You are on page 1of 25

XU THẾ GIÁO DỤC STEAM

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................................2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN.................................................................................................................3
1. Khái niệm giáo dục STEAM...........................................................................................................3
1.1. Giáo dục STEM.........................................................................................................................3
1.2. Giáo dục STEAM......................................................................................................................4
2. Bản chất giáo dục STEAM..............................................................................................................5
2.1. Đặc trưng của giáo dục STEAM...................................................................................................5
2.2. Nguyên tắc giáo dục STEAM........................................................................................................6
2.3. Bản chất giáo dục STEAM............................................................................................................6
3. Phân loại giáo dục STEAM.............................................................................................................7
3.1. Phân loại dựa trên khía cạnh các lĩnh vực STEAM tham gia giải quyết vấn đề...................7
3.2. Phân loại dựa trên khía cạnh phạm vi kiến thức để giải quyết vấn đề STEAM....................8
3.3. Phân loại dựa vào mục đích dạy học.......................................................................................8
CHƯƠNG 2: XU THẾ GIÁO DỤC STEAM TRÊN THẾ GIỚI..........................................................10
2.1. Giáo dục STEAM tại Mỹ...........................................................................................................10
2.2. Giáo dục STEAM ở Trung Quốc..............................................................................................11
2.3. Giáo dục STEAM ở Úc..............................................................................................................12
2.4. Giáo dục STEAM ở Canada......................................................................................................13
2.5. Giáo dục STEAM ở Qatar.........................................................................................................13
CHƯƠNG 3: TÍNH ỨNG DỤNG CỦA GIÁO DỤC STEAM TẠI VIỆT NAM.................................14
3.1. Các chính sách khuyến khích giáo dục STEAM.....................................................................14
3.2. Giáo dục STEAM được triển khai ở Việt Nam.......................................................................16
3.2.1. Ứng dụng trong mầm non..................................................................................................16
3.2.2. Ứng dụng trong tiểu học.....................................................................................................17
3.2.3. Ứng dụng trong trung học..................................................................................................18
KẾT LUẬN.................................................................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................................................23

1
MỞ ĐẦU

Ngày 4/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CTTTg1, yêu cầu các bộ,
ngành và địa phương cùng thực hiện các biện pháp để đẩy mạnh tiếp cận Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư (còn được gọi là Cách mạng công nghiệp 4.0) [1]. Theo đó, để tạo
ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới, cần phải
thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung, phương pháp dạy nghề và giáo dục cũng như
cần tập trung vào việc thúc đẩy giáo dục STEM cũng như ngoại ngữ và tin học: “Giáo
dục tin học… cùng với các môn Toán, Khoa học tự nhiên, Vật lí, Hoá học, Sinh
học,Công nghệ thực hiện giáo dục STEM” theo Bộ GD-ĐT (2018)2.

Giáo dục STEAM có cùng mục tiêu với chương trình giáo dục phổ thông mới là “giúp
học sinh làm chủ kiến thức phổ thông, biết vận dụng hiệu quả kiến thức, kĩ năng đã học
vào đời sống và tự học suốt đời, có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp, biết xây
dựng và phát triển hài hoà các mối quan hệ xã hội, có cá tính, nhân cách và đời sống tâm
hồn phong phú, nhờ đó có được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát
triển của đất nước và nhân loại”3. Tuy nhiên, việc đưa STEAM vào giáo dục vẫn còn
nhiều thách thức, điển hình như quy chế thi, quy chế đánh giá chất lượng. Lý do là hệ
thống giáo dục vẫn chưa phát triển, nhận thức và kỹ năng của giáo viên còn hạn chế, cơ
sở vật chất trường lớp còn thiếu thốn, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

Vì vậy, việc áp dụng STEAM vào chương trình giáo dục phổ thông một cách có hệ thống
và khoa học không phải là một trào lưu mà cần có một kế hoạch dài hạn, một lộ trình áp
dụng với nhiều cấp độ và một hình thức phù hợp. Giáo dục STEAM đang là một chủ đề
giáo dục nóng ở Việt Nam, và có rất nhiều tài liệu dành riêng cho giáo dục STEAM. Tuy
nhiên, vẫn chưa có sự thống nhất về cách nhìn nhận và cách tiếp cận giáo dục STEAM.
Trước thực tế đó, bài viết này nhằm làm rõ những vấn đề cốt yếu của lý luận giáo dục

1 Thủ tướng Chính phủ (2017). Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng
cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
2 Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ thông - Chương trình tổng thể.
3 Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ thông - Chương trình tổng thể.

2
STEAM và sự phù hợp của chúng với đổi mới nội dung, hình thức tổ chức và phương
pháp dạy học trong quá trình dạy và học giáo dục phổ thông ở nước ta.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm giáo dục STEAM
Để hiểu được rõ về giáo dục STEAM thì trước hết cần hiểu về nguồn gốc của nó -
giáo dục STEM.

1.1. Giáo dục STEM


Theo Hiệp hội Giảng dạy Khoa học Quốc gia ở Mỹ (National Science Teachers
Association – NSTA) - một trong những tổ chức giáo dục - khoa học uy tín nhất trên thế
giới, giáo dục STEM là “một cách tiếp cận liên ngành trong qua trình học, trong đó các
khái niệm học thuật mang tính nguyên tắc được lồng ghép với các bài học trong cuộc
sống, ở đó học sinh áp dụng các kiến thức trong khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán
học vào các bối cảnh cụ thể, giúp kết nối giữa trường học, cộng đồng, nơi làm việc và
các tổ chức toàn cầu, để từ đó phát triển các năng lực trong các lĩnh vực STEM, và góp
phần vào sự cạnh tranh trong nền kinh tế mới.” (Quigley, C. F., & Herro, D., 2016)4.
Tuy nhiên, thời gian trôi qua, khi nhu cầu của thị trường lao động thay đổi, người ta
cần những lao động không chỉ giỏi khoa học kỹ thuật mà còn cần những kỹ năng khác thì
các nhà giáo dục một lần nữa điều chỉnh định nghĩa của họ về STEM với việc bổ sung
nghệ thuật – bao gồm mọi thứ từ nghệ thuật tự do và ngôn ngữ đến nghiên cứu xã hội,
nghệ thuật thị giác, thiết kế và âm nhạc. Giáo dục hiện đại đánh giá cao tầm quan trọng
của giáo dục nghệ thuật vì nghệ thuật nuôi dưỡng và làm nảy sinh những ý tưởng mới,
những giải pháp mới cho các vấn đề hiện tại và sau này. Đó chính là lí do tại sao giáo
dục STEAM ra đời.
4 Quigley, C. F., & Herro, D. (2016), "Finding the Joy in the Unknown": Implementation of STEAM
Teaching Practices in Middle School Science and Math Classrooms. Journal of Science Education and
Technology.

3
1.2. Giáo dục STEAM
STEAM là ý tưởng sáng tạo ban đầu của Trường Thiết kế Rhode Island (Mĩ), sau
đó được sử dụng bởi nhiều nhà giáo dục, dần dần lan rộng ra cả Hoa Kì và các nước
khác. Đây là một tiếp cận giáo dục mới, trong đó Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật, Nghệ
thuật, Toán học cùng được sử dụng để giảng dạy và hướng dẫn cho học sinh (HS) 5. Thay
vì dạy các môn học như các đối tượng cách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành
một mô hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế: S (Science, Khoa học) - T
(Technology, Công nghệ) - E (Engineering, Kĩ thuật) - M (Mathematics, Toán) - A (Art,
Nghệ thuật).
Trong tiếng Việt, các từ khoa học, kĩ thuật, công nghệ đôi khi được dùng với
nghĩa tương tự nhau hay được ghép lại với nhau (khoa học kĩ thuật, kĩ thuật công nghệ,
khoa học công nghệ). Như vậy, khi dạy học tích hợp khoa học - kĩ thuật - công nghệ là
phải hướng tới mục tiêu phát triển ở người học các năng lực liên quan đến 3 lĩnh vực
hoạt động: tìm tòi, khám phá kiến thức; sử dụng kiến thức để làm ra hoặc cải tiến phương
tiện phục vụ cho hoạt động; sử dụng kiến thức và công cụ trong các hoạt động của con
người. Còn từ “nghệ thuật” – “Art” còn có nghĩa là “Các ngành khoa học xã hội - nhân
văn”. Do đó, chữ “A” trong STEAM là đại diện cho nghệ thuật tự do, nghệ thuật ngôn
ngữ, nghiên cứu xã hội, nghệ thuật thể chất, mĩ thuật, âm nhạc, văn hoá, nhân văn. Theo
đó, có thể diễn đạt ngắn gọn chữ A trong STEAM là: Giáo dục Nhân văn.
Tư duy nghệ thuật được lồng ghép vào các hoạt động STEM là một bước tiếp cận
gần hơn tới việc ứng dụng các kiến thức STEM để giải quyết những vấn đề thực tế cuộc
sống. Theo Anna Feldman: “STEAM tập trung yếu tố con người chứ không phải các
môn học; nó đặt nhân cách HS và cá tính làm tiên phong. Với STEAM, không có áp
lực trở

5 Nguyễn Thành Hải (2016). Từ giáo dục STEM đến giáo dục STEAM: những gợi ý cho đổi mới giáo dục
Việt Nam. sinhvienusa.org.

4
thành nhà khoa học hoặc kĩ sư - bạn có thể là một nhà thiết kế, nghệ sĩ
kĩ thuật số, người lập trình, giám đốc nghệ thuật và nhà khoa học và kĩ
sư cùng một lúc. STEAM cho phép chúng ta có những kĩ sư giỏi hơn
nhờ việc học cách suy nghĩ nghệ thuật và có thể thu hút các nghệ sĩ nhờ
việc cho họ thấy STEM có thể ứng dụng trong nghệ thuật như thế nào.
Nó rất thú vị, đặc biệt là trong một thế giới ngày càng liên ngành và số
hoá. Trong STEAM, sáng tạo là nguyên lí trung tâm”6.

Vậy sự khác biệt chính giữa STEM và STEAM là giáo dục STEM tượng trưng
cho một cách tiếp cận hiện đại cho khoa học và các chủ đề liên quan tập trung vào
giải quyết các vấn đề với tư duy, kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề. Giáo dục
STEAM khám phá các môn học tương tự, nhưng kết hợp tư duy sáng tạo và nghệ
thuật ứng dụng vào giảng dạy, cùng các tình huống thực tế. Giáo dục STEAM là
sự kết hợp thêm cả nghệ thuật vào trong các chương trình giảng dạy và nghệ thuật
cũng là một phần không thể thiếu trong chương trình giáo dục STEAM hiện đại.

2. Bản chất giáo dục STEAM


Giáo dục STEAM thể hiện 8 đặc trưng và 5 nguyên tắc cơ bản như sau:

2.1. Đặc trưng của giáo dục STEAM


(1) Tiếp cận xuyên chương trình;
(2) Có sự tích hợp công nghệ;
(3) Học tập theo dự án và giải quyết vần đề;
(4) Học tập qua tìm tòi;
(5) Chuẩn bị cho nghề nghiệp và việc học ở bậc Đại học;
(6) Chương trình chính xác và thích hợp;
(7) Môi trường làm việc sáng tạo;
(8) Mức độ tham gia của người học cao.

6 Anna Feldman (2015). Why we need to put the art into STEM education. www.slate.com.

5
2.2. Nguyên tắc giáo dục STEAM
(1) Tập trung vào tích hợp;
(2) Thiết lập sự liên quan;
(3) Nhấn mạnh các kĩ năng thời đại kỹ thuật số;
(4) Thử thách người học;
(5) Thực hiện đồng thời 4 nguyên tắc trên.

2.3. Bản chất giáo dục STEAM

Theo đó, có thể thấy giáo dục STEAM định hình những bản chất sau:

Thứ nhất, giáo dục STEAM là một cách tiếp dựa trên cơ sở tích hợp các môn khoa
học, kỹ thuật, công nghệ, toán và nghệ thuật trong việc truyền đạt kiến thức và
khuyến khích học sinh sáng tạo. Do thuộc tính tích hợp và đa ngành nên chương
trình học STEAM không nặng tính lý thuyết mà thiên về vận dụng và giải quyết
các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống, hoặc các vần đề có tính toàn cầu (U.S.
Department of Education, 2007)7.

Thứ hai, giáo dục STEAM khuyến khích sự tìm tòi khám phá, dựa trên sự sáng tạo
của cá nhân và sự phối hợp làm việc nhóm. Thông thường, các lớp học sẽ bắt đầu
bằng một chủ đề thay vì bắt đầu bằng một môn học cụ thể. Kết thúc buổi học hoặc
khóa học, các sản phẩm hoặc giải pháp được đề ra dựa trên sự vận dụng của các
kiến thức đã được học tổng hợp trước đó. Có nhiều cấp độ giáo dục STEAM, từ
đơn giản cho học sinh mầm non như tạo ra một ngôi nhà từ các que kem (học đếm
số và học lắp ghép) cho đến phức tạp dành cả sinh viên đại học như tạo một rô-bốt
(cần kiến thức về cơ điện tử và lập trình).

Thứ ba, giáo dục STEAM giúp học sinh nhận thức được sự giao thoa giữa các
ngành khoa học và nghệ thuật, thấy được sự cần thiết của các kiến thức chuyên

7 U.S. Department of Education, National Center for Education Statistics (2007). The Condition of
Education.

6
ngành đề có thể giải quyết một vần đề hay tạo nên một sản phẩm. Đồng thời, nhờ
được tạo cơ hội khuyến khích sáng tạo dựa trên sở thích riêng của bản thân, nên
các em học sinh tự tin hơn trong quá trình học tập và làm việc nhóm. Điều thú vị
là các chương trình giáo dục STEAM giúp học sinh được trải nghiệm qua các cảm
xúc của thất bại cũng như thành công trong quá trình học tập, một điều rất cần
thiết cho sự phát triển trí thông minh cảm xúc và tạo động lực cho sự trưởng thành
của trẻ. Hơn thể nữa, đưa nghệ thuật vào các hoạt động giáo dục STEM làm cho
các hoạt động này mềm mại hơn, dễ háp dẫn và tạo hứng thú hơn cho người học;
điều này đặc biệt phù hợp đối với bậc học mầm non.

3. Phân loại giáo dục STEAM


Việc phân loại STEAM là một trong những cơ sở cho việc lựa chọn các hình thức
tổ chức giáo dục STEAM, phương pháp giáo dục STEAM hay xây dựng các chủ
đề giáo dục STEAM đảm bảo phù hợp với mục tiêu, điều kiện, bối cảnh triển khai
STEAM khác nhau. Hiện nay đang tồn tại một số quan điểm phân loại giáo dục
STEAM như sau:

3.1. Phân loại dựa trên khía cạnh các lĩnh vực STEAM tham gia giải quyết vấn đề
• STEAM đầy đủ: là loại hình STEAM yêu cầu người học cần vận dụng kiến
thức của cả năm lĩnh vực STEAM để giải quyết vấn đề.
• STEAM khuyết: là loại hình STEAM mà người học không phải vận dụng
kiến thức cả năm lĩnh vực STEAM để giải quyết vần đề.

3.2. Phân loại dựa trên khía cạnh phạm vi kiến thức để giải quyết vấn đề STEAM
• STEAM cơ bản: là loại hình STEAM được xây dựng trên cơ sở kiến thức
thuộc phạm vi các môn học Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Nghệ thuật và
Toán học trong chương trình giáo dục. Các sản phẩm STEAM này thường
đơn giản, chủ đề giáo dục STEAM bám sát nội dung chương trình và
thường được xây dựng trên cơ sở các nội dung thực hành, thí nghiệm trong
chương trình giáo dục.

7
• STEAM mở rộng: là loại hình STEAM có những kiến thức nằm ngoài
chương trình giáo dục. Những kiến thức đó người học phải tự tìm hiểu và
nghiên cứu. Sản phẩm STEAM của loại hình này có độ phức tạp cao hơn.
Các chủ đề thường được xây dựng trên cơ sở các nội dung mang tính bổ
sung, mở rộng chương trình giáo dục.

3.3. Phân loại dựa vào mục đích dạy học:


• STEAM dạy kiến thức mới: là STEAM được xây dựng trên cơ sở kết nối
kiến thức của nhiều môn học khác nhau mà học sinh chưa được học (hoặc
được học một phần). Học sinh sẽ vừa giải quyết được vấn đề và vừa lĩnh
hội được trị thức mới.
• STEAM vận dụng: là STEAM được xây dựng trên cơ sở những kiến thức
học sinh đã được học. STEAM dạng này sẽ bồi dưỡng cho học sinh năng
lực vận dụng lí thuyết vào thực tế. Kiến thức lí thuyết được củng cố và
khắc sâu.

Bảng 1. Mối liên hệ giữa các lĩnh vực trong giáo dục STEAM (Nguyễn Vinh
Hiển, 2019)8

8 Nguyễn Vinh Hiển (2019), Tiếp cận dạy học STEAM trong giáo dục phổ thông hiện nay. Tạp chí
Giáo dục, Số 459 (Kì 1 - 8/2019), tr 1-8.

8
Sơ đồ trên cho thấy rõ quá trình học các môn khoa học tự nhiên sẽ cung cấp kiến
thức để người học thực hiện các kĩ năng về Kỹ thuật và thiết kế thành các quy
trình hoạt động công nghệ; muốn cải tiến công nghệ hiện có hoặc sáng tạo ra các
công nghệ mới thì cần có thêm kiến thức mới, và cứ như vậy khoa học, kỹ thuật và
công nghệ tiến bộ không ngừng. Tất cả những hoạt động đó luôn cần có vai trò
sáng tạo, kết nối của toán học, tin học và các giá trị nhân văn. Theo đó, các giá trị
nhân văn hay nghệ thuật được lồng ghép vào các hoạt động STEAM là một bước
tiếp cận gần hơn tới việc ứng dụng các kiến thức STEAM để giải quyết các vấn đề
thực tế. Các hoạt động STEAM là sự kết nối của hai hay nhiều môn học của Khoa
học, Công nghệ, Kỹ nghệ, Nghệ thuật và Toán học.

Bằng việc vạch ra những mối liên hệ giữa các môn học này và sử dụng quy trình
khoa học hay quy trình thiết kế kỹ thuật, học sinh sẽ học biết đặt vấn đề, nghiên
cứu, phân tích và lượng giá. Xuyên qua tiến trình này chúng ta có thể giúp thúc
đẩy việc yêu thích học tập và khám phá trong suốt cuộc đời.

• Khoa học: là tiến trình học hỏi và hiểu biết thế giới tự nhiên. Các hoạt động khoa
học bao gồm nghiên cứu nước, cát và các nguyên liệu tự nhiên khác như đá và đất.
• Các hoạt động Công nghệ bao gồm máy tính nhưng cũng có thể là công cụ và máy
móc đơn giản được sử dụng để làm cho công việc dễ dàng hơn. Đơn giản như: kéo,
bánh răng, bánh xe và ròng rọc là những thứ có thể giúp trẻ dễ dàng học về công
nghệ.
• Kỹ thuật: là tiến trình xây dựng và thiết kế vật dụng đó để giải quyết một vấn đề
như học sinh học vẽ và thiết kế những công trình kiến trúc và các tòa nhà.
• Nghệ thuật: là tiến trình phác họa những giải pháp sáng tạo cho một vấn đề. Những
hoạt động nghệ thuật theo một quy trình khá linh động, cho phép trẻ được thể hiện
và thử nghiệm theo nhiều cách thức mới mẻ.
• Toán học: là tiến trình hiểu biết các mối quan hệ giữa các kiểu mẫu, các con số và
hình khối.

9
CHƯƠNG 2: XU THẾ GIÁO DỤC STEAM TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Giáo dục STEAM tại Mỹ
Tại Mỹ, giáo dục STEM là một mô hình giáo dục ra đời vào những năm 90 của thế
kỉ XX (Sanders & Wells, 2005)9. Trong chương trình giáo dục STEM, các môn
học về khoa học công nghệ không giảng dạy độc lập mà tích hợp lại với nhau
thành một môn học thông qua phương pháp giảng dạy bằng dự án, trải nghiệm,
thực hành,... Tại nhiều nước ở châu Mỹ, để phát huy tối đa sự sáng tạo của học
sinh các cấp, các hội chợ khoa học (Science fair) được tổ chức thường xuyên từ
cấp trường đến cấp quốc gia. Một ví dụ cho sự coi trọng giáo dục STEAM là dưới
thời Tổng thống Obama, Mỹ đều hàng năm tổ chức Ngày hội khoa học toàn quốc
tại Nhà Trắng (2010-2016). Tổng thống Mỹ đều dành cả ngày để trao đổi, trò
chuyện với các nhà khoa học nhí, các sản phẩm sáng tạo của học sinh được trưng
bày trong văn phòng Nhà Trắng10. Nghiên cứu các nước có nền khoa học phát
triển nói chung như Mỹ, Anh, Đức… cho thấy ngày hội khoa học không chỉ thu
hút được sự quan tâm của đông đảo học sinh, phụ huynh mà còn thu hút sự quan
tâm mạnh mẽ của giới truyền thông, chính khách, bởi hơn ai hết họ hiểu tầm quan
trọng của việc nuôi dưỡng, thổi bùng niềm đam mê khoa học trong giới trẻ là vô
cùng quan trọng đối với sự phát triển bền vững của quốc gia.

Một thống kê ở Mỹ cho thấy từ năm 2004 đến năm 2014, việc làm liên quan đến
khoa học và kỹ thuật tăng 26%, gấp hai lần so với tốc độ tăng trưởng trung bình
của các ngành nghề khác. Trong khi đó, việc làm STEAM có tốc độ tăng trưởng
gấp 4 lần so với tốc độ tăng trưởng trung bình của các ngành khác nếu tính từ năm
1950 đến 2007. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì nhu cầu việc làm liên
quan đến STEAM ngày càng lớn, đòi hỏi ngành giáo dục cũng phải có những thay
đổi để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Giáo dục STEAM có thể tạo ra những con
người đáp ứng được nhu cầu công việc của thế kỷ mới, có tác động lớn đến sự

9 Sanders, M., & Wells, J. (2005). STEM graduate education / research collaboratory. Paper presented
to the Virginia Tech faculty, Virginia Tech.
10 The Obama White House (2016). https://obamawhitehouse.archives.gov/science-fair.

10
thay đổi nên kinh tế đổi mới. Trong một bài phát biểu trước thượng nghị viện Mỹ,
Bill Gates đã từng nói: “Chúng ta không thể duy trì được nền kinh tế dẫn đầu toàn
cầu trừ khi chúng ta xây dựng được lực lượng lao động có kiến thức và kỹ năng để
sáng tạo”. Bill Gates đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục trong việc xây
dựng lực lượng lao động này. Ông nói tiếp: “Chúng ta cũng không thể duy trì
được một nền kinh tế sáng tạo trừ phi chúng ta có những công dân được đào tạo
tốt về toán học, khoa học và kỹ thuật”.

2.2. Giáo dục STEAM ở Trung Quốc


Các nghiên cứu liên quan đến giáo dục STEAM của Trung Quốc bắt đầu muộn
hơn so với Mỹ. Giai đoạn đầu tiên, một vài học giả bắt đầu nghiên cứu về giáo dục
STEM chỉ vào năm 2008. Sau vài năm tìm hiểu, giáo dục STEM đã xuất hiện ở
Trung Quốc vào khoảng năm 2013, mọi người ngày càng quan tâm đến giáo dục
STEM. Giai đoạn hai, từ năm 2010 đến 2015, các học giả trong nước như
Zhongjian Zhao, Huicheng Zhao và Shengquan Yu đã có nhiều nghiên cứu về giáo
dục STEM. Nội dung nghiên cứu bao gồm diễn giải về giáo dục STEM của nước
ngoài (tập trung nghiên cứu nhiều nhất là STEM tại Mỹ) và nghiên cứu lý thuyết
về nội địa hóa giáo dục STEM của Trung Quốc. Giai đoạn ba là đào sâu thời gian
nghiên cứu. Từ năm 2015 đến 2021, số lượng các bài nghiên cứu trong năm 2021
và các nhà nghiên cứu tăng đột biến, các đề tài nghiên cứu được đào sâu hơn.

Sự bùng nổ của giáo dục STEM ở Trung Quốc được thúc đẩy bởi chính sách
khuyến khích của chính phủ, các sáng kiến của các trường học cũng như nhận
thức của phụ huynh trong việc chuẩn bị cho con cái họ phát triển nhân cách toàn
diện là khá nổi bật trong những năm gần đây.

Vào tháng 2 năm 2017, bộ Giáo dục Trung Quốc đã chính thức công bố đưa
STEM vào chương trình giảng dạy tiểu học, đây là sự công nhận chính thức đầu
tiên của chính phủ về giáo dục STEM. Và sau đó vào tháng 5 năm 2018, lễ khởi
động và họp báo cho kế hoạch hành động 2029 cho Giáo dục STEM của Trung
Quốc đã được tổ chức tại Bắc Kinh, chính thức công bố sách trắng về giáo dục

11
STEM ở Trung Quốc. Kế hoạch này nhằm mục đích cho phép càng nhiều học sinh
được hưởng lợi từ giáo dục STEM và trang bị cho tất cả học sinh tư duy khoa học
và khả năng đổi mới. Trong đó nổi bật là hợp tác các nhà khoa học - với các doanh
nghiệp, thông qua hợp tác này có thể lồng ghép các nguồn lực, huy động thể chế,
nhân tài, thiết bị, kinh phí và dự án, thúc đẩy đổi mới khoa học và công nghệ.

Để đáp ứng các chính sách khuyến khích của chính phủ, các trường học ở cả khu
vực công và tư trên khắp đất nước đã bắt đầu triển khai các chương trình giáo dục
STEM. Tuy nhiên, để thực hiện hiệu quả chương trình giảng dạy STEM, cần có
giáo viên chuyên trách về giáo dục STEM và các nội dung liên quan được giảng
dạy. Trung Quốc vẫn thiếu giáo viên STEM có trình độ và một hệ thống đào tạo
vẫn chưa được thiết lập. Ví dụ liên quan đến cấp chứng chỉ giáo viên STEM mới,
chưa có nơi nào thực hiện một cách hệ thống.

2.3. Giáo dục STEAM ở Úc


Đã có rất nhiều chương trình và nỗ lực thiết lập cách tiếp cận quốc gia về giáo dục
STEM ở Úc. Trong năm 2009, chương trình iSTEM (Invigorating STEM) được
thành lập như là một chương trình làm giàu tri thức cho học sinh trung học ở
Sydney, Úc. Chương trình tập trung vào việc cung cấp các hoạt động cho sinh
viên quan tâm và gia đình của họ trong STEM. Thành công của chương trình đã
dẫn đến nhiều trường đại học và tổ chức khoa học hỗ trợ cho chương trình.
Chương trình iSTEM (iSTEM.com.au) cũng tổ chức một chương trình làm giàu để
đưa học sinh và giáo viên vào Chương trình Học viện Không gian Hoa Kỳ.
(Spacecamp.com.au) Sự công nhận cấp quốc gia về chương trình iSTEM bao gồm
giải thưởng NSW State Engineering and Science về Đổi mới trong giảng dạy Toán
và Khoa học và Giải thưởng Nhân quyền Hàng năm của Tổ chức GoWest. Vào
năm 2015, người sáng lập và điều phối chương trình, tiến sĩ Ken Silburn, đã nhận
được giải thưởng của Thủ tướng Chính phủ về Giảng dạy Khoa học Trung cấp.

12
2.4. Giáo dục STEAM ở Canada
Canada đứng thứ 12 trong số 16 nước ngang bằng về tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp
theo học các chương trình STEM, với 21,2%, cao hơn Hoa Kỳ, nhưng thấp hơn
các nước như Pháp, Đức và Áo. Phần Lan, có hơn 30% sinh viên tốt nghiệp đại
học đến từ các ngành khoa học, toán học, khoa học máy tính, và các chương trình
kỹ thuật. Tổ chức hướng đạo sinh Canada đã áp dụng các biện pháp tương tự như
đối tác Mỹ để thúc đẩy các lĩnh vực STEM cho thanh thiếu niên. Chương trình
STEM của họ bắt đầu vào năm 2015. Học bổng Schulich Leader: Trong năm
2011, nhà doanh nghiệp và nhà hảo tâm Canada Seymour Schulich thành lập Học
bổng Schulich Leader, học bổng trị giá 100.000.000 đô la với 60.000 đô la cho
sinh viên bắt đầu học đại học trong một chương trình STEM tại 20 tổ chức trên
khắp Canada. Mỗi năm 40 sinh viên Canada sẽ được lựa chọn để nhận giải
thưởng, hai ở mỗi tổ chức, với mục tiêu thu hút thanh thiếu niên có năng khiếu
vào các lĩnh vực STEM. Chương trình cũng cung cấp học bổng STEM cho năm
trường đại học tham gia ở Israel.

2.5. Giáo dục STEAM ở Qatar


Tại Qatar, AL-Bairaq là một chương trình tiếp cận học sinh trung học với một
chương trình tập trung vào STEM, do Trung tâm Vật liệu Tiên tiến (CAM) của
Đại học Qatar điều hành. Mỗi năm khoảng 946 sinh viên, từ khoảng 40 trường
trung học, tham gia các cuộc thi AL-Bairaq. AL-Bairaq vận dụng học tập theo dự
án, khuyến khích sinh viên giải quyết các vấn đề đích thực và yêu cầu họ làm việc
với nhau như một nhóm để xây dựng các giải pháp thực sự. Nghiên cứu cho đến
nay cho thấy kết quả tích cực cho chương trình.

CHƯƠNG 3: TÍNH ỨNG DỤNG CỦA GIÁO DỤC STEAM TẠI


VIỆT NAM
Ở Việt Nam, giáo dục STEAM đã Nhà nước ủng hộ và thúc đẩy ứng dụng rộng rãi trong
tất cả các cấp học từ mầm non đến trung học phổ thông, đồng thời cũng được rất nhiều

13
các tổ chức tư nhân, phi chính phủ áp dụng để mang đến một cách thức học tập mới mẻ
và sáng tạo cho học sinh, sinh viên.

3.1. Các chính sách khuyến khích giáo dục STEAM


Việt Nam là quốc gia đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mở ra nhiều cơ hội trong
việc nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh trong
chuỗi sản phẩm; tạo ra sự thay đổi lớn về hình thái kinh doanh dịch 16 vụ; tạo ra
nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; giảm đáng kể chi phí
giao dịch, vận chuyển; tạo cơ hội đầu tư hấp dẫn và đầy tiềm năng trong lĩnh vực
công nghệ số và Internet đồng thời cũng là cơ hội lớn cho sản xuất công nghiệp
với trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến.

Tuy nhiên, nếu không bắt kịp nhịp độ phát triển của thế giới và khu vực, Việt Nam
sẽ phải đối mặt những thách thức, tác động tiêu cực như: Sự tụt hậu về công nghệ,
suy giảm sản xuất, kinh doanh; dư thừa lao động có kỹ năng và trình độ thấp gây
phá vỡ thị trường lao động truyền thống, ảnh hưởng tới tình hình kinh tế xã hội đất
nước; mất an toàn, an ninh thông tin, xâm phạm bản quyền, thiếu hụt nguồn nhân
lực trình độ cao. Mặt khác có khả năng xuất hiện làn sóng đẩy công nghệ lạc hậu
từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển và chậm phát triển. Do những
thay đổi mang tính cách mạng về khoa học và công nghệ dẫn tới thay đổi mạnh mẽ
về cơ cấu, mô hình kinh tế, hệ thống quản lý nhà nước, xã hội cũng như phương
thức hoạt động của các doanh nghiệp. Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cũng đặt
ra những thách thức đối với một số ngành, lĩnh vực cụ thể như: Yêu cầu về đổi
mới công nghệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin; đẩy mạnh khoa học phân tích
và quản lý và xử lý dữ liệu lớn tạo ra tri thức mới, hỗ trợ việc đưa ra quyết định và
tạo lợi thế cạnh tranh. Yêu cầu về đổi mới mô hình quản lý, sản xuất, tối ưu hóa
mô hình kinh doanh, thiết lập chuỗi cung ứng và hậu cần thông minh trong mạng
lưới chuỗi giá trị toàn cầu và mô hình thuế quan mới. Yêu cầu về hệ thống quản lý
sở hữu trí tuệ mới, tốt hơn trong thời đại số. Yêu cầu cao hơn về bảo đảm an toàn,

14
an ninh thông tin mạng. Để chủ động nắm bắt cơ hội, đưa ra các giải pháp thiết
thực tận dụng tối đa các lợi thế, đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đối với Việt Nam, Chỉ thị số 16/CT-TTg
của Thủ tướng chính phủ ngày 04/5/2017 đã đưa ra hệ thống giải pháp tăng cường
năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, trong đó, có giải pháp:
“Thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục và dạy nghề
nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất
mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật
và toán học (STEM), ngoại ngữ, tin học trong chương trình giáo dục phổ thông”.
Nhiệm vụ đặt ra đối với ngành giáo dục là: “Thúc đẩy triển khai giáo dục về khoa
học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) trong chương trình giáo dục phổ
thông”. Công văn số 4325/BGDĐT-GDTrH của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo:
"Tiếp tục quán triệt tinh thần giáo dục tích hợp STEM trong việc thực hiện chương
trình phổ thông ở những môn có liên quan. Triển khai thí điểm giáo dục STEM tại
một số trường lựa chọn". Các căn cứ để triển khai các hoạt động dạy học, giáo dục
theo định hướng giáo dục STEM:

• Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị
quyết số 29-NQ/TW) ngày 04 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn
diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế;
• Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 04 tháng 5 năm 2017 về tăng cường năng lực tiếp
cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 của Thủ tướng Chính phủ;
• Công văn số 4325/BGDĐT-GDTrH của Bộ GD&ĐT về việc hướng dẫn
thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học.

15
3.2. Giáo dục STEAM được triển khai ở Việt Nam
3.2.1. Ứng dụng trong mầm non
Từ năm 2012 thì phương pháp giáo dục này đã xuất hiện tại các cơ sở giáo dục
mầm non ngoài công lập và các môi trường học mầm non quốc tế và đã gặt hái
được một số thành tựu nhất định.

Điển hình như một trường mầm non tại quận Hoàng Mai (Hà Nội) đã thực hiện
một khảo sát về mức độ nhận thức các lĩnh vực: khoa học, kĩ thuật, công nghệ,
nghệ thuật và toán học trên 53 em nhỏ độ tuổi 5-6 tuổi 11. Sau 4 tháng áp dụng mô
hình học STEAM đã đạt được kết quả khả quan như sau:

Bảng 2. Mức độ nhận thức của trẻ mầm non theo từng lĩnh vực
100% 94%
90%
80% 75% 75%
70%
70% 66%
60% 56%
50% 47%
40%
28%
30% 23%
19%
20%
10%
0%
KHOA HỌC KĨ THUẬT CÔNG NGHỆ NGHỆ THUẬT TOÁN HỌC

Đầu năm 2019 Tháng 4/2019

Nhìn vào bảng khảo sát ta thấy những thay đổi rõ rệt ở trẻ như sau:

• Tỷ lệ trẻ nhận biết được Khoa học, Kĩ thuật và Công nghệ tăng gấp 3 lần

• Tỷ lệ trẻ nhận biết được Toán học tăng gần 15%

• Và gần như tất cả trẻ được khảo sát đều nhận biết được Nghệ thuật

Tuy nhiên, ở một số địa phương khác, việc ứng dụng phương pháp STEAM vào
giáo dục mầm non chưa mang lại kết quả tốt. Ví dụ theo khảo sát các trường mầm

11 Trường Mầm non Tuổi Thơ (2019), Ứng dụng phương pháp STEAM trong hoạt động ngoài trời
cho trẻ mầm non, http://mntuoithohoangmai.edu.vn

16
non ở tỉnh Tuyên Quang, khi thăm dò ý kiến ở các trường mầm non về kĩ năng
STEAM của trẻ, chúng tôi cũng nhận được kết quả là có tới 60% ý kiến đánh giá
các kĩ năng của trẻ đạt mức độ trung bình, 40% ý kiến cho rằng các kĩ năng của trẻ
đạt mức tương đối tốt. Theo các cán bộ quản lý cơ sở, nguyên nhân của kết quả
này là do trẻ mới được tiếp cận giáo dục STEAM, chưa có nhiều cơ hội để trải
nghiệm, thực hành; phương pháp của giáo viên còn có những hạn chế nhất định
nên đây là kết quả hoàn toàn chấp nhận được trong thời điểm hiện tại. Tuy nhiên,
các giáo viên cũng cho rằng với những điểm mới lạ, hấp dẫn của mô hình giáo dục
này; sự nhiệt tình, cố gắng của giáo viên mầm non và sự hứng thú, mong đợi của
trẻ khi tham gia hoạt động thì chắc chắn sẽ là dấu hiệu cho sự phát triển tốt ở
những năm học tới.12
3.2.2. Ứng dụng trong tiểu học
STEAM cũng được ứng dụng rộng rãi ở cấp Tiểu học và cho ra những kết quả
đáng khen. Điển hình như những năm gần đây, Trường Tiểu học Hòa Phú đã triển
khai chương trình giáo dục STEM với nhiều hoạt động giáo dục tích hợp, liên
môn, câu lạc bộ khoa học, chú trọng các hoạt động ngoại khóa phù hợp với đặc
thù của trường, tạo cơ hội cho học sinh, phát triển năng lực, kỹ năng xã hội. Qua
đó nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.

Hiện nay, để giúp các em tránh cảm giác gò bó, căng thẳng Trường Tiểu học Hòa
Phú, đã đưa vào chương trình giảng dạy STEM thí điểm ở nhiều khối học, để giúp
các em vừa học vừa giải trí qua việc tích hợp lý thuyết với thực hành sáng tạo liên
quan tới bài học. Thay vì học theo cách truyền thống, giáo dục STEM cho học
sinh học các môn được tích hợp thành một bài học ứng dụng đa môn.

Ví dụ, học sinh được tiếp xúc với lĩnh vực khoa học qua môn Tự nhiên và Xã hội
ở lớp 1,2,3 và môn Khoa học ở lớp 4, 513. Ở mô hình giảng dạy truyền thống, học

12 Vũ Thị Kiều Trang (2022). Thực trạng giáo dục STEAM cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở một số
trường mầm non tại Thành phố Tuyên Quang, Tỉnh Tuyên Quang. Tạp chí Giáo dục (2022), 22(8),
19-24.
13 Sằm Thị Linh. Mô hình giáo dục STEM được áp dụng trong trường Tiểu học Hoà Phú.
http://c1hoaphu.tuyenquang.edu.vn/tin-tuc-su-kien/mo-hinh-giao-duc-stem-duoc-ap-dung-trong-truong-
tieu-hoc-hoa.html

17
sinh sẽ được học những khái niệm, định luật và lý thuyết cơ bản qua sách vở, rất
nhàm chán và trừu tượng. Tuy nhiên, khi áp dụng các mô hình giảng dạy STEM
cho học sinh tiểu học, học sinh sẽ được học bằng các công cụ trực quan và vật
thật, được trang bị những kiến thức thực tế để có thể áp dụng ngay vào thực tế.
Cách học này biến một bộ môn nhàm chán như Khoa học trở nên hấp dẫn trẻ hơn
bao giờ hết, khiến cho các giờ học trở nên thú vị và thu hút hơn. Mô hình giáo dục
STEM giúp mỗi em học sinh có thể phát huy thế mạnh của mình trong một nhóm
có nhiều nhiệm vụ liên quan đến một hay nhiều môn học STEM mà các em có thế
mạnh. Vai trò chính thức trong đội nhóm thúc đẩy các thành viên đội nhóm nhỏ
tuổi này gắn bó với nhau hơn và làm việc nhóm theo hướng tích cực, chủ động.

Thời gian qua, nhà trường dần chú trọng tổ chức các chuyên đề, ngày hội STEM,
với nhiều hoạt động trải nghiệm thú vị cho học sinh. Việc triển khai giáo dục
STEM trong nhà trường giúp đào tạo ra những thế hệ trẻ toàn diện cả về học thuật,
và thúc đẩy sự sáng tạo bên trong của học sinh.

3.2.3. Ứng dụng trong trung học


Giáo dục STEM được đưa vào Việt Nam từ năm 2010 thông qua Liên doanh DTT
– EDUSPEC phối hợp với Trường Icarnegie – Hoa Kỳ trên nền tảng là 2 môn học
CNTT và Robotics cho khối phổ thông từ lớp 1 đến lớp 12. Mô hình đã được mở
rộng triển khai thí điểm tại các trường phổ thông thuộc 3 thành phố Hà Nội, Đà
Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Các nội dung chương trình STEM được triển
khai theo chuẩn quốc tế và phù hợp với mục tiêu của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo.
Hiện nay một số tổ chức giáo dục cũng triển khai các hoạt động giáo dục STEM
như công ty Endeavor Learning Institute và Học viện sáng tạo S3. Tuy nhiên, các
hoạt động giáo dục STEM này chưa phải là hoạt động chính thức trong các trường
phổ thông mà chỉ là các hoạt động độc lập của các công ty giáo dục như là một
mảng kinh doanh và hoạt động truyền thông cộng đồng.

Thực hiện chủ trương đổi mới đồng bộ hình thức dạy học, phương pháp dạy học
và kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục; để tăng cường việc gắn liền dạy học trong

18
nhà trường với thực tiễn cuộc sống và góp phần hình thành năng lực giải quyết
vấn đề của học sinh trung học. Từ năm 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo hàng năm
đã tổ chức cuộc thi “Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống
thực tiễn dành cho học sinh trung học” và cuộc thi “Dạy học theo chủ đề tích hợp
dành cho giáo viên trung học”. Cuộc thi là cơ hội khuyến khích học sinh vận dụng
kiến thức của các môn học khác nhau để giải quyết các tình huống thực tiễn; tăng
cường khả năng vận dụng tổng hợp, khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh;
thúc đẩy việc gắn kiến thức lí thuyết và thực hành trong nhà trường với thực tiễn
đời sống; đẩy mạnh thực hiện dạy học theo phương châm "học đi đôi với hành";
góp phần đổi mới hình thức, phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập; thúc đẩy sự tham gia của gia đình, cộng đồng vào công tác giáo
dục. Đối với giáo viên, đây cũng là cơ hội khuyến khích sáng tạo, thực hiện dạy
học theo chủ đề, chủ điểm có nội dung liên quan đến nhiều môn học và gắn liền
với thực tiễn; tăng cường hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học; tạo cơ hội giao lưu,
trao đổi kinh nghiệm giữa các giáo viên trung học trên toàn quốc và thế giới. Đặc
biệt, cuộc thi “Sáng tạo Khoa học Kĩ thuật” do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức
dành cho học sinh phổ thông đã trở thành điểm sáng tích cực trong giáo dục định
hướng năng lực. Cuộc thi thu hút được sự quan tâm rất lớn, tích cực cả về nhận
thức và hành động từ các cấp lãnh đạo quản lí, các giáo viên, học sinh và cả các
phụ huynh. Các đề tài được triển khai thực hiện thuộc các lĩnh vực cơ khí, môi
trường, sản phẩm nhúng… Về cơ bản, đây là một hình thức của giáo dục STEM.
Các cuộc thi này là ví dụ cho mục tiêu giáo dục nhằm phát triển năng lực cho HS
hình thành những kĩ năng học tập và lao động trong thế kỉ 21 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo và đó cũng là mục tiêu mà giáo dục STEM hướng tới. Nhận thấy vai trò
của giáo dục STEM như là một giải pháp quan trọng và hiệu quả trong việc đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam sau năm 2015. Trong hướng dẫn
thực hiện nhiệm vụ Giáo dục Trung học năm học 2014 – 2015, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã nhấn mạnh việc vận dụng dạy học giải quyết vấn đề, các phương pháp
thực hành, dạy học theo dự án trong các môn học; tích cực ứng dụng CNTT phù
hợp với nội dung bài

19
học. Quán triệt tinh thần giáo dục tích hợp giáo dục STEM trong việc thực hiện
chương trình giáo dục phổ thông ở những môn học liên quan.

Năm 2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Hội Đồng Anh triển khai
chương trình thí điểm về giáo dục STEM cho 14 trường THCS và THPT tại các
tỉnh thành như Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh và Nam Định.
Đây là những bước đi quan trọng nhằm phát triển một chương trình giáo dục theo
định hướng STEM mang tầm quốc gia. Hội thảo quốc tế: "Kinh nghiệm quốc tế về
giáo dục STEM và những vấn đề đặt ra với Việt Nam", ngày 07/3/2017 (Bộ Giáo
dục và Đào tạo phối hợp với Arizona State University, Hoa Kì). Kết quả bước đầu
đã đạt được như sau:
- Bước đầu cán bộ quản lí, giáo viên đã có nhận thức đúng về tầm quan trọng của
giáo dục STEM đối với việc hình thành các năng lực và phẩm chất của học sinh
theo mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đáp ứng yêu cầu của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 4.
- Cán bộ quản lí, giáo viên cốt cán các trường triển khai thí điểm đã bước đầu nắm
bắt và xây dựng được một số chủ đề giáo dục STEM để tổ chức cho học sinh thực
hiện. Trên 50 chủ đề học tập đã được triển khai ở các nhà trường tham gia thí
điểm. Các chủ đề dạy học này hầu hết được xuất phát từ các vấn đề gặp phải ngay
trong cộng đồng nơi các em sinh sống.
- Trong quá trình thực hiện các bài học theo chủ đề giáo dục STEM, học sinh đã
chủ động, tích cực đề xuất và thực hiện các sản phẩm học tập dưới sự hướng dẫn
của giáo viên. Rất nhiều các sản phẩm của các em đã được dự thi và đạt giải cao ở
các cuộc thi: Khoa học kĩ thuật, Vận dụng kiến thức liên môn vào giải quyết tình
huống thực tiễn; Sáng kiến giáo dục STEM - SchoolLAB dành cho học sinh trung
học.
- Các trường thí điểm đã thực hiện nội dung giáo dục STEM một cách chủ động,
sáng tạo, trong đó nhiều trường đã tổ chức câu lạc bộ STEM để hoc sinh đăng kí
tự nguyện tham gia. Đến tháng 3/2017, đã có nhiều trường trong số các trường thí

20
điểm đã tổ chức ngày hội STEM, trong đó tổ chức cho học sinh trình bày, chia sẻ
các sản phẩm học tập; tổ chức Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm về giáo dục STEM:
Trường Olympia Hà Nội, Trường THCS Trưng Vương, Hà Nội, Trường THPT
Chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định…
- Việc huy động cộng đồng tham gia vào việc tổ chức thực hiện các chủ đề STEM
đã được các nhà trường thực hiện có hiệu quả, bước đầu cho thấy các dự án STEM
xuất phát từ các vấn đề có liên quan đến cuộc sống của cộng đồng dân cư nơi các
em sinh sống có sức thu hút mạnh mẽ đối với cộng đồng, doanh nghiệp. Ví dụ
toàn bộ giáo viên và phụ huynh học sinh của trường THPT Nam Sách II đã sử
dụng sản phẩm nước rửa bát của chính học sinh trường mình sản xuất; học sinh
của Trường THPT Chúc Động đã tư vấn cho bố mẹ biết chuyển đổi sản xuất nông
nghiệp và sản xuất rau sạch...
Trong chương trình giáo dục phổ thông mới giáo dục STEM đã được định hướng
rõ nét. Ở cấp độ chương trình giáo dục phổ thông, giáo dục STEM vừa mang
nghĩa đào tạo nguồn nhân lực (định hướng nghề nghiệp STEM) vừa thể hiện định
hướng giáo dục tích hợp phát triển năng lực và phẩm chất người học.
Trong dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, giáo dục STEM
đã được chú trọng thông qua các biểu hiện:
- Chương trình giáo dục phổ thông mới có đầy đủ các môn học STEM. Đó là các
môn Toán học; khoa học tự nhiên; công nghệ; tin học;
- Vị trí, vai trò của giáo dục tin học và giáo dục công nghệ trong chương trình giáo
dục phổ thông mới đã được nâng cao rõ rệt. Điều này không chỉ thể hiện rõ tư
tưởng giáo dục STEM mà còn là sự điểu chỉnh kịp thời của giáo dục phổ thông
trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0;
- Có các chủ đề STEM trong chương trình môn học tích hợp ở giai đoạn giáo dục
cơ bản như môn tìm hiểu tự nhiên (ở tiểu học), môn khoa học tự nhiên (ở trung
học cơ sở);

21
- Định hướng đổi mới phương pháp dạy nêu trong chương trình giáo dục phổ
thông tổng thể phù hợp với giáo dục STEM ở cấp độ dạy học tích hợp theo chủ đề
liên môn, vận dụng kiến thức liên môn giải quyết các vấn đề thực tiễn;
- Các chuyên đề dạy học về giáo dục STEM ở lớp 11, 12; các hoạt động trải
nghiệm sáng tạo dưới hình thức câu lạc bộ nghiên cứu khoa học, trong đó có các
hoạt động nghiên cứu STEM;
- Tính mở của chương trình cho phép một số nội dung giáo dục STEM có thể được
xây dựng thông qua chương trình địa phương, kế hoạch giáo dục nhà trường; qua
những chương trình, hoạt động STEM được triển khai, tổ chức thông qua hoạt
động xã hội hóa giáo dục.

KẾT LUẬN

Trong thời đại hội nhập ngày nay, khi trí tuệ trở thành yếu tố then chốt thể hiện sức mạnh
và bản lĩnh của mỗi quốc gia, thì việc đổi mới phương pháp dạy học là một mục tiêu
quan trọng đối với việc giáo dục học sinh ở nước ta. Nghị quyết của Hội nghị Trung
ương 8 Khóa XI liên quan đến đổi mới toàn diện trong lĩnh vực GD-ĐT đã nhấn mạnh:
“Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện
năng lực và phẩm chất người học. Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm
chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho
học sinh”.

Giáo dục/dạy học STEAM không phải là vấn đề hoàn toàn mới nhưng là một bước phát
triển mới của lí luận và thực tiễn dạy học trên thế giới, hướng tới đào tạo ra con người có
những kĩ năng của thế kỉ XXI, năng động, phát hiện và giải quyết sáng tạo, hiệu quả các
vấn đề thực tế, thích ứng với cuộc sống thường xuyên thay đổi của thời đại mới. Mục tiêu
của giáo dục STEAM tương đồng với mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới,
vậy nên hệ thống giáo dục Việt Nam cần chủ động nghiên cứu và áp dụng sáng tạo trong
từng hoàn cảnh dạy học cụ thể để góp phần phát triển nền giáo dục nước nhà.

22
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Anna Feldman (2015). Why we need to put the art into STEM education.

www.slate.com. Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ thông - Chương trình

tổng thể.

Nguyễn Thành Hải (2016). Từ giáo dục STEM đến giáo dục STEAM: những gợi ý cho
đổi mới giáo dục Việt Nam. sinhvienusa.org.

Nguyễn Vinh Hiển (2019), Tiếp cận dạy học STEAM trong giáo dục phổ thông hiện nay.
Tạp chí Giáo dục, Số 459 (Kì 1 - 8/2019), tr 1-8.

Quigley, C. F., & Herro, D. (2016), "Finding the Joy in the Unknown": Implementation
of STEAM Teaching Practices in Middle School Science and Math Classrooms. Journal
of Science Education and Technology.

Sanders, M., & Wells, J. (2005). STEM graduate education / research collaboratory.
Paper presented to the Virginia Tech faculty, Virginia Tech.

Sằm Thị Linh. Mô hình giáo dục STEM được áp dụng trong trường Tiểu học Hoà Phú.
http://c1hoaphu.tuyenquang.edu.vn.

The Obama White House (2016). https://obamawhitehouse.archives.gov/science-fair.

Thủ tướng Chính phủ (2017). Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 của Thủ tướng Chính
phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Trường Mầm non Tuổi Thơ (2019), Ứng dụng phương pháp STEAM trong hoạt động
ngoài trời cho trẻ mầm non, http://mntuoithohoangmai.edu.vn.

U.S. Department of Education, National Center for Education Statistics (2007). The
Condition of Education.

23
Vũ Thị Kiều Trang (2022). Thực trạng giáo dục STEAM cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở một
số trường mầm non tại Thành phố Tuyên Quang, Tỉnh Tuyên Quang. Tạp chí Giáo dục
(2022), 22(8), 19-24.

24

You might also like