You are on page 1of 4

BÉ THU

Nhà văn Tô Hoài từng nói rằng: “Nhân vật là nơi tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong
một sáng tác”. Quả đúng như vậy, ở mỗi tác phẩm văn học, các nhà văn luôn dùng ngòi bút
tài năng của mình để thổi hồn vào những nhân vật một cách độc đáo và tinh tế nhất. Và trong
tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã thực sự thành công khi ghi lại dấu ấn
đậm nét của mình trong trái tim độc giả bằng hình tượng nhân vật bé Thu – một cô bé mang
trong mình một cá tính mãnh liệt, một tình yêu thương cha cao cả, sâu sắc trong cảnh ngộ éo
le của chiến tranh, tiêu biểu cho những em bé Nam Bộ thời chiến tranh.

Không lựa chọn chất liệu là sự kịch liệt, đẫm máu trên chiến trường miền Nam như nhiều tác
phẩm khác, Nguyễn Quang Sáng khai thác một khía cạnh khác của chiến tranh, một nỗi niềm
tang thương cá nhân khác của những người nơi hậu phương, chưa một lần được trọn vẹn bên
người cha, người chồng hay người con của mình. Bé Thu là nhân vật đại diện cho sự mất
mát, thiếu thốn ấy. Khi bé Thu chỉ vừa mới một tuổi, ba em – ông Sáu đã phải đi kháng chiến
và xa nhà. Đây là hoàn cảnh chung của hầu hết gia đình Việt Nam trong cuộc kháng chiến, có
lẽ họ không chỉ tiễn người thân mình đi một hai lần mà là rất nhiều lần, từ người nọ đến
người kia. Dù vậy, già trẻ gái trai, mặc kệ, họ đều quyết tâm ra đi để tìm được cống hiến cho
tổ quốc thân thương, như Tố Hữu đã từng ca ngợi tinh thần ấy:

“Lớp cha trước lớp con sau


Đã thành đồng chí chung câu quân hành”

Ròng rã tám năm, không đủ để đứa con quên đi người ba của mình, nhưng đủ để chiến tranh
tàn phá hình dáng một con người. Ông Sáu trở về thăm gia đình, nhưng gương mặt ông giờ
đây đã nhiều theo một vết thẹo khiến bé Thu có những phản ứng làm cho cả ông lẫn người
đọc cảm thấy hụt hẫng, bất ngờ. Trước tiếng gọi đầy thân thương mà gan ruột từ xa của ông
Sáu “Thu! Con.” bé Thu “tròn mắt ngơ ngác nhìn lạ lùng”. Chỉ một ánh mắt, một cử chỉ cũng
đủ để thấy sự xa cách giữa người và người, mà có lẽ ta phải dùng đến từ “người dưng” mà
Nguyễn Duy đã dùng trong “Ánh trăng”. Khi ông Sáu đưa tay về phía nó, nói liên tiếp: “Ba
đây con! Ba đây con!” thì nó lại có một phản ứng vô cùng quyết liệt “mặt nó bỗng tái đi, rồi
vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!” Từ đó tạo nên hai luồng tâm lý đối lập nhau gay gắt giữa
ông Sáu và bé Thu, một bên là sự vồ vập, cuống quýt của một người ba vì đã ngóng chờ con
bao lâu nay, còn một bên là sự đáp trả thờ ơ, lạnh lùng, hoảng sợ của bé Thu, cốt bởi tình yêu
dành cho người “ba” của nó quá to lớn. Đây chính là khởi đầu éo le dẫn đến mâu thuẫn phức
tạp giữa hai cha con.

Sự ương ngạnh, bướng bỉnh của bé Thu thể hiện rõ rệt trong 3 ngày nghỉ phép của ông Sáu ở
nhà. Mặc cho ông muốn lại gần con bé bao nhiêu, nó lại càng đẩy ông ra xa, nhất quyết
không chịu gọi ông là “ba”. Nó luôn tìm cách nói trổng hoặc gọi ông là “người ta”. Thử thách
lớn nhất là khi nó phải chắt nước ra khỏi nồi cơm to đang sôi, nó “nhăn nhó”, “luýnh quýnh”,
“loay hoay”, tâm lý bối rối của một đứa trẻ tám tuổi hiện lên mồn một. Một là nó phải chịu
khuất phục và gọi ông Sáu là “ba” để được giúp đỡ, hai là nó phải tìm cách làm một mình, sẽ
rất khó khăn và nguy hiểm. Chao ôi, trên đời làm gì có ai thích chọn những thứ trắc trở hơn
những thứ đơn giản, dễ dàng, trừ khi họ có thứ quý giá hơn cần phải bảo vệ, không thể đánh
đổi. Và với bé Thu, một cô bé mới tám tuổi, tiếng “ba” nó cất giữ trân trọng ấy là điều đắt giá
nó không thể tùy tiện gọi một người lạ chỉ đột nhiên xuất hiện trong đời nó. Nó càng yêu
“người ba” của nó bấy nhiêu, thì nó càng ngang ngược, lạnh nhạt với người ba thực sự đang ở
trước nó bấy nhiêu. Vì yêu, vì kính trọng nên càng không thể đem ra để đối lấy sự giúp đỡ.
Nó phải giữ gìn tiếng gọi thiêng liêng ấy cho người ba thực sự mà nó được biết tới. Dù biết sẽ
nguy hiểm, sẽ khó khăn, nó vẫn dùng cái vá để múc từng vá nước ra ngoài. Sự kiên quyết,
thông minh của nó cũng khiến bác Ba, ông Sáu và cả người đọc đôi phần ngỡ ngàng.

Không chỉ không muốn trao cho ông Sáu tiếng gọi “ba” mà nó còn một mực cứng rắn, không
tiếp nhận tình cảm ông dành cho nó. Trong bữa cơm cuối cùng với ông Sáu, bữa cơm mà nó
có lẽ sẽ hối hận suốt đời, ông Sáu âu yếm thể hiện tình cảm của mình bằng cách “gắp một cái
trứng cá to vàng để vào chén nó”. Nó đã phản ứng mạnh mẽ có phần thái quá, nó lấy cái đũa
hết cái trứng ra khỏi chén làm cơm văng tung tóe cả mâm. Hành động ấy như thách thức giới
hạn của ông Sáu – người vốn vì thương con nên đã rất bao dung, nhẫn nại và cả người đọc.
Nhưng nếu đã đọc hết tác phẩm và thực sự đặt mình vào vị trí của một cô bé tám tuổi, ta mới
có thể mở lòng và cảm thông được cho hành động này. Cách biểu hiện tình cảm và bảo vệ với
hình tượng người cha trong lòng của bé Thu chỉ thật bộc trực, trực tiếp, thậm chí là hồn nhiên
đến mức đáng giận của cô bé. Đối với cô bé, sự xuất hiện của ông Sáu như đang đe dọa đến
hình tượng của người ba trong bức ảnh mà cô bé vẫn luôn ấp ủ trong lòng bấy lâu, một đứa
trẻ tám tuổi sao có thể kịp thích nghi với những thay đổi bất thường lớn như thế trong cuộc
đời chúng? Càng giữ khoảng cách với ông Sáu tức là càng giữ được nguyên vẹn hình ảnh
người cha trong tâm trí nó, và đó cũng là cách duy nhất. Sự cương quyết, dữ dội kia thực chất
chỉ là hình hài khác của một tình yêu cha vô cùng mãnh liệt.

Sự bướng bỉnh, gai góc ấy còn ươm mầm cho phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ của cô giao
liên trong tương lai. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã lột tả rõ nét chân dung của một cô bé
tám tuổi có cách thể hiện tình cảm thiêng liêng, chân thành dành cho ba mình một cách vô
cùng đặc biệt, độc đáo. Ở bé Thu, người ta nhìn thấy bóng dáng của Việt trong “Những đứa
trẻ trong gia đình” hay Tnú trong “Rừng Xà Nu”. Nó tạo nên một vẻ đẹp kiên cường, gan góc
của thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến, cái vẻ đẹp “đừng đốt. Bản thân nó đã có lửa rồi!”
mà Đặng Thùy Trâm đã viết trong nhật ký của mình: “Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc
Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước. Mình cũng như những thanh niên khác đã lên đường ra
tiền tuyến và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi đạn nổ Tuổi trẻ của mình đã thấm đượm mồ
hôi, nước mắt, máu xương của những người đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ của
mình đã cứng cáp trong thử thách gian lao của chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng
rực vì ngọn lửa căm thù đang ngày đêm hun đốt. Và gì nữa, phải chăng mùa xuân của tuổi trẻ
cũng vẫn thắm đượm thêm vì màu sắc của mơ ước và yêu thương vẫn ánh lên trong những
đôi mắt nhìn mình.” Hay như khi nhà thơ Nam Hà cũng đã viết “Chúng con chiến đấu cho
người sống mãi Việt Nam ơi”:

“Đất Nước
Của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng cứng như sắt thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt”

Người đọc chỉ thực sự thấm thía tình cảm ẩn sau sự xù xì của bé Thu dành cho ba khi nó
được bà giải thích về sự thay đổi của ba mình do chiến tranh. Vết thẹo đã khiến bé Thu không
thể nhận ra người ba trên tấm ảnh chính là ông Sáu. Chi tiết vết thẹo cũng mang tính mấu
chốt như chi tiết chiếc bóng trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của nhà
văn Nguyễn Dữ. Vì vết thẹo mà nó không nhận ra người ba đáng kính mà nó hằng khao khát
được đoàn tụ. Đêm hôm ấy, cái đêm được nghe bà gỡ rối, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh
thoảng lại thở dài như người lớn”. Tình cảm trong nó dành cho ông Sáu được nhen lên mạnh
mẽ, nó cũng biết ăn năn, day dứt, hỗn loạn trong đó là tình yêu to lớn nó dành cho ba và sự
ngưỡng mộ.

Sáng hôm sau, lẫn lộn với niềm vui nhận ra ba là sự tủi thân dâng trào cùng nỗi buồn xa xôi
của nó trong ngày ông Sáu phải trở về chiến trường. Bởi những phản ứng quyết liệt trước đây
mà giờ đây nó ngại ngần, xấu hổ, chỉ dám đứng tựa cửa nhìn mọi người vây xung quanh ba
nó. Mọi thứ nhanh và dào dạt đến độ nó chưa kịp cảm thấy tiếc nuối vì đã bỏ lỡ khoảng thời
gian vốn đã ngắn ngủi với ba nó thì còn lại đã chỉ là một mảnh hỗn loạn bị bác Ba bắt gặp
qua đôi mắt của nó: “Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao.” Từ “xôn xao”
vốn là từ tượng thanh nay được nhà văn tinh tế dùng để miêu tả khoảng không gian bất tận
trong đôi mắt của bé Thu. Nó bao la, lạc lõng và lẻ loi kỳ lạ so với một đứa trẻ mới chỉ tám
tuổi. Có lẽ đó là nỗi niềm nó tích tụ trong tám năm thiếu vắng hình bóng người cha mà mình
con bé không tài nào che giấu nỗi nữa. Thế nên nó vỡ òa.

Tiếng gọi “ba” xé toạc thinh không, xé toạc cả những ngăn cách ngại ngùng, xấu hổ mà con
bé ngần ngừ trước đó. Tiếng gọi ấy tưởng chừng rất quen thuộc, gần gũi, có khi là lời nói đầu
tiên của con người trong cuộc đời. Vậy nhưng với bé Thu nó lại là âm thanh đã phải dồn nén
bao lâu nay, chứa chan biết bao nhớ nhung mong đợi dồn cả vào tiếng “ba” ấy. Nhưng cũng
chính vì thế mà tiếng gọi “ba” ấy trở nên thiêng liêng và đong đầy cảm xúc hơn bao giờ hết.
“Nó nhanh như một con sóc chạy tót lên và dang 2 tay ôm cổ ba nó. Nó vừa ôm vừa nói trong
tiếng khóc:

– Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”

Rồi nó hôn ba nó: hôn tóc, hôn vai, hôn cả lên vết thẹo dài. Vết thẹo từng là thứ chia cắt cha
con nó, giờ lại là thứ nó tự hào nhất, thứ hiện thân cho sự dũng cảm và can trường của cha
nó, như một huy chương cho tấm lòng nhiệt thành đã xả thân vì tổ quốc mà nó sẽ trân trọng,
kiêu hãnh hết đời này. Con bé vội vàng, vồ vập như vậy vì muốn được cảm nhận tình cảm
của cha co bằng hết trước khi ông Sáu lại phải đi xa, chẳng biết bao giờ mới quay trở lại.
Cách bộc lộ tình cảm có phần tham lam này đã thể hiện rõ tấm lòng muốn bù đắp lại sự lạnh
nhạt trong những ngày qua của nó mà còn xuất phát từ nỗi sợ sệt sẽ còn rất lâu nữa, thậm chí
là lần cuối bé Thu được gặp ông Sáu. Những cái hẹn trở về không rõ ngày nhưng người ta
vẫn nguyện chờ mong, hi vọng vì đó là cách duy nhất thắp lên ánh sáng và chỉ có thế ngày
hẹn ấy mới thành hiện thực. Nó chợt khiến ta nhớ lại cảnh đoàn tụ xúc động của bé Hồng với
mẹ mình trong văn bản “Trong lòng mẹ”. Sau cuộc chia tay ấy, đáng trân trọng hơn cả là khi
bé Thu đã noi gương theo người cha đáng kính, trở thành người chiến sĩ quả cảm viết tiếp
những trang sử vẻ vang, vàng son của Việt Nam. Sự kế thừa ấy đã được đã được Hoàng
Trung Thông kết tinh thành những câu thơ:

“Ta lại viết bài thơ trên báng súng


Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.”

Giây phút chia tay trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của hai cha con ông Sáu và bé Thu tuy
ngắn ngủi nhưng đã phản ánh được tư tưởng nhân văn sâu sắc của nhà văn Nguyễn Quang
Sáng, cũng như cách nhà thơ Trần Đăng Khoa nhắc đến ông là hoàn toàn đúng đắn: “Đọc
Nguyễn Quang Sáng, không hiểu sao, tôi cứ hình dung nhà văn có nét gì đó của một người
nông dân Nam Bộ ngang tàng, coi những chuyện nguy hiểm chết người cũng bông phèng như
trò chơi con trẻ, có thể chống xuồng lao ve vé giữa lúc bom đạn đang vây bủa mù mịt, cũng
có thể ngồi thì lì trong một cái quán rượu tạm bợ, dựng tồng tềnh bên vệ cỏ, ngoảnh ra phía
sông nước mà nhậu lai rai, nhậu tối ngày. Con người ấy hình như vừa đơn giản, lại vừa phức
tạp đến bí hiểm. Hình như đó là một phần của thiên nhiên Nam Bộ, do thiên nhiên chắt ra,
bởi thế có lúc hồn nhiên như cỏ dại, có lúc ương ngạnh như vách đá.” Bằng chất văn mộc
mạc, thân thương, chân thực, ông đã “chạm tới những rung động vi nhiệm của tình yêu” và
hơn hết, ông vẽ bức tranh về chiến tranh không phải bằng máu của những người lính ngã
xuống mà bằng nước mắt của những người còn ở lại. Hình ảnh nhân vật bé Thu của ông như
gói gọn cả quá khứ, hiện tại và thậm chí là tương lai của đất nước. Dù chiến tranh tàn phá rất
nhiều thứ nhưng nó vĩnh viễn không thể tàn phá được trái tim con người.

You might also like