You are on page 1of 15

Đề bài 8

Câu 1
a. Chiếc Lược Ngà – Nguyễn Quang Sáng
b. Nó cứng đầu thế đấy, có lẽ trong tâm trí của nó chỉ có duy nhất
hình ảnh người cha trong tấm ảnh mà nó vẫn thường thấy mỗi ngày,
chứ không phải bộ dạng của ông Sáu bây giờ. Người cha không được
đứa con nhìn nhận bởi vết sẹo trên má làm mặt ông bị biến dạng và
khác trước quá nhiều... Chính vết sẹo ấy là dấu tích không mong
muốn của chiến tranh tàn khốc mà Thu thì còn quá nhỏ để có thể cảm
nhận và hiểu được điều đó, hiểu được sự khốc liệt của bom lửa đạn,
hiểu được cái cay xé của mùi thuốc súng, hiểu được sự gian nan, vất
vả trong cảnh chiến tranh khắc nghiệt mà người lính phải trải qua...
Câu 2 :Người Việt Nam ta từ xưa đến nay được biết đến với nhiều
đức tính tốt đẹp, luôn yêu thương, đoàn kết với nhau. Một trong số
đó được khắc họa rõ nét qua câu tục ngữ: “Lá lành đùm lá rách”. Lá
lành là những chiếc lá còn nguyên vẹn, khỏe mạnh, đẹp đẽ, tượng
trưng cho những con người có điều kiện, hoàn cảnh tốt. Còn lá rách
là những chiếc lá không còn nguyên vẹn, đã chịu nhiều thương tổn,
tượng trưng cho những con người có số phận bất hạnh trong cuộc
sống. Câu nói khuyên nhủ chúng ta biết yêu thương, đùm bọc lẫn
nhau, sẵn sàng san sẻ và giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó
khăn bên cạnh mình. Trong cuộc sống vẫn còn nhiều mảnh đời khó
khăn, bất hạnh, việc chia sẻ, đùm bọc, giúp đỡ họ sẽ giúp cho cuộc
sống của họ tốt đẹp hơn, xã hội phát triển hơn, con người sẽ xích lại
gần nhau hơn, tình yêu thương sẽ được nhân lên thêm. Khi nhiều con
người trong một cộng đồng đều biết san sẻ với người khác, những
thông điệp cao cả sẽ được lan tỏa mạnh mẽ, đức tính tốt đẹp cũng vì
thế mà được nhân lên. Việc đùm bọc thương yêu nhau phải là một
thái độ sống, phương châm sống của người bởi đây là cơ sở, là nền
tảng để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Tuy nhiên, trong cuộc sống vẫn
còn nhiều người ích kỉ, vô cảm, chỉ biết nghĩ đến bản thân mình, mặc
kệ những đau khổ, bất hạnh mà người khác đang phải trải qua. Lại có
những người sống tư lợi cho bản thân,… Những người này thật đáng
chê trách và cần thay đổi bản thân, sống yêu thương, cởi mở hơn để
cuộc sống thêm tốt đẹp hơn. Là thế hệ trẻ của đất nước, chúng ta cần
sống chan hòa với mọi người xung quanh, sẵn sàng giúp đỡ những
người có hoàn cảnh khó khăn cũng như lan tỏa những thông điệp tốt
đẹp ra cộng đồng để mọi người cùng noi theo. Cuộc sống vốn ngắn
ngủi, hãy thu hẹp khoảng cách giữa người với người bằng những
hành động thiết thực của tình yêu thương
Câu 3:Nhà văn Nguyễn Quang Sáng được biết đến là một nhà văn
gắn bó với chiến trường Nam Bộ. Đến với đoạn trích “Chiếc lược
ngà”, ta bắt gặp một tình huống truyện bất ngờ mà lại tự nhiên, hợp
lý, thể hiện được sâu sắc tính cách nhân vật. Trong đoạn trích, nhân
vật ông Sáu đã được khắc họa rõ nét tính cách thông qua những lời
nói và hành động, thể hiện được một tình cảm thiêng liêng, đáng quý
của người cha đối với con.
Câu chuyện kể về tình cảm cha con sâu sắc giữa nhân vật ông Sáu
và nhân vật bé Thu. Sau 8 năm xa cách, ông Sáu mới được một lần
về thăm gia đình, thăm con. Gặp lại con, ông tưởng sẽ được con ôm
chầm lấy con vào lòng, nhưng ông lại phải chịu sự xa lánh của đứa
con gái đầu lòng cũng là đứa con duy nhất. Trong mấy ngày nghỉ
phép, ông Sáu muốn dành hết tình cảm cho con gái, nhưng con bé
lại càng cố gạt ra. Trong một lần không nén nổi tức giận, ông Sáu đã
quơ đũa đánh con, sau đó ông cũng đã rất hối hận về hành động của
mình. Đến khi phải lên đường, thì bé Thu mới nhận ông là ba, ông
vẫn phải ra đi, mang trong mình lời hứa mua cho con một cây lược,
Khi bị thương nặng, ông vẫn dùng ánh mắt khẩn thiết của mình để
nhờ bác Ba có ngày trao tận tay hộ ông chiếc lược ngà.
Ông Sáu là một người cha hết mực yêu thương con. Xa cách con từ
những ngày đầu, ông Sáu luôn canh cánh trong lòng nỗi nhớ thương
con. Điều đó thể hiện rõ qua lần gặp đầu tiên của ông Sáu đối với bé
Thu. Ngay cả khi xuồng chưa cập bến, ông Sáu đã rất nôn nóng
được ôm chầm lấy con, và ông xúc động vô cùng vào giây phút ấy,
vết thẹo trên má ông bắt đầu giật giật. Và tình cảm cho con cháy
bỏng bao nhiêu, ông lại thất vọng và hụt hẫng bấy nhiêu khi bé Thu
nhìn ông với ánh mắt ngạc nhiên và chạy đi. Sự hụt hẫng biết bao
khi tình cảm, mong chờ của mình không được con gái đáp lại thể
hiện qua cái buông thõng tay của ông Sáu.
Trong những ngày nghỉ phép, ông Sáu luôn muốn dành tình cảm cho
con, nhưng con bé lại càng lúc càng muốn đẩy ra. Ông mong chờ ở
bé Thu một tiếng gọi ba nhưng càng lúc càng vô vọng, con bé bướng
bỉnh và nhất quyết không gọi. Đối với những người cha khác, được
nghe tiếng con gái gọi “ba” là một điều dễ dàng, nhưng đối với ông
Sáu lại là một khát khao cháy bỏng. Ông dành tình yêu thương cho
con nên khi con bé bị đẩy vào tình huống khó xử lúc cơm sôi ông
cũng chưa giúp, chỉ mong con bé vào thế bí mà gọi ông bằng “ba”,
nhưng cũng không được. Ông chỉ biết cười trừ, mà nụ cười ấy chất
chứa đầy đắng cay, bất lực.
Đó là sự bất lực khi tình yêu con dạt dào mà không được con chấp
nhận. Đến bữa cơm, ông cũng dành cho con miếng trứng cá to và
ngon nhất, nhưng con bé lại hất văng cái trứng cá ra. Quá bất lực, sự
mong ngóng con chấp nhận ba hàng ngày đã dồn nén thành nỗi đau
đớn, hóa thành tức giận nhất thời mà ông Sáu đã đánh con. Cái đánh
con ấy, cũng khởi nguồn từ tình yêu con quá sâu nặng, sự mong
ngóng được hồi đáp tình cảm từ con quá mãnh liệt. Sau khi đánh
con, ông Sáu cũng đã rất ân hận, vì sao lúc đó lại đánh con, ông
cũng rất thương con của mình.
Đặc biệt, tình yêu thương con mãnh liệt của ông Sáu được thể hiện
rõ qua khung cảnh chia tay. Lúc bé Thu nhận ba, gọi tiếng “ba” xé
gan xé ruột, ông Sáu như vỡ òa trong niềm hạnh phúc. Ông khóc,
những giọt nước mắt của sự chờ đợi tình cảm dồn nén qua bao nhiêu
năm, được giải tỏa bởi vì con đã chịu nhận ba. Tình cảm dành cho
con sâu nặng đã được đền đáp, ông Sáu đã vô cùng mãn nguyện.
Tuy nhiên, ông vẫn phải lên đường làm nhiệm vụ. Ông thương con,
nhớ con, giữ lời hứa mang về cho con một cây lược. Hình ảnh
“chiếc lược ngà” được làm tỉ mỉ, chính là thể hiện sâu sắc nhất tình
cảm của ông Sáu với bé Thu, minh chứng cho một tình cha mãnh
liệt, sâu nặng.
Ông Sáu còn là một người chiến sĩ Cách mạng tận tâm, kỉ luật, trách
nhiệm. Ông là người chồng, người cha giàu tình yêu thương như thế,
nhưng khi làm một người lính, được nghỉ phép ông mới về thăm
nhà, mặc dù quãng thời gian xa gia đình xa con ông luôn canh cánh
nỗi nhớ. Và kể cả khi thời gian về thăm gia đình rất ít, phải đến giây
phút chia tay con mới nhận cha, được người đồng đội là bác Ba gợi
ý hay là ở lại nhà một vài hôm, ông Sáu cũng không đồng ý, ông vẫn
quyết lên đường làm nhiệm vụ. Ta có thể thấy ở đây, ông Sáu khi
mang trên mình trách nhiệm đối với đất nước, ông luôn làm nhiệm
vụ một cách trách nhiệm, kỉ luật.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã tái hiện và khắc họa tính cách nhân
vật ông Sáu điển hình, với cách phân tích diễn biến tâm lý nhân vật
tinh tế. Qua đó, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh ông Sáu bên cạnh là
một người cha hết mực thương con, còn là một người chiến sĩ kỉ
luật, trách nhiệm, giàu tình yêu quê hương, đất nước.
Đề bài 9
Câu 1:
a)“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng”
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ,
Kết tràng hoa dâng 79 mùa xuân.
b.Viếng lăng bác. Viễn Phương .Bài thơ được viết vào tháng 4 năm
1976, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước
nước thống nhất, lăng Bác Hồ mới được khánh thành, Viễn phương ra
Bắc thăm Bác, nhà thơ đã viết bài thơ này và được in trong tập “Như
mây mùa xuân” năm 1978
c.-điệp từ ,ẩn dụ
-tác dụng biện pháp tu từ:
tác giả đã dùng biện pháp tu từ ẩn dụ lấy hình ảnh mặt trời tượng
trưng cho Bác . hình ảnh mặt trời thứ nhất ở câu thơ:
" ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng"
là chỉ mặt trời mang lại sự sống và ánh sáng vô tận cho trái đất- nơi
loài người sinh sôngs . mặt trời thứ 2 ở câu thơ :
" thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ"
là hính ảnh của vị chủ tịch - vị lãng tụ vĩ đại của dân tộc Hồ Chí Minh
. bác là người lãnh đạo dảng cộng sản và cách mạng việt nam hướng
theo con đường chủ nghĩa , đưa dân tộc từ chỗ bùn lầy đến nơi có ánh
sáng , hi vọng của độc lập tự do hạng phúc . như vậy tác giả đã dùng
hình ảnh mặt trời để nói lên công lao to lơn của Bác , cảm nhận sâu
sắc về vai trò của mặt trời .
Câu 2 :Dũng cảm là phẩm chất tốt đẹp, đáng quý của dân tộc Việt
Nam ta. Lòng dũng cảm được hiểu là sẵn sàng dấn thân, không sợ khó
khăn, nguy hiểm dù trong bất kì tình huống nào. Người có lòng dũng
cảm là người luôn mạnh mẽ, dám đương đầu với khó khăn, thử thách,
không hèn nhát, run sợ, đặc biệt là luôn đấu tranh cho lẽ phải, cho
chính nghĩa. Lòng dũng cảm là vô cùng cần thiết bởi cuộc sống ẩn
chứa muôn vàn gian nan, thử thách, buộc chúng ta phải vượt qua thì
mới có thể thành công. Điều này được minh chứng rõ nhất trong con
người Việt Nam kiên cường bất khuất. Thời đại lịch sử anh hùng của
dân tộc ta đã ghi danh biết bao vị anh hùng, chiến sĩ, thậm chí là nông
dân dũng cảm, can trường xả thân vì đất nước. Hình ảnh chị Võ Thị
Sáu gan dạ trước nòng súng quân giặc, anh Bế Văn Đàn, anh Phan
Đình Giót, và hàng ngàn con người chảy trong mình dòng máu Lạc
Hồng đã khiến cả thế giới phải nể phục vì lòng yêu nước, dũng cảm,
cứng rắn “như gang như thép”. Hiện nay, lòng dũng cảm vẫn luôn
được phát huy, không chỉ là những tấm gương phòng chống tội phạm,
bảo vệ biên giới lãnh thổ, bắt cướp, mà còn là những con người dũng
cảm làm việc, dũng cảm thử thách những ý tưởng, kế hoạch mới để
đưa nền kinh tế, chính trị, xã hội nước ta ngày càng phát triển hơn
nữa. Như vậy, có thể thấy, lòng dũng cảm là một phẩm chất cao quý
của dân tộc Việt Nam, chúng ta – những thế hệ sau cần giữ gìn và phát
huy truyền thống này, đồng thời lên án lối sống hèn nhát, không có
chính kiến, vị kỷ của một bộ phận người trong xã hội.
Câu 3 :Nhà văn Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện
Chợ Mới, tỉnh An Giang. Năm 1945, ông tập kết ra Bắc và bắt đầu
viết văn. Ông viết nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản
phim; đề tài chính; cuộc chiến đấu của nhân dân Nam Bộ. Chiếc lược
ngà viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là truyện ngắn xuất sắc viết về
tình cha con và nỗi đau chiến tranh do quân giặc gieo rắc thời chống
Mỹ thông qua nhân vật ông Sáu và bé Thu.
Truyện đã thể hiện tình cha con sâu sắc của hai cha con ông Sáu trong
hai tình huống. Tình huống thứ nhất, hai cha con gặp nhau sau tám
năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc
em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu phải ra đi. Đây
là tình huống cơ bản thể hiện sâu sắc tình cảm của bé Thu dành cho
người cha thân yêu. Tình huống thứ hai, ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất
cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để
tặng con, nhưng ông đã hy sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con
gái. Tình huống này bộc lộ sâu sắc tình cảm của người cha đối với
con.
Tình yêu của bé Thu đối với cha được thể hiện thật đặc biệt. Gặp lại
con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không
kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy con. Nhưng thật trớ
trêu, đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra ngờ vực, lảng
tránh và ông Sáu càng muốn gần con thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh
nhạt, xa cách. Tâm lí và thái độ ấy của Thu đã được biểu hiện qua
hàng loạt các chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh
động. Khi mới gặp ông Sáu, cô bé hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy
và kêu thét lên. Những ngày ông Sáu ở nhà, bé Thu chỉ gọi trống
không với ông mà không chịu gọi cha, nhất định không chịu nhờ ông
chắt nước nồi cơm to đang sôi. Bữa cơm, Thu liền hất cái trứng cá mà
cha nó gắp cho. Cuối cùng, khi bị ông Sáu tức giận đánh cho một cái
thì bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua cái dây cột
xuồng kêu rổn rảng thật to.
Sự ương ngạnh ấy của cô bé hoàn toàn không đáng trách. Trong hoàn
cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé nhỏ để có thể
hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le của đời sống và người lớn
cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó những khả năng bất thường, nên nó
không tin ông Sáu là ba nó chỉ vì trên mặt ông có thêm vết sẹo, khác
với hình ba mà nó được biết. Phản ứng tâm lý của em là hoàn toàn tự
nhiên, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của em sâu
sắc, chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. Trong cái
cứng đầu của em có chứa cả sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu dành
cho người cha khác – người trong tấm hình chụp với má em.
Nhưng trong buổi sáng cuối cùng, trước phút ông Sáu phải lên đường,
thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Lần
đầu tiên Thu cất tiếng gọi ba mà tiếng kêu như tiếng xé, rồi nó vừa
kêu vừa chạy xô tới, nhan như một con sóc, nó chạy thót lên và dang
hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó, nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn
cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa, hai tay nó
siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó
dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run
run.
Sở dĩ có sự biến đổi đột ngột như vậy trong thái độ và hành động của
bé Thu là vì trong đêm bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích
về vết thẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu được
giải toả và ở cô bé nảy sinh một trạng thái như là sự ân hận, hối tiếc:
Khi nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như
người lớn. Vì thế, trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nỗi nhớ
mong với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra thật
mạnh mẽ và hối hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối hận. Chứng kiến
những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải
chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì
cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.
Đó là tình cảm thật sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch
ròi. Ở Thu còn có nét cá tính là sự cứng cỏi đến mức tưởng như ương
ngạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả nét hồn nhiên, ngây
thơ của con trẻ.
Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu được miêu tả trong truyện, ta
thấy tác giả tỏ ra rất am hiểu tâm lý trẻ em và diễn tả rất sinh động với
tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.
Nhân vật chính thứ hai trong tác phẩm là nhân vật ông Sáu. Tình cảm
của ông đối với con gái nhỏ được biểu hiện phần nào ở tình huống thứ
nhất, trong chuyến về thăm nhà. Cũng như bao người khác ông Sáu đi
theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ
và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong ông nỗi nhớ
nhung tha thiết đứa con gái mà khi ông đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi
nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng
ông. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi “Sao không
cho con bé lên cùng?’’. Không gặp được con ông đành ngắm con qua
ảnh vậy... Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kỹ lắm rồi, nhưng ông
luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Và tám năm
trời là những năm tháng dài đằng đẵng ấy cũng làm tăng lên trong
lòng người cha nỗi nhớ nhung, mong chờ, ông Sáu ao ước gặp con.
Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông Sáu được nghỉ
phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người.
Ông đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau
như thế nào. Những điều ấy choán hết tâm trí ông. Khi xuồng vừa cập
bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Hẳn vì quá xúc động nên
lúc ấy ông Sáu đã có những cử chỉ mà ngay cả người bạn của ông
cũng không ngờ tới “giọng anh tập bập run run”, ông dang hai tay chờ
đó con và sải những bước dài đến gần con. Tưởng rằng con bé sẽ chạy
tới nhào vào lòng ông nhưng không ngờ bỗng nó hét lên “má...má” và
bỏ chạy. Hành động của con bé khiến ông sững sờ. Bao yêu thương,
mong chờ mà ông dồn nén bấy lâu dường như tan biến hết chỉ còn lại
trong ông là nỗi đau khổ vô bờ.
Nỗi đau ấy còn dày vò ông trong suốt ba ngày ở nhà. Ba ngày ở nhà
ông Sáu không đi đâu xa mà chỉ quanh quẩn ở nhà chơi với con. Ông
muốn dùng lời nói, hành động của mình để bù đắp những mất mát về
tình cảm cho con bé. Dường như ông muốn bằng những cử chỉ và lời
nói yêu thương tràn đầy âu yếm, ông sẽ xoa dịu đi những nghi ngờ,
xóa tan những lạnh lùng của con bé đối với ông. Người cha muốn ôm
con và có lẽ chắc ông cũng mong đứa con gái của mình có thể chạy sà
vào lòng. Thế nhưng không... những gì ông từng mơ ước, từng suy
nghĩ, giờ chỉ như giấc mơ không thật bởi chính thái độ của Thu đối
với ba nó. Khi mẹ bảo nó gọi bố vào ăn cơm thì con bé đã nói trổng:
“Vô ăn cơm!”. Câu nói của con bé như đánh vào tâm can ông, nhưng
ông vẫn ngồi im giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế
nhưng Thu vẫn bướng bỉnh không chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc nói
mấy câu “Cơm chín rồi!” và “Con kêu rồi mà người ta không nghe”.
Đến lúc này ông chỉ biết “nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười.
Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy
thôi.”
Dường như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương
những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá
yêu thương con nên ông Sáu không cầm nổi cảm xúc của mình. Trong
bữa cơm, cưng con, ông gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó hất
tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, ông đã vung tay đánh và
quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của
ông. Tất cả cũng chỉ là do ông quá yêu thương con. Có thể coi việc bé
Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những
tình cảm mà lâu nay ông dồn nén và chất chứa trong lòng.
Song đến giây phút cuối cùng, trước khi ông Sáu đi xa thì tình cảm
thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Lúc ra đi, chân ông ngập ngừng
không muốn bước. Hẳn rằng ông Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng
sợ nó lại quẫy đạp và bỏ chạy nên ông chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp
mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu. Trong ánh mắt của ông, chất chứa bao
yêu thương mà ông muốn trao gửi tới con. “Thôi ba đi nghe con”.
Cũng chính giây phút ấy, ông nghe thấy từ con tiếng gọi “Ba... a.... a...
ba”. Tiếng gọi bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó
cũng là cái tiếng ba mà ông Sáu đã chờ đợi suốt tám năm trời xa con,
đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn
được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn lòng người đọc thì
nghẹn lại. Người cha không cầm nổi nước mắt vì bất ngờ, vì sung
sướng, vì thương yêu và vì cả sự éo le của tình cảm nữa. Hạnh phúc
đến với ông quá đột ngột khiến cổ ông nghẹn lại. Không kìm được xúc
động, ông Sáu đã khóc. Giọt nước mắt của ông là giọt nước mắt của
vui sướng, hạnh phúc. Và không muốn cho con thấy mình khóc, ông
Sáu một tay ôm con một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc
con... Thế là con bé đã gọi ông bằng ba. Ai có thể ngờ được một người
lính đã dày dạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là
người vô cùng mềm yếu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng
mong chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ.
Bây giờ ông có thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một
đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi, từng giây từng phút mong ông
quay về.
Tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả,
thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết ở tình huống thứ hai của câu
chuyện, lúc ông Sáu ở rừng. Ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con
gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước
đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt.
Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy
nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược trở
thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ
tử trong lòng. Ông bỗng lóe lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con
bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, ông
không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách
khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quý
hiếm - chiếc lược cho con của ông phải được làm bằng thứ quý giá ấy.
Và ông không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Ông sẽ đặt
vào trong đấy tất cả tình cha con của mình.
Kiếm được ngà voi, mặt ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy
đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính là lúc người ta đang hiện
lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi ông “ngồi cưa từng
chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”, “gò
lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông
thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây
lược thêm bóng thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở
thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy
nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử
mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm sao!
Nhưng ngày ấy đó vĩnh viễn không bao giờ đến nữa. Ông không kịp
đưa chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì người cha ấy đó hi sinh
trong một trận đánh lớn của giặc. Nhưng “hình như chỉ có tình cha
con là không thể chết được”. Không còn đủ sức trăn trối điều gì, tất cả
tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm được một việc “đưa tay vào túi,
móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn
hồi lâu. Nhưng đó là điều trăn trối không lời, nó rõ ràng là thiêng liêng
hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng
của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ giây phút
ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đó biến người đồng đội thành một
người cha - người cha thứ hai của cô bé Thu.
Câu chuyện về chiếc lược ngà không chỉ nói lên tình cha con thắm
thiết, sâu nặng, mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía
những mất mát đau thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu
con người, bao nhiêu gia đình.
Truyện Chiếc lược ngà diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm
thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến
tranh. Qua đó, tác giả khẳng định và ca ngợi tình cảm cha con thiêng
liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong những
cảnh ngộ khó khăn. Truyện thành công nổi bật ở nghệ thuật xây dựng
tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý, ở ngòi bút miêu tả tâm lí và
tính cách nhân vật, nhất là nhân vật trẻ em.
Đề bài 10
Câu 1 :a. Lặng lẽ Sa Pa- Nguyễn Thành Long
b. Đoạn văn sử dụng hình thức ngôn ngữ đối thoại. Dấu hiệu giúp em
nhận biết: • Đây là cuộc trò chuyện giữa anh thanh niên với ông Họa
sĩ. • Lời nói phát thành tiếng. • Có gạch ngang đầu dòng
c. Nếu xét trên phương diện nghĩa của từ: "Người cô độc" là con
người cô đơn độc thân, sống một mình, không có ai bầu bạn thì Bác
lái xe đúng. Nhưng khi theo dõi câu chuyện ta hiểu rằng anh thanh
niên không hề cô độc, không hề một mình. Ta hãy nghe anh thanh
niên nói: khi ta việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình
được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em,
đồng chí dưới kia. Tác dụng: Nhà văn để Bác lái xe giới thiệu như vậy
là một sự sáng tạo. Nó đem đến cho người đọc sự thú vị và gợi được
trí tò mò của độc giả.
Câu 2 :Văn bản “Bàn luận về phép học” của Nguyễn Thiếp đã gợi
cho em những suy nghĩ sâu sắc về mục đích của việc học chân chính.
Học có thể được định nghĩa là việc tiếp thu kiến thức từ bạn bè, thầy
cô, từ kinh nghiệm và từ cuộc sống. Kiến thức ấy không chỉ đơn giản
là tri thức, là lý thuyết mà còn có cả kĩ năng sống, đạo đức, cách đối
nhân xử thế. Như vậy, suy cho cùng mục đích chân chính của việc
học là học để làm người, học đạo đức, các đối nhân xử thế giữa con
người với con người trong cuộc sống hàng ngày. Bởi lẽ để sống, con
người không chỉ hoàn toàn dựa vào lý thuyết mà când có cả kĩ năng
sống, khả năng sinh tồn. Và để sống một cách có ý nghĩa thì con
người phải có đạo đức, biết cách ứng xử. Và đó mới chính là việc học
thực sự, học với một mục đích chân chính. Học để có những công cụ
để áp dụng vào đời sống. Vậy nên hãy mở rộng tầm mắt của mình,
học hỏi tất cả những điều xung quanh, không chỉ đơn giản là học lý
thuyết.
Câu 3 :“Thơ là thu của lòng người, thu là thơ của đất trời” Mùa thu từ
bao lâu nay đã trở thành suối nguồn vô tận, khơi nguồn cảm hứng cho
thi ca nhạc họa. Những cảnh đẹp thiên nhiên tươi sáng, trời thu trong
xanh, khí thu dịu mát, cảnh thu trong sáng đã làm mê luyến trái tim
bao thi sĩ. Nhỏ nhẹ và khiêm nhường Hữu Thỉnh góp vào cho bản hào
ca của đất trời một góc thiên nhiên “Sang thu” để cùng tôn vinh những
mùa trái, mùa hương của đất trời, xứ sở.
Mở đầu bài thơ, trước hết nhà thơ Hữu Thỉnh đã gửi đến người đọc
cảm nhận tinh tế của mình trước mùa thu trong không gian làng quê:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”
Trong không gian quen thuộc của làng quê Bắc Bộ, nhà thơ bỗng tinh
tế nhận ra mùi hương ổi chín. Đó là mùi vị ngọt ngào, nồng nàn thanh
mát của quê hương, của những tâm hồn đã chắt chiu vun trồng nên
hương ổi. Đó là hương vị quen thuộc, bình dị gợi nhắc đến mùa thu
quê hương. Không phải là lá ngô đồng như trong thơ của Bích Khê,
cũng không phải là hương cốm trong bài Đất Nước của Nguyễn Đình
Thi, bằng cảm nhận và tình yêu quê tha thiết, hương ổi đã phả vào tâm
hồn nhà thơ, đánh thức những cảm nhận riêng để ngỡ ngàng nhận ra
mùa thu đã đặt chân xuống trần gian tuyệt diệu. Nhưng hương ổi
mạnh mẽ, ngọt ngào phả vào trong gió se, càng làm quyện đọng vị
ngọt và sánh mịn của hương ổi. Nhưng Hữu Thỉnh cũng cho ta những
cảm nhận về đám mây khi thu chớm sang: “Sương chùng chình qua
ngõ. ”Từ “chùng chình” diễn tả vẻ đẹp mộng mơ, duyên dáng và yêu
kiều như nàng thiếu nữ đang e ấp duyên dáng bao quanh xóm làng.
Cảnh vật không gian làng quê ngập chìm trong màn sương khói mờ
ảo, giăng mắc như làm thiên nhiên thêm huyền ảo, lung linh hơn. Và
trước hương ổi trong gió se, trước đám mây chùng chình kia, thi nhân
của chúng ta ngỡ ngàng “Hình như thu đã về”. Từ “hình như” diễn tả
tâm trạng bâng khuâng, man mác của nhà thơ, cũng như vẻ ngờ ngợ
không dám tin rằng thu đã về đấy rồi. Đó là sự luyến tiếc của âm hồn
thi nhân, vừa ngỡ ngàng với thu sang, vừa luyến tiếc khi hạ đã rời đi.
Quả là một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết.
Sang đến khổ thơ tiếp theo, là sự cảm nhận tinh tế của thiên nhiên mùa
thu trong không gian đất trời. Sự tinh tế và tấm lòng khát khao giao
cảm, muốn nắm bắt sự thay đổi của vạn vật đã được bộc lộ rõ:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Dòng sông mùa thu không còn vẻ vội vàng, gấp gáp và chảy xiết như
trong những ngày hạ, sông êm đềm, tĩnh lặng, yên ả uốn mình hiền
hòa sau lũy tre xanh xanh của làng quê. Những cánh chim bắt đầu, cho
thấy sự quan sát sát tinh tế của Hữu Thỉnh khi nhận ra sự chuyển dời
của đàn chim tìm nơi trú ẩn cũng là dấu hiệu nhắc thu sang. Và đám
mây kia chính là điểm nhấn cho nền trời, cho bức tranh thiên nhiên
quyến rũ, xinh tươi ấy. Đám mây vắt nửa mình, dường như cũng đang
chứa đựng sự lưu luyến, bịn rịn. Đám mây giống như cây cầu nối liền
giữa mùa hạ và mùa thu để ngân rung mãi lên một nhịp riêng của đất
trời, nhịp giao thời, nhịp chuyển mùa. Thu sang trong bao nhiêu của
thi ca muôn thuở, nay trở về trong những câu thơ của Hữu Thỉnh sao
vẫn đắm đuối, si mê lòng người như thế. Vậy là mùa thu trong không
gian làng quê được cảm nhận mới tinh tế và nên thơ làm sao. Chỉ có
thể yêu thiên nhiên lắm, Hữu Thỉnh mới vẽ nên một bức tranh thật
đẹp, thật duyên đến vậy.
Khổ thơ cuối là những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về cuộc đời
mỗi con người:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
Bằng những chiêm nghiệm sâu sắc về nhân sinh Hữu Thỉnh đã gửi
đến chúng ta những thông điệp thật ý nghĩa. Hình ảnh “nắng, mưa,
sấm” là biểu tượng cho những sóng gió, thăng trầm của cuộc đời mà
con người đã trải qua, khi đã đi qua bao nhiêu nắng mưa, bao nhiêu
giông tố, con người dường như cũng trở nên điềm đạm, bình tĩnh hơn
trước những thử thách, trông gai của cuộc đời. Con người khi trưởng
thành “hàng cây đứng tuổi” sẽ không còn những bồng bột, sôi nổi và
sự liều lĩnh của tuổi trẻ mà sẽ lắng mình xuống để suy ngẫm và chiêm
nghiệm, cũng sẽ không để những sóng gió cuộc đời quật ngã mỗi
bước đi. Phải chăng đó cũng chính là thông điệp sâu sắc mà Hữu
Thỉnh gửi gắm.
Với thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt, giọng điệu tự nhiên,
nhẹ nhàng, ngôn ngữ hình ảnh trong sáng, tinh tế giàu sức gợi, sức
biểu cảm, Hữu Thỉnh đã gửi đến người đọc một bức tranh thiên nhiên
lúc sang thu thật sự đẹp, thật duyên, thật tinh tế của một tâm hồn yêu
thiên nhiên, quê hương tha thiết. “Sang Thu” của Hữu Thỉnh đã góp
vào bản hoà ca mùa thu của quê hương, đất nước một tiếng nói riêng,
đầy thi vị, ám ảnh, xúc động.

You might also like