Kiều nhận ra một thứ chân dung
biến dạng của bản thân mình. Thiên nhiên ấy là gì, “mây sớm” thì tinh khôi, trong
sạch, “đèn khuya”, phải chăng chính là lương tâm ? Sự trong sạch “mây sớm” gợi cái
tương phản nhớp nhơ, còn “đèn khuya” gợi sự giày vò của chính con người đau khổ
ấy. Cái nhìn phản cảm này không phải bây giờ mới có. Ngay lần gặp Mã Giám Sinh,
tên lừa đảo buôn người, Thuý Kiều đã vô cùng ngượng ngập :
Ngại ngùng dợn gió e sương,
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày
Bởi đây là hai thế giới khác hẳn nhau, hai hạng người khác nhau mà Kiều phải nhắm
mắt đưa chân làm con mồi cho chúng. Nhưng lần này thì khác. Cái xấu không còn ở
đối phương, nó đã thuộc về chính mình, một con người đã có một thời không phải thế,
một thời phong nhuỵ màn che, trướng rủ. Bởi thế mới dẫn đến “bẽ bàng”. “Bẽ bàng”
là sự tủi, thẹn cho chính người đang có nó. Bởi nó đang hiện diện nơi nàng nên mới có
sự phân đôi : một tấm lòng chia làm hai nửa : nửa tình, nửa cảnh. Tinh và cảnh ở trong
văn chương trung đại dường như đồng hành, một tiếng hát bè đôi theo nguyên tắc
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nhưng ở đây một nghịch lí xuất hiện phá vỡ
nguyên tắc chủ quan hoá khách quan. Sự vò xé trong tâm trạng bởi không đổng hoá
được giữa khách thể và chủ thể này đã làm giàu thêm yếu tố hiện thực ở trong thơ.
Cảnh rất đẹp, rất trong, đầy ắp tiềm năng cho thi hứng, nhưng đối diện với nó, một
hồn thơ không thể cất bút làm thơ như những lần trước đó và sau này. Tâm hồn ấy bị
trọng thương. Con chim nhìn bầu trời thèm khát không còn đủ sức bay lên. Nó đã bị
mũi tên nhằm trúng đích.
Từ đó ta mới thấy bốn câu mở đầu là một bức hoạ. Bức tranh trời như dệt gấm thêu
hoa, ẩn hiện với “Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”. Ở câu thơ này còn có cái bất ngờ
của cảm giác lạ. Khoảng xa, độ gần về vật lí, do nhân biết bằng tâm lí mà chúng đổi
chỗ cho nhau. Trăng vốn xa bỗng chốc nên gần (tấm trăng gần) và ngược lại cái xa lại
thuộc về núi.
Câu thơ mờ tỏ “Sen vàng lãng đãng như gần như xa”. Hai cảm giác thực và mộng đan
gài vào nhau như hiện ra từ một giấc chiêm bao. Có người hiểu
(1) Có bản chép là “Ngại ngùng gợn gió e sương – Xem hoa bóng thẹn trông gương
mặt dày”.câu thơ đó tiếp nối với hai câu sau tạo thành một sự bủa vây, tạo nên sự rợn
ngợp trong tâm trạng của người nhìn cảnh là chưa đúng. Bởi nếu thế thì ở đoạn Kiều ở
lầu Ngưng Bích có đến hai lớp bao vây : một của Tú Bà (khoá xuân), một là của thiên
nhiên vô tội (?). Mà làm sao có thể hiểu hai câu thơ rất đẹp rất thơ là sự bủa vây :
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
“Xa trông” là trông thêm một tầm của mắt, rộng hơn, thoáng đãng hơn, thấy những
dặm đường, cồn cát. Chúng chỉ là những chi tiết đời thường rất dễ bị lãng quên, nhưng
cát ở đó là “cát vàng” bụi đường quẩn lên là “bụi hồng”, bụi đỏ, thì đâu còn cái vô giá
trị, cái tẻ nhạt ? Nó đã nên thơ. Đúng ra là cuộc sống bình thường có chất thơ riêng
của nó, khi con người không bị áp bức, không rơi vào cảnh ngộ đường cùng (mà Kiều
lúc này đây đang trải nghiệm). Bởi thế cái đẹp thuộc về “nửa cảnh”, còn đối lập với
cái đẹp thuộc phía “nửa tình”. Câu thơ và cả đoạn thơ (sáu câu) mới bề bộn ngổn
ngang, giằng xé. Chỉ có điều bề bộn mà vẫn như không. Cái “động” ở đáy sâu chứ
không phải nổi trên bề mặt nước tĩnh tại, yên bình. Những cặp câu thơ lục bát rất nhịp
nhàng đăng đối vừa diễn tả cái lặng lẽ bên ngoài, vừa rất nên thơ. Phép đối trong câu,
hoặc trong một vế câu rất dụng công của tác giả đã nâng tầm cái thực lên thành cái
đẹp mà không đẽo gọt, cầu kì, rất dung dị, tự nhiên.
Với phần hai của đoạn trích gồm tám câu tiếp theo diễn tả lòng thương nhớ người thân
của Thuý Kiều, đặc sắc nghệ thuật ở đây là ngôn ngữ nội tâm độc thoại. Tất cả là nội
tâm, là độc thoại. Vấn đề là cách độc thoại khác nhau chứ không hẳn là phần có, phần
không một cách rõ ràng tách bạch. Vậy nên chăng định hướng cho phần này chỉ đi vào
nỗi nhớ người thân. Cái khó ở đây chưa phải là cái khó của việc khai thác hình tượng,
ngôn ngữ mà là ở ý thơ và giọng điệu. Về ý thơ có hai câu chưa rõ nói về ai:
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
“Tấm son”, theo cách hiểu thứ nhất thuộc về Thuý Kiều. Có thể đó là tấm lòng nhớ
thương Kim Trọng không bao giờ nguôi quên, hoặc cũng có thể là tấm lòng trong
trắng của Kiều bị dập vùi hoen ố biết bao giờ gột rửa. Chúng tôi xin đề xuất một cách
hiểu thứ hai: “tấm son” ấy thuộc về Kim Trọng với ba lí do.
Xét về hình tượng thơ, phần này nói về Kim Trọng, lòng thương nhớ Kim Trọng của
nàng Kiều. Vậy nó phải nhất quán, chứ không phải hai câu trước nói về Kim Trọng rồi
hai câu sau nói đến Thuý Kiều. Chỉ có nền tảng cảm xúc nhớ thương là của nàng
Kiều, để từ đó mà chỉ một nhân vật Kim Trọng hiện lên duy nhất. Nếu so sánh phần
nói về cha mẹ (bốn câu tiếp theo) ta thấy mạch thơ, hình tượng thơ vẫn là như thế.
Nếu cho rằng “tấm son” là của Thuý Kiều thì hai câu thơ đó sẽ rơi vào tình trạng non
tay, lạc phong cách, và điều này không thể chấp nhận được ở Nguyễn Du.
“Tấm son” có liên quan đến khái niệm chân trời góc bể (“Bên trời góc bể bơ vơ”). Ai
trong số hai người đang lạc loài nơi ấy ? Là Thuý Kiều thì điều này ai cũng hiểu.
Nhưng sao không thể hiểu người ấy là Kim Trọng, bởi vì yêu nhau mà phải xa nhau
thì người nọ cũng xem người kia là góc bể, chân mây nghĩa là một độ xa mà người ta
không đo được (về tâm lí chứ không phải về địa lí). Vì trên đời này, ai có thể đến nơi
tận cùng vô định bằng nỗi nhớ thương ?
Điều đáng kể hơn cả, “tấm son” là lòng chung thuỷ sắt son, trong tình yêu, nó dành cả
cho hai người, về phía Thuý Kiều, nó còn đâu nguyên vẹn nữa nếu hiểu theo cách
thông thường (khác với sau này khi Kim – Kiều gặp lại “Như nàng lấy hiếu làm
trinh”). Một con người tự trọng như Kiều làm sao còn nhận mình là kẻ vẫn giữ được
“tấm son” trong cảnh ngộ buộc phải làm vợ kẻ khác ? Và ngược lại, về phía chàng
Kim, Kiều biết chàng vẫn chung tình dù đang ở góc bể chân mây. Ân hận của nàng
Kiều là mình không còn xứng đáng với chàng. Vậy chỉ còn một cách làm sao cho
“tấm son” ấy ở chàng Kim phai nhạt đi, đừng đinh ninh chờ đợi và Kiều lại thêm một
lần mang tội. Hiểu như thế câu thơ không những nhất quán, liền mạch mà còn giàu ý
nghĩa biết bao.
Bốn câu thơ nói về cha mẹ không có gì đặc biệt với cách nói ước lệ, sách vở rất quen
thuộc về đạo hiếu thời xưa. Có chăng theo cách nói của người khác như thế, nhưng
tâm trạng thổn thức là của riêng nàng, nó mới xót xa, thấm thìa đến rưng rưng. Thành
công của Nguyễn Du là làm mới lại một cái gì tưởng như đã cũ.
Tám câu thơ cuối là những cảm nhận phù du về tương lai vô vọng và vô định, vô
nghĩa của kiếp người. Điều này không phải ngẫu nhiên.Vì bản thân đang là con mồi
cho tạo hoá dập vùi. Vì lòng thương (với Kim Trọng và cha mẹ) của nàng bất lực.
Cuộc đời đó đối với nàng còn có nghĩa gì đâu. Cảnh ớ đây hoàn toàn khác so với cảnh
đầu, không phải mây sớm trăng khuya, núi đồi, gò đống mà là cảnh biển, một mặt biển
mênh mông đúng vào lúc chiều buông “mặt trời gác núi”. Còn cái khác thứ hai là ở
trạng thái xúc cảm. Có đến bốn cụm từ “buồn trông” đặt ở đầu câu mở ra bốn cặp câu
lục bát như mở ra một nỗi buồn chất chứa tầng tầng lớp lớp lâu nay nén chặt trong
lòng. Đây là lúc nàng được giãi bày với trời, với biển. Vậy tâm trạng ấy là tâm trạng
gì ? Tâm trạng ấy bây giờ đồng hành cùng cảnh vật, với ngọn nước, cánh buồm, bông
hoa, ngọn cỏ, v.v. Ngọn nước là “ngọn nước mới sa” nó đục chứ không trong (“Đục
như tiếng suối mới sa nửa vời”), cánh buồm như một ảo ảnh gợi sự chia li, bông hoa
trôi dạt, ngọn cỏ rầu rầu không còn sức sống tựa như ngọn cỏ trên mộ Đạm Tiên.
Những cảnh ấy gõ cửa và tâm hồn Kiều mở ra, đồng điệu. Để từ đó có sự hoà thanh,
hoà âm về nỗi bất hạnh của con người. Những câu thơ này không chỉ có cảnh, có tình,
nó còn mang một hàm ý triết học trong sự giải đáp cho kiếp người, ở nơi “trăm năm
trong cõi”.
BÌNH GIẢNG VĂN 9
[NGỮ VĂN 9] CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
Phân tích lời thoại của Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương"
=============== ================
1/ Mở bài
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Nhà thơ Nguyễn Du đã viết lời tổng kết về thân phận “đàn bà” trong xã hội cũ bằng
những vần thơ xiết bao đau đớn. Hồng nhan bạc mệnh dường như là bản án chung cho
tất cả những người phụ nữ trong xã hội phong kiến . Cũng viết về thân phận người
phụ nữ trong xã hội nam quyền phong kiến cổ hủ, bất công, “ Chuyện người con gái
Nam Xương” trích trong tập truyện “ Truyền kì mạn lục” của tác giả Nguyễn Dữ đã
để lại trong lòng người đọc nỗi niềm cảm thương sâu sắc. Và có lẽ cảm động nhất là
những lời thoại chứa chan cảm xúc của Vũ Nương, lấy đi rất nhiều những giọt nước
mắt cảm thông xót xa của người đọc.
2. Thân bài
a. Khái quát chung về tác phẩm
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong số 20 truyện trích trong “Truyền
kì mạn lục”, áng văn được người đời đánh giá là “thiên cổ kì bút”- cây bút kì diệu
truyền tới ngàn đời. Truyện được viết từ cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, nhưng
với ngòi bút tài năng của mình, Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên “Chuyện người con gái
Nam Xương” rất riêng, giàu giá trị và ý nghĩa.
Vũ Nương là đại diện cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam dưới chế
độ phong kiến. Không như Nguyễn Du miêu tả thật tinh tế nét đẹp “nghiêng nước
nghiêng thành” của Thúy Kiều, Vũ Nương được giới thiệu là người con gái đẹp
người, đẹp nết có tư dung tốt đẹp, một người phụ nữ đảm đang tháo vát, yêu thương
chồng con hết mực, một người con dâu hiếu thảo… Vì là người cùng làng, nhận thấy
Vũ Nương có những phẩm chất tốt đẹp nên Trương Sinh đã xin mẹ 100 lạng vàng
cưới Vũ Nương làm vợ. Trương Sinh vốn là người chồng đa nghi, ít học, khi binh đao
loạn lạc,Trương Sinh phải ra trận để Vũ Nương ở nhà trong nỗi đau đáu nhớ thương
và nỗi oan khuất không gì cứu vãn được. Vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương đã
được khắc họa sinh động qua những lời thoại của nàng.
a. Lời thoại 1:
Ngày tiễn chồng ra trận, nàng đã dặn rằng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng mong
đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được
hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Từng lời, từng chữ nàng thốt ra thấm đẫm tình nghĩa
vợ chồng thủy chung, son sắt, khiến “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. Phận làm vợ, ai
chẳng mong chồng mình được phong chức tước, áo gấm về làng. Còn nàng thì không.
Nàng chỉ ước ao giản dị rằng chàng Trương trở về được bình yên để có thể sum họp,
đoàn tụ gia đình, hạnh phúc ấm êm như ngày nào. Lời thoại cũng thể hiện nỗi nhớ
nhung khắc khoải của người vợ yêu chồng, nhìn đâu cũng nhớ, cũng tưởng tượng đến
chồng. Đây cũng chính là lời nói của người vợ thùy mị nết na, dịu dàng và rất yêu
chồng. Lời dặn dò ấy xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương biết chấp nhận tất cả,
biết đợi chờ để yên lòng người đi xa đồng thời còn giúp ta cảm nhận được khát khao
bình dị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đó là có một gia đình hạnh phúc, êm
ấm. Thế nhưng mong ước của nàng đã không thực hiện được.
b/ Lời thoại thứ 2
Bị chồng một mực nghi oan, Vũ Nương tìm mọi lời lẽ để chứng minh sự trong sạch
của mình. Nàng vẫn đoan trang, đúng mực, chỉ nhẹ nhàng giải thích: “Thiếp vốn con
kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động
việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng,
ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói, dám
xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Xin chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Lời
thoại của nàng luôn từ tốn, nhẹ nhàng, chất chứa nghĩa tình, để lại một ấn tượng khó
phai trong lòng người đọc bởi vẻ từ tốn, tế nhị của nàng. Và cũng từ những câu nói ấy,
chúng ta cảm nhận được sự hy sinh vô bờ của nàng vì chồng con, gia đình. Khi chồng
ra trận, cả giang san nhà chồng trĩu nặng trên đôi vai gầy guộc, mỏng manh của nàng.
Nàng phải sinh con một mình giữa nỗi cô đơn lạnh lẽo, thiếu sự vỗ về, an ủi của người
chồng. Thật là một thử thách quá khó khăn với một người phụ nữ chân yếu tay mềm.
Nhưng nàng vẫn vượt qua tất cả, một mình vò võ nuôi con khôn lớn, đợi chồng về.
Lời thoại trên cũng là một lời giải thích cho sự hiểu nhầm tai hại của Trương Sinh: “
Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”, nàng hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia
đình, nàng cố tình phân trần để chồng hiểu rõ lòng mình.
c/ Lời thoại thứ 3
Nhưng Trương Sinh không nghe nàng phân trần, không cho nàng cơ hội minh oan,
nàng bất đắc dĩ phải nói lên nỗi đau đớn thất vọng của mình: “ Thiếp sở dĩ nương tựa
vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh
mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân
cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đầu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Lời
thoại Vũ Nương đã nói lên nỗi đau đớn thất vọng khi không hiểu sao mình bị nghi
oan, bị đối xử bất công. Đồng thời đó còn là sự tuyệt vọng đến cùng cực khi khao khát
của cả đời nàng vun đắp đã tan vỡ. Tình yêu không còn. Cả nỗi đau khổ chờ chồng
đến hoá đá như trước đây cũng không còn có thể làm được nữa. Sự chối bỏ của người
chồng chính là nỗi bất hạnh lớn nhất của người phụ nữ. Sự chối bỏ ấy minh chứng cho
tất cả, sự không tin tưởng, không yêu thương vợ. Và còn gì đau xót hơn nỗi bất hạnh
ấy đối với một người phụ nữ dành cả cuộc đời chăm lo cho chồng con cũng như cả gia
đình nhà chồng. Lễ giáo phong kiến với những hủ tục bất công đã khiến người phụ nữ
không được coi trọng trong xã hội, đến hạnh phúc cá nhân cũng không được tự do lựa
chọn. Sự bất công trong xã hội phong kiến còn được thể hiện ở sự độc đoán của người
chồng, toàn quyền quyết định mọi việc trong nhà, nghi oan cho vợ nhưng lại không
nói thẳng cho vợ, cũng không nghe vợ thanh minh mà cứ vậy đánh đập rồi đuổi vợ đi.
Trương Sinh khăng khăng lên án Vũ Nương mà không chịu nghe nàng minh oan lấy
một lời. Thái độ khinh bỉ, lời nói nhục mạ và hành động tàn bạo của Trương Sinh
khiến nàng phải tìm đến cái chết. Uất ức, tủi nhục, Vũ Nương đã chọn cái chết để
khẳng định phẩm giá trong sạch của mình.
d. Lời thoại thứ 4
Trước khi chết, nàng nguyện: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy
bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám.
Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương,
xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới
xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người
phỉ nhổ”. Sau cùng, Vũ Nương đã trẫm mình xuống sông tự tử, hành động quyết liệt
này thể hiện mong muốn gìn giữ nhân phẩm, đức hạnh và danh dự của người phụ nữ.
Lời thoại là một lời than, một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và
tiết hạnh trong sạch của nàng. Lời thoại đã thể hiện nỗi thất vọng đến tột cùng, nỗi đau
cùng cực của người phụ nữ phẩm giá nhưng bị nghi oan nên tự đẩy đến chỗ tận cùng
là cái chết. Những lời nói cuối cùng của nàng thâu tóm tất cả những ngang trái của
một đời phụ nữ: công lao nuôi con, chờ chồng thành vô ích; hạnh phúc gia đình (thú
vui nghi gia nghi thất) tan vỡ, tình cảm vợ chồng không còn (bình rơi trâm gãy, mây
tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió), cả nỗi đau khổ chờ chồng đến thành
hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa. Nàng có thể hi sinh tất cả,
chịu nhường nhịn vì chồng vì con chứ thà chết không mang nỗi nhục này. Nàng chết
đi để lương tâm thanh thản, để bản thân trong sạch để không phải hổ thẹn với lòng với
người. Những người phụ nữ nhỏ bé, không thể làm chủ cuộc sống của mình mà phải
chịu biết bao phong ba bão táp, phó mặc cuộc đời của mình cho người khác. Chi tiết
Vũ Nương gieo mình xuống bến sông Hoàng Giang là hình ảnh có sức ám ảnh lớn,
khiến cho người đời mãi mãi xót xa về tấm bi kịch đẫm đầy nước mắt của người phụ
nữ tốt đẹp nhưng chịu nhiều oan ức, là tấn bi kịch cái đẹp bị chà đạp, bị rẻ rúng, bị vùi
dập không thương tiếc, là bản án đanh thép tố cáo bộ mặt tàn bạo, bất nhân của xã hội
phong kiến đương thời. Để cho Vũ Nương tìm đến cái chết là tìm đến giải pháp tiêu
cực nhất. Nhưng dường như đó là cách thoát khỏi tình cảnh duy nhất của nàng. Đó
cũng là cách duy nhất của nhà văn có thể lựa chọn. Hành động trẫm mình tự vẫn của
nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Bởi đối với nàng, phẩm
giá còn cao hơn cả sự sống.
e. Khái quát:
Qua câu chuyện từ nhiều thế kỉ trước, bằng năng lực sáng tạo của mình, Nguyễn Dữ
đã xây dựng nhân vật có chiều sâu hơn, các chi tiết kì ảo được mô tả vừa lung linh vừa
hiện thực tạo nên vẻ đẹp riêng của tác phẩm. Vũ Nương là người phụ nữ thủy chung,
đức hạnh vẹn toàn mà vô cùng bất hạnh. Tác phẩm là lời tố cáo hiện thực xã hội
phong kiến đương thời, nêu bật thân phận, nỗi đau của người phụ nữ trong bi kịch gia
đình.
3. Kết bài
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một áng văn hay - tiêu biểu
cho thể loại truyền kỳ và được người đời đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”. Những lời
thoại của Vũ Nương đã cho ta cảm nhận được số phận bi đát của người phụ nữ trong
xã hội phong kiến, thấy được vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của họ. Qua câu chuyện về
cuộc đời và số phận oan khuất của Vũ Nương, người đọc càng thấu hiểu và cảm
thương cho thân phận nhỏ bé, tội nghiệp, nhiều bi kịch của người phụ nữ trong xã hội
cũ đồng thời thêm trân trọng cuộc sống hiện đại khi mà người phụ nữ đã có được sự
bình đẳng, được yêu thương và tôn vinh.
[NGỮ VĂN 9] ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
THIÊN NHIÊN - VŨ TRỤ - CON NGƯỜI LAO ĐỘNG
Trước đây nửa thế kỉ, khi mới cầm bút, nhà thơ Huy Cận trình làng bài Tràng giang
với khổ thơ đầu rất đặc sắc:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Giữa cái mênh mông, rộng dài của sông nước, con thuyền và cành củi khô – biểu
tượng cho kiếp sống con người – trôi xuôi, bơ vơ, vô định. Trước cái bơ vơ, vô định
ấy, thi sĩ đã bâng khuâng thương mình, thương người, muốn chia sẻ tấm lòng “sầu
trăm ngả” tới bạn đọc. Từ đó trở đi, hình tượng thơ : “vũ trụ” và “con người” trở thành
một nét riêng trong thi pháp thơ Huy Cận. Đến năm 1958, nét riêng ấy lại hiện lên thật
rõ ràng trong bài Đoàn thuyền đánh cá. Hình ảnh : vũ trụ (mặt trời, biển cả, gió khơi,
trăng sao) và con người (đoàn ngư dân ra khơi đánh cá) song hành, lung linh rực rỡ từ
chữ đầu đến chữ cuối bài thơ, theo hành trình một chuyến đánh cá ban đêm của đoàn
ngư dân. Cảm hứng của nhà thơ về thiên nhiên vũ trụ và về người lao động luôn hài
hoà theo ba nhịp.
Khúc ca khởi hành được cất lên ở hai câu thơ đầu :
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Biển hoàng hôn – mặt trời lặn, như “hòn lửa” bị nhúng nước. Sóng cồn lên, cài chặt
then, nhốt ánh sáng bằng một động tác “sập cửa” mau lẹ. Đêm bao trùm. Vũ trụ đẹp
một vẻ đẹp huyền bí, mênh mang đầy thách thức. Vây mà con người – những ngư dân
– không ngại ngần, e sợ. Xưa kia, khi đất nước chìm đắm trong bóng đen quân xâm
lược, con người thường rợn ngợp, hãi hùng trước cái bao la rộng lớn của vũ trụ. Ngày
nay đất nước được giải phóng, con người được làm chủ, thì vũ trụ, thiên nhiên trở
thành nơi đi tới để thử thách, để khai phá:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn ngư dân ào xuống, đẩy
thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát khởi hành. Nhà thơ không ghi âm mà dùng nhịp
điệu, tiết tấu của ngữ âm và miêu tả, miêu tả bằng ẩn dụ : “Câu hát căng buồm…”,
nên người đọc nghe vang vẳng những tiếng hát, và thấm thìa, hoà đồng khúc ca thả
lưới, lùa cá, đánh cá ngân vang, nối tiếp ở bốn khổ thơ sau…
Niềm vui và quyết tâm tràn ngập không gian, vũ trụ, đánh thức tất cả. Họ gọi cá như
bạn bè gọi nhau : “Cá nhụ cá chim cùng cá đé…”. Họ gọi biển, tiếng gọi trìu mến của
con gọi mẹ. Rồi họ gõ thuyền, thả lưới, kéo lưới,… Những cánh tay săn chắc cuồn
cuộn sức người, sôi nổi hào hứng như trong một trận chiến đấu vậy. Gió khơi, biển cả
nhất là trăng sao – những vừng sáng thay thế mặt trời – tất cả đã hiệp đồng để động
viên, giúp đỡ con người. Vũ trụ không đối lập mà trở thành cha mẹ, bạn bè thân
thương của con người :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng,
Lướt giữa mảy cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào
Dường như công việc lao động giữa biển khơi đầy sóng gió vốn vất vả, đầy thử thách
đã trở thành niềm vui, niềm say mê hào hứng. Nhịp sống của con người hài hoà với
nhau đã tạo cho ngôn ngữ thơ những vẻ đẹp kì diệu, âm hưởng của thơ ngân vang, xáo
động, hình ảnh trong thơ mỗi lúc một lớn lao, bay bổng, ngòi bút tả thực hài hoà với
ngòi bút lãng mạn. Tình yêu cuộc sống, yêu biển trời quê hương của những người lao
động đã được vũ trụ, thiên nhiên đền đáp xứng đáng :
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Vẩy cá, đuôi cá bắt ánh sáng, loé sắc vàng, sắc bạc hay chính là bạc vàng trong kho
trời vô tận thưởng công cho con người ? Tài sử dụng ngôn từ, phép liên tưởng, ví von
cùng với tình cảm mê say, hào hứng của nhà thơ đã hoà nhập với cuộc sống, đem lại
cho nhà thơ những tình cảm thú vị. Nhạc thơ lên đến cao trào.
Và bài ca của đoàn ngư dân chuyển dần vào khúc cuối, khúc khải hoàn ngập tràn niềm
vui chiến thắng :
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Đoạn thơ dựng lại cuộc đua tài tốc độ giữa đoàn thuyền và mặt trời – con người và vũ
trụ. Thực ra cuộc đua ấy khởi phát ngay từ đầu bài thơ rồi. Đến đây, vào giờ phút
hừng đông đẹp nhất, trường đua càng hiện rõ. Hai đối thủ cách xa nhau. Đoàn thuyền
và mặt trời ở hai đầu mút của câu thơ – Đoàn thuyền chạy đua cùng… mặt trời – cả
hai đang lướt tới, cùng vượt lên hối hả. Ai sẽ thắng ? Con người cất cao tiếng hát. Còn
mặt trời ?
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Thi sĩ như người trọng tài đang nhìn đoàn thuyền (hai câu trên), chuyển sang phía mặt
trời (hai câu dưới) từ mặt trời nhìn lại. Đội biển nhô lên, mặt trời tới đích… thì “đoàn
thuyền” đã tới từ lâu rồi ! Trang trải mênh mang muôn dặm chỉ thấy cá và…cá. Cá
nhiều, ken khít, xếp dày không tách được từng con, từng loại, chỉ thấy “mắt cá huy
hoàng” nhấp nháy chào mặt trời, hoá thành triệu mặt trời nhỏ, hồng hào, ấm áp khắp
không gian. Nghệ thuật nhân hoá và điểm nhìn linh hoạt của nhà thơ khiến cho hình
ảnh mặt trời vốn xa xôi, khắc nghiệt thành gần gũi, hiền hoà. Và chân dung con người
bỗng trở nên lớn lao cao rộng. Thêm vào là cái nhịp thơ cổ điển thất ngôn cân đối,
trang trọng, toát ra một âm hưởng lãng mạn ngợi ca hùng tráng. Phải có một tình yêu
sâu nặng, sự gắn bó lâu dài bền chặt với cuộc sống, với quê hương đất nước, nhà thơ
Huy Cận mới biểu hiện một cách thấm thìa sảng khoái đến thế niềm vui, lòng mến
phục và tự hào trước thiên nhiên kì ảo, trước sức sống và bàn tay lao động của con
người.
Kỉ niệm bảy mươi tuổi đời, ngót năm chục năm tuổi làm thơ, trả lời phóng viên báo
Văn nghệ về sự tâm đắc nhất trong sáng tác, nhà thơ Huy Cận nói : “Con người sống
trong xã hội và sống trong vũ trụ… là thành viên của vũ trụ. Đó là hai cực của cuộc
sống, hai cực của tư tưởng, hai cực của thơ…”, vẻ đẹp của thiên nhiên vũ trụ và vẻ
đẹp của con người – nhất là những người lao động đã được giải phóng đang làm chủ
cuộc đời, hoà đổng với vũ trụ – nguồn cảm hứng lớn trong thơ Huy Cận, đã tạo nên
những vần thơ đẹp. Nói cách khác, theo hành trình chuyến ra khơi của đoàn thuyền
đánh cá, bài thơ khắc hoạ nhiều hình ảnh tráng lệ về thiên nhiên vũ trụ và người lao
động, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào
của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Bài thơ có nhiều sáng tạo trong xây dựng
hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú độc đáo, có âm hưởng khoẻ khoắn,
hào hùng, lạc quan, phóng túng.
BÌNH GIẢNG VĂN 9
[NGỮ VĂN 9] BÀI THƠ "BẾP LỬA"
𝑪𝒂̉𝒎 𝒏𝒉𝒂̣̂𝒏 𝒄𝒖̉𝒂 𝒆𝒎 𝒗𝒆̂̀ 𝒉𝒊̀𝒏𝒉 𝒂̉𝒏𝒉 𝒏𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒃𝒂̀ 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒃𝒂̀𝒊 𝒕𝒉𝒐̛ “𝑩𝒆̂́𝒑 𝒍𝒖̛̉𝒂” 𝒄𝒖̉𝒂
𝑩𝒂̆̀𝒏𝒈 𝑽𝒊𝒆̣̂𝒕
𝑰/ 𝑴𝒐̛̉ 𝒃𝒂̀𝒊:
Bằng Việt là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ
trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ Bằng Việt trong trẻo, thường
khai thác những kỉ niệm trong sáng thủa thiếu thời và khơi gợi ước mơ tuổi trẻ. Bài
thơ “Bếp lửa”là một trong những tác phẩm đầu tay của Bằng Việt. Bài thơ đã thể hiện
sâu sắc và cảm động tình cảm của nhà thơ dành cho người bà và bếp lửa. Trong đó,
hình ảnh người bà tảo tần, chịu thương chịu khó với tình yêu thương và đức hi sinh
cao cả đã để lại bao rung động thấm thía trong lòng người đọc, khơi dậy trong mỗi
người tình cảm gia đình, tình bà cháu đẹp đẽ, thiêng liêng.
𝑰𝑰/ 𝑻𝒉𝒂̂𝒏 𝒃𝒂̀𝒊
1. 𝑲𝒉𝒂́𝒊 𝒒𝒖𝒂́𝒕 𝒉𝒐𝒂̀𝒏 𝒄𝒂̉𝒏𝒉 𝒓𝒂 đ𝒐̛̀𝒊, 𝒏𝒐̣̂𝒊 𝒅𝒖𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒏𝒈𝒉𝒆̣̂ 𝒕𝒉𝒖𝒂̣̂𝒕 𝒄𝒖̉𝒂 𝒃𝒂̀𝒊 𝒕𝒉𝒐̛
Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi tác giả 19 tuổi và đang học ngành
Luật ở Liên Xô. Tác phẩm viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ “Hương
cây – Bếp lửa”, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bằng sự kết hợp hài
hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp
lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ
về tình bà cháu.
2. 𝑯𝒊̀𝒏𝒉 𝒂̉𝒏𝒉 𝒏𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒃𝒂̀
𝑎/ 𝐿𝑎̀ 𝑛𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖 𝑐ℎ𝑖̣𝑢 𝑡ℎ𝑢̛𝑜̛𝑛𝑔 𝑐ℎ𝑖̣𝑢 𝑘ℎ𝑜́, 𝑡𝑎̂̀𝑛 𝑡𝑎̉𝑜 ℎ𝑖 𝑠𝑖𝑛ℎ
Tuy giờ đây được sống trong điều kiện vật chất đầy đủ với tiện nghi hiện đại, nhưng
mỗi lần nhớ về bếp lửa, cháu lại nhớ về bà - người bà với cuộc đời biết bao vất vả,
lam lũ:
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Cụm từ "biết mấy nắng mưa" diễn tả vòng tuần hoàn khép kín của thời gian. Tình cảm
mà cháu dành cho bà vượt qua thời gian, qua năm tháng. Hình ảnh "nắng mưa" là ẩn
dụ đặc sắc cho cuộc đời lận đận lắm đắng cay, cơ cực của bà.
Kí ức còn đưa nhà thơ trở về với nạn đói rùng rợn năm 1945. Cái đói chỉ là cái cớ để
tác giả gợi nhớ về một tuổi thơ nhiều đắng cay cơ cực, thiếu thốn về vật chất nhưng
không thiếu thốn nghĩa tình. Vượt lên trên gian khổ, thiếu thốn, vượt lên trên cái "đói
mòn đói mỏi", với sự chịu thương chịu khó, tần tảo lam lũ, bà đã cùng mọi người vượt
qua những năm tháng cơ cực ấy. Sự tần tảo và đức hy sinh chăm lo cho người của bà
được tác giả thể hiện trong một chi tiết rất tiêu biểu:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.
Cuộc đời bà là một cuộc đời đầy gian truân, vất vả, nhiều lận đận, trải qua nhiều nắng
mưa tưởng như không bao giờ dứt. Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của bao người
phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh dù gian truân, vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương
sâu nặng.
𝑏/ 𝐵𝑎̀ 𝑙𝑎̀ 𝑛𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖 𝑝ℎ𝑢̣ 𝑛𝑢̛̃ 𝑛𝑜̂𝑛𝑔 𝑡ℎ𝑜̂𝑛 𝑡ℎ𝑢𝑎̂̀𝑛 ℎ𝑎̣̂𝑢 𝑛ℎ𝑢̛𝑛𝑔 𝑐𝑜́ 𝑏𝑎̉𝑛 𝑙𝑖̃𝑛ℎ 𝑣𝑢̛̃𝑛𝑔 𝑣𝑎̀𝑛𝑔, 𝑙𝑎̀
𝑐ℎ𝑜̂̃𝑑𝑢̛̣𝑎 𝑡𝑖𝑛ℎ 𝑡ℎ𝑎̂̀𝑛 𝑐ℎ𝑜 𝑐𝑜𝑛 𝑐ℎ𝑎́𝑢.
Tuy bà chỉ là một người phụ nữ nông thôn thuần phác, thật thà nhưng ẩn đằng sau đó
là sự kiên cường, bản lĩnh vững vàng, là sức sống mãnh liệt, dẻo dai. Bà đã giúp mọi
người trong gia đình vượt qua nạn đói 1945 để đến bây giờ mỗi khi nghĩ lại cháu vẫn
thấy “sống mũi còn cay”. Nhớ về bà, cháu nhớ về những năm mà thực dân Pháp
chiếm đóng. Hiện thực đau thương như được tái hiện lên qua từng câu chữ:
Năm giặc đốt nhà cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Trong gian khổ khó khăn, bà vẫn không gục ngã. Bà vẫn "vững lòng" dặn cháu:
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo ở nhà vẫn được bình yên
Qua lời bà dặn cháu, ta thấy được tâm hồn thật đẹp. Bà là người lo lắng, yêu thương
con cháu, nhân hậu và giàu đức hi sinh. Bà muốn con được yên tâm công tác nên đã
một mình vượt qua tất cả những khó khăn nơi quê nhà.
Như vậy ta thấy rằng, dẫu chiến tranh tàn phá, đau khổ chồng chất cũng không thể
thay đổi ý chí, niềm tin của bà. Bà là hiện thân đầy đủ nhất, sinh động nhất cho hậu
phương lớn. Bà chính là điểm tựa, chỗ dựa tinh thần cho con cháu:
Rồi sớm chiều bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Chính bà đã nhóm lên ngọn lửa - ngọn lửa của tình yêu thương, niềm tin bất diệt. Bởi
đó là ngọn lửa - trái tim, tình cảm và tâm hồn bà. Bà đã truyền cho cháu nghị lực,
niềm tin một cách tự nhiên như người truyền lửa cho thế hệ sau. Một ngọn lửa thổi
bùng lên mơ ước, khát vọng về ngày mới thanh bình.
𝑐/ 𝐵𝑎̀ 𝑙𝑎̀ 𝑛𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖 𝑦𝑒̂𝑢 𝑡ℎ𝑢̛𝑜̛𝑛𝑔, 𝑐ℎ𝑎̆𝑚 𝑠𝑜́𝑐 𝑣𝑎̀ 𝑑𝑎̣𝑦 𝑐ℎ𝑎́𝑢 n𝑒̂𝑛 𝑛𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖. 𝐵𝑎̀ đ𝑎̃ 𝑛ℎ𝑜́𝑚 𝑙𝑒̂𝑛
𝑡𝑟𝑜𝑛𝑔 𝑐ℎ𝑎́𝑢 𝑡𝑖̀𝑛ℎ 𝑦𝑒̂𝑢 𝑡ℎ𝑢̛𝑜̛𝑛𝑔, 𝑚𝑜̛ 𝑢̛𝑜̛́𝑐 𝑣𝑎̀ 𝑘ℎ𝑎́𝑡 𝑣𝑜̣𝑛𝑔 𝑣𝑒̂̀ 𝑡𝑢̛𝑜̛𝑛𝑔 𝑙𝑎𝑖
Trong những năm đói khổ, tuổi thơ của tác giả vẫn luôn tươi sáng bởi bên nhà thơ
luôn có bà. Nhà thơ luôn nhận được tình yêu thương, sự chăm sóc của bà. Đó là thời
gian:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Bố mẹ đi công tác, cháu sống trong sự yêu thương, đùm bọc, chăm sóc của bà. Bà đã
thay con nuôi cháu khôn lớn trưởng thành.. Cấu trúc song hành góp phần khẳng định
vai trò của bà với cuộc đời cháu. Đồng thời còn nói lên tình yêu thương vô bờ mà bà
đã dành cho đứa cháu bé bỏng.
Không chỉ chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ cháu khôn lớn trưởng thành mà bà còn là
người nâng đỡ, chắp cánh ước mơ cho cháu. Nếu cơm gạo của bà nuôi lớn cháu về thể
xác thì tình yêu thương của bà nuôi lớn cháu về tinh thần, vể ý chi, nghị lực niềm tin.
Để rồi, mỗi khi nhớ về bà, cháu lại nhớ về hình ảnh:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẽ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Cũng chính bàn tay bà đã nhóm lên bếp lửa với khoai sắn ngọt bùi, với nồi xôi gạo
mới làm ấm lòng cháu những ngày đông tháng giá. Và cũng chính là bà đã thổi bùng
lên trong cháu ngọn lửa của tình yêu thương, khát vọng và ước mơ. Bà đã trở thành
người bạn lớn, chia sẻ tâm tình. Cháu khôn lớn và trưởng thành như ngày hôm nay
phần lớn là nhờ công lao chăm sóc, dạy dỗ của bà. Hình ảnh bà và bếp lửa đã trở
thành kí ức thiêng liêng nâng đỡ cháu trên suốt chặng đường đời dài rộng.
3.Đ𝒂́𝒏𝒉 𝒈𝒊𝒂́
“Bếp lửa” là bài thơ cảm động viết về tình bà cháu. Qua lời thơ dung dị của Bằng
Việt, ta thấy hiển hiện hình ảnh một người bà thật đẹp – người bà Việt Nam. Đọc
những vẫn thơ ấy, ta nhận ra ở nhà thơ Bằng Việt là tình yêu thương, sự thấu hiểu và
lòng biết ơn vô tận của nhà thơ đối với bà và cũng là đối với quê hương đất nước.
Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao.Phải là người yêu bà sâu sắc và mãnh liệt,
Bằng Việt mới có thể tạo nên những dòng thơ chân thành, chứa chan tình cảm dành
cho bà đến như vậy.
𝐈𝐈𝐈/ 𝐊𝐞̂́𝐭 𝐛𝐚̀𝐢
Qua dòng hồi tưởng của người cháu đã trưởng thành, nhớ lại những kỉ niệm đầy xúc
động về người bà và bếp lửa, nhà thơ đã bộc lộ những tình cảm thiêng liêng, sâu nặng
đối với gia đình, quê hương, đất nước. Bài thơ chứa đựng đạo lí thủy chung, cao đẹp
bao đời của người Việt: “ uống nước nhớ nguồn”. Đạo lí ấy được nuôi dưỡng ở mỗi
tâm hồn con người từ ấu thơ, để rồi như chắp cánh cho mỗi người bay cao, bay xa trên
hành trình cuộc đời dài rộng.
[NGỮ VĂN 9] Bài thơ "ÁNH TRĂNG"
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy mang sức sáng nối liền quá khứ - hiện tại, là tấm gương
trăng để soi lòng. Con người của gốc lúa bờ tre, của nắng nỏ trời xanh, của lời ru trọn
kiếp người không đi hết, của "Nước chè tươi rót vàng mơ" ấy thường hay giật mình
giữa chốn đô hội ồn ào:
Tắc kè...
tắc kè...
tôi giật mình
(...)
cái âm thanh của rừng lạc về thành phố
(...)
Chợt hiện về thăm thẳm núi non kia"
(Nghe tắc kè kêu trong thành phố)
Những năm tháng "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" đã trở thành nguồn mạch hồi ức
thường trực trong tâm hồn nhà thơ. Cho nên chỉ một tiếng tắc kè kêu cũng đủ khơi cho
nguồn mạch ấy dào dạt chảy. Thì ra, người vốn thiết tha với đồng quê bình dị, say sưa
với ca dao hò vè cũng là người ân tình với quá khứ gian lao, nặng lòng với núi rừng
một thủa. Với ánh trăng, Nguyễn Duy lại thêm một cái "giật mình".
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
Mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện tại và lắng kết trong cái "giật mình" cuối bài
thơ. Trăng hiện diện trong quá khứ, đột ngột sáng trong hiện tại và mặc nhiên vằng
vặc trong suy ngẫm nhân tình.
Vầng trăng tình nghĩa sáng trong không gian và thời gian kí ức:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Con người và thiên nhiên hài hoà trong mối kết giao tri kỉ, thuỷ chung. Từ những năm
tháng tuổi thơ bươn trải nhọc nhằn gắn bó với đồng, với sông rồi với bể cho đến
những năm tháng chiến tranh gian khổ sống với rừng, bao giờ trăng cũng gần gũi, thân
thiết.
Giữa con người với thiên nhiên, với trăng là mối quan hệ chung sống, quan hệ thâm
tình khăng khít. Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên
trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của kí ức chan hoà tình
nghĩa. Người ta cứ đinh ninh về sự bền chặt của mối giao tình ấy, nhưng:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện, cửa gương đã làm lu mờ ánh
sáng của vầng trăng. Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa hình ảnh vầng trăng tri kỉ, tình
nghĩa trong quá khứ và vầng trăng "như người dưng qua đường" trong hiện tại. Sự đối
lập này diễn tả những đổi thay trong tình cảm của con người. Thủa trước, ta hồn nhiên
sống với đồng, với sông, với bể, với gian lao "ở rừng", khi ấy trăng chan hoà tình
nghĩa, thiên nhiên và con người gần gũi, hoà hợp. Bây giờ, thói quen cuộc sống
phương tiện đủ đầy khiến ta không còn thấy trăng là tri kỉ, nghĩa tình nữa. Nhà thơ nói
về trăng là để nói thế thái, nhân tình.
Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại luôn có những bất trắc. Và chính trong những bất trắc
ấy, ánh sáng của quá khứ, của ân tình lại bừng tỏ, là lúc người ta nhận thấy giá trị của
quá khứ gian lao mà tình nghĩa, thiếu thốn mà đủ đầy:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ của toàn bài, là sự chuyển biến có ý nghĩa
bước ngoặt của mạch cảm xúc, bộc lộ rõ chủ đề tư tưởng của bài thơ.
Không chỉ là sự thay thế đúng lúc của ánh trăng cho ánh điện, ở đây còn là sự thức
tỉnh, bừng ngộ về ý nghĩa của những ngày tháng đã qua, của những cái bình dị của
cuộc sống, của tự nhiên, là sức sống vượt ra ngoài không gian, thời gian của tri kỉ,
nghĩa tình. Các từ "bật tung", "đột ngột" diễn tả trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ.
Có cái gì như thảng thốt, lo âu trong hình ảnh "vội bật tung cửa sổ". Vầng trăng tròn
đâu phải khi "đèn điện tắt" mới có?! Cũng như những tháng năm quá khứ, vẻ đẹp của
đồng, sông, bể, rừng không hề mất đi. Chỉ có điều con người có nhận ra hay không mà
thôi. Và thế là trong cái khoảnh khắc "thình lình" đối diện với trăng ấy, ân tình xưa
"rưng rưng" sống dậy, thổn thức lòng người:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Đối diện với trăng là đối diện với chính mình, với con người hiện tại và cả với con
người trong quá khứ. Sự đồng hiện thời gian - không gian / trăng - người được thể
hiện bằng ngôn ngữ lập thể. Vầng trăng mang ý nghĩa biểu tượng. Mặt trăng đối diện
với mặt người, mặt trăng cũng là mặt người, là quá khứ đang sáng trong thực tại, trăng
là tri kỉ, ân tình xưa,...
Từ khổ thơ đầu là vầng trăng (4 lần) đến khổ thơ cuối bài là ánh trăng. ánh trăng bất
chợt soi chiếu, thản nhiên và độ lượng, sự im lặng của ánh trăng là sự im lặng của
chân lí. Bình dị, mộc mạc nhưng đủ khiến "ta giật mình". Cái chân lí giản đơn đã
thành đạo lí: "Uống nước nhớ nguồn".
[Ngữ văn 9] KIẾN THỨC CƠ BẢN "ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ"
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả:
- Huy Cận (1919-2005) tên đầy đủ là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Dụ
Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh.
- Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào thơ mới với tập thơ “Lửa thiêng” (1940). Ông
tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều
trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu
biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam.
- Huy Cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật (1996).
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ
chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại, dồi dào trong cảm
hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
- Bài "Đoàn thuyền đánh cá" được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời
mỗi ngày lại sáng” (1958).
b. Bố cục bài thơ
Bài thơ được bố cục theo trình tự thời gian, không gian chuyến ra khơi của đoàn
thuyền, gồm 3 phần:
- Phần 1 (2khổ đầu): cảnh đoàn thuyền ra khơi
- Phần 2 (5 khổ tiếp theo): cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.
- Phần 3 (khổ cuối): hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về.
II/ Phân tích bài thơ
1. Hai khổ đầu : Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong buổi hoàng hôn
a/ Khổ 1
Cảnh hoàng hôn trên biển được miêu tả bằng một hình tượng độc đáo:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
- Với sự liên tưởng so sánh thú vị, Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời
khắc giữa ngày và đêm khiến cảnh biển vào đêm thật kì vĩ, tráng lệ như thần thoại. Vũ
trụ như một ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những
lượn sóng hiền hoà gối đầu nhau chạy ngang trên biển như những chiếc then cài cửa.
Phác hoạ được một bức tranh phong cảnh kì diệu như thế hẳn nhà thơ phải có cặp mắt
thần và trái tim nhậy cảm.
- Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm việc. Màn
đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày. Giữa lúc vũ trụ, đất trời như chuyển
sang trạng thái nghỉ ngơi thì ngược lại, con người bắt đầu hoạt động: “Đoàn thuyền
đánh cá lại ra khơi. Câu hát căng buồm trong gió khơi. -> Sự đối lập này làm nổi bật
tư thế lao động của con người trước biển cả.
+ Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn ngư dân ào xuống đẩy
thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát khởi hành. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự,
thường nhật, liên tục mỗi ngày của công việc lao động vừa biểu thị ý so sánh ngược
chiều với câu trên: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con người bắt đầu lao động, một
công việc lao động không ít vất vả.
+ Hình ảnh “câu hát căng buồm” - cánh buồm căng gió ra khơi- là ẩn dụ cho tiếng hát
của con người có sức mạnh làm căng cánh buồm. Câu hát là niềm vui, niềm say sưa
hứng khởi của những người lao động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê với công
việc chinh phục biển khơi làm giầu cho Tổ quốc.
b/ Khổ 2
Bốn câu thơ tiếp theo nói về những câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của người
dân chài:
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi.
- Họ hát khúc hát ca ngợi sự giầu có của biển cả. Họ hát bài ca gọi cá vào lưới, mong
muốn công việc đánh cá thu được kết quả tốt đẹp.
2/ Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng đẹp
Nếu hai khổ thơ đầu miêu tả đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh rất đẹp và
con người rất yêu lao động, yêu thiên nhiên thì bốn khổ thơ sau lại tả cảnh đoàn
thuyền đánh cá trên biển bao la, hùng vĩ. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời, sóng
nước, trăng sao có nhiều yếu tố lãng mạn, tràn đầy tưởng tượng dựa trên những yếu tố
hiện thực của đời sống trong đó con người hiện lên trong dáng vẻ trẻ trung, khỏe
mạnh và yêu đời.
a/ Biển rộng lớn mênh mông và khoáng đạt trong đêm trăng sáng. Trên mặt biển đó,
có một con thuyền đang băng băng lướt đi trên sóng:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
- Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la giờ đây đã trở thành một con
thuyền đặc biệt có gió là người cầm lái, còn trăng là cánh buồm. Con thuyền băng
băng lướt sóng ra khơi để “dò bụng biển”. Công việc đánh cá được dàn đan như một
thế trận hào hùng. Tư thế và khí thế của những ngư dân thật mạnh mẽ, đầy quyết tâm
giữa không gian bao la của biển trời. Như vậy, tầm vóc của con người và đoàn thuyền
đã được nâng lên hòa nhập vào kích thước của thiên nhiên vũ trụ. Không còn cái cảm
giác nhỏ bé lẻ loi khi con người đối diện với trời rộng sông dài như trong thơ Huy Cận
trước cách mạng. Hình ảnh thơ thật lãng mạn bay bổng và con người có tâm hồn cũng
thật vui vẻ, phơi phới. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã trở thành
bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên
b/ Biển giàu đẹp nên thơ và có thật nhiều tài nguyên:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
- Huy Cận đã ngợi ca sự giàu có của biển cả bằng cách liệt kê tên các loài cá và tập
trung miêu tả màu sắc của chúng trong đêm trăng. Những con cá song giống như ngọn
đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh quả là hình ảnh
ẩn dụ độc đáo. Tuy nhiên “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” lại là hình ảnh đẹp nhất.
Ánh trăng in xuống mặt nước, những con cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng
chóe. Phải thật tinh tế mới có được những phát hiện tuyệt vời ấy. Cảnh biển về đêm
mới đẹp đẽ và thi vị làm sao!
- “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” là hình ảnh nhân hóa đẹp. Đêm được miêu tả như
một sinh vật đại dương: nó thở. Tiếng thở của đêm chính là tiếng rì rào của sóng.
Nhưng tưởng tượng của nhà thơ lại được cắt nghĩa bằng một hình ảnh bất ngờ: sao lùa
nước Hạ Long làm nên tiếng thở của đêm. Đây là một hình ảnh đảo ngược, sóng biển
đu đưa lùa bóng sao trời nơi đáy nước chứ không phải bóng sao lùa sóng nước. Đây là
một hình ảnh lạ - một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận khiến cho cảnh thiên nhiên
thêm sinh động.
c/ Biển không những giầu đẹp mà còn rất ân nghĩa thủy chung, bao la như lòng mẹ.
Biển cho con người cá, nuôi lớn con người. Những người dân chài đã hát bài ca gọi cá
vào với họ:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Không phải con người gõ thuyền để xua cá vào lưới mà là “trăng cao gõ”. Trong đêm
trăng sáng, vầng trăng in xuống mặt nước, sóng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạn
thuyền thành hình ảnh “nhịp trăng cao gõ”. Có thể nói đây là hình ảnh lãng mạn đầy
chất thơ làm đẹp thêm công việc lao động đánh cá trên biển. Thiên nhiên đã cùng với
con người hòa đồng trong lao động.
- Câu thơ “biển cho ta cá như lòng mẹ. Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” là một lời hát ân
tình sâu sắc trong bài ca lao động say sưa thơ mộng, hùng vĩ và đầy lòng biết ơn.
d/ Một đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng hăng say:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
Những đôi bàn tay kéo lưới nhanh thoăn thoắt gợi lên vẻ đẹp rắn rỏi, khỏe mạnh với
những bắp tay cuồn cuộn của người dân chài khi kéo mẻ lưới đầy cá nặng. Từ phía
chân trời bắt đầu bừng sáng. Khi mẻ lưới được kéo lên, những con cá quẫy dưới sánh
sáng của rạng đông và lóe lên màu hồng gợi khung cảnh thật rạng rỡ huy hoàng, tươi
đẹp. Câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” tạo một sự nhịp nhàng giữa sự lao
động của con người với sự vận hành của vũ trụ. Con người muốn chia sẻ niềm vui với
ánh bình minh.
3/ Và đây là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên đường trở về:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
- Đoàn thuyền đánh cá đã ra đi vào lúc hoàng hôn trong tiếng hát và trở về vào lúc
bình minh cũng trong tiếng hát. Những câu thơ được lặp lại như một điệp khúc của
một bài ca lao động. Nếu như tiếng hát lúc trước thể hiện niềm vui khi lao động thì
tiếng hát sau lại thể hiện sự phấn khởi vì kết quả lao động sau một đêm làm việc hăng
say. Họ trở về trong tư thế mới “chạy đua cùng mặt trời”. Từ “chạy đua” thể hiện khí
thế lao động mạnh mẽ, sức lực vẫn dồi dào của người lao động. Đoàn thuyền được
nhân hóa, cả mặt trời cũng tham gia vào cuộc chạy đua này và kết quả con người đã
chiến thắng.
- Hai câu kết khép lại bài thơ nhưng lại mở ra một cảnh tượng thật kì vĩ và chói lọi.
Phải nói rằng Huy Cận đã rất tinh tế khi miêu tả sự vận hành của vũ trụ. Mặt trời từ từ
nhô lên trên sóng nước xanh lam , chiếu tỏa ánh sáng rực rỡ, cảnh biển bừng sáng và
còn đẹp hơn với kết quả lao động. Con thuyền chở về khoang nào cũng đầy ắp cá. Mắt
cá phản chiếu ánh mặt trời giống như muôn vàn mặt trời nhỏ li ti. Đó thật sự là một
cảnh tượng đẹp, huy hoàng giữa bầu trời và mặt biển, giữa thiên nhiên và thành quả
lao động.
III/ Tổng kết
1/ Nội dung
“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ ca ngợi cuộc sống mới, con người mới. Bài thơ
tràn ngập niềm vui phơi phới, niềm say sưa hào hứng và những ước mơ bay bổng của
con người muốn chinh phục thiên nhiên bằng công việc lao động của mình. Đây cũng
là bài ca ca ngợi vẻ đẹp lộng lẫy, hùng vĩ và nên thơ của thiên nhiên đất nước qua cái
nhìn và tâm trạng hứng khởi của nhà thơ.
2/ Nghệ thuật
Bài thơ vừa cổ kính vừa mới mẻ trong hình ảnh, ngôn ngữ. Âm điệu tạo nên âm
hưởng vừa khỏe khoắn sôi nổi lại phơi phới bay bổng. Sáng tạo hình ảnh thơ bằng liên
tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo. Âm hưởng khoẻ khoắn, hào hùng, lạc quan.
[NGỮ VĂN 9] KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
Cảm nhận 8 câu cuối đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích":
"Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."
============ ============
1. Mở bài
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam - Danh nhân văn hóa thế giới. Tên
tuổi của ông gắn liền với kiệt tác “Truyện Kiều”. Một trong những đoạn trích nổi bật
của truyện Kiều là “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” mà tiêu biểu là tám câu thơ cuối được
coi là những câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất, đặc sắc nhất trong “Truyện Kiều”:
“ Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng quay quanh ghế ngồi”
Đoạn trích đã thể hiện tâm trạng đau buồn, lo âu của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
2. Thân bài
Diễn tả tâm trạng của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngòi
bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế khi tả cảnh cũng như khi ngụ tình. Mỗi biểu hiện
của cảnh phù hợp với từng trạng thái của tình. Mỗi biểu hiện của cảnh đồng thời cũng
là một ẩn dụ về tâm trạng con người. Mỗi cảnh gợi cho Kiều những lý do buồn khác
nhau. Trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trạng để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh
khiến cảnh mỗi lúc một buồn hơn, nỗi buồn mỗi lúc ghê gớm, mãnh liệt hơn.Hai câu
thơ đầu đoạn trích là bức tranh về không gian mênh mông nơi cửa biển chiều hôm:
“Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
Nguyễn Du đã miêu tả cảnh vào thời gian buổi chiều. Đây là thời điểm thưởng gọi
tâm trạng buồn, nhớ, không gian là “cửa bể”. Đặc biệt “cánh buồm thấp thoáng xa xa”
là hình ảnh rất “đắt” để thể hiện nội tâm là Kiều. Cảnh vật gợi lên nỗi buồn, nỗi nhớ
quê hương, nhớ người thân. Hình ảnh con thuyền nhỏ nhoi, đơn độc giữa mênh mông
biển nước “thấp thoáng cánh buồm xa xa” trong ánh sáng lẻ loi của mặt trời sắp tắt
cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại, trong cảnh tha hương, nhìn về
phương xa với nỗi buồn, nhớ da diết nhớ về cha mẹ, gia đình, quê hương. Từ láy “thấp
thoáng”, “xa xa” gợi hình ảnh con thuyền nhỏ nhoi, mờ nhạt. Con thuyền gần như mất
hút vẫn còn lênh đênh trên mặt nước khi mà những con thuyền khác đã cập bến, đã
neo đậu cũng như Kiều còn lênh đênh giữa dòng đời biết bao giờ mới sum họp gia
đình. Hơn thế nữa khung cảnh buổi chiều còn gợi tâm trạng buồn, gợi nỗi nhớ nhà,
bởi đó là thời gian sum họp. Như vậy, hình ảnh con thuyền xa xa nơi cửa bể, chiều
hôm đã gợi nỗi buồn, nỗi nhớ quê hương, gia đình, người thân, gợi nỗi khao khao sum
họp. Nhưng khao khát đó rất mong manh, mờ nhạt. Hình ảnh đó còn gợi thân phận cô
đơn, lẻ loi, lênh đênh giữa sóng nước cuộc đời của Kiều.
Hướng tầm mắt về gần hơn, Kiều ngắm nhìn những cánh hoa trôi lênh đênh trên dòng
nước dữ:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Nhìn những cánh hoa lụi tàn dưới ngọn nước mới sa khiến Kiều càng buồn hơn bởi
nàng như nhìn thấy trong đó thân phận mình đang lênh đênh, vô định “ba chìm bảy
nổi” giữa sóng nước cuộc đời không biết rồi sẽ trôi đi đâu về đâu, sẽ bị vùi dập ra sao,
từ đó Kiều lo lắng cho tương lai vô định của mình. Câu hỏi tu từ đã diễn tả nỗi buồn,
lo lắng đó.
Nỗi buồn như mỗi lúc một dâng cao hơn khi nàng ngắm nhìn cảnh nội cỏ rầu rầu, héo
úa, tàn lụi:
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
“nội cỏ rầu rầu”, “xanh xanh” là sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ chân
mây đến mặt đất. Màu cỏ gợi lên sự sống úa tàn, buồn bã. Ở đây ta lại bắt gặp màu cỏ
rầu rầu, héo úa giống như trong câu thơ: “Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”. Màu
cỏ đó gợi đến sự tàn tạ, chết chóc chứ không phải màu của sức sống trong câu thơ:
“Cỏ xanh con rợn chân trời”. Nguyễn Du đã thật tài tình khi miêu tả cảnh cỏ ở đây,
bởi cảnh “nội cỏ rầu rầu” từ chân mây đến mặt đất gợi cho Kiều nỗi chán trường, vô
vọng về một cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh không biết bao giờ mới kết thúc, Kiều
cảm thấy tương lai mình mờ nhạt.
Khi nhìn cảnh” gió cuốn mặt duyền” thì dường như nỗi buồn càng lúc, càng tăng,
càng dồn dập một cơn gió cuốn mặt duyền làm các tiếng sóng bỗng nổi lên ầm ầm
như vây quanh ghế kiểu nhà
“Buồn trông gió cuốn mặt duyền
Ầm ầm tiếng sóng quanh ghế ngồi”
Cái âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” ấy chính là cái dữ dội của cuộc đời phong ba bão
táp đã và đang đổ xuống cuộc đời nàng. Và còn tiếp tục đè nặng con người nhỏ bé ấy.
Lúc này Kiểu không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như đang rơi dần vào vực thẳm
một cách bất lực. Ở đây Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng từ láy “ẩm ầm” để
miêu tả âm thanh dữ dội tiếng song. Nỗi buồn đã dâng đến tột đỉnh khiến Kiều thực sự
tuyệt vọng. Ngọn gió cuốn mặt duyềnh và tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là cảnh
tượng hãi hùng. Giông tố cuộc đời nàng như đang bủa vây, nhấn chìm một thân phận
nhỏ nhoi như Kiều. Cảnh tượng ấy như báo trước giông tố của số phận sẽ nổi lên xô
đẩy, vùi dập cuộc đời nàng và ngay sau lúc này Kiều đã mắc lừa sở khanh để rồi lâm
vào cảnh “ thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”
Khái quát: Như vậy mỗi biểu hiện của cảnh từ cảnh chiều tà, đến bờ biển, từ cánh
buồm thấp thoáng, cánh hoa trôi man mác, đến nội cỏ rầu rầu cuối cùng là tiếng sóng
ầm ầm đều thể hiện tâm trạng và cảnh ngộ của Kiều: Sự lênh đênh, vô định, nỗi buồn
tha hương, lòng thương nhớ người yêu, cha mẹ và cả sự bàng hoàng, lo sợ. Đúng là
cảnh ở lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng Kiều cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ
nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mát đến mông lung, lo âu,
kinh sợ. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo đó là được nhìn qua tâm
trạng theo quy luật tâm lý:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn đều được khắc họa qua điệp từ “ buồn trông” , điệp từ
“buồn trông” kết hợp với các từ ngữ đứng sau diễn tả nỗi buồn về những sắc thái khác
nhau. Đồng thời điệp ngữ kết hợp với những từ láy tượng thanh, tượng hình “thấp
thoáng”, “ xa xa”, man mát, rầu rầu, xanh xanh ,ầm ầm… Diễn tả được nỗi lo âu ngày
một tăng lên lớp lớp trong lòng ”buồn trông” đã trở thành điệp khúc của cảnh và cũng
là điệp khúc của tâm trạng.
3. Kết bài
Tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” có thể xem là những câu thơ
hay nhất của “Truyện Kiều”, đoạn thơ đã miêu tả tinh tế, sâu sắc tâm trạng của Kiều
trong hoàn cảnh cô đơn. Nguyễn Du đã thành công khi sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ
tình, đây cũng là bút pháp nghệ thuật đặc sắc tạo nên sức hấp dẫn và vẻ đẹp của truyện
trung đại nói chung và “Truyện Kiều” nói riêng. Đoạn trích được đánh giá là tuyệt bút
của bút pháp tả cảnh ngụ tình tiêu biểu cho tài năng bậc thầy và tấm lòng nhân đạo
cao cả của thiên tài văn học Nguyễn Du.
[NGỮ VĂN 9] CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
Cảm nhận về số phận bi kịch của nhân vật Vũ Nương.
============= ============
I/ Mở bài
Cảm thương cho số phận bất hạnh của người phụ nữ, Nguyễn Du đã từng thốt lên:
Đau đớn thay, phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Xã hội phong kiến với nhiều bất công, ngang trái đã gây ra biết bao khổ đau, bất hạnh
cho người phụ nữ. Viết về họ, các nhà văn, nhà thơ đã bày tỏ tấm lòng nhân đạo sâu
sắc qua việc ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của họ, thương cảm cho số phận bi
thương của họ. Nguyễn Dữ - một nhà văn tiêu biểu của bền văn học trung đại Việt
Nam thế kỉ XVI cũng đã nói lên tiếng nói bênh vực cho người phụ nữ qua tác phẩm
“Chuyện người con gái Nam Xương”. Đọc tác phẩm, người đọc không khỏi xót xa,
thương cảm cho Vũ Nương – một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết, hiếu hạnh vẹn
toàn mà số phận lại bi thương, bất hạnh.
II/ Thân bài
1/ Khái quát
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện
của tập “Truyền kì mạn lục”. Truyện được xây dựng dựa trên một câu chuyện có thật
là “Vợ chàng Trương” vốn được lưu truyền trong dân gian. Trên cơ sở một câu
chuyện cổ tích, Nguyễn Dữ đã có những hư cấu và sáng tạo tình tiết kì ảo để “Chuyện
người con gái Nam Xương” trở thành một áng văn hấp dẫn, đặc sắc, giàu giá trị nhân
văn.
- “Chuyện người con gái Nam Xương” xoay quanh về cuộc đời và số phận bi thảm
của Vũ Nương . Đọc tác phẩm người đọc nhận thấy Vũ Nương là một người phụ nữ
hội tụ những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam, một người vợ chung
thủy, một người mẹ yêu con, một người con dâu hiếu thảo, … và lẽ ra như thế, nàng
xứng đáng được hưởng một cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Thế nhưng nàng phải
chịu một cuộc đời khổ đau, bất hạnh.
2/ Phân tích : Số phận bất hạnh, khổ đau của Vũ Nương
a/ Nàng là nạn nhân của chiến tranh phong kiến
Cuộc sum vầy của nàng với Trương Sinh chưa được bao lâu thì chiến tranh xảy ra.
Trương Sinh tuy con nhà hào phú nhưng vì ít học phải đi lính ngay trong sổ đầu. Khi
Trương Sinh đi lính nàng đang có mang, Trương Sinh đi chưa đầy một tuần nàng sinh
con, mọi công việc nàng gánh vác trong gia đình, chăm sóc con thơ, phụng dưỡng mẹ
già. Ngày tháng dần trôi , nàng luôn sống trong tâm trạng chờ mong khắc khoải, lo
lắng cho sự an nguy của chồng nơi chiến trận. Nỗi nhớ thương khắc khoải với người
chồng nơi biên ải cứ dâng tràn theo thời gian: “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn,
mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào không ngăn được”. Hình
ảnh “bướm lượn đầy vườn”, “mây che kín núi” có thể thấy những lúc vui, hay những
lúc buồn Vũ Nương cũng đều cồn cào nỗi nhớ thương chồng. Để an ủi lòng mình,
đêm đêm Vũ Nương chỉ cái bóng của mình mà bảo là Trương Sinh. Suy nghĩ này giúp
người đọc hiểu được niềm khao khát được đoàn tụ của Vũ Nương lớn biết chừng nào.
Sau 3 năm dài đằng đẵng, chàng Trương Sinh của nàng đã may mắn bình an trở về,
tưởng rằng gia đình nhỏ sẽ đầy ắp tiếng cười của ngày đoàn viên, tưởng rằng những
vất vả mà nàng đã trải qua trong những năm tháng Trương Sinh đi lính sẽ được bù
đắp, thế nhưng sau những giây phút buồn vui ngắn ngủi, một bi kịch tày trời đã giáng
xuống cuộc đời Vũ Nương: nàng bị nghi ngờ thất tiết.
Chiến tranh đã chia lìa nàng và chồng để mỗi khi đứa con thơ hỏi nàng về cha của nó
thì nàng đã chỉ chiếc bóng của mình trên tường nói là cha Đản. Bé Đản ngây thơ tin
lời nàng nói, nên đã không công nhận Trương Sinh là cha và ngây thơ kể với Trương
Sinh rất rành rọt về người cha trước kia của mình: “ Thường có một người đàn ông
đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ
bế Đản cả”, tin lời con trẻ mà cơn ghen tuông bùng lên trong lòng Trương Sinh. Nếu
không có chiến tranh thì Vũ Nương đâu phải xa chồng, thì bé Đản đâu phải xa cha,
không có chiến tranh thì gia đình nhỏ bé của Vũ Nương đâu phải đối diện với nghịch
cảnh, chiếc bóng oan khuất. Từ nỗi khổ vì chiến tranh của Vũ Nương và sự hi sinh của
cha ông ta trong các cuộc chiến tranh bảo vệ sau này, người đọc nhận thấy chiến tranh
muôn đời là hành động phi lý, hành động tội ác của những kẻ hiếu chiến.
b/ Vũ Nương không chỉ khổ đau bất hạnh vì nàng là nạn nhân của chiến tranh phong
kiến mà làm còn khổ hơn vì là nạn nhân của tư tưởng Nam quyền.
- Cuộc hôn nhân của Vũ Nương không bắt đầu từ tình yêu đôi lứa, mà mang tình cảm
gả bán, bởi vì Trương Sinh là người trong làng nhận thấy Vũ Nương là một người con
gái thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp, anh ta đã xin mẹ 100 lạng vàng cưới
nàng. Trương Sinh là con nhà hào phú còn Vũ Nương là con nhà nghèo, sự khác biệt
về đẳng cấp đã khiến cho Vũ Nương luôn mặc cảm với thân phận của mình, còn
Trương Sinh coi gia cảnh của mình để có thể có những đặc quyền với vợ.
- Ngay từ khi mới về nhà chồng Vũ Nương đã phải đối mặt với sự đa nghi, phòng
ngừa quá của Trương Sinh, biết phận mình nên nàng luôn nhường nhịn, giữ gìn khuôn
phép để gia đình không xảy ra thất hòa.
- Nếu chiến tranh xảy ra, Vũ Nương khổ nỗi khổ của người chinh phụ, thì khi Trương
Sinh trở về nàng phải chịu nỗi khổ của tư tưởng nho giáo phong kiến, chế độ phong
kiến nam quyền, khi Trương Sinh nghe lời bé Đản nói về “người cha” của mình thì
Trương Sinh đã nghi ngay vợ mình thất tiết. Vũ Nương đã phải đón nhận cơn ghen từ
chồng, gặp lại Vũ Nương sau khi ra mộ mẹ , Trương Sinh la lên cho hả giận, Vũ
Nương đã thanh minh trong nước mắt “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà
giàu, sum họp chưa thỏa tình chăn gối,chia phôi vì động việc lửa binh” , những lời
phân trần của nàng thấu tình đạt lí nhưng đâu có cởi bỏ được mối nghi ngờ trong đầu
óc của Trương Sinh . Nàng hỏi chồng chuyện tày trời kia do ai nói thì Trương Sinh lại
không nói câu chuyện giữa anh ta và bé Đản. Trương Sinh đã bỏ qua tất cả mọi cơ hội
để cứu vãn tấm thảm kịch gia đình. Đối với Vũ Nương, nỗi khổ do chiến tranh gây ra
chẳng thấm vào đâu so với nỗi khổ khi bị chồng nghi ngờ thất tiết, bị đánh đuổi đi
trước nỗi oan tày trời. Nàng đã bày tỏ nỗi tuyệt vọng đau đớn của mình “Thiếp sở dĩ
được nương tựa vào chàng thì có thú vui nghi gia nghi thất…”. Nhưng sự thất vọng
đau đớn của nàng cũng chẳng làm lung lay ý chí mù quáng của Trương Sinh.
- Không chỉ bị chồng mắng nhiếc, mà còn bị chồng đánh và đuổi đi, Vũ Nương đã
phải tìm đến cái chết bên bến Hoàng Giang để giải thoát cuộc đời đau khổ của mình,
suy cho cùng cái chết của Vũ Nương là do Trương Sinh bức tử , Vũ Nương là nạn
nhân của thói hồ đồ, đa nghi, độc đoán, vũ phu.
3/ Mở rộng nâng cao
Số phận bất hạnh của Vũ Nương trong tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam
Xương” tiêu biểu cho số phận của những người phụ nữ bình dân trong xã hội phong
kiến, họ đâu có quyền quyết định số phận của cuộc đời của mình, cuộc đời họ sướng
hay khổ, hạnh phúc hay đau khổ đều hoàn toàn phụ thuộc vào cách cư xử của người
chồng, số phận của Vũ Nương cho ta hiểu và liên tưởng tới số phận khổ đau của Thúy
Kiều trong kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Nếu Vũ Nương khổ vì chiến tranh
phong kiến, vì tư tưởng bất công nam quyền, thì Thúy Kiều khổ vì nàng là nạn nhân
của các thế lực bạo tàn, khổ vì sức mạnh ma quái của đồng tiền. Ngày nay chúng ta
đang sống trong xã hội văn minh công bằng người phụ nữ được hưởng quyền bình
đẳng so với nam giới, họ được quyền hưởng cuộc sống hạnh phúc gia đình do mình có
công vun đắp lên. Tuy nhiên đâu đó vẫn còn không ít những người phụ nữ phải chịu
hậu quả của những tàn dư của xã hội phong kiến, họ của nạn nhân của nạn nhân của
thói vũ phu từ người chồng, là nạn nhân của hành động buôn người chúng ta cần phải
lên án bênh vực bảo vệ những người phụ nữ đó.
III. Kết bài
Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân vật Vũ Nương là hiện thân của tấm lòng vị tha, của vẻ
đẹp của người phụ nữ. Song cuộc đời nàng lại có quá nhiều nỗi đớn đau, bất hạnh.
Ngòi bút của Nguyễn Dữ đã hướng đến thể hiện và trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp ấy và
bày tỏ sự cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau khổ và ước mơ về một cuộc sống tươi đẹp
cho những con người bình thường, có phẩm chất tốt đẹp. Thiên truyện còn là lời tố
cáo mạnh mẽ chế độ phong kiến hà khắc, cửa quyền, nhẫn tâm đẩy con người vào
bước đường cùng không lối thoát.
NGHỊ LUẬN VĂN HỌC : ĐỒNG CHÍ - BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE
KHÔNG KÍNH
Cảm nhận của em về hình ảnh người lính qua hai đoạn thơ:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Đồng chí!”
(Đồng chí – Chính Hữu)
“ Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
(Bài thơ về Tiểu Đội Xe Không Kính – Phạm Tiến Duật)
I/ Mở bài
Hình tượng người lính luôn là đề tài, là nguồn cảm hứng sáng tác bất tận cho các nhà
văn, nhà thơ trong những năm kháng chiến. Viết về họ, có rất nhiều vần thơ đẹp tạo
nên những rung cảm sâu sắc trong lòng người đọc. Trong số đó phải kể đến bài thơ
“Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm
Tiến Duật. Hai bài thơ đã khắc họa hình ảnh người lính trong 2 cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ với những vẻ đẹp cao quý : tinh thần lạc quan, dũng cảm,
thắm tình đồng chí, đồng đội. Vẻ đẹp ấy được thể hiện đặc biệt qua hai đoạn thơ:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Đồng chí!”
(Đồng chí – Chính Hữu)
“ Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
(Bài thơ về Tiểu Đội Xe Không Kính – Phạm Tiến Duật)
II.Thân bài
1/ Khái quát:
Hai bài thơ được ra đời ở hai thời điểm khác nhau. Bài thơ “Đồng chí” được Chính
Hữu viết vào năm 1948 thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp còn “Bài thơ tiểu
đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật viết vào năm 1969 thời kỳ cuộc kháng chiến
chống Mỹ diễn ra ác liệt. Hai đoạn thơ đều cho chúng ta thấy những khó khăn, thiếu
thốn mà những người lính phải trải qua, đồng thời làm hiện hình ảnh người lính với vẻ
đẹp tâm hồn cao quý.
2/ Phân tích
a/ Trước hết bài thơ “Đồng chí” Chính Hữu đã làm hiện lên hình ảnh những người
lính gắn bó với điều kiện chiến đấu gian khổ, thiếu thốn nhưng họ luôn lạc quan và
thắm tình đồng chí đồng đội.
• Những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bộ đội ta phải đối mặt với
muôn vàn khó khăn, gian khổ tất cả điều đó được Chính Hữu gợi tả hết sức chân thực:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Những người lính cách mạng đã chấp nhận cuộc sống quân ngũ thiếu thốn. Họ phải
trải qua gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính. Với những hình ảnh cụ thể , chân
thực (áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, Miệng cười buốt giá, chân không giày)
và các cặp câu thơ sóng đôi đối ứng( áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, Miệng
cười buốt giá, chân không giày) tạo sự nhịp nhàng, cân xứng cho câu thơ, đồng thời
diễn tả sự giống nhau trong mọi cảnh ngộ cuộc đời người lính. Những người lính
trong trang phục phong phanh giữa mùa đông giá lạnh, thiếu thốn về quân tư trang
( áo anh rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày), họ phải chịu cái khắc nghiệt
của thời tiết “ miệng cười buốt giá” đặc biệt họ phải chịu những cơn sốt rét rừng nguy
hiểm “Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Chỉ qua những chi tiết đó thôi đã cho ta
thấy những người lính cách mạng phải chịu những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn đến
nhường nào.
• Đoạn thơ thể hiện hình ảnh người lính với tinh thần lạc quan, thắm tình đồng chí,
đồng đội khó khăn, gian khổ những người lính bộ đội cụ Hồ vẫn sáng nên vẻ đẹp cao
quý.
Họ là những người có tinh thần lạc quan. Trong gian khổ thiếu thốn, tinh thần lạc
quan càng rạng ngời: “Miệng cười buốt giá”. Những gian lao thiếu thốn không làm
mất đi nụ cười của họ, nụ cười của những người lính như xua tan cái giá lạnh của mùa
đông, nụ cười đó còn toát lên tinh thần lạc quan của những người lính. Những người
lính còn thắm tình đồng chí, đồng đội. Tình đồng chí, đồng đội là bản chất cách mạng
của anh bộ đội cụ Hồ. Tình đồng chí, đồng đội đã làm ấm lòng những người chiến sĩ
để họ vẫn cười trong buốt giá và vượt lên trên mọi buốt giá. Những người lính vẫn
cười trong gian lao bởi họ có hơi ấm, niềm tin của tình đồng chí. Tình đồng chí đã
giúp họ vượt qua những gian lao thiếu thốn cuộc kháng chiến. Những người lính đã
quên mình đi để động viên, tuyên truyền cho nhau hơi ấm để có thêm sức mạnh vượt
qua mọi gian lao thiếu thốn.
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Những người lính đã quên đi cái khắc nghiệt của thời tiết, khó khăn thiếu thốn của
cuộc kháng chiến để “tay nắm lấy bàn tay” đây là một cử chỉ rất cảm động chứa chan
tình cảm chân thành. “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, vừa nói lên tình cảm gắn bó
sâu nặng của người những người lính, vừa gián tiếp thể hiện sức mạnh của tình cảm
thấy. Dường như chỉ bằng một cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay” mà những người lính như
truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh, niềm tin giúp họ vượt qua được khó khăn gian
khổ, sưởi ấm cho họ giữa những cánh rừng hoang sương muối mùa đông giá rét.
• Khái quát
Như vậy Chính Hữu đã sử dụng thể thơ tự do, những chi tiết hình ảnh ngôn ngữ giản
dị, chân thực cô động, giàu sức biểu cảm. Các câu thơ sóng đôi, đối ứng đã thể hiện
hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống thực dân Pháp còn nhiều khó khăn
gian khổ thắm tình đồng chí, đồng đội.
b/ Đến với đoạn thơ trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật ta
lại bắt gặp hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn với những khó khăn gian khổ của
cuộc chiến đấu, nhưng lại rất ung dung, hiên ngang, dũng cảm.
Hai câu thơ mở đầu đoạn thơ đã làm nổi bật hình ảnh độc đáo những chiếc xe không
kính. Xưa nay hình ảnh xe , tàu thuyền nếu đưa vào thơ ca thì thường được lãng mạn
hóa, mỹ lệ hóa và còn mang ý nghĩa tượng trưng hơn tả thực Tế Hanh đã từng miêu tả
con thuyền trong bài “Quê hương”, “Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã” và Huy
Cận từng miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trong bài “Đoàn thuyền đánh cá”,
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng”. Những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật
là hình ảnh rất thực. Hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất là giản dị
như một lời nói thường có giọng điệu thản nhiên:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Chính giọng thản nhiên đã gây sự chú ý về vẻ khác lạ của những chiếc xe, tác giả giải
thích nguyên nhân cũng rất thực, giản dị, tự nhiên: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi
rồi” bom đạn chiến tranh đã làm cho những chiếc xe ấy không còn kính chắn gió. Như
vậy hình ảnh những chiếc xe không kính vốn không hiếm trong chiến tranh. Nhưng
phải có một hồn thơ nhạy cảm với những nét ngang tàng nghịch ngợm, thích cái lạ của
Phạm Tiến Duật mới nhận ra và đưa nó thành hình tượng thơ độc đáo của thời kỳ
chiến tranh chống Mỹ. Từ hình ảnh những chiếc xe không kính người đọc hình dung
được sự khốc liệt của chiến tranh.
Từ việc miêu tả những chiếc xe không kính, tác giả muốn ngợi ca người chiến sĩ lái
xe. Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi bật rõ hình ảnh người lính lái xe
Trường Sơn. Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để những
người lính lái xe bộc lộ phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ. Đó là
những người lính lái xe ung dung, hiên ngang, bất khuất.
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Câu thơ đã diễn tả cảm giác ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách khi lái những chiếc xe
không kính, những người chiến sĩ không hề run sợ mà trái lại họ hiện ra tư thế ung
dung, hiêng ngang. Từ láy tượng hình “ ung dung” đã diễn tả rất chính xác tư thế của
những người lính lái xe. Kết cấu trong 6 chữ với nhịp 2/2/2, điệp ngữ “nhìn” cùng
phép đảo ngữ (chữ ung dung đảo lên đầu câu thơ) đã làm nổi bật những cái tư thế ấy.
Dường như ở phía trước cả không gian đất trời thu vào tầm mắt của họ qua khung cửa
xe không có kính chắn gió.
• Khái quát:
Với thể thơ tự do, giọng thơ rất gần với lời nói thường, tự nhiên, khỏe khoắn, từ ngữ
giàu cảm xúc Phạm Tiến Duật đã khắc họa hình ảnh những chiếc xe không kính qua
đó làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn sừng sững hiên ngang
trước mọi khó khăn nguy hiểm.
3/ Đánh giá
Tuy được viết ở các thời điểm khác nhau nhưng hai đoạn thơ đều giúp người đọc cảm
nhận được những khó khăn, thiếu thốn mà người lính cách mạng phải trải qua, đồng
thời làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn cao quý. Họ chính là đại diện cho thế hệ trẻ Việt
Nam trong công cuộc bảo vệ tổ quốc. Cả hai đoạn thơ đều sử dụng những hình ảnh
giản dị, chân thực, từ ngữ giàu hình ảnh, sức gợi.
III. Kết bài
Hình ảnh người lính trong hai đoạn thơ bài thơ “Đồng Chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” đều phải trải qua những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn của cuộc kháng
chiến nhưng đều toát lên với vẻ đẹp tâm hồn cao quý. Đó là những anh lính thời kì
đầu cuộc kháng chiến chống Pháp lạc quan, thắm tình đồng chí, đồng đội; đó là những
anh lính lái xe Trường Sơn dũng cảm, ung dung, hiên ngang. Vẻ đẹp của những người
lính khiến chúng ta yêu mến, cảm phục, tự hào. Là thế hệ trẻ, chúng ta phải tiếp nối
truyền thống yêu nước của thế hệ cha ông đi trước, sống sao cho xứng đáng với những
hi sinh của cha ông.
[NGỮ VĂN 9 - THƠ HIỆN ĐẠI]
BÀI THƠ "ĐỒNG CHÍ"
Nói đến thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp không thể không nói đến Đồng chí
(1948) của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí giản dị, mộc
mạc mà sâu sắc của những người lính cách mạng trong những tháng ngày kháng chiến
gian lao.
Nhà thơ Chính Hữu đã từng nói về tác phẩm của mình:
"... Trong bài thơ Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cả cuộc
chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu là tình
đồng chí, tình đồng đội. Đồng chí ở đây là tình đồng đội. Không có đồng đội, tôi
không thể nào hoàn thành được trách nhiệm, không có đồng đội, có thể nói, tôi cũng
chết lâu rồi. Bài Đồng chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nông
dân của mình."
Thật vậy, không gian trữ tình trong Đồng chí giá buốt mà không lạnh lẽo. Hơi ấm toả
ra từ tình người, từ tình tri kỉ, kề vai sát cánh bên nhau của những con người chung lí
tưởng, chung chí hướng. Đứng trong hàng ngũ cách mạng, chiến đấu cho độc lập, tự
do của Tổ quốc, người lính vượt lên trên mọi gian khó bằng sự sẻ chia, đồng tâm hiệp
lực. Họ sống trong tình đồng đội, nhờ đồng đội, vì đồng đội.
Những người đồng đội ấy thường là những người "nông dân mặc áo lính". Điểm
giống nhau về cảnh ngộ xuất thân giúp họ có thể dễ dàng gần gũi, đồng cảm với nhau:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
"Anh và tôi" từ những vùng quê khác nhau, chỉ giống nhau cái nghèo khó của đất đai,
đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển: "nước mặn đồng chua". Tôi từ vùng đất cao
"cày lên sỏi đá". Hai người xa lạ, từ hai phương trời xa lạ trở thành tri kỉ:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Những người "nông dân mặc áo lính" ấy gặp nhau trong cuộc chiến đấu vì chính cuộc
sống của họ, cùng đứng trong hàng ngũ những "người lính cụ Hồ". Sự nghiệp chung
của dân tộc đã xoá bỏ mọi khoảng cách xa lạ về không gian nơi sinh sống của mỗi
người. ""Súng bên súng" là chung chiến đấu, "đầu sát bên đầu" thì chung rất nhiều:
không chỉ là gần nhau về không gian mà còn chung nhau ý nghĩ, lí tưởng" (Trần Đình
Sử - Đọc văn học văn, Sđd). Đến khi đắp chung chăn trong đêm giá rét thì họ đã thực
sự là anh em một nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: "Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp
cùng" để thể hiện tình kháng chiến gắn bó, bền chặt. Để nói về sự gần gũi, sẻ chia, về
cái thân tình ấm áp không gì hơn là hình ảnh đắp chăn chung. Như thế, tình đồng chí
đã bắt nguồn từ cơ sở một tình tri kỉ sâu sắc, từ những cái chung giữa "anh" và "tôi".
Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai tiếng: "Đồng chí". Nếu không kể nhan đề thì đây là lần
duy nhất hai tiếng "đồng chí" xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu thơ.
Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó đánh dấu một mốc mới
trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng
đội tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩa là
không chỉ có sự gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những
người đồng chí - chiến sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi
nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể, là
những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của "một cây" trong sự giao kết
của "rừng cây", nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa
giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế.
ở phần tiếp theo của bài thơ, với những chi tiết, hình ảnh cụ thể tác giả đã thể hiện tình
cảm sâu sắc của những người đồng chí. Trước hết, họ cùng chung một nỗi nhớ quê
hương:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Trong nỗi nhớ quê hương ấy có nỗi nhớ ruộng nương, nhớ ngôi nhà, nhớ giếng nước,
gốc đa. Nhưng ruộng nương cũng như nhớ tay ai cày xới, ngôi nhà nhớ người trong
lúc gió lung lay, và giếng nước, gốc đa cũng đang thầm nhớ người ra đi. Nỗi nhớ ở
đây là nỗi nhớ hai chiều. Nói "giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính" cũng là thổ lộ
nỗi nhớ cồn cào về giếng nước, gốc đa. Tình quê hương luôn thường trực, đậm sâu
trong những người đồng chí, cũng là sự đồng cảm của những người đồng đội. Người
lính hiện ra cứng cỏi, dứt khoát lên đường theo tiếng gọi non sông song tình quê
hương trong mỗi người không khi nào phai nhạt. Và bên cạnh hình bóng quê hương,
điểm tựa vững chắc cho người lính, là đồng đội:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Kể sao xiết những gian khổ mà người lính phải trải qua trong chiến đấu. Nói về cái
gian khổ của người lính trong kháng chiến chống Pháp, ta nhớ đến cái rét xé thịt da
trong bài Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu:
Cuộc đời gió bụi pha sương máu
Đợt rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa
Nhớ đến cái ác nghiệt của bệnh sốt rét trong Tây Tiến của Quang Dũng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Ta cũng có thể thấy cái buốt giá của núi rừng Việt Bắc, cái ớn lạnh toát mồ hôi của
bệnh sốt rét trong những câu thơ của Chính Hữu. Nhưng nếu như Thôi Hữu viết về cái
rét xé thịt da để khắc hoạ những con người chấp nhận hi sinh, "Đem thân xơ xác giữ
sơn hà", Quang Dũng nói đến sốt rét để tô đậm vẻ đẹp bi tráng của những người chiến
sĩ thì Chính Hữu nói về cái rét, cái ác nghiệt của sốt rét là để nói về tình đồng đội,
đồng chí trong gian khổ, là sự thấu hiểu, cảm thông giữa những người lính. Trong bất
cứ sự gian khổ nào cũng thấy họ sát cánh bên nhau, san sẻ cho nhau: "Anh với tôi
biết...", "áo anh... - Quần tôi...", "tay nắm lấy bàn tay". Cái "Miệng cười buốt giá" kia
là cái cười trong gian khổ để vượt lên gian khổ, cười trong buốt giá để lòng ấm lên,
cũng là cái cười đầy cảm thông giữa những người đồng đội. Giá buốt mà không lạnh
lẽo cũng là vì thế.
Bài thơ kết bằng hình tượng những người đồng chí trong thời điểm thực tại, khi họ
đang làm nhiệm vụ chiến đấu:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Có thể xem đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính trong thơ ca
kháng chiến. Ba câu thơ phác ra một bức tranh vừa mang chất chân thực của bút pháp
hiện thực, vừa thấm đẫm cái bay bổng của bút pháp lãng mạn. Trên sắc xám lạnh của
nền cảnh đêm rừng hoang sương muối, hiện lên hình ảnh người lính - khẩu súng -
vầng trăng. Dưới cái nhìn của người trong cuộc, người trực tiếp đang cầm súng, trong
một sự kết hợp bất ngờ, đầu súng và vầng trăng như không còn khoảng cách xa về
không gian, để thành: "Đầu súng trăng treo.". Sự quan sát là hiện thực, còn sự liên
tưởng trong miêu tả là lãng mạn. Hình ảnh súng tượng trưng cho hành động chiến đấu,
tinh thần quyết chiến vì đất nước. Trăng tượng trưng cho cái đẹp yên bình, thơ mộng.
Hình ảnh "đầu súng trăng treo" mang ý nghĩa khái quát về tư thế chủ động, tự tin
trong chiến đấu, tâm hồn phong phú của người lính. Nói rộng ra, hai hình ảnh tương
phản sóng đôi với nhau tạo nên biểu tượng về tinh thần, ý chí sắt đá mà bay bổng, trữ
tình của dân tộc Việt Nam.
Những người lính là đồng đội, đồng chí, cả dân tộc là đồng chí. Người nghệ sĩ cũng
trở thành đồng chí, nên Hồng Nguyên và Chính Hữu đồng cảm với nhau trước những
người áo vải:
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi "một hai"
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm dao kiếm,
áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Chung nhau cảnh ngộ, chung nhau lí tưởng, chung nhau cái rét, cái khổ,... những
người lính - những người đồng chí sống, chiến đấu vì sự nghiệp chung của dân tộc.
Bài thơ Đồng chí đã thể hiện rất rõ vẻ đẹp của những con người sống và chiến đấu cho
hạnh phúc, tự do.
KIẾN THỨC CƠ BẢN - BÀI THƠ "ĐỒNG CHÍ"
I. Tìm hiểu chung
1/ Tác giả:
- Nhà thơ Chính Hữu (1926-2007), tên khai sinh là Trần Đình Đắc.
- Ông là nhà thơ - chiến sĩ trong suốt thời gian chống Pháp – Mỹ.
- Sáng tác của Chính Hữu chủ yếu tập trung vào hình ảnh người lính trong hai cuộc
kháng chiến. Đặc biệt là tình cảm đồng chí, đồng đội, sự gắn bó của tiền tuyến với hậu
phương.
- Phong cách thơ: Bình dị, cảm xúc dồn nén, vừa thiết tha, trầm hùng lại vừa sâu lắng,
hàm súc.
2/ Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ sáng tác mùa xuân 1948, thời kỳ đầu của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ được coi là một trong những tác phẩm tiêu biểu
nhất viết về người lính cách mạng trong văn học thời kỳ kháng chiến chống pháp.
b. Nội dung chính: Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của
những người lính cách mạng. Đồng thời còn làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị
mà cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Nghệ thuật: Bài thơ sử dụng những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô
đọng và giàu sức biểu cảm.
c. Giải nghĩa từ:
- Đồng chí: người có cùng chí hướng, lý tưởng (đồng: cùng; chí: chí hướng).
- Tri kỷ: biết mình (tri: biết, kỷ: mình), đôi tri kỷ là đôi bạn thân thiết (hiểu bạn như
hiểu chính mình).
- Sương muối: sương giá đọng thành những hạt nhỏ trắng xoá như muối trên cây cỏ
hay mặt đất. Ở miền Bắc nước ta về mùa đông những ngày có sương muối trời rất rét.
d. Nhan đề: (đồng là cùng; chí là chí hướng) Đồng chí là chung chí hướng, chung lý
tưởng. Người cùng trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mạng thường
gọi nhau là “đồng chí”. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 “đồng chí” là cách xưng
hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể cách mạng, đơn vị bộ đội.
- Tình đồng chí là cốt lõi, là bản chất sâu xa của sự gắn bó giữa những người lính cách
mạng
- Tên bài thơ gợi chủ đề của tác phẩm: ca ngợi tình đồng chí đồng đội của những
người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
e. Mạch cảm xúc và bố cục:
- Mạch cảm xúc: Bài thơ theo thể tự do, 20 dòng chia làm 3 đoạn. Cả bài thơ tập trung
thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn sức nặng
của tư tưởng và cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu
đậm (các dòng 7, 17 và 20).
Sáu dòng đầu có thể xem là sự lý giải về cơ sở của tình đồng chí. Dòng 7 có cấu trúc
đặc biệt (chỉ một từ với dấu chấm than) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết
tinh tình cảm giữa những người lính.
Mười dòng tiếp theo, mạch cảm xúc sau khi dồn tụ ở dòng 7 lại tiếp tục khơi mở trong
những hình ảnh, chi tiết biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó.
Ba dòng thơ cuối được tác giả tách ra thành một đoạn kết, đọng lại và ngân rung với
hình ảnh đặc sắc “Đầu súng trăng treo” như là một biểu tượng giàu chất thơ về người
lính.
- Bố cục: 3 đoạn
+ Đoạn 1: 7 câu thơ đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí của những người lính.
+ Đoạn 2: 10 câu thơ tiếp theo: những biểu hiện của tình đồng chí và sức mạnh của
tình cảm ấy ở những người lính.
+ Đoạn 3: 3 câu kết: Biểu tượng đẹp về tình đồng chí.
II/ PHÂN TÍCH BÀI THƠ
1. Trước hết, ở đoạn đầu, với 7 câu tự do, dài ngắn khác nhau, có thể xem là sự lý giải
về cơ sở của tình đồng chí.
- Mở đầu bằng hai câu đối nhau rất chỉnh :
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Hai câu thơ đầu tiên giới thiệu quê hương "anh" và “tôi” – những người lính xuất thân
là nông dân. "Nước mặt đồng chua" là vùng đất ven biển nhiễm phèn khó làm ăn, "đất
cày lên sỏi đá" là nơi đồi núi, trung du, đất bị đá ong hoá, khó canh tác. Hai câu chỉ
nói về đất đai - mối quan tâm hàng đầu của người nông dân, cho thấy sự tương đồng
về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở sự đồng cảm giai cấp của những người lính
cách mạng:
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
- Từ “tôi” chỉ 2 người, 2 đối tượng chẳng thể tách rời nhau kết hợp với từ “xa lạ” làm
cho ý xa lạ được nhấn mạnh hơn.
Tự phương trời tuy chẳng quen nhau nhưng cùng một nhịp đập của trái tim, cùng tham
gia chiến đấu, giữa họ đã nảy nở một thứ tình cảm cao đẹp: Tình đồng chí - tình cảm
ấy không phải chỉ là cùng cảnh ngộ mà còn là sự gắn kết trọn vẹn cả về lý trí, lẫn lý
tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu giành độc lập tự do cho tổ quốc.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
- Tình đồng chí còn được nảy nở và trở thành bền chặt trong sự chan hoà chia sẻ mọi
gian lao cũng như niềm vui, nỗi buồn. Đó là mối tình tri kỷ của những người bạn chí
cốt được biểu hiện bằng hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung
chăn thành đôi tri kỷ”. “Chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, khó khăn của
cuộc đời người lính, nhất là chung hơi ấm để vượt qua cái lạnh, mà sự gắn bó là thành
thật với nhau. Câu thơ đầy ắp kỷ niệm và ấm áp tình đồng chí, đồng đội.
- Cả 7 câu thơ có duy nhất! Từ “chung” nhưng bao hàm nhiều ý: chung cảnh ngộ,
chung giai cấp, chung chí hướng, chung một khát vọng…
- Nhìn lại cả 7 câu thơ đầu những từ ngữ nói về người lính: đầu tiên là “anh” và “tôi”
trên từng dòng thơ như một kiểu xưng danh khi mới gặp gỡ, dường như vẫn là hai thế
giới riêng biệt. Rồi “anh” với “tôi” trong cùng một dòng, đến “đôi người” nhưng là
“đôi người xa lạ”, và rồi đã biến thành đôi tri kỷ - một tình bạn keo sơn, gắn bó. Và
cao hơn nữa là đồng chí. Như vậy, từ rời rạc riêng lẻ, hai người đã dần nhập thành
chung, thành một, khó tách rời.
- Hai tiếng “Đồng chí!” kết thúc khổ thơ thật đặc biệt, sâu lắng chỉ với hai chữ “Đồng
chí” và dấu chấm cảm, tạo một nét nhấn như một điểm tựa, điểm chốt, như đòn gánh,
gánh hai đầu là những câu thơ đồ sộ. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng
định, một tiếng gọi trầm xúc động từ trong tim, lắng đọng trong lòng người về 2 tiếng
mới mẻ, thiêng liêng ấy. Câu thơ như một bản lề gắn kết hai phần bài thơ làm nổi rõ
một kết luận: cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng lý tưởng thì trở thành đồng chí của
nhau. Đồng thời nó cũng mở ra ý tiếp theo: đồng chí còn là những biểu hiện cụ thể và
cảm động ở mười câu thơ sau.
-> như một nốt nhạc làm bừng sáng cả bài thơ, là kết tinh của 1 tình cảm Cách mạng
mới mẻ chỉ có ở thời đại mới. Câu thơ thứ 7 là một câu thơ đặc biệt.
2. Mười câu thơ tiếp theo diễn tả những biểu hiện cụ thể về vẻ đẹp và sức mạnh của
tình đồng chí đồng đội.
- Đồng chí đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng thầm kín của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Đó là tình tri kỷ, hiểu bạn như hiểu mình và còn vì mình là người trong cuộc, người
cùng cảnh ngộ. Với người nông dân, ruộng nương, căn nhà là cả cơ nghiệp, là ước mơ
ngàn đời của họ; họ luôn gắn bó, giữ gìn và chắt bóp cho những gì mình có. Vậy mà
họ đã gác lại tất cả để ra đi đánh giặc. Câu thơ “Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay”
hết sức tạo hình và biểu cảm. Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống mà ra đi biết
người thân ở lại trống trải nhưng cũng “mặc kệ” thì đó quả là sự hy sinh lớn lao và đó
cũng là quyết ra đi mà không dửng dưng vô tình. Các anh hiểu rõ lòng nhau và còn
hiểu rõ nỗi niềm người thân của nhau ở hậu phương: “Giếng nước gốc đa nhớ người
ra lính”, vừa là hình ảnh hoán dụ vừa là hình ảnh nhân hóa. “Giếng nước”, “gốc đa” là
hình ảnh hoán dụ gợi về quê hương, về người thân nơi hậu phương của người lính.
Như vậy, câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực chất là người lính nhớ nhà,
nỗi nhớ hai chiều ngày càng da diết. Vậy là người lính đã chia sẻ với nhau mọi tâm tư,
nỗi niềm, chia sẻ cả những chuyện thầm kín, riêng tư nhất. Họ cùng sống với nhau
trong kỷ niệm, trong nỗi nhớ và vượt lên trên nỗi nhớ.
- Không chỉ chia sẻ cùng nhau những niềm vui, nỗi buồn hay các câu chuyện tâm tình
nơi quê nhà mà họ còn chia sẻ những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính -
"sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Họ đã nhìn thấu và thương nhau từ những chi
tiết nhỏ của đời sống, cùng chịu bệnh tật và những cơn sốt rét rừng ghê gớm mà hầu
như người lính nào cũng phải trải qua. Họ cùng thiếu, cùng rách. Đây là hoàn cảnh
chung của bộ đội ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.
- Những hình ảnh thơ được đưa ra rất chân thực nhưng cô đọng và gợi cảm biết bao ->
diễn ta sâu sắc sự gắn bó đồng cam cộng khổ của các anh, giúp vượt qua mọi thiếu
thốn gian truân, cục nhọc của đời lính.
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Tác giả đã xây dựng những cặp câu sóng đôi, đối ứng nhau (trong từng cặp câu và
từng câu). Đáng chú ý là người lính bao giờ cũng nhìn bạn, nói về bjan trước khi nói
về mình, chữ “anh” bao giờ cũng xuất hiện trước chữ “tôi”. Cách nói ấy phải chăng
thể hiện nét đẹp trong tình cảm thương người như thể thương thân, trọng người hơn
trọng mình. Chính tình đồng đội đã làm ấm lòng những người lính để họ vẫn cười
trong buốt giá và vượt lên trên buốt giá.
- Họ quên mình đi để động viên nhau, truyền cho nhau hơi ấm: “Thương nhau tay nắm
lấy bàn tay”. Đây là một cử chỉ rất cảm động chứa chan tình cảm chân thành. Nó
không phải cái bắt tay thông thường mà là hai bàn tay tự tìm đến với nhau truyền cho
nhau hơi ấm để vượt lên buốt giá, những bàn tay như biết nói. Và đó không phải sự
gắn bó bất chợt mà là sự gắn bó trong chiến đấu, đồng cam cộng khổ khiến tình đồng
chí thêm sâu dày để đi tới chiều cao: cùng sống chết cho lý tưởng. Trong suốt cuộc
kháng chiến trường kỳ đầy gian lao vất vả ấy, tình cảm đồng chí đã đi vào chiều sâu
của sự sống và tâm hồn người chiến sĩ để trở thành những kỷ niệm không bao giờ
quên.
Câu thơ không chỉ nói lên tình cảm gắn bó sâu nặng của những người lính mà còn thể
hiện sức mạnh của tình cảm ấy.
-> Bài thơ “Đồng chí” không rực rỡ chiến công mà rực rỡ tình đồng đội ấm nồng
khiến họ có thể sống và làm nên bao chiến công hiển hách.
3. Ba câu cuối của bài thơ là biểu tượng đẹp nhất, giàu chất thơ nhất về tình đồng chí,
đồng đội cao đẹp.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh rất đặc sắc:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Công việc thực sự của người lính, và tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách gian
lao, trong công việc đánh giặc thực sự là thử thách lớn nhất. Cũng chính ở cái nơi mà
sự sống, cái chết chỉ kề nhau trong tích tắc ấy thì tình đồng chí mới thực sự thiêng
liêng, cao đẹp. Ba câu thơ cuối như đã dựng lên bức tượng đài sừng sững về tình đồng
chí. Trên cái nền hùng vĩ và khắc nghiệt của thiên nhiên: Trong cảnh “rừng hoang
sương muối” - rừng mùa đông ở Việt Bắc sương muối phủ đầy trời, nhưng những
người lính vẫn đứng cạnh bên nhau, im lặng, phục kích chờ giặc tới. Từ “chờ” -> tư
thế chủ động. Hình ảnh của họ sát cánh bên nhau vững chãi làm mờ đi cái gian khổ ác
liệt của cuộc chiến, tạo nên tư thế thành đồng vách sắt trước quân thù. Tình đồng chí
khiến họ vẫn bình thản và lãng mạn bên thềm cuộc chiến đấu, thấy cuộc đời vẫn đẹp
đẽ và thơ mộng ngay giữa nguy hiểm, giao lao.
- Hai câu thơ đối nhau thật chỉnh và gợi cảm giữa khung cảnh và toàn cảnh. Khung
cảnh lạnh lẽo, buốt giá. Toàn cảnh và tình cảm ấm nồng của người lính với đồng đội
của anh -> Ca ngợi sức mạnh của tình đồng đội đã giúp người lính vượt lên tất cả sự
khắc nghiệt của thời tiết. Tình đồng đội đã sưởi ấm lòng các anh giữa rừng hoang mùa
đông và sương muối buốt giá.
- Hình ảnh “đầu súng trăng treo” là hình ảnh độc đáo, bất ngờ, là điểm nhấn của 3
phần, điểm sáng của toàn bài thơ. Hình ảnh thơ rất thực và cũng rất lãng mạn. Hình
ảnh này là có thật trong cảnh giác, được nhận ra từ những đêm hành quân, phục kích
chờ giặc. Trong những đêm phục kích giặc giữa rừng khuya, người lính còn có thêm
một người bạn là trăng. Trăng treo trên nền trời, nhìn lên trăng như treo trên đầu ngọn
súng. Nhịp thơ ở đây là nhịp 2-2 như gợi lên nhịp lắc của một cái gì chung chiêng lơ
lửng trong bát ngát chứ không phải là cột chặt, vừa thực vừa gợi lên nhiều liên tưởng
phong phú: súng là hình ảnh của chiến tranh khói lửa, trăng là hình ảnh của thiên
nhiên trong mát, của cuộc sống thanh bình. Sự hoà nhịp giữa súng và trăng vừa toát
lên vẻ đẹp tâm hồn người lính và tình đồng chí của họ, vừa nói lên ý nghĩa cao cả của
cuộc chiến tranh yêu nước: người lính cầm súng là để bảo vệ cuộc sống hoà bình, độc
lập, tự do cho Tổ quốc. Súng và trăng là gần và xa, là chiến sĩ và thi sĩ, là thực tại và
mơ mộng. Tất cả đã hoà quện, bổ sung cho nhau trong cuộc đời người lính cách mạng.
Câu thơ như nhãn tự của cả bài, vừa mang tính hiện thực, vừa mang sắc thái lãng mạn,
là một biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí thân thiết.
- Ba câu thơ là bức tranh đẹp về tình đồng chí đồng đội của người lính, là biểu tượng
đẹp đẽ giàu chất thơ về cuộc đời người chiến sĩ, của tình đồng chí, đồng đội.
III/ TỔNG KẾT
- Ngôn ngữ thơ cô đọng hình ảnh chân thực, gợi tả, có sức khái quát cao nhằm diễn tả
cụ thể quá trình phát triển của 1 tình cảm Cách mạng thiêng liêng: Tình đồng chí - một
tình cảm chân thực không phô trương mà lại vô cùng lãng mạn và thi vị.
- Giọng thơ sâu lắng, xúc động như một lời tâm tình, tha thiết.
- Bài thơ đã đánh dấu một bước ngoặt mới cho khuynh hướng sáng tác của thơ ca
kháng chiến. Đặc biệt là cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ Cách mạng, anh bộ
đội Cụ Hồ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
KIẾN THỨC CƠ BẢN "CẢNH NGÀY XUÂN"
(Trich "TRUYỆN KIỀU" - NGUYỄN DU)
I. Tìm hiểu chung
1. Vị trí đoạn trích : “Cảnh ngày xuân” là đoạn thơ tả cảnh ngày mùa xuân trong tiết
Thanh minh và cảnh du xuân của chị em Kiều, nằm sau đoạn tả tài sắc hai chị em
Kiều, trước đoạn Kiều gặp nấm mộ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng. Đoạn trích là bức
tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, náo nhiệt.
2. Kết cấu đoạn trích: theo trình tự thời gian của cuộc du xuân.
- Bốn câu đầu: Khung cảnh ngày xuân.
- Tám câu tiếp: khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.
- Sáu câu cuối: cảnh chị em Kiều du xuân trở về.
3. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật.
Giá trị nội dung của “Cảnh ngày xuân”: là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp,
trong sáng và lễ hội mùa xuân tưng bừng, náo nhiệt.
Giá trị nghệ thuật: sử dụng nhiều hình ảnh đắt giá, sáng tạo; nhiều từ láy miêu tả cảnh
vật và cũng là tâm trạng con người; bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình.
II. Đọc – hiểu văn bản
1. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong trẻo, khoáng đạt và căng tràn sức sống (4 câu
đầu)
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
- Hai câu đầu là hình ảnh khái quát về một ngày xuân tươi đẹp với hình ảnh cánh én
chao liệng trên bầu trời thanh bình tràn ngập ánh xuân tươi tắn, trong sáng. Đồng thời,
nhà thơ cũng ngỏ ý ngày xuân qua nhanh quá nhưng “con én đưa thoi”, chín mươi
ngày xuân mà nay “đã ngoài sáu mươi”, đã bước sang tháng thứ ba – tháng cuối cùng
của mùa xuân..
- Hai câu thơ tiếp theo mới thực là bức tranh tuyệt mĩ: “Cỏ non xanh tận chân trời -
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Đây chỉ là chân dung của cảnh ngày xuân, chỉ
giản đơn có cỏ xanh, hoa trắng mà đủ cảnh, đủ màu, làm hiện lên cả một không gian
mùa xuân kháng đạt. Ở đây, Nguyễn Du học tập hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương
thảo liên thiên bích - Lê chi sổ điểm hoa”, nhưng khi đưa vào bài thơ của mình, tác giả
đã rất sáng tạo. Câu thơ Trung Quốc dùng hình ảnh “cỏ thơm” (phương thảo) thiên về
mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng “cỏ xanh” thiên về màu sắc. Đó là màu xanh nhạt pha
với vàng chanh tươi tắn hợp với màu lam trong snág của nền trời buổi chiều xuân làm
thành gam nền cho bức tranh, trên đó điểm xuyết những đốm trắng hoa lê. Bức tranh
dung hoà những sắc độ lạnh mà bên trong vẫn rạo rực sức sống tươi mới của mùa
xuân. Chữ “trắng” đảo lên trước tạo bất ngờ sự mới mẻ, tinh khôi, thanh khiết như kết
tinh những tinh hoa của trời đất. Chữ “điểm” gợi bàn tay người hoạ sĩ vẽ nên thơ nên
hoa, bàn tay tạo hoá tô điểm cho cảnh xuân tươi, làm bức tranh trở nên có hồn, sống
động.
- Hai câu thơ tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du quả là tuyệt bút! Ngòi bút của
Nguyễn Du tài hoa, giàu chất tạo hình ngôn ngữ biểu cảm, gợi tả. Tác giả đã rất thành
công trong bút pháp nghệ thuật kết hợp giữa tả và gợi. Qua đó, ta thấy tâm hồn con
người tươi vui, phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn, hồn nhiên,
nhạy cảm tha thiết với vẻ đẹp thiên nhiên.
2. Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh (8 câu giữa)
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
- Nguyễn Du đã rất tài tình khi tách hai từ Lễ hội ra làm đôi để gợi tả hai hoạt động
diễn ra cùng một lúc: Lễ tảo mộ, Hội đạp thanh.
- Không khí lễ hội được gợi tả từ một hệ thống từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm:
+ Đoạn thơ sử dụng nhiều tính từ (nô nức, gần xa, ngổn ngang) làm rõ hơn tâm trạng
người đi hội.
+ Nhiều danh từ ghép (yến anh, tài tử, giai nhân, chị em, ngựa xe, áo quần) gợi tả sự
đông vui tấp nập.
+ Và nhiều động từ (sắm sửa, dập dìu) gợi được sự rộn ràng của ngày hội.
- Thông qua buổi du xuân của chị em Thuý Kiều, tác giả khắc học hình ảnh một
truyền thống văn hoá lễ hội xa xưa. Cụm từ “nô nức yến anh” là một ẩn dụ gợi lên
hình ảnh từng đoàn nam thanh, nữ tú nô nức đi chơi xuân như những đàn chim én,
chim oanh bay ríu rít. Trong lễ hội mùa xuân náo nhiệt nổi bật nghững nam thanh nữ
tú, những “tài tử giai nhân” tay trong tay dạo chơi, niềm vui lễ hội như bao trùm cả
nhân gian. Những so sánh rất giản dị “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” gợi tả sự
đông vui.
- “Lễ là tảo mộ” - lễ thăm viếng, sửa sang, quét tước phần mộ người thân; đốt vàng
vó, sắc tiền giá để tưởng nhớ những người đã khuất. “Hội là đạp thanh” – vui chơi
chốn đồng quê, đạp lên những thảm cỏ xanh, là một cuộc sống hiện tại và có thể tìm
đến những sợi ta hồng của mai sau. “Lễ” là hồi ức và tưởng niệm quá khứ theo truyền
thống “uống nước nhớ nguồn”, “hội” là khát khao và hoài vọng nhìn về phía trước của
cuộc đời. Lễ và hội trong tiết Thanh minh là một sự giao hoà độc đáo. Chứng tỏ nhà
thơ rất yêu quý, trân trọng vẻ đẹp và giá trị truyền thống văn hoá dân tộc.
2. Cảnh chị em Thuý Kiều du xuân trở về (6 câu cuối)
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
- Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp
cầu bắc ngang nhưng đã nhuốm màu tâm trạng.
- Bóng tịch dương đã chênh chếch xế chiều: “Tà tà bóng ngả về đây”, dòng nước uốn
quanh. Nhưng đây không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật mà dường như con người
cũng chìm trong một cảm giác bâng khuâng khó tả. Cuộc du ngoạn xuân cảnh đã tàn,
lễ hội tưng bừng, náo nhiệt đã chấm dứt, tâm hồn con người như cũng chuyển điệu
cùng cảnh vật, bước chân người thơ thẩn. Cảnh như nhạt dần, lặng dần, mọi chuyển
động đều nhẹ nhàng, không gian mang dáng dấp nhỏ nhoi, bé hẹp, phảng phất buồn.
Tâm trạng con người có cái bâng khuâng xao xuyến về cuộc du xuân đã tàn, có cả linh
cảm về việc gặp gỡ nấm mộ Đạm Tiên và chàng thư sinh Kim Trọng “phong tư tài
mạo tót vời”.
- Nghệ thuật: sử dụng nhiều từ láy như nao nao, tà tà, thanh thanh không chỉ biểu đạt
sức thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người, đặc biệt hai chữ “nao nao”
thoáng gợi nên một nét buồn khó hiểu. Hai chữ “thơ thẩn” có sức gợi rất lớn, chị em
Kiều ra về trong sự bần thần, nuối tiếc, lặng buồn. “Dan tay” tưởng là vui nhưng thực
ra là chia sẻ cái buồn không nói hết. Cảm giá bâng khuâng xao xuyến về một ngày vui
xuân đã hé mở một vẻ đẹp tâm hồn thiếu nữ tha thiết với niềm vui cuộc sống, nhạy
cảm và sâu lắng. Chính các từ này đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật.
Đoạn thơ còn hay bởi đã sử dụng bút pháp cổ điển: tả cảnh gắn với tả tình, tả cảnh ngụ
tình, tình và cảnh tương hợp.
CHIẾC BÓNG OAN NGHIỆT...
( Chuyện người con gái Nam Xương)

Từ thế kỉ thứ XVI, nền văn học trung đại Việt Nam bắt đầu xuất hiện thể loại vãn
xuôi, truyện ngắn, tuỳ bút. Một trong những tác phẩm đó là tập truyện ngắn Truyền kì
mạn lục của Nguyễn Dữ. Ngay từ khi mới ra đời cho đến nay, áng văn chương này đã
được nhiều người đánh giá là “Thiên cổ kì bút” – cây bút kì diệu truyền tới ngàn đời.
Truyện ngắn Chuyên người con gái Nam Xương là tác phẩm thứ 16 trong số 20 truyện
của tập “Kì bút” đó. Nhà nho Nguyễn Dữ khơi nguồn từ một truyện cổ tích vốn chỉ có
cốt truyện sơ sài mang tên là truyện Vợ chàng Trương, rồi bổ sung chi tiết, xây dựng
nhân vật, gọt giũa lời văn,… sáng tạo nên một áng văn chương bác học đặc sắc, lạ kì.
Từ một việc đùa vui – đêm đêm người mẹ chỉ vào chiếc bóng của mình nói với đứa
con nhỏ rằng đó là cha của nó – câu chuyện kể về số phận oan nghiệt của một người
phụ nữ có nhan sắc, đức hạnh, dưới chế độ phụ quyền phong kiến bị nghi ngờ, bị sỉ
nhục, bế tắc, phải tự vẫn. Tuy xa lìa cõi trần đau khổ, nhưng xuống dưới thuỷ cung,
người phụ nữ ấy đã được sống an lành giữa các thần tiên. Tác phẩm thấm đẫm nỗi xót
thương một kiếp người oan khổ, đồng thời thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta
là người tốt phải được đền trả xứng đáng dù chỉ là ở một thế giới huyền bí. Nếu người
trần không hiểu được chiếc bóng âm thầm, lặng lẽ mà oan nghiệt kia thì thần tiên linh
diệu sẽ giải oan cho chiếc bóng, rửa nỗi khổ đau cho con người… Đấy là đại ý, là cảm
hứng toát ra từ câu chuyện và cũng là những lớp nghĩa hàm ẩn mà chúng ta có thể đọc
– hiểu và suy ngẫm được. Những giá trị nội dung hiện thực và lãng mạn đó của tác
phẩm được biểu hiện trong số phận, phẩm chất, tính cách các nhân vật.
Nhân vật thứ nhất : nàng Vũ Nương. Đó là một người vợ đoan chính, một nàng dâu
thảo hiền, một người mẹ rất mực thương con, vậy mà bị hàm oan, rơi vào đau khổ, bế
tắc. Kể về phẩm chất và bi kịch của Vũ Nương, tác giả đặt nhân vật vào những tình
huống, sự việc, chi tiết cụ thể. Tình huống thứ nhất : trong cuộc sống vợ chồng bình
thường, nàng biết rõ chồng có tính đa nghi nên đã “giữ gìn khuôn phép, không từng để
lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”,
mâu thuẫn. Nàng vốn tính thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp, nhưng không được sống
cảnh hạnh phúc gia đình yên ấm lâu dài. Nước nhà có biến, vợ chồng nàng phải tạm
xa nhau. Tinh huống thứ hai : khi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã cư xử rất đúng
mực, chân tình. Nàng rót chén rượu đầy và nói những lời đưa tiễn, dặn dò ngọt ngào,
nồng đượm một tình yêu chung thuỷ : “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong
hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế
là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường…”. Như vây, điều mơ ước lớn
lao nhất của Vũ Nương không phải là danh vọng mà là một cuộc sống gia đình yên
ấm. Biết chồng dấn thân nơi trân mạc, nàng rất xót thương và lo lắng. Còn phận người
vợ ở nhà, Vũ Nương bày tỏ nỗi khắc khoải, nhớ nhung da diết bằng những lời nói ân
tình, ai nghe mà không xúc động : “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi
người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình…”. Đúng là lời nói, cách
nói của một người thuỳ mị, dịu dàng, từng nhịp, từng nhịp biền ngẫu đối xứng, khoan
hoà như nhịp đập của trái tim vây. Trái tim ấy giàu tình yêu thương, biết chịu đựng
những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, đáng trân trọng biết bao. Tình
huống thứ ba : Trong những ngày tháng xa chồng, tình cảm và việc làm của Vũ
Nương đáng trân trọng hơn. Một mình nàng phải đảm đương mọi việc trong gia đình.
Một mình nàng chia sẻ tình cảm yêu thương với tất cả mọi người trong nhà. Với
chồng, “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân
trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng vừa nhớ chồng, thương và
đau buồn cho chính mình phải cô đơn vò võ. Với con, đứa bé ra đời khi cha nó vừa đi
xa, nàng cũng yêu thương da diết. Nàng đã tìm mọi cách để nuôi dạy, chăm sóc và an
ủi để con khỏi thấy trống vắng khi không có cha bên cạnh. Còn với mẹ chồng, Vũ
Nương thật xứng đáng là nàng dâu hiền thảo. Bà cụ ốm “Nàng hết sức thuốc thang lễ
bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Tình thương yêu chân
thành và việc làm nhân hâu ấy của Vũ Nương khiến bà mẹ chồng vô cùng mến
thương, cảm động. Trước khi qua đời, cụ đã trăng trối lại với nàng : “Chồng con nơi
xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng
lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng
phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Những lời nói chân tình như trên của bà mẹ
chổng đã chứng minh tình nghĩa mẹ chồng – nàng dâu của Vũ Nương tốt đẹp biết bao,
vượt lên trên thói đời. Có thể nói, trong ba tư cách : một người vợ, một người con,
một người mẹ, nàng Vũ Nương đã nêu cao phẩm hạnh của người phụ nữ Việt Nam
đảm đang giàu tình thương, thuỷ chung, vô cùng nhân hậu, đáng được ngợi ca, đáng
được đền ơn, đáp nghĩa.
Nhưng, con người đức hạnh ấy đã bị hàm oan, bị nghi ngờ, ruồng rẫy. Tình huống thứ
tư của câu chuyện kể rõ cái bi kịch và nỗi đau khổ ấy của Vũ Nương. Sau khi kể lướt
qua sự việc Trương Sinh nghe lời đứa con nói “thường có một người đàn ông, đêm
nào cũng đến…”, rồi về nhà la mắng vợ, tỏ thái độ nghi ngờ, đánh đập vợ, nhà văn tập
trung bút lực ghi lại những lời nói, lời giãi bày, thanh minh của Vũ Nương, đẩy mâu
thuẫn của truyện đến đỉnh điểm, tô đậm thêm số phận và tính cách nhân vật.
Lời nói thứ nhất: Vũ Nương nói trong nước mắt, vừa khóc vừa nói : “Thiếp vốn con
kẻ khó… Sum họp chưa thoả tình… Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết…, ngõ liễu
tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày
tỏ để cởi mối nghi ngờ…”. Vũ Nương nói vậy để chồng hiểu bản chất tốt đẹp của
mình, tình cảm đơn chiếc và khẳng định tấm lòng chung thuỷ, trong trắng của mình.
Nàng cầu xin chồng đừng nghi oan, nghĩa là hết lòng tìm cách hàn gắn lại hạnh phúc
gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.
Lời nói thứ hai : Vũ Nương nói trong tâm trạng “bất đắc dĩ”, mà không thể chịu đựng,
không thể cầm lòng được. Nàng nói lên nỗi thất vọng khi không hiểu vì sao lại bị đối
xử tàn nhẫn, bị “mắng nhiếc… đánh đuổi đi”, không có quyền được tự bảo vệ, được
thanh minh. Ngay cả khi có “Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho”, nàng
cũng vẫn bị dồn tới chỗ đơn độc. Hạnh phúc gia đình, niềm khao khát được hưởng
“thú vui nghi gia nghi thất” dường như đã tan vỡ. Tinh yêu thương, lòng tin không
còn nữa. Tất cả đã “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn
trước gió…”. Cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hoá đá như núi vọng phu cũng chẳng còn
ý nghĩa gì nữa… Chỉ một đoạn văn ngắn mà tác giả vẽ nên bao nhiêu hình ảnh thiên
nhiên với bao nhiêu nét biểu hiện của những mất mát đáng tiếc, những cái chết vô
cùng xót xa. Nào là “bình rơi trâm gãy”, nào là “sen rũ”, “liễu tàn…” và “khóc tuyết
bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa…”. Nhà văn đã
mượn thiên nhiên để biểu hiện tâm trạng con người theo phong cách ước lộ của văn
chương trung đại. Ngôn từ, nhịp điệu của hai câu vãn ấy ngân nga, tượng hình, biểu
cảm, làm xúc động tâm hồn bạn đọc chúng ta.
Xúc động nhất là khi nghe lời than thở của Vũ Nương bên bờ sông Hoàng Giang.
Nàng không nói mà “than”, không than thở với chồng, với con người nữa mà “ngửa
mặt lên trời”, than với trời, giãi bày tấm lòng và phẩm hạnh của mình với vũ trụ bao
la. Vũ Nương đau đớn hiểu rằng cuộc hôn nhân, hạnh phúc gia đình của nàng không
thể hàn gắn được. Thất vọng đến tột cùng, chán chường cũng đến tột độ. Nhưng nàng
vẫn “tắm gội chay sạch”, vẫn giữ gìn bảo vệ hình hài tư dung đẹp đẽ để gặp gỡ dòng
sông quê hương, để tâm sự với trời đất : “Kẻ bạc mệnh này… thần sông có linh, xin
ngài chứng giám”. Lời than ấy chính là lời nguyền. Vũ Nương nêu lên hai giả định về
kiếp sau của mình bằng những hình ảnh đối lập : “ngọc Mị Nương”, “cỏ Ngu mĩ” và
“mồi cho cá tôm… cơm cho diều quạ”. Tuy giả định hai khả năng về phẩm giá của
mình, nhưng thực chất Vũ Nương khẳng định trước sau, khi sống cũng như khi chết
mình vẫn luôn là một con người chân chính, một người vợ đoan trang chung thuỷ. Nói
xong nàng gieo mình xuống sông, tự vẫn… Hành động này của Vũ Nương thật là
quyết liệt, đẩy câu chuyện đến độ cao trào, đầy kịch tính. Vũ Nương tìm đến cái chết
vừa để bảo toàn danh dự vừa để đấu tranh phê phán người chồng cả ghen, thiếu niềm
tin trong quan hệ vợ chồng. Đó cũng là một hành động bế tắc, đau khổ của một kiếp
người đơn độc theo cách ứng xử của người xưa. Còn ngày nay, nếu ai đó bị rơi vào
hoàn cảnh éo le tương tự, chắc sẽ không như Vũ Nương, tìm đến cái chết tuyệt vọng
mà sẽ bình tĩnh, kiên trì tìm mọi cách – bằng lời nói, bằng việc làm cụ thể… để tự bảo
vệ, minh oan cho mình, chống lại tất cả những gì bất công, phi lí, độc đoán, nhẫn
tâm… Dù sao thì Vũ Nương, người phụ nữ sống trong xã hôi phong kiến ấy cũng rất
đáng thương, đáng trân trọng. Với nàng, không còn con đường nào khác. Nàng đã
hành động quyết liệt nhất sau bao nhiêu cay đắng, bao nhiêu giãi bày, đấu tranh và…
van nài.
Có thể nói Vũ Nương là một phụ nữ xinh đẹp, nết na hiền thục, lại đảm đang, tháo vát,
rất mực hiếu thảo thờ kính mẹ chồng, một dạ thuỷ chung với chồng, hết mực thương
con, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế, đáng ra phải được
hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà phải đối mặt với biết bao oan uổng, đau đớn rồi lại
phải chết một cách lặng lẽ, bi thương. Khắc hoạ một nhân vật vừa có phẩm hạnh mang
tính đạo đức truyền thống Việt Nam, vừa phải chịu những đau khổ khá tiêu biểu cho
biết bao phụ nữ nước ta thời xưa, nhà văn Nguyễn Dữ biểu hiện tấm lòng trân trọng và
xót thương sâu sắc. Mỗi hình ảnh, mỗi từ ngữ, câu văn dành cho nhân vật đều đậm đà
cảm hứng nhân văn, lay động tâm hồn bạn đọc chúng ta.
Nhân vật thứ hai : Trương Sinh. Nếu Vũ Nương là một chân dung có nhiều nét đẹp,
thì Trương Sinh là một hình ảnh của con người mang nhiều tính xấu. Ngay vào đầu
câu chuyện, nhà văn đã kể : “Trương có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá
sức… tuy con nhà hào phú nhưng không có học…”. Nhân vật hiện lên với vài nét
phác thảo như thế cũng đủ bộc lộ tính cách cọn người.
Sau ba năm ở quân ngũ về, tính cách của Trương Sinh bộc lộ rõ dần. Vừa về tới nhà
biết mẹ đã qua đời, Trương Sinh mang tâm trạng nặng nề. Chàng nói “mẹ đã qua đời,
con vừa học nói… Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi”. Nỗi lòng ấy của
Trương Sinh đáng được thông cảm. Nếu là người giàu tình thương, biết thương mẹ,
thương con, hẳn chàng cũng biết thương vợ và cảm thông những nỗi vất vả của vợ
trong ba năm mình xa nhà. Nhưng éo le thay, chàng lại phải đối mặt với một sự việc
không bình thường. Đó là câu chuyện của hai cha con khi viếng mộ bà mẹ. Lời của
đứa trẻ lên ba hồn nhiên, ngây thơ đã kích động tính đa nghi, thói ghen tuông trong
lòng Trương Sinh. Lời nói được tách làm hai phần nêu những thông tin mập mờ, đáng
suy nghĩ. “Thế ra ông cũng là cha tôi ư ?”. Thoạt đầu đứa trẻ ngạc nhiên thấy mình có
hai người cha, một người cha cũ và một người cha mới. Sau đó, đứa trẻ kể về người
cha mà nó từng biết. Đó là một người “chỉ nín thin thít… một người đàn ông, đêm nào
cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản
cả”. Chao ôi, toàn là những dữ liệu đáng ngờ ! Tuy chỉ là lời thỏ thẻ của trẻ lên ba
nhưng sao nó chân thật làm vậy. Tục ngữ cổ xưa từng đúc kết kinh nghiệm “Đi hỏi
già, về nhà hỏi trẻ”. Thế là vốn sẵn tính đa nghi, hay ghen, lại đang trong tâm trạng
buồn khổ, Trương Sinh đã “đinh ninh là vợ hư”. Chàng “đinh ninh”, nghĩa là đã khẳng
định điều mình nghe được là chính xác, khẳng định rằng vợ mình không chung thuỷ,
đã hư đốn, đã phản bội mình. Đó là cách suy nghĩ vội vàng, một chiều của con người
vốn độc đoán.
Từ sự suy nghĩ ấy, Trương Sinh đã xử sự hồ đồ. Chàng không bình tĩnh để phán đoán,
phân tích lời đứa con nói, cũng không thẳng thắn, hỏi han, hoặc “chất vấn”, thậm chí
có thể theo dõi hành động, thái độ của vợ… Trái lại, chàng đã không chịu nghe những
lời phân trần của vợ, không tin cả những nhân chứng bênh vực cho nàng, cũng không
để cho vợ có cơ hội giãi bày, giảng giải, minh oan. Nút của câu chuyện mỗi lúc thêm
căng thẳng. Đỉnh điểm là thái độ và hành động của Trương Sinh. Chàng trở thành kẻ
vũ phu, thô bạo “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Thế là bi kịch đã xảy ra. Vũ
Nương bị đẩy đến cái chết oan nghiệt. Trong những nguyên nhân của cái chết ấy có
bàn tay của Trương Sinh. Chàng chính là người đã bức tử người vợ đáng yêu đáng
quý nhất của mình. Chỉ đến khi còn lại hai cha con vò võ một mình, đối mặt với cái
bóng của chính mình – cái bóng oan khiên, chàng mới thấu tỏ nỗi oan tình của vợ.
Hạnh phúc đã tan vỡ. Lỗi lầm của chàng không sao sửa nổi !
Như vậy, nhân vật Trương Sinh tiêu biểu cho những người đàn ông nặng tư tưởng phụ
quyền trong xã hội phong kiến xưa, cũng là biểu tượng cho tất cả những ai trong cõi
đời này mang thói ghen tuông vô cớ, sống không có niềm tin, lại vũ phu, tàn nhẫn,…
Nhân vật có ý nghĩa phê phán nghiêm khắc xã hội, đồng thời cảnh tỉnh con người
trong cuộc sống xưa cũng như ngày nay.
Ngoài bi kịch của hai nhân vật chính trong câu chuyện, tác phẩm còn kể thêm phần
“Truyền kì”, mang tính lãng mạn, kì ảo, khá thú vị. Điều đáng nói là ý nghĩa của
những yếu tố truyền kì ấy. Trước hết, nó hoàn chỉnh thêm nét đẹp của nhân vật Vũ
Nương. Dù ở thế giới khác, nàng vẫn nặng tình với đời, quan tâm đến chồng con, phần
mộ tổ tiên, vẫn khao khát được phục hổi danh dự. Điều quan trọng hơn là những yếu
tố truyền kì ấy đem lại cho tác phẩm một cách kết truyện có hậu. Nó như khúc vĩ
thanh trong bản nhạc để ngân lên những ước mơ ngàn đời của nhân dân ta rằng cuộc
đời luôn công bằng, người tốt dù trải bao oan khuất, cuối cùng sẽ được đền trả xứng
đáng, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng… Nhờ đoạn vĩ thanh truyền kì này, tác phẩm
Chuyên người con gái Nam Xương vợi đi phần nào âm hưởng bi thương, đau đớn, để
đánh thức trong lòng người đọc những niềm tin, những mong muốn tươi sáng, lạc
quan.
Thể hiện những khía cạnh nội dung sâu rộng như trên, Chuyên người con gái Nam
Xương đã đạt tới những đặc sắc nghệ thuật rất đáng trân trọng. Trước hết là cách dẫn
dắt tình huống, sự việc, chi tiết của truyện. Tất cả mọi diễn biến tính cách, số phận
nhân vật xoay quanh hình ảnh “cái bóng”. Cái bóng ấy không xuất hiện ở phần đầu,
phần giữa, cũng không được miêu tả nhiều lần – trong đời Chực của hai mẹ con Vũ
Nương nó từng hiện lên hàng đêm – mà nó xuất hiện ở cuối tác phẩm, chỉ một lần duy
nhất, lại là cái bóng của chính Trương Sinh. Nhờ tài sắp xếp chi tiết như thế của nhà
văn mà câu chuyện trở nên hồi hộp, hấp dẫn, kịch tính mỗi lúc một căng thẳng, khiến
người đọc không thể buông rời trang sách. Cái bóng oan nghiệt biết bao, cái bóng thắt
buộc và cũng mở gỡ tài tình biết bao. Cùng với nghệ thuật dẫn dắt tình tiết câu
chuyện, nhà vãn đã khắc hoạ nhân vật, nhất là nhân vật Vũ Nương, Trương Sinh và bé
Đản.
Các nhân vật hiện lên với lời nói, việc làm, cử chỉ bộc lộ sự diễn biến tâm trạng tính
cách khá lô gích, chặt chẽ. Thêm nữa, lời kể, giọng văn và những hình ảnh so sánh, ẩn
dụ, tuy có phần ước lệ, nhưng vẫn sinh động, chất hiện thực lãng mạn hài hoà, biểu ý
và biểu cảm kết hợp nhuần nhị.
Tóm lại, Chuyện người con gái Nam Xương khẳng định nét đẹp tâm hồn mang tính
truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời thể hiện niềm thương cảm cho số
phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến. Đây là một áng
văn hay, thành công về mặt dựng truyện, khắc hoạ nhân vật, kết hợp tự sự, trữ tình và
kịch, kết hợp ngòi bút hiện thực và lãng mạn. Từ một chiếc bóng oan nghiệt, tác phẩm
thấm đẫm cảm hứng nhân văn, mở ra trước mắt người đọc biết bao điều sâu rộng về
tình nghĩa vợ chồng, về quan hệ giữa người với người. Đó là một áng “Thiên cổ kì
bút”, đáng tìm hiểu và suy ngẫm...
[NGỮ VĂN 9] CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
Vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương.
============== ==============
1/ 𝑵𝒂̀𝒏𝒈 𝒍𝒂̀ 𝒏𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒗𝒐̛̣ 𝒓𝒂̂́𝒕 𝒎𝒖̛̣𝒄 𝒕𝒉𝒖̉𝒚 𝒄𝒉𝒖𝒏𝒈, 𝒕𝒊̀𝒏𝒉 𝒏𝒈𝒉𝒊̃𝒂 𝒗𝒐̛́𝒊 𝒄𝒉𝒐̂̀𝒏𝒈
- Ngay mở đầu tác phẩm, VN đã được giới thiệu là người phụ nữ thùy mị, nết na, tư
dung tốt đẹp.
- Trong cuộc sống vợ chồng, biết chồng có tính đa nghi lại hay ghen nên lúc nào nàng
cũng giữ gìn khuôn phép, không để xảy ra thất hòa.
- Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải đi lính. Trong buổi sáng tiễn
đưa chồng, nàng rót chén rượu đầy nói lời tình nghĩa thiết tha khiến ai nghe cũng phải
chau mày rơi lệ : “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng mong mặc áo gấm trở về quê cũ,
chỉ mong ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi.” => nàng không hề
mong chờ công danh phú quý mà chỉ khát khao hạnh phúc gia đình bình dị, mong
chồng trở về bình an.
- Nàng thông cảm, thấu hiểu cho những nỗi gian lao vất vả mà chồng phải chồng phải
chịu đựng nơi trận mạc, nàng bày tỏ nỗi nhớ thương chồng, trông chờ khắc khoải.
- Khi xa chồng, nàng luôn đau đáu nỗi nhớ thương chồng không thể nguôi ngoai, nỗi
nhớ kéo dài qua năm tháng, bao trùm lên không gian cảnh vật “ Mỗi khi bướm lượn
đầy vườn, mây che kín núi……. cho được”.
- Suốt những năm tháng TS đi lính, nàng một lòng một dạ thủy chung với chồng:
“Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu
tường chưa hề bén gót”.
 Với vai trò của một người vợ, Vũ Nương là người phụ nữ chung thủy, mẫu mực, lí
tưởng trong xã hội phong kiến.
2/ 𝑳𝒂̀ 𝒏𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒄𝒐𝒏 𝒅𝒂̂𝒖 𝒉𝒊𝒆̂́𝒖 𝒕𝒉𝒂̉𝒐
- Bà mẹ vì nhớ con mà dần sinh bệnh. Vũ Nương đã hết lòng phụng dưỡng:
+ Chạy chữa thuốc thang
+ Lễ bái thần phật
+ Dùng lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn, mong mẹ chồng chóng khỏi bệnh để đợi
ngày vui sum họp.
- Khi mẹ chồng mất, nàng lo ma chay tế lễ chu tất như đối với cha mẹ đẻ của mình.
- Lời trăng trối của bà mẹ chồng trước phút lâm chung: “Xanh kia quyết chẳng phụ
con như con đã chẳng phụ mẹ” là lời khẳng định chắc nịch cho phẩm chất hiếu hạnh
của nàng (Trong XHPK xưa, mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu vốn vô cùng phức tạp,
để có được lời ghi nhận của bà mẹ chồng thì chắc hẳn tấm lòng hiếu thảo của Vũ
Nương dành cho mẹ là tuyệt đối)
3/ 𝑳𝒂̀ 𝒏𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒎𝒆̣ 𝒈𝒊𝒂̀𝒖 𝒍𝒐̀𝒏𝒈 𝒚𝒆̂𝒖 𝒕𝒉𝒖̛𝒐̛𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏
- Để con không thiếu vắng tình cha, không thiếu vắng hơi ấm đoàn viên nên hằng đêm
nàng thường trỏ bóng mình trên vách mà nói là cha Đản.
- Chi tiết này còn nói lên tình yêu thương chồng, nỗi nhớ chồng luôn thường trực, đau
đáu, coi mình với chồng giống như hình với bóng không thể tách rời.
4/ 𝑳𝒂̀ 𝒏𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒑𝒉𝒖̣ 𝒏𝒖̛̃ 𝒕𝒓𝒐̣𝒏𝒈 𝒅𝒂𝒏𝒉 𝒅𝒖̛̣, 𝒏𝒉𝒂̂𝒏 𝒑𝒉𝒂̂̉𝒎 𝒗𝒂̀ 𝒕𝒊̀𝒏𝒉 𝒏𝒈𝒉𝒊̃𝒂
a/ Trọng danh dự, nhân phẩm
- Ngày Trương Sinh trở về cũng là lúc mà tai họa ập đến cuộc đời nàng. Trương Sinh
về, mẹ đã mất, chàng buồn khổ bế con ra thăm mộ mẹ nhưng thằng bé nhất quyết
không gọi chàng là cha mà còn đưa ra những câu nói chứa đầy dữ kiện đáng ngờ : “Có
một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi
nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Lời nói của bé Đản đã làm thổi bùng lên ngọn lửa
ghen tuông trong lòng Trương Sinh, TS không giữ được bình tĩnh đã về nhà mắng
nhiếc, đánh đuổi vợ đi.
- Trước cảnh hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ thì Vũ Nương đã cố gắng phân
trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, để hàn gắn hạnh phúc gia đình:
+ Ở lời nói đầu tiên, nàng nói đến thân phận mình, đến tình nghĩa vợ chồng và khẳng
định tấm lòng trinh bạch trắng trong của mình. Cầu xin chồng đừng nghi oan nghĩa là
nàng đang cố gắng để hàn gắn, để cứu vãn hạnh phúc gia đình trước nguy cơ tan vỡ.
+ Ở lời nói thứ hai, nàng đã bộc lộ nỗi đau đớn thất vọng khi không hiểu sao mình bị
nghi oan, không thể biện minh cho mình và cũng không được bảo vê bởi lời biện bạch
của hàng xóm láng giềng. “Thú vui nghi gia nghi thất”, hạnh phúc gia đình mà nàng
khát khao cả đời bây giờ cũng tan vỡ. Cuộc đời của nàng đã không còn ý nghĩa gì nữa.
+ Nàng chẳng còn gì cả ngoài nỗi thất vọng tột cùng và nỗi đau đớn ê chề bởi cuộc
hôn nhân đã không còn cách nào hàn gắn nổi mà nàng lại phải gánh chịu một nỗi oan
khuất tày đình. Bị dồn đến bước đường cùng sau mọi cố gắng không thành, Vũ Nương
chỉ còn biết mượn dòng Hoàng Giang để rửa nỗi ô nhục. Hành động tìm đến cái chết
của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng, chất chứa nỗi tuyệt vọng đắng cay nhưng
cũng đi theo sự chỉ đạo của lí trí.
 Nàng coi danh dự, nhân phẩm còn quan trọng hơn cả mạng sống của mình cho nên
sẵn sàng chết để bảo vệ nhân phẩm, bảo vệ danh dự.
- Sống dưới thủy cung, nàng vẫn luôn khát khao được trả lại danh dự. Chỉ khi Trương
Sinh lập đàn giải oan thì nàng mới trở về có nghĩa là Trương Sinh phải thừa nhận nỗi
oan khuất của nàng  trọng danh dự, nhân phẩm.
b/ Trọng tình nghĩa, bao dung, nhân hậu
- Mặc dù sống dưới thủy cung, ở một thế giới khác, được trân trọng, được yêu thương
nhưng nàng vẫn đau đáu nỗi niềm nơi trần thế, vẫn nghĩ về chồng con, vẫn nghĩ về mộ
phần tiên tổ.
- Nàng không hề trách cứ kẻ đã gây ra cái chết cho mình, vẫn nói lời đa tạ, vẫn cảm
kích khi Trương Sinh “nhớ chút tình xưa nghĩa cũ” mà lập đàn giải oan đón nàng về.
 Vũ Nương chính là khuôn vàng thước ngọc cho đạo đức lễ giáo phong kiến, người
như nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhưng chính XHPK với những bất công
ngang trái đã đẩy nàng đến cái chết.
BỘ ĐỀ VÀ ĐÁP ÁN THI HỌC SINH GIỎI
MÔN NGỮ VĂN LỚP 9

ĐỀ SỐ 1

Câu 1: (4,0 điểm) Giá trị của biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ sau:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa.


Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

(Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận, Ngữ văn 9 tập I)

Câu 2: (6,0 điểm)

Vết nứt và con kiến

Khi ngồi ở bậc thềm nhà, tôi thấy một con kiến đang tha chiếc lá trên lưng. Chiếc lá
lớn hơn con kiến gấp nhiều lần.
Bò được một lúc, con kiến chạm phải một vết nứt khá lớn trên nền xi măng. Nó dừng
lại giây lát. Tôi nghĩ con kiến hoặc là quay lại, hoặc là nó sẽ một mình bò qua vết nứt
đó. Nhưng không. Con kiến đặt chiếc lá ngang qua vết nứt trước, sau đó đến lượt nó
vượt qua bằng cách bò lên trên chiếc lá. Đến bờ bên kia, con kiến lại tha chiếc lá và
tiếp tục cuộc hành trình.

Hình ảnh đó bất chợt làm tôi nghĩ rằng tại sao mình không thể học loài kiến bé nhỏ
kia, biến trở ngại, khó khăn của ngày hôm nay thành hành trang quý giá cho ngày
mai tươi sáng hơn.

(Hạt giống tâm hồn 5- Ý nghĩa cuộc sống, NXB Tổng hợp TP. HCM)

Hãy nêu suy nghĩ của em về ý nghĩa của văn bản trên và rút ra bài học cho bản thân.

Câu 3: (10 điểm) Nhận xét về truyện "Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Thành Long, có ý
kiến cho rằng:

"Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người lao
động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều
gian khổ và hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người
ấy gợi lên cho ta những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, của lao động tự giác, về
con người và về nghệ thuật".

Qua truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa", em hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.

Đáp án
Câu 1: (4 điểm) Học sinh có thể viết thành bài văn ngắn hoặc đoạn văn nhưng bài
làm trả lời đươc các ý sau:

Xác định biện pháp tu từ: 1,5 điểm

 Biện pháp tu từ so sánh: Mặt trời như hòn lửa


 Biện pháp tu từ nhân hoá, ẩn dụ: Sóng cài then; đêm sập cửa, câu hát căng
buồm.

Giá trị của biện pháp tu từ: 2,5 điểm

 Gợi lên khung cảnh hoàng hôn rực rỡ, tráng lê, kỳ vĩ. Vũ trụ như một ngôi nhà
lớn đi vào trạng thái nghỉ ngơi. 1 điểm
 Hình ảnh con người đẹp khỏe khoắn, niềm vui, niềm lạc quan của người lao
động trước cuộc sống mới... 1,5 điểm

Câu 2: (6 điểm)

Về kỹ năng

 Kiểu bài: Nghị luận xã hội.


 Bài viết cần có bố cục đủ 3 phần, luận điểm sáng rõ, lập luận chặt chẽ, thuyết
phục, dẫn chứng cụ thể sinh động, lời văn trong sáng.

Về kiến thức

Xác định đúng vấn đề nghị luận: Từ ý nghĩa câu chuyện "Vết nứt và con kiến", rút ra
vấn đề nghị luận: con người cần phải biết biến những khó khăn trở ngại trở ngại trong
cuộc sống thành hành trang quý giá cho ngày mai.

Nội dung chính:

 Tóm tắt khái quát được vấn đề từ câu chuyện: cần kiên trì, bền bỉ, sáng tạo...
vượt qua những trở ngại, những áp lực, thách thức trong cuộc sống và biến nó
thành những trải nghiệm thú vị, vô giá cho chính bản thân con người.
 Trên đường đời, con người luôn gặp những khó khăn, trở ngại, thử thách. Đây
là một tất yếu của cuộc sống.
 Thái độ và hành động của con người: tìm những cách thức, biện pháp cụ thể để
vượt qua nó hay né tránh, bỏ cuộc... (dẫn chứng cụ thể).
 Lựa chọn đối mặt với khó khăn, thử thách và vượt qua nó là một lựa chọn đúng
đắn, cần thiết, để nó thành hành trang quý giá cho tương lai... (dẫn chứng cụ
thể).
 Phê phán những thái độ và hành động sai: bi quan, chán nản, than vãn, bỏ
cuộc,...
 Củng cố thái độ, hành động đúng cho bản thân và kêu gọi cộng đòng: rèn luyện
sự quyết tâm, kiên trì, sự sáng tạo, niềm tin, hi vọng, lạc quan,... trong khi giải
quyết các vấn đề khó khăn trong cuộc sống.
Biểu điểm:

 Điểm 5 - 6: Hiểu rõ yêu cầu của đề bài, đảm bảo các yêu cầu về kĩ năng và kiến
thức, có lập luận chặt chẽ, có sự kết hợp nhuần nhuyễn các thao tác lập luận,
bài viết có cảm xúc, diễn đạt lưu loát.
 Điểm 3-4: Hiểu rõ yêu cầu của đề bài, đáp ứng hầu hết các yêu cầu về kĩ năng
và kiến thức, có lập luận tương đối chặt chẽ, có sự vận dụng thành công thao
tác lập luận, diễn đạt tương đối tốt.
 Điểm 1 -2: Hiểu yêu cầu của đề bài, đáp ứng được một số các yêu cầu về kĩ
năng và kiến thức, lập luận chưa thật chặt chẽ, có thể còn một số lỗi nhỏ về
chính tả và diễn đạt.
 Điểm 0: Lạc đề hoặc để giấy trắng.

Câu 3: (10 điểm)

* Về kỹ năng: Hiểu đúng yêu cầu của đề bài. Biết cách làm bài văn nghị luận bố cục
rõ ràng, kết cấu hợp lí. Diễn đạt tốt, không mắc các lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

* Về nội dung:

Học sinh có thể sắp xếp trình bày theo nhiều cách khác nhau, có thể có những ý kiến
riêng miễn sao phải phù hợp với yêu cầu của đề bài. Dù triển khai theo trình tự nào
cũng cần đạt được những ý chính sau đây.

A/ Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người
lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều
gian khổ và hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ.

Qua các nhân vật với những công việc và lứa tuổi khác nhau, nhà văn muốn khái quát
những phẩm chất cao đẹp của con người mới trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội
và chống Mĩ cứu nước. Họ có những suy nghĩ đúng đắn, lặng lẽ cống hiến cho tổ
quốc, tâm hồn trong sáng và giàu lòng nhân ái.

1/ Vẻ đẹp cao cả chung của các nhân vật.

 Ý thức trách nhiệm trước công việc: anh thanh niên, đồng chí cán bộ khoa học.
 Sống có lý tưởng, sẵn sàng cống hiến: anh thanh niên, cô kỹ sư trẻ (cô kĩ sư trẻ
mới ra trường lần đầu tiên xa Hà Nội, dũng cảm lên nhận công tác tại Lai Châu.
Cô là lớp thanh niên thề ra trường đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì...)
 Nhận thức sâu sắc ý nghĩa công việc: anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau,
người cán bộ nghiên cứu khoa học...
 Yêu thích, say mê công việc, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, dám chấp nhận
cuộc sống cô độc để làm việc, làm việc một cách kiên trì, tự giác bất chấp hoản
cảnh : anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau, người cán bộ nghiên cứu khoa học.

2/ Vẻ đẹp trong cuộc sống bình thường.


Tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên.

 Đó là con người sống, làm việc một mình trên đỉnh núi cao mà không cô đơn.
Anh tổ chức sắp xếp cuộc sống của mình trên trạm khí tượng thật ngăn nắp,
chủ động, giản dị (căn nhà nhỏ, giường cá nhân...). Anh sống lạc quan yêu đời-
trồng hoa, nuôi gà, đọc sách.
 Đó là một người khiêm tốn: lặng lẽ hoàn thành công việc, không tự nhận thành
tích về mình, luôn nhận thức được công việc của mình làm là những đóng góp
nhỏ bé cho đất nước; ham mê học hỏi, phấn đấu bởi xung quanh anh có biết
bao con người, bao tấm gương, bao điều đáng học (những ông kĩ sư vườn rau,
anh cán bộ nghiên cứu sét...)
 Một con người sống cởi mở, tốt bụng, luôn quan tâm đến mọi người một cách
chân thành, chu đáo: việc đi tìm củ tam thất cho vợ bác lái xe, đón ông hoạ sĩ
già và cô kỹ sư trẻ thân tình, nồng hậu; hồn nhiên, yêu cuộc sống: thèm người,
thèm chuyện trò...
 Khẳng định, khái quát: Tác phẩm thật sự là một bài thơ về vẻ đẹp trong cách
sống và suy nghĩ của người lao động bình thường mà cao cả. Họ chính là
những thế hệ tiêu biểu cho lớp người mới, cho thanh niên Việt Nam thời chống
Mĩ cứu nước.

Tuy không trực tiếp chiến đấu, song họ đã góp phần không nhỏ để xây dựng cuộc
sống mới và góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến của dân tộc. Họ nối tiếp
nhau xứng đáng là chủ nhân của đất nước này.

(Học sinh có thể trình bày trên cơ sở phân tích từng nhân vật để làm nổi bật ý tưởng
chung, tuy nhiên, cần tập trung vào nhân vật trung tâm là anh thanh niên)

B/ Tác phẩm gợi lên những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, của lao động tự giác
về con người và về nghệ thuật".

 Cuộc sống của mỗi người chỉ thực sự ý nghĩa khi mọi việc làm , hành động của
họ đều xuất phát từ tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu và tự hào về mảnh
đất mình đang sống.
 Con người biết sống có lý tưởng, say mê với công việc, hiểu được ý nghĩa của
công việc mình làm. Con người cần tự nhìn vào chính bản thân để sống tốt đẹp
hơn.
 Thông qua suy nghĩ của người hoạ sĩ : vẻ đẹp của con người và của cuộc sống
chính là nguồn cảm hứng vô tận để người nghệ sĩ sáng tạo những tác phẩm
nghệ thuật có giá trị .

Biểu điểm cụ thể:

 Điểm 9 - 10: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên, tỏ ra sắc sảo khi giải thích, chứng
minh nhận định bằng những ý kiến riêng, diễn đạt lưu loát, văn viết giàu cảm
xúc, sáng tạo.
 Điểm 7 - 8: Đáp ứng phần lớn các yêu cầu trên, diễn đạt khá tốt, văn mạch lạc,
trong sáng, còn một vài sai sót về ngữ pháp, chính tả.
 Điểm 5 - 6: Hiểu và nắm được yêu cầu của đề, bố cục mạch lạc, văn viết có
cảm xúc, còn một vài sai sót về diễn đạt, trình bày.
 Điểm 3 - 4: Hiểu đề song nội dung còn sơ sài, giải quyết vấn đề còn lúng túng,
không xoáy được trọng tâm, diễn đạt lủng củng.
 Điểm 1 - 2: Không nắm vững yêu cầu của đề, bài làm sơ sài, mắc nhiều lỗi
chính tả, diễn đạt, trình bày.
 Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề, diễn đạt kém hoặc bỏ giấy trắng.

ĐỀ SỐ 2

Câu 1 (6 điểm)

Nhận xét về vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện, có ý kiến cho rằng: "Chi tiết
nhỏ làm nên nhà văn lớn". Hãy phân tích chi tiết "chiếc bóng" trong tác phẩm
"Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ đã làm rõ điều đó.

Câu 2 (4 điểm)

Nêu suy nghĩ của em về câu chuyện sau:

Dưới đây là lời kể của một người mẹ - một trong hàng trăm người tham gia "hôi của"
trong vụ tai nạn xe tải chở hàng nghìn thùng bia lon Tiger bị lật tại vòng xoay Tam
Hiệp (TP. Biên Hòa, Đồng Nai) vào chiều 04/12/2013:

Hôm đó, tôi đang trên đường đón con gái học lớp 7 về. Đến gần vòng xoay Tam Hiệp,
tôi thấy phía trước hỗn loạn khi có chiếc xe tải bị lật giữa đường, nhiều người mạnh ai
nấy lao vào hốt bia bị đổ. Không chút suy nghĩ, tôi vội dựng xe giữa đường, kêu con
giữ xe và cũng lao vào hốt bia. Đến khi tôi trở ra, trên tay đầy bia và nhìn thấy con gái
mặt buồn thiu, tôi cũng chẳng chút bận tâm. Suốt đoạn đường về nhà, con tôi chỉ lặng
thinh và mãi sau mới hỏi: "Mẹ lấy bia làm gì khi nhà mình không ai uống?"

(Theo Việt Nam Nét ngày 08/12/2013)

Câu 3: (10 điểm)

Trong văn bản "Tiếng nói của văn nghệ", Nguyễn Đình Thi viết:

"Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại.
Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới
mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của
mình góp vào đời sống chung quanh".

(Ngữ Văn 9, Tập II, Tr 12,13- NXB GD 2005)


Qua "Bài thơ về tiểu đội xe không kính", em hãy làm sáng tỏ "điều mới mẻ", "lời nhắn
nhủ" mà nhà thơ Phạm Tiến Duật muốn đem "góp vào đời sống".

Đáp án

Câu 1: 4 điểm.

1. Yêu cầu chung:

* Hình thức:

 Học sinh biết vận dụng kiến thức và kĩ năng nghị luận để suy nghĩ trình bày về
một vấn đề trong tác phẩm văn học. Đó là vai trò của một chi tiết nghệ thuật
trong một tác phẩm văn học.
 Bài viết lập luận chặt chẽ. Văn viết mạch lạc, trong sáng; chuyển ý linh hoạt,
không mắc các lỗi.

* Về nội dung kiến thức:

a. Nêu được vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện:

 Chi tiết là một trong những yếu tố nhỏ nhất tạo nên tác phẩm (...), để làm nên
một chi tiết nhỏ có giá trị đòi hỏi nhà văn phải có sự thăng hoa về cảm hứng và
tài năng nghệ thuật.
 Nghệ thuật là một lĩnh vực đặc thù: Tầm vóc của người nghệ sỹ có thể được
làm nên từ những yếu tố nhỏ nhất. Nhà văn lớn có khả năng sáng tạo được
những chi tiết nhỏ nhưng giàu giá trị biểu đạt, góp phần đắc lực trong việc thể
hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

b. Đánh giá giá trị của chi tiết "chiếc bóng" trong "Chuyện người con gái Nam
Xương":

* Giá trị nội dung:

 "Chiếc bóng" tô đậm thêm nét đẹp phẩm chất của Vũ Nương trong vai trò
người vợ, người mẹ. Đó là nỗi nhớ thương, sự thuỷ chung, ước muốn đồng
nhất "xa mặt nhưng không cách lòng" với người chồng nơi chiến trận; đó là
tấm lòng người mẹ muốn khỏa lấp sự trống vắng, thiếu hụt tình cảm người cha
trong lòng đứa con thơ bé bỏng.
 "Chiếc bóng" là một ẩn dụ cho số phận mỏng manh của người phụ nữ trong chế
độ phong kiến nam quyền. Họ có thể gặp bất hạnh bởi bất cứ một nguyên nhân
vô lý nào mà không lường trước được. Với chi tiết này, người phụ nữ hiện lên
là nạn nhân của bi kịch gia đình, bi kịch xã hội.
 "Chiếc bóng" xuất hiện ở cuối tác phẩm "Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang
loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất": Khắc hoạ giá trị hiện thực - nhân đạo sâu
sắc của tác phẩm.
 Chi tiết này còn là bài học về hạnh phúc muôn đời: Một khi đánh mất niềm tin,
hạnh phúc chỉ còn là chiếc bóng hư ảo.

* Giá trị nghệ thuật:

 Tạo sự hoàn chỉnh, chặt chẽ cho cốt truyện: Chi tiết "chiếc bóng" tạo nên nghệ
thuật thắt nút, mở nút mâu thuẫn bất ngờ, hợp lý:
1. Bất ngờ: Một lời nói của tình mẫu tử lại bị chính đứa con ngây thơ đẩy vào vòng
oan nghiệt; chiếc bóng của tình chồng nghĩa vợ, thể hiện nỗi khát khao đoàn tụ, sự
thuỷ chung son sắt lại bị chính người chồng nghi ngờ "thất tiết" ...
2. Hợp lý: Mối nhân duyên khập khiễng chứa đựng nguy cơ tiềm ẩn (Vũ Nương kết
duyên cùng Trương Sinh thất học, đa nghi, ghen tuông, độc đoán) cộng với cảnh
ngộ chia ly bởi chiến tranh. Đó là nguy cơ tiềm ẩn bùng phát.
 Tạo kịch tính, tăng sức hấp dẫn cho tác phẩm.
 Chi tiết này còn là sự sáng tạo của Nguyễn Dữ (so với chuyện cổ tích, "Miếu
vợ chàng Trương") tạo nên vẻ đẹp lung linh cho tác phẩm và một kết thúc
tưởng như có hậu nhưng lại nhấn mạnh hơn bi kịch của người phụ nữ.

2. Biểu điểm:

 Điểm 6: Bài viết đáp ứng tốt các yêu cầu trên, có rõ khả năng hiểu đề, tư duy
tốt, văn viết giàu cảm xúc. Diễn đạt trong sáng, mạch lạc. Chữ viết sạch đẹp,
không mắc các lỗi.
 Điểm 4 - 5: Bài viết đáp ứng yêu cầu như điểm 5. Song còn thiếu chặt chẽ
trong lập luận và chưa thật cảm xúc.
 Điểm 2 - 3: Hiểu đề nhưng vận dụng thao tác nghị luận chưa thuần thục. Diễn
đạt đôi chỗ chưa thật trong sáng; còn mắc một vài lỗi chính tả hoặc dùng từ.
 Điểm 1: Học sinh có chỗ còn sa đà kể lại chuyện; lập luận chưa chặt chẽ, thiếu
rõ ràng. Mắc một số lỗi dùng từ, viết câu, chính tả. Bài làm tỏ ra hiểu đề. Nội
dung quá nghèo nàn; mắc nhiều lỗi diễn đạt, dùng từ, chính tả.
 Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.

Câu 3: (10 điểm)

I. Yêu cầu về kĩ năng

 Bố cục bài rõ ràng, lập luận thuyết phục bằng việc phân tích các dẫn chứng cụ
thể để làm sáng rõ luận điểm.
 Văn viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc; ít mắc lỗi diễn đạt, lỗi chính tả.

II. Yêu cầu về nội dung

Bài làm đúng kiểu văn nghị luận, các ý có thể trình bày theo những cách khác nhau
nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:

 Giải thích sơ lược tinh thần đoạn văn của Nguyễn Đình Thi:
1. Nội dung của một tác phẩm nghệ thuật là hiện thực cuộc sống và những khám phá,
phát hiện riêng của người nghệ sĩ.
2. Những khám phá, phát hiện ấy chính là điều mới mẻ góp phần quan trọng tạo nên
giá trị của một tác phẩm nghệ thuật và mang theo thông điệp của người nghệ sĩ.
 "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"của Phạm Tiến Duật đã thể hiện được "điều
mới mẻ" và "lời nhắn nhủ" của riêng nhà thơ trên cơ sở "vật liệu mượn ở thực
tại".
1. "Vật liệu mượn ở thực tại" trong tác phẩm là hiện thực cuộc kháng chiến chống Mĩ
với nhiều khó khăn, gian khổ và tinh thần chiến đấu, đời sống tình cảm của những
người lính trên tuyến đường Trường Sơn
2. Điều mới mẻ:
1. Nhà thơ đã khám phá ra vẻ đẹp riêng của những người lính lái xe trên tuyến đường
Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ từ chính những khó khăc, gian
khổ của hiện thực:
1. Phong thái ung dung, tự tin và tinh thần dũng cảm, hiên ngang, bất chấp bom đạn,
coi thường gian khổ, hiểm nguy, luôn hướng về phía trước.
2. Tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, nét tinh nghịch đáng yêu của những người lính trẻ;
niềm lạc quan phơi phới vượt lên hiện thực khốc liệt của chiến tranh.
3. Trong gian khổ, tình đồng chí, đồng đội được thể hiện cũng thật vô tư, tinh nghịch
mà chân thành.
4. Trái tim mang tình yêu Tổ quốc là sức mạnh thôi thúc tinh thần, ý chí quyết tâm
chiến đấu vì miền Nam, tình yêu đó mạnh hơn tất cả đạn bom, cái chết.

(so sánh với hình ảnh người lính trong thời kì chống Pháp)

=> vẻ đẹp của họ có sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa cái vĩ đại phi thường với cái
giản dị đời thường

3. Điều mới mẻ thể hiện trong nghệ thuật của bài thơ: nhan đề lạ, sáng tạo ra một
hình ảnh thơ độc đáo, giọng điệu và ngôn ngữ thơ rất đặc sắc, rất gần vời lời nói
thường ngày, đậm chất văn xuôi; sự đối lập giữa cái không và cái có... để thể hiện
chân thực và sinh động vẻ đẹp của những người lính.
 Lời nhắn nhủ (Đây cũng là tư tưởng chủ đề của tác phẩm): hình ảnh những
người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ mãi là biểu
tượng đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Họ chính là những
con người đã góp phần làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc, sức mạnh
và tinh thần chiến đấu của họ đã khẳng định một chân lí của thời đại: sức mạnh
tinh thần có thể chiến thắng sức mạnh vật chất.

Tiêu chuẩn cho điểm:

 Điểm 9, 10: Đạt được các yêu cầu nêu trên. Văn viết mạch lạc, có cảm xúc, thể
hiện sự sáng tạo, không mắc lỗi diễn đạt thông thường.
 Điểm 7, 8 Đạt được các yêu cầu nêu trên. Văn viết mạch lạc, mắc it lỗi diễn đạt
thông thường.
 Điểm 5, 6: Đạt được quá nửa yêu cầu về kiến thức. Còn một số lỗi về diễn đạt.
 Điểm 3, 4: Đạt được quá nửa yêu cầu về kiến thức, mắc nhiều lỗi về câu, từ,
chính tả.
 Điểm 1, 2: Chưa đạt yêu cầu nêu trên. Nội dung sơ sài, diễn đạt yếu, mắc nhiều
lỗi về câu, từ, chính tả.
 Điểm 0: Lạc đề, sai cả nội dung và phương pháp.

* Lưu ý: Khi cho điểm giáo viên cần trân trọng những cảm nhận tinh tế, cách viết
sáng tạo của học sinh để cho điểm phù hợp.

ĐỀ SỐ 3

Câu 1: (4 điểm) Sự gặp gỡ về tâm hồn của những người đồng chí qua hai câu thơ:

Đầu súng trăng treo (Đồng chí – Chính Hữu)

Vầng trăng thành tri kỷ (Ánh trăng – Nguyễn Duy)

Câu 2: (6 điểm)

Người ăn xin

Một người ăn xin đã già. Đôi mắt ông đỏ hoe, nước mắt ông giàn giụa, đôi môi tái
nhợt, áo quần tả tơi.Ông chìa tay xin tôi.
Tôi lục hết túi nọ đến cả khăn túi kia, không có lấy một xu, không có cả khăn tay,
chẳng có gì hết. Ông vẫn đợi tôi. Tôi chẳng biết làm thế nào. Bàn tay tôi run run nắm
chặt lấy bàn tay run rẩy của ông:

Xin ông đừng giận cháu! Cháu không có gì cho ông cả.

Ông nhìn tôi chăm chăm, đôi môi nở nụ cười:

Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi.

Khi ấy tôi chợt hiểu ra: cả tôi nữa, tôi cũng vừa nhận được một cái gì đó của ông.

(Theo Tuốc-ghê-nhép. Dẫn từ sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập 1, NXB GD- 2007, trang
22).

Từ nội dung câu chuyện trên, hãy trình bày suy nghĩ của em về việc cho và nhận trong
cuộc sống.

Câu 3: (10 điểm) Thái độ và hành động của hai nhân vật anh thanh niên làm công tác
khí tượng kiêm vật lí địa cầu trong (Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long) và anh
chiến sĩ lái xe trong (Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật) gợi cho em
suy nghĩ gì về tuổi trẻ ngày nay.
Đáp án

Câu 1: (4 điểm) Học sinh có thể viết thành bài văn ngắn hoặc đoạn văn nhưng bài cần
đảm bảo những ý sau:

Hai bài thơ đều có hình ảnh ánh trăng, hai câu thơ đều nói về vầng trăng (1 điểm).

Trăng trong hai câu thơ gần gũi, thân mật, gắn bó với tâm trạng người chiến sĩ. (1
điểm)

Hai bài thơ sáng tác ở hai thời điểm khác nhau, sự gắn bó trăng với người đều trong
điều kiện gian khổ, thiếu thốn những với người chiến sĩ trăng trước sau như một, là
bạn để gửi gắm tâm trạng và ước vọng (2 điểm)

Câu 2: (6 điểm)

Yêu cầu

Về hình thức:

 Biết cách làm kiểu bài nghị luận xã hội.


 Luận điểm đúng đắn, rõ ràng.
 Diễn đạt lưu loát, lí lẽ thuyết phục.
 Có thể viết thành đoạn văn hoặc bài văn ngắn.

Về nội dung: Bài viết có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng phải thể hiện
được những ý cơ bản sau:

Truyện kể về việc cho và nhận của cậu bé và người ăn xin, qua đó ngợi ca cách ứng
xử cao đẹp, nhân ái giữa con người với con người.

Truyện gợi cho chúng ta nhiều suy ngẫm về việc cho và nhận trong cuộc sống:

 Cái cho và nhận: đâu phải chỉ là vật chất mà có thể là những giá trị tinh thần,
có thể chỉ là lời nói, một cử chỉ...
 Thái độ khi cho và nhận: cần chân thành, có văn hóa.

Xác định thái độ sống và cách ứng xử của bản thân: tôn trọng, quan tâm, chia sẻ với
mọi người.

Tiêu chí cho điểm

 Điểm 5-6: Đạt được các yêu cầu nêu trên, lí lẽ thuyết phục, văn viết mạch lạc,
không mắc những lỗi diễn đạt thông thường.
 Điểm 3-4: Đạt được quá nửa nội dung yêu cầu về nội dung. Còn một số lỗi về
diễn đạt.
 Điểm 1-2: Đạt được một số yêu cầu về nội dung, mắc nhiều lỗi về hình thức.
 Điểm 0: Lạc đề, sai cả nội dung và phương pháp.

Câu 3 (10 điểm)

Yêu cầu:

Về nội dung: Bài làm có thể có những bố cục khác nhau nhưng phải đúng kiểu văn
bản nghị luận; các ý trình bày có thể không giống nhau nhưng trên cơ sở hiểu được hai
văn bản "Lặng lẽ Sa Pa" và "Bài thơ về tiểu đội xe không kính", đại thể cần nêu được
các ý sau:

 Hai nhân vật anh thanh niên (LLSP), anh chiến sĩ (BTVTĐXKK).
 Người trẻ tuổi ở hai mặt khác nhau: xây dựng CNXH và chống Mỹ cứu nước.
 Nhiệt tình, dũng cảm thực hiện nghĩa vụ của tuổi trẻ không vụ lợi.
 Với ý chí và nghị lực của tuổi trẻ, với trách nhiệm và nghĩa vụ đối với đất nước
họ lạc quan, yêu đời.

Suy nghĩ của bản thân:

 Vấn đề cống hiến của tuổi trẻ. Hai nhân vật văn học đã cho thấy sự cống hiến
to lớn đối với đất nước họ lạc quan, yêu đời.
 Trong thế kỷ XI có những yêu cầu với thế hệ trẻ giống hôm qua nhưng cũng có
những yêu cầu khác (do bối cảnh lịch sử, xã hội, thời đại...).
 Dù hoàn cảnh nào tuổi trẻ hôm nay cũng luôn phân biệt: cống hiến và hưởng
thụ mà cống hiến (trong mọi điều kiện và hoàn cảnh) là mục đích quan trọng
của tuổi trẻ. Nét đẹp của hai nhân vật là hành trang vào đời của tuổi trẻ hôm
nay.

Hình thức: Vận dụng nhuần nhuyễn các phương thức biểu đạt, các phép lập luận đã
học. Văn viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc, ít mắc lỗi diễn đạt.

Tiêu chí cho điểm

 Điểm 9-10: Bài làm đạt được tốt các yêu cầu trên.
 Điểm 7-8: Bài làm cơ bản đạt được yêu cầu trên nhất là nội dung, cách lập
luận. Còn sai sót nhưng không ảnh hưởng đến bài viết, văn viết trôi chảy.
 Điểm 4-5: Bài làm cơ bản đáp ứng khoảng 2/3 yêu cầu , ít dẫn chứng, mắc một
số lỗi diễn đạt.
 Điểm 1-3: Nội dung sơ sài, mắc nhiều lỗi diễn đạt.
 Điểm 0: Không làm bài, lạc đề hoặc sai nội dung phương pháp.

* Lưu ý: Giám khảo linh hoạt vận dụng biểu điểm, có thể thưởng điểm cho những bài
viết có sự sáng tạo khi tổng điểm toàn bài chưa đạt tối đa. Điểm toàn bài cho lẻ đến
0.25.

ĐỀ SỐ 4
Câu 1: (4,0 điểm) Tìm và phân tích hiệu quả thẩm mỹ của các biện pháp tu từ trong
đoạn thơ sau:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ


Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...

(Từ ấy - Tố Hữu)

Câu 2: (4,0 điểm)

Trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và con người trong
hai đoạn thơ sau (bằng cách viết một đoạn văn khoảng 15 câu):

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng


Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.

(Quê hương - Tế Hanh)

Mặt trời xuống biển như hòn lửa.


Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)

Câu 3: (12,0 điểm)

Bàn về văn chương, Hoài Thanh viết:

Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện cho ta những tình cảm ta
sẵn có.

(Trích Ý nghĩa văn chương- SGK Ngữ văn 7, tập hai)

Bằng hiểu biết của em về bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt, em hãy làm sáng tỏ
ý kiến trên.

Đáp án

Câu 1: (4 điểm)

Yêu cầu về hình thức: HS viết thành đoạn văn có cấu trúc chặt chẽ (Đoạn diễn dịch,
qui nạp hoặc T-P-H); (1 điểm)
Yêu cầu về nội dung:

Chỉ đúng các biện pháp tu từ (nói rõ được thực hiện ở các từ ngữ nào): (1 điểm)

 Phép ẩn dụ: Hình ảnh nắng hạ, mặt trời chân lí để chỉ lí tưởng cộng sản.
 Phép so sánh: Tâm hồn giống như một vườn hoa lá, rất đậm hương và rộn tiếng
chim.

Phân tích hiệu quả thẩm mỹ: (2 điểm)

 Phép ẩn dụ kết hợp với các động từ mạnh (bừng, chói), nhà thơ muốn khẳng
định lí tưởng cộng sản như một nguồn sáng rực rỡ, chói lòa xua tan những u
ám, tối tăm; làm bừng sáng tâm hồn người thanh niên trí thức tiểu tư sản giàu
nhiệt huyết nhưng chưa tìm được đường đi đúng đắn, đang băn khoăn đi kiếm
lẽ yêu đời. Cách nói thể hiện thái độ thành kính, ân tình của nhà thơ với Đảng.
 Phép so sánh: So sánh cái trừu tượng (tâm hồn) với cái cụ thể (khu vườn), kết
hợp với phép đảo ngữ (rất đậm hương, rộn tiếng chim: một khu vườn tràn đầy
màu sắc, hương thơm, âm thanh...), tác giả đã diễn tả niềm vui sương mãnh liệt
khi được giác ngộ lí tưởng cộng sản; ánh sáng của lí tưởng cộng sản có sức
mạnh kì diệu đã làm bừng lên một sức sống mới mẻ trong tâm hồn nhà thơ.
Niềm vui sống, sự sáng suốt, minh mẫn đến kì lạ của tinh thần trí tuệ khi được
lí tưởng chiếu dọi làm tâm hồn nhà thơ trở nên sảng khoái, say mê, náo nức...
Đây là giây phút đặc biệt thiêng liêng trong cuộc đời của Tố Hữu và nhà thơ đã
ghi lại chân thành, cảm động.

Câu 2: (4 điểm)

Yêu cầu về hình thức: Viết đoạn văn đúng số câu qui định, cấu trúc chặt chẽ; diễn đạt
trôi chảy, có chất văn; không mắc lỗi về chính tả. (1 điểm)

Yêu cầu về nội dung:

* HS cảm nhận được điểm chung của hai đoạn thơ: (1 điểm)

 Đều là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, thanh bình, êm ả của sông nước, biển
trời. Thiên nhiên ấy vô cùng thuận lợi cho công việc đánh cá:
 Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
 Sóng đã cài then, đêm sập cửa
 Con người trong hai đoạn thơ đều hiện lên mạnh mẽ, khỏe khoắn, đầy hào
hứng, nhiệt tình với những cánh buồm căng tràn hi vọng, ước mơ và ăm ắp vẻ
đẹp mộc mạc, chân chất của người dân chài: dân trai tráng, hăng như con tuấn
mã, phăng mái chèo, câu hát căng buồm...

* Bức tranh thiên nhiên và con người trong mỗi đoạn thơ mang một vẻ đẹp riêng: (2
điểm)

Trong đoạn trích từ Quê hương của Tế Hanh:


 Bức tranh thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp của buổi sáng trong trẻo, mát lành,
ánh sáng dịu dàng, bầu trời trong xanh, gió nhẹ, nắng hồng, báo hiệu một
chuyến đi biển thật bình yên và may mắn.
 Vẻ đẹp của con người là những chàng trai vô cùng vạm vỡ, rắn chắc (với các
động từ mạnh: phăng, vượt, phép so sánh hăng như con tuấn mã..). Đó là vẻ
đẹp thể chất của con người lao động nhuộm nắng gió biển khơi, là những người
con ưu tú nhất, mạnh mẽ nhất của làng chài quê hương...

Trong đoạn thơ trích từ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận:

 Bức tranh thiên nhiên là vẻ đẹp của buổi hoàng hôn trên mặt biển vô cùng tráng
lệ, rực rỡ: Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Phép so sánh, nhân hóa gợi tả không gian mênh mông, làn nước biển lấp lánh
phản chiếu sắc đỏ của ánh hoàng hôn đang rực lên... Những con sóng dài được
hình dung như những then cài mà cánh cửa là màn đêm đang buông xuống.
Biển đêm trở thành một ngôi nhà gần gũi, ấm áp thân thuộc với con người.
 Vẻ đẹp của con người lao động trong đoạn thơ này là câu hát căng tràn sức
sống. Lời hát như khúc tráng ca lên đường, thể hiện niềm vui, lòng lạc quan
yêu đời của người dân chài. Đó không chỉ là sức mạnh thể chất mà chủ yếu là
sức mạnh tinh thần, là tư thế chủ động, làm chủ thiên nhiên, biển trời của
những con người trên những đoàn thuyền nối nhau ra khơi (chứ không phải là
chiếc thuyền đơn lẻ)

* Tóm lại: Hai đoạn thơ với bút pháp lãng mạn bay bổng, với cách dùng từ ngữ, BP tu
từ đặc sắc đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động với tình yêu và
niềm tự hào mãnh liệt của các tác giả.

Câu 3, (12 điểm)

Yêu cầu chung:

 HS làm được bài văn nghị luận về tác phẩm văn học có gắn với một nhận định,
xác định đúng luận điểm, có khả năng phân tích- bình DC.
 Trình bày bố cục mạch lạc, diễn đạt lưu loát, có chất văn, ít mắc lỗi.

Yêu cầu cụ thể:

a- Mở bài: (1 điểm)

Giới thiệu ý kiến của Hoài Thanh gắn với nội dung cơ bản của bài thơ Bếp lửa: Bài
thơ thể hiện tình cảm bà cháu thiêng liêng, sâu nặng.

b- Thân bài:

* Khái quát: (1 điểm)

Giải thích nhận định:


 Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có: tức là khẳng định các tác
phẩm văn chương có khả năng khơi gợi những tình cảm, rung cảm đẹp đẽ cho
mỗi người khi tiếp cận tác phẩm. Văn chương luyện cho ta những tình cảm ta
sẵn có: tức là nhấn mạnh khả năng văn chương bồi đắp tâm hồn, tình cảm của
mỗi người thêm sâu sắc, thêm đẹp đẽ, bền vững.

=>Nhận định đã khái quát một cách sâu sắc hai vấn đề: Khái quát quy luật sáng tạo và
tiếp nhận văn chương: Đều xuất phát từ tình cảm, cảm xúc của tác giả và bạn đọc;
khái quát chức năng giáo dục và thẩm mĩ của văn chương đối với con người.

Hoàn cảnh tác giả sáng tác bài thơ: Viết 1963 khi tg đang du học ở Liên xô (cũ), nơi
lạnh giá xứ người xa quê hương, xa người bà đã khơi gợi nỗi nhớ thương về quê
hương, về bếp lửa ấm nồng cùng với hình ảnh bà yêu dấu.

Khẳng định: Bài thơ khơi dậy, bồi đắp thêm cho tình cảm gia đình (tình bà cháu
thiêng liêng, sâu nặng), tình yêu thương con người, tình yêu quê hương, đất nước của
mỗi con người. Bài thơ là minh chứng cho nhận định của Hoài Thanh.

* Phân tích, chứng minh: (8 điểm)

Bài thơ khơi dậy và làm đẹp thêm tình cảm bà cháu, tình cảm gia đình cho mỗi người
đọc qua dòng hồi tưởng của cháu về kỷ niệm tuổi thơ bên bà, bên bếp lửa – qua tình
cảm bà cháu của nhân vật trữ tình (3 điểm)

Hồi tưởng của cháu bắt đầu từ hình ảnh bếp lửa và hình ảnh bà.

 Nhân vật trữ tình hồi tưởng lại những kỷ niệm: Kỷ niệm những năm đói khổ;
kỷ niệm tám năm sống bên bà; kỉ niệm những năm giặc dã, chiến tranh. Trong
dòng hổi tưởng đó luôn có hình ảnh bà tần tảo, hi sinh, yêu thương cháu, có
tình bà ấm áp. (phân tích- chứng minh)
 Hồi tưởng về bà luôn gắn với hình ảnh bếp lửa, bếp lửa là biểu tượng cho tình
bà ấm áp, biểu tượng cho ý chí, nghị lực, niềm tin của bà. (Phân tích – chứng
minh)

Cháu khôn lớn, trưởng thành thấm thía cuộc đời bà vất vả, gian khổ, tần tảo, chịu
thương chịu khó; công lao của bà mênh mông, sâu nặng (Phân tích – Chứng minh)

 Cháu tâm nguyện: luôn trân trọng, nhớ bà, biết ơn bà (Phân tích – Chứng minh)
 Trong suy ngẫm, tâm nguyện của cháu cũng vẫn hiện lên hình ảnh bếp lửa bình
dị mà thiêng liêng: Bếp lửa là biểu tượng cho tình bà cháu, biểu tượng của gia
đình, quê hương.
 Bài thơ khơi dậy và làm đẹp thêm tình cảm gia đình gắn bó hài hòa trong tình
yêu quê hương đất nước- qua những suy ngẫm của cháu về bà, về đất nước, dân
tộc, nhân dân mình. (3 điểm)
 Tình cảm bà cháu là cội nguồn của tình cảm gia đình, tình cảm với quê hương,
đất nước: Mỗi kỉ niệm của cháu với bà gắn với những thời kì lịch sử khó quên
của đất nước, dân tộc; gắn với tình làng nghĩa xóm (Phân tích- chứng minh)
 Người cháu nhớ về bà, biết ơn bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu nhân dân, đất
nước, dân tộc mình. Bếp lửa và bà đã trở thành biểu tượng của quê hương, xứ
sở. (phân tích- chứng minh)
 Khẳng định sự tác động của bài thơ đến tình cảm mỗi người đọc, sự đồng cảm
của người đọc với bài thơ. (2 điểm)
 Với hình tượng bếp lửa và hình tượng người bà, bài thơ bếp lửa đã khơi dậy
trong lòng mỗi người đọc tình cảm bà cháu đẹp đẽ, tình cảm gia đình thiêng
liêng. Tình cảm của nhân vật trữ tình, của tác giả đã làm sâu sắc, đẹp đẽ, bền
vững thêm tình cảm gia đình trong mỗi người đọc. Điều đó chứng minh nhận
định của Hoài Thanh là đúng đắn.
 Bài thơ nhận được sự đồng cảm của bạn đọc, bạn đọc tìm được sự đồng điệu
tâm hồn với tác giả. Bài thơ là một minh chứng cho quy luật sáng tạo và tiếp
nhận văn chương, minh chứng cho vai trò quan trọng và chức năng của văn
chương, đặc biệt là chức năng giáo dục và thẩm mỹ.

* Đánh giá, mở rộng: (1 điểm)

 Bài thơ Bếp lửa với hình tượng thơ độc đáo, ngôn từ biểu cảm, bình dị mà sâu
sắc, sử dụng hổi tưởng và hiện tại trong mạch cảm xúc, sử dụng nhiểu biện
pháp nghệ thuật đặc sắc đã thể hiện xúc động tình bà cháu thiêng liêng, ấm áp,
tình cảm yêu gia đình, quê hương, đất nước trong sáng, đẹp đẽ.
 Bài thơ đã làm sáng tỏ những quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương; minh
chứng cho những tác dụng to lớn của văn chương: Văn chương làm đẹp thêm
tình người, hướng con người đến chân, thiện, mỹ.
 Liên hệ đến các tác phẩm ngợi ca tình cảm gia đình: Tiếng gà trưa (Xuân
Quỳnh), Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (Nguyễn Khoa Điềm),
Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)...

c. Kết luận (1 điểm)

 Khẳng định giá trị, ý nghĩa của bài thơ tác động đến mỗi người: là lời nhắc nhở
mỗi con người luôn biết trân trọng, giữ gìn những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ.
 Liên hệ nhận thức và hành động của bản thân.

Lưu ý: Giám khảo vận dụng linh hoạt khi chấm. Tránh đếm ý cho điểm.

ĐỀ SỐ 5

Câu 1 (4 điểm) Vẻ đẹp của hình ảnh cánh buồm trong những câu thơ sau:

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng


Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

(Tế Hanh, Quê hương, Ngữ văn 8, tập hai, NXBGD, 2005)
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,

(Huy Cận, Đoàn thuyền đánh cá, Ngữ văn 9, tập một, NXBGD, 2005)

Câu 2 (6 điểm).

Trong buổi giao lưu, trò chuyện với các thủ khoa tốt nghiệp xuất sắc của các trường
đại học, học viện tại Hà Nội, Giáo sư Ngô Bảo Châu đã chia sẻ:

"Tôi luôn tin rằng, trong mỗi thất bại luôn có mầm mống của sự thành công".

Trình bày suy nghĩ của em về quan niệm trên.

Câu 3 (10 điểm).

Trong văn bản Tiếng nói của văn nghệ, Nguyễn Đình Thi viết:

"Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại.
Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới
mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của
mình góp vào đời sống chung quanh."

(Sách Ngữ văn 9, tập hai, trang 12, 13 – Nhà xuất bản Giáo dục – 2010)

Bằng sự hiểu biết của mình về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, em hãy làm
sáng tỏ điều mới mẻ mà nhà thơ muốn đem góp vào đời sống.

Đáp án

Câu 1: (4,0 điểm)

a, Yêu cầu về kỹ năng:

 Trên cơ sở có sự hiểu biết về đoạn thơ, qua việc chỉ rõ những tín hiệu nghệ
thuật đặc sắc, HS viết thành bài văn cảm thụ ngắn có bố cục 3 phần rõ ràng,
trình bày cảm nhận của mình về vẻ đẹp của hình ảnh "cánh buồm ".
 Kết hợp bình, cảm thụ về nội dung và nghệ thuật.
 Lời văn mạch lạc, giàu cảm xúc, không mắc lỗi dùng từ, diễn đạt, chính tả.

b, Yêu cầu về kiến thức:

HS có thể có các cách làm bài khác nhau, nhưng cơ bản phải trình bày được những ý
sau:
Điểm chung trong cách thể hiện vẻ đẹp của cánh buồm: Đều mang ý nghĩa tượng
trưng, đều được so sánh (trong thơ Tế Hanh), hoặc so sánh ngầm (ẩn dụ) (trong thơ
Huy Cận) với những hình ảnh hoặc khái niệm trừu tượng. (1,0 điểm)

Điểm riêng:

* Trong thơ Tế Hanh:

 Biện pháp nghệ thuật so sánh được Tế Hanh sử dụng thành công trong câu:
"Cánh buồm giương to... thâu góp gió". Nhà thơ so sánh: "Cánh buồm" với
"mảnh hồn làng". -> một tâm hồn nhạy cảm, gắn bó với quê hương làng xóm.
(0,5 điểm)
 Cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc nay trở nên lớn lao và kỳ vĩ, là
linh hồn của quê hương...-> Sự trìu mến thiêng liêng, những hy vọng mưu
sinh... của người dân chài đã được gửi gắm vào cánh buồm -> Sự tinh tế của
nhà thơ. (1,0 điểm)

* Trong thơ Huy Cận:

 Hình ảnh ẩn dụ "Buồm trăng" được xây dựng trên sự quan sát rất thực và sự
cảm nhận lãng mạn của nhà thơ Huy Cận. (Thực: Từ xa nhìn lại, trên biển,
thuyền đi vào ánh sáng của vầng trăng...Đây là hình ảnh lãng mạn: Vầng trăng
trở thành cánh buồm...) (0,5 điểm)
 Ý thơ lạ, sáng tạo -> Đánh cá đêm vất vả và nguy hiểm trở nên nhẹ nhàng và
thơ mộng. Sự hoà hợp con người với thiên nhiên. (1,0 điểm)

(Văn viết đủ ý, rõ ràng, mạch lạc thể hiện sự cảm thụ tinh tế: cho điểm tối đa; mắc lỗi
về diễn đạt, tùy các mức độ khác nhau trừ từ 0,25 đến 0,5 điểm)

Câu 2

1. Mục đích: Kiểm tra kĩ năng nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí, một quan niệm
sống.

2. Yêu cầu:

Về kĩ năng: Học sinh biết cách làm một bài văn nghị luận xã hội, có đầy đủ bố cục ba
phần, biết sử dụng dẫn chứng để bàn luận vấn đề. Diễn đạt mạch lạc, trôi chảy, thuyết
phục.

Về nội dung kiến thức:

Học sinh cần trình bày các ý sau:

a. Giới thiệu và giải thích vấn đề cần bình luận. (1,0đ)

 Thất bại nghĩa là không đạt được kết quả, mục đích như dự định.
 Thành công là đạt được kết quả, mục đích như dự định.
 Mầm mống được hiểu là những dấu hiệu, là bài học kinh nghiệm bổ ích mà ta
nhận ra được từ sự thất bại đó, làm cơ sở giúp ta giành được thành công.

Đây là quan niệm sống tích cực, thể hiện niềm lạc quan, sự dũng cảm đối mặt với khó
khăn thách thức của cuộc sống.

b. Bàn luận (3,0 điểm)

 Chứng minh tính đúng đắn: Trong cuộc sống, mỗi người đều có những thành
công nhưng cũng có khi thất bại. Sự thất bại do nhiều nguyên nhân khác nhau,
nhiều mức độ khác nhau song đều làm cho chúng ta không đạt được kết quả tốt
đẹp (học sinh lấy dẫn chứng trong các lĩnh vực của cuộc sống để chứng minh,
bình luận)
 Nếu gục ngã, buông xuôi trước một thất bại thì con người sẽ trở thành hèn yếu,
thiếu ý chí, thiếu nghị lực và khó có thể đi tới thành công.
 Nhưng nếu thất bại mà không tìm hiểu rõ nguyên nhân, không đúc rút được
kinh nghiệm và không có giải pháp khắc phục thì ta lại tiếp tục gặp phải những
thất bại nặng nề khác.(dẫn chứng)

c. Mở rộng vấn đề. (2,0 điểm)

 Con người cần cố gắng rèn luyện, sáng tạo, chuẩn bị chu đáo trước khi thực
hiện bất cứ một công việc nào để có được những thành công cho mình và cho
xã hội.
 Biết chấp nhận thất bại và đúc rút kinh nghiệm
 Phê phán những người thiếu niềm tin, thiếu động lực vươn lên sau mỗi lần thất
bại.

Câu 3:

1. Yêu cầu về kỹ năng:

 Có kỹ năng nghị luận về một vấn đề văn học, có lý lẽ thuyết phục và thể hiện
được sự cảm thụ tác phẩm truyện tinh tế.
 Bố cục hợp lý, rõ ràng, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ
pháp.
 Văn viết trong sáng, có cảm xúc.

2. Yêu cầu về kiến thức:

Bài viết có thể trình bày theo những cách khác nhau nhưng đại thể có các ý cơ bản
sau:

a. Giải thích: Ý kiến được trích dẫn trong bài tiểu luận của Nguyễn Đình Thi viết năm
1948 - thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Những năm ấy, ta đang
xây dựng một nền văn học nghệ thuật mới đậm đà tính dân tộc, đại chúng, gắn bó với
cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân. (0,5 điểm). Bởi vậy:

 Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn từ thực tại:
-> Chức năng phản ánh hiện thực của tác phẩm văn học... -> Nội dung và sức
mạnh kì diệu của văn nghệ thường được Nguyễn Đình Thi gắn với đời sống
phong phú, sôi nổi của quần chúng nhân dân đang chiến đấu và sản xuất. (1,0
điểm)
 Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại những cái đã có rồi mà còn muốn nói một
điều gì mới mẻ: Qua hiện thực được phản ánh, tác giả thể hiện tư tưởng, quan
điểm của mình về cuộc sống...

-> Tác phẩm nghệ thuật lấy chất liệu ở thực tại đời sống khách quan nhưng không
phải là sự sao chép giản đơn "chụp ảnh" nguyên si thực tại ấy. Khi sáng tạo một tác
phẩm, nghệ sĩ gửi vào đó một cách nhìn, một lời nhắn nhủ của riêng mình. Nội dung
của tác phẩm văn nghệ đâu chỉ là câu chuyện, là con người như ở ngoài đời mà quan
trọng hơn là tư tưởng, tấm lòng của nghệ sĩ gửi gắm trong đó. (1,0 điểm)

-> Đây cũng là đặc trưng của tác phẩm văn chương, tạo nên sức cuốn hút, lay động
tâm hồn, là Tiếng nói của văn nghệ. (0,5 điểm)

b. Chứng minh: Qua văn bản Đoàn thuyền thuyền đánh cá của Huy Cận có thể thấy rõ
điều đó:

Ý 1: "Đoàn thuyền đánh cá" phản ánh thực tại đời sống: (3,0 điểm)

 Năm 1958, khi đất nước đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, miền Bắc được giải phóng và đi vào xây dựng cuộc sống mới, Huy Cận
có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế
này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về
thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. (1,5 điểm)
 Hiện thực được phản ánh trong bài thơ là khung cảnh lao động trên biển cả, là
khúc ca lạc quan, yêu đời, là khí thế lao động hăng say của người lao động (HS
phân tích những dẫn chứng tiêu biểu trong bài thơ để thấy được cảnh sinh hoạt
lao động một buổi ra khơi đánh cá của những người lao động trên biển...) (1,5
điểm)

Ý 2: "Đoàn thuyền đánh cá" thể hiện tư tưởng, quan điểm của nhà thơ về cuộc sống:
(4 điểm)

 Đó là cảm hứng mới về thiên nhiên, đất nước, cái nhìn mới mẻ đối với công
việc lao động và người lao động trong công cuộc xây dựng đất nước.( 0,5
điểm)
 Những cảm hứng mới đó đã tạo nên chất lãng mạn và những liên tưởng độc
đáo, sáng tạo của nhà thơ: Những liên tưởng cảnh mặt trời lặn, hình ảnh con
thuyền trở kỳ vĩ, khổng lồ ( bánh lái là gió, cánh buồm là trăng tư thế: dò bụng
biển, dàn đan thế trận....), vẻ đẹp lộng lẫy và rực rỡ huyền ảo của các loài cá,
đặc biệt là niềm vui của người lao động qua tiếng hát gọi cá..., cảnh đoàn
thuyền trở về lúc rạng đông chạy đua cùng mặt trời... -> Những hình ảnh thơ
giàu vẻ đẹp lãng mạn, được sáng tạo với bút pháp khoáng đạt, phóng đại, khoa
trương..(2,5 điểm)
 Từ công việc bình thường của một buổi đánh cá đêm trên biển Huy Cận đã nói
lên một điều mới mẻ: Cuộc sống mới tạo nên những tầm vóc mới cho con
người lao động, thiên nhiên đất nước đẹp, giàu qua cái nhìn của nghệ sĩ cách
mạng -> Âm hưởng của bài thơ như một khúc tráng ca khoẻ khoắn, say sưa,
bay bổng, ca ngợi con người trong lao động với tinh thần làm chủ..(1,0 điểm)

ĐỀ SỐ 6

Câu 1: (4 điểm)

Trong bài thơ "Tây Tiến" của tác giả Quang Dũng (viết về những người chiến sĩ của
đoàn binh Tây Tiến - sáng tác năm 1948) có câu thơ:

"...Heo hút cồn mây súng ngửi trời..."

Trong bài thơ" Đồng chí" của Chính Hữu cũng có câu:

"...Đầu súng trăng treo..."

Hãy so sánh sự giống và khác nhau trong hai hình ảnh thơ ở hai câu thơ trên. Qua sự
giống và khác nhau đó, em cảm nhận được gì về hình tượng người lính trong thơ ca
Việt Nam.

Câu 2: (6 điểm) Suy nghĩ của em từ ý nghĩa câu chuyện sau:

Diễn giả Le-o Bu-sca-gli-a lần nọ kể về một cuộc thi mà ông làm giám khảo. Mục
đích của cuộc thi là tìm ra đứa trẻ biết quan tâm nhất. Người thắng cuộc là một em bé
bốn tuổi.

Người hàng xóm của em là một ông lão vừa mất vợ. Nhìn thấy ông khóc, cậu bé lại
gần rồi leo lên ngồi vào lòng ông. Cậu ngồi rất lâu và chỉ ngồi như thế. Khi mẹ em bé
hỏi em đã trò chuyện những gì với ông ấy, cậu bé trả lời: "Không có gì đâu ạ. Con
chỉ để ông ấy khóc."

(Theo "Phép màu nhiệm của đời" - NXB Trẻ, 2005)

Câu 3: (5 điểm)

Thơ văn hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, ngoài hình ảnh người chiến sĩ
trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc còn mang nhịp thở của con người lao động mới.

Bằng những hiểu biết về văn học giai đoạn này, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Đáp án

Câu 1:

*Nét giống nhau:

Hai câu thơ đều xuất hiện hình ảnh người lính gắn liền với cây súng. Cây súng là vũ
khí chiến đấu của người lính. Hai hình ảnh gắn liền với nhau và xuất hiện nhiều trong
thi ca Việt Nam. Tuy vậy hình ảnh cây súng xuất hiện trong hai câu thơ trên không
gợi lên sự ác liệt, dữ dội của chiến tranh mà vẫn mang đến cho người đọc cảm giác
nhẹ nhàng, bình thản. (0,5đ)

*Nét khác:

Ở câu thơ: "Heo hút cồn mây súng ngửi trời" Hình ảnh người lính với cây súng được
đặt trong không gian cao, rộng với "cồn mây, trời", gợi cho người đọc sự hình dung:
người lính Tây Tiến leo dốc dài và gian khổ để lên được đỉnh núi rất cao. Hình ảnh
"súng ngửi trời" là hình ảnh nhân hóa gợi cho người đọc thấy được độ cao của núi, sự
heo hút, âm u, mù mịt của cồn mây đồng thời thấy được cái dí dỏm, hài hước, tinh
nghịch, hồn nhiên và tinh thần lạc quan vượt qua mọi khó khăn gian khổ của người
lính Tây Tiến. Cách thể hiện ý thơ của Quang Dũng lãng mạn, hồn nhiên, phóng
khoáng mà tài hoa. (1,5đ)

Câu thơ "Đầu súng trăng treo" gợi một không gian yên tĩnh vắng lặng, người lính
đứng gác mà trăng treo đầu súng. Súng và trăng gợi nhiều liên tưởng. Súng là vũ khí
chiến tranh, trăng là biểu tượng hòa bình. Người lính chiến đấu để bảo vệ hòa bình
cho đất nước. Câu thơ thể hiện khát vọng hòa bình của tác giả, của người chiến sĩ và
của nhân dân ta. Hình ảnh thơ thể hiện sự lên tưởng, tưởng tượng phong phú. Cách
diến đạt của chính Hữu: bình dị, mộc mạc mà không kém phần tinh tế. (1,5đ)

Qua đó thấy được nét chung về hình tượng người lính trong thơ ca Việt Nam: đó là
những con người hồn nhiên, bình dị, yêu cuộc đời, yêu đất nước, sẵn sàng chiến đấu
hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ Quốc (0,5đ)

Câu 2:

* Yêu cầu về kĩ năng: Đảm bảo là một bài nghị luận xã hội, bố cục mạch lạc, lập luận
chặt chẽ, thuyết phục, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp...

* Yêu cầu về kiến thức: HS đạt được các nội dung cơ bản sau:

1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: (0,5đ)

2. Phân tích, bàn luận vấn đề:

a. Tìm hiểu ý nghĩa câu chuyện: (1,5đ)


 Hạt cát: biểu tượng cho những khó khăn và những biến cố bất thường... là
những yếu tố khách quan có thể xảy ra với con người bất kì lúc nào. (0,5đ)
 Con trai quyết định đối phó bằng cách tiết ra một chất dẻo bao quanh hạt cát...
biến hạt cát gây ra những nỗi đau cho mình thành viên ngọc trai lấp lánh tuyệt
đẹp: biểu tượng cho con người biết thích nghi với hoàn cảnh mới và chấp nhận
thử thách để đứng vững, biết vượt lên hoàn cảnh, tạo ra những thành quả đẹp
cống hiến cho cuộc đời (luôn luôn làm chủ hoàn cảnh và luôn suy nghĩ tích
cực, lạc quan). (0,5đ)

=> Câu chuyện ngắn gọn nhưng trở thành bài học sâu sắc về thái độ sống tích cực;
phải có ý chí và bản lĩnh, mạnh dạn đối mặt với khó khăn gian khổ. Luôn luôn làm
chủ hoàn cảnh và chinh phục hoàn cảnh để đạt được kết quả tốt đẹp mới. (0,5đ)

b. Suy nghĩ về ý nghĩa câu chuyện (2,0đ)

Khẳng định câu chuyện có ý nghĩa nhân sinh quan5 sâu sắc với mỗi người trong cuộc
đời:

 Những khó khăn, trở ngại vẫn thường xảy ra trong cuộc sống, luôn vượt khỏi
toan tính, dự định của con người. Vì vậy, mỗi người phải đối mặt, chấp nhận
thử thách để đứng vững, phải hình thành cho mình nghị lực, niềm tin, sức mạnh
để vượt qua (như con trai cũng đã cố gắng nỗ lực, không tống được hạt cát ra
ngoài thì nó đối phó bằng cách tiết ra chất dẻo bọc quanh hạt cát). (0,75đ)
 Khó khăn, gian khổ cũng là điều kiện thử thách và tôi luyện ý chí, là cơ hội để
mỗi người khẳng định mình. Vượt qua nó, con người sẽ trưởng thành hơn, sống
có ý nghĩa hơn. (Dẫn chứng về những con người vượt lên số phận làm đẹp cho
cuộc đời). (0,75đ)
 Phê phán những người có lối sống hèn nhát, chấp nhận đầu hàng, buông xuôi,
đổ lỗi cho số phận.... (0,5đ)

3. Khẳng định vấn đề và rút ra bài học trong cuộc sống: (2,0đ)

 Cuộc sống không phải lúc nào cũng bằng phẳng, cũng thuận buồm xuôi gió.
Khó khăn, thử thách luôn là quy luật của cuộc sống mà con người phải đối mặt.
(0,5đ)
 Phải có ý thức sống và phấn đấu, không được đầu hàng, không được gục ngã
mà phải can đảm đối đầu, khắc phục nó để tạo nên thành quả cho cuộc đời, để
cuộc sống có ý nghĩa hơn. (0,5đ)

Câu 3:

I. Kĩ năng: (2,0đ)

 Học sinh hiểu đúng yêu cầu đề bài, biết cách làm bài văn nghị luận văn học. Bố
cục rõ ràng, luận điểm khoa học, chặt chẽ, phép lập luận phù hợp.
 Lời văn chính xác, sinh động, có cảm xúc.
 Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
II. Kiến thức:

Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, có thể có những cảm nhận riêng,
miễn là phù hợp yêu cầu của đề. Với đề bài này cần đảm bảo những ý sau:

1. Giải thích nhận định: (2,0đ)

Hiện thực của đất nước ta từ 1945 đến 1975 là hiện thực của những cuộc kháng chiến
vệ quốc vĩ đại và công cuộc xây dựng cuộc sống mới đi lên chủ nghĩa xã hội của.
Hiện thực đó đã tạo nên cho dân tộc Việt Nam một vóc dáng nổi bật: vóc dáng người
chiến sĩ luôn trong tư thế chủ động chiến đấu chống kẻ thù, vóc dáng của con người
mới xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hình ảnh người chiến sĩ và người lao
động mới hoà quyện tạo nên vẻ đẹp của con người dân tộc Việt Nam. Và điều này đã
làm nên hơi thở, sức sống của văn học thời kì 1945 - 1975.

2. Chứng minh. (2,0đ)

a. Hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc: họ là những con người ở
mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi và nổi bật với lòng yêu nước, ý chí quyết tâm chiến đấu
chống kẻ thù xâm lược, với tình đồng đội cao cả, sắt son, tinh thần lạc quan...

 Họ là những con người ở mọi tầng lớp, lứa tuổi như: người nông dân mặc áo
lính (Đồng chí của Chính Hữu), những chàng trai trí thức vừa rời ghế nhà
trường (Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật), những cô
thanh niên xung phong (Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê), là em bé
liên lạc (Lượm của Tố Hữu)...
 Họ là những người lính, người chiến sĩ có lòng yêu nước sâu sắc, có ý chí
quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. (dẫn chứng)
 Hoàn cảnh sống chiến đấu đầy khó khăn, gian khổ song họ luôn có tinh thần
lạc quan và tình đồng chí, đồng đội cao đẹp... (dẫn chứng)

b. Hình ảnh người lao động mới: họ xuất hiện với tư cách là những người làm chủ
cuộc sống mới, họ lao động, cống hiến một cách hăng say, hào hứng, sẵn sàng hi sinh
cả tuổi thanh xuân của mình vì những lí tưởng cao cả và tương lai đất nước.

 Người lao động trong "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy cận mang nhịp thở tươi
vui, hăm hở, hoà mình cùng trời cao biển rộng: họ ra khơi với niềm hân hoan
trong câu hát, với ước mơ trong công việc, với niềm vui thắng lợi trong lao
động. Đó là những con người mang tầm vóc vũ trụ, hăm hở ra khơi bằng tất cả
sức lực và trí tụê của mình.(Dẫn chứng).
 "Lặng lẽ SaPa" của Nguyễn Thành Long mang nhịp thở của người lao động
mới với phong cách sống đẹp, suy nghĩ đẹp, sống có lí tưởng, say mê, miệt mài
trong công việc, quên mình vì cuộc sống chung, vô tư thầm lặng cống hiến hết
mình cho đất nước. Cuộc sống của họ âm thầm, bình dị mà cao đẹp (Dẫn
chứng)

3. Đánh giá, bình luận: (2,0đ)


Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã đáp ứng được những yêu cầu của lịch sử
và thời đại. Ở ngoài tiền tuyến khói lửa là hình ảnh của những người lính dũng cảm,
kiên cường. Nơi hậu phương là những người lao động bình dị mang nhịp thở của thời
đại mới. Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động đã kết tinh thành sức mạnh của
con người và dân tộc Việt Nam thế kỉ XX. Các tác giả văn học thời kì này họ đồng
thời vừa là nhà văn, nhà thơ, vừa là người lính, người chiến sĩ, người lao động cầm
bút để ngợi ca về con người dân tộc Việt với niềm say mê và tự hào. Họ đã làm nên vẻ
đẹp và sức sống mới cho văn học Việt Nam.

ĐỀ SỐ 7

Câu 1: (8 điểm)

Chuyện xưa kể lại rằng, một buổi tối, một vị thiền sư già đi dạo trong thiền viện, chợt
trông thấy một chiếc ghế dựng sát chân tường nơi góc khuất. Đoán ngay ra đã có chú
tiểu nghịch ngợm nào đó làm trái qui định: Vượt tường trốn ra ngoài chơi, nhưng vị
thiền sư không nói với ai, mà lặng lẽ đi đến, bỏ chiếc ghế ra rồi quỳ xuống đúng chỗ
đó.

Một lúc sau, quả đúng có một chú tiểu trèo tường vào. Đặt chân xuống, chú tiểu kinh
ngạc khi phát hiện ra dưới đó không phải là chiếc ghế mà là vai thầy mình, vì quá
hoảng sợ nên không nói được gì, đứng im chờ nhận được những lời trách cứ và cả
hình phạt nặng nề. Không ngờ vị thiền sư lại chỉ ôn tồn nói: "Đêm khuya sương lạnh,
con mau về thay áo đi". Suốt cuộc đời chú tiểu không bao giờ quên được bài học từ
buổi tối hôm đó.

Bài học từ câu chuyện trên gợi cho em những suy nghĩ gì?

Câu 2: (12 điểm)

Một trong những phương diện thể hiện tài năng của người nghệ sĩ ngôn từ là am hiểu
và miêu tả thành công thế giới nội tâm của nhân vật trong tác phẩm văn học. Bằng
những kiến thức đã học về đoạn trích: "Kiều ở lầu Ngưng Bích" (Trích Truyện Kiều
của Nguyễn Du) em hãy làm sáng tỏ điều đó?

Đáp án

Câu 1: (8,0 điểm)

* Yêu cầu về kỹ năng:

 HS biết cách làm bài văn nghị luận xã hội dưới dạng một câu chuyện.
 Văn phong trong sáng, ngôn từ chọn lọc, lập luận sắc sảo, chặt chẽ.

* Yêu cầu về kiến thức:


- Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo các nội
dung sau:

1. Nêu tóm tắt nội dung và phân tích ý nghĩa câu chuyện: (3,0 điểm)

 Trong câu chuyện trên chú tiểu là người mắc lỗi, làm trái qui định vượt tường
trốn ra ngoài chơi. Hành động đó mang tính biểu trưng cho những lầm lỗi của
con người trong cuộc sống.
 Cách xử sự của vị thiền sư có 2 chi tiết đáng chú ý:
1. Đưa bờ vai của mình làm điểm tựa cho chú tiểu lỗi lầm bước xuống.
2. Không quở phạt trách mắng mà nói lời yêu thương thể hiện sự quan tâm lo lắng.
 Qua đó ta thấy vị thiền sư là người có lòng khoan dung, độ lượng với người
lầm lỗi. Hành động và lời nói ấy có sức mạnh hơn ngàn lần roi vọt, mắng nhiếc
mà cả đời chú tiểu không bao giờ quên.
 Câu chuyên cho ta bài học quí giá về lòng khoan dung. Sự khoan dung nếu đặt
đúng lúc đúng chỗ thì nó có tác dụng to lớn hơn sự trừng phạt, nó tác động rất
mạnh đến nhận thức của con người.

2. Suy nghĩ về lòng khoan dung trong cuộc sống: (4 điểm)

 Khoan dung là tha thứ rộng lượng với người khác nhất là những người gây đau
khổ với mình. Đây là thái độ sống đẹp, một phẩm chất đáng quí của con người.
 Vai trò của khoan dung: Tha thứ cho người khác chẳng những giúp người đó
sống tốt đẹp hơn mà bản thân chúng ta cũng sống thanh thản...Đặc biệt trong
quá trình giáo dục con người, sự khoan dung đem lại hiệu quả hơn hẳn so với
việc áp dụng các hình phạt khác. Khoan dung giúp giải thoát những hận thù,
tranh chấp cân bằng cuộc sống, sống hòa hợp hơn với mọi người xung quanh.
 Đối lập với khoan dung là đố kị, ghen tỵ, ích kỉ, định kiến.
 Khoan dung không có nghĩa là bao che cho những việc làm sai trái.

* Lưu ý: Trong quá trình làm bài, thí sinh cần tìm được những dẫn chứng sinh động,
phù hợp để làm sáng tỏ vấn đề.

3. Rút ra bài học nhận thức: (1 điểm)

 Cần phải sống khoan dung nhân ái.


 Sống khoan dung với người cũng chính là khoan dung với mình.

Câu 2: (12,0 điểm)

A. Yêu cầu cần đạt:

Bài làm của học sinh cần đảm bảo những yêu cầu sau:

I. Yêu cầu về kỹ năng:

 Biết cách làm bài văn nghị luận về một ý kiến bàn về văn học.
 Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt trong sáng, khuyến khích các bài viết sáng tạo.

II. Yêu cầu về kiến thức:

Trên cơ sở những kiến thức đã học về Truyện Kiều, đặc biệt là đoạn trích "Kiều ở lầu
Ngưng Bích" cần làm rõ được sự am hiểu và miêu tả thành công thế giới nội tâm nhân
vật Thúy Kiều là một phương diện thể hiện tài năng của Nguyễn Du với các nội dung
sau:

1. Giải thích ý kiến: 2đ

 Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật, chủ yếu là hình
tượng nhân vật trong tác phẩm. Một trong những phương diện thể hiện tài năng
của nhà văn – người nghệ sĩ ngôn từ là am hiểu và miêu tả thành công thế giới
nội tâm nhân vật.
 Miêu tả nội tâm trong tác phẩm văn học là tái hiện những suy nghĩ, cảm xúc,
những băn khoăn trăn trở, những day dứt, suy tư, những nỗi niềm thầm kín và
cả diễn biến tâm trạng của nhân vật.
 Đó là biện pháp quan trọng để xây dựng nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên
sinh động, có hồn hơn. Nhà văn có thể miêu tả trực tiếp nội tâm gián tiếp bằng
cách miêu tả qua cảnh vật, nét mặt, cử chỉ, trang phục của nhân vật.

2. Chứng minh qua đoạn trích: 9đ

a. Hoàn cảnh - Tình huống để Nguyễn Du miêu tả nội tâm nhân vật Kiều. (1đ)

b. Miêu tả nội tâm trực tiếp qua những lời độc thoại nội tâm: (3đ)

 Tài năng của Nguyễn Du trước hết là để Kiều nhớ Kim Trọng trước nhớ cha
mẹ sau rất hợp tâm lý của con người, hợp lô gic tình cảm.
 Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lí do khác nhau nên cách
thể hiện cũng khác nhau. Nỗi nhớ Kim Trọng chủ yếu là liên tưởng ,hình dung
và tưởng tượng. Nhớ cha mẹ chủ yếu là xót xa lo lắng thể hiện trách nhiệm và
bổn phận của đạo làm con.

c. Miêu tả nội tâm gián tiếp qua cảnh vật thiên nhiên (bút pháp tả cảnh ngụ tình): (4đ)

 Cảnh thiên nhiên mênh mông hoang vắng và rợn ngợp qua 6 câu đầu thể hiện
nỗi buồn và cô đơn của Kiều;
 Cảnh thiên nhiên trong 8 câu cuối thực sự là khung cảnh của bi kịch nội tâm.
Mỗi cảnh vật thiên nhiên gợi những tâm trạng khác nhau trong lòng Kiều. Bức
tranh thiên nhiên cũng là bức tranh tâm trạng.

d. Vai trò của nghệ thuật miêu tả nội tâm trong việc xây dựng thành công hình tượng
nhân vật Kiều: Vẻ đẹp lòng hiếu thảo, thủy chung, ý thức về danh dự phẩm hạnh và
thân phận cô đơn hoảng sợ của Kiều trước một tương lai đầy cạm bẫy. (1đ)
3- Đánh giá: 1đ

Thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật là một phương diện để thể hiện tài
năng của nhà văn, làm nên sức sống cho hình tượng nhân vật, cho tác phẩm văn học.
Có lẽ Truyện Kiều sống mãi một phần bởi nghệ thuật miêu tả nội tâm sâu sắc của
Nguyễn Du.

* Lưu ý:

 Giám khảo cần vận dụng linh hoạt khi chấm để đánh giá đúng bài làm của học
sinh.
 Khuyến khích những bài viết sáng tạo.
 Điểm toàn bài cho lẻ đến 0,5.

ĐỀ SỐ 8

Câu 1: (3,0 điểm) Chép lại khổ thơ cuối bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh và nêu cảm
nhận của em về đoạn thơ ấy ?

Câu 2: (5,0 điểm) Phân tích giá trị, ý nghĩa (cả về nghệ thuật và nội dung) của chi tiết
cái bóng trong truyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

Câu 3: (12 điểm) Nét đặc sắc của hình tượng người chiến sỹ trong hai bài thơ: "Đồng
chí" (Chính Hữu) và "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" (Phạm Tiến Duật)

Đáp án

Câu 1. (3 điểm)

Chép đúng, đủ 4 câu thơ sau:

Vẫn còn bao nhiêu nắng


Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Yêu cầu học sinh biết viết một đoạn văn và nêu được cái ý cơ bản sau:

 Bằng biện pháp tu từ nhân hóa, những hình ảnh giàu sức biểu cảm, cách nói
giảm 4 câu thơ khổ cuối bài thơ "Sang thu" (Hữu Thỉnh) đã thể hiện cảm nhận
về sự biến chuyển của thiên nhiên lúc giao mùa cuối hạ sang đầu thu. Những
yếu tố về thời tiết (nắng, mưa, sấm) được phát hiện trong những biến đổi tinh
vi (vẫn còn, vơi dần, bớt).
 Đoạn thơ còn có nghĩa ẩn dụ: Khẳng định sức sống mãnh liệt của tâm hồn con
người. Dù tuổi đã "sang thu" nhưng vẫn còn rạo rực, nồng nàn tình cảm trước
thiên nhiên cuộc đời. "Sấm" là những vang động, "hàng cây đứng tuổi" là hình
ảnh con người từng trải bình tĩnh đón nhận những tác động bất thường của
cuộc sống trong sự lạc quan tin yêu.

Thang điểm:

 Điểm 3: Đáp ứng được yêu cầu nêu trên, văn viết sâu sắc, diễn đạt trong sáng,
bài viết thể hiện được sự sáng tạo cảm thụ riêng biệt, có thề có một vài sai sót
nhỏ.
 Điểm 2: Đáp ứng được yêu cầu nêu trên, văn viết chưa sâu sắc, còn sai sót một
vài lỗi nhỏ.
 Điểm 1: Bài viết còn thiếu ý, diễn đạt còn lủng củng.
 Điểm 0: Sai lạc cả về nội dung và hình thức.

Câu 2: (5,0 điểm)

Phân tích chi tiết cái bóng:

* Về nghệ thuật:

 Chi tiết cái bóng tạo nên cách thắt nút, mở nút hết sức bất ngờ, hấp dẫn.
 Cái bóng là biểu hiện của tình yêu thương, lòng chung thủy trở thành nguyên
nhân trực tiếp của nỗi đau oan khuất, dẫn đến cái chết bi thảm của nhân vật
(thắt nút).
 Cái bóng làm nên sự hối hận của chàng Trương và giải oan cho Vũ Nương (mở
nút).

* Về nội dung: Chi tiết cái bóng làm cho cái chết Vũ Nương thêm oan ức và giá trị tố
cáo xã hội phong kiến nam quyền đầy bất công với phụ nữ thêm sâu sắc.

Phải chăng qua chi tiết cái bóng, tác giả ngầm muốn nói trong xã hội phong kiến thân
phận người phụ nữ mong manh và rẻ rúng chẳng khác nào cái bóng trên tường.

* Thang điểm:

 Điểm 5: Bài viết sâu sắc đủ các ý đã nêu trên.


 Điểm 4: Bài viết đủ các ý đã nêu, văn viết chưa sâu sắc, có thể có một vài lỗi
nhỏ.
 Điểm 3: Bài viết còn thiếu ý, còn sai một vài lỗi nhỏ.
 Điểm 2: Bài viết còn thiếu ý, diễn đạt không rõ ý.
 Điểm 1: Bài viết còn thiếu nhiều ý, diễn đạt lủng củng
 Điểm 0: Bài viết lạc đề, sai cả hình dung, hình thức.

Câu 3: (12 điểm)

I. Yêu cầu:
Học sinh biết viết bài nghị luận văn học (biết đối sánh hai tác phẩm để nhận ra những
nét đặc sắc của mỗi bài thơ về hình tượng người chiến sỹ. Diễn đạt trong sáng, không
mắc lỗi chính tả, bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, các ý cần trình bày được:

A. Giới thiệu đề tài người chiến sỹ trong văn học cách mạng Việt Nam (1945-1975)
và hai tác phẩm của hai nhà thơ.

B. Nét giống nhau của hai tác phẩm:

 Hình ảnh người chiến sỹ trong hai bài thơ đều xuất thân từ những người Việt
Nam yêu nước. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lược nên họ
có nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc, được giác ngộ sâu sắc lý tưởng cách
mạng.
 Trong chiến đấu họ phải đối mặt với những khó khăn gian khổ, thiếu thốn
nhưng họ vẫn vượt lên để hoàn thành nhiệm vụ. Phẩm chất của người chiến sỹ
được tôi luyện trong kháng chiến, giữa họ có những tình cảm tốt đẹp, bền chặt
của tình đồng chí, đồng đội. Đó là những nét bản chất cao đẹp của người chiến
sỹ cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

C. Nét đặc sắc riêng:

a. Tác phẩm "Đồng chí" của Chính Hữu.

Nội dung: Viết về người lính trong buổi đầu chống thực dân Pháp, xuất thân từ nông
dân nghèo ở những miền quê khác nhau. Tác phẩm lý giải tình đồng chí, đồng đội nảy
sinh trên cơ sở cùng cảnh ngộ, cùng lý tưởng chiến đấu, cùng chia sẻ gian lao, thiếu
thốn. Các anh thấu hiểu tâm tư tình cảm của nhau, có những nỗi nhớ quê hương sâu
nặng tha thiết.

Nghệ thuật: Bài thơ mang vẻ đẹp giản dị, ngôn ngữ mộc mạc, giọng điệu thủ thỉ tâm
tình, cảm xúc dồn nén, sử dụng cấu trúc song hành. Tác phẩm có nhiều chi tiết phản
ánh hiện thực mà vẫn đậm chất lãng mạn.

b. Tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật.

Nội dung: Viết về những người chiến sỹ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn những
năm chống Mỹ ác liệt. Bài thơ làm nổi bật tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm chấp
nhận những khó khăn với ý trí chiến đấu giải phóng Miền Nam của người chiến sỹ lái
xe. Họ có nét tinh nghịch, trẻ trung, vô tư lạc quan, hồn nhiên sôi nổi. Cả tập thể chiến
sỹ lái xe coi nhau như một gia đình.

Nghệ thuật: Bài thơ đậm chất văn xuôi mà vẫn rất thơ, tạo nên một lối thơ mới giàu
hiện thực, trẻ trung. Nhà thơ xây dựng hình tượng những chiếc xe không kính là một
nét đặc sắc để khắc họa vẻ đẹp tâm hồn, ý chí người chiến sỹ lái xe.

D. Nguyên nhân có sự khác nhau:


Do hoàn cảnh lịch sử chi phối cách phản ánh cuộc sống chiến tranh, đồng thời do cách
cảm nhận và tài năng thể hiện ở mỗi nhà thơ cũng có sự đòi hỏi sáng tạo của văn học.
Tuy nhiên giữa hai thế hệ người chiến sỹ vẫn có tính nối tiếp và kế thừa.

II. Thang điểm:

 Điểm 11,12: Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu nêu trên, văn viết sâu sắc, diễn đạt
trong sáng, bài viết thể hiện được sự sáng tạo, cảm thụ riêng biệt. Có thể còn có
một vài sai sót nhỏ.
 Điểm 9, 10: Cơ bản đáp ứng được yêu cầu nêu trên; văn viết chưa thật sâu sắc
nhưng phải đủ ý, diễn đạt trong sáng. Có thể còn một vài sai sót nhỏ.
 Điểm 7, 8: Cơ bản hiểu yêu cầu của đề, chọn và phân tích được một số dẫn
chứng để làm sáng tỏ vấn đề. Diễn đạt rõ ý. Còn mắc một vài sai sót nhỏ.
 Điểm 5, 6: Cơ bản hiểu yêu cầu đề bài song phân tích dẫn chứng chưa thật sâu
sắc, còn mắc một vài sai sót.
 Điểm 3, 4: Chưa hiểu rõ đề, nội dung sơ sài, ít dẫn chứng, còn mắc nhiều lỗi
diễn đạt.
 Điểm 1, 2: Chưa hiểu đề bài, nội dung sơ sài hoặc không nêu được ý, diễn đạt
yếu, mắc nhiều lỗi ngữ pháp, dùng từ.
 Điểm 0: Sai lạc cả về nội dung và phương pháp.

ĐỀ SỐ 9

Câu 1: (2 điểm)

Cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về được nhà thơ Nguyễn Du viết:

Nao nao dòng nước uốn quanh


Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang

Và cũng không gian cảnh ấy nhưng khi chia tay với Kim Trọng, tác giả Truyện Kiều
lại viết:

Dưới cầu nước chảy trong veo,


Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

Em hãy so sánh hai câu thơ trên và phân tích nghệ thuật sử dụng từ ngữ độc đáo trong
những câu thơ đó.

Câu 2: (3 điểm)

Trong câu chuyện "Lỗi lầm và sự biết ơn" (Ngữ văn 9 – Tập 1 – Trang 160) có câu:

"Những điều viết lên cát sẽ mau chóng xóa nhòa theo thời gian, nhưng không ai có
thể xóa được những điều tốt đẹp đã được ghi tạc trên đá, trong lòng người"
Trình bày suy nghĩ của em về câu nói trên ? (Viết thành văn bản khoảng một trang
giấy thi).

Câu 3: (5 điểm)

Cảm nhận của em về "Sự giao thoa giữa cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ và cảm hứng
về lao động" trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận (SGK Ngữ văn 9 , tập
một).

Đáp án

Câu 1: (2 điểm)

* Yêu cầu hình thức:

- Học sinh biết cách tạo dựng đoạn văn. Lời văn trong sáng, mạch lạc, giàu cảm xúc

* Yêu cầu nội dung: Về cơ bản thể hiện được những ý sau:

a. So sánh hai cặp câu thơ:

 Giống nhau:
1. Hai cặp câu thơ đều miêu tả cảnh thiên nhiên trong cùng một thời điểm: buổi chiều
xuân trong tiết thanh minh.
2. Đều sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình với những từ láy giàu giá trị biểu cảm.
 Khác nhau:
1. Cặp câu thơ thứ nhất: là cảnh được miêu tả tại nơi Thúy Kiều cùng hai em gặp
nấm mộ của Đạm Tiên – một nấm mồ vô chủ bên đường lạnh lẽo không có người
hương khói. Cảnh vật được cảm nhận qua cái nhìn của một tâm hồn đa sầu đa cảm
như Thúy Kiều nên mang nỗi buồn xao xuyến, buâng khuâng, mang mác.
2. Cặp câu thơ thứ hai: là cảnh được miêu tả gắn liền với cuộc kì ngộ và chia tay giữa
người quốc sắc (Thúy Kiều) và kẻ thiên tài (Kim Trọng) trong buổi du xuân trở về
ấy. Qua tâm hồn của một người con gái với tình yêu trong sáng chớm nở cảnh vật
cũng trở nên thơ mộng, hữu tình và đầy thi vị.

b. Nghệ thật sử dụng từ ngữ độc đáo:

 Cặp câu thơ thứ nhất:


1. Tác giả sử dụng các từ láy: nao nao, nho nhỏ một cách tinh tế, chính xác gợi nhiều
cảm xúc cho người đọc, vừa gợi được sắc thái cảnh vật, vừa thể hiện được tâm
trạng con người.
2. Cách sử dụng từ ngữ tinh tế ấy gợi tả cảnh chiều xuân đẹp êm dịu, thơ mộng, trong
trẻo và cảm xúc buâng khuâng xao xuyến về một ngày vui xuân đang còn mà sự
linh cảm về một điều gì đó sắp xảy ra đã xuất hiện.
 Cặp câu thơ thứ hai:
1. Tác giả sử dụng từ láy: thướt tha, tính từ: trong veo một cách tinh tế, chính xác,
gợi nhiều cảm xúc cho người đọc, vừa gợi tả được sắc thái của cảnh vật vừa thể
hiện tâm trạng con người.
2. Đó là cảnh sắc chiều xuân thanh dịu, thơ mộng, hữu tình và cảm xúc bồi hồi, xao
xuyến, thiết tha trong tâm hồn nhân vật.

* Biểu điểm:

 Điểm 2: Đạt tất cả các yêu cầu trên – không mắc lỗi
 Điểm 1: Đạt đươc 1 /2 yêu cầu.

Câu 2: (6 điểm)

* Yêu cầu về hình thức:

- HS biết cách làm kiểu bài nghị luận bố cục chặt chẽ, sử dụng các thao tác giải thích –
chứng minh- bình luận.

* Yêu cầu về nội dung: Về cơ bản thể hiện được những ý sau:

a. Giải thích ý nghĩa câu nói:

 Những điều viết lên cát nhanh chóng bị xóa nhòa: lỗi lầm.
 Những điều được ghi tạc trên đá, trong lòng người: sự biết ơn.

b. Suy nghĩ:

 Mỗi chúng ta suy nghĩ và biết cách xóa đi những lỗi lầm mắc phải trong cuộc
sống. Những lỗi lầm đó cần được mau chóng xóa nhòa theo thời gian, không
còn chỗ đứng trong cuộc sống của mỗi con người để cuộc sống tươi đẹp hơn
không có đau buồn, thù hận.
 Chúng ta cần học cách khắc ghi những ân nghĩa lên đá, trong lòng người. Đó là
những điều tốt đẹp, chồi non của cuộc sống, mỗi con người từ đó đơm hoa kết
trái làm đẹp cho đời cho cuộc sống chúng ta.

c. Bài học rút ra được:

 Hãy bao dung độ lượng với tất cả mọi người.


 Lòng nhân ái là nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam.
 Biết tha thứ và ghi nhớ ân nghĩa, ân tình: Đây là một trong những phẩm chất tốt
đẹp nhất chỉ có ở con người, có nó cuộc sống đẹp hơn ý nghĩa hơn...

* Biểu điểm:

 Điểm 3: Hiểu rõ yêu cầu của đề bài, đảm bảo các yêu cầu về kĩ năng và kiến
thức, có lập luận chặt chẽ, có sự kết hợp nhuần nhuyễn các thao tác lập luận,
bài viết có cảm xúc, diễn đạt lưu loát.
 Điểm 2: Hiểu rõ yêu cầu của đề bài, đáp ứng hầu hết các yêu cầu về kĩ năng và
kiến thức, có lập luận tương đối chặt chẽ, có sự vận dụng thành công các thao
tác lập luận, diễn đạt tương đối tốt.
 Điểm 1: Hiểu yêu cầu của đề bài, đáp ứng được cơ bản các yêu cầu về kĩ năng
và kiến thức, lập luận chưa chăt chẽ, có thể còn một số lỗi nhỏ về diễn đạt.

Câu 3: (5 điểm)

 Vấn đề nghị luận: "Sự giao thoa giữa cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ và cảm
hứng về lao động" trong bài thơ Đoàn thuyền đành cá của Huy Cận.
 Phương pháp lập luận: Trình bày suy nghĩ, nhận xét, đánh giá và cảm xúc của
người viết.
 Tư liệu: Dựa vào bài thơ.
 Nội dung: Học sinh có thể trình bày theo cách khác, song phải đảm bảo cơ bản
nội dung kiến thức sau:

* Cảm hứng trước cảnh hoàng hôn trên biển và khúc hát ra khơi của đoàn thuyền đánh
cá (hai khổ đầu).

 Nhà thơ mở ra trước mắt người đọc cảnh biển đẹp, kì vĩ, tráng lệ. mênh mang
không gian bao la, mặt trời đang từ từ xuống biển đỏ như quả cầu lửa khổng lồ.
Sóng đan trên mặt nước lung linh ánh vàng như cài then, sập cửa khép lại nửa
chu kì nhật nguyệt. Cảnh biển trước hoàng hôn không nặng nề, tăm tối mà
mang vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên tạo vận trong quy luật vận động của nó.
Tác giả miêu tả với cảm hứng vũ trụ, nếu trước Cách Mạng, Vũ trụ ca còn
mênh mang trời nước một nỗi buồn ảo não bơ vơ thì giờ đây niềm vui tràn
ngập ấm áp giao thoa trong cảnh và người.
 Nổi bật lên bức tranh thiên nhiên kì vĩ ấy là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá căng
buồm lướt sóng ra khơi. Tâm trạng náo nức của người lao động hòa trong khúc
hát lên đường đầy khí thế, nhiệt tình và khẩn trương. Họ hát cho buồm căng
gió, cho cá bạc đầy khoang, cho cá thu như đoàn thoi đêm ngày dệt biển muôn
luồng sáng đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!

* Cảm hứng trước cảnh biển đêm trăng và cảnh đánh bắt cá của đoàn thuyền (4 khổ
tiếp),.

 Khi sóng đã cài then, đêm sập cửa thì hình ảnh vũ trụ lại chuyển sang một cảnh
khác – cảnh biển đêm trăng. Không gian bao la lại tạo ra bức tranh trời nước
với những ngôi sao lấp lánh, trăng chan hòa sắc vàng không gian, mây cao, gió
lộng buồm căng thấm đẫm ánh trăng. Biển đẹp và sống động: "Đêm thở: sao
lùa nước Hạ Long", "gõ thuyền đã có nhịp trăng cao".
 Sự giao thoa hai nguồn cảm hứng ở 4 khổ thơ này rất rõ, Cảm hứng lãng mạn
cách mạng và cảm hứng vũ trụ đã tạo ra cảnh bắt cá của đoàn thuyền dưới đêm
trăng tuyệt đẹp, hùng tráng, mơ mộng: "Thuyền ta lướt gió với buồm trăng/
Lướt giữa mây cao với biển bằng". Thật bay bổng, lãng mạn, con thuyền nhỏ
nhoi trước vũ trụ bao la trở nên kì vĩ, mang tầm vóc vũ trụ, lướt giữa gió, mây,
trăng sao và cánh buồm thấm đãm ánh trăng.
 Hình ảnh con người càng khỏe khoắn, lồng lộng giữa biển khơi, ra thăm dò
bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận, bủa lưới vây giăng.....vừa làm vừa
hát khiến công việc đánh bắt cá trên biển vốn đầy nặng nhọc, gian khổ, nguy
hiểm thành bài ca lao động hào hứng, vui tươi.
 Hình ảnh con người lao động là trung tâm của bức tranh được nhà thơ khắc họa
bằng nét bút giàu chất tạo hình. Thân hình chắc khỏe, gân guốc, cơ bắp cuồn
cuộn, kéo lên những mẻ lưới trĩu nặng cá bạc, vàng. Trăng soi, chiếu xuống
mặt biển, sóng xô bóng trăng gõ vào mạn thuyền, tạo nên nhịp sóng lấp lánh
ánh trăng như xua cá vào lưới. Thiên nhiên – con người giao hòa, tạo nên bức
tranh đánh bắt cá trên biển đêm trăng vừa hùng tráng vừa thơ mộng.

* Cảnh biển bình minh và đoàn thuyền đánh cá trở về trong chiến thắng (khổ cuối)

 Cảnh bình minh lên, mặt trời đội biển xòe những ngón tay hồng xua đi màn
đêm còn xót lại. Biển trời bao la, sự vận động của thiên nhiên trên biển thật kì
vĩ, mát mẻ, trong trẻo, tinh khôi, khoáng đãng. Gió khơi lồng lộng đưa đoàn
thuyền trở về trong niềm vui chiến thắng cá đầy khoang, khép lại 1 chu trình
lao động vất vả trên biển đêm. Con người lúc ra đi đẹp hào hùng đầy hứng khởi
thì lúc trở về vẫn trong niềm vui chiến thắng ấy. Ánh dương đã tô điểm cho
thành quả của họ thêm rực rỡ: ''Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi''.
 Sự giao thoa giữa hai nguồn cảm hứng: vũ trụ và cảm hứng cách mạng – ca
ngợi người lao động đã tạo cho bài thơ những hình ảnh thiên nhiên rộng lớn,
tráng lệ, độc đáo, thực mà mộng, biểu hiện niềm say sưa, hào hứng và những
ước mơ bay bổng của con người muốn hòa hợp với thiên nhiên, chinh phục
thiên nhiên.
 Đây cũng là niềm vui của nhà thơ trước cuộc sống mới, con người lao động
mới. Tâm hồn Huy Cận không còn ảo não, bơ vơ trong cái tôi lẻ loi trước vũ
trụ mà đã thực sự hòa vào cái ta chung của đất nước, con người. Có thể nói đây
là bài thơ hay nhất của Huy Cận trong thời kì đó.

Biểu điểm:

 Điểm 5: Đáp ứng được các yêu cầu trên, diễn đạt lưu loát, lập luận chặt chẽ.
 Điểm 3-4: Cơ bản đáp ứng những yêu cầu trên, dẫn chứng chưa thật đầy đủ
nhưng rõ các ý trọng tâm, diễn đạt tương đối tốt, có thể mắc 1 vài sai sót nhỏ.
 Điểm 2: Đáp ứng khoảng ½ yêu cầu trên, dẫn chứng chưa thật đầy đủ nhưng rõ
các ý, diễn đạt thoát ý tuy chưa hay, có thể mắc 1 vài sai sót.
 Điểm 1: Chưa thật nắm vững yêu cầu của đề bài, hầu như chỉ bàn luận chung
chung, ít dẫn chứng, bình luận còn hạn chế, mắc 1 vài sai sót.

ĐỀ SỐ 10

I. Trắc nghiệm: (3 đ)

1. Điền các từ còn thiếu vào câu sau:


Độc thoại là lời của một người nào đó nói với...........................hoặc nói
với......................trong tưởng tượng. Trong văn bản tự sự, khi ghi lời người độc thoại
thì phải dùng...........................đầu dòng trước câu nói; còn khi ghi lời người độc
thoại ................... thì không dùng dấu gạch đầu dòng.

2. Đoạn văn nào sử dụng lời dẫn gián tiếp?

a. Y nhìn vào gương, vừa xoa nắn mặt, vừa càu nhàu: "Chà! Sao trông mặt mình ngáo
quá! Mình già quá!" (Nam Cao)

b. Có người hỏi:

- Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà? (Kim Lân)

c. "Oanh hẳn về nhà riêng...", y nghĩ vậy. Nhưng liền ngay sau đấy, y nghe thấy Oanh
cười. (Nam Cao)

d. Thứ ngẫm nghĩ cho rằng đàn bà tốt hơn đàn ông, nhẫn nại hơn, nhiều đức hi sinh
hơn. (Nam Cao)

3. Văn bản "Cố hương" thuộc thể loại:

a. Hồi kí có yếu tố hư cấu b. Truyện ngắn có yếu tố hồi kí

c. Tiểu thuyết chương hồi d. Tùy bút có yếu tố hồi kí.

4. Từ "Đầu" rong dòng nào sau đây được dùng với nghĩa gốc?

a. Đầu bạc răng long b. Đầu súng trăng treo

c. Đầu non cuối bể d. Đầu sóng ngọn gió

5. Câu thơ "Làn thu thủy, nét xuân sơn" miêu tả vẻ đẹp nào của Thúy Kiều?

a. Mái tóc b. Làn da c. Đôi mắt d. Nụ cười

6. Câu thơ nào sau đây chứa từ tượng hình?

a. Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi. b. Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối.

c. Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ. d. Mặt trời của bắp thì nằm trên
đồi.

7. Trong câu nói "Nắng này là bỏ mẹ chúng nó" của nhân vật ông Hai trong tác phẩm
"Làng", từ "chúng nó" là để chỉ ai?
a. Người làng Chợ Dầu b. Bọn trẻ c. Giặc Tây d.
Lũ trâu

8. Cụm từ "Súng bên súng" trong bài thơ "Đồng chí" (Chính Hữu) nói lên điều gì?

a. Tả thực những cây súng đặt nằm cạnh nhau.

b. Những người lính cùng chung nhiệm vụ chiến đấu.

c. Nói lên sự đụng độ giữa quân ta và quân địch.

d. Những người lính đang canh gác bên chiến hào.

9. Nhân vật Anh thanh niên trong truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" được miêu tả chủ yếu
bằng cách:

a. Tự giới thiệu về mình b. Hiện ra qua sự nhìn nhận và đánh


giá của nhân vật khác

c. Được tác giả miêu tả trực tiếp d. Được giới thiệu qua lời kể của ông
họa sĩ.

10. Câu nói của bé Thu "Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!" đã vi phạm phương châm
hội thoại nào?

a. Phương châm về lượng b. Phương châm về chất

c. Phương châm cách thức d. Phương châm lịch sự.

11. Chọn một từ trong ngoặc điền vào chỗ trống:

- Về khuya, đường phố rất .....................(yên tĩnh, im lặng, im ắng, êm ả)

12. Nhận định nào đúng về nội dung thể loại văn tự sự học trong chương trình Ngữ
Văn 9?

Văn tự sự học trong chương trình ngữ văn 9 có thêm:

a. Sự kết hợp với các yếu tố: biểu cảm, nghị luận, miêu tả nội tâm, đối thoại, độc thoại
và các biện pháp nghệ thuật.

b. Bài văn có cốt truyện, có nhân vật chính, phụ.

c. Mỗi bài văn đều phái có thêm phần tự truyện của các tác giả.

d . Mỗi văn bản đều phải có lời của người dẫn truyện.
II. Tự luận: (7 đ)

1. Tóm tắt đoạn trích truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng trong
khoảng 15 dòng? (1,5đ)

2. Thuật ngữ là gì? Cho 2 ví dụ về thuật ngữ và giải thích 2 thuật ngữ đó? (1đ)

3. Cảm nghĩ của em về nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" của
Nguyễn Thành Long? (4,5đ)

Đáp án

I. Trắc nghiệm:

Mỗi câu đúng được 0,25 đ

1. Chính mình – một người nào đó – gạch - nội tâm

2. d 3. b 4. a 5. c 6. b 7. c 8. b 9. b

10. d 11. Yên tĩnh 12. a

II. Tự luận:

Câu 1. Tóm tắt đoạn trích "Chiếc lược ngà": HS tóm tắt có đầy đủ các ý sau (1,5đ)

 Trước khi chuẩn bị đi tập kết, anh Ba cùng anh Sáu về thăm gia đình nơi anh
Sáu ở, anh Sáu khao khát cháy bỏng được gặp đứa con gái đầu lòng lên tám
tuổi là bé Thu. Nhưng suốt gần 3 ngày đêm ở nhà bé Thu nhất định không chịu
nhận ba, mặc dù anh đã tìm hết cách để chứng minh anh là ba nó. Con bé
bướng bỉnh, cứng đầu làm cho anh không kìm được sự nóng giận, anh đã đánh
con bé.
 Khi được bà ngoại cho biết nguyên nhân vết thẹo trên mặt ba nó là do giặc Mĩ
gây lên, nó mới chịu nhận anh Sau là ba thì cũng là lúc anh Sáu phải trở lại căn
cứ. Chia tay con trở lại căn cứ anh Sáu luôn day dứt vì đã đánh con, anh dồn
hết tình cảm và tâm sức vào làm chiếc lược bằng ngà voi cho con gái. Nhưng
trong một trận càn, anh đã hi sinh. Trước lúc nhắm mắt anh còn cố trao lại
chiếc lược nhờ anh Ba trao tận tay cho con gái.

Câu 2. Thuật ngữ là:

Những từ ngữ biểu thị một khái niệm khoa học, công nghệ, thường được sử dụng
trong văn bản khoa học hoặc công nghệ. (0,5 điểm)

Ví dụ: (0,5 điểm) (HS có thể lấy các ví dụ bất kì – nhưng phải giải thích đúng)
 Ẩn dụ: là biện pháp nghệ thuật tu từ gọi tên sự vật hiện tượng này bằng tên sự
vật hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm làm tăng sức gợi hình, gợi
cảm cho sự diễn đạt.
 Thụ phấn là: Hiện tượng hạt phấn tiếp xúc với đầu nhụy (Sinh học)

Câu 3. Tập làm văn:

MB: Giới thiệu khái quát về tác phẩm và nhân vật anh thanh niên (0,5 đ)

TB: Phân tích vẻ đẹp phẩm chất của anh thanh niên (3,5 đ)

 Anh là người sống có lí tưởng cao đẹp, có tinh thần trách nhiệm với công việc,
sẵn sàng hi sinh cống hiến thầm lặng cho đất nước
 Sôi nổi, yêu đời vô tư, cởi mở với mọi người (chặn xe để đón khách dưới xuôi
lên để có người trò chuyện, tặng hoa cho cô gái trong buổi đầu gặp mặt ...)
 Khiêm tốn, lịch sự, tế nhị và luôn quan tâm đến người khác (Không nhận mình
là người cô độc nhất thế gian mà ngỏ ý giới thiệu cho ông họa sĩ vẽ anh bạn
trên đỉnh Phan- xi – phăng, ông kĩ sư thụ phấn cho su hào... gởi củ tam thất cho
vợ bác lái xe khi biết vợ bác bị ốm, tặng hoa cô gái, tặng làn trứng ăn đường
cho khách...)
 Sống ngăn nắp, khoa học, say mê đọc sách, học tập
 Tự cải thiện cuộc sống của mình bằng cách trồng hoa, nuôi gà mặc dù sống ở
một địa hình và thời tiết tương đối khắc nghiệt

* Phân tích, chứng minh qua lờ kể của ông họa sĩ bác lái xe và cô kĩ sư

KB: Cảm nghĩ, liên hệ bản thân (0,5 đ)

ĐỀ SỐ 11

Câu 1: (4,0 điểm)

Viết về cảnh đất trời mùa xuân ở đoạn trích Cảnh ngày xuân (Truyện Kiều – Nguyễn
Du), có ý kiến cho rằng: Từ cặp lục bát thứ nhất sang cặp lục bát thứ hai có sự biến
đổi của mạch thơ; riêng cặp lục bát thứ hai đã thể hiện tài tình nghệ thuật "thi
trung hữu họa".

Em hãy viết đoạn văn trình bày ý kiến của mình về nhận xét trên?

Câu 2: (4,0 điểm)

Khi nói về quê hương, Đỗ Trung Quân cho rằng:

Quê hương mỗi người chỉ một


Như là chỉ một mẹ thôi.
(Quê hương)

Em hiểu thế nào về quan niệm của nhà thơ? Từ đó hãy bày tỏ suy nghĩ của em về quê
hương?

Câu 3: (12,0 điểm)

Nhận xét về truyện "Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Thành Long, có ý kiến cho rằng:

"Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người lao
động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều
gian khổ và hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người
ấy gợi lên cho ta những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, của lao động tự giác, về
con người và về nghệ thuật".

Qua truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa", em hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.

Đáp án

Câu 1: (4,0 điểm)

* Bài viết trình bày dưới hình thức một đoạn văn.

* Nội dung cần đạt được như sau:

Đồng ý với nhận xét trên

 Sự biến đổi của mạch thơ


1. Hai câu đầu gợi dòng chảy thời gian bất tận, nhịp thơ êm xuôi:"Ngày xuân con
én...ngoài sáu mươi". Hình ảnh "chim én đưa thoi" vừa gợi không gian, vừa ngụ ý
mùa xuân qua nhanh.
2. Hai câu tiếp theo, mạch thơ dừng lại, mở ra một không gian mênh mông, không
còn ranh giới giữa trời và đất: " Cỏ non xanh tận chân trời...một vài bông hoa" .
 Nghệ thuật "Thi trung hữu họa" ở cặp thơ thứ hai:
1. Trời đất một màu xanh non tươi tốt của cỏ mùa xuân. Trên nền màu xanh non ấy
điểm xuyết sắc trắng của hoa lê. Hai màu: xanh, trắng là những gam màu sáng tươi
dịu mát, tôn nhau lên, màu trắng hoa lê làm cỏ như xanh hơn và sắc trắng của hoa
càng trở nên thanh khiết trên nền cỏ xanh mịn.
2. Cách dùng từ "trắng điểm" (chứ không phải là điểm trắng) giúp ta nhận ra tín hiệu
của mùa xuân ở vẻ đẹp ẩn chìm mà sống động của tạo vật vốn vô tri vô giác.
3. Có thể liên hệ đến câu thơ cổ của Trung Quốc: "Phương thảo liên thiên bích/ Lê
chi sổ điểm hoa".
 Khả năng rung động tinh tế của thi nhân trước cái đẹp của mùa xuân.

(Không cho điểm tối đa những bài viết không trình bày đúng hình thức của một đoạn
văn).
Câu 2: (4,0 điểm)

* Yêu cầu chung:

 HS hiểu đề, viết sát chủ đề đã nêu.


 Biết cách làm một bài văn nghị luận có bố cục hợp lí, lập luận chặt chẽ.
 Trình bày ý mạch lạc, rõ ràng. Văn viết trong sáng, có cảm xúc.

* Yêu cầu cụ thể:

 Quan niệm về quê hương của nhà thơ Đỗ Trung Quân:


1. Câu thơ nằm trong thi phẩm viết về quê hương. Trong thi phẩm ấy, nhà thơ gợi ra
những cách hiểu về quê hương.
2. Cách so sánh độc đáo, thú vị: quê hương và mẹ. Ý ngĩa của cách so sánh ấy là để
khẳng định quê hương chính là nguồn cội, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi gắn bó, nuôi
dưỡng sự sống, đặc biệt là sự sống tinh thần, tâm hốn.
3. Qua lối so sánh khẳng định để nêu bật tình cảm với quê hương. Quê hương là điều
quý giá vô ngần mà mỗi con người không thể thiếu. Hình bóng quê hương đi theo
con người suốt cả cuộc đời, trở thành điểm tựa về tinh thần của con người trong
cuộc sống. Nếu thiếu đi điểm tựa này, cuộc sống của con người trở nên chông
chênh, lệch lạc. Đồng thời, qua cách so sánh, tác giả cũng khơi dậy, nuôi dưỡng
tình cảm với quê hương: tình cảm với mẹ là tình cảm tự nhiên như một bản năng,
tình cảm với quê hương là tình cảm tự nhiên, thuần khiết trong tâm hồn mỗi con
người.
4. Gợi mở một cách sống, cách làm người: Phải biết coi trọng gốc rễ, hướng về cội
nguồn, biết yêu quê hương. Thiếu đi tình cảm này là một khiếm khuyết trong đời
sống tâm hồn, tình cảm khiến con người không được làm người một cách trọn vẹn.
 Suy nghĩ của bản thân:
1. Quê hương là bến đỗ bình yên cho mỗi con người...
2. Mỗi người không được quên đi nguồn cội, gốc gác, quê hương. Dù ai đi đâu, ở đâu
cũng sẽ luôn tự nhắc nhở hãy nhớ về cội nguồn yêu thương.
3. Nuôi dưỡng tình cảm với quê hương có nghĩa là nuôi dưỡng tâm hồn, để con
người được làm người theo nghĩa đầy đủ nhất.
4. Đặt tình cảm với quê hương trong quan hệ với tình yêu đất nước, cần hướng về
quê hương song không có nghĩa là chỉ hướng về mảnh đất nơi mình sinh ra mà
phải biết tôn trọng và yêu quý tất cả những gì thuộc về Tổ quốc.
5. Có thái độ phê phán trước những hành vi, suy nghĩ chưa tích cực về quê hương:
chê quê hương nghèo khó, lạc hậu; làm thay đổi một cách tiêu cực dáng vẻ quê
hương mình...
6. Trách nhiệm xây dựng quê hương.

* Mở bài, kết bài viết tốt mỗi phần được 0,5 đ

Câu 3: (12,0 điểm)

* Về kỹ năng: Hiểu đúng yêu cầu của đề bài. Biết cách làm bài văn nghị luận bố cục
rõ ràng, kết cấu hợp lí. Diễn đạt tốt, không mắc các lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
* Về nội dung:

Học sinh có thể sắp xếp trình bày theo nhiều cách khác nhau, có thể có những ý kiến
riêng miễn sao phải phù hợp với yêu cầu của đề bài. Dù triển khai theo trình tự nào
cũng cần đạt được những ý chính sau đây.

A/ Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người
lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều
gian khổ và hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ.

Qua các nhân vật với những công việc và lứa tuổi khác nhau, nhà văn muốn khái quát
những phẩm chất cao đẹp của con người mới trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội
và chống Mĩ cứu nước. Họ có những suy nghĩ đúng đắn, lặng lẽ cống hiến cho tổ
quốc, tâm hồn trong sáng và giàu lòng nhân ái.

1/ Vẻ đẹp cao cả chung của các nhân vật.

 Ý thức trách nhiệm trước công việc: anh thanh niên, đồng chí cán bộ khoa học.
 Sống có lý tưởng, sẵn sàng cống hiến: anh thanh niên, cô kỹ sư trẻ (cô kĩ sư trẻ
mới ra trường lần đầu tiên xa Hà Nội, dũng cảm lên nhận công tác tại Lai Châu.
Cô là lớp thanh niên thề ra trường đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì...)
 Nhận thức sâu sắc ý nghĩa công việc: anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau,
người cán bộ nghiên cứu khoa học...
 Yêu thích, say mê công việc, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, dám chấp nhận
cuộc sống cô độc để làm việc, làm việc một cách kiên trì, tự giác bất chấp hoản
cảnh: anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau, người cán bộ nghiên cứu khoa học.

2/ Vẻ đẹp trong cuộc sống bình thường.

Tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên.

 Đó là con người sống, làm việc một mình trên đỉnh núi cao mà không cô đơn.
Anh tổ chức sắp xếp cuộc sống của mình trên trạm khí tượng thật ngăn nắp,
chủ động, giản dị (căn nhà nhỏ, giường cá nhân...). Anh sống lạc quan yêu đời -
trồng hoa, nuôi gà, đọc sách.
 Đó là một người khiêm tốn: lặng lẽ hoàn thành công việc, không tự nhận thành
tích về mình, luôn nhận thức được công việc của mình làm là những đóng góp
nhỏ bé cho đất nước; ham mê học hỏi, phấn đấu bởi xung quanh anh có biết
bao con người, bao tấm gương, bao điều đáng học (những ông kĩ sư vườn rau,
anh cán bộ nghiên cứu sét...)
 Một con người sống cởi mở, tốt bụng, luôn quan tâm đến mọi người một cách
chân thành, chu đáo: việc đi tìm củ tam thất cho vợ bác lái xe, đón ông hoạ sĩ
già và cô kỹ sư trẻ thân tình, nồng hậu; hồn nhiên, yêu cuộc sống: thèm người,
thèm chuyện trò ...

Khẳng định, khái quát: Tác phẩm thật sự là một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và
suy nghĩ của người lao động bình thường mà cao cả. Họ chính là những thế hệ tiêu
biểu cho lớp người mới, cho thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước. Tuy
không trực tiếp chiến đấu, song họ đã góp phần không nhỏ để xây dựng cuộc sống
mới và góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến của dân tộc. Họ nối tiếp nhau
xứng đáng là chủ nhân của đất nước này.

(Học sinh có thể trình bày trên cơ sở phân tích từng nhân vật để làm nổi bật ý tưởng
chung, tuy nhiên, cần tập trung vào nhân vật trung tâm là anh thanh niên)

B/ Tác phẩm gợi lên những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, của lao động tự giác
về con người và về nghệ thuật".

 Cuộc sống của mỗi người chỉ thực sự ý nghĩa khi mọi việc làm, hành động của
họ đều xuất phát từ tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu và tự hào về mảnh
đất mình đang sống.
 Con người biết sống có lý tưởng, say mê với công việc, hiểu được ý nghĩa của
công việc mình làm. Con người cần tự nhìn vào chính bản thân để sống tốt đẹp
hơn.
 Thông qua suy nghĩ của người hoạ sĩ: vẻ đẹp của con người và của cuộc sống
chính là nguồn cảm hứng vô tận để người nghệ sĩ sáng tạo những tác phẩm
nghệ thuật có giá trị.

C. Tiêu chuẩn cho điểm:

 Điểm 9 – 12: Bài làm đáp ứng tốt các yêu cầu trên; lập luận chặt chẽ, thuyết
phục; hành văn trong sáng, hấp dẫn, có những cảm thụ tinh tế, sáng tạo.
 Điểm 5 – 8: Bài làm cơ bản đạt được các yêu cầu trên; lập luận tương đối chặt
chẽ, thuyết phục; diễn đạt rõ ràng, trôi chảy; có thể còn mắc vài lỗi nhỏ về diễn
đạt, chính tả.
 Điểm 0,5 - 4: Nội dung bài viết sơ sài, lập luận chưa chặt chẽ, thiếu thuyết
phục; còn mắc lỗi về diễn đạt, chính tả.
 Điểm 0: Lạc đề, sai cả nội dung và phương pháp.

Lưu ý chung: Trên đây chỉ là những gợi ý cơ bản về cách chấm. Giám khảo linh hoạt
khi chấm bài của học sinh. Khuyến khích những bài viết có chất văn, có tính sáng tạo.

ĐỀ SỐ 12

Câu 1 (4 điểm)

Kết thúc truyện "Chuyện người con gái Nam Xương" Nguyễn Dữ viết :

" ...Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng, theo sau đến năm mươi
chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện.

Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào:
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng,
thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa.

Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ dần rồi biến mất."

Nêu cảm nhận của em về cách kết thúc câu chuyện trên

Câu 2: (4 điểm)

Suy nghĩ của em từ ý nghĩa câu chuyện sau:

Diễn giả Le-o Bu-sca-gli-a lần nọ kể về một cuộc thi mà ông làm giám khảo. Mục
đích của cuộc thi là tìm ra đứa trẻ biết quan tâm nhất. Người thắng cuộc là một em bé
bốn tuổi.

Người hàng xóm của em là một ông lão vừa mất vợ. Nhìn thấy ông khóc, cậu bé lại
gần rồi leo lên ngồi vào lòng ông. Cậu ngồi rất lâu và chỉ ngồi như thế. Khi mẹ em bé
hỏi em đã trò chuyện những gì với ông ấy, cậu bé trả lời: "Không có gì đâu ạ. Con chỉ
để ông ấy khóc."

(Theo "Phép màu nhiệm của đời" - NXB Trẻ, 2005)

Câu 3 (12 điểm).

Bàn về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt có ý kiến cho rằng: "Bài thơ biểu hiện một triết
lý thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người, đều có sức tỏa sáng,
nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời".

Bằng những hiểu biết của em về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, em hãy làm sáng tỏ
nhận định trên.

Đáp án

Câu 1: (4 điểm)

Bài làm của học sinh cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:

A. Về nội dung:

 Hình ảnh Vũ Nương trở về trong một không gian rực rỡ và tràn đầy ánh sáng
như một sự đền bù xứng đáng cho người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp nhưng
cuộc đời bất hạnh. Nỗi oan của Vũ Nương đã được giải. Đây là một kết thúc có
hậu ta vẫn thường gặp trong truyện dân gian: Ở hiền gặp lành.
 Cách kết thúc ấy đã làm hoàn thiện thêm vẻ đẹp ở nhân vật Vũ Nương:
1. Đối với chồng con: nàng là người phụ nữ độ lượng, vị tha, ân tình, nhân hậu.
2. Đối với Linh Phi: nàng là người trọng tình, trọng nghĩa giữ trọn lời hứa.
 Câu truyện kết thúc có hậu song vẫn tiềm tàng tính bi kịch, Vũ Nương mãi mãi
không thể trở về trần gian, cuộc sống giàu sang mà nàng có nơi làn mây cung
nước chỉ là ảo ảnh, hạnh phúc thực sự sẽ không bao giờ đến với Vũ Nương.
Chọn cách kết thúc ấy làm giá trị tố cáo của truyện càng trở nên sâu sắc. Chế
độ nam quyền độc đoán đã không cho người phụ nữ quyền hưởng hạnh phúc.
Phải chăng với những người phụ nữ phong kiến hạnh phúc đối với họ là quá
mong manh, hư không.
 Hình ảnh Vũ Nương trở về trên kiệu hoa rực rỡ là hình ảnh đặc sắc nhất thể
hiện đặc trưng của thể loại truyền kì làm truyện thêm sâu sắc, hấp dẫn.
 Hình ảnh cuối truyện Vũ Nương hiện lên mờ ảo lúc ẩn lúc hiện nói với chồng
vài lời rồi biến mất. Nàng không thể trở lại nhân gian được nữa dù rất thương
nhớ chồng con, dù Trương Sinh rất hối hận đau lòng đã nói lên một bài học:
Phải có niềm tin với những người thân yêu, bởi nếu thiếu nó thì sẽ rất khó đắp
xây hạnh phúc gia đinh, phải biết trân trọng nâng niu những gì mình đang có.

B. Về hình thức:

Học sinh có thể trình bày và lập luận khác nhau song bài viết phải có kết cấu chặt chẽ,
có khả năng cảm thụ tốt, phân tích thoả đáng làm sáng rõ nội dung yêu cầu của đề bài.
Văn viết mạch lạc có cảm xúc.

Biểu điểm:

 3,5-4 điểm: Cảm nhận đúng, có ý sâu sắc, tinh tế, diễn đạt tốt
 2,5-3 điểm: Cảm nhận đúng, khá đầy đủ, sâu sắc, tinh tế, diễn đạt khá.
 1,5-2 điểm: Cảm nhận được nhưng nhìn chung chưa sâu, mắc ít lỗi diễn đạt
 0,5-1 điểm: Cảm nhận còn hời hợt, mắc nhiều lỗi diễn đạt.
 0 điểm: Làm lạc đề, bỏ giấy trắng.

Câu 2: (4 điểm)

A- Yêu cầu:

I/ Về kĩ năng: HS trình bày dưới dạng bài văn nghị luận xã hội, có hệ thống luận
điểm rõ ràng, chính xác, khoa học.

Lập luận chặt chẽ, diễn đạt mạch lạc, văn viết có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả,
dùng từ, đặt câu.

II/ Về kiến thức:

1. Giải thích được nội dung cơ bản của câu chuyện:

 Em bé đạt giải trong cuộc thi vì em là người biết quan tâm, chia sẻ nỗi đau với
người khác.
 Người được chia sẻ không đòi hỏi gì, chỉ cần một chỗ dựa trong lúc đau đớn
cũng là quá đủ.
 Cách em bé quan tâm đến người khác cũng rất "trẻ con": ngồi vào lòng người
hàng xóm. Thế nhưng đó là cách chia sẻ hiệu quả nhất ngay trong tình huống
ấy.

2. Chứng minh, bình luận về nội dung câu chuyện:

 Trong cuộc sống, đôi khi con người gặp phải những mất mát, đau thương, cần
có một mối đồng cảm từ những người xung quanh. (dẫn chứng)
 Biết quan tâm, sẻ chia với người khác là một hành động đẹp. Nhưng cách thể
hiện sự quan tâm đó như thế nào còn tuỳ thuộc ở mỗi người. (dẫn chứng)

3. Bài học cho bản thân.

 Trong cuộc sống, có những bài học vô cùng quý giá mà ta học được từ những
điều hết sức bất ngờ. Những em bé đôi khi cũng có những việc làm mà mọi
người phải suy ngẫm.
 Thấu hiểu và chia sẻ với nỗi đau của người khác là mình đã làm được một việc
ý nghĩa.
 Sống đẹp sẽ nhận được cái đẹp từ cuộc sống.

B. Thang điểm.

 Điểm 3: Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên, bài làm sáng tạo, văn viết có cảm
xúc, bố cục rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi diễn đạt.
 Điểm 2: Đáp ứng khá đầy đủ các yêu cầu trên, bố cục rõ ràng, văn viết có cảm
xúc, có thể mắc một vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
 Điểm 1: Đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản nhưng bình luận chưa sâu, bài
học rút ra còn sơ sài, nông cạn. Diễn đạt chưa thật lưu loát.
 Điểm 0: Bài viết sai lệch cả về nội dung và hình thức.

* Lưu ý: Nếu bài viết dưới dạng đoạn văn nhưng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu, có sáng
tạo thì giám khảo linh hoạt cho điểm, nhưng tối đa không quá 2 điểm.

Câu 3 (12 điểm)

Yêu cầu:

* Về kĩ năng: học sinh biết bám sát văn bản ngôn từ, biết phát hiện và phân tích,
chứng minh, cảm nhận và biết lập luận và trình bày thành một văn bản hoàn chỉnh.

* Về nội dung kiến thức: Học sinh cần bám sát lời nhận định trên và văn bản để trình
bày các ý sau:

 Giải thích lời nhận định:


1. Những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người: là những người thân trong gia
đình, bạn bè, những kỷ niệm, một cây lược, một chiếc bút... gắn bó sâu sắc với ta.
Đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời: trở
thành điểm tựa, nguồn động lực, cho ta sức mạnh trong mỗi bước đường đời.
 Chứng minh nhận định:
1. Trong bài thơ Bếp lửa, những gì thân thiết của tuổi thơ người cháu là bà, là bếp
lửa, là những hình ảnh của quê hương... Những hình ảnh đó đã in đậm trong cháu
từ thuở ấu thơ. (Dẫn chứng)
2. Bà với tình yêu thương, đức hy sinh, niềm tin yêu cuộc sống; Bếp lửa với sự ấm
nồng, thân thiết đã là chỗ dựa cho cháu, nhen lên trong cháu những tâm tình,
những niềm tin, là nơi chắp cánh ước mơ cho cháu...(Dẫn chứng)
3. Khi cháu lớn lên, học tập và công tác nơi xa, bà và bếp vẫn là điểm tựa, là nguồn
động viên là nơi nâng đỡ...(Dẫn chứng)
4. Suy rộng ra, điều tạo ra sức tỏa sáng, sự nâng đỡ người cháu trong bài thơ còn là
quê hương, đất nước.
 Đánh giá khái quát:
1. Bài thơ kết hợp trữ tình, tự sự, nhiều hình ảnh thơ đẹp...
2. Những hình ảnh, kỉ niệm thân thiết nhất của tuổi thơ người cháu đã có sức tỏa
sáng, nâng đỡ cháu, là chỗ dựa, là nguồn cổ vũ động viên cháu trên hành trình dài
rộng của cuộc đời cháu.
3. Bài thơ còn ngợi ca vẻ đẹp của người bà, người phụ nữ Việt Nam, gợi lòng biết ơn,
tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, đất nước.

Biểu điểm chấm:

 Điểm 10: Bài làm đảm bảo các yêu cầu trên. Thể hiện được năng lực cảm thụ
văn học. Có kỹ năng phân tích, chứng minh vấn đề, hệ thống luận điểm rõ ràng.
Có được những đoạn hay.
 Điểm 8: Đạt những yêu cầu chính. Văn viết có cảm xúc. Bố cục tương đối hợp
lý. Diễn đạt gọn, ít lỗi diễn đạt.
 Điểm 6: Bài làm chưa sáng tạo, chỉ phân tích tác phẩm, chưa biết chia luận
điểm. Cảm nhận chung chung, không sâu, chưa biết sử dụng dẫn chứng để
chứng minh. Còn mắc lỗi diễn đạt.
 Điểm 4: Diễn xuôi thơ, hoặc cảm nhận không xuất phát từ tác phẩm. Chưa có
bố cục hợp lí, chưa biết xây dựng hệ thống luận điểm bám sát vào lời nhận
định, còn mắc nhiều lỗi diễn đạt.
 Điểm 2: Cảm nhận và phân tích chưa đúng hướng, mắc nhiều lỗi diễn đạt, chưa
có bố cục, chưa biết tổ chức luận điểm.
 Điểm 0: Bài làm lạc đề hoặc chỉ viết vài dòng, sai cả nội dung và phương pháp.

ĐỀ SỐ 13

Câu 1 (4 điểm)

Vân xem trang trọng khác vời,


Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

(Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du )

Cảm nhận của em về vẻ đẹp của Thúy Vân qua bốn câu thơ trên. Từ vẻ đẹp của Thúy
Vân, em có suy nghĩ gì về vẻ đẹp của người phụ nữ ngày nay so với người phụ nữ
xưa?

Câu 2 (4 điểm)

HAI BIỂN HỒ

Người ta bảo ở Palextin có hai biển hồ... Biển hồ thứ nhất gọi là biển Chết. Đúng như
tên gọi, không có sự sống nào bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước
trong hồ không có một loại cá nào có thể sống nổi mà người uống phải cũng bị bệnh.
Ai ai cũng đều không muốn sống ở gần đó. Biển hồ thứ hai là Galile. Đây là biển hồ
thu hút nhiều khách du lịch nhất. Nước ở biển hồ lúc nào cũng trong xanh mát rượi,
con người có thể uống được mà cá cũng sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở
nơi đây. Vườn cây xung quanh tốt tươi nhờ nguồn nước này...

Nhưng điều kỳ lạ cả hai biển hồ này đều được đón nhận nguồn nước từ sông Jordan.
Nước sông Jorda chảy vào biển Chết. Biển Chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình
mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát. Biển hồ Galile cũng đón
nhận nguồn nước từ sông Jorda rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy
nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú và con
người.

(Trích "Bài học làm người " - Nhà xuất bản giáo dục)

Qua câu chuyện Hai biển hồ trên, đã cho em bài học ý nghĩa nào trong cuộc sống.

Câu 3 (12 điểm)

Cảm nhận của em về hình tượng người chiến sĩ trong hai bài thơ "Đồng chí" (Chính
Hữu) và "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" (Phạm Tiến Duật).

Đáp án

Câu 1

Bài làm của học sinh cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau

A. Về nội dung:

* Cảm nhận được vẻ đẹp của Thúy Vân: Đó là vẻ đẹp đoan trang phúc hậu ,quí phái
khác thường: Khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn như mặt trăng, lông mày sắc nét đậm như
con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thoát ra từ hàm răng ngà
ngọc, mái tóc đen óng nhẹ hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết. Vẻ đẹp của
Thúy vân tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh nên nàng sẽ có cuộc đời bình lặng,
suôn sẻ.

- Suy nghĩ về vẻ đẹp của người phụ xưa và nay:

 Người phụ nữ xưa: Coi trọng "Công - dung - ngôn - hạnh ".
 Người phụ nữ ngày nay:
1. Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ xưa.
2. Trong các cuộc kháng chiến thể hiện vẻ đẹp: Anh hùng - bất khuất - trung hậu đảm
đang.
3. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội: Họ năng động, sáng tạo, quyết đoán có vị thế
trong xã hội .v.v..

B. Về hình thức:

Học sinh có thể trình bày và lập luận khác nhau song bài viết phải có kết cấu chặt chẽ,
có khả năng cảm thụ tốt, phân tích thỏa đáng làm sáng rõ nội dung yêu cầu của đề bài.
Văn viết mạch lạc có cảm xúc.

Biểu điểm:

 3,5 - 4 điểm: Cảm nhận đúng, có ý sâu sắc, tinh tế, diễn đạt tốt.
 2,5 - 3 điểm: Cảm nhận đúng, khá đầy đủ, sâu sắc, tinh tế, diễn đạt khá.
 1,5 - 2 điểm: Cảm nhận được nhưng nhìn chung chưa sâu, mắc ít lỗi diễn đạt.
 0,5 - 1 điểm: Cảm nhận còn hời hợt, mắc nhiều lỗi diễn đạt.
 0 điểm: Làm lạc đề, bỏ giấy trắng.

Câu 2

Bài làm đáp ứng được những yêu cấu sau:

A. Về kiến thức:

Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần phải triển khai các ý
cơ bản sau:

- Từ một câu chuyện (rút ra bài học từ cuộc sống) học sinh trình bày suy nghĩ về một
vấn đề tư tưởng đạo lý - mối quan hệ giữa cho và nhận trong cuộc sống. Hạnh phúc
không phải chỉ là nhận lấy mà còn là biết cho đi. Người hạnh phúc nhất ở trên đời là
người biết đem đến cho người khác nhiều hạnh phúc nhất. Trong cuộc sống phải luôn
biết chia sẻ với người khác. Nếu biết sống vì người khác thì cuộc đời chúng ta sẽ tốt
đẹp hơn nhiều lần, cuộc đời sẽ có ý nghĩa thêm bội phần. Có người nói "người ta kính
trọng bạn không phải những gì bạn nhận được. Sự kính trọng là phần thưởng dành cho
những gì mà bạn cho đi". Với đề bài này HS trước hết cần giải thích – phân tích để
làm rõ bài học giáo dục được gửi gắm trong câu này.
B. Hiểu được ý nghĩa của câu chuyện:

Nghĩa đen theo nghĩa khoa học:

 Biển Chết là do vị trí hồ không thuận lợi xung quanh không có kênh rạch hay
lối thoát nên nước từ thượng nguồn đổ về đây bị ứ đọng dần dần tích tụ lượng
muối lớn, làm cho nồng độ muối trong nước quá cao.
 Nước quá mặn nên không sinh vật nào sống được nên dẫn đến hoang vu thiếu
sự sống.
 Biển hồ Galile cũng đón nhận nguồn nước từ sông Jordan rồi từ đó tràn qua các
hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong hồ này luôn sạch và mang lại sự sống
cho cây cối, muông thú và con người.

C. Bài học rút ra từ câu chuyện.

Câu chuyện đã đem đến bài học thật ý nghĩa trong cuộc sống:

 Trong cuộc sống hằng ngày, con người có những mối quan hệ, những giao tiếp,
những sinh hoạt luôn "trao" và "nhận". Xã hội sẽ không tồn tại nếu thiếu quá
trình này.
 Hãy biết chia sẻ để nó lan tỏa và biến thành niềm vui...
 Biển Chết: như một biểu tượng cho một loài người ích kỷ, thiếu đi lòng vị tha
nhân hậu chỉ biết sống cho riêng mình.
 Biển Galile: sống vì người khác, mở rộng bàn tay cho và nhận (dẫn chứng từ
thực tế cuộc sống ).

Khẳng định cách nhìn, thái độ sống, chi phối hoàn cảnh sống, tác động đến các mối
quan hệ xung quanh (dẫn chứng- phân tích-so sánh, đối chiếu... ).

Cuộc sống cần có sự đồng cảm (hãy dang rộng đôi tay với những nạn nhân bị chất độc
màu da cam; đồng bao miền Trung đang bị thiên tai bão lụt......)

* Bài học cho bản thân.

 Cách ứng xử và thái độ đối với những người xung quanh.


 Cách ứng xử, cho và nhận đối với cuộc đời.

Biểu điểm:

 Điểm 3,5 - 4: Hiểu rõ yêu cầu của đề bài, đảm bảo các yêu cầu về kỹ năng và
kiến thức, có lập luận chặt chẽ, có sự kết hợp nhuần nhuyễn các thao tác lập
luận, bài viết có cảm xúc, diễn đạt lưu loát.
 Điểm 2,5 - 3: Hiểu rõ yêu cầu của đề bài, đáp ứng hầu hết các yêu cầu về kỹ
năng và kiến thức, có lập luận tương đối chặt chẽ, có sự vận dụng thành công
thao tác lập luận, diễn đạt tương đối tốt.
 Điểm 1,5 - 2: Hiểu yêu cầu của đề bài, đáp ứng được cơ bản các yêu cầu về kỹ
năng và kiến thức, lập luận chưa chặt chẽ, có thể còn một số lỗi nhỏ về diễn
đạt.
 Điểm 0,5 - 1: Chưa nắm vững yêu cầu của đề bài, chưa đáp ứng được 1/2 yêu
cầu về kỹ năng và kiến thức, mắc lỗi chính tả và diễn đạt.
 Điểm 0: Để giấy trắng.

Câu 3

A. Yêu cầu về hình thức:

 Xây dựng bài văn bố cục ba phần rõ ràng.


 Vận dụng các thao tác lập luận phân tích, bình giảng, so sánh đánh giá, tổng
hợp vấn đề. Hệ thống luận điểm phải rõ ràng, chặt chẽ, lô gic.
 Dùng từ đặt câu chính xác, diễn đạt trong sáng, giàu cảm xúc.

B. Yêu cầu về nội dung:

a. Cảm nhận về hình tượng anh bộ đội cụ hồ trong hai tác phẩm:

* Cảm nhận nét giống nhau về hình tượng người lính của hai tác phẩm:

 Hình ảnh người chiến sĩ trong hai bài thơ đều xuất thân từ những người Việt
Nam yêu nước. Sinh ra lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lược nên họ có
nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc, được giác ngộ sâu sắc lí tưởng cách
mạng.
 Trong chiến đấu họ phải đối mặt với những khó khăn gian khổ, thiếu thốn
nhưng họ vẫn vượt lên để hoàn thành nhiệm vụ. Phẩm chất của người chiến sĩ
được tôi luyện trong kháng chiến. Giữa họ có những tình cảm tốt đẹp, bền chặt
của tình đồng chí, đồng đội. Đó là những nét bản chất cao đẹp của người chiến
sĩ cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

* Nét đặc sắc riêng:

- Tác phẩm "Đồng chí" của Chính Hữu:

 Nội dung: Người lính trong buổi đầu chống thực dân Pháp, xuất thân từ nông
dân nghèo ở những miền quê khác nhau. Tác phẩm lí giải tình đồng chí, đồng
đội nảy sinh trên cơ sở cùng cảnh ngộ, cùng lí tưởng chiến đấu, cùng chia sẻ
gian khó, thiếu thốn. Các anh thấu hiểu tâm tư tình cảm của nhau, có những nỗi
nhớ quê hương sâu nặng tha thiết.
 Nghệ thuật: Bài thơ mang vẻ đẹp giản dị, ngôn ngữ mộc mạc, giọng điệu thủ
thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, sử dụng cấu trúc song hành. Tác phẩm có nhiều
chi tiết phản ánh hiện thực mà vẫn đậm chất lãng mạn.

- Tác phẩm: "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật.
 Nội dung: Những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn những
năm chống Mỹ ác liệt. Bài thơ làm nổi bật tư thế hiện ngang, tinh thần dũng
cảm chấp nhận những khó khăn với ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam của
người chiến sĩ lái xe. Họ có nét tinh nghịch, trẻ trung, vô tư lạc quan, hồn nhiên
sôi nổi. Cả tập thể chiến sĩ lái xe coi nhau như một gia đình.
 Nghệ thuật:
1. Bài thơ đậm chất văn xuôi mà vẫn rất thơ, tạo nên một lối thơ mới giàu hiện thực,
trẻ trung. Nhà thơ xây dựng hình tượng những chiếc xe không kính là một nét đặc
sắc để khắc hoạ vẻ đẹp tâm hồn, ý chí người chiến sĩ lái xe.
2. Nguyên nhân có sự khác nhau: Do hoàn cảnh lịch sử chi phối cách phản ánh cuộc
sống chiến tranh, đồng thời do cách cảm nhận và tài năng thể hiện ở mỗi nhà thơ
cũng như sự đòi hỏi sáng tạo của văn học. Tuy nhiên giữa hai thế hệ người chiến sĩ
vẫn có tính nối tiếp và kế thừa.

b. Từ cảm nhận về hình tượng người chiến sĩ trong hai bài thơ, học sinh có thể liên hệ
tới Đại tướng Võ Nguyên Gíap đã lành đạo trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mĩ và hình tượng người lính ngày nay: Những chiến sĩ ngày đêm bảo vệ vùng
biển đảo thân yêu của tổ quốc.....

Thang điểm:

 Điểm 12: Đáp ứng đầy đủ những yêu cầu nêu trên; văn viết sâu sắc, diễn đạt
trong sáng; bài viết thể hiện được sự sáng tạo, cảm thụ riêng biệt.
 Điểm 10: Cơ bản đáp ứng được những yêu cầu nêu trên; văn viết chưa thật sâu
sắc nhưng phải đủ ý; diễn đạt trong sáng.
 Điểm 8,0: Cơ bản hiểu yêu cầu của đề, chọn và phân tích được một số dẫn
chứng để làm sáng tỏ vấn đề. Diễn đạt rõ ý.
 Điểm 6,0: Cơ bản hiểu yêu cầu của đề, phân tích dẫn chứng chưa sâu sắc; còn
mắc một vài sai sót nhỏ.
 Điểm 4,0: Chưa hiểu rõ đề, nội dung sơ sài, ít dẫn chứng, còn nhiều lỗi diễn
đạt.
 Điểm 1,0: Chưa hiểu đề, nội dung sơ sài hoặc không nêu được ý; diễn đạt yếu;
mắc nhiều lỗi ngữ pháp, dùng từ.
 Điểm 0: Sai lạc cả về nội dung và phương pháp.

* Lưu ý: Điểm tổng của toàn bài là tổng điểm của từng câu không làm tròn.

ĐỀ SỐ 14

Câu 1 (4,0 điểm)

Cảm nhận về giọt nước mắt của nhân vật ông Hai qua các đoạn trích sau:

"Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng
Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?
... Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:

- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!

Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má."

(Trích "Làng", Kim Lân)

Câu 2 (4,0 điểm):

Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, có những loài cây vẫn mọc lên và nở những chùm hoa
thật đẹp.

Suy nghĩ của em được gợi ra từ hiện tượng trên (bài viết không quá 02 trang giấy thi).

Câu 3. (12,0 điểm):

Trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600 mét, có một anh cán bộ khí tượng kiêm vật lý địa cầu
sống một mình, bốn bề chỉ có cây cỏ mây mù lạnh lẽo và một số máy móc khoa học.
Nhưng khi gặp ông họa sĩ già anh vẫn khẳng định: "Cháu sống thật hạnh phúc".

(Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long)

Ngoài biển khơi xa, trong đêm tối, có những con người vẫn háo hức ra đi trong tiếng
hát. Họ đã"Ra đậu dặm xa dò bụng biển/ Dàn đan thế trận lưới vây giăng".

(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)

Núi cao biển xa, chân trời góc bể nhưng những người lao động ấy vẫn nhiệt tình, âm
thầm mang sức lao động của mình cống hiến cho Tổ quốc.

Dựa vào hai tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long và Đoàn thuyền đánh
cá của Huy Cận, hãy làm sáng tỏ vẻ đẹp của người lao động mới?

Đáp án

Câu 1 (4,0 điểm)

* Chỉ ra được:

 Những giọt nước mắt của ông Hai là chi tiết nghệ thuật độc đáo, được miêu tả
tinh tế, bộc lộ chiều sâu nội tâm của nhân vật
 Những giọt nước mắt ấy đều xuất hiện trong hoàn cảnh ông Hai nghe tin làng
Chợ Dầu theo giặc. Nó có vai trò quan trọng giúp nhà văn diễn tả những cung
bậc cảm xúc khác nhau của nhân vật:
1. Câu văn "nước mắt ông lão cứ giàn ra" thể hiện tâm trạng đau đớn, tủi nhục vì
nghe tin làng ông làm Việt gian theo Tây, vì nghĩ các con còn nhỏ rồi đây phải
chịu cảnh rẻ rúng hắt hủi của mọi người. Đó là giọt nước mắt của lòng tự trọng,
của tình thương con và tình yêu làng tha thiết.
2. "nước mắt ông giàn ra, chảy ròng ròng": vì xúc động, vì hạnh phúc khi nghe con
trả lời ủng hộ Cụ Hồ. Đứa con nhỏ đã nói hộ tiếng lòng của ông, một người thủy
chung với kháng chiến, luôn biết ơn Cụ Hồ. Đó là giọt nước mắt của niềm vui và
tự hào.

* Khái quát được:

 Giọt nước mắt của ông là giọt nước mắt của con người luôn nặng lòng với quê
hương, Cụ Hồ, kháng chiến và là biểu hiện đẹp đẽ của phẩm cách làm người ở
người nông dân trong kháng chiến chống Pháp.
 Qua đó, Kim Lân thể hiện thái độ trân trọng phẩm giá của con người.

Câu 2 (4,0 điểm):

1. Yêu cầu về kĩ năng:

 Biết cách làm một bài nghị luận xã hội đúng và trúng yêu cầu của đề. Bố cục
bài viết rõ ràng, mạch lạc, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục, không sai
các loại lỗi.

2. Yêu cầu về kiến thức:

Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo các ý cơ bản sau:

* Nêu vấn đề cần nghị luận.

* Giải thích

 vùng sỏi đá khô cằn: nơi khó có sự sống của cây cối, chỉ sự khắc nghiệt của
môi trường sống.
 có những loài cây vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp: sự thích nghi,
sức chịu đựng, sức sống, vẻ đẹp.

=> Là hiện tượng có thể bắt gặp trong thiên nhiên có ý nghĩa chỉ sức chịu đựng, sức
sống kỳ diệu, ý chí nghị lực, bản lĩnh vươn lên trong cuộc sống của con người.

* Bàn luận

 Thực tế cuộc sống vùng đất khô cằn có thể là hoàn cảnh khó khăn, những gian
nan vất vả, khắc nghiệt của cuộc sống...
1. Hoàn cảnh không thuận lợi cho con người sống, phát triển nhân cách, tài năng.
2. Môi trường để tôi luyện, giúp con người vững vàng trong cuộc sống.
 Trước hoàn cảnh ấy, có những con người:
1. Với những cố gắng phi thường, sự vươn lên không mệt mỏi đã tạo được thành
công; dâng hiến cho đời những gì cao đẹp, ý nghĩa.
2. Chán nản, bi quan, buông xuôi bất lực dẫn đến thất bại trong cuộc sống.

* Bài học nhận thức, hành động

 Con người với vẻ đẹp của ý chí, nghị lực luôn vươn lên chiến thắng hoàn cảnh
là niềm tự hào, ngưỡng mộ của chúng ta, động viên và thậm chí cảnh tỉnh
những ai chưa biết chấp nhận khó khăn, thiếu ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Từ đó học sinh liên hệ với bản thân

Câu 3. (12,0 điểm):

* Yêu cầu về kĩ năng trình bày: Đúng kiểu bài nghị luận văn học, có bố cục rõ ràng,
hợp lí; tổ chức sắp xếp ý một cách lôgic, chặt chẽ; diễn đạt trôi chảy, mạch lạc; chữ
viết rõ ràng, không quá ba lỗi chính tả và không mắc lỗi dùng từ cơ bản

* Yêu cầu về nội dung: Học sinh có thể viết theo nhiều cách khác nhau song cần đảm
bảo những ý sau:

1. Mở bài:

Nêu đúng vấn đề và giới hạn - vẻ đẹp của người lao động mới trong hai tác phẩm:
"Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận và "Lặng lẽ SaPa" của Nguyễn Thành Long.

2. Thân bài:

* Bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác.

 Sau chiến thắng chống thực dân Pháp, miền Bắc nước ta bắt tay ngay vào công
cuộc xây dựng CNXH. Một không khí phấn khởi, hăng say lao động kiến thiết
đất nước dấy lên khắp mọi nơi.
 "Đoàn thuyền đánh cá" - Huy Cận (1958), "Lặng lẽ Sa Pa" - Nguyễn Thành
Long (1970) đều là kết quả của những chuyến đi thực tế mà các tác giả sống
trực tiếp cùng với những con người lao động. Hình tượng người lao động đã
được khắc họa rõ nét trong hai tác phẩm. Họ thuộc đủ mọi lớp người, mọi lứa
tuổi, với những nghề nghiệp khác nhau, làm việc ở những vùng khác nhau
nhưng đều có chung những phẩm chất cao đẹp.

Luận điểm 1: Công việc, điều kiện làm việc của họ đầy gian khó, thử thách.

 Người ngư dân trong bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" ra khơi khi thiên nhiên, vũ
trụ vào trạng thái nghỉ ngơi. Đánh cá trên biển là một công việc rất vất vả và
nguy hiểm.
 Những người ngư dân đã hòa nhập với thiên nhiên bao la và trở thành hình ảnh
sáng đẹp.
 Trong "Lặng lẽ SaPa": Anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên
Sơn cao 2600 mét. Anh sống một mình, xung quanh anh chỉ có cây cỏ, mây mù
lạnh lẽo và một số máy móc khoa học. Cái gian khổ nhất với anh là sự cô độc.
Công việc của anh là "đo gió, đo mưa, dự báo thời tiết".
 Công việc ấy đồi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác. Mỗi ngày anh đo và báo số liệu về
trạm bốn lần. Nửa đêm, đúng giờ "ốp" dù mưa tuyết, gió rét thế nào thì vẫn
phải trở dậy làm việc.

Luận điểm 2: Trong điều kiện khắc nghiệt như vậy nhưng những người lao động ấy
vẫn nhiệt tình, hăng say, mang hết sức lực của mình để cống hiến cho Tổ quốc.

 Những người ngư dân là những con người lao động tập thể. Họ hăm hở:

"Ra đậu dặm xa dò bụng biển


Dàn đan thế trận lưới vây giăng."

Họ làm việc nhiệt tình, hăng say trong câu hát.

 Anh thanh niên có những suy nghĩ đúng đắn, sâu sắc về công việc. Anh hiểu
việc mình làm có ý nghĩa quan trọng "phục vụ sản xuất...". Công việc tuy lặp
lại đơn điệu song anh vẫn rất nhiệt tình, say mê, gắn bó với nó (qua lời anh nói
với ông họa sĩ).

Luận điểm 3: Đó còn là những con người sống có lí tưởng và tràn đầy lạc quan. Họ
thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong công việc lao động đầy gian khổ.

 Đánh cá trong đêm đầy vất vả, nguy hiểm, người ngư dân đã thu về thành quả
thật tốt đẹp. Họ ra đi, làm việc và trở về đều trong câu hát. Hình ảnh thơ cuối
bài rạng rỡ niềm vui, tin tưởng, hi vọng của người lao động. Họ vui say lao
động vì một ngày mai "huy hoàng".
 Lí tưởng sống của anh là vì nhân dân, vì đất nước. Chính từ suy nghĩ: "mình
sinh ra.... vì ai mà làm việc?" mà anh đã vượt lên nỗi "thèm người" để gắn bó
với đỉnh Yên Sơn trong công việc thầm lặng.
 Trong cái lặng im của Sa Pa ấy, không phải chỉ có anh thanh niên mà còn có cả
thế giới những người "làm việc và lo nghĩ cho đất nước" qua lời anh kể như:
ông kĩ sư vườn rau, đồng chí cán bộ nghiên cứu lập bản đồ sét... Họ thực sự tìm
thấy niềm hạnh phúc trong lao động cống hiến.

* Đánh giá:

 Người lao động vô danh trong hai tác phẩm đủ mọi thành phần, lứa tuối, nghề
nhiệp, dù ở núi cao hay biển xa đều là những người nhiệt tình, say mê công
việc, sống có lí tưởng.
 Họ là điển hình cao đẹp của con người lao động mới, con người trưởng thành
trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc.

3. Kết bài.
Khẳng định thành công của các tác giả trong việc khắc họa hình ảnh người lao động
và nêu cảm nghĩ hoặc liên hệ mở rộng.

ĐỀ SỐ 15

Câu 1: (4 điểm)

Phân tích nét đặc sắc nghệ thuật trong đoạn thơ sau:

"Buồn trông cửa bể chiều hôm,


Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi mam mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh nghế ngồi."

(Kiều ở lầu Ngưng Bích – Ngữ văn 9, tập 1)

Câu 2: (6 điểm)

Lấy tựa đề "Gia đình và quê hương – chiếc nôi nâng đỡ đời con", hãy viết một bài
Nghị luận nêu suy nghĩ của em về nguồn cội yêu thương của mỗi con người?

Câu 3: (10 điểm)

Tâm sự sâu kín của nhà thơ Nguyễn Duy qua bài thơ Ánh trăng?

Đáp án

Câu 1:

Viết thành đoạn văn ngắn nêu lên được các nét nghệ thuật đặc sắc:

 Cấu trúc cân đối nhịp nhàng (1,0đ)


 Sử dụng điệp từ, điệp ngữ kết hợp với các từ láy thanh bằng làm cho nhịp thơ
kéo dài, hiu hắt, trầm buồn... (1,0đ)
 Miêu tả ngoại cảnh thể hiện được tâm trạng, nỗi lòng của nhân vật. Đó là tả
cảnh ngụ tình. (1,0đ)
 Hình ảnh mang ý nghĩa ẩn dụ: Hoa trôi, nội cỏ, gió cuốn, tiếng sóng.(1,0đ)

Câu 2:

a) Mở bài: (0,5đ)
 Giới thiệu vấn đề nghị luận: Nguồn cội yêu thương của mỗi con người.
 Gia đình và quê hương là điều không thể thiếu trong cuộc đời của mỗi con
người, sẽ là bến đỗ bình yên cho mỗi con người.

b) Thân bài:

Khẳng định ý nghĩa của gia đình và quê hương trong cuộc sống của mỗi con người:
(1,5đ)

 Gia đình là nơi có mẹ, có cha, có những người thân yêu, ruột thịt của chúng ta.
Ở nơi ấy chúng ta được yêu thương, nâng đỡ, khôn lớn và trưởng thành.
 Cùng với gia đình là quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của ta. Nơi ấy có mọi
người ta quen biết và thân thiết, có cảnh quê thơ mộng trữ tình, có những kỷ
niệm ngày ấu thơ cùng bạn bè, những ngày cắp sách đến trường...
 Gia đình và quê hương sẽ là bến đỗ bình yên cho mỗi con người; dù ai đi đâu, ở
đâu cũng sẽ luôn tự nhắc nhở hãy nhớ về nguồn cội yêu thương.

Những việc để xây dựng quê hương và làm rạng rỡ gia đình (1,5đ)

 Với gia đình, chúng ta hãy làm tròn bổn phận của người con, người cháu: Học
giỏi, chăm ngoan, hiếu thảo để ông bà, cha mẹ vui lòng.
 Với quê hương, hãy góp sức trong công cuộc dựng xây quê hương: Tham gia
các phong trào vệ sinh môi trường để làm đẹp quê hương, đấu tranh trước
những tệ nạn xã hội đang diễn ra ở quê hương.
 Nếu có thể khi trưởng thành trở về quê hương lập nghiệp, dựng xây quê mình
ngày một giàu đẹp...

Có thái độ phê phán trước những hành vi: (1,0đ)

 Phá hoại cơ sở vật chất.


 Những suy nghĩ chưa tốt về quê hương: Chê quê hương nghèo khó, chê người
quê lam lũ, lạc hậu, không muốn nhận quê hương mình...

Liên hệ mở rộng: Liên hệ đến những tác phẩm viết về gia đình và quê hương để thấy ý
nghĩa của quê hương trong đời sống tinh thần của mỗi con người: "Quê hương" (Đỗ
Trung Quân), "Quê hương" (Tế Hanh)... (1,0đ)

c) Kết bài (0,5đ)

Khẳng định:

 Nguồn cội của mỗi con người là gia đình và quê hương, nên hiểu rộng hơn quê
hương không chỉ là nơi ta sinh ra và lớn lên, quê hương còn là Tổ quốc; tình
yêu gia đình luôn gắn liền với tình yêu quê hương, tình yêu đất nước.
 Mỗi con người luôn có sự gắn bó những tình cảm riêng tư với những tình cảm
cộng đồng...
Câu 3:

a) Mở bài: (1,0đ)

 Ánh trăng là đề tài quen thuộc của thi ca, là cảm hứng sáng tác vô tận cho các
nhà thơ
 Nguyễn Duy, một nhà thơ tiêu biểu cho thể hệ trẻ sau năm 1975 cũng góp vào
một "Ánh trăng"
 Ánh trăng trong thơ Nguyễn Duy không chỉ là niềm thơ mà còn biểu đạt một
hàm nghĩa mới, mang dấu ấn tình cảm thời đại: Ánh trăng là biểu tượng cho
quá khứ trong mỗi đời người.

b) Thân bài

* Cảm nghĩ về vầng trăng quá khứ: (2,0đ)

 Ánh trăng gắn với những kỷ niệm trong sáng thời thơ ấu tại làng quê:

Hồi nhỏ sống với rừng


Với sông rồi với biển

 Con người khi đó sống giản dị, thanh cao, chân thật trong sự hòa hợp với thiên
nhiên trong lành (dẫn chứng).
 Ánh trăng gắn bó với những kỷ niệm không thể nào quên của cuộc chiến tranh
ác liệt của người lính trong rừng sâu (dẫn chứng).
 Trăng khi đó là ánh sáng trong đêm tối chiến tranh, là niềm vui bầu bạn của
người lính trong gian lao của cuộc kháng chiến – vầng trăng tri kỷ. Nhân vật
trữ tình gắn bó với trăng trong những năm dài kháng chiến. Trăng vẫn thủy
chung, tình nghĩa.

* Cảm nghĩ về vầng trăng hiện tại: (3,0đ)

Vầng trăng tri kỷ ngày nào nay đã trở thành "người dưng" – người khách qua đường
xa lạ (dẫn chứng).

 Sự thay đổi của hoàn cảnh sống – không gian khác biệt, thời gian cách biệt,
điều kiện sống cách biệt.
 Hành động "vội bật tung cửa sổ" và cảm giác đột ngột "nhận ra vầng trăng
tròn", cho thấy quan hệ giữa người và trăng không còn là tri kỷ, tình nghĩa như
xưa vì con người lúc này thấy trăng như một vật chiếu sáng thay thế cho điện
sáng mà thôi.
 Câu thơ dửng dưng – lạnh lùng – nhức nhối, xót xa miêu tả một điều gì bội bạc,
nhẫn tâm vẫn thường xảy ra trong cuộc sống.

Từ sự xa lạ giữa người với trăng ấy, nhà thơ muốn nhắc nhở: Đừng để những giá trị
vật chất điều khiển chúng ta...
* Niềm suy tư của tác giả và tấm lòng của vầng trăng: (3,0đ)

Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ.

 Vầng trăng vẫn một tình cảm tràn đầy, không mảy may sứt mẻ.
 Sử dụng hình ảnh thơ khá hay "trăng tròn" biện pháp nghệ thuật nhân hóa đặc
sắc "ngửa mặt lên nhìn mặt". Cách viết thật lạ và sâu sắc.

Ánh trăng đã thức dậy những kỷ niệm quá khứ tốt đẹp, đánh thức lại tình cảm bạn bè
năm xưa, đánh thức lại những gì con người đã lãng quên

 Cảm xúc "rưng rưng" là biểu thị của một tâm hồn đang rung động, xao xuyến,
gợi nhớ gợi thương khi gặp lại bạn tri kỷ.
 Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ
như đang được sống lại một giấc chiêm bao.

Ánh trăng hiện lên đáng giá biết bao, cao thượng vị tha biết chừng nào.

 Trăng tròn vành vạnh là hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ không thể phai mờ. Ánh
trăng chính là người bạn nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả
mỗi chúng ta: Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên,
nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.
 "Giật mình" là cảm giác và phản xạ tâm lý có thật của một người biết suy nghĩ,
chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái
"Giật mình" của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống:
Không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng
bái hiện tại mà coi rẻ thiện nhiên.

Câu thơ thầm nhắc nhở chính mình và cũng đồng thời nhắc nhở chúng ta, những
người đang sống trong hòa bình, hưởng những tiện nghi hiện đại, đừng bao giờ quên
công sức đấu tranh cách mạng của biết bao người đi trước.

c) Kết bài (1,0đ)

 Bài thơ Ánh trăng là một lần "giật mình" của Nguyễn Duy về sự vô tình trước
thiên nhiên, vô tình với những kỷ niệm nghĩa tình của một thời đã qua.
 Nó gợi ra trong lòng chúng ta nhiều suy ngẫm sâu sắc về cách sống, cách làm
người, cách sống ân nghĩa thủy chung ở đời.
 Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thật của
mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ yên trong quên
lãng./.

ĐỀ SỐ 16

Câu 1 (2.0 điểm)


Xác định và phân tích giá trị của các biện pháp tu từ trong khổ thơ sau:

"Quê hương tôi có con sông xanh biếc


Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống dòng sông lấp loáng".

(Nhớ con sông quê hương, Tế Hanh)

Câu 2 (3.0 điểm)

Trong tác phẩm "Lão Hạc" của Nam Cao, nhân vật ông giáo có suy nghĩ:

"Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ
thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn;
không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương... Vợ
tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái
chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người
ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo
lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận."

Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy trình bày thành một đoạn văn.

Câu 3 (5.0 điểm)

Hiện nay, bạo lực học đường đang là vấn nạn gây nhức nhối trong dư luận.

Viết một bài văn (không quá 01 trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em vấn đề trên.

Câu 4 (10.0 điểm)

Trong tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" (Nguyễn Dữ), nhân vật Trương
Sinh vội tin câu nói ngây thơ của con trẻ đã nghi oan cho Vũ Nương, ruồng rẫy và
đánh đuổi nàng đi. Vũ Nương bị oan ức nên nhảy xuống sông tự vẫn.

Theo em khi kể chuyện tác giả có hé mở chi tiết nào trong truyện để có thể tránh được
thảm kịch đau thương cho Vũ Nương. Suy nghĩ của em về cái chết của Vũ Nương?

Đáp án

Câu 1 (2,0 điểm)

*Chỉ ra các biện pháp tu từ: nhân hoá "soi tóc", so sánh "là một buổi trưa hè"

* Phân tích giá trị:


 Các biện pháp tu từ được sử dụng phù hợp đã thổi hồn vào tạo vật khiến cho sự
vật được miêu tả hiện lên rất sinh động.
 Hình ảnh "hàng tre" yểu điệu như một thiếu nữ; cảnh vật vô tri mang hình ảnh
đời sống của con người và trở nên thân thương.
 Gợi lên vẻ đẹp của tâm hồn tác giả: Nhà thơ hoà mình cùng với nắng, với dòng
sông quê hương, qua đó thể hiện lòng yêu quê hương đất nước của mình.

Câu 2 (3.0 điểm)

* Về kĩ năng: Đảm bảo là một đoạn văn nghị luận giải thích, lập luận chặt chẽ, mạch
lạc, hành văn trôi chảy, chữ viết rõ ràng, cẩn thận, không mắc lỗi chính tả, dùng từ,
diễn đạt.

* Về kiến thức: HS giải thích để hiểu đúng quan niệm về cách nhìn người của nhân
vật ông giáo (cũng là của nhà văn Nam Cao) trong truyện ngắn "Lão Hạc":

 "Đối với những người ở quanh ta, ...không bao giờ ta thương.":
1. Không thể nhìn cái vẻ bề ngoài "gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi,..." để
đánh giá con người mà phải "cố tìm mà hiểu họ".
2. Phải đem hết tấm lòng của mình, đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để tìm
hiểu, xem xét họ một cách đầy đủ, toàn diện, sâu sắc để hiểu được tâm tư, tình cảm
của họ, phát hiện ra những vẻ đẹp đáng quý của họ.
3. Nếu không "cố tìm mà hiểu họ", ta dễ trở thành tàn nhẫn, lạnh lùng; nếu chỉ nhìn
phiến diện thì sẽ có ác cảm hoặc có sự nhận xét sai lầm về người khác.
 Cần phải hiểu được "Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai
được nữa" và "cái bản tính tốt của người ta" thường bị "che lấp" bởi "những nỗi
lo lắng, buồn đau, ích kỉ"; bởi thế cần có sự cảm thông với họ.
 "Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận": cách ứng xử bao dung, độ
lượng bằng tình thương, lòng nhân ái.

-> Đây là một quan niệm đúng đắn về cách nhìn người, thể hiện một phương diện của
chủ nghĩa nhân đạo.

Câu 3 (5,0 điểm)

* Về kĩ năng: Đảm bảo là bài đoạn văn nghị luận xã hội, lập luận chặt chẽ, có sức
thuyết phục, hành văn trôi chảy, trình bày sạch đẹp, không sai chính tả, dùng từ, diễn
đạt.

* Về kiến thức: Bài viết đảm bảo các ý sau:

1. Giải thích: Bạo lực học đường là những hành vi thô bạo, tàn nhẫn, bất chấp luật
pháp, đạo lí, xúc phạm, trấn áp, gây tổn thương cho người khác trong phạm vi trường
học.

2. Thực trạng:
 Bạo lực học đường diễn ra dưới nhiều hình thức: bạo lực thể xác và bạo lực
tinh thần; có xu hướng gia tăng và diễn ra phức tạp ở nhiều nơi.
 Các biểu hiện như: xúc phạm, lăng mạ, sỉ nhục, chà đạp danh dự, nhân phẩm,
làm tổn thương về mặt tinh thần và thể xác.

3. Tác hại:

 Với nạn nhân: bị tổn thương về thể xác, tinh thần, gây tâm lí nặng nề, ảnh
hưởng đến sức khỏe, danh dự, đến học tập.
 Với trường học và xã hội: làm biến thái môi trường giáo dục; làm ảnh hưởng
đến trật tự, an ninh xã hội.
 Với gia đình: gây tâm lí bất ổn, lo lắng, hoang mang,...
 Với người gây ra hành vi bạo lực: phát triển không toàn diện; là mầm mống
của tội ác; làm hỏng tương lai của chính mình; bị mọi người lên án, xa lánh,
căm ghét.

4. Nguyên nhân:

 Sự phát triển thiếu toàn diện, thiếu hụt về nhân cách, thiếu khả năng kiểm soát
hành vi ứng xử của bản thân, thiếu kĩ năng sống, nhận thức sai lệch về quan
điểm sống.
 Có những căn bệnh tâm lí hoặc do ảnh hưởng của bạo lực từ cuộc sống, nghiện
game và phim ảnh, mạng xã hội...
 Thiếu sự quan tâm giáo dục của gia đình; sự giáo dục trong nhà trường: nặng
về dạy kiến thức văn hóa, chưa thật chú trọng dạy kĩ năng sống cho học sinh.
 Xã hội chưa có sự quan tâm đúng mức, chưa có những giải pháp thiết thực,
đồng bộ và triệt để.

5. Giải pháp và liên hệ:

 Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo
dục học sinh; có biện pháp giáo dục, răn đe, xử lí vi phạm. Tuyên truyền, giáo
dục về lối sống nhân ái, ý thức chấp hành luật pháp.
 Bản thân ra sức học tập, hướng vào những hoạt động bổ ích; có lối sống lành
mạnh, có quan điểm nhận thức hành động tích cực, đúng đắn; tích cực rèn
luyện quan niệm sống tốt đẹp. Đấu tranh, tố cáo những hành vi bạo lực học
đường.

=> Khẳng định lại những ảnh hưởng xấu của bạo lực học đường.

Mỗi học sinh cần nhận thức đúng đắn về tác hại của bạo lực học đường, luôn có ý
thức xây dựng nếp sống lành mạnh, hòa đồng, đoàn kết.

Câu 4 (10.0 điểm)

* Về kĩ năng:
Đảm bảo một văn bản hoàn chỉnh, không mắc lỗi diễn đạt về các mặt chính tả, dùng
từ, đặt câu. Cách lập luận chặt chẽ, thuyết phục, khuyến khích những học sinh có
những kiến giải sâu sắc, hợp lí.

* Về kiến thức: Bài viết đảm bảo các ý cơ bản sau:

1, Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận

2, Tóm tắt ngắn gọn câu chuyện

3, Nêu được những chi tiết hé mở trong truyện để có thể tránh được thảm kịch cho Vũ
Nương:

 Truyện không phải không hé mở khả năng có thể tránh được thảm kịch đau
thương của Vũ Nương:
 Lời con trẻ chứa đựng không ít điều vô lí không thể tin ngay được: "mẹ Đản đi
cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi", "chỉ nín thin thít", "chẳng bao giờ bế Đản
cả",... Câu nói đó của đứa trẻ như là một câu đố, nếu Trương Sinh biết suy nghĩ
thì cái chết của Vũ Nương sẽ không xảy ra. Nhưng Trương Sinh cả ghen, ít
học, đã vô tình bỏ dở khả năng giải quyết tấm thảm kịch, dẫn tới cái chết oan
uổng của người vợ.
 Bi kịch có thể tránh được khi vợ hỏi chuyện kia ai nói, chỉ cần Trương Sinh kể
lại lời con nói mọi chuyện sẽ rõ ràng.

=>Thể hiện tài năng kể chuyện của Nguyễn Dữ (thắt nút truyện làm cho mâu thuẫn
đẩy lên đỉnh điểm tăng sự li kỳ, hấp dẫn cho câu chuyện)

4, Suy nghĩ về cái chết của Vũ Nương:

 Tìm đến cái chết là tìm đến giải pháp tiêu cực nhất nhưng dường như đó là
cách duy nhất của Vũ Nương. Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành
động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, đối với nàng phẩm giá còn cao
hơn cả sự sống.
 Một phụ nữ đức hạnh, tâm hồn như ngọc sáng mà bị nghi oan bởi một chuyện
không đâu ở một lời con trẻ, một câu nói đùa của mẹ với con mà phải tìm đến
cái chết bi thảm, ai oán trong lòng sông thăm thẳm.
 Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình, một chuyện trong nhà, một vụ
ghen tuông. Vũ Nương lấy phải người chồng cả ghen, nguyên nhân trực tiếp
dẫn nàng đến cái chết bi thảm là "máu ghen" của người chồng nông nổi. Không
phải chỉ vì cái bóng trên tường mà chính là cái bóng đen trong tâm hồn Trương
Sinh đã giết chết Vũ Nương.
 Câu chuyện đau lòng vượt ra ngoài khuôn khổ cuả một gia đình, nó buộc chúng
ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh của con người trong một xã hội mà
những oan khuất, bất công, tai họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với họ mà
những nguyên nhân dẫn đến nhiều khi không thể lường trước được. Đó là xã
hội phong kiến ở nước ta, xã hội đã sinh ra những chàng Trương Sinh, những
người đàn ông mang nặng tư tưởng nam quyền, độc đoán, đã chà đạp lên quyền
sống của người phụ nữ. Hậu quả là cái chết thảm thương của Vũ Nương.
 Chiến tranh phong kiến cũng là một nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ
Nương. Nó gây nên cảnh sinh li rồi góp phần dẫn đến cảnh tử biệt.
 Cái chết của Vũ Nương là lời tố cáo xã hội phong kiến đã dung túng cho cái ác,
cái xấu xa đồng thời bày tỏ niềm cảm thông đối với số phận người phụ nữ.
 Bi kịch của Vũ Nương đem đến bài học thấm thía về việc giữ gìn hạnh phúc
gia đình.

5, Đánh giá, liên hệ, mở rộng:

 Nghệ thuật xây dựng chi tiết có ý nghĩa trong tác phẩm, tạo tình huống có vấn
đề .
 Nỗi đau, số phận của Vũ Nương cũng chính là hình ảnh cuộc sống của người
phụ nữ xưa.
 Trân trọng, cảm thông, thấu hiểu của tác giả với người phụ nữ trong xã hội
phong kiến.
 Suy nghĩ của bản thân về cuộc sống gia đình hiện nay.

Lưu ý: Giáo viên cần linh hoạt trong cách cho điểm. Trân trọng những bài viết có tính
sáng tạo. Những bài viết không có luận điểm rõ ràng, sa vào phân tích nhân vật, kể lại
chuyện chỉ cho không quá 1/3 số điểm.

ĐỀ SỐ 17

Câu 1. (2.0 điểm):

Xác định biện pháp tu từ và phân tích giá trị biểu đạt của nó trong đoạn thơ sau:

"Hỡi những trái tim không thể chết


Chúng tôi đi theo vết các anh
Những hồn Trần Phú vô danh
Sóng xanh biển cả, cây xanh núi ngàn"

(Tố Hữu)

Câu 2. (6.0 điểm):

"Nơi anh đến là biển xa, nơi anh tới ngoài đảo xa.
Từ mảnh đất quê ta giữa đại dương mang tình thương quê nhà.
Đây Trường Sa, kia Hoàng Sa
Ngàn bão tố phong ba ta vượt qua, vượt qua...."

(Nơi đảo xa - Thế Song)


Từ lời bài hát trên, bằng những hiểu biết xã hội, em hãy viết một bài nghị luận trình
bày suy nghĩ của em về hình ảnh những người chiến sĩ ngày đêm bảo vệ biển đảo
thiêng liêng của tổ quốc.

Câu 3. (12.0 điểm): Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, trong bài
Việt Bắc, Tố Hữu đã viết:

"Mình về thành thị xa xôi


Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?"

(Việt Bắc - Tố Hữu)

Những dòng thơ trên gợi cho em liên tưởng đến lời tâm sự của tác giả nào trong một
bài thơ mà em đã học ở chương trình Ngữ văn lớp 9, tập 1? Em hãy chỉ rõ điểm đồng
điệu giữa ý thơ của Tố Hữu và tâm sự của nhà thơ đó. Hãy phân tích niềm tâm sự sâu
kín của tác giả trong bài thơ em đã tìm được.

Đáp án

Câu 1. (2.0 điểm)

 Học sinh chỉ ra được biện pháp tu từ hoán dụ: (1.0 điểm)
1. Những trái tim: chỉ những con người (0,25 đ)
2. Hồn Trần Phú vô danh: biểu thị các liệt sĩ cách mạng của Đảng và dân tộc. (0,25 đ)
3. Sóng xanh và cây xanh: Là những bộ phận của biển, của núi ngàn, đất nước, biểu
thị sự trường tồn bất diệt. (0,5 đ)
 Phân tích giá trị biểu đạt. (1.0 điểm)
1. Qua hình ảnh hoán dụ Tố Hữu đã ca ngợi tình yêu nước, lòng trung thành với lí
tưởng cộng sản của các chiến sĩ cách mạng. (0,5 đ)
2. Nhà thơ khẳng định tên tuổi và tinh thần cách mạng của các liệt sĩ như Trần Phú
đời đời bất tử trường tồn với đất nước thân yêu. (0,5 đ)

Câu 2. (6.0 điểm):

* Yêu cầu về hình thức:

 Xác định đúng kiểu bài nghị luận xã hội.


 Bố cục mạch lạc, diễn đạt trôi chảy, văn viết có hình ảnh.

* Yêu cầu về nội dung:

a) Mở bài: (0.5 điểm)

 Lý lẽ dẫn dắt
 Dẫn vấn đề cần bàn luận.
b) Thân bài. (5.0 điểm)

* Khẳng định lãnh thổ, suy nghĩ về cuộc sống của những người lính. (3.0 điểm)

 Việt Nam là một quốc gia nằm ven biển. Lãnh thổ bao gồm đất liền, thềm lục
địa và rất nhiều hải đảo. Bên cạnh những người chiến sĩ bảo vệ chủ quyền của
đất nước trên đất liền, trên không, chúng ta không thể không nghĩ tới những
người chiến sĩ ngày đêm bảo vệ biển đảo thiêng liêng của dân tộc. (1.0 đ)
 Các anh là những người sống trong một hoàn cảnh có nhiều khó khăn gian khổ:
sống giữa biển khơi, đầy nắng gió, thường xuyên gặp phải bão tố,... Cuộc sống
của các anh thiếu thốn phương tiện so với người dân ở đất liền: thiếu nước
ngọt, thiếu sách báo...(0.5đ)
 Xa gia đình, xa người thân nên nhiều khi phải trải qua những nỗi buồn da diết
vì nhớ nhà,...(0.25đ)
 Tuy đầy gian khổ và khó khăn nhưng những điều này không làm mềm đi ý chí
quyết tâm bảo vệ chủ quyền tổ quốc, bảo vệ cuộc sống bình yên của người dân,
nhất là những ngư dân trên biển cả.,...(0.5đ)
 Đất nước được toàn vẹn, cuộc sống vẫn phát triển bình thường, hằng ngày các
em được bình yên đến trường, bữa cơm mỗi ngày không thiếu những sản phẩm
của biển cả, ...nhờ có một phần không nhỏ công sức và sự hi sinh thầm lặng
của các anh,...(0,75đ)

* Mở rộng, nâng cao vấn đề. (2.0đ)

 Vào những ngày đầu tháng 5/2014 Trung Quốc lại tiếp tục âm mưu bành
trướng biển Đông bằng việc hạ đặt giàn khoan HD 981 trái phép gần quần đảo
Hoàng Sa và tiến hành các hoạt động cải tạo trên Đá Chữ Thập thuộc quần đảo
Trường Sa của Việt Nam là vi phạm nghiêm trọng chủ quyền biển đảo của Việt
Nam theo công ước Liên hiệp quốc về luật biển 1982. (0.5đ)
 Những ngày đầu tháng 11/2014 việc Đài Loan tiến hành bắn đạn thật trên đảo
Hải Bình (từ 3-4/11) thuộc quần đảo Trường Sa... các chiến sĩ lại tiếp tục chiến
đấu nơi "đầu sóng ngọn gió" để bảo vệ biển đảo thiêng liêng của dân tộc...
Công việc của các anh vốn vất vả nay lại càng vất vả hơn. (0.25đ)
 Hình ảnh của các anh chiến sĩ ngoài biển đảo là những hình ảnh hào hùng ẩn
chứa vẻ đẹp của sư hi sinh vì nghĩa lớn. (0.25đ)
 Trước tấm gương của các anh, thế hệ trẻ chúng ta cần phấn đấu học tập tốt để
góp phần xây dựng và bảo vệ quê hương , đồng thời lên án hành động xâm
phạm chủ quyền lãnh thổ dân tộc của các thế lực xấu... (0.5đ)
 Mỗi học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cần có những hành
động và việc làm thiết thực nhất để động viên chia sẻ với các anh cả về mặt vật
chất và tinh thần.(0.5đ)

c) Kết bài (0,5đ):

 Khẳng định Trường Sa, Hoàng Sa là thuộc chủ quyền của VN, thể hiện quyết
tâm bảo vệ biển đảo của tổ quốc.
Câu 3. (12.0 điểm):

* Yêu cầu về kĩ năng:

 Làm đúng kiểu bài nghị luận văn học.


 Bố cục rõ ràng, kết cấu chăt chẽ, diễn đạt lưu loát trôi chảy
 Không mắc các lỗi chính tả, lỗi diễn đạt, lỗi dùng từ

* Yêu cầu về nội dung:

Mở bài (1.0đ): Giới thiệu được ý thơ của Tố Hữu và bài thơ tương đồng trong
chương trình lớp 9 đó là bài "Ánh trăng" của Nguyễn Duy

Thân bài (10.0đ):

Học sinh có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau nhưng yêu cầu đảm bảo được một
số ý sau:

1. Điểm đồng điệu giữa ý thơ của Tố Hữu và Nguyễn Duy trong bài "Ánh trăng" (2,0
đ)

 Đều là những lời nhắc nhở về đạo li ân nghĩa thủy chung. (0.5đ)
 Ở những dòng thơ của Tố Hữu:là lời nhắc nhở với những người cán bộ kháng
chiến khi từ Việt Bắc về xuôi ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa
kết thúc. (Khi sự lãng quên chưa xảy ra mà mới chỉ là dự cảm). (0.5đ)
 Ở bài "Ánh trăng": Là lời tâm sự tự bạch, tự thú với chính mình, với mọi người
khi giật mình nhận ra bản thân đã từng có lúc lãng quên quá khứ khi được sống
trong hòa bình (Đã ba năm sau khi kháng chiến chống Mĩ). (0.5đ)

=> Có lẽ từ chiến tranh sang hòa bình, từ gian khổ sang an lạc, có không ít người lãng
quên quá khứ, quên những người đã từng gắn bó, đùm bọc, sẻ chia .vì thế điểm đồng
điệu của hai bài thơ chính là nhắc nhở moị người về đạo lí uống nước nhớ nguồn, ân
nghĩa thủy chung với quá khứ (0.5đ)

2. Phân tích tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy qua bài "Ánh trăng" (8,0đ).

* Hoàn cảnh ra đời bài thơ:

 Cuộc kháng chiến dã khép lại ba năm, sống trong thời bình không mấy ai nhớ
lại những kỉ niệm gian khổ thời quá khứ, "ánh trăng giản dị như một niềm ân
hận trong tâm sự sâu kín của nhà thơ. (0.5đ)
 Đó là hình ảnh quen thuộc và còn vừa là niềm thơ vừa là biểu tượng đã qua của
một đời người gắn bó với kỉ niệm. (0.5đ)

* Tâm sự của tác giả về những ngày tháng làm bạn với ánh trăng:
 Nhớ về kỉ niệm đã qua: Kỉ niệm thuở ấu thơ gắn liền với không gian "đồng,
sông, bể" đến thời chiến tranh gian khổ (0.5đ)

-> Vầng trăng là biểu tượng của thiên nhiên tươi mát, là biểu tượng nghĩa tình, nguồn
cội, biểu tương của quá khứ nghĩa tình. (Phân tích) (0.5đ)

* Tâm sự sâu kín về những ngày lãng quên vầng trăng trong hiện tại

Lí do: do hoàn cảnh sống thay đổi. Con người lãng quên vầng trăng, quên quá khứ.
Người và trăng trở nên xa lạ trăng trở thành người dưng. (0.5đ)

-> Đó là sự lãng quên của một lớp người. Nhà thơ không phê phán ánh điện cửa
gương mà cốt yếu làm sao để giá trị vật chất không điều khiển được con người. (0.5đ)

* Niềm ân hận của tác giả và "tấm lòng" của vầng trăng

 Sự bắt gặp lại hình ảnh vầng trăng trong một tình huống bất ngờ "mất điện" ->
Sự đối diện trong khoảnh khắc con người đã nhận ra sự bạc bẽo, vô tình của
mình. (0.5đ)

-> đó chính là sự ân hận, sám hối. (Phân tích) (0.5đ)

 Hình ảnh trăng trở về nguyên vẹn "Tròn vành vạnh" là hình ảnh thiên nhiên
tròn đầy, hình ảnh quá khứ vĩnh hằng hay đó chính là tấm lòng của vầng trăng
(0,5đ)
 Tâm sự sâu kín của nhà thơ không dừng lại ở đó. Điều ông muốn nói là con
người phải tự mình bước qua những lỗi lầm của mình biết tự điều chỉnh để
hoàn thiện bản thân. (0.5đ)
 Vầng trăng ở đây không chỉ là quá khứ vẹn nguyên, là vẻ đẹp tự nhiên, vĩnh
hằng mà ánh trăng còn là bạn, là nhân chứng nghĩa tình - đó là nhân dân, đồng
đội của những người lính. (0.5đ)

-> Tấm lòng của nhân dân ta là vô cùng rộng lớn, luôn bao dung và tha thứ nhưng
cũng nghiêm khắc nhắc nhở mỗi con người về đạo lí ân nghĩa thủy chung, đạo lí
"uống nước nhớ nguồn". (Phân tích) (0.5đ)

* Nghệ thuật góp phần thể hiện chủ đề: Thể thơ năm chữ, lời thơ giản dị mộc mạc, kết
cấu theo dòng thời gian. Chỉ viết hoa chữ cái đầu mỗi khổ làm cho bài thơ có dáng
dấp như một câu chuyện kể, lời tâm tình thủ thỉ của tác giả về nỗi lòng sâu kín của
mình. (2,0đ)

Kết bài: (1.0đ)

Khẳng định lại đạo lí sống ân nghĩa thủy chung luôn là đạo lí tôt đẹp từ xưa đến nay.
Bài "ánh trăng" không chỉ là câu chuyện riêng của tác giả mà là câu chuyện, là vấn đề
đặt ra đối với mỗi chúng ta.
Lưu ý:

 Khuyến khích cho những bài có ý tưởng sáng tạo và giọng điệu độc đáo.
 Học sinh có thể làm theo 3 ý tách biệt:
1. Nêu tên tác phẩm, tác giả bài cần tìm: "Ánh trăng" (1,0đ)
2. Điểm đồng điệu giữa 2 tác giả. (2,0đ)
3. Bài viết phân tích. (9,0đ)
 Giám khảo cần linh hoạt khi chấm bài.

ĐỀ SỐ 18

Câu 1 (2 điểm)

Cho đoạn văn sau:

"Câu ca dao tự bao giờ truyền lại đã gieo vào bóng tối những cuộc đời cực nhọc ấy
một ánh sáng, lay động những tình cảm, ý nghĩ khác thường. Và ánh đèn buổi chèo,
những nhân vật ra trò, những lời nói, những câu hát, làm cho những con người ấy
trong một buổi được cười hả dạ hay rỏ dấu một giọt nược mắt. Văn nghệ đã làm cho
tâm hồn họ thực sự được sống. Lời gửi của văn nghệ là sự sống."

(Trích Tiếng nói của văn nghệ - Nguyễn Đình Thi)

"Lời gửi của văn nghệ là sự sống". Em hiểu "sự sống" ấy là gì?

Câu 2 (3 điểm)

Từ truyện sau:

"Một vị vua treo một giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về
"sự bình yên". Nhiều họa sĩ đã trổ tài. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ
thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.

Bức tranh thứ nhất vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ bởi vì có những
ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng
mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức trang
bình yên thật hoàn hảo.

Bức tranh thứ hai cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và
lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ
xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông chẳng bình
yên chút nào.

Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc
lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây có một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó,
giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang an nhiên đậu trên tổ
của mình. Bình yên thật sự! Và nhà vua đã chọn bức tranh thứ hai."

Em hãy nêu suy nghĩ của mình về sự bình yên.

Câu 3 (5 điểm)

Bàn vế bài thơ Bếp lửa (Bằng Việt) có ý kiễn cho rằng: "Bài thơ biểu hiện một triết lý
thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người, đều có sức tỏa sáng,
nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời".

Em hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ nhận định trên.

Đáp án

Câu 1 (2 điểm)

 Sự sống được hiểu theo nghĩa thông thường: con người, muôn vật được sinh ra,
lớn lên, được sống hay hạt giống nảy mầm, cây đâm chồi nảy lộc....
 Sự sống – lời gửi của văn nghệ: là "sống" về mặt tinh thần: được vui được
buồn, được đồng cảm, yêu thương, được hạnh phúc, biết tin yêu, hy vọng....
 Với lời gửi ấy, văn nghệ có khả năng làm thay đổi cuộc sống con người: Câu ca
dao tự bao giờ truyền lại đã gieo vào bóng tối những cuộc đời cực nhọc ấy một
ánh sáng... làm nảy nở trong tâm hồn vốn khô cằn, trong cuộc đời vốn tối tăm
lam lũ những phút giây được sống vui tươi, lạc quan....
 Khái quát lên vai trò, chức năng, đặc trưng của văn nghệ: Bắt rễ từ hiện thực
cuộc sống văn nghệ đã gieo sự sống cho cuộc đời. Gieo vào mỗi con người
niềm vui sống, tình yêu, khát vọng. Hướng con người tới cái đẹp. Xây dựng
tâm hồn cho con người, xây dựng đời sống tâm hồn cho xã hội...

Câu 2 (3 điểm)

 Khái quát nội dung câu chuyện để di đến hai quan niệm về sự bình yên: Bình
yên là không ồn ào, không khó khăn, không sóng gió; Bình yên là sự yên tĩnh,
vững vàng trong tâm ngay cả khi đứng trước phong ba bão táp.
 Nêu quan điểm của bản thân về sự bình yên: cả hai quan điểm về sự bình yên
như trên đều đúng. Nhưng bình yên thật sự là bình yên trong tâm hồn trước
phong ba bão táp. Bởi hiện thực cuộc sống không phải lúc nào cũng là: hồ nước
yên ả, là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng.
 Sự bình yên trong tâm giúp chúng ta sống tự tin, sâu sắc, làm chủ được cuộc
sống...
1. Lấy dẫn chứng chứng minh....
 Cần tạo được cho bản thân sự bình yên trong tâm hồn

Câu 3 (5 điểm)

 Khái quát tác giả, tác phẩm, dẫn lời nhận xét
 Giải thích lời nhận định: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người: Là
những người thân trong gia đình, bạn bè, những kỷ niệm, một cây lược, một
chiếc bút... gắn bó sâu sắc với ta. Đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên
hành trình dài rộng của cuộc đời": Trở thành điểm tựa, nguồn động lực, cho ta
sức mạnh trong mỗi bước đường đời.
 Trong bài thơ Bếp lửa, những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ là bà, là bếp lửa.
Từ thuở khi cháu còn nhỏ (lên 4 tuổi) bà cháu và bếp lửa đã gắn bó với nhau....
 Bà với tình yêu thương, đức hy sinh, niềm tin yêu cuộc sống; Bếp lửa với sự
ấm nồng, thân thiết đã là chỗ dựa cho cháu, nhen lên trong cháu những tâm
tình, những niềm tin.
1. Khi cháu lớn lên, học tập và công tác nơi xa, bà và bếp lửa vẫn là điểm tựa, là
nguồn động viên là nơi nâng đỡ...
2. Suy rộng ra, điều tạo ra sức tỏa sáng, sự nâng đỡ người cháu trong bài thơ còn là
quê hương, đất nước.
 Khái quát giá trị nghệ thuật, nội dung:
1. Bài thơ kết hợp trữ tình, tự sựvà tính triết lý; hình ảnh thơ đẹp...
2. Bài thơ ngợi ca vẻ đẹp của người bà – người phụ nữ Việt Nam. Gợi lòng biết ơn,
tình cảm gia đinh, tình yêu quê hương, đất nước.
 Gợi mở bài học có được từ vấn đề trên.

ĐỀ SỐ 19

Câu 1: (4 điểm) Trình bày cảm nhận của em (khoảng một trang giấy thi) về vẻ đẹp và
ý nghĩa của hình ảnh trong những câu thơ sau:

"Đêm nay rừng hoang sương muối


Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo."

(Đồng chí - Chính Hữu)

Câu 2: (4 điểm)

Chiếc hộp giấy vàng

Hồi đó một người bạn tôi bắt phạt đứa con gái lên ba tuổi vì nó đã phí phạm cả một
cuộn giấy gói hoa màu vàng. Tiền bạc thì eo hẹp, thế mà đứa con gái cứ cố trang
hoàng chiếc hộp quà giáng sinh để dưới cây thông khiến bạn tôi nổi giận. Dù có bị
phạt đi nữa, sáng hôm sau đứa con gái cũng mang hộp quà đến cho cha và nói: "Con
tặng cho cha nhân dịp giáng sinh.". Anh cảm thấy ngượng ngùng vì phản ứng gay gắt
của mình hồi hôm trước nhưng rồi cơn giận lại bùng lên lần nữa khi anh mở hộp ra
thấy hộp trống không.

Anh nói to với con: "Bộ con không biết rằng khi cho ai món quà thì phải có gì trong
đó chứ."
Đứa con ngơ ngác nhìn cha sợ hãi nước mắt lưng tròng: "Cha ơi nó đâu có trống
rỗng. Con đã thổi những nụ hôn vào hộp. Con bỏ đầy những tình yêu của con vào đó.
Tất cả dành cho cha mà."

Người cha nghe tim mình thắt lại. Anh ôm con vào lòng và cầu xin con tha thứ cho
mình.

(Trích Hạt giống tâm hồn)

Hãy tạo một văn bản (có độ dài khoảng hai trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em
về câu chuyện trên.

Câu 3: (12 điểm) Khi bàn đến ngôn ngữ "Truyện Kiều" Hoài Thanh có viết:

"Người đọc xưa nay vẫn xem "Truyện Kiều" như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể
thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần lỡ nhịp
ngang cung." Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Dựa vào "Truyện Kiều" hãy làm rõ tài
năng ngôn ngữ của Nguyễn Du và lý giải vì sao Nguyễn Du có được những thành tựu
ấy.

Đáp án

Câu 1: Bài làm của học sinh cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:

A- Về nội dung:

 Học sinh cần tập trung trình bày cảm nhận của mình về vẻ đẹp và ý nghĩa của
hình ảnh thể hiện được tình đồng chí, đồng đội của người lính và là biểu tương
đẹp về cuộc đời của người chiến sĩ.
 Người lính, khẩu súng, vầng trăng, ba hình ảnh gắn kết với nhau làm nên một
bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội, về tình bạn giữa thiên nhiên (vầng
trăng) và con người (người lính) trong hoàn cảnh chiến đấu.
 Hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng (đầu súng trăng treo) được gợi ra bởi những
liên tưởng phong phú (gần-xa, thực-mộng, chiến đấu-trữ tình, chiến sĩ-thi sĩ)

B- Về hình thức:

 Bài viết phải có kết cấu chặt chẽ, có khả năng cảm thụ tốt, phân tích làm sáng
tỏ nội dung nêu bật được cảm nhận của mình về vẻ đẹp và ý nghĩa của hình ảnh
trong những câu thơ trên. Bài văn viết mạch lạc và có cảm xúc.

Biểu điểm:

 Từ 3,5-> 4đ: Cảm nhận và phân tích có ý nghĩa sâu sắc, diễn đạt tốt.
 Từ 2,5-> 3đ: Cảm nhận đúng, khá đầy đủ, sâu sắc, tinh tế và diễn đạt khá.
 Từ 1,5-> 2đ: Cảm nhận được nhưng chưa sâu sắc, mắc ít lỗi diễn đạt.
 Từ 0.5-> 1đ: Cảm nhận còn sơ sài, mắc nhiều lỗi diễn đạt.
 0đ: làm lạc đề, bỏ giấy trắng.

Câu 2: Bài làm cần đáp ứng những yêu cầu sau:

A- Nội dung:

1. Xác định được ý nghĩa của câu chuyện:

 Đứa con trang hoàng chiếc hộp quà giáng sinh thật đẹp để tặng bố nhưng người
bố đã phạt con mình vì nó đã phí phạm cả cuộn giấy gói hoa màu vàng. Dù bị
phạt nhưng đứa con vẫn mang đến hộp quà để tặng cho cha.
 Câu chuyện là lời cảnh báo ý nghĩa với tất cả mọi người đặc biệt là tình cảm
của cha mẹ với con cái. Người cha chưa biết trân trọng món quà của con mà
quá đi sâu vào tiền bạc, vật chất, câu chuyện phản ánh thực tế đời sống hiện
nay của con người.
 Ngoài ra món quà ý nghĩa của đứa con với người cha chứa đầy tình yêu vô bờ
bến. Đặc biệt là những nụ hôn của con gái đã thổi vào trong chiếc hộp giấy
vàng. Món quà tinh thần ấy là sở hữu quý giá nhất chứng minh cho tình cha
con không gì có thế sánh bằng.

2. Bài học cuộc sống:

Câu chuyện ngắn gọn nhưng có ý nghĩa rất sâu sắc:

 Biết trân trọng tình cảm gia đình đặc biệt là tình phụ tử, luôn lắng nghe, thấu
hiểu, tôn trọng nguyện vọng, sở thích, sáng tạo trí tưởng tượng của trẻ thơ.
 Nên nhìn nhận sự việc cẩn thận, sâu sắc, đặc biệt đối với con trẻ để khỏi mắc
sai lầm đáng tiếc xảy ra
 Nếu biết hợp tác, chia sẻ, đoàn kết, thấu hiểu, nhường nhịn thì gia đình sẽ đầy
ắp tiếng cười, gợi không khí ấm cúng và hạnh phúc.
 Biết giữ gìn và nâng niu nó thì cuộc sống sẽ thoải mái và nhẹ nhàng hơn.

B- Về hình thức:

 Học sinh biết làm bài nghị luận xã hội. Bài viết có bố cục chặt chẽ. Biết vận
dụng nhuần nhuyễn các thao tác lập luận: giải thích, chứng minh, bình luận.

Biểu điểm:

 Từ 3,5-> 4đ: Hiểu rõ yêu cầu của đề bài, đảm bảo các yêu cầu kĩ năng về kiến
thức, có lập luận chặt chẽ, kết hợp nhuần nhuyễn các thao tác lập luận, bài viết
có cảm xúc, diễn đạt lưu loát.
 Từ 2,5-> 3đ: Hiểu rõ yêu cầu của đề bài, đảm bảo các yêu cầu kĩ năng về kiến
thức, có lập luận tương đối chặt chẽ, có sự vận dụng thành công các thao tác
lập luận, diễn đạt tương đối tốt.
 Từ 1,5-> 2đ: Hiểu được yêu cầu của đề bài, đáp ứng được các cơ bản yêu cầu
về kĩ năng và kiến thức, lập luận chưa thật chặt chẽ, có thể còn một số lỗi nhỏ
về diễn đạt.
 Từ 0.5-> 1đ: Chưa nắm vững yêu cầu của đề bài, chưa đáp ứng được một nửa
yêu cầu về kĩ năng và kiến thức, mắc lỗi chính tả và lỗi diễn đạt.
 0đ: Làm lạc đề, bỏ giấy trắng.

* Lưu ý: Câu chuyện có tính đa nghĩa nên giáo viên khuyến khích sự sáng tạo của học
sinh.

Câu 3: Bài làm cần đáp ứng những yêu cầu sau:

A- Nội dung:

* Giải thích ý kiến của Hoài Thanh: "hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi". Truyện
Kiều ngôn ngữ đẹp đến mức hoàn thiện.

 "Một tiếng đàn lạ gần như không một lần lỡ nhịp ngang cung". Ngôn ngữ
truyện Kiều phong phú, chính xác, sáng tạo, đầy biến hoá.
 Đây là lời đánh giá rất cao về truyện Kiều, về tài năng của Nguyễn Du qua
cách diễn đạt giàu hình ảnh nghệ thuật so sánh: Nguyễn Du là bậc thầy về ngôn
ngữ.

* Chứng minh tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Du trong truyện Kiều:

 Dẫn chứng qua tài năng khắc hoạ chân dung nhân vật (Thuý Kiều, Thuý Vân,
Mã Giám Sinh, Từ Hải, Kim Trọng...). Tả tâm trạng của "trăng", của "tiếng
đàn"... trong từng hoàn cảnh, tình huống của truyện.
 Lý giải nguyên nhân thành công: kế thừa và phát huy những khuynh hướng
sáng tạo ngôn ngữ khác biệt như ngôn ngữ dân tộc đặc biệt là thành ngữ, tục
ngữ, ca dao.
 Ngôn ngữ trong truyện Kiều mang một phong cách, một cá tính nghệ thuật đưa
ông lên bậc thầy về ngôn ngữ và cho đời nhiều bài học quý về sáng tạo ngôn
ngữ nghệ thuật.
 Truyện Kiều không những được người Việt Nam yêu mến mà còn được nhân
loại ngưỡng mộ.

B- Về hình thức:

 Viết đúng kiểu bài nghị luận về tác phẩm văn học, vận dụng nhuần nhuyễn các
phép lập luận: Giải thích, chứng minh.
 Bố cục rõ ràng, chặt chẽ, văn viết mạch lạc, từ ngữ trong sáng.
 Không mắc lỗi về câu, lỗi diễn đạt, lỗi chính tả thông thường.

Biểu điểm:

 Từ 11-> 12đ: Hoàn thành tốt các yêu cầu nêu trên.
 Từ 9-> 10,5 đ: Hoàn thành tương đối tốt các yêu cầu của đề, có hiểu biết về
truyện Kiều của Nguyễn Du sâu sắc.
 Từ 7-> 8,5đ: Định hướng đúng, nắm chắc tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Du.
 Từ 5-> 6,5đ: Định hướng đúng nhưng chưa thật sâu sắc, hiểu tài năng ngôn ngữ
của Nguyễn Du.
 Từ 3-> 4,5đ: Chưa nắm chắc tác phẩm, còn lúng túng trong lập luận, kiến thức
và kĩ năng làm bài chưa tốt.
 Từ 1-> 2,5đ: Làm được ít bài.
 0đ: Làm lạc đề, bỏ giấy trắng.

* Lưu ý: Điểm tổng của toàn bài là tổng điểm của từng câu không làm tròn.

ĐỀ SỐ 20

Câu 1 (3 điểm)

Cho đoạn thơ sau:

"Ngày xuân con én đưa thoi,


Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời.
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 15 câu theo cách diễn dịch, trình bày cảm nhận
của em về đoạn thơ trên

Câu 2 (7 điểm)

Đọc mẩu chuyện sau:

"Chuyện kể, một danh tướng có lần đi ngang qua trường học cũ của mình, liền ghé
vào thăm. Ông gặp lại người thầy từng dạy mình hồi nhỏ và kính cẩn thưa:

- Thưa thầy, thầy còn nhớ con không? Con là..........

Người thầy giáo già hốt hoảng:

- Thưa ngài, ngài là..........

- Thưa thầy, với thầy con vẫn là người học trò cũ. Con có được những thành công
ngày hôm nay là nhờ sự giáo dục của thầy ngày nào...."

Bằng một bài văn ngắn hãy nêu suy nghĩ của em về những điều tác giả muốn gửi gắm
qua câu chuyện trên.
Câu 3: (10 điểm)

Nét đẹp ân tình ,thủy chung của con người Việt Nam qua hai bài thơ Bếp lửa (Bằng
Việt) và Ánh trăng (Nguyễn Duy).

Đáp án

Câu 1 (3 điểm)

* Yêu cầu hình thức:

 Học sinh biết cách tạo dựng đoạn văn theo cách diễn dịch
 Lời văn trong sáng, mạch lạc, giàu cảm xúc

* Yều cầu nội dung

 Đoạn thơ gợi tả khung cảnh thiên nhiên với vẻ đẹp riêng của mùa xuân.
 Hai câu thơ đầu nói về thời gian, gợi ra không gian. Ngày xuân thấm thoắt trôi
mau, mùa xuân đang ở độ chín nhất, những cánh én đang chao liệng trên bầu
trời trong sáng.
 Hai câu thơ sau là bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân: thảm cỏ non xanh trải rộng
tới chân trời là gam màu làm nền cho bức tranh xuân. Trên nền xanh ấy "điểm
xuyến" "một vài" bông hoa lê trắng. Màu sắc có sự hài hòa đến tuyệt diệu, gợi
lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: Mới mẻ tinh khôi giàu sức sống.
 Đoạn thơ cho thấy nghệ thuật miêu tả thiên nhiên tài tình của Nguyễn Du: kết
hợp bút pháp chấm phá, sử dụng từ giàu chất tạo hình. Từ "điểm" làm cho cảnh
vật trở lên sinh động có hồn, các tình từ có sức gợi tả cao như xanh, non, trắng

Câu 2 (7 điểm)

1. Về kĩ năng:

 Viết đúng thể thức của một bài văn ngắn, đúng kiểu bài nghị luận xã hội
 Bài viết có kết cấu lập luận chặt chẽ.
 Bố cục rõ ràng, cân đối, diễn đạt trôi chảy, liên hệ mở rộng
 Trình bày sạch đẹp, ít sai lỗi về câu, từ, chính tả

2. Về kiến thức:

- Học sinh có thể trình bầy theo nhiêu kiểu nhưng cần làm rõ được yêu cầu sau:

* Ý nghĩa câu chuyện

 Câu chuyện ngắn gọn hấp dẫn, nhưng chứa đựng ý nghĩa triết lí lớn lao: lòng
biết ơn và cách đối nhân xử thế,thấu tình đạt lí giữa con người với con người.
 Người học trò tuy đã trở thành một người nổi tiếng, có quyền cao chức trọng
(một danh tướng) nhưng vẫn nhớ tới người thấy dạy dỗ, giáo dục mình nên
người. Việc người học trò về thăm thầy giáo cũ và có cách ứng xử khiêm tốn
đúng mực, thể hiện sự kính trọng lòng biết ơn đối với thầy giáo của mình.
Ngay cả khi thầy giáo coi vị tướng là ngài thì ông không thay đổi cách xưng hô
(con – thầy)
 Ngược lại thầy giáo cũ rất tôn trọng cương vị hiện tại của người học trò cũ nên
gọi vị tướng là ngài. Đây là cách xưng hô lịch sự, cách đối nhân xử thế thấu
tình đạt lí.

* Bình luận rút ra bài học:

 Trong cuộc sống phải thể hiện lòng biết ơn đối với những người có công dạy
dỗ hay giúp đỡ mình. Lòng biết ơn đó thể hiện qua lời nói, việc làm, hành động
cụ thể.
 Cách ứng xử, xưng hô giữa con người với con người cũng thể hiện nét đẹp của
văn hóa giao tiếp.
 Mỗi người hãy sống đẹp, có cách cư xử đúng mực để hoàn thiện nhân cách mỗi
con người.
 Hãy lẫy dẫn chứng trong các tác phẩm văn học để minh họa.

* Liên hệ mở rộng:

 Đề cao bài học biết ơn xứng với đạo lí "Uống nước nhờ nguồn", truyền thống
"Tôn sư trọng đạo".
 Tuy nhiên trong xã hội ngày nay vẫn có những con người có hành vi ứng xử
phi đạo lí vô ơn thầy cô, trong quan hệ giao tiếp có những lời lẽ phát ngôn
xưng hô thiếu chuẩn mực.

- > Từ câu chuyện đó ,chúng ta rút ra bài học nhân sinh sâu sắc: Lòng biết ơn,cách đối
nhân xử thế thấu tình đạt lí đó là nét đẹp trong tâm hồn, nhân cách của con người.

Câu 3: (10 điểm)

1. Yêu cầu về kĩ năng:

 Biết cách làm bài văn nghị luận văn học về tác phẩm thơ
 Kết cấu chặt chẽ bố cục ba phần rõ ràng, diễn đạt lưu loát, trình bày sạch đẹp, ít
mắc lỗi về từ, câu, lỗi chính tả

2. Yêu cầu về kiến thức:

Mở bài: Giới thiệu vấn đề, bàn luận truyền thống ân tình thủy chung của con người
Việt Nam qua hai bài thơ Bếp lửa và Ánh trăng

Thân bài:
 Trong bài thơ Bếp lửa, truyền thống ân tình, thủy chung được thể hiện trong
tấm lòng của người cháu yêu thương và nhớ ơn bà khi đã khôn lớn trưởng
thành
1. Khi đã trưởng thành người cháu vẫn nhớ về năm tháng tuổi thơ xa cha mẹ, sống
bên bà, trong tình yêu thương chăm sóc của bà.

"Giờ cháu đã đi xa........


Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở..."

 Cháu (nhân vật trữ tình) xót xa thương cảm thấu hiểu cuộc đời nhiều gian khổ
của bà:

"Cháu thương bà biết mấy nắng mưa"

 Cháu khẳng định công lao to lớn của bà, ngọn lửa từ tay bà nhóm lên trở lên
thành ngọn lửa thiêng liêng, kì diệu trong tâm hồn cháu.

"Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ"

 Trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, truyền thống ân tình thể hiện qua
tâm tình người chiến sĩ
1. Anh (nhân vật trữ tình) gắn bó với trăng, với thiên nhiên nghĩa tình khi là người
chiến sĩ.

"Hồi chiến tranh ở rừng


Vầng trăng thành tri kỉ"

 Anh đau xót nghĩ tới ngày tháng đầu tiên trở về thành phố quen dần với cuộc
sống hào nhoáng, anh đã lãng quên và quay lưng với quá khứ, với năm tháng
gian lao:

"Vầng trăng đi qua ngõ


Như người dưng qua đường"

 Anh giật mình thức tỉnh lương tâm khi mặt người và mặt trăng đối diện nhau,
quá khứ ùa về trong tâm thức.

" Có cái gì dưng dưng


...... Như là đồng là rừng"

 Anh suy ngẫm và nhắn nhủ mọi người luôn độ lượng, vị tha. Hãy sống ân tình
thủy chung với quá khứ với lịch sử, với nhân dân, với đất nước.

"Trăng cứ tròn vành vạnh


...................giật mình"

* Vài nét về nghệ thuật:


 Bếp lửa:
1. Thể thơ 8 chữ,âm hưởng giọng điệu thiết tha, tràn trề cảm xúc.
2. Hình ảnh thơ (bà, bếp lửa) bình dị mà gợi cảm, có sức lay động tâm hồn người
Việt.
 Ánh trăng:
1. Thể thơ năm chữ, giọng điệu tâm tình nhẹ nhàng sâu lắng chất chứa suy tư
2. Hình tượng vầng trăng, ánh trăng mang tính biểu tượng gợi suy tư sâu xa

* Đánh giá: Ân tình, thủy chung luôn là truyền thống tốt đẹp của dận tộc, truyền thống
ấy bao trùm cách sống, cách ứng xử của con người Việt Nam trong mọi quan hệ.
Quan hệ với quá khứ, với lịch sử, với nhân dân và đất nước.

Kết bài: Khái quát vấn đề theo yêu cầu của đề bài.

ĐỀ SỐ 21

Câu 1. (4,0 điểm)

Hãy chỉ ra biện pháp tu từ từ vựng và ý nghĩa của chúng trong các câu thơ sau:

a . "Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu"

(Ông đồ, Vũ Đình Liên)

b. Để miêu tả cảnh biệt li của Thúy Kiều với gia đình, đại thi hào Nguyễn Du viết:

"Đau lòng kẻ ở người đi

Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm"

(Truyện Kiều, Nguyễn Du)

c. "Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!"


(Bếp lửa, Bằng Việt)

Câu 2: ( 6,0 điểm)

NGƯỜI ĂN XIN

Một người ăn xin đã già. Đôi mắt ông đỏ hoe, nước mắt ông giàn giụa, đôi môi tái
nhợt, áo quần tả tơi. Ông chìa tay xin tôi.
Tôi lục hết túi nọ đến túi kia, không có lấy một xu, không có cả khăn tay, chẳng có gì
hết. Ông vẫn đợi tôi. Tôi chẳng biết làm thế nào. Bàn tay tôi run run nắm chặt lấy bàn
tay run rẩy của ông:

- Xin ông đừng giận cháu! Cháu không có gì cho ông cả.

- Ông nhìn tôi chăm chăm, đôi môi nở nụ cười:

- Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi.

Khi ấy tôi chợt hiểu ra: cả tôi nữa, tôi cũng vừa nhận được một cái gì đó của ông.

(Theo Tuốc-ghê-nhép, Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục 2009, tr.22)

Từ câu chuyện trên, em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 300 từ) bàn về lòng nhân
ái của con người trong cuộc sống.

Câu 3: (10 điểm)

Phân tích những thành công về nghệ thuật miêu tả, khắc họa nhân vật của thi hào
Nguyễn Du qua các đoạn trích Truyện Kiều em đã học và đọc thêm.

Đáp án

Câu 1. (4.0 điểm) Yêu cầu học sinh trả lời được các câu hỏi:

a. Biện pháp tu từ: nhân hóa (buồn, sầu).

Ý nghĩa: Nỗi buồn tủi, cô đơn của ông đồ trong buổi suy tàn của nền Hán học. (1.0
điểm)

b. Biện pháp tu từ: tiểu đối (kẻ ở - người đi), nói quá (lệ rơi thấm đá), ẩn dụ (tơ chia rũ
tằm).

- Ý nghĩa: Nỗi đau đớn đến đứt ruột của Thúy Kiều khi phải giã biệt gia đình, đồng
thời thể hiện tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du dành cho nhân vật.(2.0 điểm)

c. Biện pháp tu từ: Điệp từ (nhóm).


Ý nghĩa: Hình ảnh người bà quen thuộc bên bếp lửa không chỉ nhóm những gì thân
thuộc hữu hình mà còn nuôi dưỡng những kí ức tuổi thơ của cháu. (1.0 điểm)

Câu 2. (6.0 điểm) Yêu cầu:

a) Về kỹ năng: (2.0 điểm)

Học sinh biết trình bày suy nghĩ về một vấn đề tư tưởng, đạo lí thông qua một câu
chuyện. Biết viết thành bài văn rõ ràng, chặt chẽ. Bài viết mạch lạc, có cảm xúc, tránh
lỗi dùng từ, diễn đạt, chính tả...

b) Về nội dung: (4.0 điểm)

Bài viết có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần nêu được các ý:

 Truyện kể về việc cho và nhận của cậu bé và người ăn xin, qua đó ngợi ca cách
ứng xử cao đẹp, nhân ái giữa con người với con người.
 Sự đồng cảm, tình yêu thương chân thành và cách ứng xử lịch sự là món quà
quý giá ta tặng cho người khác.
 Và khi ta trao món quà tinh thần quý giá ấy ta cũng nhận được món quà quý giá
tương tự.
 Truyện gợi cho chúng ta nhiều suy ngẫm về việc cho và nhận trong cuộc sống:
cái cho và nhận là gì? Đâu phải chỉ là vật chất, có thể là giá trị tinh thần, có khi
chỉ là một câu nói, một cử chỉ... và thái độ khi cho và nhận cần phải chân thành,
có văn hóa.
 Xác định thái độ sống và cách ứng xử của bản thân: tôn trọng, quan tâm chia sẻ
với mọi người...
 Câu chuyện có tác dụng giáo dục lòng nhân ái cho mỗi chúng ta...

Câu 3. (10 điểm)

a) Về kỹ năng: (3.0 điểm)

 Học sinh nhận thức được yêu cầu về kiểu bài, nội dung, giới hạn...
 Biết làm bài văn nghị luận văn học: bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ; diễn đạt
trong sáng, biểu cảm; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, viết câu...

b) Về nội dung: (7.0 điểm)

Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải bám sát yêu cầu của
đề là nêu bật được những thành công về nghệ thuật miêu tả, khắc họa nhân vật của thi
hào Nguyễn Du qua các đoạn trích Truyện Kiều đã học (giám khảo lưu ý thí sinh lạc
sang phân tích nhân vật).

* Mở bài:
Dẫn dắt và đưa được vấn đề nghị luận – thành công về nghệ thuật miêu tả nhân vật
của Nguyễn Du qua các đoạn trích Truyện Kiều.

* Thân bài:

Nghệ thuật miêu tả, khắc họa nhân vật

- Khắc họa chân dung nhân vật chính diện (Thúy Kiều, Thúy Vân) bằng bút pháp ước
lệ, tượng trưng (phân tích, chứng minh qua Chị em Thúy Kiều)

 Thúy Vân có vẻ đẹp tươi tắn, đoan trang, phúc hậu. Vẻ đẹp như dự báo trước
số phận yên ổn của nàng sau này (thua, nhường)
 Thúy Kiều đẹp sắc sảo mặn mà, lại còn có tài năng hơn người trong quan niệm
thẩm mĩ thời phong kiến: cầm, kì, thi, họa. Nàng còn là một cô gái có tâm hồn
phong phú, sâu sắc, nhạy cảm. Sắc đẹp, tài năng, tâm hồn của Kiều qua ngòi
bút của Nguyễn Du đã dự báo trước tương lai số phận đau khổ bất hạnh của
nàng (ghen, hờn...)

- Khắc họa tính cách nhân vật qua miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động
(phân tích, chứng minh qua Mã Giám Sinh mua Kiều): Mã Giám Sinh là nhân vật
phản diện, được khắc họa bằng bút pháp tả thực. Hắn là một con buôn lưu manh, giả
danh một Giám sinh đi hỏi vợ. Về tính danh thì mập mờ. Về diện mạo thì trai lơ.
Ngôn ngữ cộc lốc, hành động thô bỉ, xấc xược, vô lễ, ti tiện. Hắn lạnh lùng vô cảm
trước những đau khổ của con người. Người đọc sẽ nhớ mãi chân dung tên lái buôn họ
Mã với những chi tiết đắt giá tót, cò kè...

- Miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
(phân tích, chứng minh qua Kiều ở lầu Ngưng Bích): Đoạn thơ là "một bức tranh tâm
tình đầy xúc động". Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của thi hào trong đoạn thơ cho ta cảm
nhận sâu sắc nỗi buồn tủi, cô đơn, lo sợ... của nàng Kiều trước ngoại cảnh rộng lớn,
heo hút, mịt mờ... Nghệ thuật độc thoại nội tâm biểu lộ nỗi nhớ da diết của Kiều trong
cảnh "bên trời góc bể bơ vơ"

- Khắc họa tính cách nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại (Thúy Kiều báo ân báo oán).

 Qua lời Kiều nói với Thúc Sinh, Hoạn Thư cho thấy nàng là người sắc xảo,
trọng ân nghĩa, bao dung, vị tha
 Lời đối đáp của Hoạn Thư bộc lộ rõ tính cách "khôn ngoan", "quỷ quái tinh
ma" của nhân vật này.
 Đánh giá chung

- Thúy Vân, Thúy Kiều, những nhân vật chính diện được Nguyễn Du tôn vinh và
được khắc họa bằng bút pháp ước lệ cổ điển. Họ là những nhân vật lí tưởng, được mô
tả với những chi tiết chọn lọc, ngôn ngữ trang trọng phù hợp với cảm hứng tôn vinh,
ngưỡng mộ con người.
- Nhân vật phản diện như Mã Giám Sinh được khắc họa bằng bút pháp tả thực, ngôn
ngữ trực diện. Nhân vật này gắn với cảm hứng phê phán, tố cáo xã hội của Nguyễn
Du.

- Tôn trọng truyền thống nghệ thuật trung đại nhưng Nguyễn Du cũng in dấu ấn cá
nhân trong việc khắc họa chân dung các nhân vật. Nhiều nhân vật của ông đã đạt tới
mức điển hình hóa, chính vì vậy người ta thường nói: tài sắc như Thúy Kiều, ghen
như Hoạn Thư, đểu như Sở Khanh, mặt sắt (Hồ Tôn Hiến)...

Qua khắc họa chân dung mà thể hiện tính cách, tư cách nhân vật cùng cảm hứng nhân
văn của Nguyễn Du trước cuộc đời và con người.

* Kết bài:

 Khẳng định tài năng nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du thể hiện qua
các đoạn trích Truyện Kiều đã học.
 Có thể nêu ý nghĩa, tác dụng của vấn đề hoặc bộc lộ cảm nghĩ sâu sắc của mình
qua phân tích...

ĐỀ SỐ 22

Câu 1: (4,0 điểm)

Viết về cảnh đất trời mùa xuân ở đoạn trích Cảnh ngày xuân (Truyện Kiều – Nguyễn
Du), có ý kiến cho rằng: Từ cặp lục bát thứ nhất sang cặp lục bát thứ hai có sự
biến đổi của mạch thơ; riêng cặp lục bát thứ hai đã thể hiện tài tình nghệ thuật
"thi trung hữu họa".

Em hãy viết đoạn văn trình bày ý kiến của mình về nhận xét trên?

Câu 2 (6,0 điểm)

Bài học giáo dục mà em nhận được từ câu chuyện dưới đây:

Ngọn gió và cây sồi

Một ngọn gió dữ dội băng qua khu rừng già. Nó ngạo nghễ thổi tung tất cả các sinh
vật trong rừng, cuốn phăng những đám lá, quật gẫy các cành cây. Nó muốn mọi cây
cối đều phải ngã rạp trước sức mạnh của mình. Riêng một cây sồi già vẫn đứng hiên
ngang, không bị khuất phục trước ngọn gió hung hăng. Như bị thách thức ngọn gió
lồng lộn, điên cuồng lật tung khu rừng một lần nữa. Cây sồi vẫn bám chặt đất, im
lặng chịu đựng cơn giận dữ của ngọn gió và không hề gục ngã. Ngọn gió mỏi mệt
đành đầu hàng và hỏi:

- Cây sồi kia! Làm sao ngươi có thể đứng vững như thế?
Cây sồi từ tốn trả lời:

- Tôi biết sức mạnh của ông có thể bẻ gẫy hết các nhánh cây của tôi, cuốn sạch đám
lá của tôi và làm thân tôi lay động. Nhưng ông sẽ không bao giờ quật ngã được tôi.
Bởi tôi có những nhánh rễ vươn dài, bám sâu vào lòng đất. Đó chính là sức mạnh sâu
thẳm nhất của tôi. Nhưng tôi cũng phải cảm ơn ông ngọn gió ạ! Chính cơn điên
cuồng của ông đã giúp tôi chứng tỏ được khả năng chịu đựng và sức mạnh của mình.

(Theo: Hạt giống tâm hồn - Đừng bao giờ từ bỏ ước mơ, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí
Minh, 2011)

Câu 3: (10 điểm)

Trong văn bản "Tiếng nói của văn nghệ", Nguyễn Đình Thi viết:

"Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại.
Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới
mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của
mình góp vào đời sống chung quanh".

(Ngữ Văn 9, Tập II, Tr 12,13 - NXB GD 2005)

Qua "Bài thơ về tiểu đội xe không kính", em hãy làm sáng tỏ "điều mới mẻ", "lời nhắn
nhủ" mà nhà thơ Phạm Tiến Duật muốn đem "góp vào đời sống".

Đáp án

A. HƯỚNG DẪN CHUNG

 Giám khảo căn cứ vào nội dung triển khai và mức độ đáp ứng các yêu cầu về
kỹ năng để cho từng ý điểm tối đa hoặc thấp hơn.
 Điểm toàn bài là tổng số điểm của hai câu, không làm tròn số, có thể cho: 0;
0,25; 0,5; 0,75... đến tối đa là 10.
 Cần khuyến khích những bài viết có lập luận chặt chẽ, văn viết sáng tạo, giàu
cảm xúc, trình bày sạch đẹp, chuẩn chính tả.

B. HƯỚNG DẪN CỤ THỂ

Câu 1: (4 điểm)

I. Yêu cầu về kĩ năng

 Đoạn văn có bố cục và cách trình bày hợp lí.


 Luận điểm rõ ràng và được triển khai tốt.
 Diễn đạt suôn sẻ; mắc ít lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp..

II. Yêu cầu về nội dung và cách cho điểm


Đồng ý với nhận xét trên

 Sự biến đổi của mạch thơ (1 điểm)


1. Hai câu đầu gợi dòng chảy thời gian bất tận, nhịp thơ êm xuôi: "Ngày xuân con
én... ngoài sáu mươi". Hình ảnh "chim én đưa thoi" vừa gợi không gian, vừa ngụ ý
mùa xuân qua nhanh. (0,5 điểm)
2. Hai câu tiếp theo, mạch thơ dừng lại, mở ra một không gian mênh mông, không
còn ranh giới giữa trời và đất: "Cỏ non xanh tận chân trời...một vài bông hoa". (0,5
điểm)
 Nghệ thuật "Thi trung hữu họa" ở cặp thơ thứ hai: (2,5 điểm)
1. Trời đất một màu xanh non tươi tốt của cỏ mùa xuân. Trên nền màu xanh non ấy
điểm xuyết sắc trắng của hoa lê. Hai màu: xanh, trắng là những gam màu sáng tươi
dịu mát, tôn nhau lên, màu trắng hoa lê làm cỏ như xanh hơn và sắc trắng của hoa
càng trở nên thanh khiết trên nền cỏ xanh mịn. (1 điểm)
2. Cách dùng từ "trắng điểm" (chứ không phải là điểm trắng) giúp ta nhận ra tín hiệu
của mùa xuân ở vẻ đẹp ẩn chìm mà sống động của tạo vật vốn vô tri vô giác. (1
điểm)
3. Liên hệ đến câu thơ cổ của Trung Quốc: "Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ
điểm hoa". (0,5 điểm)
 Khả năng rung động tinh tế của thi nhân trước cái đẹp của mùa xuân. (0,5
điểm)

(Không cho điểm tối đa những bài viết không trình bày đúng hình thức của một đoạn
văn).

Câu 2 (6,0 điểm)

I. Yêu cầu về kĩ năng

 Bài văn có bố cục và cách trình bày hợp lí.


 Luận điểm rõ ràng và được triển khai tốt.
 Diễn đạt suôn sẻ; mắc ít lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.

II. Yêu cầu về nội dung và cách cho điểm

(Học sinh có thể sắp xếp, trình bày theo nhiều cách, nhưng cần đảm bảo một số ý cơ
bản mang tính định hướng dưới đây)

 Hiểu nội dung, ý nghĩa câu chuyện. (1,5 điểm)


1. Ngọn gió: Hình ảnh tượng trưng cho những khó khăn, thử thách, những nghịch
cảnh trong cuộc sống. (0,5 điểm)
2. Cây sồi: Hình ảnh tượng trưng cho lòng dũng cảm, dám đối đầu, không gục ngã
trước hoàn cảnh. (0,5 điểm)
3. Ý nghĩa câu chuyện: Trong cuộc sống con người cần có lòng dũng cảm, tự tin,
nghị lực và bản lĩnh vững vàng trước những khó khăn, trở ngại của cuộc sống. (0,5
điểm)
 Bài học giáo dục từ câu chuyện. (2,5 điểm)
1. Cuộc sống luôn ẩn chứa muôn vàn trở ngại, khó khăn và thách thức nếu con người
không có lòng dũng cảm, sự tự tin để đối mặt sẽ dễ đi đến thất bại (Một ngọn gió
dữ dội băng qua khu rừng già. Nó ngạo nghễ thổi tung tất cả các sinh vật trong
rừng, cuốn phăng những đám lá, quật gẫy các cành cây). (1 điểm)
2. Muốn thành công trong cuộc sống, con người phải có niềm tin vào bản thân, phải
tôi luyện cho mình ý chí và khát vọng vươn lên để chiến thắng nghịch cảnh. (Tôi
có những nhánh rễ vươn dài, bám sâu vào lòng đất. Đó chính là sức mạnh sâu
thẳm nhất của tôi). (1,5 điểm)

Lưu ý: Trong quá trình lập luận học sinh nên có dẫn chứng về những tấm gương dũng
cảm, không gục ngã trước hoàn cảnh để cách lập luận thuyết phục hơn.

 Bàn luận về bài học giáo dục của câu chuyện: (2 điểm)
1. Không nên tuyệt vọng, bi quan, chán nản trước hoàn cảnh mà phải luôn tự tin, bình
tĩnh để tìm ra các giải pháp cần thiết nhằm vượt qua các khó khăn, thử thách của
cuộc sống. (1 điểm)
2. Biết tự rèn luyện, tu dưỡng bản thân để luôn có một bản lĩnh kiên cường trước
hoàn cảnh và cũng phải biết lên án, phê phán những người có hành động và thái độ
buông xuôi, thiếu nghị lực. (1 điểm)

Câu 3: (10 điểm)

I. Yêu cầu về kĩ năng

 Bố cục bài rõ ràng, lập luận thuyết phục bằng việc phân tích các dẫn chứng cụ
thể để làm sáng rõ luận điểm.
 Văn viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc; ít mắc lỗi diễn đạt, lỗi chính tả.

II. Yêu cầu về nội dung

Bài làm đúng kiểu văn nghị luận, các ý có thể trình bày theo những cách khác nhau
nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:

 Giải thích sơ lược tinh thần đoạn văn của Nguyễn Đình Thi:
1. Nội dung của một tác phẩm nghệ thuật là hiện thực cuộc sống và những khám phá,
phát hiện riêng của người nghệ sĩ.
2. Những khám phá, phát hiện ấy chính là điều mới mẻ góp phần quan trọng tạo nên
giá trị của một tác phẩm nghệ thuật và mang theo thông điệp của người nghệ sĩ.
 "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật đã thể hiện được "điều
mới mẻ" và "lời nhắn nhủ" của riêng nhà thơ trên cơ sở "vật liệu mượn ở thực
tại".
1. "Vật liệu mượn ở thực tại" trong tác phẩm là hiện thực cuộc kháng chiến chống Mĩ
với nhiều khó khăn, gian khổ và tinh thần chiến đấu, đời sống tình cảm của những
người lính trên tuyến đường Trường Sơn
2. Điều mới mẻ:
1. Nhà thơ đã khám phá ra vẻ đẹp riêng của những người lính lái xe trên tuyến đường
Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ từ chính những khó khăc, gian
khổ của hiện thực:
1. Phong thái ung dung, tự tin và tinh thần dũng cảm, hiên ngang, bất chấp bom đạn,
coi thường gian khổ, hiểm nguy, luôn hướng về phía trước.
2. Tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, nét tinh nghịch đáng yêu của những người lính trẻ;
niềm lạc quan phơi phới vượt lên hiện thực khốc liệt của chiến tranh.
3. Trong gian khổ, tình đồng chí, đồng đội được thể hiện cũng thật vô tư, tinh nghịch
mà chân thành.
4. Trái tim mang tình yêu Tổ quốc là sức mạnh thôi thúc tinh thần, ý chí quyết tâm
chiến đấu vì miền Nam, tình yêu đó mạnh hơn tất cả đạn bom, cái chết.

(so sánh với hình ảnh người lính trong thời kì chống Pháp)

=> Vẻ đẹp của họ có sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa cái vĩ đại phi thường với cái
giản dị đời thường

3. Điều mới mẻ thể hiện trong nghệ thuật của bài thơ: nhan đề lạ, sáng tạo ra một
hình ảnh thơ độc đáo, giọng điệu và ngôn ngữ thơ rất đặc sắc, rất gần vời lời nói
thường ngày, đậm chất văn xuôi; sự đối lập giữa cái không và cái có... để thể hiện
chân thực và sinh động vẻ đẹp của những người lính.
 Lời nhắn nhủ (Đây cũng là tư tưởng chủ đề của tác phẩm): hình ảnh những
người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ mãi là biểu
tượng đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Họ chính là những
con người đã góp phần làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc, sức mạnh
và tinh thần chiến đấu của họ đã khẳng định một chân lí của thời đại: sức mạnh
tinh thần có thể chiến thắng sức mạnh vật chất.

Tiêu chuẩn cho điểm:

 Điểm 9, 10: Đạt được các yêu cầu nêu trên. Văn viết mạch lạc, có cảm xúc, thể
hiện sự sáng tạo, không mắc lỗi diễn đạt thông thường.
 Điểm 7, 8: Đạt được các yêu cầu nêu trên. Văn viết mạch lạc, mắc it lỗi diễn
đạt thông thường.
 Điểm 5, 6: Đạt được quá nửa yêu cầu về kiến thức. Còn một số lỗi về diễn đạt.
 Điểm 3, 4 Đạt được quá nửa yêu cầu về kiến thức, mắc nhiều lỗi về câu, từ,
chính tả.
 Điểm 1, 2: Chưa đạt yêu cầu nêu trên. Nội dung sơ sài, diễn đạt yếu, mắc nhiều
lỗi về câu, từ, chính tả.
 Điểm 0: Lạc đề, sai cả nội dung và phương pháp.

* Lưu ý: Khi cho điểm giáo viên cần trân trọng những cảm nhận tinh tế, cách viết
sáng tạo của học sinh để cho điểm phù hợp.

ĐỀ SỐ 23
Câu 1 (2.0 điểm)

Xác định và phân tích hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp tu từ trong đoạn thơ sau:

"Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,

Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,

Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,

Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh..."

(Trích Chợ Tết, Đoàn Văn Cừ, Thi nhân Việt Nam, NXBVH 1997)

Câu 2 (6.0 điểm)

Trong bài thơ Quê hương, Đỗ Trung Quân viết:

" ...Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi..."

Từ ý thơ trên, em hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 01 trang) bày tỏ suy nghĩ
của mình về quê hương.

Câu 3 (12.0 điểm)

Nhà văn Nguyễn Dữ đã kết thúc Chuyện người con gái Nam Xương bằng chi tiết Vũ
Nương hiện về gặp chồng rồi sau đó biến mất.

Có ý kiến cho rằng: giá như nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc
cùng chồng con thì kết thúc của truyện sẽ có ý nghĩa hơn. Có người lại nhận xét: cách
kết thúc của tác giả như vậy là hợp lí.

Suy nghĩ của em về hai ý kiến trên.

Đáp án

ĐỀ CHÍNH THỨC

I. Yêu cầu chung

Giám khảo cần:

 Nắm bắt kĩ nội dung trình bày của thí sinh để đánh giá được một cách tổng quát
và chính xác, tránh đếm ý cho điểm.
 Vận dụng linh hoạt hướng dẫn chấm, nên sử dụng nhiều mức điểm một cách
hợp lí. Đặc biệt khuyến khích những bài viết có cảm xúc và sáng tạo...
 Chấm theo thang điểm 20 (câu 1: 2.0 điểm; câu 2: 6.0 điểm; câu 3: 12.0 điểm)

II. Yêu cầu cụ thể

Câu 1 (2.0 điểm)

1. Yêu cầu về kĩ năng:

 Đảm bảo một đoạn văn hoàn chỉnh, chặt chẽ, diễn đạt trôi chảy, không mắc lỗi
chính tả.

2. Yêu cầu về kiến thức

Cần đáp ứng một số ý chính sau:

 Xác định biện pháp tu từ: (1 điểm)


1. Nhân hóa: giọt sữa; nháy hoài; ôm ấp; thoa son
2. So sánh: Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa
 Giá trị nghệ thuật của các biện pháp tu từ (1 điểm)
1. Bằng biện pháp so sánh và nhân hóa Đoàn Văn Cừ đã thổi hồn vào thiên nhiên,
biến chúng thành những sinh thể sống. Đó là vẻ đẹp tinh khôi đầy hấp dẫn qua so
sánh "sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa"; vẻ tinh nghịch, nhí nhảnh của tia
nắng tía; cái thướt tha, điệu đà trong dáng "uốn mình" của núi và cảm giác yên
bình, ấm áp trong khung cảnh "đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh".
2. => Thiên nhiên đang cựa mình trong buổi sớm mùa xuân. Cảnh vật toát lên vẻ rực
rỡ, lấp lánh trong sự tinh khôi, trong trẻo, mượt mà.

Câu 2 (6.0 điểm)

1. Yêu cầu về kĩ năng:

 Biết cách làm một bài nghị luận xã hội: hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận
chặt chẽ, hành văn trong sáng, giàu cảm xúc, hình ảnh.
 Biết kết hợp các thao tác lập luận, bố cục hợp lí, không mắc lỗi diễn đạt, lỗi
chính tả.

2. Yêu cầu về kiến thức

Cần đáp ứng một số ý chính sau:

2.1. Giải thích (1 điểm)

 Cách so sánh độc đáo, thú vị: quê hương là mẹ.


 Qua cách so sánh, nhà thơ khẳng định tình cảm gắn bó của con người với quê
hương.
2.2. Bàn luận (4 điểm)

 Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa đựng những tình cảm chân thành, sâu sắc
của tác giả đối với quê hương: tình cảm với quê hương là tình cảm tự nhiên
mang giá trị nhân bản, thuần khiết trong tâm hồn mỗi con người.
 Quê hương chính là nguồn cội, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi gắn bó, nuôi dưỡng
sự sống, đặc biệt là đời sống tâm hồn của mỗi người. Quê hương là bến đỗ bình
yên, là điểm tựa tinh thần của con người trong cuộc sống. Dù đi đâu, ở đâu hãy
luôn nhớ về nguồn cội.
 Đặt tình cảm với quê hương trong quan hệ với tình yêu đất nước, hướng về quê
hương không có nghĩa chỉ hướng về mảnh đất nơi mình sinh ra mà phải biết
hướng tới tình cảm lớn lao, thiêng liêng bao trùm là Tổ quốc, là Đất nước để
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
 Có thái độ phê phán trước những hành vi suy nghĩ chưa tích cực về quê hương:
chê quê hương nghèo khó lạc hậu....

2.3. Bài học nhận thức và hành động (1 điểm)

 Có nhận thức đúng đắn về tình cảm với quê hương


 Có ý thức tu dưỡng, học tập, phấn đấu xây dựng quê hương

Câu 3 (12.0 điểm)

1. Yêu cầu về kĩ năng:

 Biết cách làm một bài nghị luận văn học: hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận
chặt chẽ, hành văn trong sáng, giàu cảm xúc, hình ảnh.
 Biết kết hợp các thao tác lập luận, bố cục hợp lí, không mắc lỗi diễn đạt, lỗi
chính tả.

2. Yêu cầu về kiến thức

Cần đáp ứng một số ý chính sau:

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề (1 điểm)

2. Bàn luận (10 điểm)

2.1. Nêu tình huống và những tình tiết chính dẫn đến kết thúc của truyện

2.2. Về ý kiến: "Giá như nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc cùng
chồng con thì kết thúc của truyện sẽ có ý nghĩa hơn"

 Đây là cách kết thúc thường gặp trong các truyện cổ dân gian, thể hiện quan
niệm ở hiền gặp lành, cái thiện thắng cái ác của người lao động, thể hiện niềm
tin, niềm lạc quan của họ. Đó cũng là truyền thống nhân đạo của dân tộc, cũng
là một trong những nội dung của văn học trng đại Việt Nam.
 Cách kết thúc truyện như vậy có thể chấp nhận được vì không trái với tinh thần
nhân đạo của văn học. Tuy nhiên điều này sẽ ảnh hưởng tới giá trị hiện thực và
logic phát triển của cốt truyện

2.3. Về kết thúc của nhà văn

 Kết thúc truyện Chuyện người con gái Nam Xương đã thể hiện được tinh thần
nhân đạo và khát vọng của con người về cuộc sống: Vũ Nương không chết,
nàng được sống một cuộc sống sung sướng, hạnh phúc dưới thủy cung, nàng
hiện hồn về gặp Trương Sinh là để minh oan, để khẳng định tình cảm thủy
chung của mình.
 Kết thúc truyện còn cho thấy sự vận dụng sáng tạo truyện dân gian của nhà
văn. Tác giả đã sử dụng yếu tố hoang đường kì ảo và lối kể chuyện dân gian để
thể hiện tư tưởng của mình. Bên cạnh giá trị nhân đạo, truyện còn có giá trị
hiện thực sâu sắc. Nếu tác giả để cho Vũ Nương trở về với cuộc sống thực tại
thì nàng cũng không thể có được hạnh phúc với một người chồng đa nghi, độc
đoán cùng những định kiến nặng nề của xã hội đương thời.
 Kết thúc truyện như vậy là hoàn toàn hợp lí vì nó vừa thể hiện được tư tưởng
của tác giả, vừa đảm bảo tính lôgic của cốt truyện đồng thời phản ánh một cách
chân thực, khách quan số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

3. Đánh giá khái quát (1 điểm)

 Cách kết thúc câu chuyện của nhà văn không chỉ góp phần tạo nên sức sống
của tác phẩm mà còn khẳng định tài năng của tác giả.

ĐỀ SỐ 24

Câu 1 (2,0 điểm)

Cảm nhận về giọt nước mắt của nhân vật ông Hai qua các đoạn trích sau:

"Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng
Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?"

... "Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:

Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!

Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má."

(Trích "Làng", Kim Lân)

Câu 2 (3,0 điểm)


"Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố". (Trích Nhật
ký Đặng Thùy Trâm)

Suy nghĩ của em về câu nói trên.

Câu 3 (5,0 điểm)

"Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái
đẹp."

Hãy khám phá "xứ sở của cái đẹp" qua bài thơ "Sang thu" của Hữu Thỉnh (Ngữ văn
9, tập 2).

Đáp án

A. YÊU CẦU CHUNG

 Giám khảo phải nắm được nội dung trình bày trong bài làm của thí sinh, tránh
đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt Hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức độ
điểm một cách hợp lí, khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo.
 Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ
bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho đủ điểm.
 Điểm bài thi có thể cho lẻ đến 0,25 điểm và không làm tròn.

B. YÊU CẦU CỤ THỂ

Câu 1 (2,0 điểm)

Học sinh có thể trình bày theo cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:

 "nước mắt ông lão cứ giàn ra" thể hiện tâm trạng đau đớn, tủi nhục vì nghe tin
làng ông làm Việt gian theo Tây, vì nghĩ các con còn nhỏ rồi đây phải chịu
cảnh rẻ rúng hắt hủi của mọi người. Đó là giọt nước mắt của lòng tự trọng, của
tình thương con và tình yêu làng tha thiết. (0,5 điểm)
 "nước mắt ông giàn ra, chảy ròng ròng": vì xúc động, vì hạnh phúc khi nghe
con trả lời ủng hộ Cụ Hồ. Đứa con nhỏ đã nói hộ tiếng lòng của ông, một người
thủy chung với kháng chiến, luôn biết ơn Cụ Hồ. Đó là giọt nước mắt của niềm
vui và tự hào. (0,5 điểm)
 Giọt nước mắt của ông là giọt nước mắt của con người luôn nặng lòng với quê
hương, Cụ Hồ, kháng chiến và là biểu hiện đẹp đẽ của phẩm cách làm người ở
người nông dân trong kháng chiến chống Pháp. (0,5 điểm)
 Những giọt nước mắt của ông Hai là chi tiết nghệ thuật độc đáo, được miêu tả
tinh tế, bộc lộ chiều sâu nội tâm của nhân vật. Qua đó, Kim Lân thể hiện thái
độ trân trọng phẩm giá của con người. (0,5 điểm)

Câu 2 (3,0 điểm)


a. Về kĩ năng

Biết cách viết bài văn nghị luận xã hội, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, có sức thuyết
phục, văn viết mạch lạc, trong sáng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.

b. Về kiến thức

Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:

 Giới thiệu vấn đề cần nghị luận (0,25đ)


 Giải thích câu nói (0,5đ)
1. Giông tố: chỉ những gian nan thử thách hoặc những thất bại, đổ vỡ trong cuộc sống
.
2. "Đời phải trải qua giông tố": Đời người luôn phải đối mặt với những khó khăn thử
thách.
3. "Không được cúi đầu trước giông tố": không được buông xuôi chán nản, chấp
nhận thất bại .

-> Ý nghĩa của câu nói: đề cao nghị lực, bản lĩnh sống, ý chí vươn lên của con người
khi phải đối mặt với những khó khăn, thử thách trong cuộc đời.

 Lý giải (1,5đ)
1. Cuộc sống không phải lúc nào cũng bằng phẳng, thuận lợi, mà nhiều khi con người
phải đối mặt với những chông gai, thử thách, thậm chí cả thất bại.
2. Gian nan thử thách trong đời chính là môi trường tôi luyện con người trưởng
thành. Dù phải đối mặt với những khó khăn, trở ngại, con người đừng bao giờ đầu
hàng số phận mà phải cố gắng vượt qua để sinh tồn và phát triển, xây dựng cuộc
đời tốt đẹp hơn.
3. Ý chí, bản lĩnh sống vững vàng sẽ giúp con người thành công; ngược lại không có
ý chí, nghị lực con người sẽ nhận sự thất bại, thậm chí là bị hủy diệt.
4. (Dẫn chứng minh hoạ)
 Khẳng định, bàn bạc mở rộng vấn đề (0,5đ)
1. Câu nói trên là tiếng nói của thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên trong thời đại đầy bão táp,
sống đẹp và hào hùng; khẳng định một quan niệm nhân sinh tích cực: sống không
sợ gian nan, thử thách, phải có nghị lực và bản lĩnh vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
2. Phê phán những người sống không có bản lĩnh, nghị lực, dễ gục ngã trước những
khó khăn, trở ngại trên đường đời.
3. (Dẫn chứng minh hoạ)
 Liên hệ, rút ra bài học (0,25đ)

* Ghi chú: Nếu học sinh có những kiến giải riêng, hợp lí, thuyết phục thì giám khảo
vẫn đánh giá, cho điểm (không vượt quá điểm tối đa của từng phần).

Câu 3 (5,0 điểm)

a. Về kĩ năng
 Học sinh biết cách làm bài văn nghị luận văn học. Vận dụng linh hoạt các thao
tác lập luận.
 Bố cục hợp lý chặt chẽ, văn viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc, không mắc
lỗi về chính tả, diễn đạt.

b. Về kiến thức

Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo những nội
dung cơ bản sau:

1. Giới thiệu được vấn đề nghị luận (0,5đ)


2. Giải thích ý kiến (0,5đ)

 "nhà văn chân chính": là nhà văn luôn đặt cái đích vào con người, cuộc sống,
đem ngòi bút của mình phục vụ đời sống, có ích cho con người.
 "xứ sở của cái đẹp": đó là cái đẹp muôn hình muôn vẻ của cuộc đời mà nhà
văn phản ánh trong tác phẩm, gợi những rung cảm thẩm mĩ, làm cho con người
thêm mến yêu cuộc sống, thêm khao khát hướng tới những gì đẹp đẽ, tốt lành
của cuộc đời.

-> Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường cho bạn đọc khám
phá những vẻ đẹp của cuộc sống thông qua các sáng tác văn học. Nhận định trên đã
khẳng định về vai trò của nhà văn và tác phẩm với đời sống.

3. "Xứ sở của cái đẹp" trong bài thơ "Sang thu" (3,5đ)

 Vẻ đẹp của thiên nhiên lúc sang thu (1,5đ)


1. Đó là phút giao mùa cuối hạ, đầu thu ở vùng quê đồng bằng Bắc bộ trong trẻo, dịu
nhẹ với những tín hiệu sang thu rất mơ hồ, mong manh: hương ổi sánh lại, gió thu
se se, làn sương giăng mắc nơi đầu thôn ngõ xóm...
2. Nhà thơ cảm nhận tinh tế sự vận động của thiên nhiên nhẹ nhàng mà rõ rệt: từ khu
vườn với những hình ảnh vừa cụ thể vừa vô hình (hương ổi, sương, gió, ngõ) mở
rộng đến không gian rộng lớn, bao la (dòng sông, bầu trời, cánh chim, đám mây),
cảnh thu đi dần vào tâm tưởng lắng đọng suy tư (nắng, mưa, sấm, hàng cây).

-> Bức tranh thiên nhiên mùa thu được thi sĩ cảm nhận tinh tế qua nhiều yếu tố, bằng
nhiều giác quan đem đến cho người đọc sự rung cảm, tình yêu với vẻ đẹp của quê
hương, đất nước.

 Vẻ đẹp của những suy tư, chiêm nghiệm (1,0đ)


1. Từ tâm trạng ngỡ ngàng, say sưa có chút bâng khuâng, tiếc nuối nhà thơ kín đáo
thể hiện những suy ngẫm, triết lý về đời người: khi con người từng trải thì cũng
vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời
(Sấm cũng bớt bất ngờ - Trên hàng cây đứng tuổi). Thiên nhiên sang thu hay cũng
chính là đời người đã sang thu.
2. Bài thơ còn gợi những liên tưởng sâu xa về thế sự. Đất nước lúc đó vừa qua thời
đạn bom bước vào cuộc sống hòa bình. Những tháng năm sôi động hào hùng lắng
lại, thay vào đó là nhịp sống mới. Lối sống của con người cũng có nhiều thay đổi,
trời đất sang thu và đất nước cũng sang thu.
 Vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật (1,0đ)
1. Thể thơ năm chữ.
2. Ngôn ngữ thơ giản dị, hàm súc, tự nhiên.
3. Hình ảnh thơ đẹp, sáng tạo, giàu sức gợi qua các biện pháp tu từ...

* Sang thu, khúc giao mùa nhẹ nhàng, thơ mộng, bâng khuâng mà cũng thầm thì triết
lí, góp một tiếng thơ đằm thắm về mùa thu quê hương, đất nước.

4. Đánh giá, khái quát vấn đề (0,5đ)

 Cái đẹp trong tác phẩm văn học được nhà văn khơi nguồn, kết tinh từ cuộc
sống luôn có sức hấp dẫn với người đọc, bồi đắp những giá trị tốt đẹp cho con
người.
 Xứ sở của cái đẹp trong bài thơ "Sang thu" chính là vẻ đẹp của thiên nhiên, của
tình đời làm nên giá trị của thi phẩm và khẳng định tài năng của nhà thơ Hữu
Thỉnh.

ĐỀ SỐ 25

PHẦN I (8 ĐIỂM):

Đọc kĩ đoạn văn sau rồi thực hiện các yêu cầu bên dưới:

[…] Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam,
phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta,
bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết
hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi
chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành,
đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn
chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một
trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. […]

(Ngữ văn 9, tập I, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012)

 Đoạn văn trên trích trong tác phẩm nào? Tác giả là ai?
 Nhân vật nói lời ấy là ai, nói với ai? Em hãy nêu nét đẹp của nhân vật qua đoạn
trích trên.
 Em hiểu gì về ý nghĩa của câu in đậm trên? Nó gợi cho em nhớ tới những câu
thơ, câu văn nào? Hãy viết những câu ấy ra cùng với tên tác phẩm, tác giả.
 Xác định những phép liên kết cơ bản trong đoạn trích trên. (Chỉ ra từ ngữ liên
kết và gọi tên các phép liên kết ấy).
 Từ hiểu biết về đoạn trích trên, hãy viết một văn bản ngắn (khoảng một trang
giấy thi) trình bày suy nghĩ về lòng yêu nước được gợi ra từ đoạn trích và suy
nghĩ của bản thân em.
PHẦN II (12 ĐIỂM):

Đề: Cảm nhận về tình yêu thiên nhiên của thi nhân qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của
Thanh Hải và bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.

Đáp án

A. YÊU CẦU CHUNG:

 Hướng dẫn chấm chỉ nêu những ý cơ bản, trên cơ sở các gợi ý đó, giám khảo
có thể vận dụng linh hoạt, tránh cứng nhắc và nên cân nhắc trong từng trường
hợp cụ thể để phát hiện những bài làm thể hiện tố chất của học sinh giỏi (kiến
thức vững chắc, năng lực cảm thụ sâu sắc, tinh tế, kĩ năng làm bài tốt...).
 Giám khảo nên lưu ý khuyến khích những bài làm có sự sáng tạo, có phong
cách riêng nhưng hợp lí.
 Giám khảo đánh giá bài làm của học sinh trên cả hai phương diện: kiến thức và
kĩ năng. Chỉ cho điểm tối đa ở mỗi ý khi học sinh đạt được yêu cầu cả về nội
dung kiến thức và kĩ năng.
 Điểm toàn bài là 20 điểm, chi tiết đến 0,25 điểm. Điểm tối đa cho mỗi ý ở mỗi
câu đã bao gồm cả kĩ năng.

B. YÊU CẦU CỤ THỂ:

PHẦN 1 (8 ĐIỂM):

1. Đoạn văn trên trích trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí. (0,25 điểm)

Tác giả là Ngô gia văn phái. (0,25 điểm)

Cách chấm:

 Học sinh trả lời đúng: chấm theo biểu điểm trên.
 Nếu học sinh trả lời: Hoàng Lê nhất thống chí – Hồi thứ 14 hoặc Hồi thứ 14: 00
điểm.
 Nếu học sinh trả lời hai tác giả chính: Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du vẫn chấm 0,25
điểm.

2. Nhân vật nói lời ấy là Quang Trung – Nguyễn Huệ (0,25 điểm); ông nói với quân
lính của mình (0,25 điểm).

Nét đẹp của nhân vật qua đoạn trích ấy: (0,5 điểm)

 Tự hào về cương vực, lãnh thổ;


 Tự hào về truyền thống lịch sử chống giặc ngoại xâm; (0,25 điểm)
 Lòng căm thù giặc.
→ Nhân vật Quang Trung – linh hồn của chiến công vĩ đại của dân tộc – có lòng yêu
nước nồng nàn. (0,25 điểm)

Cách chấm:

Học sinh trả lời đúng: chấm theo biểu điểm trên.

 Nếu học sinh chỉ trả lời: Hoặc Quang Trung hoặc Nguyễn Huệ vẫn chấm 0,25
điểm.
 Nếu học sinh trả lời: ông nói với tướng lĩnh hoặc quân sĩ (của mình) vẫn chấm
0,25 điểm.
 Nếu học sinh trả lời thiếu một nét đẹp của nhân vật vẫn chấm 0,25 điểm.

3. Ý nghĩa của câu in đậm trên: Khẳng định về cương vực lãnh thổ (0,25 điểm), niềm
tự hào về quyền tự chủ của đất nước. (0,25 điểm) [học sinh có thể diễn đạt cách khác,
miễn đúng ý].

Nó gợi nhớ tới:

Sông núi nước Nam vua Nam ở


Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ. (0,25 điểm)

(Sông núi nước Nam – Lý Thường Kiệt) (0,25 điểm)

[Hoặc học sinh chép bài phiên âm:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư


Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

(Nam quốc sơn hà – Lý Thường Kiệt)]

Như nước Đại Việt ta từ trước


Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương… (0,25 điểm)

(Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi) (0,25 điểm)

Cách chấm:

 Học sinh trả lời đúng: chấm trọn điểm.


 Nếu học sinh trả lời Nước Đại Việt ta hoặc Nước đại Việt ta – Bình Ngô đại
cáo: 00 điểm
 Nếu học sinh viết sai từ 2 chữ trở lên ở mỗi phần chép thuộc lòng: 00 điểm

4. Những phép liên kết cơ bản trong đoạn trích trên:

Phép lặp từ ngữ: (0,5 điểm)


1. phương Bắc (câu 4) – phương Bắc (câu 2) – phương Bắc (câu 1)
2. nước ta (câu 3) – nước ta (câu 2)
3. chúng (câu 4) – chúng (câu 3)
 Phép thế: chúng (câu 4, câu 3) – người phương Bắc (câu 2) (0,5 điểm)

Cách chấm:

 Học sinh trả lời đúng: chấm trọn điểm.


 Nếu học sinh xác định 2 trong 3 phép lặp từ ngữ trên thì vẫn chấm 0,5 điểm.
 Nếu học sinh có chỉ ra từ ngữ liên kết mà không chỉ ra ở câu nào chấm 00
điểm.
 Nếu học sinh chỉ ra đúng từ ngữ liên kết nhưng câu liên kết không đúng trình
tự (ghi ngược) chấm 00 điểm.

[Ngoài 2 phép liên kết chính trên, nếu học sinh có xác định thêm phép liên kết khác
vẫn không chấm điểm]

5. Học sinh viết một văn bản ngắn (khoảng một trang giấy thi) trình bày suy nghĩ về
lòng yêu nước; cần đảm bảo các yêu cầu cụ thể sau:

 Viết đúng văn bản ngắn theo yêu cầu của đề bài: Khoảng một trang giấy thi.
 Nội dung cần đảm bảo những ý cơ bản sau:

a. Mở bài

 Lòng yêu nước rất thiêng liêng, sâu nặng trong mỗi con người.
 Lòng yêu nước là một biểu hiện đẹp của nhân cách con người.

b. Thân bài

 Lòng yêu nước là tình cảm gắn bó sâu nặng với quê hương đất nước – nơi mình
sinh ra và lớn lên.
 Những biểu hiện của lòng yêu nước trong đoạn văn:
1. Tự hào về cương vực, lãnh thổ;
2. Tự hào về truyền thống lịch sử chống giặc ngoại xâm;
3. Lòng căm thù giặc.
 Suy nghĩ của bản thân về lòng yêu nước:
1. Tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh đẹp đất nước;
2. Yêu làng quê, yêu con người mộc mạc, giản dị của quê hương;
3. Lòng căm thù giặc xâm lược tàn phá quê hương;
4. Sẵn sàng xả thân cho dân tộc;
5. Học tập, rèn luyện để mai này góp phần làm giàu cho đất nước;
6. Trong tình hình Biển Đông hiện nay, tuổi trẻ học đường phải tuyên truyền ý thức
và có những hành động thiết thực góp phần bảo vệ biển đảo quê hương;
7. Chứng minh bằng những dẫn chứng trong lịch sử và đời sống xã hội:
1. Những tấm gương hi sinh tuổi trẻ, mạng sống cho quê hương (anh hùng liệt sĩ,
chiến sĩ..)
2. Tuổi trẻ học tập, rèn luyện làm giàu đẹp đất nước.
8. Tình yêu quê hương đất nước nuôi dưỡng tâm hồn, là chỗ dựa tinh thần, là động
lực sống, lao động, cống hiến…

c. Kết bài

 Lòng yêu nước là một tình cảm vốn có của mỗi con người; nó còn được bồi
đắp qua những tác phẩm văn học, qua các giờ học lịch sử…
 Lòng yêu nước là động lực phấn đấu học tập, cống hiến: “Đừng hỏi Tổ quốc đã
làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay…”

Biểu điểm cụ thể cho câu 5 trong phần I:

 Điểm 3,5 - 4: Đạt được các yêu cầu trên, lý lẽ vững chắc, lập luận thuyết phục,
văn viết mạch lạc; bố cục đủ ba phần; phải có trình bày hiểu biết về lòng yêu
nước được biểu hiện trong đoạn văn; không sai những lỗi diễn đạt thông
thường.
 Điểm 2,5 - 3:
1. Đạt quá nửa yêu cầu về nội dung; bố cục đủ 3 phần; còn một số lỗi về diễn đạt.
2. Bài văn ngắn không đảm bảo về dung lượng (viết ngắn hơn nửa trang giấy thi hoặc
dài hơn 1 trang giấy thi).
 Điểm 0,5 - 2: Đạt được một nửa yêu cầu về nội dung; sai nhiều lỗi về hình thức
hoặc chỉ viết một đoạn văn.
 Điểm 00: Lạc đề, sai cả nội dung và phương pháp hoặc không thực hiện.

PHẦN II (12 ĐIỂM):

II.1) YÊU CẦU CHUNG

1) Kiểu bài: Nghị luận về tác phẩm thơ

2) Phương pháp, kĩ năng

 Biết sử dụng phép phân tích, tổng hợp để nêu được nét đẹp chung của hai tác
phẩm thơ: Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải và bài thơ Sang thu của Hữu
Thỉnh – tình yêu thiên nhiên.
 Có năng lực cảm thụ văn học tốt.
 Nắm vững và sử dụng nhuần nhuyễn phương pháp tạo lập một văn bản nghị
luận văn học.
 Hướng dẫn chấm chỉ nêu một số nội dung cơ bản. Cần vận dụng linh hoạt
hướng dẫn chấm.
 Tránh đếm ý cho điểm. Chấp nhận các cách trình bày khác nhau, kể cả không
có trong hướng dẫn chấm, miễn là hợp lí và có sức thuyết phục.
 Cần chú ý cho điểm đối với những bài viết có cách viết sáng tạo, cách thể hiện
riêng độc đáo cũng như đưa các tác phẩm văn học khác vào nhưng vẫn đảm
bảo yêu cầu về kiến thức, kĩ năng.

II.2) YÊU CẦU VỀ NỘI DUNG

1. MỞ BÀI

 Tình yêu thiên nhiên là một trong những nội dung nổi bật của văn học Việt
Nam.
 Các nhà thơ Việt Nam hiện đại đã góp vào đề tài này bằng những nét riêng độc
đáo. Người đọc sẽ cảm nhận tình yêu thiên nhiên tha thiết của hai thi nhân:
Thanh Hải qua Mùa xuân nho nhỏ, Hữu Thỉnh qua Sang thu.

2. THÂN BÀI

a) Tình yêu thiên nhiên của thi nhân qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ: Tình yêu thiên
nhiên – thiên nhiên mùa xuân xứ Huế của nhà thơ thể hiện thật tinh tế.

 Nghệ thuật phối sắc thể hiện cái đẹp hài hòa của thiên nhiên: bông hoa tím
biếc, dòng sông xanh.
 Biện pháp đổi trật tự cú pháp trong câu thơ vắt dòng:

Mọc giữa dòng sông xanh


Một bông hoa tím biếc

đã nhấn mạnh sự vươn lên trỗi dậy của thiên nhiên khi mùa xuân về; đã vẽ nên một
sắc xuân riêng của thiên nhiên xứ Huế. Bông hoa tím biếc khiến bức tranh xuân trở
nên bình dị, thân thiết.

 Hai câu thơ kế tiếp đã mở rộng không gian nghệ thuật bức tranh xuân. Tín hiệu
xuân còn là tiếng hót vang trời của con chim chiền chiện:

Ơi con chim chiền chiện


Hót chi mà vang trời

 Thành phần gọi – đáp ơi đã nhân hóa con chim chim trở thành người bạn.
 Từ ngữ hót chi – từ ngữ địa phương tăng tính biểu cảm của câu thơ.
 Hai câu thơ 5, 6 trong khổ thơ xuất hiện bóng dáng nhân vật trữ tình trong bài
thơ:

Từng giọt long lanh rơi


Tôi đưa tay tôi hứng
 Từng giọt long lanh có nhiều cách hiểu:
1. giọt sương treo đầu ngọn cỏ;
2. giọt mưa xuân
3. giọt âm thanh tiếng chim
 Theo mạch cảm xúc, người đọc có thể nhận ra đây là âm thanh tiếng chim.
Phép tu từ ẩn dụ (chuyển đổi cảm giác) làm cho bức tranh xuân mang vẻ đẹp
thơ mộng, trữ tình với hành động đưa tay hứng âm thanh tiếng hót chim chiền
chiện của nhà thơ – nhân vật trữ tình trong bài thơ.

Sơ kết:

 Đoạn thơ đẹp như bức tranh – bức tranh có dòng sông, hoa cỏ, có chim hót, có
bầu trời, sương mai, có ánh xuân, có con người.
 Bức tranh có sắc xuân, tình xuân và có cả khúc nhạc xuân đã thể hiện tình yêu
thiên nhiên – thiên nhiên mùa xuân của thi nhân!

b) Tình yêu thiên nhiên của thi nhân qua bài thơ Sang thu: Đọc Sang thu của Hữu
Thỉnh, thêm một lần ta được thưởng thức vẻ đẹp của sự cảm nhận tinh tế, những rung
động của một tâm hồn nhạy cảm nghệ sĩ lúc thu sang.

 Sự độc đáo bắt đầu bằng hương ổi – hương thu:

Bỗng nhận ra hương ổi


Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

1. Hai chữ phả vào vừa gợi ra cái bất chợt trong cảm nhận, vừa gợi ra một cách thực
thể cái hương thơm của ổi, lại vừa gợi ra sự vận động nhẹ nhàng của gió.
2. Từ láy chùng chình đã nhân hóa sương gợi ra sự lay động của cây lá, vẻ tư lự của
lòng người, cái man mác của không gian chớm thu.
3. Thành phần biệt lập – thành phần tình thái hình như thể hiện một chút nghi hoặc,
một chút bâng khuâng, có cái gì đó không thật rõ ràng của bước chân mùa thu dù
tín hiệu thu sang đã rõ.
 Cảm xúc của thời điểm chuyển giao tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa
hơn, rộng hơn:

Sông được lúc dềnh dàng


Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

1. Từ láy dềnh dàng đã nhân hóa sông dòng sông không còn chảy cuồn cuộn, gấp gáp
như trong những ngày mưa lũ mùa hạ nữa mà trở nên chậm chạp, thong thả.
2. Đối lập với sự dềnh dàng của dòng sông là sự vội vã của những cánh chim bay
«Chim bắt đầu vội vã». Từ láy vội vã đã nhân hóa những cánh chim – những cánh
chim đang chuẩn bị bay về phương Nam để tránh rét.
3. Sự đối lập này đã gợi lên sự vận động của sự vật trong giây phút giao mùa.
 Đẹp nhất, giàu sức biểu cảm nhất là hình ảnh thơ:

Có đám mây mùa hạ


Vắt nửa mình sang thu

 Phép nhân hóa được sử dụng trong câu thơ tạo nên sự bất ngờ thú vị, tinh tế
Áng mây bâng khuâng là hình ảnh thực nhưng cái ranh giới mùa là hư - sản
phẩm của trí tưởng tượng nhà thơ.
 Đám mây đang trôi trên bầu trời một nửa là hạ một nửa là thu để rồi một lúc
nào đó nó bỗng ngỡ ngàng nhận ra mình đang trôi trong một bầu trời thu trọn
vẹn.

Sơ kết:

 Hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm, thể thơ năm chữ
vắt dòng tạo ra những liên tưởng thú vị đã thể hiện một cách đặc sắc những xúc
cảm tinh tế trước bước chuyển giao của mùa; đã diễn tả cụ thể, tinh tế, nhạy
cảm tình yêu thiên nhiên tha thiết của Hữu Thỉnh.
 Cách cảm nhận và miêu tả của tác giả: tinh tế, nhạy cảm, sự liên tưởng độc đáo.
Nhà thơ làm cho mùa thu trong thơ ca Việt Nam mang một hương sắc mới.

c). Đánh giá chung:

c.1) Điểm chung:

 Cả hai thi nhân đều yêu thiên nhiên.


 Tình yêu thiên nhiên của hai nhà thơ đều nhẹ nhàng, tinh tế nên cảnh sắc thiên
nhiên trong hai bài thơ không bị hòa lẫn vào cảnh sắc thiên nhiên của các bài
thơ khác.

c.2) Điểm riêng:

 Mùa xuân nho nhỏ:


1. Đổi trật tự cú pháp, ẩn dụ;
2. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế;
3. Xúc cảm của thi nhân nghiêng về hình ảnh đầy sắc xuân đẹp đẽ của thiên nhiên,
đất trời – thể hiện tình yêu tha thiết với cuộc sống.
 Sang thu:
1. Hình ảnh đặc trưng, giàu sức biểu cảm; phép nhân hóa;
2. Cảnh vườn thu, ngõ xóm của đồng bằng Bắc bộ;
3. Xúc cảm của thi nhân nghiêng về cảm nhận giây phút nhẹ nhàng – tình cảm gắn bó
tha thiết với quê hương.

3. KẾT BÀI
 Tình yêu thiên nhiên – mùa xuân, mùa thu của hai thi nhân thật thiết tha đã bồi
đắp thêm cảm xúc, tình cảm yêu mến thiên nhiên cho mỗi người đọc.
 Hai bài thơ: Mùa xuân nho nhỏ, Sang thu cùng với hai hồn thơ – Thanh Hải,
Hữu Thỉnh – đã làm đẹp những trang thơ – thơ hiện đại Việt Nam.

C. CÁCH CHẤM ĐIỂM:

 Điểm 11,5 – 12: Đáp ứng được yêu cầu chung (kiểu bài, phương pháp, kĩ năng)
và yêu cầu về kiến thức; bài viết sử dụng tốt phương pháp phân tích tổng hợp;
phân tích sâu sắc làm nổi bật vấn đề; dẫn chứng tiêu biểu, phù hợp; diễn đạt
trôi chảy, mạch lạc; không sai lỗi chính tả, lỗi diễn đạt (dùng từ, đặt câu, liên
kết,…); học sinh khai thác đủ hai tác phẩm thơ trên.
 Điểm 10 – 11: Đáp ứng được yêu cầu chung (kiểu bài, phương pháp, kĩ năng)
và yêu cầu về kiến thức; bài viết sử dụng được phương pháp phân tích tổng
hợp; có phân tích làm rõ vấn đề, dẫn chứng tiêu biểu, phù hợp; diễn đạt trôi
chảy, mạch lạc; không sai lỗi chính tả, lỗi diễn đạt (dùng từ, đặt câu, liên kết,
…); học sinh khai thác đủ hai tác phẩm thơ trên.
 Điểm 7 – 9,5: Đạt yêu cầu thang điểm 10 – 11 nhưng có thể thiếu một vài ý về
nội dung hoặc có dẫn chứng chưa làm nổi bật vấn đề; sai không quá 3 lỗi chính
tả hoặc lỗi diễn đạt.
 Điểm 4 – 6,5: Hiểu đề, đáp ứng ½ yêu cầu về nội dung hoặc hạn chế nhiều về
phương pháp; ý rời rạc, thiếu dẫn chứng; sai sót khá nhiều về lỗi chính tả và lỗi
diễn đạt. Hoặc học sinh phân tích hai bài thơ mà không có sự chọn lọc, khái
quát, tổng hợp để làm nổi bật vấn đề.
 Điểm 0,5 – 3,5: Bài viết sơ sài về nội dung; chưa nắm phương pháp; diễn đạt
yếu; sai sót nhiều về lỗi chính tả và lỗi diễn đạt…
 Điểm 00: Bài viết lạc đề hoàn toàn hoặc không làm bài.

GHI CHÚ CHUNG: Tổng điểm toàn bài thi không làm tròn số.

You might also like