Professional Documents
Culture Documents
1. Chữ hiếu.
Gia đình phải là nơi hội đủ các giá trị của con người, vì thế nói đến trách nhiệm của cha mẹ thì
không thể bỏ qua bổn phận của con cái. Đừng nên nghĩ rằng lấy được vợ, được chồng là thoát
khỏi sự ràng buộc của gia đình, hay nói cách khác, trách nhiệm làm con của mình thế là hết. Nên
nhớ rằng muốn làm cha mẹ tốt, trước hết phải biết làm người con tốt đã. Bổn phận người con
phải lấy chữ Hiếu làm đầu, cũng gọi là đạo hiếu.
Hiếu là biết kính trọng, thương mến và phụng dưỡng cha mẹ.
* Dù giàu hay nghèo cũng biết dành lưng cơm lành bát canh ngọt để phụng dưỡng cha mẹ. Hoặc
ở xa xôi cách biệt thì gửi đồng quà tấm bánh về kính biếu cha mẹ. Nhưng cũng không thiếu kẻ
chỉ biết vợ con, không biết cha mẹ là đâu, nên mới có câu rằng :
"Lúc sống thì chẳng cho ăn
Để đến khi chết làm văn tế ruồi"
* Giáo lý Công giáo ở điều răn thứ IV dạy : "Hãy thảo kính cha mẹ". Đối với người Công giáo,
việc phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già không phải chỉ lo cho các ngài có nơi ăn chốn ở ấm cúng,
thuốc thang lúc đau ốm, thăm viếng an ủi khi giá lạnh mà thôi, mà còn phải bảo đảm đời sống
kitô hữu cho các ngài, giúp các ngài lĩnh nhận các bí tích khi cần thiết. Tóm lại : cả phần xác và
phần hồn, đời này và đời sau.
Còn bổn phận người con dâu thì nặng hơn và cũng gặp khó khăn nhiều hơn. Vì thế người con
dâu cần biết nhẫn nhục chịu đựng để tránh những va vấp nhỏ nhặt kẻo tai họa xảy ra không
lường được. Vậy người chồng phải sáng suốt khôn ngoan trong vấn đề này, để tránh tình trạng
thiên lệch (coi vợ quá hay cha mẹ quá) mà phải trung dung để hai bên êm ấm thuận hòa.
2. Tinh thần gia tộc
Con người không những chỉ có cha mẹ sinh ra mình và con cái mình sinh ra, mà còn có ông bà tổ
tiên và cháu chắt. Ngoài ra còn có họ hàng tộc thuộc và thân thích nội ngoại nữa. Tuy không
chung sống cùng một mái nhà, nhưng tất cả làm thành một đại gia đình. "Nước có nguồn, chim
có tổ" là thế.
Người xưa có câu : "Giọt máu đào còn hơn ao nước lã". Vì thế tình anh em họ hàng là điều rất
đáng quý. Cụ Phan Kế Bính viết : "Anh chị em là bát máu xẻ đôi, tình thân thiết hơn mọi người
khác. Trong cách ăn ở, phải yêu mến nhau. Mà muốn cho được hòa mục mãi mãi thì phải lấy
chữ nhẫn làm đầu, nghĩa là nhường nhịn nhau, dầu có kẻ nói ngang trái cũng nhịn đi, rồi lấy lời
khôn lẽ phải mà khuyên bảo nhau thì không bao giờ đến nỗi khích bác nhau, mặt lăng mày vực
với nhau, mà trong nhà vẫn được vui vẻ, cha mẹ cũng được thỏa lòng" (VNPT 1.2).
Ngoài ra "anh em dâu rể cũng là anh em!". Bề nào cũng là người trong quyến thuộc, phải biết lấy
chữ 'nhẫn' mà đối xử với nhau để tránh hết mọi điều xích mích dè bỉu thật đáng chê ! (Nếp cũ
con người Việt Nam, 1970, tr.14).
3. Gia đình trong cõi yêu thương đời đời
Các tôn giáo đều dạy tin vào đời sau, tin vào sự bất tử của linh hồn. Riêng Kitô giáo không
những dạy như vậy, mà còn dạy cả thân xác loài người cũng sẽ trở thành bất tử sau ngày chung
thẩm. Và sau đó là hạnh phúc tức là sống vĩnh cửu, hoặc là trầm luân tức là chết đời đời. Gia
đình anh chị không thể thoát khỏi định luật đó. Vậy hãy nhắm đích cuối cùng là sự sống vĩnh
cửu.
Đời sống gia đình không thiếu những điều sóng gió. Nhưng khi chúng ta tin vào tình yêu Thiên
Chúa, thì chính tình yêu ấy bảo đảm cho ta và sẽ đưa ta đến chốn an bình. Chúng ta hãy vững tin,
vì Đức Kitô đã cùng khởi hành với ta ; chính Người đợi ta ở điểm đến và nâng đỡ ta suốt cuộc
hành trình.
Tại điểm hẹn đó, chúng ta sẽ gặp được tất cả mọi người. Tại điểm hẹn đó, vũ trụ do Thiên Chúa
tạo thành sẽ được hoàn tất trong Thiên Chúa. Tình yêu hôn nhân và gia đình là công trình của
Thiên Chúa Tình Yêu ; tình yêu hôn nhân sẽ được viên mãn trong Tình Yêu Thiên Chúa ; và
Cộng Đồng Ba Ngôi Thiên Chúa chí thánh, thành đại gia đình của Chúa Cha, quây quần quanh
Đức Giêsu là Anh Cả giữa một đoàn em đông đúc được hợp nhất trong Chúa Thánh Thần.
PHU LUC
1. Tư cách của vợ chồng.
Gia đình là một xã hội nhỏ, vì thế cần có sự chỉ đạo và sự tuân phục. Điều đó nói lên sự cần thiết
phải có để gia đình được hạnh phúc là đời sống có quy củ và trật tự. Thế nhưng sự chỉ đạo ở đây
phải theo tinh thần bác ái yêu thương chứ không phải là thi hành quyền bính một cách độc đoán.
Muốn thế, cả vợ lẫn chồng phải biết nhẫn nại và hy sinh. Vợ phải vâng phục chồng là đầu, và
chồng phải biết nhìn nhận vợ là bạn ngang hàng cùng cộng tác trong mọi công việc. Mỗi người
cần biết can đảm hy sinh, biết kiềm chế cá tính riêng của mình. Tự nhiên ai cũng muốn theo ý
mình, muốn lựa chọn riêng, muốn quyết định công việc, nhưng phải biết hy sinh để lắng nghe ý
bạn và bàn luận cho thống nhất trước khi hành động, không bao giờ được cố chấp bảo thủ. Có
như vậy mới tránh được những xung khắc nhau, gây bất hòa và sinh gương xấu cho con cái. Khi
công việc không được kết quả tốt đẹp, đừng đổ lỗi cho nhau, mà phải cùng nhau chịu trách
nhiệm.
1o Chức năng của người chồng, người cha.
Người nam đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng và đặt làm chủ vạn vật đồng thời làm chủ một
gia đình, đó là Ađam. Vì thế, người nam được Chúa ban cho một sức manh của thể xác cũng như
của tâm hồn để chu toàn chức năng làm chồng làm cha.
Vậy chồng phải chu toàn bổn phận đối với vợ, phải hết lòng yêu thương âu yếm che chở, vì vợ
luôn coi chồng là kẻ bảo vệ mình : "Nghìn tầm núp bóng tùng quân / Tuyết sương che chở cho
thân cát đằng". Người chồng phải biết giữ thể diện, biết làm đẹp và bảo vệ phẩm giá cho vợ ;
ngoài ra còn phải biết giúp đỡ vợ trong công việc phụ của gia đình.
Đối với con cái, phải biết chu toàn chức năng làm cha. Trong giáo dục, phải mềm dẻo nhưng
cương quyết : không bao giờ được nuông chiều nết xấu con cái ; luôn luôn sống gương mẫu, nhất
là về mặt đức tin. Người cha phải biết dạy nghề nghiệp hoặc tạo điều kiện cho con cái học nghề
nghiệp và văn hóa đủ theo trình độ và điều kiện. "Con có cha như nhà có nóc" là thế.
2o Chức năng của người vợ, người mẹ.
Trái với bản chất của người nam, người nữ được Thiên Chúa dựng nên có thân hình mảnh dẻ và
một tâm tình dịu dàng. Họ sống tình cảm hơn là lý trí. Họ thích giải quyết vụ việc bằng trái tim
hơn bằng khối óc. Họ thích được nuông chiều và che chở. Vì thế trong gia đình, người vợ là
người biết kiên nhẫn và chịu đựng tinh tế hơn cả. Nếu chồng là rường cột thì vợ là dây thân ái
ràng buộc mọi người trong yêu thương hạnh phúc. Người vợ thường có khả năng quản lý, quán
xuyến công việc nội trợ và bảo vệ gia đình hơn mọi người.
Với chức năng làm mẹ, người nữ được cộng tác với Thiên Chúa trong việc truyền sinh. Đứa con
ra đời được sống trên bàn tay âu yếm của người mẹ nhiều hơn. Vì thế người mẹ phải biết dạy dỗ
con từ lúc còn thơ ấu : "Dạy con dạy thuở nên ba". Đứa con vừa biết bập bẹ, thì người mẹ phải
biết mớm vào tâm hồn đứa trẻ những chân lý đời đời. Mẹ của thánh Gioan Don Boscô, mẹ của
thánh Tê-rê-xa Hài đồng Giêsu là những tấm gương làm mẹ thật đáng giá.
Người mẹ thường dễ âu yếm vỗ về đứa trẻ, nhưng cũng cần nhớ là đừng bao giờ nuông chiều nó.
Đứa trẻ được nuông chiều, khi lớn lên dễ thành khó tính, hay đòi hỏi và khó dạy.
2. Bầu khí thiêng liêng trong gia đình.
Bước chân vào một gia đình Công giáo, người ta phải cảm thấy một bầu khí vui tươi ấm cúng và
thánh thiện. Trước hết, sự sạch sẽ ngăn nắp chứng tỏ một gia đình sống có tổ chức, và cũng
chứng tỏ tâm hồn mỗi người là trong sáng. Chính bầu khí này giúp mọi thành viên trong gia đình
được triển nở tốt đẹp. Ở đó, mọi người sẽ cảm thấy mình được sống trong yêu thương và lớn lên
trong tình yêu Chúa.
Tiện nghi đầy đủ là tốt, nhưng không phải là điều cần cho gia đình được ấm cúng và hạnh phúc.
Điều cần là mọi người phải cảm thấy có Chúa ngự giữa gia đình mình. Điều làm cho người kitô
hữu sống khác với kẻ khác là trong bất cứ hoàn cảnh nào dầu là đen tối nhất, họ vẫn cảm thấy
mình hạnh phúc. Muốn thế, mọi người phải biết sống tâm tình tạ ơn. Tạ ơn Chúa khi vui cũng
như khi buồn, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan để chứng tỏ lòng mến Chúa.
Đời sống gia đình có tổ chức, việc đạo đức được thực hiện đầy đủ giúp vợ chồng ngày càng
thăng tiến về mọi nhân đức và cũng là làm gương sáng cho con cái. Vợ chồng đừng bao giờ có
sự bất hòa trước mặt con cái. Điều này rất tai hại, vì làm cho con cái dễ mặc cảm xấu về cha mẹ
mình. Đặc biệt cần tránh gương xấu trong lời nói việc làm, nhất là đối với những con cái còn nhỏ
dại. Gương xấu sẽ để lại trong tâm hồn trẻ thơ một vết sẹo dễ làm cho con cái nhiễm phải nhiều
nết xấu sau này.
3. Sinh đẻ có trách nhiệm.
"Trọng trách lưu truyền sự sống con người, làm cho đôi bạn trở thành những cộng tác viên tự do
và hữu trách của Tạo hóa, vốn gây cho chính họ những khoái lạc bao la, và nhiều khi cũng đem
theo không ít khó khăn và vất vả.
Chu toàn trọng trách đó, tuy bao giờ cũng đặt ra những vấn nạn khó khăn cho lương tâm đôi
bạn, nhưng sự biến hóa mới mẻ của loài người đã gây nhiều thay đổi và nêu ra những vấn đề
mới, mà Giáo Hội không thể làm ngơ, vì chúng liên quan mạt thiết đến sự sống và hạnh phúc
con người" (SSCN, số 1).
Con cái là một hồng ân Chúa ban. Tình yêu vợ chồng vốn hướng đến việc sinh sản. Đứa con là
kết quả của hai người hiến thân cho nhau, là hoa trái và là sự hoàn tất của tình yêu vợ chồng. Tuy
nhiên, có con là một trách nhiệm, một gánh nặng cho cha mẹ. Đây là một vấn đề thời sự mà
nhiều người quan tâm. Đặc biệt Giáo Hội phải lên tiếng nói rõ đường lối của mình.
1o Tiết dục trong đời sống hôn nhân.
Có con là một đòi hỏi của đời sống hôn nhân. Nhưng từ đầu, hai vợ chồng phải thấy trước khả
năng nuôi dạy của mình để quyết định số con cái muốn có. Vì thế tiết dục là cần thiết trong đời
sống hôn nhân. Tiết dục không phải là cấm đoán mà là vợ chồng phải biết hy sinh kiềm chế dục
tính một cách chính đáng và khoa học.
Trong Hiến Chế mục vụ gia đình số 51, Công Đồng Vatican II nói : "Muốn tổ chức đời sống vợ
chồng cho thuận hòa, đôi bạn thường vấp phải một số tình trạng sinh sống khó khăn hiện đại và
có thể lâm vào những hoàn cảnh khiến họ không thể gia tăng số con cái, ít là trong một thời
gian ; đó là lúc phải khó khăn lắm mới duy trì được tình yêu trung thành và sự chung sống trọn
vẹn. Một khi đời sống thân mật vợ chồng bị gián đoạn, sự chung thủy thường bị đe dọa và lợi ích
con cái có thể bị giảm sút ; vì trong trường hợp này, việc giáo dục cũng như lòng can đảm sinh
thêm con cái đều bị tổn thương".
Phải chăng sự tiết dục trường kỳ hay định kỳ như thế trong hôn nhân là một điều nghịch thường,
vượt qúa sức tự nhiên của con người ? Không thiếu những gia đình đã làm chứng về đời sống tiết
dục khá thành công. Cụ thể ở Ấn độ, nhiều người đã hoãn lập gia đình tới sau năm 36 tuổi, để
luyện Yoga, hoặc nếu lập gia đình sớm thì từ 40 tuổi trở lên sẽ tránh hẳn việc vợ chồng để có thể
luyện Yoga.
Chính Hội Thánh, trong những thế kỷ đầu cũng đã đề cao vấn đề này : "Hỡi anh em, tôi xin nói
với anh em điều này : thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như
không có ; ai khóc lóc hãy làm như không khóc ; ai mừng vui, như chẳng vui mừng ; ai mua sắm,
hãy làm như không có gì cả ; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng dùng. Vì
bộ mặt thế gian này đang biến đi" (1Cr 7, 29-31).
2o Sinh đẻ có trách nhiệm.
Tùy khả năng nuôi dạy của mình theo một chương trình đã ấn định : đó là trách nhiệm. Lập luận
rằng "trời sinh voi trời sinh cỏ" là một lối lập luận vô trách nhiệm. Con cái sinh ra không được
giáo dục đầy đủ, đời sống thiếu thốn không xứng với phẩm giá con người là cha mẹ lỗi bổn phận
và vô trách nhiệm. Tuy nhiên, cần nhớ rằng sinh con phải theo định luật tự nhiên của đời sống
hôn nhân. Con cái được cưu mang bằng một tình yêu ý thức của cha mẹ. Sức khỏe, nhà cửa,
nhân cách và những yếu tố khác sẽ giúp cha mẹ ấn định số con cái nên có. Không ai ngoài họ có
thể giải quyết thay họ.
Những điều nói trên không phải là một giải pháp tiêu cực : từ chối con cái vì hạnh phúc ích kỷ
của hai người, nhưng là một đòi hỏi tích cực. Nếu chỉ vì tội ích kỷ, thì không thể chấp nhận điều
hòa sinh sản. Vậy trách nhiệm đặt ra là đòi hỏi cả hai người phải vì lợi ích chung và vì lợi ích
phần rỗi.
3o Phương pháp giúp giải quyết vấn đề trách nhiệm.
Công Đồng Vatican II đề ra nguyên tắc chung :
- Tôn trọng sứ mệnh lưu truyền sự sống và phẩm giá con người ;
- Không được trái nghịch với lề luật của Chúa về việc lưu truyền sự sống ;
- Xứng hợp với những quy tắc khách quan về luân lý ;
- Không được xâm phạm ý nghĩa tình yêu hôn nhân là tự hiến cho nhau, cũng như không được
xâm phạm tính cách nhân bản của việc sinh con cái.
Tóm lại, theo Công Đồng, chỉ được sử dụng những phương pháp nào thuận với tự nhiên, không
đi ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa. Cụ thể là chỉ giao hợp trong thời gian không kết đậu,
như vậy điều chỉnh việc sinh sản mà không xúc phạm đến luân lý. Hiện nay có những phương
pháp sau :
a) Phương pháp Billings.
b) Phương pháp Ogino - Knaus.
c) Phương pháp đo nhiẹt độ.
Giáo Hội kêu gọi : không được sử dụng những phương pháp phản tự nhiên : "Phải triệt để loại
bỏ, không được coi là phương tiện hợp pháp để điều hòa sinh sản, những việc làm đình chỉ trực
tiếp quá trình sinh sản đã bắt đầu, và nhất là việc phá thai trực tiếp dù là vì những lý do chữa
bệnh... Còn phải loại bỏ bất cứ hành động nào ngăn chặn sự sinh sản, dù như một mục đích hay
chỉ như phương tiện, dù có hành động như vậy trước việc vợ chồng, hoặc trong việc vợ chồng
hay là khi đang tiến tới hậu quả tự nhiên của nó" (SSCN, số 14).
MỤC LỤC