Professional Documents
Culture Documents
Văn hào I-li-a, Ê-ren-bua từ ng nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên
lòng yêu tổ quốc”.
“Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi ,tưởng như đến không
thở được”. Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, thế giới nội tâm của nhân vật được
miêu tả đầy chân thực qua nét mặt và cử chỉ. Ông lão bàng hoàng và sững sờ vô cùng,
dường như có một bàn tay vô hình đang bóp nghẹt trái tim ông. Lúc đầu ông không thể
tiếp nhận được, ông cứ hỏi đi, hỏi lại như thể ông đang hi vọng cái tin dữ kia chỉ là do
miệng đời đàm tiếu, giọng ông như lạc hẳn: “Liệu có thật không hở bác. Hay là chỉ
lại…”. Đối diện với những lời nói chắc như đinh đóng cột rằng làng ông “Việt gian từ
thằng chủ tịch mà đi”, bao nhiêu niềm tin, bao nhiêu niềm tự hào về ngôi làng mà ông
luôn khoe khoang với mọi người bỗng chốc sụp đổ.
Nếu trên đường đi tới phòng thông tin ông hiên ngang bao nhiêu thì giờ ông lại “cúi
gằm mặt mà đi”. Bởi cõi lòng ông Hai giờ đây tựa như vỡ tan thành từng mảnh, trái tim
ông rỉ máu, đâu đây như thể một nỗi chua xót, ô nhục và tủi thân.
Bởi gia đình ông là người làng Chợ Dầu nên đè nặng trên những đôi vai hao gầy và yếu
ớt là bản án mang tên “cái giống Việt gian bán nước”. Ông Hai căm phẫn lũ tội đồ phản
nước theo giặc. Tất cả như dồn nén trong từng con chữ đanh thép :”Chúng bay ăn
miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã
thế này”. Ông kiểm điểm lại từng người anh em đã cùng nhau đồng cam cộng khổ thuở
trước, từng người con của làng Chợ Dầu. Trong trí óc của ông, họ đều là những người
sung sức, tràn đầy tinh thần yêu nước nồng nàn. Giờ phút ấy, ông Hai vẫn cố bám víu
chút giọt nắng “niềm tin” giữa cơn đại hồng thủy dữ dội. “Mà thằng chánh Bệu thì đích
là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói ? Ai người ta hơi đâu bịa tạc
ra những chuyện ấy làm gì ?”. Những dòng suy nghĩ đó cứ ồ ạt kéo đến đâm vào trái
tim ông, phủ phàn dập tắt ngọn lửa niềm tin. Ông Hai bất lực chấp nhận cái tin dữ ấy,
nỗi đau xâm chiếm linh hồn, một nỗi đau không lời nào tả xiết. “Chao ôi ! Cực nhục
chưa, cả làng Việt gian”. Đó là tiếng nói thốt lên từ một trái tim bị tổn thương, từ một cõi
lòng suy sụp tột cùng, từ niềm tự hào bị vùi dập tả tơi. Ông đâu chỉ đau cho mình, đau
cho làng mà ông còn đau cho những người đồng hương cùng cảnh ngộ:”Lại còn bao
nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cớ sự này
chưa?”. Nỗi bứt rứt trong tâm can của ông bị dồn nén quá nhiều nên sinh gắt gõng khi
nói chuyện với bà Hải. Ông Hai không muốn nghe ai nhắc đến chuyện tồi tệ đó, không
muốn ai sát muối vào vết thương trong lòng ông. Bủa vây ông là nỗi lo trăm bề “trằn
trọc đến không ngủ được”, là tiếng thở dài bất lực làm sao. Nỗi lo ấy hành hạ cả tinh
thần lẫn thể xác khiến “chân tay nhủn ra, tưởng chừng như không cất lên được” hay
“trống ngực ông lão đập thình thịch”. Như một điều tất lẽ dĩ ngẫu, dân ta từ Nam ra Bắc,
từ miền ngược đến miền xuôi đều ghét cay ghét đắng, ghê tởm và thù hằn bọn Việt
gian bán nước nên ông càng lo sợ mụ chủ nhà đuổi gia đình ông đi, dồn gia đình ông
vào thế cùng cưc, tuyệt đường đất sinh nhai.