You are on page 1of 18

ÔNG 6

“Ê-mi-ly, con đi cùng cha


Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi lạc…
-Đi đâu cha?
-Ra bờ sông Pô-tô-mác
-Xem gì cha?
Không con ơi, chỉ có lầu Ngũ Giác.
Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe
Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe
Đừng có hỏi cha nhiều con nhé!
Cha bế con đi, tối con về với mẹ…”
(Tố Hữu)
Người đàn ông tên Mo-ri-xơn ấy bế cô con gái nhỏ trên tay, nhằm thẳng hướng lầu
Năm Góc bước tới cùng vẻ mặt đăm chiêu. Đứa bé ấy vẫn hồn nhiên mà chẳng biết
rằng đó là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam khốc liệt đang diễn ra mà chính
người bố dũng cảm của cô bé quyết phản đối. Người bố ấy đã có thể đặt chiếc hôn
cuối cùng lên má cô con gái bé bỏng của mình trước khi tự thiêu, thế nhưng ông
Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của tác giả Nguyễn Quang Sáng chưa một
lần được âu yếm, ôm ấp đứa con vào lòng. Tác giả là một trong những cây bút sáng
tác nhiều truyện ngắn giá trị trong những năm kháng chiến, là cây đại thụ của văn
học Nam Bộ với các tác phẩm truyện ngắn nổi bật như: “Con chim vàng”, “Người
quê hương”, “Chiếc lược ngà”,… Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng,
những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp
trang văn Nguyễn Quang Sáng. Và nhân vật ông Sáu chính là sự thành công vang
dội, để lại cho độc giả bao ấn tượng mãi không phai. Suốt tám năm ròng rã vì lý
tưởng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà ông đành gác lại hạnh phúc của mình
ở sau. Bé Thu – con gái ông lạ lẫm và chẳng nhận đấy là cha mình. Là một người
cha, ông Sáu thông cảm cho cảm giác của con mình và luôn muốn bù đắp. Người
đàn ông mạnh mẽ, dũng cảm đến đâu cũng sẽ yếu lòng trước vợ con, lúc này đây
tình thương lớn dần, nếu không có chiến tranh thì có lẽ ông đã được bên cạnh con
mỗi ngày, nuôi dạy và chăm sóc nó lớn.
Cũng như bao người khác, ông Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường
chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu ở hậu phương. Sự xa cách càng làm
dâng lên trong ông nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi ông đi nó chưa đầy
một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng
ông sau tám năm xa cách. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi
“Sao không cho con bé lên cùng?’’. Không gặp được con ông đành ngắm con qua
ảnh vậy… Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng ông luôn giữ gìn
nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của ông thì
sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh và qua lời kể của bà
ngoại và mẹ. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu
cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu
từng giờ từng phút trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng
dài đằng đẳng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con ông Sáu nỗi nhớ nhung,
mong chờ, ông Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước gặp bố.
Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông được nghỉ phép. Ngày về thăm
con, trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người. Ông đang nghĩ tới đứa con, nghĩ
tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí
khiến ông không còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người bạn. Khi xuồng
vừa cập bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi cùng cũng rất
hiểu ông nên không hề trách, bởi đó giây phút vô cùng thiêng liêng và trọng đại
của ông Sáu, là giây phút người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm xiết lấy
mình, là bước trở về sau bao xa cách… Ông đã “xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội
vàng với những bước dài rồi dừng lại kêu to: Thu! Con”. Ông vừa bước vào vừa
khom người đưa tay đón chờ con… Ông không ghìm nổi xúc động…. Nhưng trái
ngược với dòng tình cảm nồng cháy của ông, bé Thu lạnh nhạt, sợ hãi quay đầu bỏ
chạy. Bé Thu không nhận ra ông, nó như một nhát dao cứa vào trái tim ông Sáu,
ông lắp bắp gọi con, vết thẹo ở má đỏ ửng lên, con bé vụt bỏ chạy, ông đau đớn
khôn cùng, “hai tay buông xuống như bị gãy”. Trông ông vô cùng đáng thương. Có
lẽ ông Sáu cũng hiểu phần nào phản ứng của bé Thu với mình, nhưng với thân
phận một người cha làm sao ông có thể không đau đớn, xót xa.
Mấy ngày ông Sáu ở nhà, ông chẳng dám đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con, ông
mong được nghe một tiếng “ba” của con bé nhưng tất cả đều không trọn vẹn. Ông
Sáu càng tỏ ra gần gũi con bao nhiêu thì con bé tỏ ra lạnh nhạt bấy nhiêu. Khi mẹ
bảo nó gọi ba vào ăn cơm thì con bé đã nói trổng: “Vô ăn cơm!”. Câu nói của con
bé như đánh vào tâm can anh, nhưng anh vẫn ngồi im giả vờ không nghe, chờ nó
gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế nhưng Thu vẫn bướng bỉnh không chịu gọi ba, đã vậy
còn bực dọc nói mấy câu “Cơm chín rồi!” và “Con kêu rồi mà người ta không
nghe”. Nó nhất định không chịu gọi ông là “ba”, không nhờ ông chắt nước nồi cơm
đang sôi, những lúc như vậy ông khổ tâm biết mấy, yêu con ông không nỡ mắng
mà chỉ “nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”. Nụ cười lúc này không phải là
vui mà có lẽ vì khổ tâm quá đến nỗi không khóc được, nên đành phải cười vậy
thôi. Dường như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những
tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên
ông Sáu không cầm nổi cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, ông gắp cho nó cái
trứng cá nhưng bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, ông đã
vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn
của ông. Tất cả cũng chỉ là do ông quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hết
cái trứng ra khỏi chén như một ngoài nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay
ông dồn nén và chất chứa trong lòng.
Hôm chia tay, nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông muốn ôm con, hôn con
nhưng “sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy” nên “chỉ đứng nhìn nó” với đôi mắt “trìu mến
lẫn buồn rầu”… Cho đến khi nó cất tiếng gọi Ba, ông xúc động đến phát khóc và
“không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con,một tay rút khăn
lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”. Mọi sự cố gắng của ông Sáu đã được
đền đáp. Giọt nước mắt của ông là giọt nước mắt của vui sướng, hạnh phúc. Và
không muốn cho con thấy mình khóc, ông Sáu một tay ôm con một tay rút khăn
lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con…Thế là con bé đã gọi ông bằng ba. Ai có thể
ngờ được một người lính đã dày đạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề
lại là người vô cùng mềm yểu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng mong
chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ ông có thể
ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi
ông, từng giây từng phút mong ông quay về.
Tình cảm của ông Sáu dành cho bé thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng
và cảm động hơn bao giờ hết là việc ông tự tay làm chiếc lược nhà cho con gái.
“Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa
con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Xa con, ông luôn nhớ con trong
nỗi day dứt, ân hận ám ảnh vì mình đã lỡ tay đánh con, vì vậy, bao tình cảm của
ông đều dồn hết vào việc chế tạo chiếc lược ngà, mong một ngày có thể trao tận tay
món quà này cho con. Kiếm được khúc ngà voi, ông hớn hở như đứa trẻ được quà:
“từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà
đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Rồi ông dồn hết
tâm trí và công sức vào việc làm cho con cây lược: “anh cưa từng chiếc răng lược,
thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc”. Trên sống lưng lược, ông đã
gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông gửi vào
đó tất cả tình yêu và nỗi nhớ. Nhớ con “anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên
tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”. Ông không muốn con ông đau khi chải
lược. Yêu con, ông Sáu yêu đến từng sợi tóc của con. Chiếc lược trở thành vật
thiêng liêng đối với ông Sáu, nó làm dịu đi nỗi ân hận, nó chứa đựng bao tình cảm
yêu mến, nhớ thương, mong ngóng của người cha với đứa con xa cách. Cây lược
ngà chính là sự kết tinh của tình phụ tử thiêng liêng. Nhưng trớ trêu thay, khi
không thể đợi đến ngày về, ông Sáu đã hi sinh trong trận càn lớn của quân Mĩ –
Ngụy khi chưa kịp trao cây lược cho con gái. “Trong giờ phút cuối cùng, không
còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết
được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc
cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó
thiêng liêng hơn cả những lời di chức. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng,
ước nguyện của tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây lược của tình phụ tử
đã biến người đồng đội của ông Sáu thành một người cha thứ hai của bé Thu.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm
thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến
tranh. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí. Cốt
truyện được xây dựng khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Truyện
được kể theo ngôi thứ nhất, đặt vào nhân vật bác Ba, người bạn chiến đấu của ông
Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện. Với ngôi kể này, người
kể chuyện xen vào những lời bình luận, suy nghĩ, bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với
nhân vật ông Sáu hơn hết. Từng câu cảm thán tha thiết, từng dòng chảy trôi tâm sự,
trải lòng như vết dao cứa vào vết thương cứ thế rỉ máu. Thứ tình cảm thiêng liêng,
tình cha con mãi chẳng thế bù đắp. Chiến tranh qua đi để lại bao mất mát khôn tả,
thứ cướp đi người chồng của vợ, người ch của con và người chiến sĩ của Tổ quốc.
Nguyễn Quang Sáng là một trong những cây đại thụ sáng tác nhiều truyện ngắn giá
trị trong những năm kháng chiến. Ông sở hữu cho chính mình kho tàng những tặng
phẩm mang dấu ấn Nam Bộ. Qua nhân vật ông Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược
ngà”, người đọc không chỉ cảm nhận tình yêu con tha thiết sâu nặng của người cha
chiến sĩ mà còn thấm thía bao đau thương mất mát đối với những em bé, những gia
đình. Tình yêu thương con của ông Sáu còn như một lời khẳng định: Bom đạn của
kẻ thù chỉ có thể hủy diệt được sự sống của con người, còn tình cảm của con người
– tình phụ tử thiêng liêng thì không bom đạn nào có thể giết chết được. Sự băng
hoại khốc liệt của thời gian cũng chẳng thể nào xóa nhòa “thước phim tua ngược”
mang tên “chiếc lược ngà” ấy. Đó là nơi chúng ta luôn cảm nhận được những điều
ấm áp từ trái tim đến với trái tim và cả thứ tình cảm gia đình thiêng liêng. Chẳng
những thế, bao mất mát đau thương từ chiến tranh cũng là để chúng ta biết ơn,
động lực biết phấn đấu vì tương lai nước nhà mà không quên rằng họ đã “đổ máu”
đổi lấy sự bình yên này.

BÉ THU

Benjamin Franklin từng cho rằng: “Chiến tranh không được trả giá trong thời
chiến, hóa đơn sẽ đến sau đó.” Cái giá của chiến tranh không chỉ đắt đỏ và dã man
khi nó xảy ra, mà hậu quả của nó là vết thương rỉ máu hàng thập kỉ sau đó nữa. Và
có lẽ một trong những nhân vật khắc họa rõ nét vết thương, vết sẹo luôn bỏng rát
của chiến tranh là nhân vật bé Thu trong tác phẩm truyện ngắn “Chiếc lược ngà”
của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966.

Không lựa chọn chất liệu là sự kịch liệt, đẫm máu trên chiến trường miền Nam như
nhiều tác phẩm khác, Nguyễn Quang Sáng khai thác một khía cạnh khác của chiến
tranh, một nỗi niềm tang thương cá nhân khác của những người nơi hậu phương,
chưa một lần được trọn vẹn bên người cha, người chồng hay người con của mình.
Bé Thu là nhân vật đại diện cho sự mất mát, thiếu thốn ấy. Khi bé Thu chỉ vừa mới
một tuổi, ba em – ông Sáu đã phải đi kháng chiếc và xa nhà. Đây là hoàn cảnh
chung của hầu hết gia đình Việt Nam trong cuộc kháng chiến, có lẽ họ không chỉ
tiễn người thân mình đi một hai lần mà là rất nhiều lần, từ người nọ đến người kia.
Dù vậy, già trẻ gái trai, mặc kệ, họ đều quyết tâm ra đi để tìm được cống hiến cho
tổ quốc thân thương, như Tố Hữu đã từng ca ngợi tinh thần ấy:

“Lớp cha trước lớp con sau


Đã thành đồng chí chung câu quân hành”

Ròng rã tám năm, không đủ để đứa con quên đi người ba của mình, nhưng đủ để
chiến tranh tàn phá hình dáng một con người. Ông Sáu trở về thăm gia đình, nhưng
gương mặt ông giờ đây đã nhiều theo một vết thẹo khiến bé Thu có những phản
ứng làm cho cả ông lẫn người đọc cảm thấy hụt hẫng, bất ngờ. Trước tiếng gọi đầy
thân thương mà gan ruột từ xa của ông Sáu “Thu! Con.” bé Thu “tròn mắt ngơ
ngác nhìn lạ lùng”. Chỉ một ánh mắt, một cử chỉ cũng đủ để thấy sự xa cách giữa
người và người, mà có lẽ ta phải dùng đến từ “người dưng” mà Nguyễn Duy đã
dùng trong “Ánh trăng”. Khi ông Sáu đưa tay về phía nó, nói liên tiếp: “Ba đây
con! Ba đây con!” thì nó lại có một phản ứng vô cùng quyết liệt “mặt nó bỗng tái
đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!” Từ đó tạo nên hai luồng tâm lý đối lập
nhau gay gắt giữa ông Sáu và bé Thu, một bên là sự vồ vập, cuống quýt của một
người ba vì đã ngóng chờ con bao lâu nay, còn một bên là sự đáp trả thờ ơ, lạnh
lùng, hoảng sợ của bé Thu, cốt bởi tình yêu dành cho người “ba” của nó quá to lớn.
Đây chính là khởi đầu éo le dẫn đến mâu thuẫn phức tạp giữa hai cha con.

Sự ương ngạnh, bướng bỉnh của bé Thu thể hiện rõ rệt trong 3 ngày nghỉ phép của
ông Sáu ở nhà. Mặc cho ông muốn lại gần con bé bao nhiêu, nó lại càng đẩy ông ra
xa, nhất quyết không chịu gọi ông là “ba”. Nó luôn tìm cách nói trổng hoặc gọi ông
là “người ta”. Thử thách lớn nhất là khi nó phải chắt nước ra khỏi nôi cơm to đang
sôi, nó “nhăn nhó”, “luýnh quýnh”, “loay hoay”, tâm lý bối rối của một đứa trẻ tám
tuổi hiện lên mồn một. Một là nó phải chịu khuất phục và gọi ông Sáu là “ba” để
được giúp đỡ, hai là nó phải tìm cách làm một mình, sẽ rất khó khăn và nguy hiểm.
Chao ôi, trên đời làm gì có ai thích chọn những thứ trắc trở hơn những thứ đơn
giản, dễ dàng, trừ khi họ có thứ quý giá hơn cần phải bảo vệ, không thể đánh đỏi.
Và với bé Thu, một cô bé mới tám tuổi, tiếng “ba” nó cất giữ trân trọng ấy là điều
đắt giá nó không thể tùy tiện gọi một người lạ chỉ đột nhiên xuất hiện trong đời nó.
Nó càng yêu “người ba” của nó bấy nhiêu, thì nó càng ngang ngược, lạnh nhạt với
người ba thực sự đang ở trước nó bấy nhiêu. Vì yêu, vì kính trọng nên càng không
thể đem ra để đối lấy sự giúp đỡ. Nó phải giữ gìn tiếng gọi thiêng liêng ấy cho
người ba thực sự mà nó được biết tới. Dù biết sẽ nguy hiểm, sẽ khó khăn, nó vẫn
dùng cái vá để múc từng vá nước ra ngoài. Sự kiên quyết, thông minh của nó cũng
khiến bác Ba, ông Sáu và cả người đọc đôi phần ngỡ ngàng.

Không chỉ không muốn trao cho ông Sáu tiếng gọi “ba” mà nó còn một mực cứng
rắn, không tiếp nhận tình cảm ông dành cho nó. Trong bữa cơm cuối cùng với ông
Sáu, bữa cơm mà nó có lẽ sẽ hối hận suốt đời, ông Sáu âu yếm thể hiện tình cảm
của mình bằng cách “gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén nó”. Nó đã phản
ứng mạnh mẽ có phần thái quá, nó lấy cái đũa hết cái trứng ra khỏi chén làm cơm
văng tung tóe cả mâm. Hành động ấy như thách thức giới hạn của ông Sáu – người
vốn vì thương con nên đã rất bao dung, nhẫn nại và cả người đọc. Nhưng nếu đã
đọc hết tác phẩm và thực sự đặt mình vào vị trí của một cô bé tám tuổi, ta mới có
thể mở lòng và cảm thông được cho hành động này. Cách biểu hiện tình cảm và
bảo vệ với hình tượng người cha trong lòng của bé Thu chỉ thật bộc trực, trực tiếp,
thậm chí là hồn nhiên đến mức đáng giận của cô bé. Đối với cô bé, sự xuất hiện
của ông Sáu như đang đe dọa đến hình tượng của người ba trong bức ảnh mà cô bé
vẫn luôn ấp ủ trong lòng bấy lâu, một đứa trẻ tám tuổi sao có thể kịp thích nghi với
những thay đổi bất thường lớn như thế trong cuộc đời chúng? Càng giữ khoảng
cách với ông Sáu tức là càng giữ được nguyên vẹn hình ảnh người cha trong tâm
trí nó, và đó cũng là cách duy nhất. Sự cương quyết, dữ dội kia thực chất chỉ là
hình hài khác của một tình yêu cha vô cùng mãnh liệt.

Sự bướng bỉnh, gai góc ấy còn ươm mầm cho phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ của
cô giao liên trong tương lai. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã lột tả rõ nét chân
dung của một cô bé tám tuổi có cách thể hiện tình cảm thiêng liêng, chân thành
dành cho ba mình một cách vô cùng đặc biệt, độc đáo. Ở bé Thu, người ta nhìn
thấy bóng dáng của Việt trong “Những đứa trẻ trong gia đình” hay Tnú trong
“Rừng Xà Nu”. Nó tạo nên một vẻ đẹp kiên cường, gan góc của thế hệ trẻ Việt
Nam trong kháng chiến, cái vẻ đẹp “đừng đốt. Bản thân nó đã có lửa rồi!” mà
Đặng Thùy Trâm đã viết trong nhật ký của mình: “Ước mơ bây giờ là đánh thắng
giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước. Mình cũng như những thanh niên khác đã
lên đường ra tiền tuyến và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi đạn nổ Tuổi trẻ của
mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, máu xương của những người đang sống và
những người đã chết. Tuổi trẻ của mình đã cứng cáp trong thử thách gian lao của
chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng rực vì ngọn lửa căm thù đang ngày
đêm hun đốt. Và gì nữa, phải chăng mùa xuân của tuổi trẻ cũng vẫn thắm đượm
thêm vì màu sắc của mơ ước và yêu thương vẫn ánh lên trong những đôi mắt nhìn
mình.” Hay như khi nhà thơ Nam Hà cũng đã viết “Chúng con chiến đấu cho
người sống mãi Việt Nam ơi”:

“Đất Nước
Của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng cứng như sắt thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt”

Người đọc chỉ thực sự thấm thía tình cảm ẩn sau sự xù xì của bé Thu dành cho ba
khi nó được bà giải thích về sự thay đổi của ba mình do chiến tranh. Vết thẹo đã
khiến bé Thu không thể nhận ra người ba trên tấm ảnh chính là ông Sáu. Chi tiết
vết thẹo cũng mang tính mấu chốt như chi tiết chiếc bóng trong tác phẩm “Chuyện
người con gái Nam Xương” của nhà văn Nguyễn Dữ. Vì vết thẹo mà nó không
nhận ra người ba đáng kính mà nó hằng khao khát được đoàn tụ. Đêm hôm ấy, cái
đêm được nghe bà gỡ rối, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như
người lớn”. Tình cảm trong nó dành cho ông Sáu được nhen lên mạnh mẽ, nó cũng
biết ăn năn, day dứt, hỗn loạn trong đó là tình yêu to lớn nó dành cho ba và sự
ngưỡng mộ.

Sáng hôm sau, lẫn lộn với niềm vui nhận ra ba là sự tủi thân dâng trào cùng nỗi
buồn xa xôi của nó trong ngày ông Sáu phải trở về chiến trường. Bởi những phản
ứng quyết liệt trước đây mà giờ đây nó ngại ngần, xấu hổ, chỉ dám đứng tựa cửa
nhìn mọi người vây xung quanh ba nó. Mọi thứ nhanh và dào dạt đến độ nó chưa
kịp cảm thấy tiếc nuối vì đã bỏ lỡ khoảng thời gian vốn đã ngắn ngủi với ba nó thì
còn lại đã chỉ là một mảnh hỗn loạn bị bác Ba bắt gặp qua đôi mắt của nó: “Tôi
thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao.” Từ “xôn xao” vốn là từ tượng
thanh nay được nhà văn tinh tế dùng để miêu tả khoảng không gian bất tận trong
đôi mắt của bé Thu. Nó bao la, lạc lõng và lẻ loi kì lạ so với một đứa trẻ mới chỉ
tám tuổi. Có lẽ đó là nỗi niềm nó tích tụ trong tám năm thiếu vắng hình bóng người
cha mà mình con bé không tài nào che giấu nổi nữa. Thế nên nó vỡ òa.

Tiếng gọi “ba” xé toạc thinh không, xé toạc cả những ngăn cách ngại ngùng, xấu
hổ mà con bé ngần ngừ trước đó. Tiếng gọi ấy tưởng chừng rất quen thuộc, gần
gũi, có khi là lời nói đầu tiên của con người trong cuộc đời. Vậy nhưng với bé Thu
nó lại là âm thanh đã phải dồn nén bao lâu nay, chứa chan biết bao nhớ nhung
mong đợi dồn cả vào tiếng “ba” ấy. Nhưng cũng chính vì thế mà tiếng gọi “ba” ấy
trở nên thiêng liêng và đong đầy cảm xúc hơn bao giờ hết. “Nó nhanh như một con
sóc chạy tót lên và dang 2 tay ôm cổ ba nó. Nó vừa ôm vừa nói trong tiếng khóc:

– Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”

Rồi nó hôn ba nó: hôn tóc, hôn vai, hôn cả lên vết thẹo dài. Vết thẹo từng là thứ
chia cắt cha con nó, giờ lại là thứ nó tự hào nhất, thứ hiện thân cho sự dũng cảm và
can trường của cha nó, như một huy chương cho tấm lòng nhiệt thành đã xả thân vì
tổ quốc mà nó sẽ trân trọng, kiêu hãnh hết đời này. Con bé vội vàng, vồ vập như
vậy vì muốn được cảm nhận tình cảm của cha co bằng hết trước khi ông Sáu lại
phải đi xa, chẳng biết bao giờ mới quay trở lại. Cách bộc lộ tình cảm có phần tham
lam này đã thể hiện rõ tấm lòng muốn bù đắp lại sự lạnh nhạt trong những ngày
qua của nó mà còn xuất phát từ nỗi sợ sệt sẽ còn rất lâu nữa, thậm chí là lần cuối
bé Thu được gặp ông Sáu. Những cái hẹn trở về không rõ ngày nhưng người ta vẫn
nguyện chờ mong, hi vọng vì đó là cách duy nhất thắp lên ánh sáng và chỉ có thế
ngày hẹn ấy mới thành hiện thực. Nó chợt khiến ta nhớ lại cảnh đoàn tụ xúc động
của bé Hồng với mẹ mình trong văn bản “Trong lòng mẹ”. Sau cuộc chia tay ấy,
đáng trân trọng hơn cả là khi bé Thu đã noi gương theo người cha đáng kính, trở
thành người chiến sĩ quả cảm viết tiếp những trang sử vẻ vang, vàng son của Việt
Nam. Sự kế thừa ấy đã được đã được Hoàng Trung Thông kết tinh thành những
câu thơ:

“Ta lại viết bài thơ trên báng súng


Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.”

Giây phút chia tay trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của hai cha con ông Sáu và bé
Thu tuy ngắn ngủi nhưng đã phản ánh được tư tưởng nhân văn sâu sắc của nhà văn
Nguyễn Quang Sáng, cũng như cách nhà thơ Trần Đăng Khoa nhắc đến ông là
hoàn toàn đúng đắn: “Đọc Nguyễn Quang Sáng, không hiểu sao, tôi cứ hình dung
nhà văn có nét gì đó của một người nông dân Nam Bộ ngang tàng, coi những
chuyện nguy hiểm chết người cũng bông phèng như trò chơi con trẻ, có thể chống
xuồng lao ve vé giữa lúc bom đạn đang vây bủa mù mịt, cũng có thể ngồi thì lì
trong một cái quán rượu tạm bợ, dựng tồng tềnh bên vệ cỏ, ngoảnh ra phía sông
nước mà nhậu lai rai, nhậu tối ngày. Con người ấy hình như vừa đơn giản, lại vừa
phức tạp đến bí hiểm. Hình như đó là một phần của thiên nhiên Nam Bộ, do thiên
nhiên chắt ra, bởi thế có lúc hồn nhiên như cỏ dại, có lúc ương ngạnh như vách
đá.” Bằng chất văn mộc mạc, thân thương, chân thực, ông đã “chạm tới những
rung động vi nhiệm của tình yêu” và hơn hết, ông vẽ bức tranh về chiến tranh
không phải bằng máu của những người lính ngã xuống mà bằng nước mắt của
những người còn ở lại. Hình ảnh nhân vật bé Thu của ông như gói gọn cả quá khứ,
hiện tại và thậm chí là tương lai của đất nước. Dù chiến tranh tàn phá rất nhiều thứ
nhưng nó vĩnh viễn không thể tàn phá được trái tim con người.
Tình cha con

Đại văn hào Andersen từng nói: “ Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính
cuộc sống vẽ nên.” Dù hiện thực đau khổ đến đâu, vẫn le lói những ánh sáng trong
trẻo, ấm áp đong đầy. Đó là thứ ánh sáng diệu kỳ từ “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu
tâm hồn con người” mà các nhà văn luôn mải miết đi tìm. Và Nguyễn Quang Sáng
là một người đi tìm miệt mài như thế. Giữa tháng ngày gian khổ, tối tăm nhất của
kháng chiến chống Mỹ, ông vẫn thấy tia sáng xanh ngời từ tình cảm chân thành
trong những người dân, người lính. Để rồi, tất cả đã được nhà văn soi chiếu vào
tình cha con sâu nặng trong tác phẩm “Chiếc lược ngà”.
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn trưởng thành gắn liền với cả hai cuộc kháng chiến,
là một cây đại thụ của văn học cách mạng Việt Nam. Tác phẩm của ông như thâu
tóm được cả hồn cốt Nam Bộ, có cái hơi thở đồng bằng, phù sa dòng sông, cái
khoáng đạt giản đơn của người dân miền sông nước. Cùng với Cánh đồng hoang,
Mùa gió chướng,… “Chiếc lược ngà” cũng nằm trong mạch nguồn ấy. Được viết
năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
đang diễn ra ác liệt nhất, truyện ngắn tuy viết về chiến tranh nhưng lại tập trung
làm nổi bật tình phụ tử thiêng liêng cao quý. Tựa như câu chuyện cổ tích thời hiện
đại, tác phẩm đã làm rung động trái tim bạn đọc bao thế hệ bởi tình yêu thương con
thắm thiết bất diệt của Ông Sáu, tình yêu ba sâu nặng đầy kiêu hãnh của bé Thu…..
Tựa như mặt nước ngọt lành và trong veo đến lạ, văn chương luôn phản chiếu nội
tâm con người. Bởi thế mà lật giở từng trang sách “Chiếc lược ngà” ta như mở
từng cánh cửa, từng bước khám phá tình yêu thương da diết, chân thành dành cho
con sâu trong lòng một người cha, người lính.
Là một người con Nam Bộ, ông Sáu chẳng thể làm ngơ khi mảnh đất quê hương bị
lũ mọi rợ giày xéo. Nghe tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, ông lên đường cùng
dân tộc bước vào cuộc trường chinh. Hạnh phúc gia đình ông xếp lại ngăn nắp
trong tim, ông đi kháng chiến khi đứa con gái đâu lòng còn chưa đầy một tuổi. Nỗi
nhớ thương con, khao khát gặp con lúc nào cũng thường trực như con sóng cuộn
trào nơi tấm lòng người ba ấy. Không giây phút nào ông nguôi nhớ đến con, tình
yêu con trở thành động lực, sức mạnh tinh thần vô giá giúp ông thêm chắc tay súng
diệt sạch bóng thù để sớm có ngày đoàn tụ.
Và ước muốn cháy bỏng của ông cuối cùng cũng đã thành sự thực. Sau tám năm xa
cách ông có dịp về thăm nhà ba ngày. Trên đường trở về “cái tình người cha đã và
cứ nôn nao trong dạ”. Thế nên thuyền vừa vào đến, thấy đứa trẻ trạc độ lên chín
lên mười tóc ngắn ngang vai, mặc áo bông đỏ đang mải mê chơi nhà chòi dưới gốc
xoài ông đã đoán biết đấy là con mình. Phải chăng đó là sức mạnh diệu kỳ của tình
máu mủ? Phải chăng từng ngày nơi quân ngũ, người cha ấy đã luôn mường tượng
dáng hình của con, hằng khát khao ôm ấp, vỗ về. Cho nên linh cảm ruột thịt đó
mới chuẩn xác đến vậy. Nó bồn chồn xao động, nó day diết khôn nguôi, nó như
những tế bào hồng cầu trong từng tơ máu, máu còn chảy, tim còn đập thì lòng
người không thể nào nguôi ngoai. Và nó làm lý trí trở thành công cụ của con tim.
Không thể chờ xuồng cập bến, ông nhón chân nhảy thót lên bờ vội vàng với những
bước dài,vừa đi vừa kêu to “thu,con”! Những bước chân như chiếc bản lề cửa, tạm
khép lại cuộc đời “người lính” để mở ra cơ hội làm trọn một “người cha” cho ông
Sáu. Với ông, chờ đợi thêm một phút một giây nào nữa thôi, có lẽ cũng đủ bóp
nghẹt trái tim. từ nôn nao tâm trạng ông Sáu đã chuyển sang nôn nóng. Có lẽ bởi:
“Có hai điều không thể bỏ lỡ trong cuộc sống, đó là chuyến xe cuối cùng về nhà và
người ta yêu thật lòng” (Nguyễn Nhật Ánh). Đây là lần trở về đầu tiên sau tám năm
xa cách và cũng có thể là sau cuối của ông, là cơ hội hiếm hoi để ôm con vào lòng,
sống trong tình cha con ấm áp mà ông chưa từng được hưởng. Vậy mà mọi chuyện
diễn ra thật éo le. Trong khi ông vừa bước tới vừa dang tay đón chờ thì con bé lại ”
giật mình tròn mắt nhìn” , cái nhìn vừa lạ lùng vừa ngơ ngác. Không ghìm nổi xúc
động, vết thẹo trên má ông đỏ ửng lên, hai tay vẫn đưa về phía trước “ba đây con,
ba đây con”. Người đọc cảm nhận trong giọng nói “lặp bặp run run” ấy, là cả tiếng
lòng, cả tâm hồn người cha đang reo lên vì hạnh phúc. Một hạnh phúc vô bờ khi
hội ngộ khiến người đàn ông từng vào sinh ra tử chợt nghẹn ngào khôn xiết, tưởng
như tất cả là một giấc mơ và chỉ có thể cất tiếng “run run” , khẽ khàng để không
thức dậy. Song, với một đứa trẻ chỉ mới tám tuổi, tất cả lại trở thành sự vồ vập thái
quá, nôn nóng thái quá,đặc biệt khi vết thẹo trên má ông đỏ ửng lên,dần dật trông
rất dễ sợ càng làm con bé nghi ngại. Nó mặt tái đi,vụt chạy , vừa chạy vừa kêu thét
“má má”. Phản ứng sợ hãi của bé thu khiến ông Sáu đau đớn hụt hẫng. “Đau đớn
khiến mặt anh sầm lại, hai tay buông thõng như bị gãy” ở đây nỗi đau tinh thần
được cảm nhận bằng nỗi đau thể xác. Thì ra có một nỗi đau chẳng kém gì súng mìn
đạn dược, thì ra sự quay lưng từ chính người thân yêu ruột thịt có thể kéo người ta
từ bầu trời hạnh phúc, hi vọng xuống thung lũng đau thương như vậy. Đôi tay dang
rộng để chào đón con nhưng nhận lại chỉ là một khoảng trống. Một khoảng trống
vô hình mà lại trĩu nặng ngàn cân, làm cánh tay từng gánh vác bao đầu súng, tiêu
diệt kẻ thù giờ đây mất hết sức lực và đôi chân từng vượt mọi hang sâu hốc đổ
cheo leo chỉ có thể “đứng sững lại”. Phải chăng vì cả cõi lòng người cha ấy đã bị
vùi trong thất vọng ập đến quá đỗi bất ngờ? Ngược lại với những mong đợi của
ông, ngược lại với khung cảnh thường thấy của những cuộc đoàn viên, hành động
bỏ chạy đi của bé Thu còn khiến người cha ấy tan vỡ hơn cả một cuộc chia ly.
Nhưng tình phụ tử sâu nặng nào dễ lụi tàn, ông Sáu vẫn kiên trì dùng tấm lòng
chân thành của mình làm chất củi, đốt lên ngọn lửa yêu thương ấm áp để truyền
đến,sưởi ấm cho con. Hai ngày ở nhà ông chả dám đi đâu xa chỉ quanh quẩn dỗ
dành con. nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Mặc kệ những lời nói cử chỉ vỗ về làm
thân bé Thu vẫn một mực tỏ ra thờ ơ lạnh lùng. Ông càng xích lại con bé lại càng
lùi xa, ông càng yêu thương con bé lại càng lảng tránh. Ông thèm ước được nghe
một tiếng “ba” nhưng gọi ông vào ăn cơm con bé cũng nói cộc lốc, phải chắt nước
nồi cơm đang sôi nó cũng nhất quyết ko chịu nhờ ông. Bao tiếng đạn nổ bom rơi
khốc liệt, ám ảnh người chiến sĩ ấy gắng vượt qua chỉ mong ngày trở về đổi lấy
tiếng “ba” từ đứa con thân yêu nhất. Nhưng giờ đây, con gọi cha là “người ta”,
chẳng hơn chẳng kém gì người dưng nước lã! Cách cư xử ấy, thái độ ấy của bé
Thu, hẳn là đã cứa sâu vào lòng ông Sáu , để lại vết xước lớn, nhức nhói hơn cả vết
thẹo trên gương mặt. Khổ tâm hết sức, song ông chỉ biết lắc đầu khe khẽ cười. Quả
thực: “Có lẽ vì khổ tâm đến mức không khóc được nên đành phải cười vậy thôi.”
Tiếng cười nhưng lại mang thanh âm tiếng khóc, lại là giọt nước mắt dồn nén, theo
đường chảy ngược vào trong. Phải chăng đúng như Nguyễn Ngọc Tư từng chiêm
nghiệm: “ Nước mắt chảy từ con mắt là thứ thường thôi, có thứ nước mắt không
chảy ra kiểu như vậy.” Đó mới là đau đớn tận cùng, gắng gượng dùng nụ cười trên
môi che đậy vết nứt trong lòng. cũng từng vì thương con mà Lão Hạc “cười như
mếu”, bà cụ Tứ qua ngòi bút Kim Lân cố “tươi cười, đon đả”, không dám để con
nhìn thấy bà khóc”. Nhưng khi khổ tâm chất chồng, cuối cùng sẽ đến lúc không thể
kìm nén nổi. Trong bữa cơm trưa, có miếng trứng cá ngon, ông Sáu gắp vào bát
Thu nhưng con bé lại hất miếng trứng cá đi,như hắt hủi một cách phũ phàng nhất
tình cảm của cha. giọt nước tràn ly, vào phút giây tức giận ông vung tay đánh con
một cái. Nhưng đó đâu phải hành động bạo lực đáng lên án như người cha vũ phu,
đánh con mình trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, người cha
“dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống
cát…” Bởi trong lời trách mắng: “Sao mày cứng đầu quá vậy hả” ta còn thấy xen
lẫn trong cảm xúc tức giận không sao kìm nén đc là băn khoăn, thất vọng, đau khổ
rồi lực bất tòng tâm. Tất cả hiển hiện, sưng tấy trên trang viết, tất cả xé toạc thành
vết thương không thể khép miệng trong lòng người cha rất mực thương con nhưng
lại bị con kiên quyết chối từ. Ngọn lửa yêu thương mỗi lần bền bỉ thắp sáng lên lần
nữa lại tiếp tục bị dòng nước băng giá một mực vùi lấp. Cô bé nào hiểu cho những
nỗi niềm giấu kín đang dồn nén trong lòng cha,những nỗi niềm đang bắt buộc phải
được trút xuống, được thoát ra. Lúc này, Thu vẫn tỏ ra lì lợm “ngồi im, đầu cúi
gằm” sau đó lặng lẽ đứng dậy đi ra xuồng chèo một mạch sang nhà bà ngoại. Tác
giả không miêu tả tâm trạng của ông Sáu trước hành động quyết liệt cuối cùng này
nhưng chính khoảng lặng đó cũng đủ lắng sâu vào lòng độc giả, đọng lại một nỗi
lòng khắc khoải vì con. Yêu chiều không được, cứng rắn cũng không xong, ông
Sáu phải làm sao đây? Người cha, người lính trên trang viết Nguyễn Quang Sáng
tìm mọi cách làm đủ mọi điều để có được tình cảm từ con, đối lập với bậc sinh
thành của chị em Điền trong “ Cánh đồng bất tận” – 1 người cha đối với con “ơ
thờ, lạt lẽo, chuyện gì cần nói thì nói vài câu nhát gừng”, 1 người cha “ giống như
đồ vật bằng gốm vừa qua cơn lửa lớn, vẫn hình dáng ấy nhưng đã rạn nứt, nên
chúng tôi chỉ dám đứng xa mà nhìn, mủ mỉ nâng niu, nếu không thì vỡ mất.”
Đến lúc chia tay, tình phụ tử không chỉ là khoảng lặng nữa, mà thể hiện bằng một
nốt giáng trầm hơn qua “đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu” ông sáu nhìn con.Ông
muốn mà không dám đến ôm Thu, sợ nó giẫy lên bỏ chạy nên chỉ dám nhờ ánh
nhìn bộc bạch hộ tâm tư. Đôi mắt như mặt hồ, yên ả, dịu dàng ăm ắp tình thương
cho con; nhưng cũng mang nỗi buồn ko ngớt tựa những gợn sóng lăn tăn cứ nối
tiếp nhau trải mãi. Ba ngày quý giá sắp trôi qua mất rồi, chưa kịp nghe tiếng ba, đã
phải trở lại cùng tiếng súng… Trước lúc lên đường ông chỉ chào nhỏ với giọng
buồn buồn ” thôi ba đi nghe con”.ai cũng nghĩ Thu chỉ đứng nhìn như thế,nhưng
bất ngờ nó lại kêu lên một tiếng “ba” tức tưởi, vỡ òa. Ông Sáu trong giây phút
sững sờ một lần nữa không ghìm nổi xúc động . Người đàn ông bao phen xông pha
trận mạc ấy tay ôm con, tay lau nước mắt. Đến đây ta mới thực sự hiểu vì sao giọt
nước mắt là “giọt châu của loài người”, là miếng kính biến hình của vũ trụ” (Nam
Cao). Giọt nước mắt của ông Sáu rơi xuống, đã ngân vang sự bất ngờ đang reo lên
thánh thót, đã lấp lánh niềm hạnh phúc vô bờ của một người cha lần đầu được nghe
con gọi ba sau bao nhiêu mong mỏi. Giọt nước mắt đã gột rửa đi mọi buồn khổ để
nhường chỗ cho một niềm vui tươi sáng. Nhưng thực cảnh miền Nam thân yêu bấy
giờ vẫn còn rất tối tăm. đây cũng có thể là giây phút cuối cùng cha con đc ở cạnh
nhau. Vì vậy trong giọt lệ ấy vẫn có cả nỗi nghẹn ngào, tiếc nuối. Và ông Sáu vẫn
phải tạm biệt con, lên đường đánh giặc.
Hành trang quan trọng nhất người cha ấy mang tới chiến trường có lẽ là tình phụ tử
sâu sắc, là nỗi ân hận vì lỡ đánh con,là lời dặn của con ” ba về ba mua cho con cây
lược nghe ba”. Ông quyết định tự làm 1 chiếc lược ngà tặng Thu. Kiếm đc khúc
ngà, ông ” hớn hở như một đứa trẻ đc quà ” rồi ” ngồi cưa từng chiếc răng lược tỉ
mỉ và cố công như một người thợ bạc”, ” gò lưng tỉ mẩn khắc từng chữ yêu nhớ
tặng Thu con của ba” . Tình yêu con đã biến người chiến sĩ ấy trở thành một
nghệ nhân – người nghệ nhân chỉ làm một tác phẩm duy nhất trong đời. Tình yêu
là con trở thành nét hoa tay đặc biệt nhất để người lính vốn quen với súng đạn,
khói bom đã khéo léo hơn bội phần. Lời nói yêu, nhớ Thu nào chỉ khắc lên chiếc
lược, mà vốn còn khắc sâu vào lòng ông Sáu từ lâu. Chỉ cần khoảnh khắc con gọi
“ba” , với vòng tay ôm và cái hôn thắm thiết đã đủ trở thành động lực lớn lao nhất
để người cha ấy cầm súng chiến đấu. Đúng như Haruki Murakami từng nói:”Hạnh
phúc luôn ngắn ngủi, nhưng trong những ngày tháng mệt mỏi của cuộc đời , chỉ
cần nhớ về một khoảnh khắc hạnh phúc đã từng có, người ta lại có can đảm để
sống.” (Ký ức được đánh số). Mỗi đêm nhớ con ông lại mang cây lược ra ngắm rồi
mài lên tóc mình cho thêm bóng. Chiếc lược chưa chải được mái tóc Thu lần nào
nhưng đã gỡ rối được một phần những tâm trạng ngổn ngang của ông. Nó trở thành
cầu nối giữa cha con ông, thay cho lời xin lỗi lúc ông đánh con. Chiếc lược ấy là
kết tinh của tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kì diệu thiêng
liêng. Cũng kết đọng cả tấm lòng người cha dành cho con là những bức thư tay
nhân vật bố của cậu bé Enricô trong “Những tấm lòng cao cả” viết gửi con mình.
Bao nhắn nhủ chân thành về lẽ sống, cách làm người, bao yêu thương bày tỏ nơi
câu chữ: “Bố rất yêu con, con ạ.” Nhưng nếu Enrico nhận được thư từ cha đều đặn
mỗi tháng 1 lần thì bé Thu không được may mắn như vậy.
Ông Sáu ao ước đến ngày gặp lại con, trao cho con cây lược nhưng lại ngã xuống
trong một trận càn của giặc. Không còn đủ sức trăn trối điều gì, ông thu tất cả tàn
lực lấy cây lược trong túi đưa cho ông Ba và nhìn ông Ba hồi lâu. Ánh nhìn ấy
trước lúc hi sinh còn thiêng liêng hơn cả những lời di chúc bởi đó là một sự ủy thác
, là ước nguyện cuối cùng của ông, ước nguyện của tình phụ tử. Nếu Voltaire từng
quan niệm: “chân lý cuối cùng trên cõi đời này vẫn chỉ là yêu. yêu là sống và còn
sống là còn yêu” thì tình phụ tử giữa ông Sáu và bé Thu dường như đã vượt qua
giới hạn của thế gian, đời người : “chỉ có tình cha con là kh thể chết đc”. Chiến
tranh có thể lấy đi tất cả nhưng không thể giết chết được tình cha con trong trái tim
người chiến sĩ bộ đội cụ hồ ấy.
Nếu ví tình cha của ông Sáu như ánh nắng trưa hè rực rỡ, chói ngời tâm trí độc giả
thì tình cảm Thu dành cho cha sẽ là ánh nắng ban mai.ban đầu phải để ý kĩ mới
thấy lấp ló qua tán lá, và đúng lúc vầng dương lên hẳn, ta mới bất ngờ, ấn tượng vì
sức tỏa sáng khắp không gian của nó. Thu sinh ra trong hoàn cảnh đất nước có
chiến tranh. Ông Sáu phải rời nhà đi kháng chiến từ lúc em chưa đầy một tuổi. Lớn
lên mà chưa 1 lần đc cảm nhận hơi ấm của tình cha, em chỉ có thể nhìn ba qua tấm
ảnh chụp chung với má. Thương nhớ bao nhiêu em cũng chỉ biết mang tấm hình ra
ngắm. Hình ảnh cha đẹp đẽ hiền từ luôn in sâu trong tâm trí Thu, dù mới chỉ nhìn
qua khung ảnh nhỏ ấy. Tận sâu trái tim cô bé ấy là khao khát cháy bỏng được gặp
ba. Sau tám năm xa cách mới được gặp ba lần đầu- người cha bằng xương bằng
thịt vậy mà em lại không nhận ra. Với 1 đứa trẻ chưa đầy mười tuổi, một người đàn
ông lạ tiến đến đường đột và vồ vập quá mức, ngay lập tức gọi mình là ‘con’ xưng
‘ba’, phản ứng của Thu ” giật mình tròn mắt nhìn” , rồi sợ hãi chạy vụt đi cũng dễ
hiểu. Đặc biệt khi hình ảnh ba trong tâm trí em vô cùng hiền hậu đẹp đẽ, không hề
mang vết thẹo dài trên mặt, lại đỏ ửng, dần dật dễ sợ như vậy.
Yêu cha hết mực nên dù thiếu thốn, khao khát tình cha nhưng em vẫn cự tuyệt mọi
dỗ dành. Với em đó là ng đàn ông lạ, không phải ba, em đã tin là như vậy thì
không vì đòn roi đe nạt hay lời ngon tiếng ngọt mà thay đổi. Em tìm mọi cách để
chối từ ông Sáu: luôn nói trổng hoặc gọi ông là “người ta”. Thử thách lớn nhất là
khi phải chắt nước ra khỏi nồi cơm to đang sôi, nó “nhăn nhó”, “luýnh quýnh”,
“loay hoay”, tâm lý bối rối của một đứa trẻ tám tuổi hiện lên mồn một. Một là phải
chịu khuất phục và gọi ông Sáu là “ba” để được giúp đỡ, hai là nó phải tìm cách
làm một mình, sẽ rất khó khăn và nguy hiểm. Chao ôi, trên đời làm gì có ai thích
chọn những thứ trắc trở hơn những thứ đơn giản, dễ dàng, trừ khi họ có thứ quý giá
hơn cần phải bảo vệ, không thể đánh đổi. Và với bé Thu, một cô bé mới tám tuổi,
tiếng “ba” nó cất giữ trân trọng ấy là điều đắt giá nó không thể tùy tiện gọi một
người lạ chỉ đột nhiên xuất hiện trong đời nó. Vì yêu, vì kính trọng nên càng không
thể đem ra để đổi lấy sự giúp đỡ. Nó phải giữ gìn tiếng gọi thiêng
liêng ấy cho người ba thực sự mà nó được biết tới. Dù sẽ nguy hiểm, sẽ khó khăn,
nó vẫn dùng cái vá để múc từng vá nước ra ngoài. Sự kiên quyết, thông minh của
nó cũng khiến bác Ba, ông Sáu và cả người đọc đôi phần ngỡ ngàng. Không chỉ
không muốn trao cho ông Sáu tiếng gọi “ba” mà nó còn một mực cứng rắn, không
tiếp nhận tình cảm ông dành cho nó. Trong bữa cơm có miếng trứng cá ngon, ông
Sáu lựa ra gắp vài bát Thu thế mà em lại hắt ra, cơm văng tung tóe khắp mâm. rồi
vừa bị đánh vừa bị mắng nhưng con bé ko hề tỏ ra hối hận thậm chí còn lì lợm,
lặng lẽ gắp miếng trứng vào bát rồi bỏ ra xuồng, còn cố ý khua dậy cột rổn rảng
như khiêu khích. phản ứng có phần thái quá ấy như thách thức giới hạn của ông
Sáu – người vốn vì thương con nên đã rất bao dung, nhẫn nại và cả người đọc.
Nhưng như Nguyên Ngọc từng nói: “ nếu đọc bằng mắt thì chỉ thấy được hình
dáng bên ngoài, đọc bằng tâm thì mới thấy được da thịt, đọc bằng hồn thì thấy
được cốt tủy”, khi đọc hết tác phẩm và thực sự đặt mình vào vị trí của một cô bé
tám tuổi, ta mới hiểu và cảm thông với những gì Thu hành xử. Cách biểu hiện tình
cảm và bảo vệ hình tượng người cha trong lòng của em chỉ thật bộc trực, thậm chí
là hồn nhiên đến mức đáng giận. Đối với cô bé, sự xuất hiện của ông Sáu như đang
đe dọa đến hình tượng của người ba trong bức ảnh mà nó vẫn luôn ấp ủ trong lòng
bấy lâu, một đứa trẻ tám tuổi sao có thể kịp thích nghi với những thay đổi bất
thường lớn như thế trong cuộc đời chúng? Càng giữ khoảng cách với ông Sáu tức
là càng giữ được nguyên vẹn hình ảnh người cha trong tâm trí nó, và đó cũng là
cách duy nhất. Sự cương quyết, dữ dội kia thực chất chỉ là hình hài khác của một
tình yêu cha vô cùng mãnh liệt, nào phải là thói xấu của một cô bé đỏng đảnh
nhiều sách nhiễu, mà đó là sự kiên định, quyết liệt của một người có lập trường
mạnh mẽ và yêu ba hết mực.
Nguyễn Quang Sáng đã làm rõ điều đó ở liền sau tác phẩm, rằng Thu thực sự là
cây xương rồng bé nhỏ khoác lên lớp vỏ xù xì, gai góc nhưng trong lòng luôn dào
dạt mạch nguồn yêu thương với cha. Khi được bà ngoại giải thích về lai lịch của
vết sẹo trên má ông Sáu, em mới vỡ lẽ ông thực sự là bậc sinh thành đáng kính của
mình. Lời của bà về chuyện ba nó đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương,về
tội ác mấy thằng Tây ở đồn đầu vàm đủ tỏ tường tất cả, cũng giống như lời ông
Kamaji làm cô bé Chihiro chợt hiểu : “Có 1 thứ mà cháu khó có thể nhận ra. Đó là
tình yêu” (phim Vùng đất linh hồn). Tình yêu thiêng liêng từ người cha ruột thịt đã
bị vết thẹo dần dật dễ sợ che dấu mất trong hai ngày qua,khiến Thu nhận nhầm đó
là sự dỗ dành từ 1 ai đó xa lạ . Ròng rã tám năm, không đủ để đứa con quên đi hình
ảnh người cha, nhưng đủ để chiến tranh tàn phá hình dáng một con người. Tâm trí
non nớt của em có lẽ chẳng thể tưởng tượng nổi nơi chiến trường có thể khắc lên
con người ta những vết thương đau đớn đến thế. Vậy nên khi vỡ lẽ ra tất cả, ” Nó
nằm im lăn lộn thở dài như ng lớn”. Thu lúc này có sự khác biệt với những Thiều,
những Tường, những Mận rất đỗi vô tư trên trang sách Tôi thấy hoa vàng trên cỏ
xanh: “trẻ con thì ko biết cách nuôi nấng nỗi buồn dài lâu như người lớn.” Là tình
yêu cha đang lớn thêm gấp bội cũng khiến cho tâm hồn em thêm trưởng thành? Để
rồi theo tiếng thở dài là hình ảnh mình cư xử lạnh lùng với ba ùa về, như cơn sóng
cứ cuộn trào không yên trong tâm trí Thu. Ở ngoài mặt trận cha đã chịu bao đau
đớn vậy mà trong mấy ngày nghỉ phép, vì em, ông lại buồn lòng nhiều hơn. Ân
hận, rồi tiếc nuối do thời gian ở bên cha không còn bao lâu nữa. Chiến tranh chưa
biết bao giờ kết thúc, ngày mai cha đi rồi, biết khi nào mới trở lại để em được sống
trong tình phụ tử ấm áp, được chuộc lại lỗi lầm hôm nay?
Buổi sáng cuối cùng trước khi ông Sáu lên đường,thái độ của Thu thay đổi đột
ngột và cảm động. Nguyễn Quang Sáng đã bắt trọn những chuyển biến ấy và miêu
tả nó một cách tinh tế. Bởi những phản ứng quyết liệt trước đây mà giờ đây nó ngại
ngần, xấu hổ, chỉ dám đứng tựa cửa nhìn mọi người vây xung quanh ba. Vẻ mặt có
cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa,” mà sầm lại buồn
rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ.Những trầm tư vương trên nét mặt rồi
đọng lại sâu lắng nhất vào đôi mắt: “đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không
ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa.” Nơi cửa sổ tâm hồn ấy
của Thu không còn đóng chặt lại với sự kinh ngạc đến e sợ như lần đầu gặp ông
sáu, mà đã rộng mở để thấy bầu trời yêu thương từ cha vời vợi nhường nào và
hành động của mình đáng trách đến bao nhiêu. Để rồi biết đăm chiêu hơn, “nghĩ
ngợi sâu xa”. Phải chăng Thu đang suy nghĩ, xin lỗi cha như thế nào đây, rồi làm
sao để bồi đắp những yêu thương đã lỡ ? Nhưng em đã quên mất đâu có cách nào
ngăn thời gian ngừng lại cho mình hoài suy tính,đã đến lúc chia tay. Lời chào của
ông sáu cất lên khe khẽ mà như làm chấn động cả mảnh hồn bé nhỏ, “đôi mắt
mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Quả thực Nguyễn Quang Sáng cũng có
chung quan điểm sáng tác như Maiacopxki: “Phải tốn cả nghìn cân quặng chữ chỉ
để thu về một chữ mà thôi”. Từ “xôn xao” thật đắc địa, vốn là từ tượng thanh nay
được nhà văn tinh tế dùng để miêu tả khoảng không gian bất tận trong đôi mắt của
Thu. Nó bao la, bâng khuâng và lẻ loi kỳ lạ so với một đứa trẻ mới chỉ tám tuổi. Có
lẽ đó là nỗi niềm tích tụ trong tám năm thiếu vắng hình bóng người cha, là nỗi sợ
thêm một lần chia ly mà mình con bé không tài nào che giấu nổi nữa. Thế nên nó
vỡ òa. Tiếng gọi “ba” xé toạc thinh không, xé toạc cả những ngăn cách ngại ngùng,
xấu hổ mà con bé ngần ngừ trước đó. Tiếng gọi ấy tưởng chừng rất quen thuộc,
gần gũi, có khi là lời nói đầu tiên của con người trong cuộc đời. Vậy nhưng với bé
Thu nó lại là âm thanh đã phải dồn nén bao lâu nay, chứa chan biết bao nhớ nhung
mong đợi.Nhưng cũng chính vì thế mà tiếng gọi ấy trở nên thiêng liêng và đong
đầy cảm xúc hơn bao giờ hết. “Nó nhanh như một con sóc chạy tót lên và dang 2
tay ôm cổ ba nó. Nó vừa ôm vừa nói trong tiếng khóc. Ba! Không cho ba đi nữa!
Ba ở nhà với con!” Đọc đến đây , ta nhớ đến cảnh gặp lại đầy xúc động của bé
Hồng với mẹ trên trang viết “Trong lòng mẹ”, khi cậu bé cũng “òa lên khóc rồi cứ
thế nức nở.” Có lẽ, với những đứa trẻ thiếu thốn tình cảm từ cha, hoặc mẹ, giây
phút đoàn tụ thật sự là “một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra
trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc.” (Nguyên
Hồng). Bởi thế nên bé Thu vội vã hôn ba nó: “hôn tóc, hôn vai, hôn cả lên vết thẹo
dài”. Vết thẹo từng là thứ chia cắt cha con , giờ lại là thứ nó tự hào nhất, thứ hiện
thân cho sự dũng cảm và can trường của cha nó, như một huy chương cho tấm lòng
nhiệt thành đã xả thân vì tổ quốc mà nó sẽ trân trọng, kiêu hãnh hết đời này. Con
bé vồ vập như vậy vì muốn được cảm nhận tình cảm của cha cho bằng hết trước
khi ông Sáu lại phải đi xa. Cách bộc lộ tình cảm có phần tham lam này đã thể hiện
rõ tấm lòng muốn bù đắp lại sự lạnh nhạt trong những ngày qua, và còn xuất phát
từ nỗi sợ rằng sẽ còn rất lâu nữa, thậm chí ko bao giờ em được gặp ông Sáu lần thứ
hai. Tình yêu Thu dành cho ba qua cách thể hiện ngây ngô, vụng về lại càng đáng
quý, xúc động hơn. Và nhờ đó ta hiểu vì sao Colleen Oakland trong tác phẩm
“Mạnh hơn cái chết” đã nói: “Tình yêu vốn xộc xệch. Nó không đến với chúng ta
trong một chiếc hộp gói nơ hoàn hảo. Nó giống như món quà của một đứa bé, với
những nét sáp màu nguệch ngoạc và móp méo. Không hoàn hảo. Nhưng vẫn cứ là
một món quà.”
Trong cuốn sách “Yêu những gì không hoàn hảo”, Đại đức Haemin từng viết:
“Con người ta chính là lò sưởi. Nhờ có nhau mà chúng ta có thể sưởi ấm cả thể xác
lẫn tâm hồn.” Có lẽ vì vậy mà đọc những câu văn mộc mạc trên trang sách Chiếc
lược ngà mà sao ta cứ cảm thấy có gì đó thật ấm áp trong lòng. Tình cha con giữa
bé Thu và ông Sáu đã đốt lên một ngọn lửa nồng ấm, xua tan bao giá lạnh của thời
chiến tranh khắc khổ. Và chất củi nhen lên ánh sáng yêu thương ấy chính là nghệ
thuật miêu tả tâm lý nhân vật, đặc biệt là tâm lý của nhân vật trẻ em rất tinh tế; một
tình huống hết sức chặt chẽ, hấp dẫn xoay quanh những tình huống bất ngờ nhưng
tự nhiên và hợp lý; cách kể chuyện của tự nhiên và ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ.
Tài năng của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, tình phụ tử thiêng liêng giữa ông Sáu
và bé Thu bởi thế sẽ sáng mãi trên bầu trời văn học và trong trái tim độc giả muôn
đời.

You might also like