You are on page 1of 7

TÌNH CHA CON TRONG CHIẾC LƯỢC NGÀ

Đại văn hào Andersen từng nói: “ Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính
cuộc sống vẽ nên.” Dù hiện thực đau khổ đến đâu, vẫn le lói những ánh sáng trong
trẻo, ấm áp đong đầy. Đó là thứ ánh sáng diệu kỳ từ “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu
tâm hồn con người” mà các nhà văn luôn mải miết đi tìm. Và Nguyễn Quang Sáng là
một người đi tìm miệt mài như thế. Giữa tháng ngày gian khổ, tối tăm nhất của
kháng chiến chống Mỹ, ông vẫn thấy tia sáng xanh ngời từ tình cảm chân thành
trong những người dân, người lính. Để rồi, tất cả đã được nhà văn soi chiếu vào
tình cha con sâu nặng trong tác phẩm “Chiếc lược ngà”.

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn trưởng thành gắn liền với cả hai cuộc kháng chiến,
là một cây đại thụ của văn học cách mạng Việt Nam. Tác phẩm của ông như thâu
tóm được cả hồn cốt Nam Bộ, có cái hơi thở đồng bằng, phù sa dòng sông, cái
khoáng đạt giản đơn của người dân miền sông nước. Cùng với Cánh đồng hoang,
Mùa gió chướng,… “Chiếc lược ngà” cũng nằm trong mạch nguồn ấy. Được viết
năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
đang diễn ra ác liệt nhất, truyện ngắn tuy viết về chiến tranh nhưng lại tập trung làm
nổi bật tình phụ tử thiêng liêng cao quý. Tựa như câu chuyện cổ tích thời hiện đại,
tác phẩm đã làm rung động trái tim bạn đọc bao thế hệ bởi tình yêu thương con
thắm thiết bất diệt của Ông Sáu, tình yêu ba sâu nặng đầy kiêu hãnh của bé Thu…
Tựa như mặt nước ngọt lành và trong veo đến lạ, văn chương luôn phản chiếu nội
tâm con người. Bởi thế mà lật giở từng trang sách “Chiếc lược ngà” ta như mở từng
cánh cửa, từng bước khám phá tình yêu thương da diết, chân thành dành cho con
sâu trong lòng một người cha, người lính.

Là một người con Nam Bộ, ông Sáu chẳng thể làm ngơ khi mảnh đất quê hương bị
lũ mọi rợ giày xéo. Nghe tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, ông lên đường cùng dân
tộc bước vào cuộc trường chinh. Hạnh phúc gia đình ông xếp lại ngăn nắp trong tim,
ông đi kháng chiến khi đứa con gái đâu lòng còn chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ thương
con, khao khát gặp con lúc nào cũng thường trực như con sóng cuộn trào nơi tấm
lòng người ba ấy. Không giây phút nào ông nguôi nhớ đến con, tình yêu con trở
thành động lực, sức mạnh tinh thần vô giá giúp ông thêm chắc tay súng diệt sạch
bóng thù để sớm có ngày đoàn tụ.

Và ước muốn cháy bỏng của ông cuối cùng cũng đã thành sự thực. Sau tám năm xa
cách ông có dịp về thăm nhà ba ngày. Trên đường trở về “cái tình người cha đã và
cứ nôn nao trong dạ”. Thế nên thuyền vừa vào đến, thấy đứa trẻ trạc độ lên chín lên
mười tóc ngắn ngang vai, mặc áo bông đỏ đang mải mê chơi nhà chòi dưới gốc xoài
ông đã đoán biết đấy là con mình. Phải chăng đó là sức mạnh diệu kỳ của tình máu
mủ? Phải chăng từng ngày nơi quân ngũ, người cha ấy đã luôn mường tượng dáng
hình của con, hằng khát khao ôm ấp, vỗ về. Cho nên linh cảm ruột thịt đó mới chuẩn
xác đến vậy. Nó bồn chồn xao động, nó day diết khôn nguôi, nó như những tế bào
hồng cầu trong từng tơ máu, máu còn chảy, tim còn đập thì lòng người không thể
nào nguôi ngoai. Và nó làm lý trí trở thành công cụ của con tim. Không thể chờ
xuồng cập bến, ông nhón chân nhảy thót lên bờ vội vàng với những bước dài,vừa đi
vừa kêu to “thu,con”! Những bước chân như chiếc bản lề cửa, tạm khép lại cuộc đời
“người lính” để mở ra cơ hội làm trọn một “người cha” cho ông Sáu. Với ông, chờ
đợi thêm một phút một giây nào nữa thôi, có lẽ cũng đủ bóp nghẹt trái tim. từ nôn
nao tâm trạng ông Sáu đã chuyển sang nôn nóng. Có lẽ bởi: “Có hai điều không thể
bỏ lỡ trong cuộc sống, đó là chuyến xe cuối cùng về nhà và người ta yêu thật lòng”
(Nguyễn Nhật Ánh). Đây là lần trở về đầu tiên sau tám năm xa cách và cũng có thể
là sau cuối của ông, là cơ hội hiếm hoi để ôm con vào lòng, sống trong tình cha con
ấm áp mà ông chưa từng được hưởng. Vậy mà mọi chuyện diễn ra thật éo le. Trong
khi ông vừa bước tới vừa dang tay đón chờ thì con bé lại ” giật mình tròn mắt nhìn” ,
cái nhìn vừa lạ lùng vừa ngơ ngác. Không ghìm nổi xúc động, vết thẹo trên má ông
đỏ ửng lên, hai tay vẫn đưa về phía trước “ba đây con, ba đây con”. Người đọc cảm
nhận trong giọng nói “lặp bặp run run” ấy, là cả tiếng lòng, cả tâm hồn người cha
đang reo lên vì hạnh phúc. Một hạnh phúc vô bờ khi hội ngộ khiến người đàn ông
từng vào sinh ra tử chợt nghẹn ngào khôn xiết, tưởng như tất cả là một giấc mơ và
chỉ có thể cất tiếng “run run” , khẽ khàng để không thức dậy. Song, với một đứa trẻ
chỉ mới tám tuổi, tất cả lại trở thành sự vồ vập thái quá, nôn nóng thái quá,đặc biệt
khi vết thẹo trên má ông đỏ ửng lên,dần dật trông rất dễ sợ càng làm con bé nghi
ngại. Nó mặt tái đi,vụt chạy , vừa chạy vừa kêu thét “má má”. Phản ứng sợ hãi của
bé thu khiến ông Sáu đau đớn hụt hẫng. “Đau đớn khiến mặt anh sầm lại, hai tay
buông thõng như bị gãy” ở đây nỗi đau tinh thần được cảm nhận bằng nỗi đau thể
xác. Thì ra có một nỗi đau chẳng kém gì súng mìn đạn dược, thì ra sự quay lưng từ
chính người thân yêu ruột thịt có thể kéo người ta từ bầu trời hạnh phúc, hi vọng
xuống thung lũng đau thương như vậy. Đôi tay dang rộng để chào đón con nhưng
nhận lại chỉ là một khoảng trống. Một khoảng trống vô hình mà lại trĩu nặng ngàn
cân, làm cánh tay từng gánh vác bao đầu súng, tiêu diệt kẻ thù giờ đây mất hết sức
lực và đôi chân từng vượt mọi hang sâu hốc đổ cheo leo chỉ có thể “đứng sững lại”.
Phải chăng vì cả cõi lòng người cha ấy đã bị vùi trong thất vọng ập đến quá đỗi bất
ngờ? Ngược lại với những mong đợi của ông, ngược lại với khung cảnh thường
thấy của những cuộc đoàn viên, hành động bỏ chạy đi của bé Thu còn khiến người
cha ấy tan vỡ hơn cả một cuộc chia ly. Nhưng tình phụ tử sâu nặng nào dễ lụi tàn,
ông Sáu vẫn kiên trì dùng tấm lòng chân thành của mình làm chất củi, đốt lên ngọn
lửa yêu thương ấm áp để truyền đến,sưởi ấm cho con. Hai ngày ở nhà ông chả dám
đi đâu xa chỉ quanh quẩn dỗ dành con. nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Mặc kệ
những lời nói cử chỉ vỗ về làm thân bé Thu vẫn một mực tỏ ra thờ ơ lạnh lùng. Ông
càng xích lại con bé lại càng lùi xa, ông càng yêu thương con bé lại càng lảng tránh.
Ông thèm ước được nghe một tiếng “ba” nhưng gọi ông vào ăn cơm con bé cũng
nói cộc lốc, phải chắt nước nồi cơm đang sôi nó cũng nhất quyết ko chịu nhờ ông.
Bao tiếng đạn nổ bom rơi khốc liệt, ám ảnh người chiến sĩ ấy gắng vượt qua chỉ
mong ngày trở về đổi lấy tiếng “ba” từ đứa con thân yêu nhất. Nhưng giờ đây, con
gọi cha là “người ta”, chẳng hơn chẳng kém gì người dưng nước lã! Cách cư xử ấy,
thái độ ấy của bé Thu, hẳn là đã cứa sâu vào lòng ông Sáu , để lại vết xước lớn,
nhức nhói hơn cả vết thẹo trên gương mặt. Khổ tâm hết sức, song ông chỉ biết lắc
đầu khe khẽ cười. Quả thực: “Có lẽ vì khổ tâm đến mức không khóc được nên đành
phải cười vậy thôi.” Tiếng cười nhưng lại mang thanh âm tiếng khóc, lại là giọt nước
mắt dồn nén, theo đường chảy ngược vào trong. Phải chăng đúng như Nguyễn
Ngọc Tư từng chiêm nghiệm: “ Nước mắt chảy từ con mắt là thứ thường thôi, có thứ
nước mắt không chảy ra kiểu như vậy.” Đó mới là đau đớn tận cùng, gắng gượng
dùng nụ cười trên môi che đậy vết nứt trong lòng. cũng từng vì thương con mà Lão
Hạc “cười như mếu”, bà cụ Tứ qua ngòi bút Kim Lân cố “tươi cười, đon đả”, không
dám để con nhìn thấy bà khóc”. Nhưng khi khổ tâm chất chồng, cuối cùng sẽ đến lúc
không thể kìm nén nổi. Trong bữa cơm trưa, có miếng trứng cá ngon, ông Sáu gắp
vào bát Thu nhưng con bé lại hất miếng trứng cá đi,như hắt hủi một cách phũ phàng
nhất tình cảm của cha. giọt nước tràn ly, vào phút giây tức giận ông vung tay đánh
con một cái. Nhưng đó đâu phải hành động bạo lực đáng lên án như người cha vũ
phu, đánh con mình trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, người
cha “dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi
xuống cát…” Bởi trong lời trách mắng: “Sao mày cứng đầu quá vậy hả” ta còn thấy
xen lẫn trong cảm xúc tức giận không sao kìm nén đc là băn khoăn, thất vọng, đau
khổ rồi lực bất tòng tâm. Tất cả hiển hiện, sưng tấy trên trang viết, tất cả xé toạc
thành vết thương không thể khép miệng trong lòng người cha rất mực thương con
nhưng lại bị con kiên quyết chối từ. Ngọn lửa yêu thương mỗi lần bền bỉ thắp sáng
lên lần nữa lại tiếp tục bị dòng nước băng giá một mực vùi lấp. Cô bé nào hiểu cho
những nỗi niềm giấu kín đang dồn nén trong lòng cha,những nỗi niềm đang bắt buộc
phải được trút xuống, được thoát ra. Lúc này, Thu vẫn tỏ ra lì lợm “ngồi im, đầu cúi
gằm” sau đó lặng lẽ đứng dậy đi ra xuồng chèo một mạch sang nhà bà ngoại. Tác
giả không miêu tả tâm trạng của ông Sáu trước hành động quyết liệt cuối cùng này
nhưng chính khoảng lặng đó cũng đủ lắng sâu vào lòng độc giả, đọng lại một nỗi
lòng khắc khoải vì con. Yêu chiều không được, cứng rắn cũng không xong, ông Sáu
phải làm sao đây? Người cha, người lính trên trang viết Nguyễn Quang Sáng tìm
mọi cách làm đủ mọi điều để có được tình cảm từ con, đối lập với bậc sinh thành
của chị em Điền trong “ Cánh đồng bất tận” – 1 người cha đối với con “ơ thờ, lạt lẽo,
chuyện gì cần nói thì nói vài câu nhát gừng”, 1 người cha “ giống như đồ vật bằng
gốm vừa qua cơn lửa lớn, vẫn hình dáng ấy nhưng đã rạn nứt, nên chúng tôi chỉ
dám đứng xa mà nhìn, mủ mỉ nâng niu, nếu không thì vỡ mất.” Đến lúc chia tay, tình
phụ tử không chỉ là khoảng lặng nữa, mà thể hiện bằng một nốt giáng trầm hơn qua
“đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu” ông sáu nhìn con.Ông muốn mà không dám đến ôm
Thu, sợ nó giẫy lên bỏ chạy nên chỉ dám nhờ ánh nhìn bộc bạch hộ tâm tư. Đôi mắt
như mặt hồ, yên ả, dịu dàng ăm ắp tình thương cho con; nhưng cũng mang nỗi
buồn ko ngớt tựa những gợn sóng lăn tăn cứ nối tiếp nhau trải mãi. Ba ngày quý giá
sắp trôi qua mất rồi, chưa kịp nghe tiếng ba, đã phải trở lại cùng tiếng súng… Trước
lúc lên đường ông chỉ chào nhỏ với giọng buồn buồn ” thôi ba đi nghe con”.ai cũng
nghĩ Thu chỉ đứng nhìn như thế,nhưng bất ngờ nó lại kêu lên một tiếng “ba” tức
tưởi, vỡ òa. Ông Sáu trong giây phút sững sờ một lần nữa không ghìm nổi xúc động
. Người đàn ông bao phen xông pha trận mạc ấy tay ôm con, tay lau nước mắt. Đến
đây ta mới thực sự hiểu vì sao giọt nước mắt là “giọt châu của loài người”, là miếng
kính biến hình của vũ trụ” (Nam Cao). Giọt nước mắt của ông Sáu rơi xuống, đã
ngân vang sự bất ngờ đang reo lên thánh thót, đã lấp lánh niềm hạnh phúc vô bờ
của một người cha lần đầu được nghe con gọi ba sau bao nhiêu mong mỏi. Giọt
nước mắt đã gột rửa đi mọi buồn khổ để nhường chỗ cho một niềm vui tươi sáng.
Nhưng thực cảnh miền Nam thân yêu bấy giờ vẫn còn rất tối tăm. đây cũng có thể là
giây phút cuối cùng cha con đc ở cạnh nhau. Vì vậy trong giọt lệ ấy vẫn có cả nỗi
nghẹn ngào, tiếc nuối. Và ông Sáu vẫn phải tạm biệt con, lên đường đánh giặc.

Hành trang quan trọng nhất người cha ấy mang tới chiến trường có lẽ là tình phụ tử
sâu sắc, là nỗi ân hận vì lỡ đánh con,là lời dặn của con ” ba về ba mua cho con cây
lược nghe ba”. Ông quyết định tự làm 1 chiếc lược ngà tặng Thu. Kiếm đc khúc ngà,
ông ” hớn hở như một đứa trẻ đc quà ” rồi ” ngồi cưa từng chiếc răng lược tỉ mỉ và
cố công như một người thợ bạc”, ” gò lưng tỉ mẩn khắc từng chữ yêu nhớ tặng Thu
con của ba” . Tình yêu con đã biến người chiến sĩ ấy trở thành mộtnghệ nhân –
người nghệ nhân chỉ làm một tác phẩm duy nhất trong đời. Tình yêu là con trở thành
nét hoa tay đặc biệt nhất để người lính vốn quen với súng đạn, khói bom đã khéo
léo hơn bội phần. Lời nói yêu, nhớ Thu nào chỉ khắc lên chiếc lược, mà vốn còn
khắc sâu vào lòng ông Sáu từ lâu. Chỉ cần khoảnh khắc con gọi “ba” , với vòng tay
ôm và cái hôn thắm thiết đã đủ trở thành động lực lớn lao nhất để người cha ấy cầm
súng chiến đấu. Đúng như Haruki Murakami từng nói:”Hạnh phúc luôn ngắn ngủi,
nhưng trong những ngày tháng mệt mỏi của cuộc đời , chỉ cần nhớ về một khoảnh
khắc hạnh phúc đã từng có, người ta lại có can đảm để sống.” (Ký ức được đánh
số). Mỗi đêm nhớ con ông lại mang cây lược ra ngắm rồi mài lên tóc mình cho thêm
bóng. Chiếc lược chưa chải được mái tóc Thu lần nào nhưng đã gỡ rối được một
phần những tâm trạng ngổn ngang của ông. Nó trở thành cầu nối giữa cha con ông,
thay cho lời xin lỗi lúc ông đánh con. Chiếc lược ấy là kết tinh của tình phụ tử mộc
mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kì diệu thiêng liêng. Cũng kết đọng cả tấm
lòng người cha dành cho con là những bức thư tay nhân vật bố của cậu bé Enricô
trong “Những tấm lòng cao cả” viết gửi con mình. Bao nhắn nhủ chân thành về lẽ
sống, cách làm người, bao yêu thương bày tỏ nơi câu chữ: “Bố rất yêu con, con ạ.”
Nhưng nếu Enrico nhận được thư từ cha đều đặn mỗi tháng 1 lần thì bé Thu không
được may mắn như vậy.

Ông Sáu ao ước đến ngày gặp lại con, trao cho con cây lược nhưng lại ngã xuống
trong một trận càn của giặc. Không còn đủ sức trăn trối điều gì, ông thu tất cả tàn
lực lấy cây lược trong túi đưa cho ông Ba và nhìn ông Ba hồi lâu. Ánh nhìn ấy trước
lúc hi sinh còn thiêng liêng hơn cả những lời di chúc bởi đó là một sự ủy thác , là
ước nguyện cuối cùng của ông, ước nguyện của tình phụ tử. Nếu Voltaire từng
quan niệm: “chân lý cuối cùng trên cõi đời này vẫn chỉ là yêu. yêu là sống và còn
sống là còn yêu” thì tình phụ tử giữa ông Sáu và bé Thu dường như đã vượt qua
giới hạn của thế gian, đời người : “chỉ có tình cha con là kh thể chết đc”. Chiến tranh
có thể lấy đi tất cả nhưng không thể giết chết được tình cha con trong trái tim người
chiến sĩ bộ đội cụ hồ ấy.

Nếu ví tình cha của ông Sáu như ánh nắng trưa hè rực rỡ, chói ngời tâm trí độc giả
thì tình cảm Thu dành cho cha sẽ là ánh nắng ban mai.ban đầu phải để ý kĩ mới
thấy lấp ló qua tán lá, và đúng lúc vầng dương lên hẳn, ta mới bất ngờ, ấn tượng vì
sức tỏa sáng khắp không gian của nó. Thu sinh ra trong hoàn cảnh đất nước có
chiến tranh. Ông Sáu phải rời nhà đi kháng chiến từ lúc em chưa đầy một tuổi. Lớn
lên mà chưa 1 lần đc cảm nhận hơi ấm của tình cha, em chỉ có thể nhìn ba qua tấm
ảnh chụp chung với má. Thương nhớ bao nhiêu em cũng chỉ biết mang tấm hình ra
ngắm. Hình ảnh cha đẹp đẽ hiền từ luôn in sâu trong tâm trí Thu, dù mới chỉ nhìn
qua khung ảnh nhỏ ấy. Tận sâu trái tim cô bé ấy là khao khát cháy bỏng được gặp
ba. Sau tám năm xa cách mới được gặp ba lần đầu- người cha bằng xương bằng
thịt vậy mà em lại không nhận ra. Với 1 đứa trẻ chưa đầy mười tuổi, một người đàn
ông lạ tiến đến đường đột và vồ vập quá mức, ngay lập tức gọi mình là ‘con’ xưng
‘ba’, phản ứng của Thu ” giật mình tròn mắt nhìn” , rồi sợ hãi chạy vụt đi cũng dễ
hiểu. Đặc biệt khi hình ảnh ba trong tâm trí em vô cùng hiền hậu đẹp đẽ, không hề
mang vết thẹo dài trên mặt, lại đỏ ửng, dần dật dễ sợ như vậy.

Yêu cha hết mực nên dù thiếu thốn, khao khát tình cha nhưng em vẫn cự tuyệt mọi
dỗ dành. Với em đó là ng đàn ông lạ, không phải ba, em đã tin là như vậy thì không
vì đòn roi đe nạt hay lời ngon tiếng ngọt mà thay đổi. Em tìm mọi cách để chối từ
ông Sáu: luôn nói trổng hoặc gọi ông là “người ta”. Thử thách lớn nhất là khi phải
chắt nước ra khỏi nồi cơm to đang sôi, nó “nhăn nhó”, “luýnh quýnh”, “loay hoay”,
tâm lý bối rối của một đứa trẻ tám tuổi hiện lên mồn một. Một là phải chịu khuất phục
và gọi ông Sáu là “ba” để được giúp đỡ, hai là nó phải tìm cách làm một mình, sẽ rất
khó khăn và nguy hiểm. Chao ôi, trên đời làm gì có ai thích chọn những thứ trắc trở
hơn những thứ đơn giản, dễ dàng, trừ khi họ có thứ quý giá hơn cần phải bảo vệ,
không thể đánh đổi. Và với bé Thu, một cô bé mới tám tuổi, tiếng “ba” nó cất giữ
trân trọng ấy là điều đắt giá nó không thể tùy tiện gọi một người lạ chỉ đột nhiên xuất
hiện trong đời nó. Vì yêu, vì kính trọng nên càng không thể đem ra để đổi lấy sự
giúp đỡ. Nó phải giữ gìn tiếng gọi thiêng

liêng ấy cho người ba thực sự mà nó được biết tới. Dù sẽ nguy hiểm, sẽ khó khăn,
nó vẫn dùng cái vá để múc từng vá nước ra ngoài. Sự kiên quyết, thông minh của
nó cũng khiến bác Ba, ông Sáu và cả người đọc đôi phần ngỡ ngàng. Không chỉ
không muốn trao cho ông Sáu tiếng gọi “ba” mà nó còn một mực cứng rắn, không
tiếp nhận tình cảm ông dành cho nó. Trong bữa cơm có miếng trứng cá ngon, ông
Sáu lựa ra gắp vài bát Thu thế mà em lại hắt ra, cơm văng tung tóe khắp mâm. rồi
vừa bị đánh vừa bị mắng nhưng con bé ko hề tỏ ra hối hận thậm chí còn lì lợm, lặng
lẽ gắp miếng trứng vào bát rồi bỏ ra xuồng, còn cố ý khua dậy cột rổn rảng như
khiêu khích. phản ứng có phần thái quá ấy như thách thức giới hạn của ông Sáu –
người vốn vì thương con nên đã rất bao dung, nhẫn nại và cả người đọc. Nhưng
như Nguyên Ngọc từng nói: “ nếu đọc bằng mắt thì chỉ thấy được hình dáng bên
ngoài, đọc bằng tâm thì mới thấy được da thịt, đọc bằng hồn thì thấy được cốt tủy”,
khi đọc hết tác phẩm và thực sự đặt mình vào vị trí của một cô bé tám tuổi, ta mới
hiểu và cảm thông với những gì Thu hành xử. Cách biểu hiện tình cảm và bảo vệ
hình tượng người cha trong lòng của em chỉ thật bộc trực, thậm chí là hồn nhiên đến
mức đáng giận. Đối với cô bé, sự xuất hiện của ông Sáu như đang đe dọa đến hình
tượng của người ba trong bức ảnh mà nó vẫn luôn ấp ủ trong lòng bấy lâu, một đứa
trẻ tám tuổi sao có thể kịp thích nghi với những thay đổi bất thường lớn như thế
trong cuộc đời chúng? Càng giữ khoảng cách với ông Sáu tức là càng giữ được
nguyên vẹn hình ảnh người cha trong tâm trí nó, và đó cũng là cách duy nhất. Sự
cương quyết, dữ dội kia thực chất chỉ là hình hài khác của một tình yêu cha vô cùng
mãnh liệt, nào phải là thói xấu của một cô bé đỏng đảnh nhiều sách nhiễu, mà đó là
sự kiên định, quyết liệt của một người có lập trường mạnh mẽ và yêu ba hết mực.

Nguyễn Quang Sáng đã làm rõ điều đó ở liền sau tác phẩm, rằng Thu thực sự là cây
xương rồng bé nhỏ khoác lên lớp vỏ xù xì, gai góc nhưng trong lòng luôn dào dạt
mạch nguồn yêu thương với cha. Khi được bà ngoại giải thích về lai lịch của vết sẹo
trên má ông Sáu, em mới vỡ lẽ ông thực sự là bậc sinh thành đáng kính của mình.
Lời của bà về chuyện ba nó đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương,về

tội ác mấy thằng Tây ở đồn đầu vàm đủ tỏ tường tất cả, cũng giống như lời ông
Kamaji làm cô bé Chihiro chợt hiểu : “Có 1 thứ mà cháu khó có thể nhận ra. Đó là
tình yêu” (phim Vùng đất linh hồn). Tình yêu thiêng liêng từ người cha ruột thịt đã bị
vết thẹo dần dật dễ sợ che dấu mất trong hai ngày qua,khiến Thu nhận nhầm đó là
sự dỗ dành từ 1 ai đó xa lạ . Ròng rã tám năm, không đủ để đứa con quên đi hình
ảnh người cha, nhưng đủ để chiến tranh tàn phá hình dáng một con người. Tâm trí
non nớt của em có lẽ chẳng thể tưởng tượng nổi nơi chiến trường có thể khắc lên
con người ta những vết thương đau đớn đến thế. Vậy nên khi vỡ lẽ ra tất cả, ” Nó
nằm im lăn lộn thở dài như ng lớn”. Thu lúc này có sự khác biệt với những Thiều,
những Tường, những Mận rất đỗi vô tư trên trang sách Tôi thấy hoa vàng trên cỏ
xanh: “trẻ con thì ko biết cách nuôi nấng nỗi buồn dài lâu như người lớn.” Là tình
yêu cha đang lớn thêm gấp bội cũng khiến cho tâm hồn em thêm trưởng thành? Để
rồi theo tiếng thở dài là hình ảnh mình cư xử lạnh lùng với ba ùa về, như cơn sóng
cứ cuộn trào không yên trong tâm trí Thu. Ở ngoài mặt trận cha đã chịu bao đau đớn
vậy mà trong mấy ngày nghỉ phép, vì em, ông lại buồn lòng nhiều hơn. Ân hận, rồi
tiếc nuối do thời gian ở bên cha không còn bao lâu nữa. Chiến tranh chưa biết bao
giờ kết thúc, ngày mai cha đi rồi, biết khi nào mới trở lại để em được sống trong tình
phụ tử ấm áp, được chuộc lại lỗi lầm hôm nay?

Buổi sáng cuối cùng trước khi ông Sáu lên đường,thái độ của Thu thay đổi đột ngột
và cảm động. Nguyễn Quang Sáng đã bắt trọn những chuyển biến ấy và miêu tả nó
một cách tinh tế. Bởi những phản ứng quyết liệt trước đây mà giờ đây nó ngại ngần,
xấu hổ, chỉ dám đứng tựa cửa nhìn mọi người vây xung quanh ba. Vẻ mặt có cái gì
hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa,” mà sầm lại buồn rầu, cái
vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ.Những trầm tư vương trên nét mặt rồi đọng lại
sâu lắng nhất vào đôi mắt: “đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác,
không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa.” Nơi cửa sổ tâm hồn ấy của Thu
không còn đóng chặt lại với sự kinh ngạc đến e sợ như lần đầu gặp ông sáu, mà đã
rộng mở để thấy bầu trời yêu thương từ cha vời vợi nhường nào và hành động của
mình đáng trách đến bao nhiêu. Để rồi biết đăm chiêu hơn, “nghĩ ngợi sâu xa”. Phải
chăng Thu đang suy nghĩ, xin lỗi cha như thế nào đây, rồi làm sao để bồi đắp những
yêu thương đã lỡ ? Nhưng em đã quên mất đâu có cách nào ngăn thời gian ngừng
lại cho mình hoài suy tính,đã đến lúc chia tay. Lời chào của ông sáu cất lên khe khẽ
mà như làm chấn động cả mảnh hồn bé nhỏ, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng
xôn xao”. Quả thực Nguyễn Quang Sáng cũng có chung quan điểm sáng tác như
Maiacopxki: “Phải tốn cả nghìn cân quặng chữ chỉ để thu về một chữ mà thôi”. Từ
“xôn xao” thật đắc địa, vốn là từ tượng thanh nay được nhà văn tinh tế dùng để miêu
tả khoảng không gian bất tận trong đôi mắt của Thu. Nó bao la, bâng khuâng và lẻ
loi kỳ lạ so với một đứa trẻ mới chỉ tám tuổi. Có lẽ đó là nỗi niềm tích tụ trong tám
năm thiếu vắng hình bóng người cha, là nỗi sợ thêm một lần chia ly mà mình con bé
không tài nào che giấu nổi nữa. Thế nên nó vỡ òa. Tiếng gọi “ba” xé toạc thinh
không, xé toạc cả những ngăn cách ngại ngùng, xấu hổ mà con bé ngần ngừ trước
đó. Tiếng gọi ấy tưởng chừng rất quen thuộc, gần gũi, có khi là lời nói đầu tiên của
con người trong cuộc đời. Vậy nhưng với bé Thu nó lại là âm thanh đã phải dồn nén
bao lâu nay, chứa chan biết bao nhớ nhung mong đợi.Nhưng cũng chính vì thế mà
tiếng gọi ấy trở nên thiêng liêng và đong đầy cảm xúc hơn bao giờ hết. “Nó nhanh
như một con sóc chạy tót lên và dang 2 tay ôm cổ ba nó. Nó vừa ôm vừa nói trong
tiếng khóc. Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!” Đọc đến đây , ta nhớ đến
cảnh gặp lại đầy xúc động của bé Hồng với mẹ trên trang viết “Trong lòng mẹ”, khi
cậu bé cũng “òa lên khóc rồi cứ thế nức nở.” Có lẽ, với những đứa trẻ thiếu thốn
tình cảm từ cha, hoặc mẹ, giây phút đoàn tụ thật sự là “một dòng nước trong suốt
chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã
gục giữa sa mạc.” (Nguyên Hồng). Bởi thế nên bé Thu vội vã hôn ba nó: “hôn tóc,
hôn vai, hôn cả lên vết thẹo dài”. Vết thẹo từng là thứ chia cắt cha con , giờ lại là thứ
nó tự hào nhất, thứ hiện thân cho sự dũng cảm và can trường của cha nó, như một
huy chương cho tấm lòng nhiệt thành đã xả thân vì tổ quốc mà nó sẽ trân trọng, kiêu
hãnh hết đời này. Con bé vồ vập như vậy vì muốn được cảm nhận tình cảm của cha
cho bằng hết trước khi ông Sáu lại phải đi xa. Cách bộc lộ tình cảm có phần tham
lam này đã thể hiện rõ tấm lòng muốn bù đắp lại sự lạnh nhạt trong những ngày
qua, và còn xuất phát từ nỗi sợ rằng sẽ còn rất lâu nữa, thậm chí ko bao giờ em
được gặp ông Sáu lần thứ hai. Tình yêu Thu dành cho ba qua cách thể hiện ngây
ngô, vụng về lại càng đáng quý, xúc động hơn. Và nhờ đó ta hiểu vì sao Colleen
Oakland trong tác phẩm “Mạnh hơn cái chết” đã nói: “Tình yêu vốn xộc xệch. Nó
không đến với chúng ta trong một chiếc hộp gói nơ hoàn hảo. Nó giống như món
quà của một đứa bé, với những nét sáp màu nguệch ngoạc và móp méo. Không
hoàn hảo. Nhưng vẫn cứ là một món quà.”

Trong cuốn sách “Yêu những gì không hoàn hảo”, Đại đức Haemin từng viết: “Con
người ta chính là lò sưởi. Nhờ có nhau mà chúng ta có thể sưởi ấm cả thể xác lẫn
tâm hồn.” Có lẽ vì vậy mà đọc những câu văn mộc mạc trên trang sách Chiếc lược
ngà mà sao ta cứ cảm thấy có gì đó thật ấm áp trong lòng. Tình cha con giữa bé
Thu và ông Sáu đã đốt lên một ngọn lửa nồng ấm, xua tan bao giá lạnh của thời
chiến tranh khắc khổ. Và chất củi nhen lên ánh sáng yêu thương ấy chính là nghệ
thuật miêu tả tâm lý nhân vật, đặc biệt là tâm lý của nhân vật trẻ em rất tinh tế; một
tình huống hết sức chặt chẽ, hấp dẫn xoay quanh những tình huống bất ngờ nhưng
tự nhiên và hợp lý; cách kể chuyện của tự nhiên và ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ. Tài
năng của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, tình phụ tử thiêng liêng giữa ông Sáu và bé
Thu bởi thế sẽ sáng mãi trên bầu trời văn học và trong trái tim độc giả muôn đời.

You might also like