You are on page 1of 100

ÔN TẬP ĐỊA CHÍNH TRỊ

1. Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu


và vai trò của Khoa học ĐCT trong quan hệ quốc
tế ( trang 14)
Đối tượng nghiên cứu:
Trong định nghĩa theo nghĩa hẹp, địa lý chính trị (political geography) là khoa học
về nhà nước như một thực thể chính trị với ý định hiểu được những ảnh hưởng của nhà
nước và quyết định của nhà nước đến toàn bộ địa lý học nhân văn trong lãnh thổ của
nó. Ví dụ, địa lý bầu cử làm sáng tỏ những khác biệt trong các quan điểm đối với việc
mưu cầu những chính sách riêng và lý do của sự khác biệt này. Trong định nghĩa rộng
hơn, địa lý chính trị được nhìn nhận như một môn khoa học mẹ, trong đó bao hàm cả
địa chính trị với tư cách một phần của toàn bộ các hoạt động chính trị được quan sát về
mặt không gian.
Nhà địa chính trị Hà Lan Dijkink Gertjan cho rằng “Địa chính trị nghiên cứu các
nền tảng địa chính trị như là nhận thức đầu vào trong việc ra quyết định cũng như ảnh
hưởng đến kết quả hoạt động của các quyết định chính trị”. Như thế, địa chính trị được
hiểu theo nghĩa rộng như là tác động của địa lý đối với chính trị, bao gồm cả chính trị
đối nội và chính trị đối ngoại. Địa chính trị là một khoa học, vì nó có đủ ba điều kiện
cơ bản: Đối tượng, mục đích và phương pháp độc lập.
• Nội dung nghiên cứu:
Địa chính trị là khoa học chính trị nghiên cứu các mối quan hệ tương tác giữa
chính trị và đặc điểm địa lý (không gian và thời gian) nhằm đạt được lợi ích quốc gia
hay nhóm quốc gia trong trật tự chính trị quốc tế.
Theo nghĩa hẹp, địa chính trị mang định hướng đối ngoại, bàn luận chủ yếu đến
ảnh hương qua lại giữa địa lý và nền chính trị thế giới hay là ảnh hưởng qua lại của
chính sách các quốc gia đối với nhau, nhất là trên lĩnh vực quyền lực dựa trên an ninh,
quân sự, kinh tế và môi trường, nhằm tìm ra các quy tắc hay quy luật tương tác giữa hai
bình diện đó với nhau, vận dụng chúng vào chính sách của các chủ thể quan hệ quốc tế
trong giải quyết vấn đề hòa bình và chiến tranh giữa các quốc gia vì lợi ích quốc gia.
Về tương tác giữa hai mặt chính trị và địa lý, thông thường người ta dễ dàng nhận ra sự
phụ thuộc của chính trị vào địa lý, hay tác động của địa lý đối với chính trị; nhưng người
ta ít thấy sự tác động trở lại của chính trị nói riêng hay văn hoá (theo nghĩa rộng) đối
với địa lý. Thực tế sự biến đổi của không gian địa lý do sự can thiệp của con người
không chỉ là do nhu cầu sản xuất, mà còn do mục đích an ninh, quốc phòng, kinh tế và
chiến lược. Theo đó, các hệ thống lô cốt, chiến luỹ, các sân bay, hải cảng, kênh đào, các
trạm ra đa, các vệ tinh quan trắc, các căn cứ quân sự phòng thủ hay tấn công... đều là
do chính sách hay chính trị mà sinh ra, có mục tiêu chung là khắc phục các thiếu hụt
hoặc phát huy thêm lợi thế địa lý trong quá trình thực hiện mục tiêu chính trị.
Phương pháp nghiên cứu:Về phương pháp luận, điều cơ bản nhất là cần thấy rõ mối quan hệ biện
chứng
giữa chính trị và kinh tế, trong đó kinh tế là yếu tố nền tảng. Bởi vì một cường quốc chỉ
có thể hình thành khi nó đạt được sức mạnh kinh tế, rồi trên cơ sở đó nó phát huy sức
mạnh trên lĩnh vực quan hệ quốc tế hay chính trị quốc tế. Điều này cho phép lý giải vì
sao các trung tâm quyền lực thế giới đã thay đổi liên tục trong lịch sử.
Một trong các phương pháp nghiên cứu hiện đại là phương pháp tiếp cận hệ thống
- cấu trúc hay còn gọi là phương pháp cấu trúc - chức năng. Theo đó các sự vật đều cần
được nhìn nhận như một chỉnh thể hệ thống và bản thân nó cũng là một yếu tố cấu thành
của hệ thống cao hơn. Quan điểm hệ thống cho phép người ta phân tích sự vật thành
nhiều tầng quan hệ, có tiểu hệ thống, hệ thống và đại hệ thống tuỳ vào vị trí của sự vật
được tiếp cận. Có thể có hệ thống liên kết theo chiều ngang và hệ thống liên kết theo
chiều dọc. Một hệ thống có thể là một nhóm các yếu tố liên quan với nhau và được tổ
chức vì một mục đích. Phương pháp hệ thống là phân tích các hệ thống tự nhiên và xã
hội với hy vọng hiểu được diễn biến của những bối cảnh sôi động và phức tạp một cách
khái quát. Ưu thế của phương pháp hệ thống nằm ở phân tích đồng đại, tĩnh tại. Khi áp
dụng vào các hiện tượng xã hội, nó cần được bổ sung bằng cách nhìn lịch sử và biện
chứng.
Điểm cần lưu ý tiếp theo trong phương pháp nghiên cứu của địa chính trị là, để
hiểu được sự tương tác và các mối quan hệ phải khảo sát các thực thể đó trong khi đang
tương tác. Nghĩa là cần có cái nhìn biện chứng và lịch sử. Bởi vì những đặc điểm không
gian của các thực thể sẽ cung cấp những manh mối để tìm ra nguyên nhân của hành vi.
Sau đó các kiểu hành vi được tập hợp lại thành hệ thống “động”, cho phép người ta hình
dung về toàn bộ không gian địa chính trị.
Trong nghiên cứu địa lý nói chung và đặc biệt là trong địa chính trị, bản đồ đã
chứng tỏ là một cách đặc biệt hữu ích để thể hiện dữ liệu về con người và phi con người
trong cùng một khuôn lớn. Nó còn là phương pháp lý tưởng chứng minh những ứng
dụng của các nguyên tắc khoa học trong hoạt động của con người. Đó là “nhận thức
tổng hợp” của bản đồ và nó có thể tạo nên một cấu trúc mắt xích nhận thức giữa kiến
thức khoa học và thế giới quan xã hội.
• Vai trò trong quan hệ quốc tế:
Vị thế địa chính trị của quốc gia được hình thành trong quá trình phát triển văn
hóa, xã hội, được xác định bằng các nhân tố cơ bản như sự tồn tại của dân tộc, sự phân
bổ dân số theo địa lý, tập hợp các sức mạnh của quốc gia. Trong khuôn khổ trật tự thế
giới hiện đại, quốc gia vẫn là thành phần chủ chốt của địa chính trị nhưng theo sức mạnh
tổng hợp, các quốc gia được phân tách theo cấp độ. Giai đoạn hiện nay có 4 nhóm quốc
gia cơ bản – những thành phần của địa chính trị: siêu cường, cường quốc thế giới, cường
quốc khu vực và các quốc gia nhỏ.
Các nhà nghiên cứu địa chính trị cũng cho rằng vị trí địa lí có mối liên hệ với sức
mạnh và sự phát triển của mỗi quốc gia. Những quốc gia nằm ở những khu vực có khí
hậu ôn hòa thường có sức mạnh kinh tế và quân sự lớn hơn các quốc gia khác nhờ lợi
thế nông nghiệp và khai thác tài nguyên. Trong khi đó, các quốc gia ở gần xích đạo hay
có khí hậu giá lạnh thường có nền kinh tế kém phát triển hơn và phụ thuộc nhiều vào
điều kiện thời tiết. Tương tự điều kiện khí hậu cũng có thể tác động tới an ninh của một
quốc gia. Việc quân đội Pháp thời Napoleon hay quân đội Đức thời Hitler bị thời tiết
băng giá cản bước khi tìm cách xâm lược nước Nga là những ví dụ tiêu biểu. Các đặc
điểm địa hình, như sa mạc, rừng rậm hay núi non hiểm trở, cũng là những yếu tố tác
động quan trọng tới chiến thuật quân sự, có thể góp phần mang lại thành công hay thất
bại cho một đội quân trong các cuộc chiến tranh.
Như vậy có thể nói, yếu tố địa chính trị đóng vai trò quan trọng đối với chính sách
đối ngoại mỗi quốc gia. Tuy nhiên cần nhận thấy rằng địa lí chỉ là một trong rất nhiều
yếu tố tác động tới lựa chọn chính sách của mỗi quốc gia nói riêng cũng như quan hệ
quốc tế nói chung. Thực tế, trong thời kỳ toàn cầu hóa ngày nay, vai trò của yếu tố địa
chính trị dần bị suy giảm khi những đường biên giới quốc gia trở nên bị lu mờ.
Dòng chảy thương mại, đầu tư, vốn, công nghệ hay nhân lực ngày càng trở nên tự
do và thay thế dần các đường biên giới chính trị và địa lí cố định trong việc tạo ra nền
tảng và khuôn khổ cho cho các mối quan hệ kinh tế và chính trị giữa các quốc gia.
2. Nêu và phân tích các yếu tố xác lập vị thế ĐCT
- Lãnh thổ ( của quốc gia: phạm vi, hình dáng, diện tích lãnh thổ, vị trí)+ Tài nguyên thiên
nhiên
1. Phạm vi: Phạm vi lãnh thổ xác định đến đâu quyền lực chính trị và chủ quyền của quốc gia có
thể được áp dụng. Nó xác định ranh giới và phạm vi tác động của quốc gia đó trong các vấn đề như
chính trị, kinh tế, quân sự và văn hóa.
2. Diện tích: Diện tích lãnh thổ có thể ảnh hưởng đến quyền lực và sức mạnh của một quốc gia.
Quốc gia có diện tích lớn thường có tiềm năng kinh tế và quân sự cao hơn, đồng thời có thể có sức ảnh
hưởng lớn hơn trong các cơ quan quốc tế và các cuộc đàm phán quốc tế.
3. Hình dáng: Hình dáng lãnh thổ, bao gồm địa hình và đặc điểm địa lý, có thể ảnh hưởng đến mức
độ dễ dàng quản lý và bảo vệ lãnh thổ của một quốc gia. Ví dụ, quốc gia có biên giới rừng rậm hoặc
núi non có thể gặp khó khăn trong việc duy trì kiểm soát và tiếp cận đến các khu vực xa xôi.
4. Vị trí: Vị trí địa lý của một quốc gia có thể có ảnh hưởng lớn đến vị thế địa chính trị của nó. Một
quốc gia có vị trí chiến lược, như nằm ở trung tâm một khu vực quan trọng hoặc trên các tuyến
đường thương mại quan trọng, có thể có sự ảnh hưởng lớn đến các vấn đề kinh tế, chính trị và quân
sự trong khu vực đó.

Trong không gian địa lý, vị trí địa lý có tầm quan trọng hàng đầu bởi nó có khả năng đem lại
những ưu thế chiến lược trong phòng thủ và thương mại quốc tế của quốc gia. Nhiều nhà nghiên cứu
cho rằng, “vị trí của một quốc gia trên bản đồ là điều đầu tiên quyết định ưu thế chiến lược của quốc
gia đó, thậm chí còn hơn cả triết lý dùng nó để quản lý nó”(15). Đơn cử như, nước Mỹ được bao bọc
bởi hai đại dương là Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, có lợi thế về phòng thủ trên đất liền và có
ưu thế thương mại bằng đường biển hơn bất kỳ quốc gia nào khác... Tuy nhiên, lợi thế của vị trí địa lý
tăng hay giảm còn phụ thuộc vào chính sách phát triển quốc gia và bối cảnh quốc tế. Xin-ga-po trước
đây là thuộc địa của Anh, nhưng sau này đã trở thành một thương cảng sầm uất, có tính chiến lược
trong thương mại và phòng thủ quốc tế, khi chính sách thương mại tự do được áp dụng(16).

+ Quy mô lãnh thổ, địa hình và tài nguyên thiên nhiên cũng tác động lớn đến vị thế và chính sách
của một quốc gia. Thông thường, một quốc gia với diện tích lớn sẽ có điều kiện trở thành cường quốc
nhanh hơn, bởi nó mang lại nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên và không gian rộng lớn để thực hiện
mục tiêu quốc gia. Hầu hết các nước có lãnh thổ lớn, như Nga, Trung Quốc, Mỹ đều là các cường quốc
hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, nhiều nước cũng có lãnh thổ rộng lớn, như Ca-na-đa, Ô-xtrây-li-a, Ấn
Độ đến nay vẫn chưa đạt được vị thế trên. Trong khi đó, các nước, như Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức có
diện tích không lớn, lại là những cường quốc của thế giới về sức mạnh tổng hợp quốc gia. Hơn nữa,
những nước có diện tích rộng lớn, đường biên giới quốc gia dài, có ưu thế trong phát triển kinh tế và
giao thương quốc tế, nhưng cũng gặp không ít bất lợi, nhất là trong vấn đề phòng thủ. Có thể thấy, địa
lý chỉ là vốn ban đầu, là nguồn sức mạnh tiềm năng của một quốc gia. Các quốc gia phải có nhận thức
và hành động địa - chiến lược hợp lý về không gian địa lý để nguồn tiềm năng này trở thành sức mạnh
hiện thực.

- Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, qh đối ngoại

+ Tiềm lực chính trị là thành tố cơ bản của tiềm lực quốc phòng, chứa đựng trong tố chất con
người, truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc và trong hệ thống chính trị; là khả năng tiềm tàng về chính
trị có thể huy động nhằm tạo ra sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Xây dựng tiềm lực chính
trị quyết định khả năng huy động các yếu tố khác của tiềm lực quốc phòng.
Tiềm lực chính trị đo đạc sự ảnh hưởng của một quốc gia đối với các quốc gia khác. Quốc gia có
tiềm lực chính trị mạnh có khả năng tham gia và định hình các quan hệ quốc tế, thực hiện chiến lược
ngoại giao và đưa ra các quyết định quan trọng trong các tổ chức quốc tế.
3. Quan hệ đối tác: Tiềm lực chính trị của một quốc gia có thể tạo ra các quan hệ đối tác vững chắc và
hợp tác với các quốc gia khác. Quốc gia có tiềm lực chính trị mạnh thường có khả năng đàm phán và
thỏa thuận với các đối tác, tạo ra các liên minh và quan hệ đa phương để thúc đẩy lợi ích và địa vị của
mình.
4. Sự tôn trọng và uy tín: Tiềm lực chính trị giúp một quốc gia được tôn trọng và có uy tín trong cộng
đồng quốc tế. Quốc gia có tiềm lực chính trị mạnh thường được coi là đối tác đáng tin cậy và có khả
năng thể hiện quyền lực và ảnh hưởng của mình trong các vấn đề quốc tế.

4. Khả năng tham gia và ảnh hưởng trong tổ chức quốc tế: Tiềm lực chính trị của một quốc gia có thể
cho phép nó tham gia và có ảnh hưởng trong các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, G20, ASEAN,
WTO, và các hiệp hội khu vực khác. Quốc gia có tiềm lực chính trị mạnh thường có khả năng tham gia
vào việc định hình chính sách và quyết định quốc tế, và có thể tạo ra tầm ảnh hưởng đáng kể trong quá
trình ra quyết định.

+ Tiềm lực kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập vị thế địa chính trị của một quốc gia.
Dưới đây là một số cách mà tiềm lực kinh tế có thể ảnh hưởng đến vị thế địa chính trị: 1. Sức mạnh
kinh tế: Tiềm lực kinh tế mạnh mẽ tạo ra sức mạnh và sự ảnh hưởng đối với quốc gia đó. Quốc gia
có tiềm lực kinh tế cao thường có khả năng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, cải thiện hạ tầng,
đáp ứng nhu cầu dân số và tạo ra việc làm. Sức mạnh kinh tế này làm tăng sự tôn trọng và ảnh
hưởng của quốc gia trong cộng đồng quốc tế.
2. Quan hệ thương mại: Tiềm lực kinh tế thúc đẩy quan hệ thương mại và đầu tư với các quốc gia
khác. Quốc gia có nền kinh tế mạnh có thể tạo ra các cơ hội kinh doanh, thu hút vốn đầu tư và xây
dựng quan hệ thương mại tốt với các quốc gia khác. Điều này tạo ra một mối liên kết và phụ thuộc
kinh tế, góp phần tạo ra sự ảnh hưởng chính trị và địa vị trong cộng đồng quốc tế.
3. Đòn bẩy kinh tế: Tiềm lực kinh tế mạnh cho phép quốc gia sử dụng các đòn bẩy kinh tế để thúc
đẩy lợi ích và mục tiêu chính trị của mình. Quốc gia có nền kinh tế phát triển có thể sử dụng các
biện pháp kinh tế như trừng phạt kinh tế, hỗ trợ kinh tế, hoặc tạo ra các liên minh kinh tế để thúc
đẩy mục tiêu chính trị và ngăn chặn các hành động không mong muốn từ các quốc gia khác.
4. Hỗ trợ phát triển: Tiềm lực kinh tế mạnh cung cấp khả năng hỗ trợ phát triển cho các quốc gia
khác. Quốc gia có tiềm lực kinh tế cao có thể cung cấp viện trợ, đầu tư và các chính sách hỗ trợ để
tăng cường quan hệ và tạo ra mối quan tâm từ phía các quốc gia nhận viện trợ. Điều này tạo ra một
vị thế địa chính trị tích cực và tăng cường tầm ảnh hưởng của quốc gia tài trợ trong khu vực và trên
thế giới. Tóm lại, tiềm lực kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập vị thế địa chính trị. Nó
ảnh hưởng đến sức mạnh kinh tế, quan hệ thương mại, đòn bẩy kinh tế và khả năng hỗ trợ phát
triển. Sự mạnh mẽ về kinh tế tạo ra sự ảnh hưởng và tầm ảnh hưởng đối với quốc gia trong cộng
đồng quốc tế.

+ Tiềm lực văn hóa có vai trò quan trọng trong việc xác lập vị thế địa chính trị của một quốc gia.
Dưới đây là một số cách mà tiềm lực văn hóa có thể ảnh hưởng đến vị thế địa chính trị:
1. Soft power (quyền lực mềm): Tiềm lực văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sức mạnh
và sự ảnh hưởng đối với một quốc gia thông qua soft power. Quốc gia có tiềm lực văn hóa mạnh có
khả năng lan truyền và thu hút người khác bằng cách sử dụng giá trị văn hóa, như ngôn ngữ, nghệ
thuật, văn hóa đại chúng, âm nhạc, phim ảnh, văn hóa truyền thông và các yếu tố văn hóa khác. Sức
mạnh này tạo ra sự tôn trọng và ảnh hưởng của quốc gia trong cộng đồng quốc tế.
2. Quan hệ đối tác và giao lưu văn hóa: Tiềm lực văn hóa mạnh mẽ tạo ra cơ hội cho quốc gia xây
dựng và duy trì quan hệ đối tác và giao lưu văn hóa với các quốc gia khác. Qua việc chia sẻ và trao đổi
các nét văn hóa độc đáo của mình, quốc gia có tiềm lực văn hóa cao có thể xây dựng liên kết và gắn kết
với các quốc gia khác, thúc đẩy quan hệ đối tác chính trị và kinh tế.
3. Giám sát và quan hệ quốc tế: Tiềm lực văn hóa cũng có thể ảnh hưởng đến việc giám sát và quan hệ
quốc tế của một quốc gia. Quốc gia có tiềm lực văn hóa mạnh có thể sử dụng yếu tố văn hóa để thúc
đẩy giám sát và quan hệ quốc tế, bao gồm việc thể hiện giá trị, quan điểm và lợi ích của mình thông
qua các hoạt động ngoại giao văn hóa, sự kiện, triển lãm và sự giao lưu văn hóa.
4. Định hình nhận thức và hình ảnh: Tiềm lực văn hóa có thể định hình cách mà một quốc gia được
nhìn thấy và hiểu biết bởi cộng đồng quốc tế. Quốc gia có tiềm lực văn hóa mạnh có khả năng tạo ra
hình ảnh tích cực, tăng cường nhận thức và hiểu biết về quốc gia đó. Điều này có thể ảnh hưởng đến
đánh giá và ý kiến của quốc tế về quốc gia đó và có tác động đến vị thế chính trị của nó.
+ Quan hệ đối ngoại đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập vị thế địa chính trị của một
quốc gia. Dưới đây là một số cách mà quan hệ đối ngoại có thể ảnh hưởng đến vị thế địa chính trị:

1. Xây dựng quan hệ đối tác: Quan hệ đối ngoại cho phép quốc gia xây dựng và duy trì quan hệ đối
tác với các quốc gia khác. Quan hệ này có thể bao gồm quan hệ chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa và
đối thoại chính trị. Qua việc xây dựng các mối quan hệ đối tác vững chắc và đáng tin cậy, quốc gia có
thể tạo ra mạng lưới ủng hộ và sự gắn kết với các quốc gia khác, tăng cường vị thế địa chính trị của
mình.
2. Tạo ra liên minh và hiệp định: Quan hệ đối ngoại cũng cho phép quốc gia tạo ra liên minh và
hiệp định với các quốc gia khác. Liên minh và hiệp định này có thể bao gồm các hiệp định quân sự,
kinh tế, an ninh, thương mại và hợp tác đa phương trong các vấn đề quốc tế. Thông qua việc tham gia
vào các liên minh và hiệp định này, quốc gia có thể tăng cường sức mạnh và tầm ảnh hưởng của mình
và đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập các quy tắc và chính sách quốc tế.
3. Tham gia và ảnh hưởng đến tổ chức quốc tế: Quan hệ đối ngoại cho phép quốc gia tham gia và
ảnh hưởng đến các tổ chức quốc tế. Việc tham gia vào các tổ chức như Liên Hợp Quốc, WTO,
ASEAN, EU và các tổ chức quốc tế khác cung cấp cho quốc gia một nền tảng để thể hiện quan điểm,
lợi ích và tầm ảnh hưởng của mình. Qua việc tham gia tích cực và góp phần vào quyết định và hoạt
động của các tổ chức này, quốc gia có thể tạo ra sự ảnh hưởng và tác động đến vị thế địa chính trị của
mình.
4. Ngoại giao và quan hệ kỹ thuật: Quan hệ đối ngoại bao gồm cả hoạt động ngoại giao và quan hệ
kỹ thuật. Qua việc duy trì các đại sứ quán, lãnh sự quán và các đại diện ngoại giao khác ở các quốc gia
khác, quốc gia có thể xây dựng mạng lưới quan hệ và giao tiếp chặt chẽ với cộng đồng quốc tế. Ngoài
ra, việc tham gia vào các cuộc hội thảo, hội nghị quốc tế và các hoạt động quốc tế khác cũng tạo ra cơ
hội để quốc gia tạo dựng và tăng cường mối quan hệ với các quốc gia khác, đóng vai trò quan trọng
trong xác lập vị thế địa chính trị.

---> Tóm lại, quan hệ đối ngoại đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập vị thế địa chính trị. Qua việc
xây dựng quan hệ đối tác, tạo ra liên minh và hiệp định, tham gia và ảnh hưởng đến tổ chức quốc tế,
cũng như qua hoạt động ngoại giao và quan hệ kỹ thuật, quốc gia có thể tăng cường vị thế và tầm ảnh
hưởng của mình trong cộng đồng quốc tế. Quan hệ đối ngoại cung cấp cơ hội cho quốc gia thể hiện
quan điểm, lợi ích và giải quyết các vấn đề quốc tế, và đóng vai trò quan trọng trong việc xác định và
hình thành vị thế địa chính trị của một quốc gia

- Tiềm lực quân sự, an ninh, quốc phòng


+ Tiềm lực quân sự an ninh quốc phòng đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập vị thế địa chính
trị của một quốc gia. Dưới đây là một số cách mà tiềm lực quân sự có thể ảnh hưởng đến vị thế địa
chính trị:
1. Bảo vệ lãnh thổ và an ninh quốc gia: Tiềm lực quân sự đảm bảo bảo vệ lãnh thổ và an ninh quốc
gia khỏi các mối đe dọa bên ngoài. Khả năng tự vệ và sẵn sàng chiến đấu của quốc gia sẽ tạo ra một
hình ảnh mạnh mẽ và đáng tin cậy trong mắt cộng đồng quốc tế. Điều này có thể tạo ra sự tôn trọng và
sự đồng thuận từ phía các quốc gia khác, góp phần vào việc xác lập vị thế địa chính trị.
2. Tầm ảnh hưởng quốc tế: Một quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh mẽ thường có tầm ảnh hưởng
quốc tế lớn hơn. Khả năng tham gia vào các hoạt động quân sự, hòa giải xung đột và góp phần vào các
nhiệm vụ duy trì hòa bình quốc tế có thể tăng cường tầm ảnh hưởng của quốc gia đó. Qua việc thể hiện
khả năng và đóng góp của mình trong các hoạt động quân sự quốc tế, quốc gia có thể đạt được sự công
nhận và tôn trọng từ cộng đồng quốc tế, góp phần vào việc xác lập vị thế địa chính trị.
3. Đàm phán và hợp tác quốc tế: Tiềm lực quân sự cũng có thể tác động đến quá trình đàm phán và
hợp tác quốc tế của một quốc gia. Một quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh mẽ thường có khả năng
tham gia vào các cuộc đàm phán quốc tế từ một vị thế đàm phán mạnh mẽ hơn. Điều này có thể
ảnh hưởng đến việc xác định các điều kiện và chính sách quốc tế, góp phần vào việc xác lập vị thế
địa chính trị.
4. Tương quan lực lượng quốc tế: Tiềm lực quân sự cũng có thể tác động đến tương quan lực lượng
quốc tế và mối quan hệ với các quốc gia khác. Một quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh mẽ có thể
tạo ra sự cân bằng lực lượng trong khu vực và đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì ổn định và
hòa bình quốc tế. Điều này có thể tạo ra sự ảnh hưởng và tầm ảnh hưởng đối với các quốc gia khác,
góp phần vào việc xác lập vị thế địa chính trị. Tóm lại, tiềm lực quân sự an ninh quốc phòng đóng
vai trò quan trọng trong việc xác lập vị thế địa chính trị của một quốc gia. Qua khả năng bảo vệ
lãnh thổ và an ninh quốc gia, tầm ảnh hưởng quốc tế, đàm phán và hợp tác quốc tế, cũng như tương
quan lực lượng quốc tế, tiềm lực quân sự có thể tạo ra sự tôn trọng, tầm ảnh hưởng và định hình vị
thế địa chính trị của một quốc gia trong cộng đồng quốc tế.
- Tiềm lực dân cư, con người, trí tuệ
+ Quy mô dân số, cơ cấu dân cư - dân tộc, truyền thống lịch sử - văn hóa và ý thức hệ tư tưởng
chính trị đối ngoại

Trong nhận thức và hành động địa - chiến lược, quy mô dân số, đặc điểm dân cư - dân tộc, truyền
thống văn hóa đối ngoại có tác động và đóng vai trò hết sức quan trọng. Mối liên hệ và sự tương tác
giữa những yếu tố này tạo cơ sở nền tảng cho việc đề ra quyết sách và dẫn dắt hành vi đối ngoại trong
quan hệ quốc tế. Chuyên gia địa - chiến lược N.J. Xpai-cơ-men đã chỉ ra rằng, có rất nhiều nhân tố quy
định chính sách của một quốc gia. Đó là những nhân tố thường xuyên và tạm thời, hiển thị hay bị che
khuất, như nhân tố địa lý, mật độ dân cư, cơ cấu kinh tế của đất nước, thành phần sắc tộc của dân cư,
hình thái chính quyền và những mặc cảm, định kiến của các bộ trưởng ngoại giao.

Về quy mô dân số. Quốc gia có quy mô dân số đông không chỉ có khả năng cung cấp nguồn nhân
lực dồi dào, tạo ra một thị trường tiêu thụ nội địa lớn để mở rộng hoạt động thương mại và đầu tư, bảo
đảm phòng thủ đất nước, mà còn tạo ra một nguồn dữ liệu lớn cho phát triển hệ thống mạng thông tin
viễn thông. Tuy nhiên, quan trọng hơn là chất lượng dân số của quốc gia đó. Nếu dân số quá đông, chất
lượng dân số thấp, đất nước thiếu nguồn tài nguyên thiên nhiên và vật lực, khoa học - kỹ thuật kém
phát triển thì sẽ mang lại không ít hạn chế, bất lợi. Để gia tăng chất lượng dân số, nhiều nước trên thế
giới đã đẩy mạnh đầu tư giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực và chăm sóc sức khỏe ban đầu đối với
người dân.

Về cơ cấu dân cư - dân tộc, trước hết là văn hóa, sắc tộc. Quốc gia có sự tương đối thuần khiết về
sắc tộc và tôn giáo sẽ có nhiều lợi thế trong hoạch định và thực thi chính sách phát triển quốc gia. Trên
bình diện quốc tế, các nước có cơ cấu dân cư - dân tộc và tôn giáo giống nhau sẽ có sự hợp tác với
nhau thuận lợi hơn. Quốc gia có đông kiều dân sinh sống hay những người có cùng nguồn gốc tộc
người sống ở nước ngoài sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại.

Tiếp đến là cơ cấu dân số vùng, miền và nghề nghiệp. Quốc gia có dân số tập trung đông ở các khu
vực biên giới, nhất là vùng biên giới biển sẽ có nhiều cơ hội mở rộng giao lưu quốc tế. Chính vì vậy,
các quốc gia khi tiến hành cải cách, mở cửa thường lựa chọn những vị trí thuận lợi về địa lý, nơi có
chất lượng, số lượng dân cư và mối quan hệ giao lưu quốc tế. Chẳng hạn như, hai tỉnh Quảng Đông và
Phúc Kiến được Trung Quốc lựa chọn làm đột phá điểm trong cải cách, mở cửa, nhất là thành lập các
đặc khu kinh tế, chế xuất, một phần bởi chất lượng nguồn nhân lực ở hai địa phương này là khá cao, có
mối quan hệ truyền thống và giao lưu kinh tế với nước ngoài(18).

+ Truyền thống lịch sử - văn hóa và ý thức hệ tư tưởng chính trị đối ngoại cũng là một nhân tố hết
sức quan trọng. Mỹ được xem là một ví dụ điển hình, khi giới tinh hoa của nước này phần nhiều bị
thuyết phục bởi tư tưởng “vận mệnh hiển nhiên” hay “sứ mạng lịch sử”(21), coi mô hình quản trị và
“sức mạnh mềm” của Mỹ là ưu việt và người dân Mỹ phải có trách nhiệm truyền bá giá trị đó ra toàn
thế giới(22). Nhận thức này đã góp phần thôi thúc giới cầm quyền Mỹ can dự một cách có hệ thống
vào các vấn đề quốc tế.
- Cục diện khu vực, thế giới và qh vs các nước lớn ( tình hình mọi mặt của thế giới trong tg
nhất định, bối cảnh không gian quốc tế, xu hướng chính trị và kinh tế quốc tế)

Việc xác lập vị thế địa chính trị của một quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm quan hệ với các
nước lớn và vai trò của quốc gia đó trong cục diện khu vực và thế giới. Quan hệ giữa các nước lớn có
thể ảnh hưởng đến việc xác lập vị thế địa chính trị của một quốc gia theo các cách sau đây:

1. Quyền lực kinh tế: Các nước lớn thường có quyền lực kinh tế mạnh mẽ, bao gồm GDP lớn, xuất
khẩu hàng hóa và dịch vụ quan trọng, cũng như khả năng đầu tư và hỗ trợ tài chính. Quan hệ kinh tế
với các nước lớn có thể tạo ra cơ hội hợp tác kinh tế và giúp nâng cao vị thế địa chính trị của một quốc
gia thông qua mối quan hệ thương mại và đầu tư.

2. Quyền lực quân sự: Sức mạnh quân sự là một yếu tố quan trọng trong việc xác lập vị thế địa chính
trị. Quan hệ với các nước lớn có quyền lực quân sự có thể ảnh hưởng đến mức độ an ninh và sự ổn
định của một quốc gia. Các quốc gia có quan hệ tốt với các nước lớn quyền lực quân sự thường được
hưởng lợi từ việc hợp tác quân sự, bảo vệ an ninh và tham gia vào các liên minh và hiệp định quốc tế.

3. Ảnh hưởng chính trị: Quan hệ với các nước lớn có thể tác động đến sự công nhận và ủng hộ của
cộng đồng quốc tế. Các nước lớn thường có ảnh hưởng lớn trong các tổ chức quốc tế như Liên Hợp
Quốc, G20 hay WTO. Một quốc gia có quan hệ tốt với các nước lớn có thể tận dụng được hỗ trợ chính
trị và được lắng nghe trong quyết định quốc tế.

4. Hợp tác đa phương và vùng khu vực: Mối quan hệ với các nước lớn có thể tác động đến sự tham gia
và vai trò của một quốc gia trong các tổ chức và cơ chế hợp tác đa phương, ví dụ như ASEAN, Liên
minh châu Âu (EU) hoặc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Một quốc gia có quan hệ tốt
với các nước lớn thường có cơ hội tham gia vào các cơ chế hợp tác quan trọng và có thể tận dụng được
lợi ích từ việc tham gia vào các hiệp định thương mại, an ninh và chính trị vùng khu vực.

Tóm lại, quan hệ giữa các nước lớn có thể có tác động sâu rộng đến việc xác lập vị thế địa chính trị của
một quốc gia. Những quan hệ này ảnh hưởng đến khả năng hợp tác kinh tế, quyền lực quân sự,
ảnhhưởng chính trị và tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương. Một quốc gia thông minh sẽ tận dụng
những quan hệ tốt với các nước lớn để tăng cường vị thế địa chính trị và đảm bảo lợi ích quốc gia trong
cục diện khu vực và thế giới.

3. Sự phát triển tư tưởng ĐCT từ TK 19 đến


nay ( trang 23)
4. a. Trình bày lý thuyết sức mạnh biển của
Mahan
- Alfred Thayey Mahan ( 1840 - 1914) ,Xuất thân là sĩ quan hải quân dạy sử học ở Học viện Hải
quân Mỹ, Alfred Thayer Mahan đã nghiên cứu kỹ quá trình trở thành cường quốc của Anh, Hà Lan,
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và quá trình Anh Quốc bá chủ thế giới, từ đó viết nên cuốn này
+ Alfred Thayer Mahan, sĩ quan hải quân Hoa Kỳ, nhà sử học, chiến lược gia về đại dương - người
được John Keegan (nhà sử học quân sự, học giả, nhà báo Anh) coi là “chiến lược gia quan trọng nhất
của Hoa Kỳ trong thế kỷ XIX”.
Cuốn sách gây được ảnh hưởng to lớn của Mahan là “Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch
sử” ngay lập tức được giới am hiểu quân sự công nhận, đặc biệt là ở châu Âu..
- ND:
+ Mahan cho rằng các quốc gia sống bằng xuất khẩu hàng hoá thì phải kiểm soát biển, phải giành
lấy và giữ được quyền kiểm soát biển, nhất là kiểm soát các tuyến giao thông biển huyết mạch liên
quan tới lợi ích và ngoại thương của quốc gia mình – sức mạnh biển là nhân tố chính làm cho đất nước
giàu mạnh . Muốn thế, phải có lực lượng hải quân và đội thương thuyền mạnh cùng một mạng lưới các
căn cứ địa trên biển.
+ Theo Mahan, các yếu tố sức mạnh biển mà một quốc gia cần phải có gồm: 1- Vị trí địa lý thuận
lợi qua biển đi ra thế giới; 2- Địa hình thuận lợi như có nhiều cảng và con sông chảy qua vùng đất
màu mỡ thông ra biển; 3- Lãnh thổ có dân sống thì phân bố dọc theo bờ biển; 3- Phải có số dân
tương đối đông để có thể cung cấp đủ thuỷ thủ và lao động đóng tàu; 4- Toàn dân phải có khát vọng
và nhu cầu về thương mại trên biển; 5- Chính phủ phải có quyết tâm phát triển sức mạnh biển của
nước mình.
+ Mahan đưa ra các điều kiện cơ bản để trở thành thành quốc gia kiểm soát biển : 1- Phải có hải
quân, căn cứ hải quân và các tuyến giao thông trên biển không bị nước khác kiểm soát; 2- Phải có
đội tàu buôn mạnh cùng các hải cảng và tuyến hàng hải, phải có buôn bán với nước ngoài. Sức
mạnh biển phải thể hiện ở chỗ kiểm soát được và lợi dụng được biển; công cụ chính để khai thác
biển là đội tàu buôn và hải quân, phải có lực lượng vũ trang để bảo vệ đội tàu buôn và tuyến hàng
hải. Trong thời chiến, đội tàu buôn có thể chi viện hải quân tác chiến, chở vật tư, vũ khí, chở
thương binh.
+ Sau khi phân tích từ góc độ chiến lược ảnh hưởng của các nhân tố sức mạnh biển, Mahan đề xuất
chiến lược hải quân là xây dựng và tăng cường sức mạnh trên biển trong thời bình và thời chiến nhằm
thực hiện mục tiêu chiến lược của quốc gia. Ông cho rằng phương pháp giành quyền kiểm soát biển là
tác chiến trên biển và phong toả trên biển. Ông nhấn mạnh nguyên tắc cơ bản tác chiến trên biển là tập
trung binh lực và chủ trương nước Mỹ nên thành lập hạm đội biển xa, trước tiên để kiểm soát biển Ca-
ri-bê và eo biển Trung Mỹ, sau đó tiến ra các đại dương, và chủ trương hợp tác với các cường quốc
khác.
Mahan nêu công thức: Sức mạnh hải quân = Lực lượng + Vị trí.

--->>>Có thể thấy học thuyết Mahan là một trường phái của địa chính trị học, nhưng Mahan nhấn
mạnh vai trò của biển chứ không nhấn mạnh vai trò đất liền như thuyết của Mackinder.
- Ảnh hưởng: Tư tưởng sức mạnh biển của Mahan nhanh chóng được Tổng thống Mỹ Theodore
Roosevelt chấp nhận dùng làm căn cứ xây dựng chính sách ngoại giao. Từ năm 1890, chính phủ Mỹ từ
bỏ tư duy đất liền, chuyển hẳn sang tư duy biển. Ngoài việc ra sức xây dựng hải quân, Mỹ còn nắm lấy
việc đào và kiểm soát kênh Panama, lập căn cứ hải quân ở vùng biển Ca-ri-bê, đảo Hawaii . Năm 1890,
Quốc hội Mỹ thông qua Luật Hải quân. Cuối thế kỷ XIX, sức mạnh hải quân Mỹ từ thứ 12 nhảy lên
thứ 3 thế giới; sau Thế chiến I thì mạnh nhất thế giới; sau Thế chiến II Mỹ hoàn toàn kiểm soát Thái
Bình Dương. Chính phủ Mỹ từ năm 1798 lập riêng một Bộ Hải quân bên cạnh Bộ Lục quân (lập 1789);
sau Thế chiến II kết thúc mới lập Bộ Quốc phòng (1947) thay cho hai bộ kia. Nhờ có lực lượng hải
quân mạnh nên nước Mỹ trở thành siêu cường toàn cầu.
+ Sách của Mahan được nhiều nước dịch và xuất bản, có ảnh hưởng lớn tới chính sách ngoại giao
giao của các nước. Tuy là cường quốc biển số 1 hồi ấy nhưng Anh cũng rất sùng bái thuyết Sức mạnh
biển của Mahan, chính phủ Anh đã áp dụng thuyết này khi lập kế hoạch mở rộng hải quân.
+ Hoàng đế Đức William II (kẻ gây ra Thế chiến I) và Bộ trưởng Hải quân Đức Von Tripitz đã
nghiên cứu kỹ thuyết sức mạnh biển của Mahan và dốc sức phát triển hải quân đế quốc Đức.
+ NB: Sau khi bị hạm đội Mỹ do đô đốc Matthew Perry chỉ huy ép phải mở cửa giao thương với
phương Tây (1854), chính quyền Nhật nhanh chóng hiểu rằng hải quân, chứ không phải lục quân, là
lực lượng quân sự quan trọng nhất. Nhật Hoàng khôn ngoan áp dụng ngay thuyết Sức mạnh biển của
Mahan, chuyển chiến lược quân sự Nhật sang xây dựng hải quân và giành quyền kiểm soát trên biển.
Các học viên trường hải quân Nhật đều phải đọc sách của Mahan. Tổng trọng tải đội tàu chiến Nhật từ
15.000 T năm 1880 tăng lên 700.000 T năm 1914, mạnh thứ 7 thế giới, làm tăng rõ rệt sức mạnh của
Nhật. Năm 1894 Nhật dùng hải quân đánh bại Trung Quốc, chiếm đảo Đài Loan; năm 1904 lại tấn
công tiêu diệt hạm đội Đông Bắc Á của Nga. Từ thập niên 30 Nhật đã đóng được tàu sân bay hiện đại
và có nhiều tàu sân bay nhất thế giới. Các đội tàu chiến Nhật phát huy tác dụng cực lớn trong việc triển
khai sức mạnh quân sự chiếm châu Á-Thái Bình Dương, mở đầu bằng cuộc đánh úp thành công Trân
Châu Cảng (7/12/1941).
+ Năm 2000 Trung Quốc xuất bản bản dịch cuốn Ảnh hưởng của Sức mạnh biển đối với lịch sử
thời kỳ 1660-1783 của Mahan và đẩy mạnh tuyên truyền về thuyết Sức mạnh biển. Nhiều năm qua
Trung Quốc bắt đầu giảm lục quân, tăng cường hải quân, đóng nhiều loại tàu chiến và tàu ngầm hiện
đại, mới đây đóng cả tàu sân bay. Bắc Kinh còn ra sức lôi kéo Myanmar để nước này cho họ mở đường
ra Ấn Độ Dương. Năm 2009, lần đầu tiên Trung Quốc đưa cả một hạm đội mạnh tới vùng Vịnh Aden
ngoài khơi Somalia dưới danh nghĩa tham gia chống cướp biển. Thực chất việc này nằm trong chiến
lược đưa hải quân Trung Quốc ra hoạt động tại đại dương. Năm 2010 họ cho tàu chiến lớn nhất là tàu
đổ bộ Côn Lôn Sơn 18.500 tấn tham gia hạm đội kể trên. Các cuộc tập trận lớn vừa qua của quân đội
Trung Quốc đều là tập trận trên biển, có phối hợp không quân và vệ tinh. Gần đây họ lại có ý định lập
căn cứ hải quân tại quần đảo Seychells ở Ấn Độ Dương. Hơn bao giờ hết, Bắc Kinh đang đề cao thuyết
sức mạnh biển và kiểu “ngoại giao tàu chiến”.
Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA THUYẾT( ĐẶT NỀN MÓNG CHO VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỊA
CT ĐỊA CHIẾN LƯỢC QG, ẢNH HƯỞNG ĐẾN TƯ TƯỞNG VÀ HÀNH ĐỘNG ĐỊA CHIẾN
LƯỢC BIỂN CỦA HOA KỲ VÀ 1 SỐ NƯỚC VEN BIỂN TRC ĐÂY VÀ TQ HIỆN NAY)
Ý nghĩa chính của thuyết sức mạnh biển của Mahan là:
1. Chiến lược quốc gia: Thuyết sức mạnh biển của Mahan đã định hình chiến lược hải quân của
nhiều quốc gia, bao gồm Hoa Kỳ, Anh và Nhật Bản. Các quốc gia này đã đầu tư vào hải quân mạnh mẽ
để bảo vệ lợi ích quốc gia và tăng cường vị thế địa chính trị của mình thông qua việc kiểm soát biển
cờ.
2. Thương mại và tài nguyên: Sức mạnh biển có thể tạo ra lợi thế kinh tế cho một quốc gia. Kiểm
soát các tuyến biển quan trọng và cung cấp an ninh cho các tuyến đường thương mại có thể thúc đẩy
thương mại và tiếp cận tài nguyên quan trọng như dầu mỏ và nguyên liệu hàng hải.
3. Địa chính trị và an ninh quốc gia: Sự kiểm soát biển cờ có thể tăng cường sự ảnh hưởng chính trị
của một quốc gia và đảm bảo an ninh quốc gia. Việc kiểm soát các vùng biển quan trọng có thể cung
cấp căn cứ chiến lược và tăng cường khả năng phòng thủ của quốc gia trước các mối đe dọa từ biển.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng thuyết sức mạnh biển của Mahan cũng gặp một số thách thức và tranh
cãi. Một số nhà phê phán cho rằng trong thời đại hiện đại, sức mạnh biển không còn là yếu tố quyết
định duy nhất và rằng các yếu tố khác như công nghệ, kinh tế, và quan hệ quốc tế cũng quan trọng
không kém.
Thuyết sức mạnh biển của Mahan có giá trị quan trọng trong việc hiểu và phân tích các yếu tố
ảnh hưởng đến quyền lực và vị thế của các quốc gia trong lĩnh vực chính trị và quân sự. Dưới
đây là một số giá trị của thuyết này:

1. Nhận thức về quan hệ biển: Thuyết sức mạnh biển của Mahan đặt biển cờ và quyền lực biển vào
trung tâm của quan điểm chiến lược. Nó giúp chúng ta nhận thức rõ ràng về vai trò quan trọng của biển
cờ và biển đảo trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế, quyền lực quân sự và an ninh quốc gia của một
quốc gia.

2. Chiến lược hải quân: Thuyết sức mạnh biển của Mahan đã có ảnh hưởng sâu sắc đến chiến lược hải
quân của nhiều quốc gia. Nó khuyến khích các quốc gia xây dựng và đầu tư vào hải quân mạnh mẽ để
bảo vệ lợi ích quốc gia, tăng cường sự hiện diện quân sự và thể hiện quyền lực chính trị trên biển.
3. Quan hệ quốc tế: Thuyết sức mạnh biển của Mahan nhấn mạnh vai trò của quan hệ quốc tế và sự ảnh
hưởng chính trị trong việc xác định vị thế địa chính trị của một quốc gia. Nó cho thấy rằng quan hệ với
các quốc gia có sức mạnh biển quan trọng có thể ảnh hưởng đến sự công nhận và hỗ trợ quốc tế, đồng
thời tạo ra cơ hội hợp tác và phát triển.

4. An ninh và an toàn biển: Thuyết sức mạnh biển cung cấp một cách tiếp cận để hiểu về an ninh và an
toàn biển. Nó nhấn mạnh tầm quan trọng của kiểm soát biển cờ và khả năng bảo vệ các tuyến biển
quan trọng để đảm bảo an ninh quốc gia và nguồn lực cần thiết.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng thuyết sức mạnh biển của Mahan cũng đã có sự phê phán và tranh cãi. Một
số người cho rằng trong thời đại hiện đại, các yếu tố khác như công nghệ, kinh tế và quan hệ quốc tế
cũng đóng vai trò quan trọng và không thể coi sức mạnh biển là yếu tố duy nhất quyết định vị thế quốc
gia.

Trình bày lý thuyết ĐCT vùng đất trái tim của


b.

Mackinder
KN ( VÙNG ĐẤT ĐB RỘNG, BỀ MẶT TRŨNG, CON SÔNG LỚN KHÔNG THÔNG RA ĐẠI
DƯƠNG, ĐỒNG CỎ PT CAO THÔNG QUA VẬN TẢI ĐƯỜNG BỘ)
Ý NGHĨA VÀ GT
- Halford John Mackinder ( 1861 – 1947) là Nhà địa lý, nhà địa chính trị, nhà sử học với các học thuyết nổi
bật như Lý thuyết vùng đất trái tim, Lý thuyết không gian sống ,Lý thuyết đường chia cắt châu Á-Âu. Ông
được coi là một trong những nhà địa chính trị nổi tiếng nhất thế giới. Lý thuyết địa chính trị của ông về "miền
đất trái tim"(heartland) đưa ra vào 1904 trong báo "The Geographical Pivot of History" đã có ảnh hưởng sâu
sắc đến các nhà hoạch định chính sách của nhiều quốc gia trên thế giới.
-Khái niệm: "miền đất trái tim". Theo Mackinder, "miền đất trái tim" là một vùng đất rộng lớn, nằm ở trung
tâm lục địa Á - Âu. Vùng đất này bao gồm các quốc gia như Nga, Trung Quốc, Mông Cổ, Kazakhstan, Ấn Độ,
Iran, Afghanistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan, Ukraine, Belarus, Phần Lan, Thụy Điển, và các nước vùng Baltic.
+ Vùng đất trái tim là một vùng đất đồng bằng rộng nhất nhì của thế giới: Vùng đất trái tim bao gồm phần
lớn lãnh thổ của châu Á và châu Âu, trải dài từ Scandinavia đến Trung Quốc, từ Bắc Cực đến biển Aegea. Đây
là một vùng đất rộng lớn, với diện tích khoảng 24 triệu km2, chiếm khoảng 1/3 diện tích của lục địa Á - Âu.
Vùng đất này có địa hình tương đối bằng phẳng, với nhiều đồng bằng rộng lớn, như đồng bằng sông Volga,
đồng bằng sông Xi-bia, đồng bằng Trung Hoa,...
+Những con sông lớn ở khu vực này nó cho nguồn về đồng bằng nhưng không thông qua đại dương: Vùng
đất trái tim có hệ thống sông ngòi dày đặc, với nhiều con sông lớn, như sông Volga, sông Xi-bia, sông Amur,
sông Dương Tử, sông Hoàng Hà,... Các con sông này đều có nguồn gốc từ các dãy núi ở phía bắc và tây của
vùng đất trái tim, và đổ ra các biển hoặc đại dương ở phía nam và đông. Tuy nhiên, hầu hết các con sông này
đều không thông qua đại dương, mà đổ ra các biển nội địa, như biển Caspi, biển Aral, biển Đen, biển Aegea,...
+Vùng đất trái tim có diện tích đồng cỏ rộng lớn, với nhiều đồng cỏ xanh tươi, thuận lợi cho chăn nuôi gia súc.
Các miền đồng cỏ này cũng tạo thành một điều kiện thuận lợi cho phát triển vận tải đường bộ. Các tuyến đường
bộ xuyên lục địa có thể dễ dàng đi qua các miền đồng cỏ này, giúp kết nối các khu vực khác nhau của vùng đất
trái tim.
-Học thuyết "miền đất trái tim"
Theo Mackinder, thế giới được chia thành ba khu vực chính:
+Vùng đất trái tim (Heartland): là khu vực nội địa của châu Âu và châu Á, bao gồm Nga, Trung Á, Siberia, và
các khu vực khác.
+Vành đai đất liền (Inner crescent): là khu vực bao quanh vùng đất trái tim, bao gồm châu Âu, Trung Đông,
Bắc Phi, và Trung Quốc.
+Vành đai đại dương trung phần (Outer crescent): là khu vực bao quanh vành đai đất liền, bao gồm châu Mỹ,
châu Phi, châu Đại Dương, và các đảo ở Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.
Mackinder cho rằng, vùng đất trái tim là khu vực trung tâm của thế giới, có vị trí địa lý thuận lợi và giàu tài
nguyên. Quốc gia kiểm soát được vùng đất trái tim sẽ có lợi thế trong việc kiểm soát toàn bộ thế giới.
+ châu Âu và châu Á là một lục địa lớn, là hòn đảo thế giới. Ông đặt tên cho lục địa này là "Hòn đảo thế giới"
(World Island). Lý do là vì châu Âu và châu Á được nối liền với nhau bởi eo đất Dardanelles, eo đất Bosphorus
và eo đất Suez. Do đó, từ một góc độ địa lý, châu Âu và châu Á có thể được coi như một lục địa duy nhất.Vị trí
địa lý của "Hòn đảo thế giới" là rất quan trọng. Nó nằm ở trung tâm của thế giới và được bao quanh bởi các đại
dương. Điều này mang lại cho "Hòn đảo thế giới" một vị thế chiến lược quan trọng.
+Mackinder cho rằng vùng đất trái tim là khu vực quan trọng nhất của "Hòn đảo thế giới". Vùng đất trái tim có
diện tích rộng lớn, tài nguyên thiên nhiên phong phú và dân số đông đảo. Do đó, vùng đất trái tim có khả năng
tự cung tự cấp cao.
+con đường bộ duy nhất tới vùng đất trái tim là khu vực Đông Âu. Khu vực Đông Âu nằm ở phía tây của vùng
đất trái tim và được nối liền với vùng đất trái tim bởi dãy núi Ural. Do đó, bất kỳ quốc gia nào muốn kiểm soát
vùng đất trái tim đều cần phải kiểm soát khu vực Đông Âu.
+vị trí địa lý của vùng đất trái tim kết hợp các hải đảo với các khu vực lớn của "Hòn đảo thế giới". Điều này
mang lại cho vùng đất trái tim một vị thế chiến lược quan trọng.Vùng đất trái tim có thể tiếp cận với các đại
dương thông qua các eo biển như eo biển Dardanelles, eo đất Bosphorus và eo đất Suez. Điều này cho phép
vùng đất trái tim có thể phát triển hải quân và thương mại biển.

● Với một cơ sở địa – lịch sử như vậy, Mackinder xác định chính cái hạt
nhân Bắc – Trung của lục địa Á – Âu là “khu vực trục” hay “quốc gia trục”
của nền chính trị thế giới. Nó chính là “miền đất trái tim”, hay trục của “hòn
đảo thế giới” Á – Âu. Nó được che chắn xung quanh, ngăn cách với biển cả,
có khả năng tự cung tự cấp. Con đường bộ duy nhất có khả năng tiếp cận
với nó là khu vực Đông Âu, để từ đó có thể tiến tới làm chủ thế giới.
 Xung quanh vùng đất trái tim. Mackinder đặt các nước Đức. Áo. Thổ NhĩKỳ, Ấn Độ và Trung
Quốc, những vùng đất cận kề với khu vực trục, tạo ramột vànhđai trong, còn các quốc gia biển đảo
như Anh, Nam Phi, Australia, Hoa Kỳ,Canada và Nhật Bản được xếp vào một “vành đai bên
ngoài”. Mackindergợi ý rằng hoặc khối liên minh Nga - Đức hoặc đế quốc Trung - Nhật (saukhi
xâm chiếm lãnh thổ Nga) đều có thể giành được quyền bá chủ thế giới.Trong cả hai trường hợp,
“mặt tiền trông ra đại dương sẽ được bổ sung chonguồn lực của lục địa lớn”, tạo ra những điều
kiện địa chính trị cần thiết đểsản sinh ra một thế lực lớn áp đảo cả trên đất liền và trên biển
---> Học thuyết của Mackinder đã có ảnh hưởng rất mạnh đến các cường quốc
trong hai cuộc chiến tranh thế giới cũng như trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh
và kéo dài cho đến tận ngày nay. Người ta cho rằng lý thuyết của ông luôn
đứng ở vị trí hàng đầu trong tư tưởng quân sự của phương Tây.

- Học thuyết vùng đất trái tim của Halford John Mackinder có giá trị và ý nghĩa quan trọng
trong lĩnh vực địa chính trị và chiến lược quốc tế. Dưới đây là chi tiết về giá trị và ý nghĩa của học
thuyết này:
1. Vị trí địa lý chiến lược: Học thuyết vùng đất trái tim nhấn mạnh vị trí địa lý chiến lược của Vùng
Trung Quốc (Heartland) - một khu vực rộng lớn nằm ở Trung Á. Mackinder cho rằng việc kiểm soát
Vùng Trung Quốc sẽ cho phép quốc gia đó kiểm soát cả lục địa châu Âu và châu Á, tạo ra lợi thế chiến
lược quan trọng. Ông xem Vùng Trung Quốc là "trái tim" của thế giới và cho rằng việc kiểm soát nó sẽ
tạo ra sự ưu thế quyết định trong quan hệ quốc tế.
2. Quyền lực và ảnh hưởng quốc tế: Học thuyết của Mackinder đã có ảnh hưởng đáng kể đến việc hiểu
và định hình quyền lực và ảnh hưởng quốc tế. Ông cho rằng việc kiểm soát Vùng Trung Quốc - với sự
kết hợp giữa nguồn lực và sự vị trí địa lý - sẽ tạo ra sức mạnh quyết định và tạo nên một lực lượng
không thể đánh bại trong viễn cảnh quốc tế. Học thuyết này đã đóng góp vào việc hiểu và phân tích
quyền lực và cạnh tranh giữa các quốc gia.
3. Tầm quan trọng của lục địa châu Á: Học thuyết vùng đất trái tim đã đưa ra tầm quan trọng của lục
địa châu Á trong lĩnh vực chiến lược và chính trị quốc tế. Mackinder nhận thức được rằng châu Á, đặc
biệt là Vùng Trung Quốc, là một khu vực có nguồn lực vô cùng quan trọng và có sức ảnh hưởng lớn
đến cấu trúc quyền lực toàn cầu. Việc điều chỉnh và tăng cường quyền lực tại lục địa châu Á là một
yếu tố quan trọng trong việc xác định cấu trúc quyền lực toàn cầu.
4. Định hình chính sách và chiến lược quốc gia: Học thuyết của Mackinder đã có ảnh hưởng đến việc
định hình chính sách và chiến lược quốc gia của nhiều quốc gia. Nhiều quốc gia đã áp dụng ý tưởng
của học thuyết này để tăng cường quyền lực và ảnh hưởng của mình, đặc biệt là trong các vùng lân cận
Vùng Trung Quốc. Các chính sách và chiến lược như mở rộng vùng ảnh hưởng, xây dựng cơ sở hạ
tầng, tăng cường quân sự và đẩy mạnh quan hệ đối tác với các quốc gia trong khu vực có thể được hình
thành dựa trên học thuyết vùng đất trái tim.
+Hiện nay thì ảnh hưởng lớn trên thế giới: Học thuyết miền đất trái tim vẫn còn ảnh hưởng lớn trên thế giới,
đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh giữa các cường quốc ở khu vực này ngày càng gay gắt. Sự cạnh tranh giữa
Hoa Kỳ và Trung Quốc ở khu vực miền đất trái tim đang diễn ra gay gắt. Hoa Kỳ coi Trung Quốc là đối thủ
cạnh tranh chiến lược, và đang tìm cách ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc ở khu vực này. Trung Quốc
cũng đang nỗ lực tăng cường ảnh hưởng của mình ở khu vực, nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế và
an ninh quốc gia.
5.
---->>>>Tóm lại, học thuyết vùng đất trái tim của Mackinder có giá trị và ý nghĩa quan trọng trong
việc hiểu và định hình quyền lực, cạnh tranh và chiến lược quốc tế. Nó tạo ra một khung tư duy và
cung cấp những nguyên tắc cơ bản về tầm quan trọng của Vùng Trung Quốc và lục địa châu Á trong
quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, như với bất kỳ học thuyết nào, cần phân tích và đánh giá một cách toàn
diện để áp dụng nó vào ngữ cảnh hiện tại và đáp ứng các thách thức đa dạng và phức tạp của thế giới
ngày nay

c. Trình bày lý thuyết ĐCT của Nga và TQ


THUYẾT “ CHỦ NGHĨA Á - ÂU”( EURASIANISM) - NGA

Trong thời kỳ này, học thuyết, lý thuyết về địa chính trị của Nga chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng đế quốc.
Một số học thuyết, lý thuyết địa chính trị tiêu biểu của Nga trong thời kỳ này bao gồm:
Học thuyết "không gian sinh tồn" của Nikolai Danilevsky: Theo học thuyết này, Nga là một quốc gia đặc biệt,
có một không gian sinh tồn riêng biệt, bao gồm cả các khu vực nằm ngoài biên giới hiện tại. Nga cần bảo vệ
không gian sinh tồn này bằng mọi giá.
Học thuyết "miền đất trái tim" của Halford Mackinder: Theo học thuyết này, thế giới được chia thành hai khu
vực chính: miền đất trái tim (Heartland) và miền đất vành đai (Rimland). Miền đất trái tim là khu vực trung tâm
của lục địa Á - Âu, có vị trí địa chính trị quan trọng. Quốc gia nào kiểm soát miền đất trái tim sẽ có khả năng
thống trị thế giới.
Học thuyết "lục địa chống đại dương" của Karl Haushofer: Theo học thuyết này, thế giới sẽ bị chia thành hai
phe đối lập: phe lục địa (Landmacht) và phe đại dương (Seemacht). Phe lục địa đại diện cho các cường quốc lục
địa, trong khi phe đại dương đại diện cho các cường quốc hải quân. Phe lục địa sẽ cố gắng mở rộng ảnh hưởng
của mình vào các khu vực ven biển, trong khi phe đại dương sẽ cố gắng ngăn chặn sự mở rộng của phe lục địa.
+Thời kỳ sau khi Liên Xô sụp đổ
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Nga mất đi vị thế siêu cường và phải đối mặt với nhiều thách thức cả bên trong và bên
ngoài. Trong bối cảnh đó, học thuyết, lý thuyết về địa chính trị của Nga có những thay đổi đáng kể.
Một số học thuyết, lý thuyết địa chính trị tiêu biểu của Nga trong thời kỳ này bao gồm:
Tiêu biểu trong các học thuyết là thuyết “chủ nghĩa Á Âu” ( Eurasianism). Được đưa ra từ đầu thập niên 20 của
TK XX
Học thuyết "vùng đệm" của Vladimir Putin: Theo học thuyết này, Nga cần tạo ra một vùng đệm an ninh xung
quanh mình, bao gồm các nước thân thiện hoặc trung lập. Vùng đệm này sẽ giúp Nga bảo vệ mình khỏi các mối
đe dọa từ bên ngoài. Đảm bảo một vùng đệm trong vùng lãnh thổ có xu hướng thù địch được che chắn bởi dãy
Ural. Nếu có biến cố trong trường hợp xấu nhất ( giả dụ Moscow sụp đổ) thì nước Nga có khả năng phục hồi.
Học thuyết "bảo vệ lợi ích quốc gia" của Dmitry Medvedev: Theo học thuyết này, Nga có quyền bảo vệ lợi ích
quốc gia của mình, kể cả bằng các biện pháp quân sự. Học thuyết này được coi là một sự phản ứng lại sự mở
rộng của NATO về phía đông.
Học thuyết "phòng thủ nhiều chiều" của Sergei Lavrov: Theo học thuyết này, Nga cần tăng cường sức mạnh
tổng hợp của mình, bao gồm cả sức mạnh quân sự, kinh tế, ngoại giao và văn hóa. Học thuyết này được coi là
một nỗ lực của Nga để đối phó với sự cạnh tranh của các cường quốc khác, đặc biệt là Mỹ
(- Các ý nói thêm Luận thuyết địa chính trị của nhà sử Nga và Trung Quốc:
+ Đối phó thế lực khủng bố. Do lãnh thổ > của Nga và đa dân tộc. Đòi hỏi sự kiếm soát chặt chẽ nhằm ngăn
chặn vô số các nhóm người đòi kiểm soát Khu vực hay liên kết với các lực lượng thù địch.
+ Mở rộng các cảnh biển có cửa ra các đại dương-> Nga phải đối phó với các vấn đề kinh tế
 Hệ quả tất yếu của chiến lược nối dài bàn tay quyền lực từ phạm vi lục địa Á- Âu ra các đại dương để
thành siêu cường toàn cầu, xứng đáng là 1 trong 2 nhân vật chủ chốt của chiến tranh lạnh
+ Thực tế, nước Nga dưới thời Putin => Triển khai chính sách đối ngoại tương đồng với Á-Âu mới theo Dugin
 Tạo ra liên minh, liên kết, tập hợp lực lượng theo các hướng khác nhau
 Cũng đồng thời gợi mở cho VN
+Sức mạnh trên biển và trên không.Sức mạnh trên biển Sergei Gorshkov (1910-1988). Từ sức mạnh biển đó
cần tạo sự cân bằng trong xây dựng các hạm đội hải quân trên mặt nước và dưới đáy biển. Ngoài ra thiết lập và
mở rộng căn cứ hải quân ở nước ngoài và quấy rối Nato. Ngoài ra ưu tiên phát triển tàu ngầm có khả năng
phóng tên lửa hạt nhân.)

Học thuyết Tân Á Âu của Aleksandr G. Dugin


Cả “Học thuyết Á Âu cổ điển” và “Học thuyết Tân Á Âu” của Aleksandr G. Dugin đều được xây
dựng dựa trên những ý tưởng chống phương Tây của Nga có từ thế kỷ XIX, nhưng “Học thuyết Tân Á
Âu” của Dugin tô đậm thêm tâm lý hoài niệm của người Nga không chỉ về quá khứ vĩ đại của các Sa
hoàng mà còn về sự mất mát không gì bù đắp được của gần một thế kỷ Liên bang Xô viết hùng mạnh,
vừa bị tan rã và hiện nay dường như ngày càng bị Phương Tây và NATO lấn át.
Alexander Gelievich Dugin (sinh ngày 7/1/1962 tại Moscow), tiến sỹ triết học, tiến sỹ xã hội học, và
tiến sĩ khoa học Chính trị, Đại học Tổng hợp Matxcơva (MGU); người đề xướng “Học thuyết Tân Á
Âu” (Неоевразийство), một trào lưu tư tưởng có sức ảnh hưởng đáng kể ở Nga. Tư tưởng địa chính trị
về “Miền đất trái tim” của Mackinder đã được Aleksandr Dugin thần bí hoá và sử dụng trong nhiều
sách và bài viết của ông về không gian Nga thời hậu Xô Viết.
Nói chung, gần như tư tưởng nào của Dugin cũng gây ấn tượng vì tính chất khác thường của nó.
Ông không ngần ngại bày tỏ ý chí xây dựng một nước Nga vĩ đại nhưng sẵn sàng tàn bạo và đối xử
không thương tiếc với các cộng đồng lân cận không thần phục Nga. “Học thuyết Tân Á Âu” của Dugin
kêu gọi người Nga phải có sứ mệnh phục hưng quá khứ, chống lại Phương Tây và NATO, thần phục
các dân tộc xung quanh và vĩnh viễn làm chủ vùng đất trái tim, trung tâm của lục địa Á Âu.
Trong “Cơ sở của địa chính trị…” A. Dugin viết:
“Quy luật cơ bản của địa chính trị là nguyên lý Không gian Vĩ đại, được xác định bởi Mackinder và
Haushofer và đã được phát triển bởi Carl Schmitt. Theo nguyên lý này, chủ quyền quốc gia của một
quốc gia phụ thuộc vào không chỉ sức mạnh quân sự, sự phát triển công nghệ và cơ sở kinh tế mà
còn phụ thuộc vào không gian và vị trí địa lý của các vùng đất và lãnh thổ của quốc gia đó. Các nhà
kinh điển về địa chính trị đã viết hàng trăm quyển sách chứng minh rằng, vấn đề chủ quyền phụ thuộc
trực tiếp vào tính độc lập địa chính trị, khả năng tự cung tự cấp (trong) khu vực (самодостаточности,
автаркийности региона). Những dân tộc và quốc gia thực sự phấn đấu vì chủ quyền, trước hết phải
giải quyết vấn đề tự cung tự cấp (trong) lãnh thổ. Trong thời đại của chúng ta, chỉ có các quốc gia rất
lớn nằm trong các khu vực được bảo vệ chiến lược khỏi một cuộc tấn công có thể xảy ra (quân sự,
chính trị hoặc kinh tế) bởi đội ngũ nhà nước khác mới có khả năng tự cung tự cấp như vậy”[14].
Theo Dugin, các lợi ích địa chính trị cốt lõi của nước Nga về tất cả các mặt văn hóa hay tôn giáo,
kinh tế hay chính trị… đều trùng khớp với việc xây dựng một Không gian Nga Vĩ đại chống lại văn
minh - văn hoá phương Tây, mà ông gọi là “chủ nghĩa đơn cực Đại Tây Dương”. Trong quan niệm của
Dugin, cả châu Á, Đông Âu và nhiều vùng đất khác nữa của trái đất đều chống lại Phương Tây, nhưng
không ai hơn Nga trong sứ mệnh này:
“Dù sao đi nữa, với tính cách là Heartland, trái tim của Đảo Á-Âu, trong tình hình địa chính trị cấp
bách hiện nay, nước Nga vẫn tốt hơn tất cả các vùng khác trong việc chống lại địa chính trị theo chủ
nghĩa Đại Tây Dương và trở thành trung tâm của một Không gian Vĩ đại có thể lựa chọn (лучше всех
остальных регионов могла бы противостоять атлантистской геополитике и быть центром
альтернативного Большого Пространства).
Về Ucraina, Dugin cho rằng, sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu nói về địa chính trị lục địa mà “không giải
quyết vấn đề Ukraina”:
“Ukraine với tính cách là một quốc gia độc lập với một số tham vọng lãnh thổ, sẽ gây ra mối nguy
hiểm to lớn cho toàn bộ lục địa Âu-Á, và sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu nói về địa chính trị lục địa mà
không giải quyết vấn đề Ukraina. Điều này không có nghĩa là quyền tự chủ kinh tế hoặc văn hóa - ngôn
ngữ của Ukraine cần phải bị hạn chế, và Ukraina cần trở thành một khu vực hành chính thuần túy của
nhà nước tập trung Nga (như, ở một vài giai đoạn, mọi thứ đã thuộc về Đế chế Nga hoàng hoặc dưới
thời Liên Xô). Nhưng về mặt chiến lược, Ukraine cần phải trở thành hình chiếu nghiêm chỉnh (строго
проекцией) của Moscow về phía nam và phía tây”[19].
.
Kể từ sau cuộc khủng hoảng với Ucraina và phương Tây, kinh tế Nga đang chịu tổn thất nặng nề do
các lệnh trừng phạt. Chính quyền Moskva tìm cách xoay trục về châu Á, một mặt nhằm phá dỡ thế bao
vây cấm vận, mặt khác tạo điều kiện để hiện đại hóa khu vực Siberia-Viễn Đông đang có phần kém
phát triển hơn so với phần còn lại của đất nước.
Mặc dù chưa sử dụng chính thức trong Khái niệm chính sách đối ngoại của Liên bang Nga, song Tổng
thống V. Putin đã nhiều lần đề cập tới việc xây dựng một ‘Đại Á-Âu’ hay ‘Đối tác Đại Á-Âu’ (Greater
Eurasia/ Greater Eurasian Partnership) trong các cuộc gặp gỡ ngoại giao cấp cao như Hội nghị Thượng
đỉnh Nga-ASEAN (Sochi, 2016) hay Diễn đàn Vành đai và Con đường (Bắc Kinh, 2017). Chiến lược
‘Đại Á-Âu’ là một nỗ lực đáp trả của Nga trước những sức ép từ Mỹ và phương Tây.
Nhà phân tích chính trị Sergey Karaganov, người đảm đương vai trò cố vấn cho các đời tổng thống
Nga suốt từ sau Chiến tranh lạnh, được cho là đã thảo ra nội dung của ý tưởng này. Theo đó, ‘Đối tác
Đại Á-Âu’ là sự kết hợp nền tảng giữa Liên minh kinh tế Á-Âu (EAEU) – Tổ chức Hợp tác Thượng
Hải (SCO) – Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Chính sách xoay trục về hướng Đông của
Nga gặp gỡ các nỗ lực hướng Tây của Trung Quốc với đại dự án “Vành đai & Con đường” kết hợp với
các trung tâm kinh tế đang phát triển năng động của Cộng đồng ASEAN sẽ đem đến cho các bên tham
gia nhiều cơ hội hợp tác và lợi nhuận. Đặc biệt, dự án này mang tính chất ‘mở’ cho tất cả quốc gia
trong khu vực, bao gồm cả châu Âu [Karaganov, 2017].
Tăng cường hội nhập khu vực Á-Âu không chỉ giúp Nga xoa dịu những tổn thương do lệnh cấm vận
của phương Tây mà còn góp phần khôi phục được sức mạnh cường quốc của mình. Xoay trục hướng
Đông cũng có nghĩa là liên kết giữa Moskva và Bắc Kinh sẽ ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn. Điều này
khiến giới chính trị Hoa Kỳ sẽ phải chuẩn bị một kịch bản để đối phó với liên minh Nga-Trung có thể
hình thành trong một trật tự thế giới mới.
Nhưng cũng cần lưu ý rằng quan hệ Nga-Trung vốn có nhiều vấn đề phức tạp. Moskva không thể buộc
Bắc Kinh tuân theo luật chơi do mình đặt ra và ngược lại. Bản thân Trung Quốc cũng có những tính
toán địa chính trị riêng chứ không đơn thuần là địa kinh tế ở khu vực Á-Âu. Do đó để tránh việc ‘xoay
trục châu Á’ biến thành ‘hướng về Bắc Kinh’, Moskva buộc phải đa phương hóa quan hệ, tăng cường
hợp tác với các đối tác tiềm năng khác, đặc biệt là ASEAN, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Việt Nam là cầu nối thiết yếu giữa Nga và các quốc gia ASEAN. Tăng cường hội nhập trong không
gian kinh tế-chính trị Á-Âu sẽ không chỉ giúp Moskva và Hà Nội đưa mối quan hệ đối tác chiến lược
toàn diện trở nên thực chất hơn đúng với gọi của nó mà còn là lực đẩy cho hợp tác giữa EAEU và
ASEAN.
Xoay trục về phía Đông với chiến lược xây dựng ‘Đối tác Đại Á-Âu’ (liên kết EAEU-SCO-ASEAN)
đương nhiên không phải là một tiến trình đơn giản, nhưng nếu thành công sẽ giúp Nga hiện thực hóa
được nhiều mục tiêu quan trọng: sử dụng các nguồn lực đa phương để phát triển, đảm bảo ổn định
chính trị khu vực, mở rộng ảnh hưởng và cân bằng quyền lực với các cường quốc châu Á-Thái Bình
Dương như Mỹ hay Trung Quốc.
- Lý thuyết địa chính trị Trung Quốc:
+Học thuyết "Trung tâm của thế giới"
Trong thời kỳ cổ đại, Trung Quốc là một quốc gia có lịch sử lâu đời và nền văn minh phát triển. Nền văn minh
Trung Hoa bắt nguồn từ lưu vực sông Hoàng Hà, và dần dần mở rộng ra các vùng lãnh thổ xung quanh. Trong
thời kỳ này, Trung Quốc xem mình là trung tâm của thế giới, và các nước khác là "barbarian" (man rợ). Đây là
một quan niệm địa chính trị dựa trên nền văn minh và lịch sử lâu đời của Trung Quốc. Quan niệm này đã được
thể hiện trong nhiều văn bản cổ của Trung Quốc, chẳng hạn như sách "Sử ký" của Tư Mã Thiên. Quan niệm địa
chính trị này đã ảnh hưởng đến các chính sách đối nội và đối ngoại của Trung Quốc trong nhiều thế kỷ. Trong
thời kỳ này, Trung Quốc thường có xu hướng bành trướng lãnh thổ và văn hóa sang các vùng lãnh thổ xung
quanh.
+Học thuyết "Không gian sinh tồn"
Học thuyết "Không gian sinh tồn" được đề xuất bởi Tưởng Giới Thạch, nhà lãnh đạo của Trung Quốc Quốc dân
đảng. Học thuyết này cho rằng, Trung Quốc cần có một không gian sinh tồn đủ rộng để đảm bảo sự phát triển
của đất nước. Theo học thuyết này, Trung Quốc cần kiểm soát các vùng lãnh thổ xung quanh, bao gồm Biển
Đông, Đông Bắc Á và Tây Bắc Á. Học thuyết này đã được các nhà lãnh đạo Trung Quốc sau này kế thừa và
phát triển.
+Học thuyết "Sáng kiến Vành đai và Con đường"
Học thuyết "Sáng kiến Vành đai và Con đường" (BRI) là một sáng kiến quy mô lớn do Trung Quốc khởi
xướng. BRI nhằm kết nối Trung Quốc với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và châu Âu
thông qua các dự án hạ tầng, thương mại và đầu tư. Trung Quốc không nằm ở "Heartland" nhưng thông qua
BRI, họ đang tìm cách mở rộng ảnh hưởng đến các vùng Mackinder coi là "World-Island".
BRI bao gồm hai dự án chính:
++Dự án "Vành đai kinh tế" (Belt Economic Road Initiative - BRI) nhằm kết nối Trung Quốc với châu Âu
thông qua các tuyến đường bộ, đường sắt và đường biển.
++Dự án "Con đường tơ lụa" (Silk Road Economic Belt - BRI) nhằm kết nối Trung Quốc với các nước châu Á
- Thái Bình Dương thông qua các tuyến đường bộ, đường sắt và đường biển.
BRI được coi là một chiến lược địa chính trị của Trung Quốc nhằm mở rộng ảnh hưởng của nước này trong
khu vực và thế giới. Học thuyết này đã được Trung Quốc triển khai trong những năm gần đây và đã thu hút sự
quan tâm của nhiều nước.
-Ý nghĩa và giá trị:
chính trị: Lý thuyết địa chính trị của Trung Quốc đã góp phần định hình các chính sách đối nội và đối ngoại của
nước này. Các học thuyết "Trung tâm của thế giới", "Không gian sinh tồn" và "Sáng kiến Vành đai và Con
đường" đã được sử dụng để biện minh cho các chính sách của Trung Quốc nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ,
mở rộng ảnh hưởng và thúc đẩy phát triển kinh tế.
kinh tế: Lý thuyết địa chính trị của Trung Quốc đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nước này. Các
chính sách dựa trên lý thuyết địa chính trị đã giúp Trung Quốc tăng cường kết nối kinh tế và thương mại với
các nước trong khu vực và thế giới, từ đó tạo ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế cho nước này.
văn hóa: Lý thuyết địa chính trị của Trung Quốc đã góp phần bảo tồn và phát huy nền văn minh lâu đời của
Trung Quốc. Các học thuyết này đã khẳng định vai trò trung tâm của Trung Quốc trong khu vực và thế giới, từ
đó góp phần nâng cao vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, lý thuyết địa chính trị của Trung Quốc cũng có những hạn chế nhất định, chẳng hạn như:
Chủ nghĩa bành trướng: Các học thuyết "Trung tâm của thế giới" và "Không gian sinh tồn" có thể dẫn đến tư
tưởng bành trướng lãnh thổ và văn hóa của Trung Quốc.
Cạnh tranh với các nước lớn: Sự trỗi dậy của Trung Quốc và các chính sách dựa trên lý thuyết địa chính trị của
nước này đã làm gia tăng căng thẳng với các nước lớn khác, chẳng hạn như Hoa Kỳ.

. Phân tích và nhận xét đặc điểm ĐCT khu vực


5.a

Châu Âu
Khi phân tích địa chính trị của khu vực Châu Âu trong ngữ cảnh của Liên minh Châu Âu (EU), ta có
thể nhìn vào các đặc điểm địa lý tự nhiên và vị trí chiến lược sau đây:

1. Đặc điểm địa lý tự nhiên:


- Địa hình: Châu Âu có đa dạng địa hình, từ dãy núi Alps ở phía nam đến các đồng bằng và vùng
đồng cỏ ở phía bắc. Địa hình này có ảnh hưởng đến sự phân chia và đa dạng của các quốc gia thành
viên EU và tạo ra các thách thức trong việc phát triển hạ tầng và kết nối giao thông trong khu vực.
- Biển và sông: Châu Âu có một dải đất rộng lớn ven biển với các vùng biển quan trọng như Biển
Địa Trung Hải, Biển Bắc và Biển Baltic. Đây là vùng biển sôi động với nhiều cảng biển quan trọng, tạo
điều kiện thuận lợi cho giao thương và vận chuyển hàng hải. Các con sông như sông Rhine và sông
Danube cũng đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối và phát triển kinh tế của các quốc gia thành
viên.

2. Vị trí chiến lược:


- Trung tâm kinh tế: EU là một trong những trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới. Các quốc gia thành
viên EU như Đức, Pháp và Anh có nền kinh tế phát triển và đóng góp quan trọng vào nền kinh tế toàn
cầu. Vị trí chiến lược của EU giữa các châu lục và quốc gia thành viên có quyền lực kinh tế cao đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy thương mại và đầu tư trong khu vực.
- Điểm nối giao thông: Vị trí địa lý của EU là một điểm nối giao thông quan trọng giữa châu Á, châu
Phi và Bắc Mỹ. Khu vực này có một mạng lưới giao thông phát triển, bao gồm cả đường bộ, đường sắt,
hàng không và đường biển. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông và vị trí chiến lược đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc di chuyển hàng hóa, người dân và thông tin trong EU và với thế giới bên ngoài.

Các đặc điểm địa lý tự nhiên và vị trí chiến lược của EU đã góp phần quan trọng vào sức mạnh và ảnh
hưởng của EU trong lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Điều này cũng tạo ra cơ hội và thách thức
trong việc phát triển và quản lý cộng đồng EU.

Khu vực Châu Âu, đặc biệt là trong ngữ cảnh của Liên minh Châu Âu (EU), có một số đặc điểm
quan trọng về lịch sử, chính trị, kinh tế và văn hóa-xã hội. Dưới đây là phân tích về các yếu tố
này:

1. Lịch sử:
- Thế kỷ 20: Châu Âu đã trải qua những biến động lớn trong thế kỷ 20, bao gồm hai cuộc chiến tranh
thế giới và sự chia cắt giữa Đông và Tây trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Những sự kiện này đã tạo ra
những hậu quả sâu sắc và thúc đẩy sự hợp tác và đoàn kết ở khu vực.

- Liên minh Châu Âu: Sau Thế chiến II, các nhà lãnh đạo Châu Âu đã tạo ra Liên minh Châu Âu
(EU) với mục tiêu thúc đẩy hòa bình, sự ổn định và phát triển kinh tế chung. Từ những bước đầu như
Cộng đồng Than và Thép Châu Âu, EU đã phát triển thành một liên minh chính trị và kinh tế quan
trọng trên thế giới.

2. Chính trị:
- Quyết định chung: EU là một liên minh chính trị, với các quyết định được đưa ra thông qua quá
trình đàm phán và thỏa thuận giữa các quốc gia thành viên. Các quyết định chung bao gồm việc xây
dựng chính sách kinh tế, quản lý di cư, an ninh và quốc phòng, và quan hệ đối ngoại.

- Quyền lực chia sẻ: EU sử dụng mô hình quyền lực chia sẻ, trong đó các quốc gia thành viên chia sẻ
quyền lực và chịu trách nhiệm trong việc đưa ra quyết định. Tuy nhiên, có sự không đồng nhất và căng
thẳng trong quá trình đưa ra quyết định và đạt được sự thống nhất giữa các quốc gia thành viên.

3. Kinh tế:
- Thị trường chung: EU đã phát triển một thị trường chung, cho phép tự do lưu thông hàng hóa, dịch
vụ, vốn và lao động giữa các quốc gia thành viên. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại
và đầu tư, tăng cường sức mạnh kinh tế của EU trên thế giới.

- Tiền tệ: Một số quốc gia thành viên trong EU đã chấp nhận đồng euro là đồng tiền chung. Việc sử
dụng chung đồng euro đã tạo ra lợi ích về sự ổn định tài chính và tăng cường tính hợp tác kinh tế trong
khu vực.
4. Văn hóa - Xã hội:
- Đa dạng văn hóa: EU là một khu vực đa dạng về văn hóa, ngôn ngữ và truyền thống. Việc tồn tại và
tôn trọng sự đa dạng này đã tạo ra một môi trường giàu sáng tạo và hỗ trợ cho sự phát triển của nghệ
thuật, văn hóa và giáo dục.

-Tích cực xã hội: EU đặt mục tiêu phát triển về mặt xã hội, bao gồm việc bảo vệ quyền con người,
tăng cường bình đẳng giới và đảm bảo mức sống tốt cho tất cả các công dân. EU cũng tạo ra các chính
sách hỗ trợ trong lĩnh vực giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội.

5. b. ĐCT Châu Âu và quá trình mở rộng về phía


Đông của NATO ( Trang 155 - chương 5)
Quá trình mở rộng về phía Đông của NATO
Sự mở rộng của NATO, tiếng Anh là: NATO enlargement hoặc gọi là sự mở rộng về phía Đông
châu Âu của NATO. Nguyên nhân của việc nhiều nước Đông Âu hay một số nước từng thuộc Liên
bang Xô Viết trước đây muốn trở thành thành viên NATO đó là tìm kiếm sự bảo trợ về an ninh
quốc gia từ NATO trước những đe doạ từ các nước lớn trong châu lục. Ngoài ra, khi gia nhập được vào
NATO, các nước này cũng sẽ có nhiều cơ hội tiếp xúc với những nền kinh tế phát triển từ phương Tây
từ đó, tìm cơ hội phát triển cho mìnhTổ chức Hiệp Bắc Đại Tây Dương ngày càng phát triển mạnh mẽ,
với số lượng thành viên tăng và mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Ngoài chức năng ban đầu khi là một tổ
chức quân sự nhằm đối đầu với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trong Chiến tranh Lạnh, giờ đây,
NATO cũng có thêm các chức năng mới như: chức năng chính trị, chức năng xử lý khủng hoảng,…

2.2.1. Mục đích thực hiện quá trình mở rộng về phía Đông của NATO
Việc mở rộng sẽ làm cho NATO mạnh hơn và có khả năng giải quyết các thách thức an ninh
của châu Âu tốt hơn. Vì châu Âu là một lợi ích an ninh quan trọng của Mỹ trong suốt những năm
Chiến tranh Lạnh diễn ra. Việc bổ sung Ba Lan Hungary, và Cộng hòa Séc vào liên minh sẽ củng cố an
ninh, nâng cao khả năng của NATO trong việc hoàn thành sứ mệnh cốt lõi là phòng thủ tập thể, đối với
một loạt thách thức an ninh và giảm khả năng gây xung đột lớn ở các nước châu Âu. Khi châu Âu mở
rộng, nhiều quốc gia sẽ chia sẻ trách nhiệm gánh vác nhiệm vụ cốt lõi của NATO và giải quyết các
thách thức an ninh mới bao gồm phổ biến vũ khí xung đột sắc tộc và khủng bố. Việc kết nạp thêm này
cho đến nay vẫn cùng với mục đích như thế.
Mở rộng củng cố NATO. Việc thêm Ba Lan, Hungary và Cộng hòa Séc vào NATO sẽ giúp liên
minh mạnh hơn và có khả năng giải quyết các thách thức an ninh của châu Âu tốt hơn. Cụ thể các quốc
gia này sẽ bổ sung hơn 200.000 quân cho liên minh cũng như sẳn sàng đóng góp cho an ninh khu vực
xung quanh như việc đóng góp hơn 1000 quân cho sứ mệnh ở Bonsnia. Các tài sản quân sự và chiến
lược quốc gia này sẽ cải thiện khả năng của NATO trong việc phòng thủ tập thể và các nhiệm vụ khác.
Sự mở rộng sẽ củng cố sự ổn định về dân chủ ở Trung Âu. Quá trình bổ sung các quốc gia mới
vào nato củng cố sự ổn định và xu hướng dân chủ ở Trung Âu. Một phần để cải thiện triển vọng trở
thành thành viên, các quốc gia trong khu vực đã giải quyết tranh chấp về biên giới sắc tộc với các nước
láng giềng, tăng cường kiểm soát dân sự đối với quân đội của họ và mở rộng các biện pháp bảo vệ cho
các nhóm thiểu số sắc tộc và tôn giáo. Những hành động như vậy không chỉ làm cho khu vực này ổn
định và hòa bình hơn và còn tạo ra một môi trường dài hạn tốt hơn cho thương mại và đầu tư của Mỹ.
Mở rộng sẽ xóa bỏ ranh giới nhân tạo của Stalin ở châu Âu. Việc mở rộng NATO sẽ giúp ngăn
chặn sự xuất hiện của một vùng xám mất an ninh trong khu vực vốn là trung tâm của các cuộc xung
đột tồi tệ nhất thế kỷ. Mặc dù không phải mỗi quốc gia quan tâm đều được mời tham gia NATO ở
Madrid, liên minh sẽ để ngỏ cánh cửa cho các thành viên trong tương lai. Việc mở rộng phải kết hợp
các thỏa thuận khác như đối tác vì hòa bình, Hội đồng đối tác châu Âu Đại Tây Dương (EAPC), sáng
lập NATO - Nga và Hiến chương NATO – Ukraine sẽ mang lại lợi ích an ninh vượt ra ngoài biên giới
NATO. Sự mở rộng của NATO sẽ xóa bỏ ranh giới phân chia ở châu Âu và là biểu hiện hữu hình của
nước Mỹ.Với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động NATO đã đưa ra những cải cách về cơ cấu với nội
dung như sau:

+ Thứ nhất, xác định “đặc tính phòng thủ châu Âu” do trong nhiều năm chiến tranh, quyền chỉ huy
NATO luôn nằm trong tay Mỹ. Chính vì vậy phải sau khi chiến tranh kết thúc, các nước thành viên
trong khối NATO đã lên tiếng đòi quyền phân chia quyền lực công bằng, tương đối giữa các quốc gia
châu Âu và Mỹ.
+ Thứ hai, phải xây dựng quân đội liên hợp đặc phái đa quốc gia, đa binh chủng. Đội quân này ra
đời khiến cho hoạt động của NATO ngày càng linh hoạt và hiệu quả hơn. Đây là bước ngoặt quan
trọng của NATO sau Chiến tranh Lạnh.
+ Thứ ba, xây dựng cơ cấu chỉ huy quân sự mới như: điều chỉnh cơ cấu Bộ Tư lệnh tối cao quân
Đồng minh châu Âu của NATO; chú trọng đến tầm quan trọng của Địa Trung Hải đối với an ninh châu
Âu.

2.2.2. Quá trình thực hiện mở rộng


Kể từ khi thành lập vào năm 1949, NATO đã phát triển từ 12 thành viên (Bỉ, Canada,
Đan Mạch, Pháp, Ý, Iceland, Na Uy, Luxembourg, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Anh, Mỹ) và
tới nay đã được 30 thành viên trong 8 lần mở rộng vào những năm 1952, 1955, 1982,
1999, 2004, 2009, 2017 và 2020.
Ba vòng mở rộng đầu tiên diễn ra trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cụ thể là Thổ Nhĩ
Kỳ 1952, Tây Đức 1955 và Tây Ban Nha 1982. Chiến tranh lạnh kết thúc kéo theo sự
tan rã của Hiệp ước phòng thủ Warsava và sụp đổ của hệ thông xã hội chủ ngĩa do Liên
Xô dẫn dắt. Sự thống nhất nước Đức và tháng Mười năm 1990 đã đưa Đông Đức vào
liên minh. Tại Hội nghị thượng đỉnh Madrid của NATO vào tháng 7 năm 1997, Liên
minh đã mời Ba Lan, Hungary và Cộng hòa Séc bắt đầu quá trình trở thành thành
viên. Trong mùa thu, NATO đã tiến hành các cuộc đàm phán chi tiết với từng quốc gia
này về sự sẵn sàng chính trị và quân sự của họ để gia nhập Liên minh và chia sẻ trách
nhiệm của mình. Trên cơ sở các cuộc đàm phán này, vào ngày 16 tháng 12, Ngoại
trưởng Albright và các ngoại trưởng NATO khác đã ký các nghị định thư gia nhập bổ
sung ba quốc gia này vào Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương. Cộng hòa Séc, Hungary và
Ba Lan Lan trở thành thành viên NATO vào năm 1999. Tiếp theo sau đó, tại Hội nghị
Thượng đỉnh Washington vào năm 1999, kế hoạch hành động của các thành viên đã
được đưa ra để giúp các quốc gia có nguyện vọng và chuẩn bị cho các thành viên có
thể tham gia như Bungary, Estonia, Latvia, Litva, Romania, Slovakia, Slovenia. Các
quốc gia này gia nhập NATO vào năm 2004.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh Bucharest diễn ra vào tháng 4 năm 2008, các bên tham
gia đã đạt được thỏa thuận về việc mời Albania và Croatia gia nhập vào liên minh vào
năm 2009. Montenegro gia nhập NATO hợp tác vì hòa bình vào năm 2006 và được
mời làm thành viên của Kế hoạch hoạt động vào năm 2009. Năm 2014 những người
đứng đầu liên minh thông báo rằng NATO sẽ mở rộng và tập trung vào đàm thoại với
Montenegro.

Sau Chiến tranh Lạnh, Czech, Hungary và Ba Lan gia nhập NATO năm 1999. Năm 2004,
NATO có thêm Bulgaria, Estonia, Latvia, Lithuania, Romania, Slovakia và Slovenia. Tháng 4/2009,
NATO kết nạp Albania và Croatia. Montenegro gia nhập NATO tháng 6/2017, Cộng hòa Bắc
Macedonia tháng 3/2020 và mới nhất là Phần Lan (4/4/2023).
Ngoài 31 thành viên chính thức, 22 quốc gia khác tham gia NATO với tư cách đối tác quan hệ
trong chương trình Hòa bình và 15 quốc gia khác tham gia vào các chương trình đối thoại thể chế
hóa.
Hiện Gruzia, Ukraine, Bosnia-Herzegovina và Thụy Điển đang tiếp tục quá trình gia nhập NATO.
Thụy Điển đệ đơn cùng Phần Lan nhưng chưa được Thổ Nhĩ Kỳ và Hungary chấp thuận. Ankara cho
rằng, Stockholm hành động chưa đủ mạnh đối với nhóm người Kurd bị coi là khủng bố còn Hungary
lại sử dụng quyền phủ quyết để yêu cầu EU nhượng bộ về vấn đề khác. Ukraine chính thức nộp đơn
gia nhập NATO vào tháng 9/2022 nhưng từ năm 2008, các thành viên NATO, đặc biệt là Mỹ từng
tuyên bố có thể kết nạp Ukraine “vào một thời điểm nào đó”. Tuy nhiên, quá trình gia nhập NATO của
Kiev không tiến triển do các nước như Pháp và Đức cho rằng động thái này sẽ khiêu khích Nga.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, NATO tiến hành ba đợt “Đông tiến”. Ngay trong lần mở rộng đầu
tiên, biên giới NATO đã được mở về phía Đông thêm 900 km, quân số tăng thêm 13 sư đoàn, tiếp nhận
toàn bộ vũ khí-khí tài của các thành viên mới và Đông Đức. Điều này khiến cho cán cân Nga-NATO
mất cân bằng nghiêm trọng.

Việc mở rộng về phía đông của NATO, đặc biệt là sau sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991, đã
tạo ra những tác động đáng kể trong khu vực và cũng gây ra những phản ứng từ các bên liên
quan. Dưới đây là một số tác động chính của việc mở rộng NATO về phía đông:
1. Tăng cường an ninh:
- Tăng cường an ninh cho các quốc gia thành viên mới: Việc mở rộng NATO đã mang đến lợi ích an
ninh rõ rệt cho các quốc gia thành viên mới, đặc biệt là các quốc gia phía Đông chịu sự áp lực từ Nga.
Các quốc gia này đã tìm kiếm sự bảo đảm an ninh bằng cách gia nhập NATO, nhờ đó có được cam kết
từ các quốc gia thành viên khác trong trường hợp xảy ra xung đột.
- Tăng cường ổn định khu vực: Việc mở rộng NATO cũng đã tăng cường ổn định trong khu vực. Các
quốc gia thành viên NATO phối hợp chặt chẽ trong việc đảm bảo an ninh và ổn định, đồng thời chia sẻ
thông tin tình báo và phối hợp trong các hoạt động quân sự và huấn luyện.
2. Mối quan hệ với Nga:
- Gây căng thẳng với Nga: Việc mở rộng NATO về phía đông đã gây ra căng thẳng trong quan hệ với
Nga. Nga coi việc mở rộng NATO là một đe dọa đối với lợi ích an ninh và quân sự của mình. Điều này
đã dẫn đến sự căng thẳng và các xung đột quan hệ giữa NATO và Nga, bao gồm cuộc khủng hoảng ở
Ukraine và các cuộc tập trận quân sự tăng cường ở khu vực.
- Tăng cường sự đối đầu: Các biện pháp của NATO nhằm tăng cường an ninh và phòng thủ đã thúc
đẩy Nga tăng cường sự đối đầu. Nga đã tăng cường hoạt động quân sự và triển khai lực lượng quân đội
ở khu vực biên giới với NATO, làm gia tăng căng thẳng và không tin tưởng giữa hai bên.
3. Ảnh hưởng đến khu vực châu Âu:
- Thay đổi sự cân bằng quyền lực: Việc mở rộng NATO đã thay đổi sự cân bằng quyền lực trong khu
vực châu Âu. Việc tăng cường sự hiện diện quân sự của NATO ở phía đông châu Âu đã thúc đẩy Nga
tăng cường khả năng quân sự và đặt nhiều sự chú ý vào khu vực này.
- Chia rẽ chính trị: Việc mở rộng NATO cũng đã gây ra sự chia rẽ chính trị ở khu vực châu Âu. Có
sự đồng thuận và không đồng thuận trong việc mở rộng NATO trong số các quốc gia châu Âu. Một số
quốc gia châu Âu không muốn phá vỡ quan hệ với Nga và lo ngại về sự tăng cường quânđội và căng
thẳng trong khu vực.
4. Tác động đến quan hệ quốc tế:
- Mối quan hệ với Mỹ: Việc mở rộng NATO về phía đông đã tạo ra sự gia tăng trong mối quan hệ
giữa NATO và Mỹ. Mỹ đã tiếp tục là một nhà bảo vệ quan trọng cho các quốc gia thành viên NATO
và tăng cường sự hiện diện quân sự và an ninh ở khu vực châu Âu.
- Quan hệ với các quốc gia không thành viên NATO: Việc mở rộng NATO cũng đã tạo ra tác động
đối với các quốc gia không thành viên NATO trong khu vực. Một số quốc gia như Ukraine và Georgia
đã biểu đạt mong muốn gia nhập NATO, trong khi đó nhiều quốc gia khác trong khu vực có quan ngại
về sự gia tăng căng thẳng và mối đe dọa an ninh.
- Tác động toàn cầu: Việc mở rộng NATO về phía đông đã tạo ra tác động toàn cầu, đặc biệt là trong
việc tạo ra sự căng thẳng giữa các phe phái và tạo ra một môi trường không ổn định tại kv Châu ÂU.
Điều này có thể ảnh hưởng đến qhqt và tạo mt ko thuận lợi cho hợp tác và pt toàn cầu

6. a. Tài nguyên ĐCT khu vực Châu Á ( trang 59)


12. Phân tích và nhận xét đặc điểm ĐCT khu vực Châu Á - TBD ( câu 6)
Về điều kiện tự nhiên và dân số:
Châu Á là khu vực có diện tích lớn nhất thế giới (31.034.000 km vuông), có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, có nguồn nhân lực dồi dào (khoảng 4.651.000.000 người), chiếm 60% dân số cả thế giới (World
population data sheet 2021).
Về vị trí địa lý: Châu Á nằm ở nửa cầu Bắc, là một bộ phận của lục địa Á - Âu. Châu Á nằm ven biển
Thái Bình Dương, Bắc Băng Dương và Ấn Độ Dương, có nhiều eo biển, cảng biển quan trọng thuận lợi cho
phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng… Châu Á nằm ở vị trí trung tâm trái đất, với Châu Mỹ và Châu Phi nằm
ở hai bên, Châu Âu nằm chếch ở phía Bắc. Phía Tây, Châu Á giáp với Châu Âu, với biên giới tự nhiên là dãy
Uran ở phía Tây Liên Xô cũ, chạy từ Bắc xuống Nam, từ Bắc Băng Dương đến biển Caspien. Phía Tây Châu Á
còn giáp với Châu Phi qua kênh đào Xuy-ê. Phía Đông giáp Châu Mỹ qua eo biển Bêrinh. So với địa hình các
châu lục khác thì Châu Á có địa hình hiểm trở hơn, vì thế nên Châu Á vừa có những vùng biệt lập như Tây
Tạng, Ấn Độ vừa có những vùng mở như vùng Mãn Châu, Lưỡng Hà, Đông Nam Á… Châu Á là châu có nhiều
đảo và quốc đảo nhất. Các đảo đều nằm ở điểm trung gian trên những tuyến đường biển quan trọng giữa Châu
Á, Châu Mỹ và Châu Phi.
Địa lý tự nhiên Châu Á chia thành 5 khu vực: Trung Á, Nam Á, Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Tây Á.
Trung Á: Gồm 5 nước Uzbekistan, Turkmenistan, Kazakhstan, Tajikistan, Kyrgyzstan. Khu vực duy
nhất của Châu Á không tiếp giáp với đại dương, là nơi có địa hình cao nhất thế giới, núi non đồ sộ, hiểm trở.
Trung Á có khí hậu ôn đới lục địa, lượng mưa rất thấp, có nhiều tài nguyên thiên nhên (dầu mỏ, than đá, sắt…).
Trình độ kinh tế, văn hoá còn thấp nhưng có vị trí quan trọng về an ninh quốc phòng.
Nam Á: Gồm 8 nước Afghanistan, Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan, Maldives, Nepal, Pakistan và Sri Lanka.
Nam Á có dân số đông nhất Châu Á. Nam Á có rừng nhiệt đới ẩm, xa van, hoang mạc và cảnh quan núi cao
(dãy Himalaya), là khu vực có mưa nhiều nhất trên thế giới, tài nguyên chính là than, dầu khí, gỗ,... Đông Bắc
Á: Gồm 5 nước Trung Quốc, Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mông Cổ. Có nhiều biển, hải cảng và đảo quan
trọng thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội và giao lưu quốc tế. Tập trung các nền kinh tế lớn của thế giới.
Đông Nam Á: Gồm 11 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Singapore, Thái Lan, Myanmar, Malaysia,
Indonesia, Philippin, Brunay, Đông timo. Đông Nam Á là nơi tiếp giáp giữa hai đại dương Thái Bình Dương và
Ấn Độ Dương, vị trí cầu nối hai lục địa (lục địa Á-Âu với lục địa Ô-xtray-li-a), nơi các cường quốc thường
cạnh tranh ảnh hưởng. Khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nằm trên con đường giao thông quan trọng từ Ấn
Độ Dương đến Thái Bình Dương, có nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực dồi dào.
Tây Á: Có vị trí chiến lược đặc biệt, án ngữ con đường giao thông huyết mạch vào loại bậc nhất thế giới.
Tiếp giáp với 3 châu lục Á, Âu, Phi, là con đường nối biển từ Ấn Độ Dương sang Địa Trung Hải, có con đường
tơ lụa chạy qua. Khu vực Tây Á là khu vực sản xuất dầu mỏ chủ yếu, chiếm 60% thị trường dầu mỏ thế giới,
trực tiếp ảnh hưởng đến nguồn cung cấp năng lượng và sự phát triển kinh tế của các nước trên thế giới.

1. Dầu và khí đốt: Châu Á là một trong những khu vực có nguồn cung cấp dầu và khí đốt lớn nhất trên thế
giới. Các quốc gia như Saudi Arabia, Iran, Iraq, Kuwait và các quốc gia thành viên của OPEC có nguồn tài
nguyên dầu mỏ đáng kể. Sự chiếm lĩnh và kiểm soát tài nguyên này đã tạo ra sự cạnh tranh và ảnh hưởng trong
việc thực hiện chính sách ngoại giao và kinh tế.

2. Nước: Khu vực Châu Á cũng đối diện với nhiều vấn đề về tài nguyên nước, bao gồm sự cạnh tranh và
tranh chấp về nguồn nước sông chung. Các sông lớn như sông Mekong, sông Brahmaputra và sông Amur chảy
qua nhiều quốc gia, và việc khai thác và phân chia tài nguyên nước có thể gây ra xung đột và ảnh hưởng đến
quan hệ quốc gia.

3. Khoáng sản: Khu vực Châu Á cũng có nhiều tài nguyên khoáng sản quan trọng. Trung Quốc là một
trong những nhà sản xuất vàng, đồng, chì, kẽm và các khoáng sản khác quan trọng nhất thế giới. Ngoài ra, khu
vực cũng có các tài nguyên quý khác như quặng sắt, than, bauxite và quặng uranium, đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế và chính sách ngoại giao của các quốc gia.

4. Thủy sản: Châu Á có một nguồn lợi thủy sản phong phú và đa dạng. Các quốc gia ven biển như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Việt Nam có ngành công nghiệp thủy sản phát triển, cung cấp nguồn thực
phẩm và nguồn thu nhập quan trọng. Sự cạnh tranh và tranh chấp về quyền lợi và địa giới hạn trong việc khai
thác tài nguyên thủy sản đã tạo ra căng thẳng và ảnh hưởng đến quan hệ quốc gia trong khu vực.

5. Công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo: Châu Á là một trung tâm công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo
phát triển nhanh chóng. Các quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ đóng vai trò quan trọng
trong việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ. Sự cạnh tranh trong lĩnh vực này có thể tác động đến
quyền lợi kinh tế, an ninh và quan hệ quốc tế của các quốc gia trong khu vực.

Những tài nguyên địa chính trị này đã và đang tạo ra sự cạnh tranh, xung đột và hợp tác giữa các quốc gia
ChâuÁ. Các quốc gia trong khu vực phải đối mặt với việc cân nhắc và thúc đẩy chính sách ngoại giao để bảo vệ
và khai thác tài nguyên này, đồng thời duy trì quan hệ hòa bình và ổn định trong khu vực.

- ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC CỦA KV

Xét trên góc độ địa - chính trị, khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp giáp
với nhiều đại dương, trong đó Thái Bình Dương là “cửa ngõ” nối liền Mỹ với thế giới. Về địa lý, châu
Á - Thái Bình Dương gồm Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Trung Á, Nam Á, các quần đảo ở Thái Bình
Dương và các nước trong khu vực Nam Bắc Mỹ; gồm những quốc gia lớn nhất thế giới (Nga, Trung
Quốc, Mỹ), bốn trong số những quốc gia đông dân nhất thế giới (Trung Quốc, Ấn
Độ, Mỹ, Indonesia), và ba cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới (Mỹ, Trung Quốc, Nhật
Bản).

TNTH: Châu Á là lục địa lớn nhất trên Trái đất và có đa dạng về tài nguyên thiên nhiên. Dưới đây
là một số đặc điểm chính về tài nguyên thiên nhiên ở Châu Á: 1. Rừng: Châu Á có các khu rừng rộng
lớn, bao gồm rừng nhiệt đới, rừng mưa ẩm, rừng lá kim và rừng ôn đới. Rừng Amazon và Rừng Congo
là hai khu rừng nổi tiếng trên thế giới nằm tại Châu Á. 2. Sông và hồ: Châu Á có nhiều dòng sông lớn,
bao gồm sông Mekong, sông Ganges, sông Hoàng Hà và sông Yangtze. Các hồ nổi tiếng như hồ
Baikal (Nga), hồ Biển Mặn (Israel) và hồ Toba (Indonesia) cũng nằm ở Châu Á. 3. Núi và dãy núi:
Châu Á có nhiều dãy núi nổi tiếng như dãy Himalaya, dãy Kunlun, dãy Karakoram và dãy Ural. Đỉnh
núi Everest, đỉnh cao nhất trên Trái đất, nằm trong dãy Himalaya tại Nepal. 4. Biển và đại dương: Châu
Á có nhiều bờ biển dài, bao gồm Vịnh Bengal, Biển Đông, Biển Nhật Bản và Biển Đen. Đảo Jeju (Hàn
Quốc), đảo Hòn Mun (Việt Nam) và quần đảo Maldives là những điểm đến biển nổi tiếng ở Châu Á. 5.
Khoáng sản: Châu Á có nhiều dự trữ khoáng sản phong phú bao gồm dầu mỏ, khí tự nhiên, than đá,
quặng sắt, bauxite, đồng, vàng và nhiều loại khoáng sản khác. Các quốc gia như Saudi Arabia, Iran,
Trung Quốc và Ấn Độ đều có nguồn tài nguyên khoáng sản đáng kể. 6. Đa dạng sinh học: Châu Á là
một trong những vùng đất có đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới với nhiều loài động và thực vật
đặc trưng. Khu bảo tồn thiên nhiên như Vườn quốc gia Kaziranga ở Ấn Độ, Vườn quốc gia
Ranthambore ở Ấn Độ và Vườn quốc gia Komodo ở Indonesia là những ví dụ điển hình. 7. Năng
lượng: Châu Á là khu vực sản xuất và tiêu thụ năng lượng lớn nhất trên thế giới. Các nguồn năng
lượng chính bao gồm dầu mỏ, khí tự nhiên, than đá, điện hạt nhân và năng lượng tái tạo như gió và mặt
trời.

- ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ CHÍNH TRỊ KINH TẾ VĂN HÓA XH


Đặc điểm địa chính trị Châu Á – Thái Bình Dương

Châu Á có số dân đông nhất thế giới. Theo số liệu từ Liên hợp quốc, tổng dân số các nước châu Á tính
tính đến tháng 10/2022 là 4.721.088.272 người, chiếm 59,58% dân số thế giới. Mật độ dân số châu á là
152 người/km2. Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên ở châu Á cao hơn các châu lục khác. Những quốc gia có
dân số đông nhất châu Á gồm Trung quốc, Ấn Độ và Inđônêxia.

Hiện có nhiều cách để phân chia các khu vực của châu Á. Theo các phân vùng của Liên hợp quốc,
châu Á được chia làm năm khu vực lớn với cấu trúc khác nhau tạo nên vị trí vai trò chiến lược khác
nhau, bao gồm: Đông Bắc á, Trung Á, Tây Á (hay còn gọi là Tây Nam Á, Trung Đông hay Trung Cận
Đông), Nam Á và Đông Nam Á.

(1) Khu vực Đông Bắc Á gồm 6 nước: Nhật Bản, Mông Cổ, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Triều Tiên, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nga (phần lãnh thổ châu Á). Đông Bắc Á có 2 bộ phận:
phần lục địa và phần các đảo, quần đảo. Phần lục địa được hình thành chủ yếu trên nền địa hình
Trung Quốc với địa hình đồi núi thấp, trung bình và các đồng bằng thấp, bằng phẳng. Phần bán đảo
có 3 mặt giáp biển, khí hậu mang đậm chất lục địa hơn là hải dương, mùa đông không khí khô và
lạnh, mùa hè nhiệt độ tăng nhanh.

Dân số khu vực Đông Bắc Á cao nhất so với các khu vực khác của châu Á. Đây là khu vực chịu ảnh
hưởng của văn minh Trung Hoa cổ đại; Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo, Ấn Độ còn ảnh hưởng đậm nét
đối với đa số người dân trong khu vực. Đông Bắc Á là khu vực có kinh tế phát triển nhất châu Á, bao
gồm các nền kinh tế là Nhật bản, Trung quốc, Hàn quốc. Các trung tâm tài chính kinh tế lớn nhất của
châu Á chủ yếu nằm ở khu vực này như Tokyo, Hồng Kông, Thượng Hải, Seoul,...

(2) Khu vực Đông Nam Á:nằm ở phía Đông Nam lục địa Châu Á gồm 11 quốc gia là: Việt
Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Philippines, Indonesia, Brunei, Singapore,
Malaysia, Đông Timor.

Với diện tích hơn 4,7 triệu km vuông,phía Đông giáp Thái Bình Dương,phía Đông Nam giáp châu Đại
Dương,tất cả các quốc gia Đông Nam Á đều giáp biển (trừ Lào),phần lớn đều là các quốc gia hải
đảo,bán đảo.Quốc gia lớn nhất là Indonesia với 17.508 hòn đảo lớn nhỏ,diện tích 1,904,569 km vuông
và quốc gia nhỏ nhất là Singapore với diện tích 697 km vuông.

- Đông Nam Á nằm trên con đường giao thông hàng hải rất quan trọng,là cầu nối giữa Ấn Độ Dương
và Thái Bình Dương, qua Thái Bình Dương sang châu Mỹ, qua Ấn Độ Dương sang châu Âu.Là con
đường nối liền các châu lục với vị trí chiến lược quân sự quan trọng có thể khống chế các con
đường quân sự trên biển ở châu Á và cả thế giới,lại nằm ở vị trí “ngã ba đường” trong trục hoành
biển nhộn nhịp nhất thế giới,nằm giữa các cường quốc,trung tâm thương mại lớn như Trung Quốc,
Ấn Độ, Nhật Bản, Australia, tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác và phát triển kinh tế khu vực,nên
trong nhiều thế kỷ, Đông Nam Á trở thành đối tượng tranh giành, chiếm đóng của nhiều cường
quốc lớn trên thế giới.

(3) Khu vực Nam Á gồm 8 nước: Afghanistan, Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Maldives, Nepal,
Pakistan và Sri Lanka. Nam á có vị trí địa lý quan trọng, nằm trên trục giao thương nối liền châu
Á với châu Âu và châu Phi ở trên biển. Nam Á có diện tích khoảng trên 4 triệu km2. Nằm ở phía
Nam lục địa châu Á, được bao bọc ở phía Bắc bởi dãy Himalaya, phía nam bởi Ấn Độ Dương, phía
Tây giáp các nước Tây Á và Trung Á, phía Đông giáp các nước Đông Nam Á. Khu vực này còn
được gọi là bán đảo Nam Á và “tiểu lục địa”. Nam Á có ba vùng địa hình khác nhau: phía Bắc là hệ
thống núi Himalaya hùng vĩ dài gần 2.600km, bề rộng trung bình khoảng 320- 400km; phía Nam là
sơn nguyên Decan tương đối thấp và bằng phẳng; nằm dưới chân núi Himalaya và sơn nguyên
Đêcan là đồng bằng Ấn- Hằng rộng và bằng phẳng chạy từ bờ biển Ả Rập đến bờ vịnh Bengal, dài
hơn 3,000km, bề rộng khoảng 250- 350km.
(4) Khu vực Trung Á gồm 5 nước: Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Turkmenistan,
Uzbekistan.

Đây là 5 nước cộng hòa trước đây thuộc Liên bang Xô Viết. Trung Á có địa hình núi cao hiểm trở, là
khu vực cao nhất và xa nhất biển Châu Á,xung quanh có núi cao bao bọc,chắn gió từ các đại dương
vào nên khí hậu khu vực này có tính chất lục địa sâu sắc.Phần lớn đất đai ở khu vực này là thảo nguyên
khô cằn và hoang mạc, dân cư thưa thớt (khoảng trên 80 triệu người với các tôn giáo chủ yếu là đạo
Hồi,đạo Phật và đạo Cơ Đốc), sống bằng nghề chăn nuôi du mục. Đây là khu vực buôn bán ma túy
phức tạp và nguy hiểm của thế giới, các phần tử khủng bố có thể ẩn náu.Trung Á cũng là nơi có trữ
lượng dầu mỏ,khí đốt và khoáng sản lớn.

- Trung Á nằm ở vị trí trung tâm của lục địa Á-Âu, có vị trí chiến lược quan trọng về an ninh, quốc
phòng,kinh tế của châu Á và thế giới, đời sống nhân dân ở đây nghèo và bất ổn về chính trị. Là cửa
ngõ sang Trung Đông và đi vào vùng chiến lược dầu mỏ, khí đốt xung quanh vùng biển Caspi,
Trung Á là rốn dầu lớn thứ hai thế giới (chỉ sau Trung Đông). Trung Á là trung tâm của “cuộc chơi
lớn” mà Anh phát động nhằm ngăn cản Nga dùng Trung Á làm bàn đạp thâm nhập Afghanistan và
Ấn Độ. Với Trung Quốc, Trung Á chính là “cửa sống” quan trọng để tìm bước đột phá chiến lược.

(5) Khu vực Tây Á: Khu vực Tây Á còn gọi là Tây Nam Á,Trung Cận Đông hay Trung Đông
(phần thuộc châu Á) có diện tích khoảng 7 triệu km vuông với 21 quốc gia và vùng lãnh thổ gồm:
Armenia, Azerbaigian, Baren, Gruzia, Israel, Jordan, Syria, Li băng, Iraq, Iran, Côoét, Oman,
Qatar, Ả rập Xê Út, Yemen, Palestine, Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất (UAE), quốc gia
quần đảo Cyprus (Síp), Bờ Tây và dải Gaza, bao gồm cả Thổ Nhĩ Kỳ,Ai Cập (phần thuộc châu Á)

- Tây Á nằm ở vị trí ngã ba của ba châu lục: châu Á,châu Âu,châu Phi,tiếp giáp với các cường quốc
lớn:Nga,Trung Quốc,Ấn Độ,án ngữ con đường biển từ Ấn Độ Dương sang Địa Trung Hải qua kênh
đào Suez và Biển Đỏ.Thời cổ đại,khu vực Tây Á có tiếng đường bộ độc nhất và đầy nguy hiểm mà
các lái buôn châu Âu phải vượt qua để đến Trung Quốc và Ấn Độ buôn đồ gia vị,tơ lụa nổi tiếng.
Đây là “con đường tơ lụa” phát triển thương mại,giao lưu văn hóa.

- Địa hình Tây Á phức tạp, chủ yếu là núi và sơn nguyên,hoang mạc và sa mạc,cao nguyên xen giữa
các dãy núi Parhar và Taurus.Biển Chết nằm dọc biên giới giữa Bờ Tây,Israel và Jordan,đây là
điểm thấp hơn mực nước biển 418m. Sơn nguyên Iran nằm ở phía Đông,rộng lớn nhất song khí hậu
cũng khô hạn nhất,có nguồn khoáng sản phong phú gồm dầu mỏ,khí đốt,than đá,muối mỏ,sắt, đồng
và crôm, trong đó tài nguyên có trữ lượng lớn là dầu mỏ và khí đốt.

Xét về góc độ địa - kinh tế, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của 21 nước thành
viên khu vực châu Á - Thái Bình Dương chiếm 54% tổng GDP thế giới và dịch vụ thương mại chiếm
44% thế giới (Công Tuấn, 2018). Châu Á - Thái Bình Dương không chỉ là một trong những khu vực có
dân số đông nhất thế giới, chiếm khoảng 1/2 dân số thế giới (Minh Châu, 2019), mà còn là một trong
những khu vực có nền kinh tế phát triển sôi động nhất và tập trung nhiều của cải nhất với trữ lượng dầu
mỏ, khí đốt vô cùng lớn (Quốc Trung, 2018). Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC) được thành lập năm 1989 tại Úc nhằm thúc đẩy hơn nữa tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng
trong khu vực và củng cố cộng đồng châu Á - Thái
Bình Dương. Với 21 thành viên và 2,6 tỷ người (khoảng 40% dân số trên thế giới), 56% GDP và 57%
giá trị thương mại toàn cầu (Thông tấn xã Việt Nam, 2017), APEC
tự hào đại diện cho một khu vực kinh tế phát triển năng động nhất thế giới.
Bước sang thế kỷ XXI, khu vực châu Á - Thái Bình Dương có những thay đổi mang
tính căn bản, đó là:
Thứ nhất, sức mạnh chính trị và tốc độ phát triển kinh tế của khu vực này tăng lên nhanh chóng so với
các khu vực khác trên thế giới. Năm 2018, tỷ lệ thương mại của khu vực châu Á - Thái
Bình Dương chiếm 57,5% thương mại toàn cầu, tăng hơn so với mức trung bình 56,3% của giai đoạn
2012-2017 (Theo: Châu Anh, 2019);
Thứ hai, sự trỗi dậy của Trung Quốc một mặt đem đến cơ hội để kinh tế các nước xung quanh phát
triển, mặt khác lại khiến những quốc gia này không khỏi lo lắng;
Thứ ba, các quốc gia sở hữu hạt nhân ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương không ngừng tănglên; sự
theo đuổi của các tổ chức phi chính phủ đối với vũ khí hủy diệt hàng loạt và việc triển khai hệ thống
phòng thủ tên lửa đạn đạo của Mỹ ở khu vực này, tất cả đều có khả năng dẫn đến cuộc chạy đua vũ
trang gay gắt ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương; Thứ tư, cơ chế hợp tác đa phương khu vực không
ngừng tăng cũng có khả năng làm xuất hiện nhất thể hóa khu vực (Châu Anh, 2019).
Hiện nay, khu vực châu Á - Thái Bình Dương có mức sống cao nhất trên thế giới.
Năm 2018, hơn một tỷ người dân Đông Á thoát khỏi nghèo. Gần 2/3 dân số Đông Á hiện được
xem là có an ninh kinh tế hoặc thuộc tầng lớp trung lưu (Nhật Thảo, 2018). Đây còn là khu vực phục
hồi nhanh nhất và đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất sau những tác động sâu sắc của cuộc khủng hoảng
tài chính - kinh tế toàn cầu năm 2007-2008. Sự tăng trưởng chung của khu vực châu Á - Thái Bình
Dương dự báo vượt tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới nhờ nhu cầu
nội địa và buôn bán nội khối tăng giúp bù đắp sự suy giảm xuất khẩu sang các nền kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, những thách thức mới trên lĩnh vực an ninh đối với khu vực này là điều đáng lo ngại, đó là:
những vụ tranh chấp về biển, đảo giữa các nước ở khu vực Đông Bắc Á vẫn tiềm ẩn nguy cơ căng
thẳng trong các mối quan hệ song phương hoặc đa phương về an ninh ở châu
Á - Thái Bình Dương; hay những động thái của Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc luôn đặt quân đội của họ ở
Đông Bắc Á trong tình trạng báo động cao, sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh, điều này đã làm bật lên
những thách thức lớn về an ninh đối với khu vực này

Các nền kinh tế ở châu Á và Thái Bình Dương được dự đoán sẽ tăng trưởng 4,8% trong năm nay và
năm sau, cải thiện so với tốc độ tăng trưởng 4,2% trong năm 2022, theo báo cáo Triển vọng Phát triển
Châu Á (ADO) tháng 4/2023, được Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố ngày hôm nay (4/4).
Nếu không tính Trung Quốc, khu vực châu Á đang phát triển dự kiến sẽ tăng trưởng 4,6% trong năm
nay và 5,1% vào năm 2024.
ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA XÃ HỘI:
– Dân cư xã hội Châu Á có những đặc điểm như sau:
+ Châu Á có số dân đứng đầu thế giới.
+ Mức gia tăng dân số châu Á khá cao, chỉ đứng sau châu Phi và cao hơn so với thế giới.
+ Tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên của châu Á ngang với mức trung bình của thế giới, cao hơn châu Âu và
thấp hơn nhiều so với châu Phi.
+ Dân số tăng nhanh mật độ dân số không đồng đều.
+ Hiện nay nhiều nước châu Á đang thực hiện những biện pháp nhằm hạn chế gia tăng dân số do đó tỷ
lệ gia tăng dân số tự nhiên mới giảm mạnh qua các năm gần đây.
– Châu Á có nền văn hóa đa dạng với sự ra đời của nhiều tôn giáo lớn, hầu hết các tôn giáo lớn trên thế
giới đều bắt nguồn từ châu Á. Cụ thể:
+ Ấn độ giáo: Ra đời ở Ấn Độ vào khoảng 2500 TCN thờ Đấng tối cao Ba La Môn, phân bố chủ yếu ở
Ấn Độ.
+ Phật giáo: Ra đời ở Ấn Độ vào thế kỉ VI TCN, thờ Phật Thích Ca, phân bố chủ yếu ở Đông Á và
Nam Á
+ Ki-tô giáo: Ra đời ở Pa-le-xtin vào đầu công nguyên, thờ chúa Giê Su, chủ yếu ở Philippines.
+ Hồi Giáo: Ra đời ở A-rập-Xê-út vào thế kỷ VII sau công nguyên, thờ Thánh A La phân bố chủ yếu ở
Nam Á, Malaysia, Indonesia
Các tôn giáo đều khuyên răn tín đồ làm việc thiện, tránh điều ác.
- QTRINH VẬN ĐỘNG ĐỊA CHÍNH TRỊ ( HỢP TÁC LIÊN KẾT VỀ CHÍNH TRỊ, AN NINH
QUỐC PHÒNG, KINH TẾ, VĂN HÓA XH VÀ MÔI TRƯỜNG) ( trang 77)

Bước sang thế kỷ XXI, khu vực châu Á - Thái Bình Dương có những thay đổi mang tính
căn bản, đó là:
Thứ nhất, sức mạnh chính trị và tốc độ phát triển kinh tế của khu vực này tăng lên nhanh
chóng so với các khu vực khác trên thế giới. Năm 2018, tỷ lệ thương mại của khu vực
châu Á - Thái Bình Dương chiếm 57,5% thương mại toàn cầu, tăng hơn so với mức trung
bình 56,3% của giai đoạn 2012-2017.
Thứ hai, sự trỗi dậy của Trung Quốc một mặt đem đến cơ hội để kinh tế các nước xung
quanh phát triển, mặt khác lại khiến những quốc gia này không khỏi lo lắng.
Thứ ba, các quốc gia sở hữu hạt nhân ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương không ngừng
tăng lên; sự theo đuổi của các tổ chức phi chính phủ đối với vũ khí hủy diệt hàng loạt và
việc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo của Mỹ ở khu vực này, tất cả đều có
khả năng dẫn đến cuộc chạy đua vũ trang gay gắt ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Thứ tư, cơ chế hợp tác đa phương khu vực không ngừng tăng cũng có khả năng làm xuất
hiện nhất thể hóa khu vực (Châu Anh, 2019).
Quá trình vận động địa chính trị Châu Á từ năm 2010 đến nay đã chứng kiến nhiều sự kiện
và diễn biến quan trọng. Dưới đây là một số điểm nhấn trong giai đoạn này:

1. Sự gia tăng căng thẳng trên Bán đảo Triều Tiên: Từ năm 2010, căng thẳng trên Bán đảo Triều Tiên
đã gia tăng đáng kể. Triều Tiên đã tiến hành nhiều vụ thử hạt nhân và tên lửa đạn đạo, gây ra mối đe
dọa an ninh khu vực. Các cuộc tập trận và các biện pháp trừng phạt kinh tế đã được áp đặt để kiềm chế
hành vi của Triều Tiên.

2. Giao tranh Biển Đông: Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Trung Quốc và các quốc gia
hàng xóm đã trở thành một vấn đề nổi bật trong thập kỷ qua. Trung Quốc tiến hành xây dựng các căn
cứ quân sự và đòi hỏi quyền kiểm soát rộng lớn trên Biển Đông, điều này gây ra căng thẳng và tranh
cãi với các quốc gia như Việt Nam, Philippines, và các quốc gia khác. Các cuộc xung đột và tranh chấp
về tài nguyên, đường hàng hải và quyền chủ quyền vẫn tiếp tục diễn ra.

3. Tăng cường quan hệ Trung - Mỹ và đối tác khu vực: Trong thập kỷ qua, Mỹ đã tăng cường quan hệ
với các quốc gia châu Á trong việc xây dựng mạng lưới đối tác và đảm bảo an ninh khu vực. Chính
sách "Pivot to Asia" của Mỹ đã đưa chú trọng vào châu Á và tăng cường quan hệ với các quốc gia như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và các quốc gia ASEAN. Đồng thời, việc tăng cường quan hệ với các
quốc gia này cũng nhằm kiềm chế sự gia tăng quyền lực của Trung Quốc trong khu vực.

4. Sự bùng nổ kinh tế và sự đổi thay về quyền lực: Châu Á đã trở thành khu vực có tốc độ phát triển
kinh tế nhanh nhất trên thế giới. Trung Quốc, Ấn Độ và các nền kinh tế mới nổi khác đã trở thành
những cường quốc kinh tế và quyền lực trọng yếu trên sân chơi quốc tế. Sự gia tăng quyền lực kinh tế
của Châu Á đã tạo ra sự đổi thay trong quyền lực chính trị và địa chính trị trong khu vực.

5. Hợp tác khu vực và các thỏa thuận thương mại: Các nỗ lực hợp tác khu vực và các thỏa thuận
thương mại đã trở thành một phần quan trọng của địa chính trị châu Á. Các diễn đàn như ASEAN,
ASEAN Plus Three, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ Trans-Pacific (CPTPP) và Hiệp định Đối tác KinhTiếp (RCEP) đã được thành lập hoặc hoàn
thiện trong thập kỷ qua. Những thỏa thuận này nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế, đầu tư và thương mại
giữa các quốc gia trong khu vực.

Quá trình hợp tác liên kết về kinh tế ở Châu Á đã có nhiều năm nổi bật trong quá khứ và đến
nay. Dưới đây là một số năm đáng chú ý:
2. Năm 2010: Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) hoàn thành. Khu vực Thương mại Tự do
ASEAN (AFTA) đã hoàn thành vào ngày 1 tháng 1 năm 2010, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thương
mại và đầu tư trong khu vực. AFTA đã giảm thuế quan và các rào cản thương mại khác giữa các quốc
gia thành viên ASEAN, đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường sự hội nhập kinh tế trong khu
vực.
5. Năm 2020: Khu vực Thương mại Tự do Toàn diện và Tiến bộ của Châu Á (RCEP) được ký kết.
Năm 2020, RCEP được ký kết bởi 15 quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm
ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và New Zealand. RCEP tạo ra một khu vực thương
mại tự do lớn nhất thế giới và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc thương mại và đầu tư trong khu vực.

Trong cơ chế Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)có sự tham
gia của một số nước ASEAN. CPTPP được xây dựng từ Thỏa thuận Đối tác kinh tế chiến lược xuyên
Thái Bình Dương (TPSEPA - 2006). Sau nhiều năm đàm phán,với mục đích hội nhập các nền kinh tế
thuộc khu vực CA- TBD, năm 2010 tại New Zealand, 12 nước tham gia Ký kết Hiệp định đã đổi tên
thành Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Mỹ tham gia TPPtừnăm 2007 với tham vọng
dẫn dắt TPP nhằm đối trọng lại với RCEP. Tuy nhiên,năm 2016,Mỹ tuyên bố rút khỏi TPP làmảnh
hưởng tới tiến trình hội nhập của các quốc gia thành viên. Song, không vì thế mà TPP bị phá sản, 11
nước còn lại vẫn nỗ lực xây dựng TPP và năm 2017, TPP được đổi tên thành Hiệp định đối tác toàn
diện và tiến bộ xuyên TBD (CPTPP).
Hiện nay, CPTPP bao gồm 11 quốc gia thành viên đang hướng tới xây dựng thỏa thuận thương mại tự
do chất lượng cao, cắt giảm thuế quan, tiến tới mức thuế quan chung, thiết lập khuôn khổ chung về sở
hữu trí tuệ, áp dụng tiêu chuẩn chung về môi trường đầu tư và nguồn nhân lực, xây dựng cơ chế giải
quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và quốc gia thành viên. Mức độ thể chế hóa hợp tác của CPTPP rất
cao, tính ràng buộc của nó có thể thúc đẩy CPTPP phát triển nhanh chóng; mức độ tự do hóa thương
mại và đầu tư mà CPTPP thực hiện cũng cao hơn hẳn so với khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do mà
Đông Á hiện có. Hiện nay, có 4 nướcASEAN tham giaCPTPP, Thái Lan và Philippines đang xem xét
việc gia nhập CPTPP.

Quá trình hợp tác liên kết về văn hóa xã hội và môi trường ở Châu Á đã có nhiều năm nổi bật
trong quá khứ và đến nay. Dưới đây là một số năm đáng chú ý:

4. Năm 2015: Hiệp định Paris về Biến đổi khí hậu. Năm 2015, Hiệp định Paris về Biến đổi khí hậu đã
được ký kết trong khuôn khổ của Ủy ban Biến đổi khí hậu Liên Hợp Quốc (UNFCCC). Các quốc gia
Châu Á đã tham gia và cam kết thực hiện các biện pháp để giảm khí thải và thích ứng với biến đổi khí
hậu. Hiệp định này đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc hợp tác quốc tế trong việc giảm khí thải và bảo vệ
môi trường.

5. Năm 2021: Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN (WEF ASEAN). Diễn đàn Kinh tế Thế giới về
ASEAN (WEF ASEAN) được tổ chức hàng năm và tạo cơ hội cho các nhà lãnh đạo kinh tế và chính trị
trong khu vực Châu Á gặp gỡ, thảo luận và hợp tác trong các vấn đề văn hóa xã hội và môi trường.
Diễn đàn này đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác và trao đổi kinh nghiệm giữa các
quốc gia Châu Á.

Sự vận động của cấu trúc an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay

Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực năng động có tầm quan trọng rất lớn đối với an ninh toàn cầu
hiện nay. Sự chuyển hướng chính sách của các nước về khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong thời
gian gần đây đã và đang định hình cấu trúc an ninh khu vực với sự chi phối dẫn dắt các cơ chế hợp tác,
liên kết của Mỹ, Trung Quốc và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Đối với Mỹ: Là siêu cường trên thế giới, việc Mỹ triển khai chiến lược đối ngoại có tác động và gây
ảnh hưởng lớn đến môi trường an ninh quốc tế, nhất là những khu vực trọng yếu trên thế giới như khu
vực châu Á - Thái Bình Dương.

Thứ nhất, Mỹ tăng cường phối hợp với các đồng minh chủ chốt. Để thực hiện mục tiêu này, Mỹ chú
trọng củng cố, mở rộng phạm vi hoạt động với các đồng minh như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôxtrâylia,
Thái Lan, Philíppin trên cơ sở duy trì sự chia sẻ về những giá trị cốt lõi. Với Nhật Bản, Liên minh Mỹ -
Nhật Bản được coi là hòn đá tảng trong chính sách của Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương. Mỹ tiếp tục
nâng cấp, mở rộng phạm vi, tăng cường chiều sâu trong hợp tác an ninh, quốc phòng với mục đích chủ
yếu xuất phát từ yêu cầu đối phó với mối đe dọa từ Trung Quốc. Từ năm 2013 đến năm 2018, Nhật
Bản mua vũ khí của Mỹ trị giá 16 tỷ USD, trong đó có nhiều vũ khí hiện đại như máy bay tiêm kích
tàng hình F-35, máy bay tiếp nhiên liệu KC-46, trực thăng MV-22(1). Mỹ ủng hộ Nhật Bản trở thành
quốc gia có khả năng quân sự toàn diện và chủ động hơn, mở đường cho Nhật Bản sửa đổi Hiến pháp
năm 1946 theo hướng Lực lượng phòng vệ Nhật Bản được tiến hành các hoạt động quân sự bên ngoài
lãnh thổ nhằm mục tiêu tự vệ.
Thứ hai, Mỹ thúc đẩy quan hệ với các đối tác mới - Ấn Độ và ASEAN. Với Ấn Độ, trong nhiệm
kỳ của Tổng thống Donand Trump đã khẳng định Ấn Độ là đồng minh tự nhiên của Mỹ. Đến nhiệm kỳ
của Tổng thống Joe Biden, nước Mỹ tiếp tục đề cao vai trò của Ấn Độ khi xác định quốc gia này có
tầm quan trọng ảnh hưởng không nhỏ trong việc triển khai chính sách đối ngoại khu vực và trên thế
giới. Ấn Độ được xếp vào nhóm đối tác hàng đầu cần làm sâu sắc quan hệ(3). Như vậy, Ấn Độ được
Mỹ kỳ vọng là điểm tựa ở Nam Á trong việc hỗ trợ triển khai các chiến lược lớn, đồng thời giúp Mỹ
ứng phó với sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc.

Thứ ba, Mỹ tăng cường mở rộng hợp tác chiến lược đa phương. Hợp tác chiến lược đa phương
được Mỹ xác định là trọng tâm cơ bản, lâu dài để tạo sức mạnh ngăn chặn Trung Quốc, điển hình là
các liên minh song phương Mỹ - Đài Loan; Liên minh tam giác Mỹ - Nhật Bản - Ấn Độ; Liên minh
Mỹ - Nhật Bản - Hàn Quốc; Tứ giác Kim cương Mỹ - Nhật Bản - Ấn Độ - Ôxtrâylia. Ngoài ra, Mỹ
còn tiến hành thúc đẩy hợp tác an ninh trong các diễn đàn, cơ chế khác như: Diễn đàn Hợp tác kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương, Diễn đàn Hợp tác Á - Âu, Hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông...

Cơ chế hợp tác đa phương khu vực sẽ phát huy trên mô hình Trục và Nan hoa truyền thống, nhưng
hiện nay đang xuất hiện trục mới, trục Mỹ - Nhật Bản - Ấn Độ tại Đông Nam Á lục địa và trục Mỹ -
Nhật Bản - Ôxtrâylia tại Đông Nam Á hải đảo. Điều quan trọng là trong cả hai trục mới này đối tác
không thể thiếu được đó chính là các nước ASEAN thuộc cả hai nhóm AS-5 và AM-5.

Thứ tư, Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự và các cuộc tập trận tại khu vực. Đáng chú ý là các
cuộc tập trận Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) đã hội tụ được nhiều quốc gia châu Á - Thái Bình
Dương và Ấn Độ Dương tham gia diễn tập. Năm 2022, cuộc tập trận quy tụ được 26 quốc gia tham gia
- được coi là cuộc tập trận hải quân đa quốc gia quy mô lớn nhất thế giới do Hải quân Mỹ dẫn đầu(6).

Đồng thời, Mỹ cùng Nhật Bản hợp tác với Ấn Độ tổ chức cuộc tập trận thường niên Malabar lớn nhất
Ấn Độ Dương. Mỹ và Hàn Quốc có hai cuộc tập trận đáng chú ý là “Đại bàng non” và “Giải pháp then
chốt” với sự tham gia của nhiều loại vũ khí chiến lược hiện đại.

Với Ôxtrâylia, Sách trắng Quốc phòng của Ôxtrâylia năm 2016 nêu rõ: Mở rộng và làm sâu sắc
quan hệ đồng minh với việc ủng hộ vai trò then chốt của Mỹ trong bảo đảm an ninh khu vực. Theo
thống kê, khoảng 60% vũ khí được mua giữa Mỹ và Ôxtrâylia theo Hiệp định về hợp tác trong mua
bán vũ khí giữa Mỹ và Ôxtrâylia, cho phép đạt tỷ lệ tương thích cao trong các trang thiết bị của quân
đội Mỹ(2). Tiếp theo là Thỏa thuận quốc phòng ba bên giữa Mỹ, Ôxtrâylia, Vương quốc Anh
(AUKUS) được ký ngày 15-9-2021, hướng đến mục tiêu bảo đảm hòa bình và ổn định ở Ấn Độ Dương
- Thái Bình Dương.
Đối với Trung Quốc: Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, thế giới đã chứng kiến những thay đổi rõ rệt và
sự ảnh hưởng, chi phối mạnh mẽ của Trung Quốc trên trường quốc tế, đặc biệt tại khu vực châu Á -
Thái Bình Dương.

Thứ nhất, Trung Quốc thúc đẩy xây dựng tập hợp lực lượng “Đàn sếu bay”. “Đàn sếu bay” với nền
tảng cấu trúc thiết lập chủ yếu dựa trên sức mạnh ảnh hưởng về kinh tế của Trung Quốc với mục tiêu
kiểm soát được các nền kinh tế, trước hết là châu Á - Thái Bình Dương. Đặc điểm chung của các nước
trong “Đàn sếu bay” là những nước nhỏ, kinh tế yếu kém, phụ thuộc vào sự hợp tác của Trung Quốc để
phát triển. Trong số này, Trung Quốc đặc biệt chú ý đến các nước ở Đông Nam Á. Từ hợp tác kinh tế,
Trung Quốc sẽ thiết lập tập hợp lực lượng chính trị, an ninh với mục tiêu kiểm soát toàn diện, lâu dài
tại tiểu khu vực này.

Thứ hai, Trung Quốc tăng cường thiết lập, dẫn dắt và phát huy các tổ chức hợp tác an ninh. Các tổ
chức hợp tác an ninh như: Tổ chức Hợp tác Thượng Hải thành lập năm 2001 (SCO); Diễn đàn Hương
Sơn thành lập năm 2006. Các cơ chế này là khuôn khổ hợp tác an ninh, quân sự lớn do Trung Quốc
chủ trì, thu hút nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực tham gia làm đối trọng với diễn đàn Đối thoại
Shangri - La hằng năm tại Xinhgapo. Hội nghị phối hợp hành động và biện pháp xây dựng lòng tin ở
châu Á ra đời năm 2014 (CICA) đã trở thành diễn đàn quan trọng trong chiến lược của Trung Quốc.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ tư của CICA (tháng 5-2014 tại Thượng Hải), Chủ tịch Trung Quốc
Tập Cận Bình đã đưa ra sáng kiến “An ninh châu Á mới” với quan điểm “An ninh châu Á do người
châu Á giải quyết”. Qua đó, thể hiện quan điểm sẽ loại bỏ sự can thiệp từ bên ngoài vào các vấn đề an
ninh khu vực, mà cụ thể là của Mỹ. Trong số các cơ chế này, Trung Quốc đặc biệt chú ý đến phát huy
vai trò của tổ chức SCO, coi đây là cơ chế nòng cốt và chủ chốt để xây dựng cấu trúc an ninh tương lai
tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Mục tiêu lâu dài của Trung Quốc trong các cơ chế hợp tác, liên
kết là xây dựng các liên minh, tập hợp lực lượng, tạo sức mạnh tập thể ngăn chặn các thế lực như
khủng bố, tôn giáo cực đoan, bảo đảm môi trường hòa bình, an ninh ổn định tại khu vực. Từ đó, tranh
thủ những tổ chức không có Mỹ tham gia để Trung Quốc có cơ hội phát huy vai trò, ảnh hưởng và lập
trường của mình trong các vấn đề quốc tế, khu vực.

Thứ ba, Trung Quốc triển khai các dự án lớn nhằm kiểm soát Đông Nam Á: Bên cạnh việc thiết lập
tập hợp Đàn sếu bay và các tổ chức hợp tác an ninh, Trung Quốc chú trọng triển khai các dự án lớn
nhằm kiểm soát Đông Nam Á. Điển hình là: Hợp tác Mê Kông - Lan Thương được hình thành vào năm
2015 (MLC). Các lĩnh vực hợp tác của MLC bao gồm chính trị, an ninh, kinh tế, giao lưu văn hóa, giao
lưu nhân dân giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á lục địa. Với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển
kinh tế, xã hội tiểu vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước trong khu vực, MLC được xác
định là một trong những cơ chế mà Trung Quốc ưu tiên thúc đẩy để trở thành biểu tượng cho Cộng
đồng châu Á. Tiếp theo là Cơ chế Hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng được Trung Quốc đề xuất vào năm
2006 với mục tiêu thúc đẩy hợp tác giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Cơ chế hợp tác ven Biển
Đông được Trung Quốc đề xuất thiết lập nhằm tăng cường lòng tin, củng cố hợp tác và thúc đẩy lợi ích
chung tại khu vực.

Cấu trúc an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay đang được định hình dưới sự tác động,
chi phối của Mỹ, Trung Quốc và ASEAN. Các hệ thống khuôn khổ, cơ chế, thể chế, diễn đàn góp phần
duy trì sự ổn định, phát triển trong khu vực, tạo ra các xu hướng ảnh hưởng đến chính sách và hành vi
đối ngoại của mỗi quốc gia, buộc các quốc gia phải nghiên cứu, nắm bắt được các tác động và chủ
động đưa ra các giải pháp tham gia phù hợp với cấu trúc an ninh khu vực.

b. Tài nguyên ĐCT khu vực Châu Phi ( 198)


1.1.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên

Diện tích 30.4 triệu km2 , chiếm 20.4% tổng diện tích trái đất xếp hàng châu lục lớn thứ ba trên thế
giới.

+Khí hậu: chủ yếu là xích đạo, nhiệt đới và lục địa khắc nghiệt, biển không thâm nhập sâu vào lục địa.
Từ vùng chí tuyến, khí hậu ôn hòa, thuận lợi cho phát triển các cây nông sản.

+Địa hình: núi, cao nguyên, hoang mạc, bán hoang mạc chiếm phần lớn diện tích châu Phi.

Châu Phi có nhiều sông lớn, tiêu biểu là sông Nile, với hai nhánh chính là sông Nile trắng bắt nguồn từ
hồ Victoria ở Đông Phi và sông Nile xanh bắt nguồn từ hồ Tanta trên cao nguyên Abisini ở Đông Bắc
Phi. Bên cạnh đó là các con sông lớn như Congo, Nigger, Zambezi. Ngoài sông châu Phi còn có các hồ
lớn như Victoria, Kicu, Tchad….

=> Mang lại cho châu Phi giá trị về nông nghiệp , thủy điện và phát triển du lịch.

+Tài nguyên: đa dạng từ các tài nguyên như kim cương vàng, khí đốt tự nhiên cho đến các loại khoáng
chất như phốt pho. Ở châu Phi tập trung khoảng 17 – 50 khoáng sản chủ yếu của thế giới, chiếm đến
90% trữ lượng kim cương, 87% Coban, 67% vàng, 74% crôm, 37% uranium, 47.3% đồng, 34.4% sắt
của thế giới. Trữ lượng dầu mỏ, khí đốt dự tính chiếm khoảng 9-12%, tiềm năng thủy điện chiếm tới
35.7% trữ lượng thế giới.

Tài nguyên rừng của châu Phi rất đa dạng về sinh học với nhiều loài như voi, sư tử, ngựa vằn, tê giác,
… Tuy nhiên do yếu tố tự nhiên và khai thác bừa bãi hiện nay châu Phi chỉ còn chiếm khoảng 15%
diện tích đất tự nhiên của châu lục.

Châu lục này còn sở hữu lượng lớn nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng của thế giới.

Về khoáng sản, châu Phi chiếm hơn 30% trữ lượng thế giới, trong đó có những khoáng sản quan trọng
đối với phát triển công nghiệp và công nghệ cao.

Về tài nguyên năng lượng, lục địa này giàu cả năng lượng không tái tạo như dầu mỏ, khí đốt, than và
năng lượng tái tạo như sinh khối, năng lượng mặt trời, gió.

Châu Phi có nhiều tiềm năng về phát triển năng lượng tái tạo, tài nguyên, khoáng sản, đất đai, nguồn
lao động,... Các loại khoáng sản có trữ lượng lớn là vàng, kim cương, uran, đồng, photpho, dầu mỏ.
Vàng tập trung nhiều nhất ở Cộng hòa Nam Phi, Namibia, Zimbabwe, Gana, Tandania, Kenia. Kim
cương ở Nam Phi, Namibia, Angola và Daia. Vùng Trung Phi có nhiều mỏ đa kim, trong đó có đồng,
thiếc, kẽm, coban, uran và vonfram. Vùng núi Atlat ở Bắc Phi có các mỏ đa kim, coban, molypden, chì
và kẽm. Dầu mỏ tập trung nhiều ở các nước Bắc Phi (Algieria, Libya, Ai Cập), ngoài ra còn có ở
Nigieria, Congo, Angola, Mozambique, Tandania. Than đá tập trung ở Nam Phi, Daia,
Madagaxca. Khu vực Nam Sahara có tiềm năng lớn cho phát triển năng lượng tái tạo, nhất là năng
lượng mặt trời.
Diện tích đất chưa sử dụng ở châu Philớn nhất thế giới. Theo số liệu của Tổ chức Nông Lương Liên
Hợp quốc(FAO), diện tích đất trồng của châu lục này là khoảng 1 tỷ ha, trong khi diện tích đất nông
nghiệp hiện nay được sử dụng mới chỉ là 210 triệu ha; có khoảng 600 triệu ha đất có thể canh tác đang
bị bỏ hoang, chiếm khoảng 60% diện tích canh tác của toàn thế giới. Đất châu Phi thích hợp cho sản
xuất cacao, cafe, cọ dầu và cây lương thực (lúa mỳ, ngô...).
Khu vực Châu Phi cũng có nhiều tài nguyên địa chính trị quan trọng. Dưới đây là một số tài nguyên
chính trong khu vực này:
1. Dầu và khí đốt: Châu Phi là một trong những khu vực có nguồn cung cấp dầu và khí đốt đáng kể
trên thế giới. Các quốc gia như Nigeria, Angola, Algeria và Libya có nguồn tài nguyên dầu mỏ phong
phú. Sự chiếm lĩnh và khai thác tài nguyên này đã tạo ra sự cạnh tranh, xung đột và ảnh hưởng đến
chính sách ngoại giao và kinh tế của các quốc gia trong khu vực.

2. Khoáng sản: Châu Phi cũng có các tài nguyên khoáng sản quan trọng như quặng sắt, kim loại quý,
than, uranium và bauxite. Các quốc gia như Nam Phi, Zambia, Ghana và Zimbabwe có nền công
nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản phát triển. Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên này thường
gặp phải các vấn đề về quản lý tài nguyên, tranh chấp về quyền lợi và phân chia lợi ích, và có thể tạo ra
xung đột và ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao trong khu vực.

3. Nước: Châu Phi đối mặt với nhiều thách thức về tài nguyên nước. Các vấn đề như sự khan hiếm
nước, xung đột về sử dụng tài nguyên nước và quyền lợi sông chung đang tạo ra căng thẳng và xung
đột trong khu vực. Các sông như sông Nile, sông Congo và sông Niger là những nguồn tài nguyên
nước quan trọng và sự cạnh tranh xung quanh chúng có thể ảnh hưởng đến quan hệ giữa các quốc gia
Châu Phi.

4. Thủy sản: Với bờ biển dài và các vùng biển giàu tài nguyên, Châu Phi có tiềm năng phát triển ngành
công nghiệp thủy sản. Các quốc gia ven biển như Maroc, Namibia, Senegal và Ghana đã tận dụng các
tài nguyên này để tạo ra nguồn thu nhập và thực phẩm. Tuy nhiên, sự cạnh tranh và tranh chấp về
quyền lợi và địa giới hạn có thể gây ra căng thẳng và ảnh hưởng đến quan hệ quốc gia trong khu vực.

5. Kinh tế và thương mại: Châu Phi có tiềm năng phát triển kinh tế và thương mại đáng kể, với nhiều
quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng nhanh và tiềm năng thị trường lớn. Tài nguyên con người, như lao
động trẻ và nguồn nhân lực đa dạng, cũng tạo ra cơ hội và thách thức trong việc thúc đẩy phát triển
kinh tế và thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế.

Những tài nguyên địa chính trị này đã và đang tạo ra sự cạnh tranh, xung đột và hợp tác giữa các quốc
gia Châu Phi. Các quốc gia trong khương phải đối mặt với việc quản lý tài nguyên này một cách bền
vững, thúc đẩy sự công bằng và phân chia lợi ích, đồng thời duy trì quan hệ hòa bình và ổn định trong
khu vực.

7. Phân tích và nhận xét đặc điểm ĐCT khu vực


Đông Nam Á từ 2000 đến nay ( trang 106)
- ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC CỦA KV

Vị thế chiến lược của Đông Nam Á tại khu vực: - Khu vực Đông Nam Á nằm ở phía Đông Nam của
châu Á. Gồm 11 quốc gia là: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma, Philippin, Indonexia,
Brunay, Xingapo, Malayxia và Timo Lexte. Đây là nơi tiếp giáp giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương, có vị trí cầu nối giữa lục địa Á – Âu với lục địa Ô-xtrây-li-a. Vị trí địa lý này giúp khu vực tiếp
giáp với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Giáp với biển và có biển, để thực hiện phát triển
và khai thác các tiềm năng từ biển. Lào là quốc gia duy nhất thuộc Đông nam á không giáp biển.

- Khu vực Đông Nam Á nằm ở phía Đông Nam lục địa châu Á, gồm 11 quốc gia là: Việt Nam,
Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma, Philíppin, Inđônêxia, Brunây, Xingapo, Malaixia và Timo
Lexte. Với diện tích hơn 4,7 triệu km, phía Đông giáp Thái Bình Dương, phía Đông Nam giáp
châu Đại Dương, tất cả các quốc gia Đông Nam Á đều giáp biển (trừ Lào), phần lớn đều là các
quốc gia hải đảo, bán đảo. Quốc gia lớn nhất là Inđônêxia với 17.508 hòn đảo lớn nhỏ, diện tích
là 1.904.569km2 và quốc gia nhỏ nhất là Xingapo với diện tích 697km2.

Đông Nam Á là địa bàn tranh chấp chiến lược hàng đầu của các nước lớn
+ Là giao điểm của hai trong số những tuyến đường hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới kết nối lục
địa châu Á với châu Đại Dương theo hướng Bắc - Nam và Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương theo
hướng Đông - Tây, Đông Nam Á được xem là cửa ngõ để các cường quốc châu Á vươn mình ra thế
giới. Đối với các cường quốc bên ngoài, Đông Nam Á là vùng đệm quan trọng để thiết lập ảnh hưởng
và triển khai các chiến lược lớn tại khu vực. Dưới góc độ kinh tế, đây là một thị trường tiềm năng với
tốc độ phát triển nhanh, ổn định; tài nguyên thiên nhiên phong phú; dân số đông và trẻ.
+ Vì vậy, tiểu khu vực này luôn là địa bàn tranh chấp của các nước lớn qua nhiều thời kỳ, giai đoạn
lịch sử. Trước, trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các đế quốc thực dân phương Tây như Anh,
Pháp, Mỹ, Hà Lan đã xâm lược và chia quyền cai trị hầu hết các quốc gia Đông Nam Á (trừ Thái Lan).
Chuyển sang giai đoạn Chiến tranh lạnh, tiểu khu vực này trở thành mục tiêu tranh giành ảnh hưởng tại
châu Á giữa phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa do Mỹ và Liên Xô đứng đầu.
+ Các nước Đông Nam Á phải thường xuyên đối mặt với sự áp đặt, lôi kéo của nước lớn. Giai
đoạn hậu Chiến tranh lạnh, không còn Liên Xô, Mỹ cũng giảm mức độ can dự tại Đông Nam Á, rút
khỏi hai căn cứ quân sự Subic và Clark tại Philíppin, Trung Quốc với lợi thế “sân nhà”, áp đặt mạnh
mẽ chiến lược tại khu vực trong khoảng trống Mỹ để lại, trực tiếp nhất là tại Tiểu vùng sông Mekong1
và Biển Đông, từ đó tăng cường, mở rộng ảnh hưởng của mình lên toàn khu vực.
Với xu hướng quyền lực chuyển dịch từ Tây sang Đông, Đông Nam Á tiếp tục là tâm điểm thu hút sự
quan tâm của nhiều cường quốc trên thế giới; trở thành nơi giao thoa xung đột, cạnh tranh chiến lược
của các nước lớn tại khu vực, trong đó đáng chú ý nhất là cạnh tranh Mỹ - Trung. Trung Quốc xem
Đông Nam Á là điểm khởi đầu để triển khai “Sáng kiến Vành đai và Con đường” (BRI) trong khi
“Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” (IPS) của Mỹ lại lấy Đông Nam Á làm tâm điểm kết
nối hai đại dương.
+ Cả hai chiến lược đều mang tầm vóc toàn cầu và hiệu quả triển khai của chúng sẽ là yếu tố quyết
định triển vọng vị thế, sức mạnh của hai quốc gia này trong trật tự thế giới và khu vực. Với vị thế là
giao điểm của hai đại chiến lược, Đông Nam Á có ý nghĩa quyết định sự thành bại của từng chiến lược,
vì thế trở thành địa bàn tranh chấp, lôi kéo quyết liệt của các bên.

- Tài nguyên thiên nhiên ở khu vực Đông Nam Á khá phong phú do nằm ở nơi giao cắt hai vành đai
sinh khoáng lớn là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương với các loại khoáng sản, kim loại đen màu đen
quý hiếm như than đá, đồng, chì, kẽm, quặng sắt, dầu mỏ, khí đốt, bô xít. Tài nguyên sinh vật ở ĐNÁ
rất đa dạng như hồ tiêu, sa nhân, hồi, quế, trầm hương, đàn hương. Bên cạnh đó, rừng là một trong
những nguồn tài nguyên giàu có của ĐNÁ với nhiều loại gỗ quý, tạo thuận lợi phát triển ngành công
nghiệp chế biến hàng xuất khẩu

- Tài nguyên thiên nhiên ở khu vực Đông Nam Á khá phong phú do nằm ở nơi giao cắt hai vành
đai sinh khoáng lớn là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, với các loại khoáng sản, kim loại
đen, màu quý hiếm như than đá, đồng, chì, kẽm, quặng sắt, dầu mỏ, khí đốt, bôxít, đất hiếm,
song chủ yếu trữ lượng ở mức vừa và nhỏ. Tài nguyên sinh vật ở Đông Nam Á rất đa dạng, là
quê hương của nhiều loại cây gia vị, hương liệu đặc trưng như hồ tiêu, sa nhân, hồi, quế, trầm
hương, đàn hương... Bên cạnh đó, rừng là một trong những nguồn tài nguyên giàu có của Đông
Nam Á với nhiều loại gỗ quý, tạo thuận lợi cho phát triển ngành công nghiệp chế biến hàng xuất
khẩu.
- Trong lịch sử, ASEAN là nơi cung cấp nguyên liệu quan trọng của thế giới, chiếm tới 90% tổng
sản lượng cao su, dừa, đay, gai và chiếm vị trí quan trọng về các mặt hàng nông sản nhiệt đới
khác như chè, cà phê, bông, hương liệu,...
- Đông Nam Á có khí hậu nhiệt đới gió mùa và khí hậu xích đạo, tạo ra những địa bàn sinh tụ
nhỏ, phong phú, kết hợp rừng - suối, đồi - ruộng, là không gian lý tưởng cho sự sống của con
người, đồng thời là môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp. Đa số
các nước Đông Nam Á có hệ thống sông ngòi dày đặc, nhưng chủ yếu là sông ngắn, nhỏ, lớn
nhất là sông Mê Kông chảy qua các nước Thái Lan, Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma
- Mưa nhiệt đới trên địa bàn tự nhiên của khu vực tạo ra những vùng nhỏ, xen kẽ giữa rừng nhiệt
đới, đồi núi, bờ biển, và đồng bằng, tạo nên những cảnh quan đa dạng. Thực tế đó khiến cho
Đông Nam Á thiếu những không gian rộng cho sự phát triển kinh tế - xã hội trên quy mô lớn,
thiếu những điều kiện tự nhiên cho sự phát triển những kĩ thuật tinh tế, phức tạp.
- ĐNA có trữ lượng dầu mỏ lớn, tập trung nhiều ở vùng biển Đông. Những năm đầu thế kỷ XXI,
khu vực này trở nên quan trọng đặc biệt hơn bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc, là cửa biển để
Trung Quốc “vươn mình” phát triển và đặc biệt khi nguồn cung dầu mỏ trở nên khó khăn,
Trung Quốc không thể bỏ qua khu vực chiến lược quan trọng này. ĐNÁ là khu vực chiến lược
có quan hệ về lợi ích với tất cả các cường quốc trên thế giới, đồng thời là khu vực có kết cấu địa
– chính trị khá lỏng lẻo, do đó trở thành địa bàn tranh giành ảnh hưởng của nhiều nước lớn hiện
nay

- Nằm trên con đường giao thông hàng hải rất quan trọng, cầu nối giữa Ấn Độ Dương với Thái Bình
Dương qua Thái Bình Dương sang châu Mỹ, qua Ấn Độ Dương sang châu Phi, xuống phía Nam là
châu Đại Dương, phía trên là châu Âu. Đây là con đường nối liền các châu lục với vị trí chiến lược
quân sự quan trọng có thể khống chế con đường quân sự trên biển ở châu Á và cả thế giới, lại nằm giữa
“ngã ba đường” trong trục đường biển nhộn nhịp nhất thế giới, nằm giữa các cường quốc, trung tâm
thương mại lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Ooxxtraylia tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác
phát triển kinh tế khu vực, nên trong nhiều thập kỷ, ĐNÁ trở thành đối tượng tranh giành, chiếm đóng
của nhiều cường quốc lớn trên thế giới

- Các nước Đông Nam Á phải thường xuyên đối mặt với sự áp đặt, lôi kéo của nước lớn. Giai đoạn hậu
Chiến tranh lạnh, không còn Liên Xô, Mỹ cũng giảm mức độ can dự tại Đông Nam Á, rút khỏi hai căn
cứ quân sự Subic và Clark tại Philíppin, Trung Quốc với lợi thế “sân nhà”, áp đặt mạnh mẽ chiến lược
tại khu vực trong khoảng trống Mỹ để lại, trực tiếp nhất là tại Tiểu vùng sông Mekong1 và Biển Đông,
từ đó tăng cường, mở rộng ảnh hưởng của mình lên toàn khu vực.
Với xu hướng quyền lực chuyển dịch từ Tây sang Đông, Đông Nam Á tiếp tục là tâm điểm thu hút sự
quan tâm của nhiều cường quốc trên thế giới; trở thành nơi giao thoa xung đột, cạnh tranh chiến lược
của các nước lớn tại khu vực, trong đó đáng chú ý nhất là cạnh tranh Mỹ - Trung. Trung Quốc xem
Đông Nam Á là điểm khởi đầu để triển khai “Sáng kiến Vành đai và Con đường” (BRI) trong khi
“Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” (IPS) của Mỹ lại lấy Đông Nam Á làm tâm điểm kết
nối hai đại dương.

- ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ CHÍNH TRỊ KINH TẾ VĂN HÓA XH

Đặc điểm kinh tế

HSBC dự báo 6 nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á - Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines,
Singapore và Việt Nam - sẽ tăng trưởng 4,2% trong năm nay và 4,8% trong năm tới. Tốc độ này sẽ
vượt xa mức tăng trưởng 1,1% dự kiến ở các nước phát triển vào năm 2022 hoặc ước tính 0,7% trong
năm tới.
Đông Nam Á đã đi một chặng đường dài với tư cách là trung tâm sản xuất. Khu vực này hiện chiếm
8% xuất khẩu toàn cầu và kể từ năm 2020, đã vượt qua Liên minh châu Âu để trở thành đối tác thương
mại lớn nhất của Trung Quốc. Khu vực này đang được hưởng lợi từ việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng
toàn cầu khi giao thoa của hai trong số các hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới, Hiệp định Đối
tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP). RCEP nói riêng, với việc cắt giảm thuế quan và quy tắc xuất xứ thân thiện với doanh
nghiệp, đang làm tăng sức hấp dẫn của Đông Nam Á như một cơ sở sản xuất, một thực tế mà nhiều
công ty đang nhận ra tiềm năng cơ hội lớn.

Đông Nam Á là một khu vực có nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng và có tiềm năng
lớn. Dưới đây là một số đặc điểm chính về kinh tế Đông Nam Á hiện nay:
1. Tăng trưởng kinh tế: Đông Nam Á là một trong những khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh nhất trên thế giới. Các quốc gia như Việt Nam, Indonesia, Philippines và Thái Lan đã đạt được
mức tăng trưởng ổn định và bền vững trong những năm gần đây. Đặc biệt, Việt Nam và Indonesia
được xem là những điểm sáng trong khu vực này với tốc độ tăng trưởng ấn tượng.
2. Đầu tư nước ngoài: Đông Nam Á đang thu hút một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là
từ các nước công nghiệp phát triển như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Các quốc gia trong khu
vực đã tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư, bằng cách cải thiện hạ tầng, mở cửa thị
trường và đưa ra các chính sách khuyến khích đầu tư.
3. Thương mại và xuất khẩu: Đông Nam Á là một trung tâm thương mại quan trọng, với mạng lưới
liên kết chặt chẽ trong khu vực và với thế giới bên ngoài. Các quốc gia trong khu vực chủ yếu xuất
khẩu hàng hóa như điện tử, dệt may, hàng tiêu dùng và nông sản. Việt Nam và Thái Lan là hai quốc gia
có xuất khẩu nông sản và thực phẩm lớn nhất trong khu vực.
4. Cải cách cơ cấu kinh tế: Nhiều quốc gia Đông Nam Á đã tiến hành cải cách cơ cấu kinh tế để
tăng cường năng suất và độ cạnh tranh. Các ngành công nghiệp chế biến, điện tử và dịch vụ tài chính
đang được phát triển mạnh. Ngoài ra, các quốc gia trong khu vực cũng đang chuyển dịch từ sản xuất
dựa trên lao động sang sản xuất công nghệ cao và gia tăng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển.
5. Các hiệp định thương mại: Đông Nam Á đã ký kết một số hiệp định thương mại quan trọng như
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Đối tác Kinh
tế Toàn diện khu vực (RCEP). Những hiệp định này nhằm thúc đẩy thương mại tự do và tăng cường sự
hợp tác kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực.
6. Thách thức: Mặc dù có tiềm năng phát triển, Đông Nam Á vẫn đối mặt với một số thách thức.
Một số vấn đề bao gồm ô nhiễm môi trường, chênh lệch phát triển giữa các quốc gia, bất ổn chính
trị và vấn đề liên quan đến lao động, như nghèo đói và việcthực hiện quyền lao động.
Kinh tế các nước Đông Nam Á có tốc độ tăng trưởng nhanh, chỉ sau khu vực Đông Bắc Á, là đối
tác quan trọng của các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, EU, Nga, Nhật Bản,... Đa số các nước Đông
Nam Á thực hiện chính sách đối ngoại mở cửa, thu hút đầu tư; Song sự phát triển kinh tế giữa các quốc
gia Đông Nam Á không đồng Á đều, mặc dù đây được coi là một trong những khu vực phát triển năng
động của nền kinh tế thế giới. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong nhiều năm, vị trí của
Đông Nam Á trong thương mại quốc tế dần được nâng cao, hòa nhập hệ thống kinh tế thế giới với tốc
độ ổn định, hứa hẹn nhiều triển vọng.
Sự mở rộng của nền kinh tế số ở Đông Nam Á sẽ tác động trực tiếp đến đầu tư, đổi mới sáng tạo,
tính bao trùm và tăng trưởng năng suất theo công nghệ số trong khoảng 30% đến 40% nền kinh tế tổng
thể của khu vực. Việc áp dụng kỹ thuật số đã bùng nổ mạnh mẽ kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng
phát. Trong số 460 triệu người dùng Internet của khu vực, khoảng 100 triệu người đã truy cập trực
tuyến trong ba năm qua, cung cấp “năng lượng” cho các dịch vụ như thương mại điện tử - thành phần
lớn nhất của nền kinh tế số - giao đồ ăn, nhạc trực tuyến, video, trò chơi và gần đây là du lịch.
Một vấn đề lớn nữa là nhiều chính phủ Đông Nam Á (Singapore vẫn là ngoại lệ nổi bật) đã coi nhẹ
giáo dục là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và người dân của họ có trình độ kỹ năng thấp hơn
nhiều so với người dân ở Trung và Đông Âu. Cơ sở hạ tầng là một lĩnh vực khác trong đó Việt Nam,
Indonesia và Philippines thiếu các tiêu chuẩn vốn phổ biến ở nhiều nền kinh tế mới nổi khác.
Một số quốc gia Đông Nam Á có thể bị các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư từ Liên minh
châu Âu (EU) phạt vì các chính sách khí hậu thụt lùi của họ. Ví dụ, Malaysia tiếp tục phụ thuộc nhiều
vào dầu mỏ, khí đốt và xuất khẩu dầu cọ trong khi Indonesia vẫn phụ thuộc vào than đá cho 60% nhu
cầu năng lượng trong nước. Trên khắp khu vực, tiến độ phát triển năng lượng tái tạo và phi carbon các
lĩnh vực quan trọng như nông nghiệp, khai mỏ, vận tải, xi măng và thép vẫn còn yếu, mức độ phá rừng
và ô nhiễm không khí vẫn cao. Đông Nam Á cũng là một trong những khu vực dễ bị tổn thương nhất
trước những tác động của biến đổi khí hậu, trong đó có mực nước biển dâng – đặc biệt là ở các vùng
ven biển nơi phần lớn dân số sinh sống. Tuy nhiên, các biện pháp thích ứng với tình trạng biến đổi khí
hậu của các nước trong khu vực vẫn chưa thỏa đáng.

*Đặc điểm lịch sử


- Đông Nam À nằm trên con đường giao thương nổi các châu lục, nối liền hai nền văn minh Ấn Độ và
Trung Hoa. Do vậy, lịch sử phát triển của khu vực phức tạp, gắn liền với sự thịnh vượng, suy vong, mở
rộng hay thu hẹp của các nền văn minh bên ngoài, dù là tự nguyện hay bị cưỡng bách với văn hóa bản
địa. Trải qua quá trình này, các dân tộc Đông Nam À có sự tiếp biến giá trị văn hóa bên ngoài, xây
dựng một nền văn hóa riêng của mình, đóng góp vào kho tàng văn hóa chung của nhân loại.
Trong quá trình hình thành các nhà nước phong kiển dân tộc, kinh tế khu vực Đông Nam A phát triển
với nguồn nông sản döi dào như lúa gạo; các sản vật thiên nhiên quý như gỗ quý, hương liệu, gia vị, đá
quý, ngọc tra.,., thúc đẩy nghề thủ công bản đia: giao luu, buôn bán phát triến, trở thành nơi trung
chuyển hàng hóa giữa các nước trong khu vực với các nước khác. Các mieu đai phong kiến hùng mạnh
trong khu vực cạnh tranh với nhau đã dẫn đến sự diệt vong chia cắt các cân thảnh các nhà nước mới,
Đông Nam Á là khu vực lịch sử riêng biệt, ý thức và giá trị dân tộc được đề cao, vun đắp; các chính
quyền phong kiến dân tộc cạnh tranh, xâm chiếm lẫn nhau đã dẫn đến sự hưng thịnh và suy yếu của
các quốc gia - dân tộc. Tuy nhiên, các quốc gia ở đãy sóm đấầy lùi được các cuộc xâm lăng từ các đế
chế ngoài khu vực, qua các triều đại khác nhau cho đến khi thực dân phương Tầy như Anh, Pháp, Hà
Lan, Tây Ban Nha xâm nhập kinh tế, văn hóa, tùng bước xâm lược các nước trong khu vực.
-Cuối thế kỷ XIX, ngoại trừ Thái Lan, các nước trong khu vực dần trở thành thuộc địa của thực dân
phương Tây. Quá trình đấu tranh bền bi, mang đặc thù riêng của mỗi nước Đông Nam Á nhằm thoát
khỏi chế độ thuộc địa, giành độc lậập đã thúc đấy quan hệ gàn gũi, hợp tác giữa các nước. Bên cạnh
đó, các nước cũng gặp phải khó khăn trong đoàn kết, đẩy lùi, đánh bại chủ nghĩa thực dân khi một số
nước đã lựa chọn lợi ích quốc gia - dân tộc, làm giàu từ việc cho phếp lānh thố quốc gia trở thành nơi
tập hợp vũ khí, quân đội của để quốc, thực dân tấn công một nước khác trong khu vực thay vì lợi ich
của khu vực.

- Đông Nam Á có nhiều dân tộc với nguồn gốc, ngôn ngữ, tôn giáo khác nhau, tạo ra sự đa dạng
về mặt xã hội. Đông Nam Á là một khu vực giàu truyền thống lịch sử - văn hóa, trên nền tảng
văn minh nông nghiệp lúa nước với đủ sắc thái đan xen giữa văn hóa núi, đồng bằng và biển,
đây còn là nơi giao thoa của hai nền văn hóa lớn là Ấn Độ và Trung Quốc, có sự tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, từ đó gìn giữ, củng cố, phát triển đặc tính, truyền thống, bản sắc riêng
của văn hóa các dân tộc.
- Sau khi giành được quyền tự quyết định vận mệnh của mình, các quốc gia - dân tộc ở đây đều
quay về củng cố các mối quan hệ láng giềng thân thiện, coi đó là tiền đề cho sự phát triển.
Những ý tưởng về liên minh, liên kết trong khu vực sớm được hình thành và khi kết thúc Chiến
tranh lạnh, các nước Đông Nam Á đã có cơ hội hợp tác phát triển mạnh mẽ nhằm mục tiêu duy
trì hòa bình, phát triển và nâng cao vị thế của khu vực trên trường quốc tế.
- Tôn giáo, tín ngưỡng ở các nước Đông Nam Á rất đa dạng, có ảnh hưởng lớn nhất là Phật giáo
và Hồi giáo. Minh chứng cho sự đa dạng văn hóa ở mỗi quốc gia Đông Nam Á trong tiến trình
phát triển của mình:
- Văn hóa Việt Nam là một sắc màu riêng. Có thể nói, trong 11 quốc gia ở Đông Nam Á, văn hóa
Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa sâu đậm nhất. Trong suốt hơn 1000 năm Bắc
thuộc, kể cả sau khi giành độc lập (năm 938 Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông
Bạch Đằng), các nhà nước quân chủ Việt Nam vẫn có quan hệ bang giao với các triều đại Trung
Hoa và Nho giáo trong nhiều thế kỷ trở thành nhân tố chi phối đời sống văn hóa xã hội (thi cử,
chữ viết, tổ chức bộ máy hành chính...).
- Sắc màu văn hóa Hồi giáo ở quần đảo Malaysia, Indonesia, Brunei: đây là ba quốc gia có cộng
đồng cư dân theo Hồi giáo chiếm tỷ lệ cao (Indonesia: 88%; Malaysia: 60,4%, Brunei
Darussalam: 67%) (2) và Hồi giáo trở thành hệ tư tưởng chi phối đời sống văn hóa xã hội. Tuy
nhiên, dấu ấn của Hồi giáo trong từng nước cũng không giống nhau.
- Sắc màu văn hóa ở Campuchia: ở Campuchia hiện Phật giáo là tôn giáo chiếm tỷ lệ cao (97%),
nhưng trong tiến trình phát triển của lịch sử, có giai đoạn như thời kỳ Angkor, Hindu giáo đã trở
thành hệ tư tưởng chi phối đời sống văn hóa xã hội... Trong suốt gần 7 thế kỷ (từ năm 802 đến
năm 1434), tôn giáo này không chỉ tác động đến thể chế chính trị quốc gia, sự hình thành và
phát triển của các nhà nước cổ đại mà còn để lại cho Campuchia những giá trị văn hóa có sức
sống bền lâu đến tận hôm nay.
- Sắc màu văn hóa ở các quốc gia Thái Lan, Lào, Myanmar. Hệ tư tưởng Phật giáo chi phối đời
sống văn hóa xã hội. Ở Thái Lan, Phật giáo được coi là quốc giáo với số tín đồ chiếm tỷ lệ
92,1% dân số cả nước... Chính phủ và người dân Thái Lan vô cùng tôn trọng và tạo điều kiện
cho Phật giáo phát triển với những Viện Phật học, Tăng đoàn Phật giáo hay là các trường đại
học Phật giáo... Cũng như Thái Lan, Lào là xứ sở của Phật giáo. Đạo Phật đã ăn sâu vào tư
tưởng của người dân Lào, điều này được biểu hiện trong ngôn ngữ, nghệ thuật, kiến trúc, văn
học…
- Văn hóa Philippines mang một sắc màu riêng của Công giáo. Philipines là một trong hai nước
tại châu Á (cùng với Đông Timor) có cộng đồng Công giáo La Mã chiếm đa số dân (khoảng
85%) và là một trong những nước chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây sớm hơn cả. Trong
suốt hơn 350 năm là thuộc địa của Tây Ban Nha và gần 50 năm là thuộc địa của Hoa Kỳ, văn
hóa Philippines chịu ảnh hưởng lớn từ 2 quốc gia này, đặc biệt là Công giáo. Công giáo du nhập
vào đây từ TK XVI và cho đến nay vẫn là tôn giáo chi phối nhiều mặt trong đời sống quốc gia
này. Sự đa dạng, phức tạp về tôn giáo một mặt làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần và nét
đặc sắc riêng của các dân tộc Đông Nam Á, mặt khác khiến cho các nước dễ bị các thế lực thù
địch lợi dụng để can thiệp, gây chia rẽ, xung đột tôn giáo, sắc tộc.
- Khu vực Đông Nam Á có tới hàng trăm ngôn ngữ khác nhau cùng tồn tại. Ngoài ra, trong quá
trình hội nhập kinh tế, cư dân Đông Nam Á còn sử dụng tiếng Anh, tiếng Pháp,...
- Các loại hình nghệ thuật ở khu vực Đông Nam Á rất đặc sắc với nhiều loại hình khác nhau,
trong đó tiêu biểu là Angkor Wat, Angkor Thom được xây dựng vào thế kỷ XII ở Campuchia;
tháp Chàm, chùa Một Cột, thành nhà Hồ với những phiến đá dài 1,5m, nặng 15-20 tấn xếp
chồng lên nhau không cần chất kết dính mà vẫn bảo đảm độ bền vững ở Việt Nam; cụm đền
Prambanan trên đảo Java, Inđônêxia; chùa Vàng ở Mianma; tạo nên bức tranh văn hóa Đông
Nam Á sinh động, đa chiều, độc đáo và đặc sắc.
- Dân số Đông Nam Á tính đến tháng 12/2022 là 684.407.733 người, chiếm 8,57% dân số thế
giới và xếp thứ ba so với các khu vực khác ở châu Á, 85% dân số khu vực tập trung tại bốn
nước đông dân là Inđônêxia, Việt Nam, Thái Lan và Philíppin. Hiện nay, với nguồn lao động
dồi dào, số lượng người dân Đông Nam Á trong độ tuổi lao động khá cao, phần lớn là lao động
có khả năng thích ứng nhanh với quá trình công nghiệp hóa, Đông Nam Á có nhiều yếu tố thuận
lợi để phát triển sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh quốc tế, trở thành thị
trường tiêu thụ hàng hóa tiềm năng, song đây cũng là vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng mà các
quốc gia phải quan tâm. Dân số đông tạo áp lực lớn về an sinh xã hội, việc làm, kết cấu hạ tầng
giao thông, đặc biệt ở những thành phố lớn và những nước đông dân, mật độ dân số cao như
Inđônêxia, Thái Lan, Việt Nam. Tốc độ đô thị hóa so với tỷ trọng dân số thành thị ở các quốc
gia khác xa nhau, thể hiện sự khác biệt về trình độ phát triển và cơ cấu kinh tế giữa các nước
trong khu vực.
- Một đặc trưng đáng lưu ý về dân số ở khu vực Đông Nam Á là người Hoa đóng vai trò to lớn
trong nền kinh tế của khu vực. Năm quốc gia có số lượng người Hoa tập trung đông nhất là
Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan, Xingapo và Philíppin. Hoa kiều là tầng lớp thương nhân kinh
doanh thành công ở Đông Nam Á.
- Ngày nay, Đông Nam Á đã nổi lên như một trong những khu vực địa lý - chính trị có vai trò
quan trọng trong bố trí, tập hợp lực lượng ở châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới.

*Đặc điểm chính trị


- Thể chế chính trị của các nước ĐNÁ khá đa dạng, Việt Nam, Lào là hai nước chủ nghĩa xã hội;
Brunay, Thái Lan, Malaixia, Campuchia là các nước quân chủ lập hiến; Philippin theo thể chế cộng
hòa tổng thống; Xingapo và Indonexia theo thể chế cộng hòa; Mianma là nước cộng hòa liên bang;
Timo Lexte là nước cộng hòa nghị viện. Hiện nay 10 trong số 11 nước là thành viên của tổ chức
ASEAN

*Đặc điểm văn hóa – xã hội


Văn hóa ở Đông Nam Á rất đa dạng: ở Đông Nam Á lục địa, văn hóa là sự pha trộn của các nền văn
hóa Miến Điện, Campuchia, Lào, Thái Lan ( Ấn Độ ) và Việt Nam ( Trung Quốc ). Trong khi ở
Indonesia, Philippines, Singapore và Malaysia, văn hóa là sự pha trộn của các nền văn
hóa Austronesian, Ấn Độ, Hồi giáo, phương Tây và Trung Quốc bản địa. Ngoài ra, Brunei cũng cho
thấy ảnh hưởng mạnh mẽ từ Ả Rập.
-Đông Nam Á là một khu vực giàu truyền thống lịch sử - văn hóa trên nền tảng văn minh nông nghiệp
lúa nước với đủ sắc thái đan xen giữa văn hóa núi, đồng bằng và biển, đây còn là nơi giao thoa của hai
nền văn hóa lớn là Ấn Độ và Trung Quốc
-Tôn giáo, tín ngưỡng ở các nước ĐNÁ rất đa dạng, có ảnh hưởng lớn nhất là Phật giáo và Hồi giáo.
Sự đa dạng, phức tạp về tôn giáo một mặt làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần và nét đặc sắc
riêng của các dân tộc ĐNá, mặt khác khiến các nước dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để can thiệp,
gây chia rẽ, xung đột tôn giáo, sắc tộc
-Dân số ĐNÁ chiếm 87,5% dân số thế giới và xếp thứ 3 so với các khu vực khác ở châu Âu. Hiện nay,
với nguồn lao động dồi dào, số lượng người dân Đông Nam Á trong độ tuổi lao động khá cao, phần lớn
là lao động có khả năng thích ứng nhanh với quá trình công nghiệp hóa, ĐNÁ là nơi có yếu tố thuận lợi
để phát triển sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh quốc tế và trở thành thị trường tiêu
thụ hàng hóa tiềm năng. Song đây cũng là vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng mà các quốc gia quan
tâm. Dân số đông sẽ tạo áp lực về an sinh xã hội, việc làm, kết cấu hạ tầng, giao thông, đặc biệt là ở
những thành phố lớn và các nước đông dân. Tốc độ đô thị hóa so với tỷ trọng dân số thành thị ở các
quốc gia khác xa nhau, từ đó thể hiện sự khác biệt về trình độ phát triển và cơ cấu kinh tế giữa các
nước trong khu vực

- QTRINH VẬN ĐỘNG ĐỊA CHÍNH TRỊ ( HỢP TÁC LIÊN KẾT VỀ CHÍNH TRỊ, AN NINH
QUỐC PHÒNG, KINH TẾ, VĂN HÓA XH VÀ MÔI TRƯỜNG) ( 127)

Về trụ cột Chính trị - An ninh, ASEAN đạt nhiều kết quả quan trọng trong việc duy trì hòa bình, ổn
định và an ninh khu vực. ASEAN tạo dựng được sự tin cậy và gắn kết giữa các nước thành viên; thúc
đẩy đối thoại và hợp tác giữa các nước trong và ngoài hiệp hội; xây dựng lòng tin, chia sẻ và phát huy
giá trị các quy tắc và chuẩn mực ứng xử giữa các nước tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Ngày thành lập ASEAN (8/8/2020), các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đã
ra Tuyên bố về Tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình và ổn định ở Đông Nam Á, khẳng định cam
kết mạnh mẽ của ASEAN trong duy trì Đông Nam Á là một khu vực hòa bình, an ninh, trung lập và ổn
định, đồng thời tăng cường các giá trị vì hòa bình trong khu vực phù hợp với luật pháp quốc tế.
Về vấn đề biển Đông, ASEAN có nhiều nỗ lực và vai trò quan trọng, với việc thường xuyên lên tiếng
cảnh báo về nguy cơ, thu hút sự quan tâm và đóng góp của các nước đối tác và cộng đồng quốc tế tại
biển Đông; đề cao việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. ASEAN tiến hành các
biện pháp xây dựng lòng tin và xây dựng các quy tắc ứng xử, nhất là cùng Trung Quốc ký Tuyên bố về
ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) và hướng tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC)
hiệu lực, hiệu quả. ASEAN cũng thúc đẩy đối thoại và hợp tác về các vấn đề trên biển nhằm ngăn ngừa
nguy cơ đụng độ, xung đột, bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở biển Đông.
Cộng đồng Kinh tế ASEAN là sự mở rộng về phạm vi và nâng cao về mức độ tự do hóa của Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), trong đó về cơ bản không còn thuế quan đối với hàng hóa và có
sự lưu chuyển thông thoáng hơn về dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề, có sự hợp tác khá
chặt chẽ trong các lĩnh vực kinh tế ngành và kết nối đáng kể với nền kinh tế toàn cầu…
Về trụ cột Văn hóa - Xã hội, kết quả lớn nhất là tạo ra những cơ chế và khuôn khổ hợp tác; hài hòa
hóa các quy định và tiêu chuẩn chung; cũng như nâng cao năng lực của các nước trong thực hiện các
chính sách thúc đẩy bình đẳng và công bằng xã hội, phát triển bền vững, cải thiện cuộc sống của người
dân, tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân tham gia và đóng góp vào hợp tác ASEAN, giúp nâng cao
ý thức về cộng đồng và bản sắc chung.
Bên cạnh ba trụ cột của Cộng đồng, ASEAN cũng đạt được thành tựu trong nhiều lĩnh vực hợp tác
khác.

- VN TRONG QT HỢP TÁC LIÊN KẾT KV ( CẬP NHẬT Ý MỚI)


Việt Nam là một quốc gia thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) từ năm 1995. Trong
quá trình hợp tác, liên kết với khu vực địa chính trị Đông Nam Á từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã đạt được
những thành tựu quan trọng, góp phần vào sự phát triển hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực.

Trên đà phát triển đó, Việt Nam dần tự tin, chủ động hơn, vai trò của Việt Nam dần được thể hiện
rõ nét qua những đóng góp tích cực trong xây dựng các định hướng lớn đưa ASEAN chuyển sang giai
đoạn mới. Tham gia đóng góp, thậm chí dẫn dắt trong soạn thảo các văn kiện, như Tuyên bố Hòa hợp
Bali II (năm 2003), Chương trình Hành động Viêng Chăn (năm 2004), Hiến chương ASEAN (năm
2007), Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN giai đoạn 2009 - 2015, Kế hoạch Công tác Sáng kiến
Liên kết ASEAN,... giúp ASEAN chuyển sang giai đoạn phát triển mới, liên kết sâu rộng, hội nhập
toàn diện.

Điểm nhấn khác đánh dấu sự trưởng thành vững vàng của Việt Nam trong ASEAN là nhiệm kỳ
Chủ tịch ASEAN năm 2010. Với chủ đề “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn đến hành
động”, Việt Nam đã định hướng để ASEAN tập trung đẩy mạnh hành động, nhấn mạnh yếu tố “thực
thi” nhằm hiện thực hóa tầm nhìn về Cộng đồng ASEAN, cùng với việc thông qua Kế hoạch Tổng thể
về kết nối ASEAN. Bên cạnh đó, Việt Nam chủ động thúc đẩy đưa bộ máy tổ chức của ASEAN đi vào
hoạt động, hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý theo quy định của Hiến chương.

Năm 2020, Việt Nam một lần nữa thành công rực rỡ khi dẫn dắt ASEAN vượt qua giai đoạn đầy
thách thức. Chủ đề “Gắn kết và Chủ động thích ứng” được triển khai trọn vẹn, khu vực từng bước vượt
qua đại dịch COVID-19, đoàn kết ASEAN được duy trì, thống nhất ASEAN được củng cố. Đà hợp tác
và liên kết khu vực được giữ vững, vai trò trung tâm, vị thế quốc tế của ASEAN được đề cao..

Với phương châm “chủ động, tích cực và có trách nhiệm”, Việt Nam tham gia sâu rộng và toàn
diện vào hợp tác ASEAN trên tất cả lĩnh vực. Trong năm ASEAN 2020, Việt Nam đã chủ trì kiểm
điểm đánh giá giữa kỳ thực hiện Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025 và thông qua định hướng xây
dựng Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau 2025. Đây có thể được coi là một trong những đóng góp quan
trọng và lớn nhất của Việt Nam với tư cách thành viên ASEAN.

Việt Nam cũng có nhiều đóng góp quan trọng trong mở rộng quan hệ và thúc đẩy hợp tác
giữa ASEAN với các đối tác. Khi đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010, Việt Nam đã
thúc đẩy mở rộng Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) để Nga và Mỹ tham gia. Theo sáng kiến của
Việt Nam, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) được hình thành, với
thành viên là các nước ASEAN và các đối tác. Việt Nam cũng đảm nhận thành công vai trò điều
phối quan hệ ASEAN-Trung Quốc (2009-2012), ASEAN-EU (2012-2015), ASEAN-Ấn Độ (2015-
2018) và ASEAN-Nhật Bản (2018-2021).
8. a. Phân tích và nhận xét đặc điểm ĐCT khu vực
Đông Bắc Á từ 2000 đến nay
3.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội của khu vực Đông Bắc Á
Vị trí địa lí khu vực Đông Bắc Á
Đông Bắc Á hay còn được gọi là Đông Á, Đại Đông Á hoặc Viễn Đông, đây là khu vực rộng lớn nằm
ở phía đông của châu Á, khoảng từ 20°B đến khoảng 50°B. Về mặt địa lý, Đông Bắc Á chiếm khoảng
11.839.074 km2, hay 25% diện tích của châu Á.

Lãnh thổ Đông Bắc Á gồm hai bộ phận khác nhau: phần đất liền và phần hải đảo. Phần đất liền bao
gồm Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên. Phần hải đảo gồm quần đảo Nhật Bản, đảo Đài Loan và đảo
Hải Nam.

Các nước Đông Bắc Á

Theo quan điểm chính thống hiện nay, khu vực địa lý Đông Bắc Á gồm 8 quốc gia: Trung Quốc, Hồng
Kông, Ma Cao, Đài Loan, Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mông Cổ

Khu vực Đông Bắc Á, cụ thể là các quốc gia như Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và Hàn Quốc, đã
trải qua nhiều thay đổi địa chính trị quan trọng từ năm 2000 đến nay. Dưới đây là một phân tích
về địa chính trị, đặc điểm chính trị và kinh tế của khu vực này trong thời kỳ đó:

1. Vị trí chiến lược:

- Trọng tâm kinh tế: Khu vực Đông Bắc Á nằm ở trung tâm của một trong những trung tâm kinh tế
lớn nhất thế giới. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đều là các nền kinh tế phát triển, đóng góp một
phần lớn vào nền kinh tế toàn cầu. Đây là vùng có sự tập trung của các công ty đa quốc gia và là trung
tâm của chuỗi cung ứng toàn cầu

- Quyền lực chính trị: Khu vực Đông Bắc Á đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc quyền lực chính
trị thế giới. Trung Quốc là một quốc gia lớn với tầm ảnh hưởng kinh tế và quân sự ngày càng gia tăng.
Nga có vị trí địa lý chiến lược và là một cường quốc quân sự. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng có vai trò
quan trọng trong khu vực và là đồng minh chính của Hoa Kỳ.

2. Đặc điểm chính trị:

- Quyền lực quốc gia: Khu vực Đông Bắc Á đang chứng kiến sự gia tăng quyền lực quốc gia và đấu
tranh vì ảnh hưởng chính trị. Trung Quốc đã trở thành một đối thủ toàn diện với Hoa Kỳ, trong khi Nga
đang tìm cách phục hồi và tăng cường vai trò quốc gia trên sân quốc tế. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng
đang tăng cường khả năng quốc phòng và đóng góp vào các nỗ lực hòa bình và an ninh khu vực.

- Cạnh tranh chính trị: Khu vực Đông Bắc Á chứng kiến sự cạnh tranh chính trị giữa các quốc gia và
vấn đề lịch sử, lãnh thổ và tài nguyên vẫn là những mâu thuẫn chính. Các tranh chấp lãnh thổ như Biển
Đông, Biển Nhật Bản và quần đảo Kuril vẫn gây căng thẳng trong khu vực.

- Hợp tác kinh tế: Khu vực Đông Bắc Á cũng là một trung tâm hợp tác kinh tế quan trọng. Trung
Quốc đã trở thành một động lực chính cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu và đã tạo ra một mạng lưới
kinh tế khu vực thông qua các hợp tác như BRI (Belt and Road Initiative). Nhật Bản và Hàn Quốc
cũng là các quốc gia xuất khẩu hàng đầu và có mối quan hệ thương mại mạnh mẽ với khu vực này.

3. Kinh tế:

- Trung Quốc: Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn nhấn thế giới trong thời gian từ năm 2000
đến nay. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng, Trung Quốc đã trở thành nhà xuất khẩu hàng hóa
hàng đầu và là một trong những đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất trên thế giới. Ngoài ra, Trung
Quốc cũng đã đẩy mạnh việc đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ và
trí tuệ nhân tạo.

- Nhật Bản: Nhật Bản là một trong những nền kinh tế phát triển và có sự đóng góp quan trọng vào
khu vực Đông Bắc Á. Tuy nhiên, Nhật Bản đã đối mặt với một loạt khó khăn kinh tế trong thời gian
này, bao gồm suy thoái kinh tế, gia tăng nợ công và dư nợ cao. Tuy vậy, Nhật Bản vẫn duy trì vị thế là
một trong những quốc gia công nghệ tiên tiến nhất thế giới và là một trung tâm nghiên cứu và phát
triển.

- Hàn Quốc: Hàn Quốc cũng là một nền kinh tế phát triển và có sự đóng góp quan trọng vào khu vực.
Với sự thành công của các ngành công nghiệp như công nghệ thông tin, ô tô và điện tử, Hàn Quốc đã
trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới. Ngoài ra, Hàn Quốc cũng là một
trung tâm nghiên cứu và phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.

*Đặc điểm kinh tế


Từ nửa sau thế kỷ XX, các nước khu vực Đông Bắc Á tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế và cuộc
sống của người dân cũng được cải thiện.

– Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan trở thành những "con rồng kinh tế" của Đông Bắc Á.

– Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

– Trung Quốc có sự tăng trưởng nhanh và cao nhất thế giới từ cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI.

- Từ nửa sau thế kỷ XX, khu vực Đông Bắc Á tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, nên dự đoán “thế kỷ
XXI là thế kỷ của châu Á”.

Tóm lại, khu vực Đông Bắc Á đã trải qua nhiều thay đổi đáng kể về địa chính trị và kinh tế từ năm
2000 đến nay. Trung Quốc đã trở thành một cường quốc kinh tế và quyền lực chính trị ngày càng gia
tăng. Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn duy trì vị thế là các nền kinh tế phát triển và trung tâm nghiên cứu
công nghệ. Nga tiếp tục tìm cách tăng cường vai trò quốc gia và mở rộng thị trường xuất khẩu. Các vấn
đề lãnh thổ và tranh chấp vẫn tồn tại trong khu vực, tạo ra căng thẳng chính trị nhất định.

Đặc điểm tự nhiên Đông Bắc Á


*Địa hình và sông ngòi
Phần đất liền của Đông Bắc Á chiếm tới 83,7% diện tích lãnh thổ và có điều kiện tự nhiên rất đa dạng:

– Ở nửa phía tây Trung Quốc có các hệ thống núi, sơn nguyên cao, hiểm trở và các bồn địa rộng.

– Vùng đồi núi thấp xen các đồng bằng rộng lớn bằng phẳng phân bố ở phía đông ven vùng duyên hải -
phía đông Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên.

– Mạng lưới sông dày đặc với 3 con sông lớn: A-mua, Hoàng Hà, Trường Giang.
– Phần hải đảo: là vùng núi trẻ có vị trí nằm trong "vòng đai lửa Thái Bình Dương" và thường có động
đất và núi lửa hoạt động mạnh gây tai họa lớn cho người dân.

*Khí hậu, cảnh quan


Đông Bắc Á có khí hậu cận nhiệt lục địa quanh năm khô. Mùa đông có gió mùa tây bắc, thời tiết khô
và lạnh. Riêng ở Nhật bản, do gió tây bắc đi qua biển nên vẫn có mưa. Về mùa hạ có gió đông nam từ
biển vào, thời tiết mát, ẩm và mưa nhiều. Ở Đông Á, nửa phía đông, phía tây, phần đất liền và phần hải
đảo có đặc điểm khí hậu khác nhau:

– Nửa phía đông phần đất liền và hải đảo một năm có hai mùa gió khác nhau. Mùa đông gió mùa tây
bắc rất lạnh và khô. Mùa hạ gió đông nam, mưa nhiều. Nửa phía đông Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên
và phần hải đảo nhờ khí hậu ấm nên cảnh quan rừng là chủ yếu. Ngày nay phần lớn rừng đã bị con
người khai phá nên diện tích rừng còn lại rất ít.

– Nửa phía tây phần đất liền do vị trí nằm sâu trong nội địa, gió mùa từ biển không xâm nhập vào được
nên khí hậu ở đây quanh năm khô hạn. Khí hậu khô nên cảnh quan chủ yếu là thảo nguyên khô, hoang
mạc và bán hoang mạc phát triển.

*Tài nguyên thiên nhiên


Tài nguyên thiên nhiên khu vực Đông Bắc Á trù phú có nhiều khoáng sản.

Nơi đây còn giàu tiềm năng kinh tế biển, xét về giá trị hải sản, sản lượng của khu vực Đông Nam Á và
Đông Á chiếm vào khoảng 1/4 sản lượng hải sản của thế giới.

*Đặc điểm dân cư


Theo số liệu từ Liên Hợp Quốc, dân số hiện tại của các nước Đông Á là 1.688.446.567 người vào ngày
12/12/2022 và chiếm 21,13% dân số thế giới.

Đông Bắc Á hiện đang đứng thứ 2 ở khu vực Châu Á về dân số với mật độ dân số 146 người/km2. Dân
cư Đông Bắc Á tập trung đông đúc ở các vùng ven biển và ven sông còn ở Mông Cổ và miền Tây
Trung Quốc dân số phân bổ rất thưa thớt.

*Đặc điểm văn hoá

Khu vực Đông Á bao gồm các cộng đồng là một phần của ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa. Sự
ảnh hưởng này thể hiện rõ nét bởi lịch sử từ chữ Hán, Khổng giáo và Tân Khổng giáo, Phật giáo Đại
thừa, Lão giáo.

3.2

Đặc điểm địa chính trị ở khu vực Đông Bắc Á

Đặc điểm lịch sử


Đông Bắc Á là một khu vực rộng lớn với số dân đông và tài nguyên thiên nhiên phong phú.

Trước 1939, đều bị thực dân nô dịch (trừ Nhật Bản). Sau 1945, tình hình khu vực có nhiều biến
chuyển.
- Tháng 10/1949, cách mạng Trung Quốc thắng lợi, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời. Cuối
thập niên 90, Hồng Kông và Ma Cao cũng trở về với Trung Quốc (trừ Đài Loan).
- Năm 1948, trong bối cảnh chiến tranh lạnh, bán đảo Triều Tiên đã bị chia cắt thành hai miền theo vĩ
tuyến 38: Đại Hàn dân quốc ở phía Nam và CHDCND Triều Tiên ở phía Bắc.
Sau chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953), vĩ tuyến 38 vẫn là ranh giới phân chia hai nhà nước trên bán
đảo.

Đông Bắc Á là một khu vực có nhiều đặc điểm lịch sử đa dạng và phong phú. Dưới đây là một số
đặc điểm quan trọng:
Đông Bắc Á bao gồm một số quốc gia và vùng lãnh thổ như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Đài Loan, Mông Cổ, và các khu vực lân cận. Vị trí địa lý của khu vực này nằm ở phía đông của lục địa
Á-Âu và nằm gần Thái Bình Dương. Địa lý này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao thoa văn hóa,
kinh tế và chính trị giữa các quốc gia trong khu vực.
Khu vực Đông Bắc Á có một lịch sử lâu đời và phong phú, với sự phát triển của các nền văn hóa
và nền kinh tế độc lập. Các quốc gia trong khu vực đã có những mối quan hệ lịch sử phức tạp, từ sự
tương tác và trao đổi văn hóa, thương mại, cho đến xung đột và chiến tranh. Sự tương tác lịch sử này
đã tạo nên một sự liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong khu vực.
Khu vực Đông Bắc Á cũng đã trải qua các cuộc chiến tranh quan trọng, như Chiến tranh Triều
Tiên, Chiến tranh Trung-Nhật Bản và Chiến tranh Thế giới II. Những sự kiện này đã có tác động lớn
đến lịch sử và địa chính trị của khu vực.
Những tác động này bao gồm sự chia cắt và căng thẳng giữa Bắc và Nam Triều Tiên, sự thay đổi
địa chính trị và quan hệ quốc tế sau cuộc chiến Trung-Nhật Bản và Thế giới II, cũng như ảnh hưởng
rộng lớn đến kinh tế và dân số của khu vực. Những tác động này vẫn tiếp tục làm nền tảng cho hiện tại
và tương lai của khu vực Đông Bắc Á.
Kết luận, lịch sử Đông Bắc Á là một sự kết hợp của những nền văn hóa cổ đại, các đế quốc quan
trọng, các cuộc chiến tranh và sự phát triển kinh tế. Nó đã tạo ra một di sản đa dạng và ảnh hưởng
trong khu vực này.

Đặc điểm chính trị


Trung Quốc: Trung Quốc là quốc gia lớn nhất và có ảnh hưởng lớn nhất trong khu vực. Chính sách
của Trung Quốc xoay quanh khái niệm "Một Trung Quốc", đòi hỏi sự công nhận của tất cả các quốc
gia rằng có một Trung Quốc duy nhất và Taiwan là một phần của lãnh thổ của nó. Trung Quốc đang nỗ
lực thiết lập vị thế lãnh đạo khu vực và mở rộng sự ảnh hưởng kinh tế và quân sự của mình.
Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên: Bán đảo Triều Tiên được chia thành hai quốc gia đối lập - Hàn Quốc và
Bắc Triều Tiên. Mối quan hệ giữa hai quốc gia này vẫn căng thẳng và có thể gây nguy cơ xảy ra xung
đột. Hàn Quốc đang thực hiện chính sách đối ngoại tích cực, tập trung vào sự hợp tác kinh tế và quân
sự với các đối tác quốc tế.
Nhật Bản: Nhật Bản là một quốc gia quan trọng với nền kinh tế phát triển và quân lực mạnh mẽ.
Trong những năm gần đây, Nhật Bản đã tăng cường vai trò quân sự và an ninh của mình, đồng thời
củng cố các quan hệ đối tác với Mỹ và các quốc gia Đông Nam Á. Nhật Bản cũng tiếp tục giải quyết
các tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc và Hàn Quốc.
Mỹ: Mỹ là một mạnh thường quân quan trọng trong khu vực Đông Bắc Á. Mỹ có các hợp tác quân sự
với Hàn Quốc và Nhật Bản, và theo đó đặt quân tại khu vực để duy trì sự ổn định và ứng phó với các
vấn đề an ninh. Tuy nhiên, quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc trở nên căng thẳng, đặc biệt trong các lĩnh
vực kinh tế, thương mại và an ninh.
Các tổ chức khu vực: Khu vực Đông Bắc Á đặc trưng bởi sự hiện diện của các tổ chức quan trọng như
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Hội nghị Các nước Cơ bản về Hòa bình và An ninh
(ARF), và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Các tổ chức này chủ yếu
nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế, an ninh và chính trị trong khu vực.
Tổng thể, khu vực Đông Bắc Á là một khu vực đa dạng với các yếu tố chính trị phức tạp và căng
thẳng. Sự tương tác và cạnh tranh giữa các quốc gia trong khu vực đã đóng vai trò quan trọng trong
hình thành địa chính trị của khu vực này.

QTRINH VẬN ĐỘNG ĐỊA CHÍNH TRỊ ( HỢP TÁC LIÊN KẾT VỀ CHÍNH TRỊ, AN NINH
QUỐC PHÒNG, KINH TẾ, VĂN HÓA XH VÀ MÔI TRƯỜNG)
Những vấn đề nổi bật về chính trị
Đông Bắc Á là khu vực tập trung những nền kinh tế hàng đầu thế giới, nhưng cũng là nơi có địa chính
trị phức tạp vào loại bậc nhất thế giới và nhiều vấn đề nhạy cảm tồn tại từ thời Chiến tranh Lạnh đến
nay. Năm 2021, tình hình chính trị quốc tế khu vực Đông Bắc Á có nhiều động thái nổi bật với tư cách
là một vũ đài chính trị và an ninh thế giới.
Thứ nhất, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc củng cố liên minh chiến lược tay ba. Trong bối cảnh cạnh tranh
chiến lược toàn diện Mỹ-Trung gia tăng căng thẳng, chính quyền mới của Mỹ đã điều chỉnh chính sách
đối ngoại, tạo điều kiện hàn gắn những rạn nứt và củng cố các mối quan hệ đồng minh trong khu vực
Đông Bắc Á. Nếu dưới thời Tổng thống Donald Trump, quan hệ Nhật - Mỹ và Hàn - Mỹ dường như
“chạm đáy” với chính sách “nước Mỹ trên hết” thì nay đã khác. Ngay sau khi Tổng thống Joe Biden
nắm quyền (tháng 1/2021), Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc đã sớm có động thái hâm nóng lại quan hệ đồng
minh.
Thủ tướng Nhật Bản Suga Yoshihide là nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên đến thăm Mỹ (17/4/2021)
sau khi Tổng thống Joe Biden nhậm chức để một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của liên minh
Nhật – Mỹ trong việc duy trì trật tự an ninh khu vực và đảm bảo lợi ích song phương. Năm 2021, Thủ
tướng Suga Yoshihide đã gặp trực tiếp Tổng thống Mỹ 3 lần. Trong tuyên bố chung "Quan hệ đối tác
toàn cầu Mỹ - Nhật Bản cho kỷ nguyên mới" (17/4/2021), hai bên khẳng định nhất trí tăng cường hơn
nữa liên minh Nhật - Mỹ, vốn là nền tảng của hòa bình và thịnh vượng ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương[2]. Bên lề hội nghị thượng đỉnh trực tiếp đầu tiên của nhóm Bộ tứ Quad (24/9/2021), Thủ
tướng Suga nói: “Chúng tôi có thể tăng cường hơn nữa quan hệ đồng minh Nhật - Mỹ và làm sâu sắc
hơn quan hệ giữa hai nước nhờ mối quan hệ đầy tin cậy của tôi với Tổng thống Biden”[3]. Ngày
3/9/2021, Thủ tướng Suga Yoshihide xác nhận rằng ông sẽ không tái tranh cử với tư cách lãnh đạo
Đảng Dân chủ Tự do trong cuộc bỏ phiếu vào tháng 9 giữa bối cảnh bị chỉ trích về phản ứng chậm
chạp trước đại dịch COVID-19, đồng nghĩa với việc kết thúc nhiệm kỳ của ông. Thủ tướng mới kế
nhiệm Kishida Fumio ngay sau khi nhậm chức đã có cuộc điện đàm với Tổng thống Joe Biden (ngày
5/10/2021), hai bên một lần nữa khẳng định quần đảo Senkaku mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư ở biển
Hoa Đông nằm trong phạm vi áp dụng của Điều 5 trong Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ[4].
Về phía Hàn Quốc, Tổng thống Moon Jae-in đã thể hiện sự hào hứng khi đón mừng lễ nhậm chức
của Tổng thống Mỹ Joe Biden với dòng tweet: “nước Mỹ trở lại” sau 4 năm quan hệ Mỹ - Hàn giảm
nhiệt. Trong năm 2021, Hàn Quốc và Mỹ đã đạt được thỏa thuận về nguyên tắc để sắp xếp lại việc chia
sẻ chi phí, cho phép quân Mỹ đồn trú tại Hàn Quốc, còn gọi là Thỏa thuận các biện pháp đặc biệt
(SMA)[5], khép lại cuộc đối đầu về chi phí quân sự giữa hai nước trong hơn một năm qua (3/2021).
Trong Tuyên bố chung được đưa ra trong Đối thoại Quốc phòng tích hợp Hàn - Mỹ lần thứ 20 tại
Seoul trong hai ngày 27 - 28/9, hai nước đã nhất trí tìm cách tăng cường khả năng phòng thủ chung
trước các mối đe dọa tên lửa của Triều Tiên. Mỹ và Hàn Quốc đưa ra kế hoạch mới điều hành chiến
tranh (12/2021), nhận định Triều Tiên đang có kế hoạch sâu rộng trong cải cách vũ khí quốc phòng.
Hai nước xây dựng kế hoạch mới nhằm đối phó với chiến lược mới của Triều Tiên[6].
Năm 2021, mặc dù liên minh tay ba Nhật- Mỹ - Hàn được củng cố, nhưng quan hệ song phương
Nhật - Hàn vẫn còn nhiều trắc trở. Chính quyền Joe Biden coi hợp tác ba bên là yếu tố then chốt trong
việc thúc đẩy an ninh ở châu Á. Mặc dù vậy trong năm 2021, quan hệ song phương bị đánh giá là “thụt
lùi” giữa Hàn Quốc và Nhật Bản đã không có bước cải thiện nào đáng kể. Sách Trắng quốc phòng của
Hàn Quốc công bố hồi tháng 2/2021 đã không còn gọi Nhật Bản là “đối tác” nữa, thay vào đó là cụm
từ “quốc gia láng giềng”[7]. Trở ngại đôi bên vẫn là những vụ tranh cãi, kiện tụng về những chủ đề
liên quan đến thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng bán đảo Triều Tiên và tranh chấp chủ quyền đảo Dokdo/
Takeshima, gần đây nhất là việc một tòa án Hàn Quốc ra phán quyết yêu cầu các công ty Nhật Bản
phải bồi thường cho những người Hàn Quốc bị cưỡng ép lao động trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng
bán đảo Triều Tiên. Nhưng Nhật Bản cho rằng vấn đề này đã được giải quyết xong theo thỏa thuận
được ký giữa hai nước vào năm 1965.
Thứ hai, Trung Quốc và Triều Tiên củng cố “quan hệ máu thịt”. Năm 2021, cả Triều Tiên và Trung
Quốc có nhiều sự kiện chính trị quan trọng. Trung Quốc kỉ niệm 100 năm ngày ra đời của Đảng Cộng
sản Trung Quốc (1/7/2021), đánh dấu việc Trung Quốc hoàn thành "mục tiêu trăm năm" đầu tiên: trở
thành một xã hội khá giả toàn diện. Tại Triều Tiên, Đại hội Đảng Lao động Triều Tiên lần thứ 8 được
tổ chức (1/2021). Trung Quốc và Triều Tiên kỷ niệm 60 năm ngày ký Hiệp ước Hữu nghị, Hợp tác và
Tương trợ Trung-Triều (11/7/1961) và gia hạn hiệp ước 20 năm tiếp theo. Chủ tịch Triều Tiên Kim
Jung-un khẳng định năm 2021 “mở ra một chương mới trong quan hệ Triều Tiên- Trung Quốc lấy tình
hữu nghị lấy chủ nghĩa xã hội làm cốt lõi”. Ông nhận định, tình hình quốc tế trong những năm gần đây
"phức tạp chưa từng thấy”, nhưng quan hệ Trung Quốc-Triều Tiên vẫn đang trên đà phát triển toàn
diện lên một tầm cao hơn trong tất cả các lĩnh vực[8]. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng nhận
định rằng thế giới đang có "sự thay đổi lớn và nhanh chóng chưa từng có trong 100 năm qua”, nhưng
quan hệ Trung – Triều là đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của mỗi nước. Trung Quốc kiên
quyết ủng hộ kinh tế và cuộc sống của người dân Triều Tiên. Nhật Báo Rodong Shinmun ra xã luận
nhấn mạnh hợp tác song phương là một "vũ khí lợi hại" giúp hai nước chiến thắng trong bất kỳ cuộc
chiến nào.
Thứ ba, Đài Loan gia tăng xu hướng li khai. Năm 2021, xu hướng li khai tại Đài Loan gia tăng nổi bật.
Trong thời nhà lãnh đạo Mã Anh Cửu cầm quyền (2008-2016), xa lộ hòa bình được mở ra giữa Trung
Quốc đại lục và Đài Loan với 19 thỏa thuận song phương; từng có tới 40% hàng hóa của Đài Loan
được xuất sang đại lục. Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi từ khi nhà lãnh đạo Thái Anh Văn lên cầm
quyền đến nay với việc Đài Loan ngày càng tỏ thái độ mạnh mẽ không chịu khuất phục Trung Quốc và
gia tăng xu hướng li khai. Phát biểu trong lễ kỷ niệm quốc khánh Trung Hoa Dân quốc tại Đài Loan
ngày 10/10/2021, bà Thái Anh Văn nêu 4 cam kết với dân chúng Đài Loan: (1) duy trì một hệ thống
hiến pháp tự do và dân chủ, (2) Trung Hoa Dân quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không phục
tùng lẫn nhau, (3) kiên quyết bảo vệ quyền chủ quyền của Đài Loan, (4) tương lai của Trung Hoa Dân
Quốc phải được quyết định theo ý nguyện của người dân Đài Loan[9]. Đài Loan tiếp tục tăng cường
hơn nữa sức mạnh quân sự dựa trên tiềm lực kinh tế. Nếu năm 2021, Đài Loan đầu tư cho ngân sách
quốc phòng gần 16 tỉ USD thì con số này là 16,8 tỉ USD (471,7 tỉ Đài tệ) cho năm 2022, tăng khoảng
5,2% so với năm trước và chiếm khoảng 2,3% GDP của Đài Loan. Đài Loan tăng cường mua sắm vũ
khí, hối thúc Mỹ giao sớm 66 chiến đấu cơ F-16V, hy vọng có được hơn 100 tên lửa tầm xa AGM-158
có khả năng bắn đến lãnh thổ Trung Quốc[10]. Năm 2021 cũng là năm Đài Loan gia tăng chiến lược
phá bỏ “nguyên trạng” trong quan hệ với Trung Quốc với việc nỗ lực củng cố các “văn phòng” đại
diện ở gần 60 thủ đô trên thế giới[11]. Trong khi đó, Mỹ tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan, mời Đài
Loan dự hội nghị các nền dân chủ trong tháng 12/2021; các nhà lập pháp từ Mỹ, Nhật Bản và đảo Đài
Loan đã tổ chức cuộc đối thoại chiến lược lần đầu tiên để thảo luận về đối sách với Trung Quốc ở khu
vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (29/7/2021)[12].
2. Những vấn đề nổi bật về an ninh
Năm 2021 khu vực Đông Bắc Á vẫn là tâm điểm của những chuyển động phức tạp của tình hình an
ninh thế giới. Có thể nêu lên một số vấn đề nổi bật, đáng chú ý sau:
Trước hết là sự gia tăng mức độ căng thẳng trên eo biển Đài Loan. Năm 2021, trong bối cảnh cạnh
tranh đối đầu Trung – Mỹ và xu hướng đòi độc lập của của Đài Loan gia tăng, Trung Quốc nâng mức
uy hiếp Đài Loan bằng các cuộc tập trận và đe dọa không phận.
Năm 2021, căng thẳng ở eo biển Đài Loan gia tăng lên một mức mới không chỉ bởi các cuộc tập trận
nhằm vào Đài Loan của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc mà còn bởi các chiến hạm của Hải
quân Mỹ và đồng minh liên tiếp qua lại. Tính đến tháng 11, Mỹ đã tổ chức 11 chuyến chiến hạm đi qua
eo biển Đài Loan. Đáng chú ý là ngày 23/11/2021, một tàu khu trục của Mỹ đã qua eo biển này ngay
sau cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ-Trung. Trước đó (17/10), tàu khu trục Mỹ và tàu hộ vệ Canada đã cùng
vượt qua nơi đây để khẳng định quyền tự do hàng hải[15].
Thứ hai là Hàn Quốc và Triều Tiên bị cuốn vào vòng xoáy đua vũ trang. Năm 2021, mặc dù Triều
Tiên gặp nhiều khó khăn về kinh tế do tình trạng bị cô lập dưới các đòn trừng phạt của Liên Hợp Quốc
và các biện pháp ngăn ngừa đại dịch COVID-19 song vẫn đạt được những thành tựu mới trong công
nghệ chế tạo vũ khí quân sự. Với các vụ thử tên lửa liên tiếp trong tháng 9 và 10, Triều Tiên đã chứng
tỏ khả năng chế tạo các vũ khí hiện đại mà cộng đồng quốc tế không thể không quan tâm. Triều Tiên
đã chế tạo được tên lửa siêu thanh với tốc độ tối thiểu gấp 5 lần vận tốc âm thanh, tên lửa hành trình và
khả năng phóng tên lửa từ tàu hỏa và tàu ngầm khiến đối phương khó có khả năng chống đỡ[18].
Tháng 11/2021, Triều Tiên đã tổ chức tập trận pháo binh thể hiện năng lực phòng thủ và tấn công của
nước này nếu chiến sự xảy ra. Trên cơ sở những thành tựu công nghệ quân sự, chính sách đối ngoại
của Triều Tiên cũng có những điều chỉnh. Tháng 6/2021, Triều Tiên từ chối đàm phán với Mỹ cho dù
phía Mỹ tuyên bố sẵn sàng ngồi vào bàn đàm phán với nước này về vấn đề hạt nhân vô điều kiện.
Thứ ba là biển Hoa Đông tiếp tục “dậy sóng”. Biển Hoa Đông, nơi có quần đảo Senkaku/Điếu
Ngư đã trở thành tâm điểm căng thẳng trong tranh chấp chủ quyền lãnh hải giữa Trung Quốc và Nhật
Bản trong những thập niên gần đây và ngày càng trở nên quyết liệt. Trung Quốc thường xuyên cử các
tàu hải giám, tàu cá xâm phạm khu vực mà Nhật Bản tuyên bố có chủ quyền quanh quần đảo
Senkaku/Điếu Ngư mà Trung Quốc cũng coi là nước có quyền tài phán. Trong năm 2021, số lượng tàu
thuyền Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Nhật Bản tại biển Hoa Đông tiếp tục gia tăng. Theo tin từ NHK
World, các quan chức cảnh sát biển Nhật Bản cho biết 18 trường hợp tàu chính phủ Trung Quốc tiếp
cận tàu thuyền Nhật Bản đã được xác nhận vào năm 2021, tăng so với 8 trường hợp vào năm 2020 [23].
Nhiều động thái từ phía Trung Quốc và Nhật Bản cho thấy nguy cơ xung đột tại đây ngày càng lớn.
Đáng chú ý là trong năm 2021, Trung Quốc đã tiến tới một bước hình thành thể chế tạo điều kiện
răn đe mạnh hơn. Luật An giao thông hàng hải mới sửa đổi (新修订的海上交通安全法) tháng 9/2021
của Trung Quốc cho phép lực lượng hải cảnh Trung Quốc được phép sử dụng vũ khí chống lại các tàu
nước ngoài mà họ coi là xâm nhập trái phép vào vùng biển của Trung Quốc. Điều này đe dọa đến an
ninh của các vùng biển nơi xảy ra tranh chấp của Trung Quốc với các nước cũng tuyên bố chủ quyền.
Nhật Bản đã có thái độ phản ứng kiên quyết chưa từng thấy trước động thái mới của Trung Quốc. Sách
xanh ngoại giao của Nhật Bản năm 2020 nhận định động thái của Trung Quốc ở Biển Đông và biển
Hoa Đông được coi là "mối quan tâm chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”. Sang năm 2021, Nhật
Bản lần đầu tiên nhận định rằng đây là "mối quan ngại mạnh mẽ về an ninh của khu vực bao gồm Nhật
Bản và cộng đồng quốc tế”. Lần đầu tiên một tàu công vụ Trung Quốc hoạt động xung quanh quần đảo
Senkaku được Nhật Bản đưa vào sách xanh ngoại giao và bị tố là "vi phạm luật pháp quốc tế"[24].
Thứ tư là eo biển của Nhật Bản xuất hiện tình huống an ninh mới. Nói đến an ninh trên các eo biển
Nhật Bản trong năm 2021, trước hết phải kể đến tình huống mới trên eo biển Tsugura (津軽海峡). Đây
là nơi tiếp giáp giữa đảo Hokkaido và đảo Honshu của Nhật Bản, cũng là nơi trọng yếu của biển Nhật
Bản thông ra Thái Bình Dương. Eo biển Tsugura dài khoảng 130 km, chỗ sâu nhất là 450 mét, đoạn
hẹp nhất là 18,7 km giữa doi đất Kameda và Shimokita ở đầu phía đông của eo biển. Dưới đáy biển
phía tây khoảng 140 mét là đường hầm Seikan. Đây là đường hầm được coi là dài nhất thế giới, nối
tuyến đường sắt bắc nam giữa Hokkaido và Honshu.

9. Khu vực Nam Á trong chiến lược ĐCT của Ấn


Độ và TQ
Nam Á gồm 8 nước (Afghanistan, Bănglađét, Butan, Ấn Độ, Manđivơ, Nêpan, Pakistan, Xrilanca), có
vị trí địa - chiến lược rất quan trọng trong khu vực và thế giới.

Trong đó, Ấn Độ có vị thế quốc tế quan trọng; các nước: Pakistan, Afghanistan, Xrilanca là cửa
ngõ giao lưu với thế giới bên ngoài. Những động thái điều chỉnh chiến lược của các nước lớn đối với
khu vực trong thời gian gần đây, khiến giới nghiên cứu và dư luận đặc biệt quan tâm

Sơ lược vị trí địa lý và dân cư khu vực Nam Á : Nam Á là một tiểu vùng của châu Á, nằm giữa
dãy núi Himalaya ở phía Bắc và Ấn Độ Dương và vịnh Bengal ở phía Nam. Nam Á tiếp giáp biển A-
rap, vịnh Bengal và khu vực Tây Nam Á, Trung Á, Đông Á và Đông Nam Á. Diện tích rơi vào khoảng
4 triệu km2, chỉ chiếm khoảng 10% diện tích của Châu Á, nhưng lại có điều kiện về tự nhiên, địa hình
vô cùng phong phú và đa dạng. Khu vực Nam Á lại không phải là khu vực quá nổi trội là có nhiều tài
nguyên thiên nhiên, một số tài nguyên chính của khu vực này có thể kể tên đó chính là than, dầu khí,
khoáng sản, gỗ... Ba hệ thống sông lớn ở Nam Á là Indus, sông Hằng (hay Ganga) và Brahmaputra rất
quan trọng đối với nông nghiệp trong khu vực.
Giá trị địa - chiến lược của khu vực Nam Á : Nam Á nằm trong khu vực “vùng rìa” hay “khu
vực vành đai”, cụ thể là ở rìa phía Nam của lục địa Á – Âu theo như quan điểm của nhà địa – chính trị
Nicholas John Spykman đã đề cập rằng nếu ai có thể khống chế được vùng rìa thì sẽ có thể khống chế
được lục địa Á –Âu, ai khống chế được Á – Âu sẽ xác định vận mệnh thế giới.
Đầu tiên là khu vực này tiếp giáp với vùng Ấn Độ Dương rộng lớn, án ngữ tuyến đường hàng hải quan
trọng trên Ấn Độ Dương. Với vị trí giáp tuyến đường biển quan trọng này, Nam Á hoàn toàn nằm
trong những khu vực quan trọng theo thuyết “quyền lực biển” của Alfred Theyman Manhan. Kiểm soát
được khu vực Nam Á sẽ đem lại lợi ích: kiểm soát con đường trung chuyển quan trọng của thế giới,
vận chuyển dầu từ Trung Đông qua Ấn Độ Dương vào Châu Á.
Thứ hai, các quốc gia trong khu vực Nam Á như Pakistan, Afghanistan có vị trí gần các nước lớn
như Trung Quốc, Ấn Độ và gần với các khu vực quan trọng của Châu Á như Tây Nam Á và Trung Á.
Vì vậy, hai quốc gia này như là cầu nối với hai khu vực tiềm năng về năng lượng. Tiếp cận được với
Pakistan và Afghanistan, nước đó có thể tiếp cận biển Ả Rập, eo biển Hormuz – nút thắt trên con
đường huyết mạch dầu. Thứ ba, phía Đông Nam của khu vực Nam Á còn giáp với vịnh Bengal và khu
vực Đông Nam Á – nơi tiếp giáp với hai đại dương quan trọng là Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương,
gần với eo biển Malacca – một vị trí “yết hầu” trên giao lộ từ Châu Âu, Châu Phi, Nam Á, Trung Đông
đi Đông Nam Á và Đông Á. Thứ tư là khu vực này có hai quốc đảo quan trọng mang tính chiến lược
cao là của Sri Lanka và Maldives. Cả hai đều nằm ở vị trí thuận lợi, là điểm nối Đông Á và Đông Phi,
vị trí cảng thuận lợi trên tuyến đường biển nối liền Đông – Tây và là tuyến đường trung chuyển dầu
quan trọng từ Trung Đông sang Châu Á. Cuối cùng, khu vực này có các nguồn tài nguyên như
Pakistan có nguồn cung cấp khí đốt tự nhiên phong phú, một số loại than chất lượng thấp, dầu mỏ,
quặng sắt và tiềm năng thủy điện, Afghanistan có than đá, quặng sắt, quặng đồng, đá quý, vàng và đặc
biệt là khí đốt tự nhiên và dầu mỏ, Sri Lanka và Maldives có tài nguyên thiên nhiên như đá vôi, than
chì và các khoáng chất khác.... Như vậy, do vị trí chiến lược và sự giàu có tự nhiên, khu vực này đã có
được một vị trí rất quan trọng từ quan điểm địa - chiến lược

Nam Á trong chiến lược địa - chính trị của Ấn Độ:


Ấn Độ là quốc gia rộng lớn, có vị trí trung tâm tại khu vực Nam Á. Việc kiểm soát được khu vực
Nam Á sẽ đem đến cho Ấn Độ những lợi ích chiến lược giúp cho Ấn Độ đạt được mục tiêu “củng cố
được vị trí cường quốc trong khu vực và vươn xa trở thành trung tâm quyền lực của thế giới”. Hiện tại,
Ấn Độ có sự ảnh hưởng đáng kể ở Nepal, Bhutan, Maldives; tích cực giải quyết bất đồng, tranh chấp
với Bangladesh; thúc đẩy tiến trình đàm phán hòa bình với Pakistan; đồng thời, đẩy mạnh hợp tác với
các nước trong khu vực, thông qua các cơ chế hợp tác, như: “Sáng kiến hợp tác kinh tế và kỹ thuật đa
ngành ở vịnh Ben-gan” (BIMSTEC), “Hiệp hội hợp tác các nước khu vực Nam Á” (SAARC), “Hiệp
định khu vực thương mại tự do” (SAFTA), v.v. Ấn Độ không ngừng thực hiện chính sách ngoại giao
tích cực, duy trì ảnh hưởng ở Nam Á, mở rộng ra thị trường Trung Á. Các chính sách hợp tác kinh tế
giữa Ấn Độ và các quốc gia trong khu vực Nam Á ngày càng được đẩy mạnh. Sự hợp tác kinh tế tích
cực không chỉ nhận được nhiều sự quan tâm, đồng thuận từ các nước trong khu vực mà còn giúp nâng
cao vai trò, vị thế của khu vực Nam Á. Các lợi ích chiến lược của Ấn Độ tại một số nước tiêu biểu, có
giá trị chiến lược quan trọng khu vực Nam Á gồm: Lợi ích chiến lược của Ấn Độ tại Pakistan là tiếp
cận dễ dàng với thị trường Trung Á và Trung Đông.
Tiếp cận được Afghanistan, Ấn Độ sẽ có lợi ích chiến lược đối với lĩnh vực thương mại, thuận lợi
để Ấn Độ tiếp cận với Trung Á và Á – Âu thông qua cảng Chabahar. Afghanistan sẽ là cầu nối năng
lượng giúp thực hiện các mục tiêu trong chính sách an ninh năng lượng của Ấn Độ. Tiếp cận được với
Sri Lanka sẽ là bước đệm để Ấn Độ kiểm soát tuyến đường vận chuyển dầu thô từ vùng Trung Đông,
mở rộng thương mại của Ấn Độ khi tiếp cận được với các cảng biển thương mại quan trọng của
Sri Lanka như Colombo, Galle và Trincomalee… Ấn Độ coi Sri Lanka là khu vực tốt để đảm bảo
an ninh cho mình ở Ấn Độ Dương, là nơi quan trọng thiết lập căn cứ hải quân. Lợi ích chiến lược của
Ấn Độ tại Maldives là Ấn Độ có thể tiếp cận được các tuyến trung chuyển dầu từ Tây Á sang Nam Á,
Đông Á và giám sát lưu lượng vận chuyển của tuyến giao thông đường biển (SLOCS).

Mục tiêu chính của Ấn Độ trong khu vực Nam Á là tăng cường quan hệ đối tác và hợp tác với các
quốc gia thành viên. Sự tăng cường này bao gồm các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, an ninh, chính
trị và văn hóa. Đối với Ấn Độ, việc duy trì một khu vực Nam Á ổn định và prospersous là rất quan
trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích và an ninh quốc gia của họ.

+ Để thực hiện chiến lược này, Ấn Độ đã tăng cường giao lưu và hợp tác với các quốc gia trong
khu vực thông qua các cơ chế đa phương như Hiệp hội Hợp tác Vùng Vịnh (SAARC), Bộ Công tác
Bảy Nước Nam Á (BIMSTEC) và Diễn đàn Hợp tác Khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương (IORA). Ngoài
ra, Ấn Độ cũng đã tăng cường quan hệ song phương với từng quốc gia trong khu vực thông qua việc
ký kết các thỏa thuận thương mại, hợp tác an ninh và trợ giúp phát triển.

+ Một ví dụ về sự quan tâm của Ấn Độ đối với khu vực Nam Á là việc xây dựng cầu nối với các
quốc gia đảo Sri Lanka và Maldives. Ấn Độ đã đầu tư vào các dự án hạ tầng như cảng biển, cầu đường
và sân bay để tăng cường quan hệ kinh tế và an ninh với hai quốc gia này. Điều này cũng giúp Ấn Độ
tăng cường tầm ảnh hưởng của mình trong khu vực và cạnh tranh với sự hiện diện của các quốc gia
khác như Trung Quốc.
+ Ấn Độ đã thể hiện một sự quan tâm đáng kể đối với khu vực Nam Á trong chiến lược địa chính
trị của mình. Khu vực Nam Á bao gồm các quốc gia như Sri Lanka, Maldives, Bangladesh, Nepal,
Bhutan và Afghanistan, và nằm ở vị trí chiến lược quan trọng đối với Ấn Độ từ quan điểm chính trị,
kinh tế và an ninh.

Nam Á trong chiến lược địa - chính trị của Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia rộng lớn nằm trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Nam Á là
địa bàn nằm sát khu vực Tây Nam của nước này, nên có tác động trực tiếp đến sự ổn định, an ninh
và phát triển của Bắc Kinh. Vì thế, chiến lược ở Nam Á mà Trung Quốc hướng tới là mở rộng
không gian chiến lược, tranh giành ảnh hưởng và thiết lập vành đai bao vây, kiềm chế Ấn Độ. Việc
duy trì mối quan hệ hợp tác quân sự chặt chẽ và hỗ trợ phát triển kinh tế cho Pakistan luôn được
Trung Quốc ưu tiên, coi trọng. Trung Quốc còn duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các nước: Sri
Lanka, Afghanistan, Bangladesh. Đồng thời, là nước viện trợ và cung cấp vũ khí lớn nhất cho Sri
Lanka kể từ năm 2006 đến nay.
Trung Quốc một mặt xây dựng mối quan hệ vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, trong đó cạnh tranh là
chính với Ấn Độ, vì Trung Quốc cần Ấn Độ trong cuộc đấu tranh vì một thế giới “đa cực”, cải tổ toàn
diện Liên Hợp quốc và chia sẻ điểm đồng với Ấn Độ trong mục tiêu thay đổi cơ cấu kinh tế thế giới và
làm chuyển dịch trung tâm kinh tế từ Tây sang Đông và đối với việc giải quyết các vấn đề toàn cầu như
biến đổi khí hậu, khủng bố, dịch bệnh… Nhưng Trung Quốc không muốn Ấn Độ giành ghế thường
trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, mở rộng và cạnh tranh gay gắt về ảnh hưởng, về năng lượng,
khai thác tài nguyên môi trường tại khu vực. Trung Quốc còn có những bất đồng lớn với Ấn Độ về
kinh tế, biên giới lãnh thổ.
Mặt khác, Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ với các nước Nam Á thông qua hai “gọng kìm” trên đất
liền (phía Tây là Pakítxtan, Ápganítxtan, Giammu và Cátsơmia (Jammu và Kashmir) và phía Đông là
Bănglađét, Xri Lanca…) và “chuỗi ngọc trai” trên Ấn Độ Dương. Theo đó, Trung Quốc thiết lập mối
“quan hệ đặc biệt” với Pakítxtan trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và quốc phòng. Trung Quốc
luôn khẳng định quan hệ với Pakítxtan là quan hệ đồng minh, bạn bè truyền thống “đã qua thử thách
thời gian”, ủng hộ Pakítxtan trong các vấn đề tranh chấp với Ấn Độ, nhất là vấn đề Cátsơmia, duy trì
mối quan hệ hợp tác quân sự chặt chẽ (thường xuyên tập trận chung, là nước cung cấp vũ khí hàng đầu
từ máy bay chiến đấu, tàu chiến, tên lửa hiện đại cho Pakítxtan, đặc biệt giúp đỡ và cung cấp công
nghệ hạt nhân cho Pakítxtan) và hỗ trợ phát triển kinh tế cho Pakítxtan (kim ngạch thương mại năm
2011 đạt 15 tỷ USD).
Mục tiêu hàng đầu của Bắc Kinh là điều chỉnh trật tự an ninh, chính trị tại khu vực Nam Á,
dùng Nam Á làm bàn đạp để tăng vị thế ảnh hưởng lên lục địa Á Âu. Chiến lược “vành đai và con
đường” – BRI đã ra đời, mục tiêu kết nối cả trên đất liền và trên biển. Cùng với đó, chiến lược
“chuỗi ngọc trai” của Trung Quốc cũng đã ra đời nhằm mục đích mở rộng ảnh hưởng ra vùng Ấn
Độ Dương, thiết lập hàng rào bao vây, kiềm chế Ấn Độ. Với mục tiêu chiến lược này, Trung Quốc
từng bước mở rộng quan hệ với các quốc gia tại Nam Á. Các lợi ích chiến lược của Trung Quốc tại
một số nước tiêu biểu, có giá trị chiến lược quan trọng khu vực Nam Á gồm:
Trung Quốc duy trì quan hệ với Pakistan bởi vì nơi đây sẽ đem đến lợi ích chiến lược lớn cho
Trung Quốc trong việc tiếp cận con đường vận chuyển dầu lửa từ Trung Đông mà còn giúp cho
Trung Quốc thực hiện các mục tiêu có lợi về kinh tế, điển hình như tìm kiếm một con đường ra
biển từ phía Tây của Trung Quốc, mục tiêu của Trung Quốc là hướng tới cảng biển Gwadar. Chính
sách của Trung Quốc tại Sri Lanka là tập trung đầu tư dự án cơ sở hạ tầng tại các cảng biển quan
trọng của nơi đây. Trung Quốc thành công trong việc kiểm soát hoạt động thương mại và phát triển
cảng Hambantota.
Với vị trí giáp Vịnh Bengal, Bangladesh có thể đem lợi ích chiến lược cho Trung Quốc là tiếp
cận với các tuyến hàng hải quan trọng ở Ấn Độ Dương, cảng Chittagong có tầm quan trọng lớn
trong chiến lược mở rộng ảnh hưởng, vùng cảng được Trung Quốc quan tâm đầu tư nhằm kiểm
soát các kênh năng lượng hàng hải ở khu vực Ấn Độ Dương; nằm trong chiến lược “chuỗi ngọc
trai” của Trung Quốc, giúp Trung Quốc mở rộng phạm vi quyền lực thông qua phát triển các cảng
tại các nước Nam Á.

Trung Quốc tích cực đẩy mạnh kế hoạch đưa Maldives thành một phần của chiến lược “Sáng kiến con
đường tơ lụa trên biển” (MSRI) của Trung Quốc. Trung Quốc đang tiếp cận Maldives để cho phép mở
căn cứ hải quân Trung Quốc ở cảng Marao nhằm mục đích tạo thành vòng dây bao quanh Ấn Độ từ
Vịnh Bengal đến Biển Ả Rập ngoài giúp cho Trung Quốc bao vây, kiềm chế Ấn Độ còn là mở rộng
ảnh hưởng, kiểm soát Ấn Độ Dương. Vị trí của Maldives còn lợi ích chiến lược về an ninh, Trung
Quốc có thể thu gọn khoảng cách đến căn cứ Diego Garcia của Mỹ, kiềm chế Mỹ

>>>Đối với Trung Quốc, ảnh hưởng lớn hơn ở Nam Á hỗ trợ các mục tiêu chính sách đối nội và
đối ngoại, đặc biệt là bảo vệ quyền tiếp cận thị trường thế giới thông qua các tuyến hàng hải toàn cầu
quan trọng của khu vực Ấn Độ Dương.Hơn nữa, bằng cách sử dụng Sáng kiến Vành đai và Con đường
(BRI) đầy tham vọng, Bắc Kinh đã tăng cường quan hệ ở Nam Á thông qua đầu tư cơ sở hạ tầng và
tăng cường kết nối thông qua đường biển, đường bộ và đường sắt. Điều này cũng hỗ trợ cho tham
vọng của Trung Quốc trong việc xây dựng một “cộng đồng an ninh chung” trong khu vực lân cận.

Hầu hết các nước láng giềng Nam Á của Ấn Độ—ngoại trừ Bhutan—đã tham gia BRI, theo đó đầu tư
của Trung Quốc đã tăng lên đáng kể thông qua quyền lực mềm và quyền lực cứng. Kể từ năm 2018,
Trung Quốc đã cam kết hoặc đầu tư hơn 150 tỷ USD vào các nền kinh tế của Bangladesh, Maldives,
Myanmar, Pakistan, Nepal, Sri Lanka và Afghanistan. Trung Quốc hiện là nhà đầu tư nước ngoài lớn
nhất ở Maldives, Pakistan và Sri Lanka.

Điều này đã khiến Ấn Độ lo ngại rằng Trung Quốc có thể tác động đáng kể đến phạm vi ảnh hưởng
của chính mình và thậm chí bao vây Ấn Độ bằng một 'Chuỗi ngọc trai', tương tự như nỗi sợ hãi của
Bắc Kinh về 'Thế tiến thoái lưỡng nan ở Malacca'.

Việc Trung Quốc thành lập một căn cứ quân sự ở Djibouti và việc chính quyền Sri Lanka cho phép
một tàu giám sát quân sự của Trung Quốc cập cảng Hambantota đã làm trầm trọng thêm những lo ngại
này. Theo quan điểm của Ấn Độ, ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực đã đặt họ
vào thế cạnh tranh, khiến nước này phải xem xét lại chính sách đối ngoại và sự can dự của mình trong
khu vực.
>>>>Cuộc cạnh tranh Trung-Ấn ở Nam Á này diễn ra trong bối cảnh cuộc so kè mang tính hệ thống
giữa Trung Quốc và Mỹ. Môi trường không ổn định này mang lại cho các nước Nam Á nhỏ hơn –
những nước có thể lo ngại về sự bất cân xứng về quyền lực có lợi cho Ấn Độ trong các mối quan hệ
song phương của họ – cơ hội sử dụng các đề nghị từ Trung Quốc để đạt được thỏa thuận tốt hơn với
Ấn Độ và ngược lại.

Tuy nhiên, điều này có nguy cơ khiến họ bị lôi kéo vào các cuộc cạnh tranh địa chính trị khu vực và
toàn cầu, đồng thời có thể dẫn đến áp lực từ mọi phía. Xét cho cùng, như ví dụ về Nepal cho thấy, rất
khó để đạt được một hành động cân bằng. Như hiện tại, bối cảnh địa chính trị của Nam Á đang được
quyết định bởi sự cạnh tranh ngày càng tăng này, và cách thức các cường quốc nhỏ hơn này định
hướng là điều cần được quan tâm nhiều hơn.

Những tác động chính trị - an ninh khu vực


về mục tiêu trong cạnh tranh chiến lược nhưng cả Trung Quốc và Ấn Độ đều coi Nam Á là khu vực
quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình. Đối với Ấn Độ, Nam Á là khu vực ưu tiên chính trị
hàng đầu, là cầu nối để Ấn Độ trở thành một trụ cột trong trật tự tự do và rộng mở ở khu vực Ấn Độ
Dương - Thái Bình Dương. Còn đối với Trung Quốc, Nam Á là khu vực quan trọng trong chiến lược
chuyển đổi trật tự an ninh và chính trị Á - Âu, đồng thời được coi là “bàn đạp” cho mục tiêu trở thành
cường quốc hàng đầu châu Á của Trung Quốc. Thông qua Sáng kiến Vành đai, Con đường (BRI),
Trung Quốc mong muốn đạt được các mục tiêu kinh tế - nền tảng cho việc đạt được các mục tiêu chính
trị của quốc gia này ở Nam Á, từng bước mở rộng ảnh hưởng ra toàn lục địa Á - Âu. Do đó, đối với
Trung Quốc, Nam Á không chỉ là địa bàn cạnh tranh chiến lược với Ấn Độ, mà còn là “sân chơi” để
phục vụ cho chiến lược trở thành cường quốc số một tại khu vực châu Á của Trung Quốc. Chính vì
vậy, hầu hết các quốc gia Nam Á đều tìm cách tối đa hóa lợi ích kinh tế và chính trị khi cạnh tranh giữa
Trung Quốc và Ấn Độ gia tăng ở trong khu vực(1). Hiện nay, không chỉ Maldives và Sri Lanka, mà cả
Bangladesh và Nepal, các đối tác truyền thống của Ấn Độ cũng bắt đầu trạng thái “cân bằng động”
giữa hai cường quốc châu Á. Do sự khác biệt về lợi ích, nên các quốc gia Nam Á có phản ứng và xu
thế chiến lược khác nhau đối với cạnh tranh Trung Quốc - Ấn Độ trong khu vực.

Còn ở Pakistan, dù quan hệ giữa chính quyền Pakistan với Trung Quốc vẫn rất chặt chẽ nhưng các
đảng đối lập của Pakistan có xu hướng sử dụng chiến thuật có mục đích gây rối như biểu tình ngồi tại
các khu vực kinh doanh chính và đường cao tốc để thúc đẩy thay đổi chính trị. Trong khi đó, Mỹ vẫn
cho thấy muốn có ảnh hưởng với quốc gia Nam Á này khi tổ chức đối thoại an ninh song phương và
cam kết giúp Islamabad tái thiết kinh tế.

Dù Ấn Độ khó cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc tại Nam Á, nhất là về kinh tế, nhưng New Delhi
lại có quan hệ lâu đời về văn hóa, chính trị với các nước trong khu vực này. Ngoài ra, Ấn Độ cũng
đang tăng cường hợp tác chiến lược với Mỹ, Nhật Bản trong Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình
Dương. Nhiều chuyên gia nhận định, sự hội tụ về chiến lược của Mỹ, Ấn Độ ở Nam Á đang tăng lên.

Còn với các nước nhỏ, sự cạnh tranh của các cường quốc vừa có lợi vừa tiềm ẩn nhiều rủi ro. Việc chỉ
dựa vào một nước, như trường hợp của Sri Lanka với Trung Quốc, cho thấy không phải là lựa chọn
khôn ngoan. Trong bối cảnh hiện nay, nếu Ấn Độ xử lý tình hình khủng hoảng ở Sri Lanka tốt, New
Delhi có thể giành được thiện cảm của người dân nước này. Trong khi đó, không như các nước láng
giềng, Nepal đến nay chỉ nhận hỗ trợ chứ không vay từ Trung Quốc và coi sự cạnh tranh giữa các “ông
lớn” là cơ hội để phát triển kinh tế.

10. a. Vấn đề hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên trong


chiến lược ĐCT của Mỹ - TQ - Nhật
Bán đảo Triều Tiên có vị trí địa – chiến lược đặc biệt, nằm ở dải trung tâm có ý
nghĩa sống còn của khu vực Đông Bắc Á, một trong những khu vực năng động và
quan trọng nhất về mặt chiến lược của thế giới, nối liền đại lục Âu - Á với Thái Bình
Dương, lại nhô dài ra biển đến hơn 1500 km, nên có đặc trưng chiến lược nổi bật và
luôn là mục tiêu tranh giành ảnh hưởng của các trung tâm quyền lực quốc tế trong suốt
quá trình phát triển của mình. Từ trong lịch sử, bất cứ một nước nào thống trị được bán
đảo Triều Tiên là hầu như có thể đồng thời thống trị được cả khu vực Đông Bắc Á.
Vì vị trí địa - chiến lược, địa - chính trị rất quan trọng của mình, bán đảo Triều
Tiên đã và đang là nơi giao thoa hoặc đụng độ lợi ích địa - chiến lược của Mỹ, Trung
Quốc và Nhật Bản. Họ luôn mong muốn khống chế được, hay chí ít cũng đóng được
một vai trò nào đó đối với bán đảo này

2.1 Địa-chiến lược của Mỹ


Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, CHDCND Triều Tiên nhận được viện trợ về kinh
tế của Liên Xô và Trung Quốc, luôn phải chịu chính sách cấm vận từ Mỹ. Sau khi
chiến tranh lạnh kết thúc, chính sách kinh tế của Mỹ đối với CHDCND Triều Tiên
luôn phụ thuộc vào tình hình phát triển hạt nhân của CHDCND Triều Tiên.
Trong việc thực hiện mục tiêu chiến lược của mình đối với khu vực Đông Bắc Á,
đầu tiên Mỹ đã có những chính sách cụ thể với CHDCND Triều Tiên. Mỹ tiếp tục
công khai tăng cường ảnh hưởng của mình trên bán đảo Triều Tiên, luôn duy trì một
lực lượng quân sự ở Hàn Quốc nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc và Nga,
đồng thời nắm quyền chủ động trong việc cải thiện quan hệ với CHDCND Triều Tiên.
Xuất phát từ những lợi ích về kinh tế, chính trị, quân sự an ninh,… Lập trường cơ bản
của Mỹ trong giải quyết khủng hoảng là phản đối CHDCND Triều Tiên có vũ khí hạt
nhân, duy trì phi hạt nhân hoá trên Bán đảo Triều Tiên, quan tâm vấn đề an ninh của
Triều Tiên, sẵn sàng viện trợ khi cần thiết.
Triều Tiên nằm ở giao điểm lợi ích của một loạt những nước lớn có vị trí địa-
chính trị chiến lược quan trọng. Mỹ mong muốn Triều Tiên mở cửa thị trường, mở cửa
chính trị để chuyển hóa theo quỹ đạo của Mỹ. Đồng thời, cũng phù hợp với vị thế và
mối quan hệ mà Mỹ đã xác lập với đồng minh, đối tác, đối thủ có liên quan đến Triều
Tiên như: Nhật Bản, Nga, Trung Quốc. Sau khi thiết lập mối quan hệ với Trung Quốc,
Mỹ đã nhận ra mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc với những người
cộng sản của Triều Tiên do Kim Nhật Thành lãnh đạo. Sự kết hợp giữa hai lực lượng
này đã tạo cho Mỹ những mối lo ngại về việc triển khai chính sách với Triều Tiên.
Mục tiêu chiến lược của Mỹ ở Bán đảo Triều Tiên là tạo ra môi trường hoà bình, ổn
định, tăng cường vai trò ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực, tạo lợi ích kinh tế,… Đặc
biệt, sau khi George W.Bush lên nắm quyền, chiến lược của Mỹ ngày càng cứng rắn
hơn. Ông cảm thấy, sự thống nhất bán đảo Triều Tiên là nhân tố hàng đầu làm lung lay
vị thế của Mỹ ở khu vực Đông Bắc Á và Thái Bình Dương.
Năm 1992, do nghi ngờ Triều Tiên sản xuất vũ khí hạt nhân, Mỹ, Hàn Quốc,
Nhật Bản cùng với phương Tây gây sức ép đòi thanh tra toàn diện công nghệ hạt nhân
của Triều Tiên. Mỹ và Triều Tiên đã ký thỏa thuận Hiệp định khung 10/1994 tại
Genève giải quyết vấn đề này, với thỏa thuận Mỹ sẽ trang bị lò phản ứng hạt nhân
nước nhẹ 10 vạn KW, cung cấp năng lượng cho Triều Tiên, còn phía Triều Tiên sẽ
phải ngừng chương trình phát triển hạt nhân. Tuy nhiên, từ sau Hiệp định khung 1994,
CHDCND Triều Tiên vẫn tiếp tục phát triển chương trình vũ khí hạt nhân cùng với
cuộc khủng hoảng hạt nhân năm 2002, khiến cho quan hệ hai nước càng trở nên căng
thẳng. Do vậy mà Mỹ vẫn duy trì chính sách cấm vận kinh tế đối với CHDCND Triều
Tiên.
Khi cuộc khủng hoảng hạt nhân xuất hiện có thể gây ra chiến tranh và thiệt hại
nghiêm trọng chính vì vậy có thể giải quyết bằng đàm phán hoà bình là phương pháp
tốt nhất. Tại các cuộc đàm phán, Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, mỗi
nước đều thể hiện ra những mục tiêu khác nhau. Trải quan nhiều lần đàm phán các
quốc gia vẫn không tìm được tiếng nói chung, mãi cho đến vòng đàm phán 6 bên( Mỹ,
CHDCND Triều Tiên, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga) vòng 4 giai đoạn 1:
26/7 - 7/8/2005; giai đoạn 2: 13 - 19/9/2005 đã giải quyết được một vấn đề then chốt
vấn then chốt, “Triều Tiên cam kết từ bỏ tất cả vũ khí hạt nhân và các kế hoạch hạt
nhân hiện thời; Mỹ khẳng định tôn trọng chủ quyền của Triều Tiên, không triển khai
vũ khí hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên và không có ý định tấn công Triều Tiên.”5
Mặc dù vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên đang gây mất ổn định về an
ninh ở khu vực nhưng nó cũng là cơ hội để Mỹ tăng cường sự hiện diện và củng cố vai
trò của mình ở khu vực này. Ổn định tại bán đảo Triều Tiên là lợi ích quốc gia trong
chiến lược tổng thể. Tuy nhiên, cũng dễ dàng nhận thấy rằng nước Triều Tiên thống
nhất có thể làm yếu sức mạnh quân sự của bán đảo này nói riêng và ở châu Á - Thái
Bình Dương nói chung. Vấn đề Mỹ còn lo ngại việc Triều Tiên có thể coi vũ khí hạt
nhân, nguyên liệu và kỹ thuật hạt nhân là hàng hóa để trao đổi và sẽ rất nguy hiểm nếu
rơi vào tay các lực lượng khủng bố..,“ khi CHDCND Triều Tiên có vũ khí hạt nhân, sự
kiện 11/9 cho Washington một bài học rằng chỉ một kẻ khủng bố cực đoan liều chết
cũng đủ làm nước Mỹ thiệt hại về tính mạng con người như một cuộc chiến tranh. Đối
với việc giải quyết khủng hoảng hạt nhân Triều Tiên, ngoài nhu cầu chiến lược quốc
gia, việc tái thiết Iraq thuận lợi hay không, tình hình phát triển của cục diện Trung
Đông, sự phát triển của tình hình chính trị trong nước Mỹ có tác dụng quan trọng đối
với bán đảo Triều Tiên. Mỹ cần thời gian để đảm bảo rằng một Triều Tiên thống
nhất phải đi theo hướng có lợi cho Mỹ, chừng nào chưa đảm bảo được yêu cầu trên,
chắc chắn Mỹ sẽ ngăn cản tiến trình thống nhất Triều Tiên. Vì vậy, Mỹ muốn kéo dài
các cuộc đàm phán với CHDCND Triều Tiên về thiết lập quan hệ.

2.2. Địa - chiến lược Trung Quốc


Liên quan đến Bán đảo Triều Tiên nói chung và vấn đề hạt nhân trên Bán đảo
Triều Tiên nói riêng, có lẽ hơn bất kỳ nước nào khác, Trung Quốc là nước có vai trò
và tác động lớn đối với vấn đề này. Thời gian qua, Trung Quốc đã cung cấp cho Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (CHDCND Triều Tiên) phần lớn nguyên liệu, nhiên
liệu và lương thực. Trung Quốc lo ngại cuộc chiến tranh nổ ra trên Bán đảo Triều Tiên
sẽ làm mất ổn định khu vực này và dòng người tỵ nạn chắc chắn sẽ tới Trung Quốc, sự
thống nhất hai miền Triều Tiên với sự có mặt của quân đội Mỹ ở ngay cửa ngõ của
mình làm Trung Quốc bất an. Trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng hạt nhân trên
Bán đảo Triều Tiên, Trung Quốc chỉ ủng hộ những nỗ lực ngoại giao và khi cần thiết
gây áp lực với CHDCND Triều Tiên để tránh xảy ra những điều tồi tệ nhất có thể xảy
ra.
Cuộc khủng hoảng hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên đã đẩy Trung Quốc vào
tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Một mặt, CHDCND Triều Tiên vẫn là “khu đệm” để
đối phó với sự có mặt của quân đội Mỹ ở Hàn Quốc. Mặt khác, nếu Bán đảo Triều
Tiên tồn tại vũ khí hạt nhân thì không những là mối đe dọa trực tiếp đối với Trung
Quốc mà còn là cớ để Nhật Bản, Hàn Quốc và cả Đài Loan phát triển vũ khí hạt nhân.
Nếu điều này xảy ra thì đó là một tai hoạ lớn đối với Trung Quốc. Hơn nữa, một khi
chiến sự nổ ra trên Bán đảo Triều Tiên thì không loại trừ khả năng các bên tham chiến
sử dụng vũ khí hạt nhân. Trong trường hợp này Trung Quốc rõ ràng cũng không nằm
ngoài phạm vi cuộc chiến
Khủng hoảng hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên được thể hiện qua sự bất đồng
gay gắt giữa CHDCND Triều Tiên và Mỹ về một loạt vấn đề: Từ việc Mỹ không thực
hiện Hiệp định khung năm 1994 và việc CHDCND Triều Tiên rút khỏi Hiệp ước
không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) đến cuộc tranh cãi về hình thức và thành phần
các nước tham gia đàm phán nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng này. Trung Quốc là
nước có nhiều khả năng nhất giải quyết cuộc khủng hoảng và cũng còn đó những điều
để tác động vào CHDCND Triều Tiên. Ngoài những điều cả thế giới biết rõ như việc
Trung Quốc cung cấp dầu và lương thực cho CHDCND Triều Tiên, Trung Quốc còn
một cơ chế tác động bí mật rất hiệu quả là qua mối quan hệ giữa hai chính đảng với
nhau.7
Đối với Trung Quốc, duy trì sự ổn định trên bán đảo Triều Tiên có ý nghĩa
chiến lược về an ninh. Đường biên giới giữa hai nước dài hơn 1.300km, bất kỳ một sự
hỗn loạn nào xảy ra ở Triều Tiên đều có thể ảnh hưởng đến an ninh của Trung Quốc,
nguy cơ dễ thấy nhất là làn sóng người tị nạn từ Triều Tiên sang Trung Quốc nếu xảy
ra xung đột. Bên cạnh đó, các vụ thử hạt nhân của Triều Tiên và những thách thức mà
nó tạo ra cũng khiến giới lãnh đạo Trung Quốc rất quan ngại vì đó có thể trở thành lý
do cho các cuộc can thiệp từ bên ngoài vào khu vực và có thể biến Đông Bắc Á trở
thành địa bàn chạy đua vũ khí hạt nhân - điều đi ngược lại hoàn toàn với lợi ích của
Trung Quốc.
Tuy nhiên, giải quyết vấn đề hạt nhân của Triều Tiên lại là cơ hội để Trung
Quốc thể hiện tầm ảnh hưởng và uy tín của một cường quốc khu vực đối với một trong
những điểm nóng hàng đầu trong bối cảnh cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ ngày càng
căng thẳng. Sự tương đồng về ý thức hệ, sự gần gũi về mặt địa lý, mối liên hệ chặt chẽ
về kinh tế và thương mại hay sự giúp đỡ của Trung Quốc trong lịch sử chiến tranh
Triều Tiên là những nhân tố khiến cho Trung Quốc luôn duy trì được tầm ảnh hưởng
đáng kể đối với giới lãnh đạo Triều Tiên, từ đó chi phối tiến trình phi hạt nhân hóa
Triều Tiên
Chiến lược, sách lược của Trung Quốc đối với vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên
Các tính toán chiến lược và sách lược của Trung Quốc đối với CHDCND Triều Tiên nói chung và vấn
đề hạt nhân nói riêng liên quan đến nhiều nhân tố tương quan. Đó là:
Nhân tố thứ nhất: Sự tồn tại của CHDCND Triều Tiên. Trung Quốc luôn tìm mọi cách để đảm bảo sự
tồn tại của CHDCND Triều Tiên. Bởi lẽ, nếu CHDCND Triều Tiên sụp đổ sẽ có tác động ghê gớm về
kinh tế và nhân đạo đối với Trung Quốc cũng như tác động đối với các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Điều này không có nghĩa là Trung Quốc muốn giữ nguyên trạng chế độ Bình Nhưỡng hiện nay. Để
thực hiện chiến lược “duy trì sự tồn tại của chế độ Bình Nhưỡng”, Trung Quốc phải tăng viện trợ
lương thực và năng lượng để làm giảm bớt những khó khăn cho nhân dân Triều Tiên.
Nhân tố thứ hai: Cải cách, mở cửa ở CHDCND Triều Tiên. Trung Quốc ủng hộ mạnh mẽ cải cách sâu
rộng kinh tế, xã hội ở CHDCND Triều Tiên. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng cải cách tốt sẽ
tăng cường chế độ xã hội chủ nghĩa và làm cho nó thích nghi với thời cuộc. Theo Trung Quốc cải cách
là sự lựa chọn tốt nhất để CHDCND Triều Tiên ngày càng phát triển về mọi mặt.
Nhân tố thứ ba: Tăng cường và duy trì các quan hệ liên tục và mạnh mẽ với Hàn Quốc. Trung Quốc
tăng cường quan hệ với Hàn Quốc chủ yếu về kinh tế. Mối quan hệ này đã trở nên cực kỳ quan trọng
đối với Trung Quốc do hiệu quả kinh tế của nó đưa lại. Trung Quốc luôn luôn là bạn hàng lớn nhất của
Hàn Quốc, còn Hàn Quốc liên tục nằm trong số các nước đầu tư lớn nhất vào Trung Quốc.
Nhân tố thứ tư: Tìm cách duy trì ảnh hưởng chi phối đối với Bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc muốn
duy trì ảnh hưởng chi phối đối với Bán đảo Triều Tiên. Bởi lẽ, mặc dù chưa bao giờ công bố công
khai, nhưng Trung Quốc luôn coi bán đảo này là khu vực ảnh hưởng tự nhiên của họ. Về lâu dài, yếu
tố địa lý sẽ quyết định nhiều đến sự cân bằng sức mạnh ở Đông Bắc Á. Trung Quốc có thể lợi dụng sự
ác cảm của nhân dân Triều Tiên đối với Nhật Bản để giành lợi thế cho họ.
Theo các nhà phân tích của Trung Quốc về Mỹ thì sau khi Bán đảo Triều Tiên thống nhất, liên minh
Mỹ - Hàn Quốc sẽ tự tan rã và quân Mỹ sẽ phải rút khỏi Bán đảo Triều Tiên, vì lúc đó không còn mối
thù địch giữa Nam-Bắc Triều Tiên. Hơn nữa, lúc đó quan hệ giữa Trung Quốc – Triều Tiên thống nhất
sẽ là quan hệ hợp tác và láng giềng tốt nên cũng không còn mối đe doạ từ Trung Quốc để liên minh Mỹ
- Hàn Quốc tồn tại.
Nhân tố thứ năm: Ưu tiên thống nhất kinh tế - xã hội theo từng giai đoạn để Bắc và Nam Triều Tiên
dần tiến tới thống nhất về chính trị, là sự thống nhất từng bước Nam - Bắc Triều Tiên. Trung Quốc
không ủng hộ việc thống nhất vội vã Bán đảo Triều Tiên, vì các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng
thống nhất như vậy sẽ không quản lý được và sẽ có tác động phá hoại. Chiến lược của Trung Quốc đối
với vấn đề thống nhất Bán đảo Triều Tiên là dần từng bước như sau:
- Trao đổi các gia đình, văn hoá, xã hội, học thuật và thể thao.
- Nối các tuyến giao thông trực tiếp kể cả đường sắt qua khu phi quân sự.
- Trao đổi thương mại, đầu tư, viện trợ liên Triều.
- Tăng cường các chương trình trao đổi liên chính phủ hai miền.
- Tăng cường các biện pháp xây dựng lòng tin quân sự ở hai bên khu phi quân sự.
- Các biện pháp xây dựng lòng tin giữa hai bên được tăng cường đến mức thảo luận thống nhất hai
miền.
Nhân tố thứ sáu: CHDCND Triều Tiên hành động có trách nhiệm và không khiêu khích đối với các
vấn đề an ninh từ chương trình vũ khí hạt nhân, việc phổ biến vũ khí giết người hàng loạt và các
phương tiện sử dụng vũ khí đó đến việc triển khai các lực lượng thông thường của CHDCND Triều
Tiên. Mục đích trước mắt của Trung Quốc là xây dựng một nước CHDCND Triều Tiên có trách nhiệm
hơn. Mục đích cuối cùng là Trung Quốc thuyết phục CHDCND Triều Tiên ngừng phổ biến vũ khí giết
người hàng loạt và ngừng phát triển chương trình hạt nhân. Trung Quốc coi đây là vấn đề ưu tiên,
nhưng tuyệt nhiên không có nghĩa là vấn đề hàng đầu trong chương trình nghị sự của Trung Quốc.
Trung Quốc coi các vấn đề này là vấn đề cả gói trong các mục tiêu chính sách rộng lớn hơn. Quan
điểm dài hạn hơn của Trung Quốc đối với CHDCND Triều Tiên vượt xa hơn vấn đề vũ khí giết người
hàng loạt.

2.3. Địa - chiến lược Nhật Bản

Nhật Bản - nước láng giềng của Triều Tiên nhưng lại là đồng minh thân cận của
Mỹ, vấn đề hạt nhân của Triều Tiên là mối đe dọa lớn nhất về mặt an ninh của nước
này. Đây là những địa bàn chịu ảnh hưởng đầu tiên và cũng là nặng nề nhất nếu xung
đột xảy ra. Những vấn đề lịch sử để lại từ Chiến tranh thế giới thứ II và Chiến tranh
Lạnh đã đặt quan hệ giữa Triều Tiên với Nhật Bản luôn trong tình trạng đối đầu cho
đến ngày nay. Do đó, Nhật Bản luôn ở trong trạng thái cảnh báo cao độ trong bối cảnh
diễn ra liên tiếp các vụ thử hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên. 9
Theo dòng thời cuộc, từ tháng 1 năm 1991 việc giao thiệp để đi đến bình
thường hoá quan hệ Nhật-Triều được bắt đầu. Cho đến lúc này, việc tìm hiểu chưa
được chi tiết, song trong các vấn đề trở thành tiêu điểm, chúng tôi xin phân tích vấn đề
hạt nhân làm trung tâm. Trước hết, trong lần thoả thuận bình thường hoá quan hệ lần
thứ 2 thì tuần tự vấn đề cần được giải quyết là: Thứ nhất, vấn đề thanh sát hạt nhân;
Thứ hai, vấn đề trao đổi gọi là quyền yêu cầu bồi thường: Thứ ba, vấn đề mở lại đối
thoại Nam Bắc. Nội dung này được tranh luận công khai trong cuộc họp Quốc hội
Nhật Bản ngày 13 tháng 3. Được biết rằng dù sao thì đây cũng chỉ là bước trao đổi trên
bình diện những nguyên tắc chung, không khí trao đổi hai bên rất tốt, mặt khác về mặt
chủ trương thì lập trường đối lập cũng rất gay gắt. Tuy nhiên, Chính phủ Nhật Bản chủ
trương phải tiếp tục kiềm chế và nhẫn lại một cách chân thành. Cùng với việc đàm
phán với CHDCND Triều Tiên, Nhật Bản cũng tiến hành trao đổi ý kiến về vấn đề
thanh sát hạt nhân này với Liên Xô. Đây là một vấn đề bí mật, nhưng Tổng thống
Gorbachop đã cho rằng Liên Xô cũng có cùng một nỗi lo lắng giống như Nhật Bản.
Nhật Bản có đề nghị Liên Xô thuyết phục CHDCND Triều Tiên chấp nhận thanh sát
hạt nhân và đây không phải là vấn đề gì bí mật. Nếu như vậy thì có thể thấy sự trao đổi
ý kiến ở mức độ cao hơn. Ví dụ, nếu CHDCND Triều Tiên chấp nhận thanh sát hạt
nhân do sức ép từ phía Liên Xô thì Nhật Bản sẽ thực hiện hợp tác kinh tế tích cực với
Liên Xô. Đương thời, Nhật Bản là nước cung cấp viện trợ kinh tế hàng đầu trên thế
giới, Liên Xô cũng kỳ vọng vào sự viện trợ kinh tế từ Nhật Bản rất nhiều. Nếu điều
này là hiện thực thì có thể nói đó là ngoại giao đa phương của Nhật Bản trên cơ sở sử
dụng viện trợ
Trên thực tế thì ngày 30 tháng 3 năm 1991, Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã đề ra
phương châm có tính chất trọng yếu cho việc thực thi chính sách ODA là nước được
việc trợ phải là nước gia nhập NPT. Do cuộc Chiến tranh vùng Vịnh mà thế giới thứ
ba trở thành một vấn đề lớn toàn cầu. Theo đó, Nhật Bản đã dùng phương châm trên
làm nguyên tắc gây áp lực đối với các nước chưa gia nhập NPT để đề phòng việc phát
triển phổ biến hạt nhân và nhằm thúc ép gia nhập NPT. Đó là thời kỳ nổi lên sức ảnh
hưởng của ODA Nhật Bản.
Mặt khác, CHDCND Triều Tiên thì cho rằng, đối với Nhật Bản, vấn đề hạt
nhân về cơ bản chẳng có liên quan gì đến mối bang giao Nhật-Triều cả, nếu có thì chỉ
là vấn đề đối với Mỹ mà thôi. Dù sao Nhật Bản cũng có vẻ như rất lo lắng, rõ ràng là
CHDCND Triều Tiên không thể không có ý định chế tạo vũ khí hạt nhân. CHDCND
Triều Tiên thì chủ trương rằng nếu Nhật Bản nêu vấn đề vũ khí hạt nhân ra thì họ buộc
phải đưa việc vũ khí hạt nhân của Mỹ ở Hàn Quốc thành vấn đề. Lập trường của Chính
phủ Nhật Bản đối với vấn đề này về tình tiết là rất khác nhau trong sự lí giải về
CHDCND Triều Tiên. Luồng ý kiến chủ đạo nhất là trong chừng mực vấn đề thanh sát
hạt nhân đối với CHDCND Triều Tiên chưa được giải quyết thì không thể có quan hệ
ngoại giao bình thường với nước này.
Vấn đề bình thường hoá quan hệ Nhật-Triều đã rơi vào tình trạng đông cứng,
trong đó điểm mấu chốt là vấn đề hạt nhân. Cho đến lúc này nếu nhìn lại thì CHDCND
Triều Tiên bắt đầu tìm kiếm chiến lược sinh tồn trong hoàn cảnh họ bị cô lập ngày một
gia tăng, một mặt thì nỗi bất an từ công cuộc cải tổ để cứu vãn chủ nghĩa xã hội của
Liên Xô, mặt khác thì quan hệ Xô-Hàn đang được cải thiện. Lúc này, chiến lược lựa
chọn của CHDCND Triều Tiên là bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Nhật Bản.
Đến đây, Nhật Bản, trong khi thúc tiến hợp tác Nhật -Triều với mối hoài nghi về vũ
khí hạt nhân, một mặt thì liên kết với Hàn Quốc và Mỹ trong một cộng đồng chiến
tuyến, mặt khác lại bí mật thương thảo yêu cầu Liên Xô để nước này dùng sức ảnh
hưởng ép CHDCND Triều Tiên. Hơn thế nữa, Chính phủ Nhật Bản đã giải quyết vấn
đề hạt nhân trong phạm vi phương châm ODA. Theo cách nhìn của CHDCND Triều
Tiên thì sự thay đổi của hoàn cảnh vẫn tiếp tục diễn ra theo chiều hướng xấu đi. Nói
một cách khác, vào thời gian đó CHDCND Triều Tiên cảm thấy bị hoàn toàn cô lập
với xung quanh trước áp lực gián tiếp của Mỹ, hành vi bất hợp tác của Liên Xô, yêu
cầu đòi thanh sát hạt nhân của Nhật Bản và tính tích cực chủ động của Hàn Quốc dựa
vào sự cách biệt xa với CHDCND Triều Tiên về kinh tế. Tuy vậy, CHDCND Triều
Tiên đã chấp nhận sự thực đó và hướng tới việc thương lượng. Trong giai đoạn này
người ta có thể thấy, Nhật Bản một mặt giữ thái độ hợp tác đối với chiến lược hạt nhân
của Mỹ, đồng thời mặt khác thì hành động theo phương châm của riêng mình. 10
10 Park – Hong Young, 2013. Ứng phó của Nhật Bản đối với vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều
Tiên

Biển Đông trong tư duy ĐCT của TQ và các


b.

nước ĐNA
Tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông
Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ
Dương, Châu Âu - Châu Á, Trung Đông - Châu Á. Năm trong số mười tuyến đường biển thông thương
lớn nhất trên thế giới liên quan đến Biển Đông gồm: tuyến Tây Âu, Bắc Mỹ qua Địa Trung Hải, kênh
đào Xuy-ê, Trung Đông đến Ấn Độ, Đông Á, Úc, Niu Di Lân; tuyến Đông Á đi qua kênh đào Panama
đến bờ Đông Bắc Mỹ và Caribe; tuyến Đông Á đi Úc và Niu Di Lân, Nam Thái Bình Dương; tuyến
Tây Bắc Mỹ đến Đông Á và Đông Nam Á. Đây được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ
hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng từ 150 - 200 tàu các loại qua lại Biển Đông, trong đó có khoảng
50% là tàu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên. Trong khu vực
Đông Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại nhất thế giới là
cảng Singapore và Hồng Công. Thương mại và công nghiệp hàng hải ngày càng gia tăng ở khu vực.
Nhiều nước ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường biển này như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung Quốc. Đây là mạch đường thiết yếu vận
chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản,
Hàn Quốc và Trung Quốc. Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển
và 45% trong số đó phải đi qua vùng Biển Đông.
Lượng dầu lửa và khí hoá lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15 lần lượng chuyên
chở qua kênh đào Panama. Khu vực Biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, với 4
trong 16 con đường chiến lược của thế giới nằm trong khu vực Đông Nam Á (Malacca, Lombok,
Sunda, Ombai - Wetar). Đặc biệt eo biển Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo
biển Hormuz).
Nạn cướp biển và khủng bố trên Biển Đông ở mức cao, đặc biệt sau vụ tấn công khủng bố tự sát vào
tàu chở dầu của Pháp tháng 10 năm 2002. Do đó, vùng biển này hết sức quan trọng đối với tất cả các
nước trong khu vực về địa - chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế, nhất là đối với Mỹ và
Nhật Bản. Biển Đông còn có liên hệ và ảnh hưởng đến khu vực khác, nhất là Trung Đông. Vì vậy, việc
Biển Đông bị một nước hoặc một nhóm nước liên minh nào khống chế sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến
lợi ích an ninh, chính trị, kinh tế của các nước khu vực.
Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất
khẩu của Nhật Bản được vận chuyển qua Biển Đông. Trung Quốc có 29/39 tuyến đường hàng hải và
khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận chuyển bằng
đường biển qua Biển Đông.
Về chiến lược, an ninh: Biển Đông là vùng biển duy nhất nối Thái Bình
Dương và Ấn Độ Dương. Nếu khống chế được các đảo trên Biển Đông một cách
gián tiếp sẽ khống chế được một loạt tuyến hàng hải quốc tế từ eo biển Malacca
đến Nhật Bản, từ Singapore đến Hồng Kông, từ Quảng Đông đến Manila, thậm
chí từ Đông Á đến Tây Á, châu Âu, châu Phi. Đối với Trung Quốc, nếu khống chế
được các đảo ở Biển Đông, sẽ mở rộng không gian phòng vệ thêm hơn 1.000km
tính từ thành phố Tam Á đến bãi Tăng Mẫu, quốc tế gọi là bãi ngầm James, điểm
cực Nam Trung Quốc yêu sách chủ quyền dài hơn 1.600km, đồng thời sẽ mở thêm
được các tuyến đường hàng hải mới để tiến ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương
ngoài tuyến đường đi qua eo biển Malacca, như tuyến qua eo biển Bashi giữa
Philippines và Đài Loan, hay qua eo biển giữa Malaysia với Philippines.
Về hàng hải: Theo đánh giá của phía Trung Quốc, khoảng 80% thương mại
của nước này được thực hiện bằng đường biển và 60% trong số đó đi qua Biển
Đông, có 60% dầu thô tiêu thụ dựa vào nhập khẩu, trong đó 80% đi qua Biển
Đông.(2) Do đó, việc đảm bảo an toàn tuyến đường vận tải qua Biển Đông sẽ quyết
định sự vận hành của nền kinh tế Trung Quốc, nếu khu vực này bị gián đoạn cũng
đồng nghĩa với việc nền kinh tế nước này sẽ ngừng vận hành.
Về kinh tế: Biển Đông có trữ lượng dầu khí, băng cháy, khoáng sản và hải sản
tương đối lớn. Trung Quốc tự cho mình là nước nghèo tài nguyên nên Biển Đông
có giá trị rất lớn về kinh tế. Bộ Tài nguyên và Đất đai Trung Quốc năm 2011 công
bố điều tra địa chất đánh giá, trữ lượng dầu thô tại Biển Đông trong khu vực Trung
Quốc đòi chủ quyền là khoảng từ 23-30 tỷ tấn và khí tự nhiên khoảng 160.000 tỷ
m3 , chiếm 12% trữ lượng dầu khí toàn cầu.(3)
Về quân sự: Biển Đông còn có giá trị to lớn về mặt quân sự đối với Trung
Quốc do vị trí địa lý, diện tích, điều kiện địa hình và khí hậu của khu vực này.
Trong 4 vùng biển có liên quan đến Trung Quốc như Bột Hải, Hoàng Hải, Đông
Hải và Biển Đông, thì Biển Đông là nơi lý tưởng nhất để lực lượng tàu ngầm hạt
nhân, tàu sân bay thực hiện chiến lược của tập kết, huấn luyện, ẩn nấp và tác chiến
liên hợp. Tổng diện tích Bột Hải, Hoàng Hải và Đông Hải chỉ bằng ½ Biển Đông,
Bột Hải có độ sâu trung bình chỉ 18m, Hoàng Hải là 44m, còn Đông Hải sâu hơn
359m, nhưng đây là vùng biển Mỹ và các đồng minh bố trí lực lượng trinh sát hùng
mạnh, nên lực lượng tàu ngầm và tàu sân bay chiến lược của Trung Quốc khó ẩn
nấp, diễn tập, tập kết tác chiến. Trong khi Biển Đông có độ sâu bình quân lên tới
1.212m, sóng to, khí hậu phức tạp, là nơi phù hợp cho lực lượng tàu ngầm mang
tên lửa liên lục địa ẩn nấp và cơ động.
Về xây dựng cường quốc biển: Biển Đông là nơi để Trung Quốc triển khai
thực hiện chiến lược xây dựng cường quốc biển. Năm 2012, Trung Quốc đã lần
đầu tiên đưa ra chiến lược xây dựng cường quốc biển vào báo cáo của Đại hội 18
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đây là sự thay đổi quan trọng về chiến lược phát triển
của Trung Quốc. Vốn tự coi mình là một nước lớn về chính trị, quân sự, văn hóa
trên lục địa, nay Trung Quốc phấn đấu trở thành quốc gia biển chủ yếu trên thế
giới. Trong 4 vùng biển tiếp giáp với Trung Quốc như Bột Hải, Hoàng Hải, Đông
Hải, Biển Đông, thì Biển Đông là nơi phù hợp nhất để triển khai xây dựng cường
quốc biển. Trong buổi học tập lần thứ 8 của Bộ Chính trị Trung Quốc về chủ đề
xây dựng cường quốc biển, Chủ tịch Tập Cận Bình đã nhấn mạnh, xây dựng cường
quốc biển là một bộ phận cấu thành quan trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội
chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, có ý nghĩa trọng đại đối với việc thúc đẩy kinh tế
phát triển lành mạnh, bảo vệ chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển, góp phần
hoàn thành mục tiêu xây dựng xã hội khá giả toàn diện, thực hiện thành công công
cuộc vĩ đại phục hưng Trung Hoa. Cũng tại buổi học tập này, ông Tập Cận Bình đã
nhấn mạnh: Biển có vai trò quan trọng trong cục diện phát triển kinh tế và cải cách
mở cửa, có vị trí nổi bật trong việc bảo vệ chủ quyền, an ninh, lợi ích phát triển, vị
trí quan trọng trong xây dựng văn minh sinh thái, cũng như cạnh tranh chính trị,
kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật quốc tế.(5) Qua đó có thể thấy, vai trò của biển
trong chiến lược phát triển vĩ mô quốc gia của Trung Quốc đã có sự thay đổi to lớn,
được nâng cao lên một tầm cao mới, nhất là vai trò của Biển Đông

Trung Quốc đang mở rộng không gian chiến lược hướng biển để duy trì sự phát triển kinh tế và
bảo đảm an ninh quốc gia. Nghiên cứu chiến lược biển được Trung Quốc đặc biệt quan tâm, nhất là
chiến lược khai thác phát triển Biển Đông. Trung Quốc coi khống chế được Biển Đông tức là khống
chế được cả vùng Đông Nam Á và con đường giao lưu huyết mạch từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ
Dương. Giành được vị thế ở Biển Đông sẽ giúp nước này giành được thế chủ động để vươn ra các
vùng biển khác, đồng thời giúp Trung Quốc tăng cường và mở rộng tầm ảnh hưởng trên nhiều lĩnh vực
đối với các nước trong khu vực. Tháng 4-2014, Viện Nghiên cứu chiến lược phát triển biển thuộc Cục
Hải dương quốc gia Trung Quốc công bố “Báo cáo phát triển chiến lược biển Trung Quốc năm 2014”.
So với các năm trước, “Báo cáo” này đã tăng thêm phần “Xây dựng cường quốc biển”, có những ý
mới, có đột phá, trình bày khá chi tiết về mục tiêu chiến lược xây dựng cường quốc biển, cung cấp tư
liệu chi tiết cho công chúng tìm hiểu tình hình phát triển các chương mục của “Báo cáo” được sắp xếp
chủ yếu dựa vào sự bố trí chiến lược xây dựng cường quốc biển nói trong Báo cáo chính trị tại Đại hội
XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc và các yêu cầu nêu ra trong Báo cáo công tác năm 2013 của chính
phủ, kết hợp sự phát triển chính sách về biển, các sự kiện lớn về biển xảy ra trong năm 2013.
Các nhà phân tích Trung Quốc cho rằng, chiến lược biển phải bảo đảm ba yếu tố:
1- Các lợi ích chung về biển của Trung Quốc;
2- Các lợi ích an ninh quốc gia của Trung Quốc;
3- Xây dựng một “xã hội hòa hợp” về biển, trong đó công nhận sự cạnh tranh toàn cầu trong việc
tiếp cận các nguồn tài nguyên biển đang tăng lên.
Các nhiệm vụ chính về biển của Trung Quốc trong tương lai gồm: bảo vệ nguồn lực về biển của
Trung Quốc đối với “các vùng nước liên quan”; phát triển kinh tế biển; tăng cường việc sử dụng
biển và quản lý các đảo; duy trì môi trường biển; phát triển các ngành công nghiệp biển và khoa
học về biển; nâng cao sự đóng góp của Trung Quốc vào hải dương học toàn cầu. Trong thời
gian gần đây, nhất là từ sau Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 11-2012), Trung
Quốc đã đề ra chiến lược xây dựng cường quốc biển, chính thức đưa vấn đề phát triển biển trở
thành chiến lược phát triển quốc gia, nhấn mạnh việc xây dựng cường quốc biển là sự lựa chọn tất
yếu để bảo vệ lợi ích quốc giavà thực hiện phục hưng dân tộc Trung Hoa. Phương hướng phát triển
này được định vị bằng khái niệm “Chiến lược hải dương xanh” với hàm ý lợi ích quốc gia của
Trung Quốc đã mở rộng ra biển và trở thành cường quốc biển là một bước trên con đường đạt tới
địa vị cường quốc thế giới của Trung Quốc. Xây dựng cường quốc biển mang đặc sắc Trung Quốc
là phần mới tăng thêm trong “Báo cáo” 2014.
Nội dung xây dựng cường quốc biển gồm tư duy lý luận xây dựng cường quốc biển và biện
pháp xây dựng cường quốc biển đặc sắc Trung Quốc. Chỉ có xây dựng được cường quốc biển thì
mới có khả năng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, các quyền lợi trên biển và an ninh nhà nước,
mới có bảo đảm cho sự phát triển kinh tế và xã hội. Nếu như trước đây, Chiến lược biển của Trung
Quốc là “ưu tiên giữ ổn định, chủ yếu là gác lại tranh chấp” thì chiến lược biển từ sau Đại hội
XVIII của Trung Quốc thay đổi theo hướng “chủ động, tích cực” hơn, biểu thị rõ ràng thái độ kiên
quyết không từ bỏ cái mà họ coi là quyền lợi “chính đáng”. Trung Quốc triển khai “chiến lược 3
chữ M” hay “Chiến lược một trục hai cánh” (chiến lược hợp tác tiểu vùng Trung Quốc - ASEAN)
gồm trục Hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) - Xin-ga-po”, cánh một là Hợp tác tiểu vùng
sông Mê-công mở rộng, cánh hai là Hợp tác tiểu vùng vịnh Bắc Bộ mở rộng. Trong khuôn khổ
Hợp tác tiểu vùng vịnh Bắc Bộ mở rộng, Trung Quốc xây dựng Khu kinh tế vịnh Bắc Bộ (Quảng
Tây) như một hạt nhân và nền tảng.Đối với các nước Đông Nam Á, Biển Đông ở vị trí trung tâm
của khu vực.

Đối với tổ chức ASEAN, Biển Đông là chủ đề gắn với xây dựng môi trường hòa bình và ổn định
cho phát triển và phồn vinh của khu vực - một lợi ích hàng đầu của các nước thuộc Hiệp hội Đông Nam
Á. Trong thời gian qua, ASEAN đã thể hiện sự quan tâm đối với vấn đề Biển Đông. Năm 2002,
ASEAN cùng Trung Quốc ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC); tuy sự kiện hội
nghị cấp Bộ trưởng của tổ chức ASEAN (tháng 7 năm 2012) không đưa ra được tuyên bố chung, báo
hiệu việc chia rẽ nội bộ ASEAN về chủ đề Biển Đông, nhưng ngay sau đó, ngoại trưởng các nước
ASEAN đã đồng thuận trở lại và ra Tuyên bố về nguyên tắc 6 điểm về Biển Đông, tạo cơ sở để
đảm bảo các bên liên quan tôn trọng, tuân thủ trong hành xử ở Biển Đông và khẳng định các
hành vi vi phạm những nguyên tắc này sẽ ảnh hưởng tới ASEAN (12). Tháng 5 năm 2014, trước việc
Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981, trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt
Nam, Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN ở thủ đô Naypyitaw, Myanmar, đã ra Tuyên bố chung về tình
hình Biển Đông, bày tỏ quan ngại sâu sắc về cácvụ việc đang diễn ra trên Biển Đông, làm gia tăng tình
hình căng thẳng ở khu vực. Các Bộ trưởng yêu cầu các bên liên quan, trên cơ sở tuân thủ các nguyên
tắc đã được thừa nhận của luật pháp quốc tế và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982; thực hiện
kiềm chế và tránh có các hành động có thể làm phương hại đến hòa bình và ổn định ở khu vực; giải
quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực (13). Ngày 10
tháng 8 năm 2014, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 47 (AMM-47) đã ra Thông cáo
chung về kết quả đạt được của hội nghị, trong đó các Bộ trưởng ngoại giao ASEAN bày tỏ quan ngại
sâu sắc về những diễn biến gần đây làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông và khẳng định lại tầm quan
trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh biển cũng như tự do hàng hải và hàng không ở Biển
Đông(14). Thông cáo chung đã thể hiện “bước tiến” mới của ASEAN đối với vấn đề Biển Đông. Hiện
nay, ASEAN đã sẵn sàng tiến tới ký kết một Bộ quy tắc ứng xử (COC) với Trung Quốc, đóng góp vào
duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực.
Thực tế cho thấy, vấn đề Biển Đông thuộc phạm vi địa - chính trị của Hiệp hội các nước Đông Nam
Á, do đó ASEAN cần chủ động hơn trong việc tham gia giải quyết tranh chấp ở khu vực Biển Đông, qua
đó thể hiện vị trí trung tâm của tổ chức này trong việc duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và khẳng định
vai trò là động lực cho các kiến trúc an ninh ở Châu Á - Thái Bình Dương.
Để phát huy hơn nữa vai trò của tổ chức ASEAN trong giải quyết vấn đề Biển Đông, Việt Nam cần
thể hiện sâu sắc hơn tư cách thành viên chủ động, tích cực và trách nhiệm cao; nhằm góp phần củng cố
đoàn kết, tăng cường quan hệ hữu nghị với các thành viên, giữ vững và phát huy vai trò trung tâm của
ASEAN trong cấu trúc khu vực; củng cố mối quan tâm chung của ASEAN là hòa bình, ổn định, an ninh,
an toàn hàng hải ở Biển Đông; thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC), thúc đẩy sớm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).(14)
Tóm lại, mặc dù không phải là cơ chế để giải quyết xung đột ở Biển Đông, nhưng ASEAN lại có vai
trò quan trọng trong việc thúc đẩy tiến trình quản lý và ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông với mục tiêu
giảm căng thẳng và xây dựng lòng tin. Việc tham gia của ASEAN trong việc giải quyết vấn đề Biển
Đông vừa là trách nhiệm, vừa là lợi ích chiến lược của Hiệp hội. Trong những năm gần đây, ASEAN
ngày càng phát huy vai trò tích cực hơn trong việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông, nhất là việc
ASEAN đẩy mạnh việc đàm phán COC với Trung Quốc cũng như thúc đẩy vấn đề Biển Đông trong
các chương trình nghị sự với các đối tác. Việc tham gia tích cực trong giải quyết vấn đề Biển Đông
cũng góp phần thể hiện khả năng quản lý xung đột nói chung ở khu vực, gia tăng nguồn “tài nguyên
địa - chính trị” và vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực.

Biển Đông trong chiến lược ĐCT của Mỹ - Nhật -


c.

Australia
Mục tiêu cơ bản của Nhật Bản đối với Biển Đông
- Thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Biển Đông: Thực tế cho thấy, Nhật Bản đã đưa
ra lời kêu gọi các bên thực hiện nghiêm quyền tự do hàng hải, hàng không trên
Biển Đông, ủng hộ các nước ASEAN đấu tranh chống sự xâm phạm chủ quyền của
Trung Quốc tại các đảo, bãi đá, thúc đẩy ASEAN hóa, quốc tế hóa sâu rộng vấn
đề Biển Đông trên các diễn đàn song phương và đa phương. Trong những chuyến
thăm đến các nước ASEAN, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đều chủ động thảo
luận các vấn đề tự do hàng hải, hàng không cũng như tình hình an ninh Biển
Đông. Trong quan hệ ngoại giao với một số nước có liên quan đến tranh chấp chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên Biển Đông với Trung Quốc như
Philippines, Việt Nam, Indonesia…, Nhật Bản đều kêu gọi xây dựng mạng lưới
quan hệ với mắt xích là vấn đề biển.
Ngoài các nước ASEAN, trong quan hệ với các nước có chung lợi ích trên
Biển Đông như Australia, Ấn Độ, Anh…, Nhật Bản luôn tìm sự đồng thuận thông
qua việc chia sẻ các giá trị như tự do, dân chủ, pháp chế trên biển. Ngoài quan hệ
song phương, gần như trong mọi diễn đàn quốc tế có thể tận dụng, Nhật Bản đều
cố gắng thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Trong các hội nghị G7, G20, Hội
nghị cấp cao Đông Á - EAS,(5) hội nghị giữa Nhật Bản và các nước châu Á - Thái
Bình Dương, Nhật Bản đưa vấn đề bảo vệ luật quốc tế,(6) bảo vệ tự do hàng hải,
hàng không để đưa tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán ở
Biển Đông vào chương trình hội nghị. Đồng thời lên tiếng yêu cầu các nước liên
quan xác định rõ quyền lợi biển của mình trên cơ sở luật pháp quốc tế, ủng hộ việc
nhanh chóng đề ra Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông - COC, phê phán
hoạt động bồi đắp và xây dựng hạ tầng của Trung Quốc tại một số đảo đá ở quần
(
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Giúp các nước ASEAN đòi quyền lợi, nâng cao năng lực phòng thủ trên
biển: Một mặt, Nhật Bản hỗ trợ trang bị cho các nước liên quan trực tiếp tranh
chấp ở Biển Đông như Việt Nam, Philippines tăng cường khả năng cảnh báo trên
biển của các nước này, xây dựng lực lượng tiền duyên kiềm chế Trung Quốc.(7)
Trong Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á - Đối thoại Shangri-La năm 2014,
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tuyên bố, phải chi viện trên thực tế để Việt Nam,
Philippines, Malaysia xây dựng năng lực quân sự và chấp pháp trên biển. Nhằm
nâng cao khả năng phòng thủ biển của các nước ASEAN, Nhật Bản đã kết hợp các
khoản hỗ trợ như viện trợ phát triển chính thức - ODA, đào tạo nâng cao khả năng
do Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản - JSDF(8) tổ chức, hợp tác về trang bị phòng thủ,
để không ngừng trợ giúp các nước này. 90
Mặt khác, Nhật Bản thông qua các hình thức huấn luyện, diễn tập quân sự
chung với các nước ASEAN để nâng cao khả năng quân sự và chấp pháp trên biển
của các nước này, đồng thời giúp cho quân đội Nhật Bản thông thạo tình hình
thực tế trong khu vực Biển Đông, nhằm thử nghiệm cho việc tuần tra, giám sát
của Nhật Bản tại khu vực biển này. Trong tháng 5 và tháng 6 năm 2015, tàu chiến
của Nhật Bản và Philippines nhiều lần tiến hành diễn tập chung tại vùng biển của
Philippines. Tháng 8 năm 2015, Nhật Bản, Mỹ và Philippines tiến hành diễn tập
cứu trợ nhân đạo tại vịnh Subic. Đối với Việt Nam, tháng 5 năm 2015 đã có 02 máy
bay tuần tra trên biển P-3C của Nhật Bản lần đầu đến Đà Nẵng, tháng 11 năm 2015
Việt Nam và Nhật Bản đã đạt được nhận thức chung về việc tàu chiến của Nhật
Bản có thể cập cảng Cam Ranh. Gần đây nhất, ngày 20/5/2017, tàu khu trục của
Nhật Bản Sazanami 113 với khả năng phòng không, săn ngầm và chống tàu chiến
mặt nước đối phương - đã cập cảng Cam Ranh (Khánh Hòa) tham gia chương trình
Đối tác Thái Bình Dương.
- Giành thế chủ động trong tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, kiềm chế
Trung Quốc trên nhiều phương diện: Nhật Bản và Trung Quốc có tranh chấp lâu
dài ở biển Hoa Đông, đặc biệt là quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Nhật Bản cho rằng,
nếu Trung Quốc kiểm soát được Biển Đông thì sẽ gây ảnh hưởng bất lợi đối với
tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Mục đích chiến lược của Nhật Bản là
hình thành thế phối hợp tác chiến hai cánh Biển Đông và biển Hoa Đông, gây cản
trở cho Trung Quốc trong việc giải quyết tranh chấp trên biển Hoa Đông. Bên cạnh
đó, Nhật Bản cũng mong muốn việc hỗ trợ các nước ASEAN đòi quyền lợi ở Biển
Đông, để đổi lại sự ủng hộ của các nước này đối với Nhật Bản trong vấn đề biển
Hoa Đông. Tạo mối liên kết với các nước Đông Nam Á trong vấn đề tranh chấp
trên biển, Nhật Bản muốn Trung Quốc phải đối phó đồng thời trên cả hai mặt trận
biển Hoa Đông và Biển Đông. Đồng thời đây cũng được cho là hành động kiềm
chế sự trỗi dậy của Trung Quốc trong khu vực và trên thế giới. Nhật Bản muốn
nhân vấn đề Biển Đông, tìm kiếm sự ủng hộ từ các nước ASEAN đòi quyền lợi ở
Biển Đông, đẩy mạnh viện trợ cho các nước này về kinh tế và quân sự, qua đó nâng
cao hơn nữa ảnh hưởng của mình trong khu vực, từng bước gia tăng sự phụ thuộc
chiến lược của các nước vào Nhật Bản, qua đó xây dựng liên minh chiến lược biển
do Nhật Bản dẫn dắt để đối phó với Trung Quốc. Nhật Bản xác định tầm quan
trọng của Biển Đông và thực hiện hợp tác an ninh truyền thống đối với các nước
ASEAN, nhất là các nước xung quanh Biển Đông, chính vì vậy, ngày 01/7/2014,
Chính phủ Nhật Bản thông qua nghị quyết dỡ bỏ những rào cản hiến pháp từng
ngăn quân đội nước này tham chiến ở nước ngoài kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ
2. Động thái này của Nội các Nhật Bản cho phép nước này thực thi quyền phòng
vệ tập thể hoặc hỗ trợ các quốc gia có quan hệ gần gũi khi bị tấn công. Bộ Quốc
phòng Nhật Bản sẵn sàng cử lực lượng hỗ trợ quân đội các nước ASEAN xây dựng
năng lực để có thể kiềm chế việc Trung Quốc không ngừng đẩy mạnh hoạt động
tại Biển Đông.(12)
- Nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam Á:
Một mục tiêu quan trọng của Nhật Bản khi can dự vào vấn đề Biển Đông chính là
tăng cường sự ảnh hưởng của nước này vào khu vực Biển Đông, nâng cao quyền
phát ngôn và khả năng can dự của mình đối với cục diện an ninh khu vực, xây dựng
hình ảnh nước lớn ở khu vực. Những năm qua, cùng với sự đột phá không ngừng
của Nhật Bản đối với hiến pháp hòa bình, đặc biệt là sau khi nới lỏng nguyên tắc
xuất khẩu vũ khí, Nhật Bản đã tích cực bán vũ khí cho các nước Đông Nam Á, một
mặt nâng cao thực lực quân sự của nước này, giúp đối phó với Trung Quốc đang
không ngừng trỗi dậy, mặt khác thông qua việc bán vũ khí, không ngừng củng cố,
nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của Nhật Bản ở khu vực này.
---->>>Về chiến lược, việc Nhật Bản can thiệp vào giải quyết các tranh chấp chủ
quyền ở Biển Đông cũng như can dự ngày càng sâu vào vấn đề này là nhằm kiềm
chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Đông Nam Á là khu vực nằm trong trục “Con
đường Tơ lụa trên biển thế kỷ XXI”, có vai trò quan trọng đối với việc triển khai
xây dựng con đường này cũng như sáng kiến “Một vành đai - Một con đường”
của Trung Quốc. Việc Nhật Bản nêu thuyết về mối đe dọa từ Trung Quốc từ hành
động thực tiễn của Trung Quốc trên Biển Đông và biển Hoa Đông trong các nước
ASEAN sẽ làm giảm lòng tin của các nước này với Trung Quốc, đồng thời có
tác động đến việc phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Trung Quốc -
ASEAN. Trong bối cảnh vùng biển Hoa Đông đang có tranh chấp chủ quyền giữa
Nhật Bản và Trung Quốc ở quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, việc tranh chấp khó đi
đến giải quyết dứt điểm vì hai bên đều khẳng định chủ quyền. Chính vì vậy, Nhật
Bản tăng cường hợp tác với ASEAN, nhất là những nước có liên quan ở Biển Đông
để kiềm chế việc Trung Quốc dùng vũ lực giải quyết các tranh chấp chủ quyền về
biển đảo ở cả hai khu vực biển Hoa Đông và Biển Đông. Mặt khác, Nhật Bản cũng
khẳng định vai trò của mình đối với khu vực Đông Nam Á, thông qua chính sách
viện trợ không hoàn lại các trang thiết bị cho những lực lượng hoạt động trên biển
của các nước thành viên ASEAN, và như vậy Nhật Bản không mong muốn vị trí
của mình bị giảm sút trước sự cạnh tranh của Trung Quốc.

Tầm quan trọng của Biển Đông đối với Mỹ

Có thể nhận thấy Mỹ ngày càng quan tâm nhiều hơn đến tình hình tranh chấp chủ quyền trên Biển
Đông, trước hết là do Mỹ lo ngại về quyền tự do đi lại trên biển và nhu cầu bảo vệ hoạt động kinh
doanh của các công ty năng lượng Mỹ, nói rộng ra là lợi ích kinh tế của Mỹ.

Đối với Mỹ, Biển Đông là một mắt xích quan trọng trong sự điều chỉnh chiến lược từ châu Âu - Đại
Tây Dương sang châu Á - Thái Bình Dương. Là một cường quốc biển có vị trí địa lý được bao bọc bởi
hai đại dương, Mỹ luôn quan tâm đến vai trò của biển và quyền lực biển đối với xây dựng, phát triển
và bảo vệ an ninh đất nước. Các chiến lược gia Mỹ coi việc kiểm soát đại dương có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng và là nhân tố chính trong việc kiểm soát thế giới. Điều này lý giải vì sao từ rất sớm, Mỹ đã
hoạch định chiến lược kiểm soát đại dương, xây dựng lực lượng hải quân hùng hậu nhất thế giới, lấy
đó làm cơ sở để xác lập và mở rộng ảnh hưởng trên tất cả các đại dương. Chính vì vậy, mối quan tâm
đến Biển Đông gần như là điều đương nhiên với Mỹ.
Thứ hai, trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, vùng biển này ngày càng chiếm giữ vị thế quan trọng
trong chiến lược biển, quyền lực biển của Mỹ do Biển Đông tiếp tục là một trong những tuyến đường
biển nhộn nhịp nhất, quan trọng nhất của thế giới nối liền châu Âu với châu Á, Thái Bình Dương với
Ấn Độ Dương. Thứ ba là sự dịch chuyển cán cân quyền lực thế giới từ châu Âu sang châu Á, mà sự
dịch chuyển này lại liên quan trực tiếp đến sự trỗi dậy và ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở
khu vực. Trung Quốc ngày càng trở thành nhân tố chủ chốt đe dọa vị thế siêu cường thế giới duy nhất
của Mỹ.

Như vậy, lợi ích của Mỹ ở Biển Đông bao gồm các loại lợi ích đa dạng về tự do hàng hải, kinh tế,
chính trị, quân sự và an ninh, mà những lợi ích này là không thay đổi. Đông Nam Á cùng các tuyến
đường trên Biển Đông có thể cung cấp cho Mỹ một vị trí dễ dàng tiếp cận về phía Nam lục địa. Kết
hợp với việc tăng cường sự có mặt về quân sự ở Trung Á, liên minh chặt chẽ hơn với Nhật Bản về
quân sự và an ninh ở phía Đông, Đông Nam Á có thể giúp Mỹ tạo thành vành đai chiến lược từ phía
Tây xuống phía Nam và kéo sang phía Đông để bảo vệ lợi ích của Mỹ và các đồng minh ở đây.

Chính sách của Mỹ đối với các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông

Nội dung chính sách và mục tiêu chiến lược

Chính sách Biển Đông của Mỹ được thể hiện trong Tuyên bố Hà Nội của Ngoại trưởng Mỹ Hillary
Clinton tại Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) ngày 24/7/2010. Tuyên bố Hà Nội có thể được hiểu như
một phần của chính sách “tái can dự” hay “nước Mỹ đã trở lại” của chính quyền Obama đối với vấn đề
Biển Đông(1), có thể khái lược thành những điểm sau:

- Mỹ cũng như các quốc gia khác có lợi ích quốc gia trong việc đảm bảo tự do thông thương hàng hải,
quyền tự do tiếp cận các vùng biển chung của châu Á và sự tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển
Đông.

- Mỹ ủng hộ tiến trình đàm phán hòa bình giữa tất cả các bên có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông. Mỹ
phản đối bất kỳ sự sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực bởi bất kỳ bên nào.

- Mỹ không đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông.

- Mỹ sẵn sàng hỗ trợ các sáng kiến và biện pháp xây dựng lòng tin phù hợp với Tuyên bố năm 2002
giữa Trung Quốc và ASEAN về ứng xử giữa các bên ở Biển Đông.

- Các bên có tranh chấp theo đuổi các tuyên bố chủ quyền và các quyền kèm theo đối với vùng biển
phải phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật biển(2).

Như vậy, một mặt, Mỹ vẫn theo đuổi chính sách trung lập, không đứng về bên nào, mặt khác, đang
ngày càng dính líu sâu vào quá trình giải quyết tranh chấp giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam
Á trên Biển Đông.

Chính sách và mục tiêu chiến lược của Mỹ đối với tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông được thể hiện
qua lập trường 4 điểm: 1- Mỹ thúc giục giải pháp tăng cường “hòa bình, thịnh vượng và an ninh” trong
khu vực; 2- Mỹ không đồng tình với việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực để khẳng định yêu sách về chủ
quyền của bất kỳ nhà nước nào ở Biển Đông và coi đây là một vấn đề nghiêm trọng; 3- Mỹ sẵn sàng
giúp đỡ bằng giải pháp hòa bình đối với các yêu sách đó nếu được các bên yêu cầu; 4- Mỹ có lợi ích
chiến lược trong việc duy trì sự an toàn và tự do đối với các tuyến đường giao thông trên Biển Đông và
xem đó là vấn đề cơ bản để không đồng tình về bất kỳ yêu sách về chủ quyền biển của quốc gia nào
không phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982. Theo đó, Mỹ xác
định mục tiêu chiến lược ở Biển Đông là: Một là, không thừa nhận cơ sở pháp lý về các đòi hỏi chủ
quyền đối với Biển Đông của bất kỳ nước nào, bởi sự thừa nhận này sẽ đẩy Mỹ vào thế bất lợi. Hai là,
bảo đảm việc tự do đi lại trên các tuyến đường hàng hải quốc tế, ngăn cản việc giải quyết tranh chấp
chủ quyền ở Biển Đông bằng vũ lực. Điều này giúp Mỹ có tiếng nói và vị trí nhất định trong khu vực.
Ba là, Biển Đông là “lá bài” cần thiết để kiềm chế tham vọng độc chiếm khu vực này của Trung Quốc

Tầm quan trọng của Biển Đông đối với


Australia
Mặc dù không phải là một quốc gia có yêu sách
chủ quyền tại Biển Đông nhưng Australia có
những lợi ích thiết thực tại vùng biển này. Nhìn
chung, những lợi ích của Australia đều xoay quanh
các vấn đề chủ yếu như sau: một là, vị trí địa chiến
lược của Biển Đông đối với Australia; hai là, tầm
quan trọng về địa chính trị của Australia gắn với tư
duy “hướng Á” ngày càng rõ nét của quốc gia này
trong thế kỷ XXI; ba là, mối quan hệ đan xen về
lợi ích và chiến lược của Australia với các quốc gia
châu Á - Thái Bình Dương, trong đó quan hệ giữa
Australia với ASEAN và các cường quốc như Mỹ
và Trung Quốc là quan trọng nhất.
Một là, Australia có lợi ích chiến lược tại Biển
Đông, trong đó các lợi ích về thương mại và an
ninh là những lợi ích có thật, thiết thực và quan
trọng hàng đầu. : Là một trong những tuyến đường giao thông hàng hải quan trọng bậc nhất trên thế
giới, Biển Đông đã trở thành cầu nối điều tiết luồng giao thông Bắc - Nam. Thật vậy, tuyến
đường thương mại chủ yếu của Australia đến các quốc gia Đông Bắc Á đều phải thông qua Biển
Đông1 . Đặc biệt, thương mại trên Biển Đông đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu
của Australia. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) diễn ra tại Brunei Darussalam vào tháng
10/2013, Thủ tướng Australia Tony Abbott cũng nhấn mạnh: “Gần 60% thương mại của Australia là
thông qua Biển Đông, vì thế sự ổn định chiến lược là rất quan trọng”2 . Sự ổn định này sẽ đảm bảo cho
các hoạt động thương mại của Australia qua Biển Đông được thuận lợi.

Hai là, Biển Đông là một bộ phận quan trọng


trong tư duy “hướng Á” của Australia. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến những năm
đầu thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, các quan điểm hướng về châu Á của Australia ngày càng được
thể hiện cụ thể. “Sách trắng về chính sách Thương mại và Đối ngoại” (Australia's Foreign and Trade
Policy White Paper) của Australia với tiêu đề “Advancing the National Interest” (Tăng cường lợi ích
quốc gia) được công bố vào năm 2003 đã thể hiện rõ tư duy đối ngoại của Australia trong thế kỷ XXI:
“Cam kết gắn bó với các quốc gia châu Á là một ưu tiên vĩnh cửu trong chính sách thương mại và đối
ngoại của Australia. Việc can dự này sẽ nhấn mạnh đến những nội dung “Thúc đẩy hợp tác đối phó
với các thách
thức an ninh phi truyền thống trên Biển Đông”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1 (92), 3/2013, tr. 103-
112. chính, bao gồm các liên kết quan trọng về kinh tế
và thương mại, các mối quan hệ ngoại giao và an ninh có giá trị với nhiều quốc gia ở châu Á, và
những kết nối gia tăng giữa người với người. Chính phủ cam kết hợp tác chặt chẽ với tất cả các
đối tác châu Á của Australia trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và những lợi ích chung” 5 .
Đặc biệt, Australia ngày càng nhận thức một cách sâu sắc rằng chỉ có hợp tác toàn diện với các
nước trong khu vực thì Australia mới thể hiện được mình là một quốc gia châu Á - Thái Bình Dương6 .
Để đảm bảo cho các lợi ích quốc gia được toàn
vẹn, việc Australia có nhận thức đúng đắn về quan hệ giữa Australia và các quốc gia Đông Nam Á là
vô cùng quan trọng. Cùng lúc với việc các chuyên gia an ninh hàng hải tại châu Á đã nhấn mạnh an
ninh hàng hải là lĩnh vực rất cần sự hợp tác mạnh mẽ giữa các quốc gia thì việcAustralia cùng chia sẻ
quan điểm tích cực ấy càng quan trọng cho việc đẩy mạnh chính sách “hướng Á”7 .Trong bối cảnh an
ninh Biển Đông đang ngày càng bất ổn thì với vai trò là một cường quốc tầm trung tại khu vực,
Australia có trách nhiệm trong việc thúc đẩy hòa
bình và an ninh tại vùng biển này. Việc Australia
tham gia tích cực vào việc kiến tạo hòa bình tại Đông Nam Á sẽ không chỉ cụ thể hóa tư duy “hướng
Á” mà còn góp phần khẳng định một tư duy đối ngoại mang tính chiến lược đối với một
trong những khu vực năng động nhất trên thế giới.
Ba là, gắn với tư duy “hướng Á”, Biển Đông
cũng là nơi thử thách vị thế “cường quốc tầm
trung” (middle power) của Australia. Tiếp cận từ góc nhìn quan hệ quốc tế, Australia có ba quan hệ
lợi ích tại Biển Đông – và cả ba quan hệ này đều có liên quan mật thiết đến các tranh chấp tại khu vực.
Bốn là, Biển Đông là trọng tâm trong vùng
không gian lợi ích chiến lược của Australia tại khu
vực châu Á - Thái Bình Dương. Mặc dù vị trí địa lý của Australia thuộc về rìa phía Nam của Biển
Đông nhưng sự vận động địa chính trị của Australia lại liên hệ trực tiếp đến Biển Đông.
Australia có vị trí địa lý khá đặc thù: là một hòn đảo, một lục địa và một quốc gia. Nhận định về
tầm quan trọng của Australia, trong một bài diễn văn đọc tại Melbourne năm 1988, cố vấn An ninh
Quốc gia Hoa Kỳ Brzezinski đã mô tả Australia là “trung tâm kiểm soát địa - chiến lược của vùng Thái
Bình Dương”12. Về tổng quan, vị trí địa chính trị của Australia mang nhiều nét tương đồng với Mỹ.
Phân lập từ các mối đe dọa bên ngoài thông qua đường biển, Australia có thể tập trung phát triển vào
bên trong (turn inward). Với vai trò làmột cường quốc tầm trung, Australia có thể mở rộng ảnh hưởng
vào phía Đông của Thái Bình Dương, phía Tây của Ấn Độ Dương hoặc phía Bắc của Biển Đông. Một
Australia phát triển hài hòa với các khu vực xung quanh đòi hỏi việc quản lý tốt các vùng biển xung
quanh quốc gia của mình13 . Vị thế của một cường quốc biển trong tương lai đòi hỏi Australia phải mở
rộng phạm vi và không gian
quyền lực trên biển. Trong đó, hướng sự phát triển của Australia với Biển Đông là một chiến lược hợp
lý hơn so với một Australia hướng nội (an inwardfacing Australia) và bỏ qua vai trò của biển cả và hải
quân. Vùng biển này sẽ đảm bảo cho những lợi ích an ninh nền tảng và sự đảm bảo rằng sự vận động
quan hệ quốc tế tại khu vực không đe dọa đến vấn đề an ninh và phát triển của Australia
Những nỗ lực thúc đẩy hợp tác an ninh của
Australia tại Biển Đông

Australia đã có một số động thái cụ thể trong vấn đề tranh chấp ở Biển Đông. Dưới đây là một số ví
dụ:

1. Việc phê duyệt tuyên bố chung về Biển Đông: Năm 2016, Australia đã tham gia cùng với các nước
thành viên G7 và Liên minh Châu Âu để phê duyệt Tuyên bố chung về Biển Đông. Tuyên bố này nhấn
mạnh quan ngại về việc leo thang căng thẳng, xây dựng đảo nhân tạo và vi phạm UNCLOS trong khu
vực Biển Đông.

2. Tham gia vào các hoạt động tuần tra hàng hải: Australia đã tham gia vào các hoạt động tuần tra hàng
hải trong khu vực Biển Đông nhằm đảm bảo tuân thủ quy tắc hàng hải quốc tế và duy trì an ninh hàng
hải. Ví dụ, Hải quân Australia đã tham gia vào cuộc tuần tra hàng hải trực tuyến (Operation Gateway)
được tổ chức bởi Mạng lưới tuần tra hàng hải quốc tế (Combined Maritime Forces) để giám sát hoạt
động hàng hải đáng ngờ.

3. Đề nghị giải quyết tranh chấp theo pháp quy: Australia đã lên tiếng ủng hộ việc giải quyết tranh
chấp ở Biển Đông theo pháp quy và UNCLOS. Quốc gia này đã kêu gọi các bên liên quan tuân thủ các
quyết định của Tòa Trọng tài Đại học Liên Hợp Quốc (PCA) về tranh chấp giữa Philippines và Trung
Quốc và tham gia vào các cuộc đàm phán và trọng thẩm định theo quy tắc quốc tế.

4. Quan hệ với các đối tác quốc tế: Australia đã tìm kiếm hợp tác với các đối tác quốc tế, như Hoa Kỳ
và Nhật Bản, để tăng cường quan hệ an ninh và hợp tác hàng hải trong khu vực Biển Đông. Các cuộc
tập trận chung và trao đổi thông tin an ninh giữa Australia và các đối tác nước ngoài đã được thực hiện
để tăng cường hiểu biết và phối hợp trong việc duy trì an ninh khu vực.

5. Hợp tác với ASEAN và quốc gia trong khu vực: Australia đã tìm kiếm hợp tác với ASEAN và các
quốc gia trong khu vực Đông Nam Á để đề xuất các giải pháp hòa bình và duy trì ổn định trong khu
vực Biển Đông. Quốc gia này đã tham gia vào các diễn đàn quan trọng như Hội nghị Đông Nam Á về
hòa bình và an ninh (ASEAN Regional Forum) và Hội nghị Xúc tiến Hòa bình và Hợp tác (CICA) để
thảo luận và đàm phán với các bên liên quan.

--->>>Australia Biển Đông là một bộ phận quan trọng trong tư duy “hướng Á” của Australia.
Từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đến nay, các quan điểm hướng về Châu Á của Australia
ngày càng được thể hiện cụ thể. Sách trắng Đối ngoại của Australia được công bố vào tháng
2/2003 đã thể hiện rõ tư duy đối ngoại của Australia trong thế kỷ XXI: “Australia đã coi việc
củng cố quan hệ với các nước Châu Á là mối quan tâm hàng đầu của mình Châu Á vẫn là khu
vực được Australia chú trọng, và tương lai của Australia phụ thuộc vào khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương”. Đặc biệt, Australia hiện nay nhận thức một cách sâu sắc rằng “chỉ có hợp tác toàn
diện với các nước trong khu vực thì Australia mới thể hiện được mình là một quốc gia Châu Á -
Thái Bình Dương”. Trong bối cảnh Biển Đông đang ngày càng bất ổn thì với vai trò là một
trung cường tại khu vực, Australia có trách nhiệm trong việc thúc đẩy hòa bình và an ninh tại
vùng biển này. Việc Australia tham gia tích cực vào việc kiến tạo hòa bình tại Đông Nam Á sẽ
không chỉ cụ thể hóa tư duy “hướng Á” mà còn góp phần khẳng định một tư duy đối ngoại mang
tính chiến lược đối với một trong những khu vực năng động nhất trên thế giới.

Khu vực Trung cận Đông trong chiến lược ĐCT


b.

của Mỹ và LBN
Về vị trí địa lý
Khu vực Trung cộng đồng là vùng tiếp giáp lãnh thổ ba châu lục Á phi âu gồm các nước Đông Bắc
phi và Tây Nam Á. Theo Britannia, khu vực lân cận ngày nay trải dài từ Morocco đến vịnh ả rập và
Iran các nước hồi giáo ngoài khu vực như Tunisia, Algeria, Afghanistan, Pakistan cũng được thuộc vào
khu vực Trung cận Đông do sự gắn bó mật thiết về tôn giáo, văn hóa, và chính trị.
Về địa lý và điều kiện tự nhiên Chạy dài hơn 2.000 dặm từ biển đen ở phía bắc đến ả rập ở phía Nam
và khoảng 1.000 dặm từ đỉnh Trung Hải ở phía tây đến vùng núi của Iran khu vực Trung cận đông nằm
ở vị trí chiến lược cách địa nơi ba châu lục gặp nhau quanh một vùng biển trung gian là địa Trung Hải
của hai đại dương là Đại Tây Dương và ấn Độ Dương. Nơi đây có nguồn khoáng sản dồi dào đặc biệt
là dầu mỏ thứ được mệnh danh là "vàng đen", điều này cũng khiến cho Trung cận Đông liên tục rơi
vào tầm ngắm của các nước cựu thực dân phương Tây và bị cuốn vào cơn bão tranh giành chính trị dẫn
đến nhiều quốc gia nếu không lệ thuộc kinh tế nhờ viện trợ thì sẽ bị tàn phá bởi Nội Chiến, mâu thuẫn
sắc tộc và tôn giáo
Về kinh tế
Nông nghiệp chỉ chiếm phần nhỏ trong nguồn thu tại đây mà công nghiệp là lĩnh
vực chủ đạo như công nghiệp dầu lửa và công nghiệp chế biến dầu ngoài ra cũng có các
ngành khai thác khoáng sản như than, sắt, thủy ngân, magie.
Các quốc gia Trung cận Đông từ lâu đã phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu dầu mỏ
và coi đó là nguồn thu ngân sách chính. Tuy vậy sự bất ổn trên thị trường trong bối cảnh
mất cân bằng giữa nguồn cung và nhu cầu là hồi chuông báo động với hàng loạt quốc
gia đặc biệt là những quốc gia tại vùng vịnh cần phải đa dạng hóa kinh tế giảm sự phụ
dầu mỏ. Với những đặc điểm trên Trung cận Đông như một miếng mồi béo bở mà bất
cứ quốc gia nào đều ham muốn sở hữu và áp đặt sự ảnh hưởng của mình lên đó cũng vì
thế mà chung kết đông luôn tiềm ẩn những nguy cơ căng thẳng và leo thang.
Về vị thế địa chiến lược của khu vực Trung cận Đông.
Trung cận Đông là nơi ba châu lục lớn gặp nhau và hòa nhập quanh một đại dương
và địa Trung Hải nơi có thể nối liền hoặc chia cắt ba đại dương là Đại Tây Dương Ấn
Độ Dương và Thái Bình Dương.
Các nhà chinh phục vĩ đại trong lịch sử thế giới đều có quan niệm chung về ý
nghĩa chiến lược của trung vận Đông. Pierre Đại đế và Napoleon Bonaparte đều đánh
giá ai kiểm soát được Constantinople người đó cai trị được thế giới; Hitler cũng từng
có kế hoạch lớn trong việc kiểm soát để Trung Hải nhưng đã thất bại; trong chiến tranh
lạnh Mỹ và Liên Xô đều coi Trung cận Đông là khu vực sống còn và theo Eisenhower
thì không có vùng nào trên thế giới quan trọng hơn Trung Đông về mặt chiến lược.
Tài nguyên thiên nhiên quan trọng nhất của khu vực là giàu nữa tập trung nhiều ở
các nước phiên dịch Ba tư, khu vực Trung cận Đông chiếm khoảng 41% trữ lượng dầu
của cả thế giới mà Saudi arabia là nước có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới với mỏ dầu
AI - Ghawar được phát hiện năm 1948 với trữ lượng 82 tỉnh vùng đã đưa saudi arabia
lên vị trí hàng đầu trong các nước xuất khẩu dầu lửa.
Do vị trí quân sự, chính trị và nguồn tàu lửa phong phú của mình, chung kết Đông
là khu vực có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng với nhiều nước. Đối với Mỹ tầm quan
trọng của Trung cấp Đông không chỉ là quyền lợi về dầu nữa mà còn là cửa ngõ của địa
Trung Hải vào Châu Phi là chỗ dựa của khối NATO, là vùng không chị liên quan đến
các nước nhỏ ở đây mà có liên quan tới cả tương lai chính trị của Châu Phi. Đối với
Nga, Trung cận Đông nằm ngay đường phía Nam, khu vực có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với an ninh Nga và con đường đi xuống Châu phi, ra ấn Độ Dương.

Về chính sách của Mỹ.


Trung cận Đông từ trước đến nay luôn là trọng tâm trong chính sách đối ngoại
của Mỹ bởi vị trí địa chiến lược quan trọng tiếp giáp với ba châu lục gồm Châu u, Châu
Á và châu phi. Từ thời tổng thống Harry S.Truman năm 1945 và qua nhiều thời kỳ. Với
Mỹ đây còn là nơi án ngữ, ngăn chặn ảnh hưởng của Nga và Trung Quốc sang các khu
vực khác; dựa vào việc nơi đây chiếm tới 65% trữ lượng dầu mỏ toàn cầu Mỹ muốn
nhờ vào đây làm công cụ để kiềm chế các cường quốc và thực hiện kế hoạch lãnh đạo
thế giới của mình.
Mỹ đã thực hiện 5 phiên bản chiến lược và khu vực này:
Phiên bản đầu tiên xây dựng từ những năm 50 của thế kỉ XX dựa theo học thuyết
Eisenhower nhầm lớp khoảng trống chiến lược sau khi thực dân Anh và thực dân Pháp
bắt đầu rút lui dần ảnh hưởng của họ trước sức ép của phong trào giải phóng dân tộc tại
đây.
Phiên bản thứ hai được xây dựng theo học thuyết Nixon những năm đầu của thập
niên 70 nhằm" trung tâm hóa sự hiện diện của Mỹ".
Phiên bản thứ ba được xây dựng và thập niên 80 theo học thuyết Carter nhằm đối
phó với sự hiện diện quân sự của Liên Xô ở Afghanistan.
Phiên bản thứ tư được xây dựng theo học thuyết Reagan nhằm thiết lập chuỗi các
khu vực chiến lược khắp thế giới liên kết với nhau trong đó Trung cận Đông nắm giữ
vị trí hết sức quan trọng.
Phiên bản thứ năm được xây dựng trong những năm đầu của thập niên 90 trên cơ
sở bài học kinh nghiệm từ cuộc "cách mạng nhung" cả làm thay đổi chế độ chính trị ở
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông âu.
Cho tới nay Mỹ đã hiện diện ở hầu hết các khu vực quan trọng như Vịnh Ba tư,
biển đỏ, ấn Độ Dương và địa Trung Hải.

Năm 1945 tổng thống Mỹ franklin Roosevelt đại kiếm một hiệp định hợp tác với
Saudi arabia mà thực chất đó là cuộc trao đổi sự bảo hộ để lấy đi dầu mỏ. Từ đó cho
thấy Hoa Kỳ không bao giờ từ bỏ Trung Đông ngay cả khi phải vẽ ra cái cớ để làm một
cuộc chiến tranh chống Iraq năm 2003, cũng có thể thấy mục đích to lớn của Mỹ tại đây
là dầu mỏ.
Sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001, Washington chủ trương rằng chủ nghĩa khủng
bố đã là kẻ thù số 1 và mượn cớ tiến hành cuộc chiến tranh toàn cầu chống khủng bố để
phân chia thế giới thành hai "phe": "phe" theo Mỹ chống khủng bố và "phe" bao che
của bố.
Lấy cớ 'bảo vệ nhân quyền " và "chống khủng bố" Mỹ bắt đầu "cuộc thập tự chinh"
vào khu vực Trung Đông, 2001 ở Afghanistan và 2003 ở Iraq nhưng lại bị sai lầy, mỹ
tạo những điều kiện thuận lợi về chính trị và kinh tế để các nước này theo hướng dân
chủ và chủ nghĩa tư bản chống lại sự nghiệp của bố tôn giáo và chủ nghĩa dân tộc nhưng
người dân Trung cận đông lại cho đây là một hình thức xâm lược, điều đó làm nảy sinh
tình trạng mâu thuẫn như cuộc xung đột giữa Israel với Palestine và giữa Mỹ với ả rập.
Năm 2009, để đưa Mỹ ra khỏi vũng lầy tại trung đông tổng thống obama đã điều
chỉnh chiến lược sang sử dụng sức mạnh thông minh và ưu tiên là sức mạnh mềm (ngoại
giao phi chính phủ, chính trị và kinh tế) kết hợp với sức mạnh cứng (quân sự).
Cuối năm 2010, sự cộng đồng mới trong quan hệ giữa Mỹ và các nước đại trung
đông diễn ra dưới hình thức biến động chính trị - xã hội bùng phát ở nhiều nước trong
khu vực mang tên "mùa xuân ả rập" ta mở đầu cuộc "cách mạng hoa nhài" ở Tunisia.
Theo tổng thống Obama thì những tác động của mùa xuân ả rập đối với các nước Bắc
phi - trung tâm có giá trị tương tự như sự sụp đổ của bức tường Berlin năm 1989 và sẽ
mở đầu kỷ nguyên mới cho khu vực này.
Đến thời kỳ tổng thống Donald Trump ông thực hiện nhiều chính sách để thực
hiện mục tiêu còn dang dở tại khu vực này bằng cách thay đổi chính thể ở Syria và Iran.
Tổng thống Trump đã quyết định sử dụng quân sự để can thiệp trực tiếp bằng các cuộc
tấn công nhằm vào quân đội Syria vào ngày 13/4/2018, tuy nhiên kế hoạch đã bị phá
sản do Syria được Nga và Iran kiên quyết ủng hộ. Sau đó ông Trump tuyên bố đã đánh
bại được khủng bố và giúp quân khỏi sinh ra chỉ để lại một lực lượng nhỏ để bảo vệ các
mỏ dầu của nước này không rơi vào khủng bố. Mỹ cũng tiến hành tăng cường quan hệ
với các nước Đồng Minh ở Trung Đông như Israel, Ai Cập mục tiêu của Trump là đưa
nước Mỹ vĩ đại trở lại và những chính sách của Mỹ tại Trung Đông thời kỳ này sẽ phát
triển theo xu hướng thực dụng, tối đa hóa lợi ích của Mỹ và đặt lợi ích của Mỹ lên hàng
đầu trong mọi tính toán chiến lược.
Dưới thời tổng thống Mỹ Joe Biden, vào ngày 13/7/2021, ông đã có chuyến công
du đầu tiên tới trung đông đến Israel và sau đó là Palestine hội Đàm với các nhà lãnh
đạo Saudi Arabia và các đồng minh khác tại thành phố Jeddah. Mục tiêu của ông là đạt
được những đột phá mới cho chương trình hạt nhân Iran, thúc đẩy các nước này khai
thác thêm nhiều dầu mỏ và thiết lập quan hệ với Saudi Arabia mà không bị mang tiếng
phớt lờ nguyên tắc nhân quyền.
Trong những năm gần đây Mỹ luôn tìm cách bảo vệ và tăng cường lợi ích của
mình trong bối cảnh cạnh tranh ảnh hưởng tại khu vực này ngày càng quyết liệt, cuộc
chiến điều này khiến cho Trung cận Đông trở thành điểm nóng trong thời gian gần đây.

Về chính sách của Nga.


Trung đông có tầm quan trọng đối với nhà bởi vị trí chiến lược của khu vực này
và quy mô khai thác, giá cả tiêu thụ của nguồn tài nguyên dầu mỏ của Trung cấp Đông
có ảnh hưởng tới thu nhập ngoại tệ của Nga cũng như lợi ích địa chiến lược và lợi ích
kinh tế thương mại của Nga ở Trung Đông.
Chính sách đối ngoại của Nga tại Trung cận Đông phục vụ trên ba mục tiêu đó là:
ngăn ngừa Bắc Kavkaz chống lại Nga; ngăn ngừa sự nổi lên của các lực lượng Sunni
cực đoan tại Trung cộng đồng thù địch với Nga; theo đuổi các lợi ích kinh tế của Nga
tại Trung Đông.
Trước thế kỷ 21 vị trí của Trung cộng đồng trong chính sách đối ngoại của Nga
vẫn còn một nhà nhưng dưới thời tổng thống Nga Putin thì những chính sách liên quan
đến Trung cấp Đông được thể hiện rõ ràng qua các văn bản đối ngoại.
Đầu tiên là "Học thuyết chính sách đối ngoại của Nga" được tổng thống Putin phê
chuẩn ngày 28/6/2000 cùng năm mục lớn: các luận điểm chung, thế giới hiện nay và
chính sách đối ngoại của Nga; những ưu tiên của Nga trong giải quyết các vấn đề toàn
cầu; những ưu tiên khu vực; việc hình thành và thực thi chính sách đối ngoại của Nga.
Trong mục IV vì những ưu tiên khu vực đã xác định sử dụng quy chế là nước đồng
bảo trợ cho tiến trình hòa bình Trung Đông, nghe sẽ tích cực tham gia giải quyết khủng
hoảng, sẽ cố gắng làm ổn định tình hình ở Trung cận Đông kể cả vùng Vịnh; nhiệm vụ
ưu tiên của Nga sẽ là khôi phục và củng cố vị thế của mình đặc biệt là về kinh tế ở khu
vực rất quan trọng đối với lợi ích của Nga. Có thể thấy đây là chính sách gội đầu cho
sự trở lại Trung cận Đông của Nga với các nhiệm vụ ưu tiên khôi phục và củng cố địa
vị của nước này tại trung đông nhất là về kinh tế. Những chính sách trên được thực hiện
xuyên suốt trong hai nhiệm kỳ của tổng thống Putin (2000-2008).
Dưới thời tổng thống Dmitry Medvedev (2008 - 2012) chính sách này cơ bản kế
thừa được hướng cạnh nhà và cụ thể hóa hơn. Trong giai đoạn này văn bản đối ngoại
của Nga mang tên "những định hướng cơ bản chính sách đối ngoại của Liên bang Nga"
được tổng thống Dmitry Medvedev nhấn mạnh rằng chung kết Đông là khu vực có tầm
quan trọng chiến lược đối với lợi ích nước Nga. Nguyên tắc xử lý vấn đề của Nga tại
khu vực này là giải quyết xung đột giữa Israel và các nước ả rập cũng như giải quyết
tình hình chính trị tại Iraq, chương trình hạt nhân của Iran; việc tiếp tục phát triển các
mối quan hệ không chị và ít ra mà còn với thổ nhĩ Kỳ, Saudi arabia, trong khuôn khổ
hợp tác song Phương và đa phương,...
Đến năm 2012 khi ông Putin đã tái đắc cử tổng thống định kỳ thứ ba đã ký một
loạt sắc lệnh trong đó có sắc lệnh số 605 "về các biện pháp thực thi chính sách đối
ngoại của Liên bang Nga" sách luyện thể hiện rõ việc Nga sẽ giải quyết các xung đột
khu vực bằng các biện pháp chính trị và ngoại giao trên cơ sở hành động tập thể của
cộng đồng quốc tế thông qua việc thu hút các bên liên quan và của đàm phán, chấm dứt
bạo lực xuất phát từ bất cứ bên nào và tiến hành đối thoại ở cấp độ quốc gia trên cơ sở
tôn trọng chủ quyền và toàn diện lãnh thổ của các quốc gia, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; qua đoạn nào cũng nêu quan điểm sẽ ủng hộ việc thiết lập ở Trung
Đông các khu vực không có vũ khí sát thương hàng đầu và phương tiện mang ý đó nghĩa
là Nga sẽ không ủng hộ chương trình làm giàu uranium của Iran.
Nga cũng nêu rõ chính sách của mình đối với khu vực này sẽ sử dụng quy chế là
nước đồng bào bảo bảo trợ cho tiến trình hòa bình Trung Đông, ngã sẽ tích cực tham
gia giải quyết khủng hoảng, sẽ cố gắng làm ổn định tình hình ở Trung Đông kể cả vùng
Vịnh; nhiệm vụ ưu tiên của Nga sẽ là khôi phục và củng cố vị thế của mình đặc biệt là
về kinh tế ở khu vực rất quan trọng đối với lợi ích của Nga, nước này cũng sẽ tiếp tục
phát triển các mối quan hệ với Iran.
Đến những năm 2011 trở đi, cuộc chiến tại Iran là nguyên nhân tạo nên cái gọi là
tổ chức nhà nước hồi giáo tự xưng tại Syria kéo theo sự dính líu và can dự của các nước
trong đó có Nga và Mỹ.
Vào ngày 30/11/2016, Nga công bố "học thuyết chính sách đối
ngoại của Liên bang Nga" cho tới thời điểm này đây là văn bản đối ngoại rõ ràng, cụ
thể vào hoàn chỉnh nhất với năm mục tiêu lớn được trình bày chi tiết rõ ràng phù hợp
với tình hình mới. Trong văn bản này Nga cũng thể hiện quan điểm rõ ràng hơn tại khu
vực Trung cận Đông và vai trò của một cường quốc trong xử lý các vấn đề quốc tế. Nga
đưa ra chủ trương khẳng định vị thế cường quốc trong học thuyết chính sách đối ngoại
với chiến lược đúng đắn thông qua trục quan hệ Iran, Israel, Saudi arabia và Nga càng
được củng cố trong việc xử lý các vấn đề khu vực và đảm bảo lợi ích chiến lược.
Qua các chính sách trên cho thấy mục tiêu và nhiệm vụ đối ngoại của Nga tại khu
vực này mang tính nhất quán và xuyên suốt từ năm 2000 đến nay là duy trì, củng cố và
phát triển lợi ích trên nhiều mặt ( chính trị - ngoại giao, kinh tế - thương mại và an ninh)
để thực hiện mục tiêu Nga luôn chủ trương duy trì và phát triển quan hệ hợp tác với các
nước, các lực lượng chính trị ở Trung cận Đông (ngoại trừ chủ nghĩa khủng bố), quan
điểm của Nga khi giải quyết các vấn đề tại khu vực này là phản đối sử dụng vũ lực, ủng
hộ các biện pháp chính trị bà ngoại giao, sử dụng các biện pháp đàm phán, đối thoại để
đảm bảo các lợi ích hợp pháp của các bên và tôn trọng chủ quyền toàn thể lãnh thổ của
các nước. Các chính sách luôn được triển khai tích cực, đặc biệt vào tháng 9/2015, theo
yêu cầu của chính phủ Syria Nga đã can thiệp quân sự và cuộc chiến tại đây và ủng hộ
đồng minh cũng như duy trì mối quan hệ bền vững với nước này.
-->>>Tuy vậy những thành công của Nga tại đây vẫn chưa rõ ràng bởi bức ảnh của Mỹ
tại khu vực này là quá lớn, những kế hoạch của Mỹ triển khai tại trung cận Đông mạnh
mẽ đặt ra thách thức lớn cho nghe trong việc duy trì và phát triển vị thế của mình trong
khu vực. Mối quan hệ của Nga và các nước trung đông chủ chốt như thổ nhĩ Kỳ, ả rập,
UAE và Iran cũng chưa có nền tảng vững chắc được vượt qua những khó khăn cũng
như để tạo dựng được mối quan hệ hợp tác lâu dài, Nga còn thiếu nguồn lực để hiện
thực hóa những chủ trương trước sức ép từ các nước lớn không chỉ Mỹ mà còn là các
nước Châu Á và Châu Âu khác

Nếu năm 2015, dư luận thế giới còn đặt nhiều câu hỏi cho việc Moscow quyết định can dự quân sự
vào Syria, thì đến năm 2019, đặc biệt là đầu năm 2020, tính hiệu quả của nó đã được khẳng định, vị thế
của Nga đang ngày càng được củng cố ở Trung Đông. Đây là thách thức không nhỏ đối với Mỹ trong
cuộc cạnh tranh chiến lược tại khu vực này.

Nga đã theo đuổi một số mục tiêu chính trong khu vực này. Đầu tiên, Nga muốn duy trì và mở rộng sự
hiện diện quân sự và chính trị của mình. Nước này duy trì một số căn cứ quân sự ở khu vực, ví dụ như
căn cứ Hmeimim ở Syria và căn cứ quân sự ở Tajikistan. Bên cạnh đó, Nga đã tăng cường quan hệ
quân sự và an ninh với các đối tác trong khu vực, như Iran và các quốc gia Trung Á.

Thứ hai, Nga đã tìm cách tăng cường quan hệ kinh tế và hợp tác với các quốc gia trong khu vực. Nước
này đã xúc tiến các thỏa thuận thương mại và đầu tư với các quốc gia như Iran, Iraq và các quốc gia
Trung Á. Nga cũng đã tham gia vào các dự án năng lượng lớn như dự án khí đốt Nord Stream 2 và
TurkStream, nhằm mở rộng mạng lưới cung cấp khí đốt của mình đến châu Âu và Trung Đông.

Thứ ba, Nga đã sử dụng khu vực Trung cận Đông để tăng cường tầm ảnh hưởng đối ngoại của mình
trên sân chính trị quốc tế. Nước này đã đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng
ở Syria và đã tổ chức nhiều cuộc đàm phán hòa bình liên quan đến khu vực Trung Đông. Nga cũng đã
tìm cách tạo lòng tin và tăng cường quan hệ đối tác với các quốc gia trong khu vực, nhằm tạo ra một
môi trường thuận lợi để thúc đẩy các mục tiêu chính trị của mình.

11. ĐCT Châu mỹ La tinh và ĐCT của Mỹ


Vị trí địa - chiến lược châu Mỹ Latin
Nằm toàn bộ ở phía Nam Hoa Kỳ và trải dài trên 5 vùng khí hậu khác nhau với nhiều loại địa hình
phức tạp. Ngoại trừ Mexico đang vươn lên thành một cường quốc trong khu vực thì những bất lợi về
địa lý như hoang mạc phía Bắc, núi non nơi hai bờ Đông Tây và rừng rậm phía Nam kiềm hãm khả
năng phát triển về giao thương và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong khu vực. Các thủ đô,
thành phố lớn ở khu vực này cũng tương đối cô lập với nhau.
Mỹ Latinh là một vùng đất rộng lớn với tổng diện tích khoảng 21 triệu km2 giàu tài nguyên thiên
nhiên với điểm nổi bật là nguồn nông sản, lâm sản cũng như khoáng sản. Đây là khu vực với nhiều
quốc gia có vị trí quan trọng trong nền kinh tế thế giới như Brazil (đứng đầu thế giới về sản xuất cà phê
và đường mía), Mexico (đứng thứ 17 thế giới về khai thác bạc và đứng thứ 12 về mặt xuất khẩu dầu
lửa và khí đốt), Chile với ngày sản xuất đồng phát triển, Colombia đồng thời có trữ lượng than khổng
lồ và tiềm năng thủy điện cao. Những lợi thế về kinh tế này khiến cho khu vực Mỹ-Latinh ngày càng
thu hút các quốc gia lớn tiến vào để gây ảnh hưởng ở đây. Điều này đã trở thành một mối lo ngại lớn
đối với Hoa Kỳ.
Từ những năm 2000, vị thế của Trung Quốc trong khu vực này đã gia tăng đáng kể, trở thành một
trong những nhà đầu tư lớn vào nền công nghiệp năng lượng, cơ sở vật chất và công nghệ hàng không
trong khu vực. Trong giai đoạn dịch COVID-19 bùng nổ gần đây, quốc gia này cũng là một đơn vị hỗ
trợ lớn, cung cấp nhiều thiết bị y tế, vắc xin cũng như cho vay mượn. Bên cạnh đó, Nga cũng đã dần
thể hiện mong muốn mở rộng tầm ảnh hưởng trong khu vực này.
Từ năm 2008, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng Ukraine năm 2014, việc mở rộng tầm ảnh hưởng
trong khu vực Mỹ Latinh đã trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại
của Nga. Tuy nhiên, việc nâng cao tầm ảnh hưởng này chú trọng về mặt chính trị hơn là trong vấn đề
kinh tế, đưa đến kết hiệu quả không quá cao so với những năm 1990 và còn nhiều hạn chế. Tương tự
với Trung Quốc và Nga, các quốc gia khác như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Thái Lan cũng đã có những
bước tiến nhỏ vào nền kinh tế của khu vực này.
Địa - chiến lược của Mỹ đối với khu vực Mỹ Latin
Trong quá khứ Chính sách của Hoa Kỳ đối với Mỹ Latinh trong thế kỷ 19 ban đầu tập trung vào
việc loại trừ hoặc hạn chế ảnh hưởng kinh tế và quân sự của các cường quốc Châu Âu, mở rộng lãnh
thổ và khuyến khích thương mại của Mỹ. Những mục tiêu này đã được thể hiện trong Nguyên tắc
Không chuyển nhượng : Hoa Kỳ xác định bất kỳ sự chuyển giao lãnh thổ nào ở trong bán cầu, từ một
cường quốc châu Âu sang một cường quốc châu Âu khác là mối đe dọa hoặc mối đe dọa tiềm ẩn đối
với an ninh và lợi ích quốc gia.
Năm 1823, Mĩ đưa ra học thuyết Monroe - “Châu Mĩ của người châu Mĩ”: Học thuyết Monroe là
một chính sách của Hoa Kỳ được trình bày vào ngày 2, tháng 12 năm 1823 bởi tổng thống Mỹ James
Monroe trước quốc hội. Theo đó những nỗ lực trong tương lai của các nước châu Âu để lập thuộc địa
hay can thiệp vào nội bộ của các nước ở Bắc hay Nam Mỹ sẽ bị xem là những hành động xâm lược, và
như vậy đòi hỏi sự can thiệp của nước Hoa Kỳ.
Trong giai đoạn từ 1898 đến 1918, địa chiến lược của Mỹ được thể hiện qua nhiều chính sách: Mỹ
thực thi Tu chính án Platt đối với Cuba trong giai đoạn này. Cụ thể, sau khi giành thắng lợi trong cuộc
chiến tranh với Tây Ban Nha (1898), Hoa Kỳ biến Cuba trở thànhthuộc địa kiểu mới sau khi Quốc hội
Hoa Kỳ thông qua Tu chính án Platt (1901) gắn vào Hiến pháp Cuba. Trong những năm sau đó, mặc
dù “thừa nhận” sự độc lập của Cuba song Hoa Kỳ đã nhiều lần đem quân chiếm đóng quốc đảo này,
buộc Cuba phải ký “Hiệp ước giữa Hợp chúng quốc và Cuba cho việc thuê các đảo làm trạm tiếp than
và căn cứ hải quân” vào năm 1903, trong đó có vịnh Guantanamo.
Ngoài ra, giới tư bản và ngân hàng Mỹ còn ồ ạt đầu tư vào những lĩnh vực chủ chốt trong nền kinh
tế Cuba như mía đường, đường sắt..., làm cho Cuba ngày càng phụ thuộc chặt chẽ vào Mỹ. Không
những vậy, Mỹ còn thi hành chính sách “Cây gậy lớn” (Big Stick) và “Ngoại giao dollar” (Dollar
Diplomacy). Hoa Kỳ đã nhiều lần vung“Cây gậy lớn” để bảo vệ những lợi ích ở Mỹ Latinh và một số
khu vực khác trên thế giới trước nguy cơ các vùng đất này sẽ rơi vào tay của các cường quốc châu Âu.
Sau khi tổng thống Roosevelt hết nhiệm kỳ thì chính sách “Cây gậy lớn” tiếp tục được thực thi với
hình thức mềm dẻo và khôn ngoan hơn với cái tên “Ngoại giao Dollar” nhằm bành trướng và mở rộng
thị trường cho tư bản Mỹ. Sau giai đoạn này, cụ thể là năm 1933, Tổng thống Mỹ F. Rudơven
(F.D.Roosevelt) đưa ra chính sách "láng giềng thân thiện" mở đầu thời kì thực dân mới ở Mĩ Latin.
Trước bối cảnh nhân dân Mĩ Latinh ngày càng đấu tranh quyết liệt chống sự nô dịch của Hoa Kì và sự
xâm nhập ngày càng tăng của các cường quốc Châu Âu vào Mĩ Latinh, Rudơven tuyên bố từ
bỏ "chính sách cái gậy lớn" và thay bằng chính sách “Láng Giềng Thân Thiện”, xoá bỏ "Điều khoản bổ
sung Plat 1901" đối với Cuba, rút quân đội Hoa Kì khỏi Nicaragoa, kí hiệp ước thương mại tay đôi với
nhiều nước Mĩ Latinh, tuyên bố không can thiệp vào công việc nội bộ và hợp tác giúp đỡ các nước Mĩ
Latin như một "láng giềng thân thiện".
Hiện nay Sau chiến tranh thế giới thứ hai, với ưu thế về kinh tế - quân sự, Mỹ đã tìm đủ mọi cách
để biến khu vực Mỹ La Tinh thành “sân sau” của mình, dựng lên các chế độ độc tài thân Mỹ. Cũng vì
thế, các cuộc đấu tranh chống độc tài thân Mỹ bùng nổ và phát triển. Tiêu biểu là cuộc thắng lợi của
cách mạng Cuba dưới sự lãnh đạo của Fidel Castro. 1/1/1959, chế độ độc tài Batista (được thiết lập với
sự giúp đỡ của Mỹ) đã sụp đổ, nước Cộng hòa Cuba ra đời.
Nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của cách mạng Cuba, tháng 8/1961, Mỹ đề xướng việc tổ chức Liên
minh vì tiến bộ để lôi kéo các nước Mĩ La Tinh. Nhưng từ thập kỉ 60 - 70, phong trào đấu tranh chống
Mỹ và chế độ độc tài thân Mỹ giành độc lập ở khu vực ngày càng phát triển và giành nhiều thắng lợi.
Trong những năm gần đây, khu vực Mỹ Latin diễn ra những thay đổi to lớn chưa từng có trong lịch sử.
Dù đây từng là “sân sau của Mỹ” nhưng chính Mỹ lại gặp nhiều khó khăn và thách thức nhất.
Cụ thể, vai trò và vị thế của Mỹ có phần suy giảm, tạo điều kiện cho các cường quốc khác lan rộng
quyền lực của mình, đặc biệt là Trung Quốc. Khu vực Mỹ Latin đã và đang phải chịu tác động nặng nề
về kinh tế và tài chính sau đại dịch COVID-19 cũng như cuộc xung đột tại Ukraine. Đây là cơ hội cho
Trung Quốc phát huy vai trò nguồn vốn dồi dào của mình trong việc củng cố quan hệ với các nước Mỹ
Latin. Dưới tác động đó, Các nước khu vực Mỹ La-tinh ngày càng có những chính sách độc lập hơn
với Mỹ, giảm sự hiện diện của Mỹ, cũng như các doanh nghiệp, tổ chức và thực thể Mỹ trong khu vực
do sự cạnh tranh từ Trung Quốc. Mỹ đã có những điều chỉnh chính sách cải thiện quan hệ với các nước
trong khu vực trong bối cảnh ảnh hưởng của Trung Quốc ngày càng sâu rộng tại Mỹ La-tinh.
Dự kiếntrong thời gian tới, Mỹ sẽ xem xét các chính sách có thể hạn chế ảnh hưởng của Trung
Quốc tại khu vực Mỹ La-tinh, như các chương trình viện trợ nhằm giúp định vị Mỹ như một đối tác và
láng giềng tốt. Mỹ cũng có thể xem xét mở rộng quyền tiếp cận thị trường Mỹ, loại bỏ các rào cản đối
với các sản phẩm và dịch vụ khu vực trong khi khuyến khích các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào khu vực
Mỹ La-tinh.

b.Vị thế ĐCT kênh đào Panama


Lịch sử hình thành:
Người Pháp đã cố gắng tiến hành xây dựng kênh đào Panama nhưng họ lại không
thành công. Người Mỹ đã xúc tiến công trình này từ người Pháp, sau đó lại tiến xây
dựng hoàn thành công trình. Vào thập niên 1930, người ta nhận thấy việc cấp nước có
thể là vấn đề cho kênh đào; điều này dẫn tới việc xây dựng đập Madden ngang qua sông
Chagres phía trên hồ Gatún. Mỹ chuyển giao lại kênh đào Panama cho chính phủ
Panama.
Cấu trúc kênh đào: Nối liền với Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, đi xuyên qua một trong những
địa điểm hẹp nhất của dải đất Trung Mỹ, nơi thấp nhất của dãy núi chính nối liền Bắc
và Nam Mỹ. Kênh đào được cấu thành bởi các bộ phận chính: Hồ Gatun, đoạn cắt
Culebra (trước đây được gọi là cắt Gaillard) và ba bộ âu tàu: Miraflores và Pedro Miguel
ở phía Thái Bình dương.
Vị trí địa lý:
Kênh đào Panama nằm ở châu Mỹ, thuộc cộng hòa Panama. Tương đương với
vị trí trên bản đồ, Panama có biên giới giáp với Costa Rica về phía Tây, giáp với nước Colombia về
phía Đông Nam, tiếp giáp với biển Caribe về phía Bắc, cuối cùng giáp với Thái Bình Dương về phía
Nam. Kênh đào cắt ngang eo đất Panama và là đường dẫn cho thương mại hàng hải.
Vị thế địa - chính trị:
* Lĩnh vực kinh tế:
Có ý nghĩa rất lớn đối với nền thương mại thế giới, đây là tuyến đường tắt quan
trọng nối Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Việc sử dụng tuyến đường biển đi qua
kênh đào đã tiết kiệm rất nhiều thời gian và chi phí vận chuyển hàng hóa từ châu Âu tới
các bang miền Tây nước Mỹ và từ Đông Á đến đến các bang miền Đông nước Mỹ do
tránh được việc phải đi vòng xuống cực nam châu Mỹ.
Kênh đào Panama đã góp phần thức đẩy kinh tế Mỹ phát triển mạnh mẽ nhờ
dòng thương mại giữa Mỹ và thế giới bên ngoài càng tấp nập hơn. Trước khi có kênh
đào Panama, một chiếc tàu đi từ San Francisco đến New York phải vòng xuống Cape
Horn rồi đi ngược lên mất 13000 miles. Nếu sử dụng kênh đào này, chỉ mất 5200 miles
là đến. Đây chính là lý do các kỹ sư đã nghĩ ra việc xây dựng kênh đào bằng cách xẻ
ngang eo đất của Panama.
Kênh đào Panama là đầu mối giao thông hàng hải xuyên đại dương kết nối với
140 tuyến đường biển khoảng 1700 hải cảng của 160 quốc gia. Ngoài ra, con kênh này
được xem là một dịa điểm du lịch tiềm năng thu hút khách tham quan khi đóng góp
10% GDP của quốc gia này
* Lĩnh vực chính trị - quân sự:
Đối với Mỹ, kênh đào này có ý nghĩa không nhỏ trong lĩnh vực chính trị - quân
sự. Khi Mỹ nắm quyền kiểm soát trên kênh đào và vùng kênh đào, Mỹ đã duy trì ở đây
một sự kiểm soát gắt gao về quân sự. Không chỉ là một nguồn thu lợi nhuận cho Mỹ,
còn có vai trò như một khu tập kết, là vị trí tiền tiêu và cơ sở hậu cần của Mỹ ở khu vực
Tây bán cầu. Nhờ con kênh này, các hạm đội của Mỹ có thể triển khai nhanh chóng lực
lượng của mình để khống chế các khu vực cần thiết. Mỹ đã biến kênh đào thành một
căn cứ quân sự rất quan trọng dùng để uy hiếp Panama và các nước Mỹ latinh.
Bên cạnh các căn cứ quân sự, Mỹ xây dựng trung tâm liên lạc điện tử có khả
năng chỉ huy và kiểm soát hoạt động của lực lượng vũ trang của Mỹ. Tổ chức ít nhất 19
cơ quan tình báo gián điệp phục vụ cho mục tiêu quân sự của Mỹ. Bên cạnh đó, Mỹ còn
xây dựng một lực lượng cảnh sát và một cơ quan an ninh riêng của vùng kênh đài nhằm
quản lý nhà tù, trại giam, theo dõi, giám sát các nhân viên dân sự làm việc trong vùng
kênh. Đồng thời, là nơi Mỹ tàng trữ các vũ khí chiến lược, căn cứ quân sự lớn của Mỹ
ở nước ngoài phục vụ âm mưu đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, khống chế các
nước Trung và Nam Mỹ, chỗ dựa cho các cuộc đảo chính lật đổ các chính phủ tiến bộ
ở Mỹ Latinh. Nhờ kênh đào Panama mà Mỹ giữ được khu vực Mỹ Latinh là sân sau của
Mỹ trước sự nhòm ngó của nước tư bản châu Âu.
Ngoài ra:
Dự án mở rộng và hiện đại hoá Kênh đào Panama được triển khai vào 9/2007
điều đó đã giúp góp phần giúp Panama đang từng bước trở thành một trung tâm logistics
tầm cỡ của châu lục. Là cơ hội tốt để Panama có thể khôi phục lại hình ảnh đất nước,
đặc biệt sau vụ bê bối nghiêm trọng “Hồ sơ Panama” liên quan tới trốn thuế gây chấn
động thế giới trong thời gian gần đây. Thêm nữa, kênh đào mở rộng sẽ giúp Panama có
thể cạnh tranh với kênh đào Suez mới ở Ai Cập, nối Địa Trung Hải với Biển Đỏ.

12. a. Phân tích ĐCT Châu Phi (trang 198)


Vị thế địa chính trị của quốc gia – là vị trí và vai trò của quốc gia trong hệ thống địa chính trị các
nước khu vực cũng như hệ thống địa chính trị toàn cầu. Vị thế địa chính trị được xác định bằng tiềm
lực chính trị, kinh tế, quân sự, dân số và mặt bằng trí thức. Vị trí địa chính trị quốc gia còn chịu ảnh
hưởng của những cửa khẩu mở ra biển lớn, cấp độ phát triển của hệ thống giao thông, sự hiện diện và
tình trạng của các nguồn tàinguyên thiên nhiên, độ dài của biên giới trên đất liền, trên không và trên
biển, điều kiện khí hậu, thủy văn môi trường, cấp độ các mối quan hệ quốc tế.
• Lãnh thổ và vị trí địa lý: Châu Phi là châu lục đứng thứ hai trên thế giới về dân số (sau
châu Á), với 1.438.066.094 người, chiếm 17,92% dân số thế giới; tổng diện tích là 29.661.703 km2.
Châu Phi có nhiều tiềm năng về phát triển năng lượng tái tạo, tài nguyên, khoáng sản, đất đai, nguồn
lao động,... Các loại khoáng sản có trữ lượng lớn là vàng, kim cương, uran, đồng, photpho, dầu mỏ.
Vàng tập trung nhiều nhất ở Cộng hòa Nam Phi, Namibia, Zimbabwe, Gana, Tandania, Kenia. Kim
cương ở Nam Phi, Namibia, Angola và Daia. Vùng Trung Phi có nhiều mỏ đa kim, trong đó có đồng,
thiếc, kẽm, coban, uran và vonfram. Vùng núi Atlat ở Bắc Phi có các mỏ đa kim, coban, molypden, chì
và kẽm.
Dầu mỏ tập trung nhiều ở các nước Bắc Phi (Algieria, Libya, Ai Cập), ngoài ra còn có ở Nigieria,
Congo, Angola, Mozambique, Tandania. Than đá tập trung ở Nam Phi, Daia, Madagaxca.
Khu vực Nam Sahara có tiềm năng lớn cho phát triển năng lượng tái tạo, nhất là năng lượng mặt
trời. Diện tích đất chưa sử dụng ở châu Phi lớn nhất thế giới. Theo số liệu của Tổ chức Nông Lương
Liên Hợp quốc (FAO), diện tích đất trồng của châu lục này là khoảng 1 tỷ ha, trong khi diện tích đất
nông nghiệp hiện nay được sử dụng mới chỉ là 210 triệu ha; có khoảng 600 triệu ha đất có thể canh tác
đang bị bỏ hoang, chiếm khoảng 60% diện tích canh tác của toàn thế giới. Đất châu Phi thích hợp cho
sản xuất cacao, cafe, cọ dầu và cây lương thực (lúa mì, ngô...).
• Khả năng sinh tồn và phát triển, thành phần quan trọng là tình trạng dân số: Cùng với tỷ lệ
gia tăng dân số nhanh và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao ở nhiều quốc gia trong khu vực, châu Phi đang
trở thành lục địa có tốc độ đô thị hóa nhanh nhất trên thế giới. Đến năm 2050, dân số của châu Phi dự
kiến sẽ tăng gấp đôi, với 80% sự gia tăng này diễn ra ở các thành phố, đưa tổng số người dân thành thị
của lục địa này lên đến hơn 1,3 tỷ người, chiếm một phần tư dân số thế giới với lực lượng lao động trẻ
lớn nhất thế giới.
• Khả năng đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng quốc tế: Hình ảnh châu Phi với chiến
tranh, xung đột và nghèo đói thường trực đã dần nhường chỗ cho những cơ hội đầu tư của các nước lớn
như Trung Quốc, Nga, Liên minh châu Âu (EU) và Mỹ. Tuy vậy, khát vọng phát triển kinh tế của các
quốc gia châu Phi cũng bị gắn với những toan tính chính trị của các cường quốc. Với lợi thế địa chiến
lược cùng tiềm năng dồi dào đang được khai thác hiệu quả, châu Phi từng bước thay đổi diện mạo; từ
lục địa hoang sơ, lạc hậu, kém phát triển trở thành khu vực đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng có
vị trí, vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của các nước lớn. Nhiều chuyên gia dự báo, thế kỷ
XXI là thế kỷ của một châu Phi “chuyển mình” và lục địa này sẽ đóng vai trò quan trọng hơn trong cán
cân quyền lực toàn cầu, là nơi cạnh tranh ảnh hưởng gay gắt giữa các cường quốc.

Mỹ quyết tâm giành lại “ngôi vương” ở châu Phi


Kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc, trong chiến lược toàn cầu, các đời tổng thống Mỹ đều đưa ra
chiến lược riêng đối với châu Phi: dưới thời Tổng thống Bill Clinton là “Đạo luật tăng trưởng và cơ hội
cho châu Phi”; thời Tổng thống George Bush là “Sáng kiến thành lập Bộ Chỉ huy Quân đội Mỹ ở châu
Phi”; còn đối với Tổng thống Donald Trump là “Chiến lược thúc đẩy thịnh vượng, an ninh và ổn định
cho châu Phi”. Tuy nhiên, các chiến lược này chưa đủ cơ sở để tạo dựng niềm tin mạnh mẽ, bền vững
cũng như tầm ảnh hưởng đủ mạnh đối với các nước châu Phi. Với quyết tâm giành lại vị thế độc tôn tại
châu Phi, cũng giống như những người tiền nhiệm, Tổng thống Joe Biden cho triển khai “Chiến lược
châu Phi thịnh vượng” nhằm mục tiêu: xây dựng tại “lục địa đen” một xã hội mở và dân chủ; thúc đẩy
phục hồi và phát triển kinh tế sau đại dịch; hỗ trợ bảo tồn thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu và
chuyển đổi năng lượng xanh, v.v.
Theo các nhà nghiên cứu quốc tế, cho dù Chính quyền của Tổng thống Joe Biden khẳng định sự
quan tâm đặc biệt cũng như cam kết can dự mạnh mẽ và bền vững đối với châu Phi thì vị thế độc tôn
của Mỹ tại khu vực này đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi hai đối thủ lớn là Nga và Trung Quốc. Minh
chứng rõ nét là kim ngạch thương mại Mỹ - châu Phi năm 2021 chỉ đạt 58 tỉ USD, trong khi kim ngạch
thương mại Trung Quốc - châu Phi lại cao gấp 04 lần với 254 tỉ USD. Chính vì vậy, tầm ảnh hưởng
của Mỹ đối với lục địa này như thế nào vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.
2. Châu Phi - đối tác quan trọng hàng đầu của Trung Quốc
Trung Quốc: Trung Quốc đã tăng cường sự hiện diện và ảnh hưởng chính trị tại châu Phi thông
qua việc đầu tư hậu cần, xây dựng cơ sở hạ tầng và cung cấp viện trợ kinh tế cho nhiều quốc gia
trên khắp châu lục. Trung Quốc đã đẩy mạnh các dự án hạ tầng quan trọng như Quỹ Cơ sở hạ tầng
Trung Quốc-Châu Phi (China-Africa Infrastructure Fund) và Chiến lược "Một Con Đường, Một
Con Sông" (Belt and Road Initiative) để tăng cường quan hệ kinh tế và chính trị với châu Phi. Điều
này đã tạo ra sự cạnh tranh với các quốc gia phương Tây và có tác động đến sự cân bằng quyền lực
và ảnh hưởng chính trị trong khu vực.
Để xây dựng hành lang kinh tế kết nối với Nam Á, Trung Đông, châu Phi và Địa Trung Hải
qua Ấn Độ Dương, Trung Quốc xác định châu Phi là “mắt xích” quan trọng trong Dự án “Con
đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” (trong Sáng kiến Vành đai và con đường).
Theo đó, những năm gần đây, nước này đầu tư xây dựng một loạt cơ sở hạ tầng tại các khu vực
quan trọng, gồm: đường ống dẫn dầu, đường bộ, đường sắt, sân bay, cảng biển,... tạo vành đai kết
nối với các trọng điểm kinh tế châu Phi. Trung Quốc cũng hỗ trợ tài chính, kỹ thuật giúp các
quốc gia châu Phi phát triển công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng hạ tầng giao thông, công
nghệ thông tin, viễn thông (5G), khai thác, chế biến khoáng sản, v.v.
Khi đại dịch Covid-19 bùng phát, Trung Quốc là quốc gia cung cấp miễn phí vaccine, vật tư y tế
sớm nhất và lớn nhất với trị giá lên đến hàng tỉ USD cho châu Phi; tăng cường viện trợ không hoàn
lại, cho vay lãi suất thấp, gia hạn hoặc xóa nợ để các nước châu Phi phục hồi kinh tế sau đại dịch.
Đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Trung Quốc coi trọng hợp tác với các nước châu Phi, nâng
cao khả năng phối hợp đối phó với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống, bảo vệ
an ninh, ổn định khu vực.
Các nhà phân tích quốc tế cho rằng, vị thế và vai trò ảnh hưởng của Trung Quốc ở châu Phi ngày
một gia tăng; bởi, khác với Mỹ trong quan hệ với lục địa này, Trung Quốc đề cao phương châm
hợp tác: “bình đẳng, thiết thực, hiệu quả, cùng có lợi”; viện trợ kinh tế không gắn với các đòi hỏi
về “dân chủ”, “nhân quyền”. Chính điều đó giúp Trung Quốc được nhiều quốc gia châu Phi nhìn
với con mắt “thiện cảm” hơn và lãnh đạo các nước châu Phi cũng coi Trung Quốc là bạn hàng, đối
tác quan trọng hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội. Kể từ năm 2010 đến nay, Trung Quốc là
đối tác thương mại lớn nhất của châu Phi và hiện có hơn 50 quốc gia là thành viên hoặc là đối tác
của Sáng kiến “Vành đai và con đường”
3. Châu Phi - đối tác truyền thống, thân thiện của Nga
Trong chính sách đối ngoại của mình, Nga luôn coi châu Phi là khu vực có vị trí
quan trọng đối với an ninh, lợi ích và sự phát triển của quốc gia. Trước bối cảnh quan
hệ với Mỹ, NATO và các nước phương Tây đang ở mức xấu nhất, Nga hiện rất chú
trọng phát triển quan hệ với châu Phi, nhằm tạo đối trọng và làm thất bại mưu đồ của
Mỹ và các nước phương Tây bao vây, cấm vận chống phá Nga về kinh tế, chính trị, an
ninh, đối ngoại. Nền tảng quan hệ hợp tác giữa Nga với châu Phi dựa trên quan hệ hữu
nghị truyền thống có được từ thời Liên Xô (trước đây) và quan hệ hữu nghị, thân thiện
hiện nay. Mới đây, lãnh đạo Nga tuyên bố sẽ cung cấp miễn phí hàng trăm nghìn tấn
phân bón giúp các quốc gia châu Phi phát triển nông nghiệp. Ở chiều ngược lại, các
nước châu Phi cũng tích cực ủng hộ Nga đấu tranh chống chủ nghĩa bá quyền, chính trị
cường quyền, phản đối chính sách thù địch chống Nga của Mỹ và phương Tây.

Đặc biệt, Nga đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ chính phủ Syria trong cuộc xung đột
nội chiến và đảm bảo sự ảnh hưởng chính trị của mình trong khu vực Trung Đông. Sự cạnh tranh địa
chính trị giữa Nga và các nước khác đã tạo ra tác động đến sự ổn định chính trị và an ninh trong khu
vực châu Phi.
4. Tác động đến khu vực
Các nước lớn, nhất là các cường quốc hàng đầu thế giới đã, đang lấy kinh tế làm
“mũi nhọn” trong triển khai chiến lược cạnh tranh ảnh hưởng tại châu Phi, mở ra cho
lục địa này cơ hội hòa nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu, mở rộng thị trường, gia tăng
cán cân thương mại. Đồng thời cũng giúp các nước đang phát triển, kém phát triển tranh
thủ lợi thế nguồn lực từ bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh.
Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi đó, cạnh tranh ảnh hưởng giữa các
cường quốc cũng sẽ khiến các nước châu Phi đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức,
thậm chí rủi ro, như: bong bóng kinh tế; trở thành thị trường tiêu thụ hàng hóa; nguy cơ
ô nhiễm, hủy hoại môi trường; bản sắc văn hóa bị phai nhạt; phân hóa giàu nghèo, mâu
thuẫn xã hội gia tăng, v.v. Đặc biệt, trong bối cảnh Mỹ xác định Nga, Trung Quốc là
“mối đe dọa an ninh” hàng đầu, thì các chiến lược, biện pháp đối phó của các bên có
nguy cơ đẩy châu Phi vào cuộc “chiến tranh lạnh mới” vô cùng nguy hiểm.
Dư luận quốc tế cho rằng, hợp tác và cạnh tranh giữa các quốc gia, hội nhập khu
vực và quốc tế là quy luật tất yếu trong xu thế toàn cầu hóa và là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của các quốc gia. Bởi vậy, các quốc
gia, nhất là các cường quốc cần hợp tác và cạnh tranh bình đẳng, cùng phát triển, không
vì lợi ích và mưu đồ riêng mà biến cạnh tranh trở thành tranh chấp, đối đầu, gây tổn hại
cho an ninh, ổn định và phát triển khu vực châu Phi nói riêng và toàn cầu nói chung.
Hiện châu Phi cũng là “điểm sáng” thu hút các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), nhất là những nền kinh tế hàng đầu, trung tâm kinh tế, tài chính lớn của khu vực
và thế giới.
Từ năm 2008 đến nay, tổng số vốn và các dự án FDI đầu tư vào châu Phi
đều tăng; trong đó, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực mà các quốc gia châu Phi có lợi thế,
như: sản xuất và dịch vụ; khai thác dầu mỏ, khí đốt; khai thác nguyên liệu quý hiếm
phục vụ phát triển vi điện tử, công nghệ thông tin, sinh học, di truyền, v.v. Bên cạnh đó,
chính sách thúc đẩy hội nhập thế giới cùng với việc thay đổi khung pháp lý cũng tạo
điều kiện thuận lợi cho các nước châu Phi thực hiện chiến lược hướng ngoại; đồng thời,
tạo “đòn bẩy” khuyến khích, thu hút ngày càng nhiều các quốc gia phát triển, tổ chức
quốc tế lớn đầu tư nhiều hơn nữa vào lục địa này.

b.Vị thế ĐCT kênh đào Xuy-ê


Lịch sử hình thành:
Từ thời Ai Cập cổ đại, tiến hành xây dựng kênh đào đầu tiên vào khoảng năm
1985 Trước Công Nguyên nhằm mục đích kết nối vùng Biển Đỏ với sông Nile, phục
vụ giao thông bằng những con thuyền đáy bằng đẩy sào và cho phép việc giao thương
giữa Biển Đỏ và Địa Trung Hải. Nhưng khi con kênh này đi vào hoạt động mãi cho đến
năm 767 Sau Công Nguyên thì kênh đào bị đóng cửa vĩnh viễn vì lý do chiến lược trong
một cuộc nổi loạn.
Từ thời Ai Cập cổ đại cho đến vùng đất Ai Cập ngày nay đã thành công xây dựng
2 hệ thống kênh đào nhân tạo nhằm mở đường lưu thông cho nền kinh tế Ai Cập được
thông thương quốc tế. Nếu kênh đào Suez ngày nay liên kết trực tiếp giữa Biển Đỏ với
biển Địa Trung Hải thì kênh đào dưới triều đại các Pharaohs, được cho là tiền thân của
kênh đào Suez, đóng vai trò kết nối dòng sông Nile trong lòng Ai Cập với Biển Đỏ.
Bản kế hoạch chính thức để xây dựng kênh đào Suez bắt đầu vào năm 1854 trong
bối cảnh công cuộc cạnh tranh mở rộng thuộc địa của các đế quốc. Mặc dù quá trình thi
công kênh đào vấp phải xung đột chính trị trường kỳ giữa hai đế quốc Anh – Pháp và
sự cố kỹ thuật xảy ra nhưng cuối cùng kênh đào cũng được hoàn thành ngày 17 tháng
11 năm 1869.
Vào năm 1888 một hội nghị ở Constantinopolis đã tuyên bố kênh đào là một khu
vực trung lập và yêu cầu quân đội Anh bảo vệ kênh đào trong suốt cuộc nội chiến ở Ai
Cập. Sau đó căn cứ vào hiệp ước với Ai Cập năm 1936 Anh đã đòi quyền kiểm soát
kênh đào.
Sau Thế chiến II, Ai Cập thúc ép việc rút quân đội Anh ra khỏi khu vực Kênh
đào Suez, và vào tháng 7 năm 1956, Tổng thống Nasser đã quốc hữu hóa con kênh
Kể từ sau khi Kênh đào Suez thuộc chủ quyền của Ai Cập thì Kênh đào đã có
hai lần phải tạm dừng hoạt động vì lý do xung đột vũ trang.
Năm 1975, Tổng thống Ai Cập Anwar el-Sadat mở cửa Kênh đào Suez trở lại
như một cử chỉ hòa bình sau các cuộc hòa đàm với Israel.
Vị trí địa lý:
Đặc biệt, khi kênh đào Suez được xây dựng tại vị trí án ngữ còn đóng vai trò nổi
bật trong thương mại đường biển cũng như lợi ích kinh tế, quân sự từ vùng án ngữ này.
Kênh đào Suez không sử dụng hệ thống âu tàu bởi vì mực nước giữa biển Địa
Trung Hải với biển Đỏ là ngang bằng nhau. Mặt khác, kênh đào này không trực tiếp xây
Suezn eo đất Suez mà thay vào đó, người Ai Cập biết tận dụng nguồn nước ở các hồ
chứa trong kênh đào.
Kênh đào Suez là một trong những kênh giao thông nhân tạo quan trọng nhất thế
giới bởi nó mang trong mình đặc điểm địa lí của vùng đất “án ngữ” mà thiên nhiên ưu
ái dành cho Ai Cập nói chung và Châu Phi nói riêng.
Vị trí án ngữ dùng để đề cập đến các địa điểm hạn chế khả năng lưu thông và
không thể dễ dàng băng qua. Đặc biệt, khi kênh đào Suez được xây dựng tại vị trí án
ngữ còn đóng vai trò nổi bật trong thương mại đường biển cũng như lợi ích kinh tế,
quân sự từ vùng án ngữ này.
=> Kênh đào này vốn là một công trình tranh chấp qua lại và là điểm nóng chính
trị trên toàn cầu dù kênh đào này nằm trên một quốc gia rộng lớn và chủ quyền như Ai
Cập.
Vị thế địa - chính trị:
* Kinh tế:
Kênh Suez vẫn có vị trí trọng yếu trên bản đồ hàng hải quốc tế, phương thức vận
chuyển hàng hóa rẻ nhất và hiệu quả nhất từ hàng trăm năm qua. Ngày nay, bất chấp sự
cạnh tranh khốc liệt và những khó khăn của ngành vận tải biển toàn cầu, kênh đào Suez
vẫn là tuyến đường vận chuyển hàng hóa, dầu mỏ quan trọng hàng đầu khu vực và thế
giới
Với Ai Cập, nguồn thu từ kênh đào Suez từ nhiều thập niên qua đã trở thành một
trong những nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất bên cạnh nguồn thu kiều hối, du lịch
và xuất khẩu dầu mỏ, khí đốt.
Năm 2015, Ai Cập quyết định mở rộng tuyến đường biển quan trọng qua kênh đào Suez
trong một dự án đầy tham vọng nhằm mục đích thúc đẩy nền kinh tế gặp nhiều khó khăn
vì bất ổn chính trị và an ninh. Quốc gia Bắc Phi vẫn đang tiếp tục đặt cược vào dự án
mở rộng đầu tư kênh đào Suez, khẳng định vị thế độc tôn của kênh đào này tại khu vực
Ý nghĩa kinh tế của kênh đào Suez.
- Rút ngắn khoảng cách, thời gian đi lại giữa các khu vực trên thế giới
- Nối liền các trung tâm kinh tế với nhau, làm tăng mối quan hệ giữa các
nước các quốc gia.
- Mang lại nhiều lợi ích cho các nước, đặc biệt là những nước có kênh đào.
- Thúc đẩy giao thông đường biển phát triển mạnh hơn nữa
- Tích kiệm được năng lượng thời gian vận chuyển, bảo đảm được an toàn
hàng hải.
* Hàng hải:
Là huyết mạch giao thông Đông-Tây, là tuyến đường biển ngắn nhất nối liền lục
địa Á-Âu mà không phải qua châu Phi, kênh đào Suez - một công trình nhân tạo khổng
lồ, đã tác động mạnh đến sự phát triển của giao thương không chỉ của Ai Cập mà toàn
thế giới.
Là con đường duy nhất kết nối trực tiếp vùng biển châu Âu với biển Arab, Ấn
Độ Dương và các quốc gia ở châu Á-Thái Bình Dương.
* Quân sự:
Với một vị trí đặc biệt mà kênh đào Suez đã cách mạng hóa nền 12 thương mại
quốc tế, kết nối châu á và châu âu chỉ trong nháy mắt, điều này đã đem lại niềm quang
vinh cho Ai Cập các tài sản về quân sự, kinh tế và chính trị3. Có thể coi kênh đào Suez
là một trường hợp điển hình đại diện cho nhiều nút thắt địa lý đóng vai trò là điểm tựa
chính trị, kinh tế và quân sự của thế giới.
Kênh đào còn hỗ trợ các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Âu,
đặc biệt là liên quan đến việc bảo vệ các lợi ích nước ngoài. Điển hình là quân đội Hoa
Kỳ phụ thuộc rất nhiều vào con kênh này để di chuyển nhân sự và thiết bị của mình đến
các khu vực bất ổn ở Trung Đông như Syria, Afghanistan và Iraq.
Kết luận:
* Ai Cập:
Bản thân kênh đào Suez là nguồn huyết mạch giao thông quan trọng nhất của Ai
Cập. Bằng chứng là vào năm 2012, với tổng thu phí là 5,1 tỷ USD, kênh đào là nguồn
thu lớn cho chính phủ và gần bằng một phần mười thu nhập ngoại hối của đất nước.
Ngoài ra, với vị trí địa lý chiến lược mà kênh đào Suez còn là một đòn bẩy kinh tế cho
Ai Cập, đưa quốc gia này vào một hệ thống thương mại toàn cầu.
Kênh đào Suez còn ý nghĩa quan trọng về mặt quân sự đối với Ai Cập nói riêng
và các nước Trung Đông nói chung. Ai Cập từ sau khi có kênh đào Suez càng dần có
ảnh hưởng trong khối Ả Rập do sự độc quyền mà kênh đào này mang lại. Các quốc gia
ở Trung Đông đa phần dựa vào kênh đào này làm con đường nhập khẩu vũ khí từ Hoa
Kỳ và châu Âu. Điều này đồng nghĩa với việc bất cứ hành động bất đồng nào với Ai
Cập của bất kì quốc gia nào trong khu vực có thể gây ra tác động tiêu cực trực tiếp đến
quốc gia có liên quan. Và chính phủ Ai Cập có thể bóp chết nền kinh tế lẫn quân sự của
nước đối địch trong khối chỉ bằng việc ngăn việc hàng hóa nhập cảng Suez. Điều này
đã giải thích tại sao Ai Cập trở thành một thế lực trong chính sách quốc tế trong khu
vực này.
* Thế giới:
Con kênh này là con đường duy nhất kết nối trực tiếp vùng biển châu Âu với
biển Arab, Ấn Độ Dương và các quốc gia ở châu Á – Thái Bình Dương. Chính vì thế
nếu không có kênh đào Suez, các chuyến hàng buộc phải đi vòng qua toàn bộ lục địa
châu Phi, dẫn đến việc chi phí cho việc vận chuyển tăng cao và kéo dài đáng kể thời
gian của chuyến du hành. Hàng hóa qua kênh đào hoạt động cả ngày lẫn đêm do đó giúp
hàng hóa được vận chuyển đúng thời hạn.
Tốn rất ít chi phí vận chuyển hàng hóa và hậu cần trên khắp thế giới và kết quả
là họ thu được lợi nhuận lớn từ các nhà cung cấp bằng cách vận chuyển hàng hóa của họ.
Việc vận chuyển hàng hóa của họ từ đường thủy có mức độ rất an toàn, có tỉ lệ
rủi ro mà nó mang lại là rất ít so với đường hàng không, đồng thời còn chở được nhiều
hàng hóa hơn.

13. Tài nguyên ĐCT quốc gia VN ( trang 344)


Tài nguyên địa chính trị của Việt Nam là một tổng thể hết sức đa dạng và
phức tạp. Tổng thể ấy cấu thành từ rất nhiều yếu tố. Giá trị và ý nghĩa của từng
yếu tố cũng được xem xét tùy thuộc vào nhiều góc độ khác nhau của thời đại.
Chẳng hạn Việt Nam là một cửa ngõ của Lào và Campuchia ra biển,
nhưng yếu tố tài nguyên địa chính trị này quan trọng đến đâu còn tùy theo sự
giàu mạnh của Lào và Campuchia.
Kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới bước vào một thời kỳ mới mà
hai đặc điểm lớn nhất là cục diện chính trị bị chi phối bởi cơ cấu “nhất siêu đa
cường” và cục diện kinh tế bị chi phối bởi quá trình “toàn cầu hóa”.
Một đặc điểm trung tâm của cơ cấu nhất siêu đa cường là sự hình thành
các quan hệ nước lớn đặc thù theo từng khu vực, dẫn đến sự phân chia lại các
khu vực trên bản đồ địa chính trị thế giới.
Sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc đã khiến cho các khu vực bao
quanh nước này, từ Đông Bắc Á, xuống Đông Nam Á, qua Nam Á, rồi lên
Trung Á, cùng nằm trong một môi trường an ninh liên hoàn. Các khái niệm
“Đông Á” và “châu Á-Thái Bình Dương” đã và đang được mở rộng, với sự
tham gia trước hết của Ấn Độ, sau đó có thể cả các nước khác ở Nam Á và
Trung Á. Miền Đông đại lục Á-Âu và miền Tây Thái Bình Dương hợp lại
thành một địa bàn chiến lược đặc thù. Vấn đề chiến lược trung tâm của khu vực
tăng trưởng với nhau. Trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay
của lịch sử loài người, “Đông Á” hay “châu Á-Thái Bình Dương” là một trong
các vùng tăng trưởng nóng 2. Thoạt đầu chỉ bao gồm các nước ở Đông Bắc Á
và Đông Nam Á, ngày nay cả Nam Á và Trung Á đã ngày càng có xu hướng
tham gia vào vùng tăng trưởng này. Sự nối liền này càng làm tăng thêm vai trò
“động mạch chủ” của tuyến đường biển chạy từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình
Dương qua Biển Đông lên Đông Bắc Á, cũng như của những “đầu cầu” từ con
đường biển này vào các trung tâm sản xuất trong đất liền.
Trong bối cảnh nói trên, các yếu tố vượt trội, có tầm vóc chiến lược, trong
các tài nguyên địa chính trị của Việt Nam là các yếu tố liên quan đến Trung
Quốc và con đường hàng hải qua Biển Đông. Từ đó, có thể chia lãnh thổ
Việt Nam trên biển và đất liền thành ba tiểu vùng địa chính trị:
 Khu vực Biển Đông của Việt Nam là một yết hầu trên con
đường biển thông giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương đi lên
Đông Bắc Á. Khu vực Biển Đông cũng là một then chốt trên con
đường lưu thông giữa Trung Quốc với Ấn Độ Dương và Đông
Nam Á.
 Miền Bắc Việt Nam là một cửa ngõ của miền Tây Nam Trung
Quốc (chủ yếu là hai tỉnh Vân Nam và Tứ Xuyên) xuống phía nam
và thông ra biển.
 Miền Trung và miền Nam Việt Nam là một đầu cầu từ con đường
biển “xương sống” của khu vực Đông Á vào các trung tâm sản
xuất trên đất liền bán đảo Đông Dương.
Các yếu tố vừa kể sẽ được những thế lực liên quan như các cường quốc
trong khu vực, các thế lực thị trường, các thế lực Việt Nam—nhìn nhận và đánh
giá trên cơ sở nhu cầu, hiểu biết, khả năng và chiến lược của họ, từ đó mà Việt
Nam sẽ có những ý nghĩa địa chiến lược khác nhau đối với các thế lực khác
nhau
Vị Thế Của Tài Nguyên Địa Chính Trị Việt Nam Trong Bối Cảnh
Toàn Cầu Hóa.
Trong khi cục diện chính trị khu vực có xu hướng phân tán thì cục diện
kinh tế lại có xu hướng hội tụ. Các thế lực kinh tế thị trường đang hoạt động rất
mạnh tại các nước trong khu vự kết hợp với bối cảnh thế giới đã bước vào quá
trình toàn cầu hóa, chính điều đó đã thúc đẩy các nước trong - ngoài khu vực
tạo ra nhu cầu liên kết và giao thương to lớn.
Trong bối cảnh ấy, lợi thế địa lý của Việt Nam do nằm kề “trục lộ xương
sống” của kinh tế khu vực, đặc biệt khu vực miền Nam và miền Trung ở vị trí
“bản lề” giữa biển và đất liền, ngay trung tâm miền Đông Nam châu Á, nếu
được phát huy mạnh mẽ sẽ là nguồn tài nguyên vô giá giúp Việt Nam phồn
thịnh.
Việc phát huy tài nguyên địa chính trị của Việt Nam có thể diễn ra theo
hai hướng:
 Làm “cửa ngõ” ra biển của nội địa châu Á,
 Làm “đầu cầu” trên đất liền của con đường giao thương trên biển
và trên không qua Biển Đông.
Từng phần lãnh thổ Việt Nam có thể đóng vai trò “cửa ngõ” của nội địa
châu Á thông ra Thái Bình Dương.
 Miền Bắc làm cửa ngõ ra biển của miền Tây Nam Trung Quốc.
 Miền Trung làm cửa ngõ ra biển của Đông Bắc Thái lan, Lào, có
thể cả Myanmar.
 Miền Nam làm cửa ngõ ra biển của Campuchia.
Tuy nhiên, “của ngõ” chỉ có thể sầm uất khi nội địa có sức sản xuất mạnh.
Xét thực lực của các trung tâm sản xuất trong nội địa nói trên, vai trò “cửa ngõ”
chưa phải là một cách duy nhất cho sự đi lên của Việt Nam. Như vậy, chỉ còn
cách là phải “kéo” được các luồng giao thương qua khu vực Biển Đông vào
Việt Nam.
Nhìn vào bản đồ, ta thấy Việt Nam có thể hướng tới vai trò “trạm trung
chuyển” cho tuyến giao thông biển xuyên khu vực, và vai trò trung tâm của
miền Đông Nam châu Á (tính cả Nam Trung Quốc, Đài Loan và Đông Ấn Độ).
Tuy nhiên, có mấy khó khăn lớn.
 Một là, vai trò “trục bản lề” chỉ có thể phát huy sau khi Việt Nam
đã làm tốt vai trò “cửa ngõ” và “trạm trung chuyển”.
 Hai là, trong khu vực đã có Hồng Kông và Singapore đóng vai trò
trạm trung chuyển. Với điều kiện kỹ thuật và cao trình phát triển
hiện nay, khu vực Đông Nam Á không cần có thêm một trung tâm
nào nữa cỡ Hồng Kông và Singapore
Để Việt Nam có thể bứt phá, trở thành một “đầu mối” của con đường giao
thương qua Biển Đông, chỉ còn cách là phải liên kết với các đầu mối khác trên
con đường này, thông qua chiến lược “lan tỏa”, hình thành nên một đầu mối
nữa trên lãnh thổ Việt Nam. Trong vài năm gần, Việt Nam đã có những bước đi
sâu trong việc kết nối kinh tế với Nhật Bản, Nhật Bản hiện là nước tài trợ viện
trợ phát triển chính thức (ODA) lớn nhất, nhà đầu tư lớn thứ ba, đối tác thương
mại lớn thứ tư của nước ta. Trong ba tháng đầu năm 2022, kim ngạch thương
mại song phương đạt 11,2 tỷ USD, tăng 11% so cùng kỳ năm 2021. Lũy kế đến
ngày 20/3/2022, Nhật Bản có 4.828 dự án FDI còn hiệu lực tại Việt Nam với
tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 64,41 tỷ USD. Bên cạnh đó, hợp tác trong các
lĩnh vực như quốc phòng-an ninh, y tế, nông nghiệp, khoa học-công nghệ, giáo
dục-đào tạo... cũng đạt được nhiều tiến triển tích cực.3
Bên cạnh đó quan hệ kinh tế với “Con Rồng Đông Nam Á” Singapore
cũng đạt được nhiều tiến triển rất tốt, ngay trong bối cảnh toàn cầu cơ bản kiểm
soát được đại dịch COVID-19, từ tháng 3/2022, Việt Nam và Singapore đã sớm
dỡ bỏ các hạn chế đi lại với nhau, nối lại đường bay thương mại. Mặc dù chịu
ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước
vẫn đạt 8,3 tỷ USD năm 2021. Năm 2022 đạt hơn 9 tỷ USD, tăng 10,1%, trong
đó ta xuất khẩu 4,2 tỷ USD, tăng 7,7%; nhập khẩu 4,8 tỷ USD, tăng 12,3%.
Singapore duy trì vị trí là nhà đầu tư lớn nhất của ASEAN vào Việt Nam và
đứng thứ 2/141 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, với 3.095 dự
án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký đạt 70,8 tỷ USD năm 2022, chiếm 22,9 tổng
vốn FDI đăng ký tại Việt Nam. Đây là những bước đi hợp quy luật vì sự cần nhau giữa Việt Nam, Nhật
Bản và Singapore ở mức độ khá lý tưởng. Trong viễn tượng nối kết kinh tế giữa
ba nước, Việt Nam cần trở thành hậu phương đất liền vững chắc của Singapore,
trung tâm tài chính, dịch vụ, môi giới, nghiên cứu của khu vực Đông Nam Á
nhưng thiếu không gian và nhân lực. Mặt khác, Việt Nam phải thu hút tư bản,
công nghệ và tri thức của Nhật Bản để trở thành một tụ điểm kinh tế hàng đầu
ở khu vực Đông Nam Á và trên con đường sang không gian châu Á-Ấn Độ
Dương.
Trong quá trình phát triển, Việt Nam sẽ phải đối phó với sự chênh lệch tài
nguyên địa chính trị giữa các vùng, miền ở trong nước, dẫn đến phát triển mất
cân đối giữa các địa phương. Lợi thế của một địa phương không chỉ nhờ “địa
lợi”, “nhân hòa” mà còn nhờ “thiên thời”. Lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã từng là đầu mối của con đường
giao thương qua biển Đông trong quá khứ. Nhưng vị trí của “đầu mối” ấy dịch chuyển dần theo đà tiến bộ của
kỹ thuật giao thông, từ hai đầu mối ở miền Bắc (xứ Giao Chỉ cũ) và miền Nam (xứ Phù Nam cũ), hợp vào một
đầu mối ở miền Trung (xứ Chămpa cũ), rồi chuyển vào miền Nam (vùng Đồng Nai-Bến Nghé). Giao Chỉ và
Phù Nam thịnh vào nửa đầu thiên kỷ thứ nhất, Chămpa thịnh vào nửa đầu rồi tàn lụi vào nửa sau thiên kỷ thứ
hai, cuối cùng nhường vai trò cho miền Đồng Nai-Bến Nghé, để rồi chính miền này cũng phải đấu tranh để khỏi
bị bỏ qua, khi các con tàu đi biển không còn bị bắt buộc phải cập bến từng chặng ngắn nữa và khi miền Nam
bán đảo Đông Dương chưa tự mình là một trung tâm sản xuất mạnh.

Ngày nay, miền Bắc nằm xa con đường hàng hải chính qua biển Đông, lại bị đảo Hải Nam chặn trước mặt, nên
không thể trở thành vị trí của một “đầu mối” trên con đường biển ấy. Miền Trung tuy có bờ biển như “bao lơn”
trên Thái Bình Dương, có nhiều vịnh nước sâu, kín gió, nhưng địa hình chia cắt, tính liên thông với các trung
tâm sản xuất khác trong nội địa kém, nên khó phát huy được lợi thế. So với miền Đông Nam bộ, miền Trung có
nhược điểm là không gian phát triển manh mún, phân tán, hậu phương thưa dân, sản xuất yếu, sức mua nhỏ.
Bản thân miền Đông Nam bộ đã là đầu mối của một tiểu khu vực bao gồm cả miền Tây Nam bộ, miền Trung và
Campuchia. Do đó, lợi thế của miền Trung (vị trí “bao lơn”, các vịnh nước sâu, kín gió) chỉ có thể được phát
huy một cách hiệu quả nếu miền Trung hướng tới gắn mình vào luồng giao thương quốc tế, đầu tư nhắm vào
xuất khẩu, không nhất thiết phục vụ thị trường nội địa.

Tài nguyên địa chính trị có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng đối với vận mệnh của một đất nước. Sự thịnh
suy của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào khả năng khai thác và tận dụng nguồn tài nguyên địa chính trị.
Trong bối cảnh chính trị-kinh tế quốc tế hiện nay, một trật tự thế giới mới đang ló dạng, trong đó Việt Nam
nằm ở một vị trí tương đối trung tâm của tranh chấp nước lớn và liên kết kinh tế của khu vực. Điều này đang
đặt ra những thách thức to lớn, nhưng cũng đem lại những vận hội không nhỏ cho Việt Nam.

Chiến lược ĐCT và quá trình thực thi chiến


16.

lược ĐCT của VN


a. từ 1986 - 1991 ( trang 367)
b. từ 1991 - 2021

Căn cứ vị trí địa - chiến lược đặc thù của Việt Nam, đối sách hợp lý nhất của
chúng ta trong quan hệ với các nước lớn là chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng
hóa, đa phương hóa, đồng thời thực hiện linh hoạt chính sách “cân bằng động” trong
quan hệ với các nước lớn.
Đảng và nhà nước ta đã luôn đi theo đúng quỹ đạo của mình khi đề ra những
chính sách phù hợp với sự đổi mới về nhận thức cũng như hành động địa - chiến lược
của Việt Nam trong hợp tác quốc tế phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an
ninh, phát huy sức mạnh tiềm năng của địa lý,... không ngừng làm gia tăng nhanh sức
mạnh tổng hợp quốc gia.
Chiến lược biển
Không gian biển ngày càng quan trọng trong tổng thể chiến lược đối với Việt
Nam. Bên cạnh các ý nghĩa đặc biệt về quốc phòng - an ninh, kinh tế biển cùng với xu
thế phát triển “nền kinh tế xanh dương”. Dòng chảy thương mại đi qua Biển Đông chiếm
1/3 tổng giá trị thương mại toàn cầu, với con số hơn 3.000 tỷ USD mỗi năm. Nhiều chỉ
số khác cũng cho thấy tầm quan trọng của biển đối với Việt Nam, Việt Nam có nhiều
lợi thế và tiềm năng lớn về tài nguyên biển, hải đảo.
Trong suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam đã nhận thức được ý nghĩa sống còn của
biển, có nhiều hoạt động cũng như xây dựng văn hóa biển đặc thù. Kể từ khi tiến hành
công cuộc đổi mới (năm 1986), Việt Nam càng củng cố, nâng cao nhận thức này. Các
hoạt động khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền, thực thi pháp luật trong các hoạt
động kinh tế của Việt Nam ngày càng nhiều về số lượng và tăng về chất lượng. Cụ thể
về kinh tế biển, Nghị quyết số 36-NQ/TW, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII,
về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2045, nêu rõ: “Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực
quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái
biển”.
Trên các diễn đàn song phương và đa phương, với tinh thần xây dựng, Việt Nam
luôn nằm trong nhóm nước tích cực, chủ động hàng đầu trong việc nêu rõ quan điểm
vừa hợp tác, vừa đấu tranh, phương châm “kiên quyết, kiên trì”, chủ trương giải quyết
các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước
Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, thúc đẩy tôn trọng thực thi Tuyên bố về ứng xử
của các bên ở Biển Đông (DOC), đàm phán thực chất Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(COC).
Với quyết tâm “phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển
bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với
bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng
cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định
cho phát triển”.
Việt Nam đang nỗ lực để gia tăng sức mạnh biển. Hệ thống đường cao tốc ven
biển và các khu kinh tế ven biển đang đi vào hoạt động. Sự phát triển của ngành dầu khí
cũng đang đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, góp phần duy trì, củng cố an ninh, chủ
quyền trên biển của Việt Nam. Ngành kinh tế du lịch biển, đảo của Việt Nam cũng đang
có nhiều khởi sắc. Những danh lam thắng cảnh tự nhiên tại các địa phương trên cả nước
đang góp phần giúp Việt Nam trở thành một trong những điểm đến du lịch hấp dẫn hàng
đầu của khu vực Đông Nam Á.
Những nỗ lực của Việt Nam đang làm tăng lợi thế của một quốc gia có bờ biển
dài, không gian biển rộng lớn, giàu nguồn tài nguyên thiên nhiên, nằm ở vị trí chiến
lược hàng hải và quân sự ở khu vực Tây Thái Bình Dương.
Chiến lược trên đất liền
Về sức mạnh của không gian đất liền, Việt Nam tuy có diện tích đất liền khá
khiêm tốn, cùng địa hình khá mỏng, nhất là ở khu vực Bắc miền Trung, nhưng lại có
lợi thế nằm ở vùng rìa phía Đông của bán đảo Đông Dương, trải dài từ Bắc tới Nam,
nơi “cửa ngõ” giao lưu quốc tế của khu vực. Những dự án lớn về phát triển kết cấu hạ
ầng kỹ thuật, nhất là giao thông, đang thúc đẩy nhanh kết nối kinh tế của Việt Nam với
các quốc gia láng giềng. Các tuyến đường cao tốc Lào Cai - Hải Phòng, Hà Nội - Đồng
Đăng,... đã và đang được đẩy nhanh tiến độ hoàn thành. Nhấn mạnh việc phát triển hệ
thống đường sắt cao tốc Bắc - Nam bổ sung cho hệ thống đường sắt hiện có.
Chiến lược không gian mạng
Ngày nay, không gian chiến lược còn được mở rộng cả trong không gian mạng.
Mặc dù không thuộc tính địa - vật lý, nhưng không gian mạng có mối quan hệ chặt chẽ
với không gian thực, như đất đai, biển, trời và vũ trụ.
Hai mươi năm trước, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác, chỉ mới bước vào
không gian mới mẻ này. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, Việt Nam đã có những
bước tiến vượt bậc.
Theo đánh giá của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) và Quỹ Nhi đồng Liên
hợp quốc (UNICEF), Việt Nam hiện nằm trong nhóm nước có tốc độ tăng trưởng về
điện thoại di động và internet nhanh nhất thế giới (trung bình cứ 100 người thì có đến
143 đầu điện thoại di động; khoảng 62 triệu người sử dụng mạng xã hội).
Những cơ sở này cho phép Việt Nam có thể theo đuổi một chiến lược chuyển
đổi số mạnh mẽ trên cơ sở Liên minh chuyển đổi số và các văn bản chiến lược khác.
Đại dịch COVID-19 cũng cho thấy các công cụ số đã hỗ trợ các quốc gia, trong đó có
Việt Nam, ứng phó hiệu quả hơn những tình huống khủng hoảng với chi phí thấp hơn
các cách thức truyền thống.
Chiến lược không gian hội nhập, liên kết
Đây là không gian địa - chiến lược mới từ góc độ chủ quan. Với mục tiêu mở
rộng “biên giới mềm” và “không gian hội nhập”, Việt Nam đã nỗ lực để khai phá, trở
thành một “người chơi” có trọng lượng trên “bàn cờ” quốc tế.
Năm 1996, sau khi trở thành thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Việt Nam mới chỉ tham gia FTA đầu tiên là Hiệp định Khu vực thương mại
tự do ASEAN (AFTA), thì sau 25 năm, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán 16
FTA. Ở khu vực, Việt Nam cùng với Singapore là 2 nước đi đầu trong việc tham gia
các FTA thế hệ mới với những tiêu chuẩn cao hơn hẳn các FTA truyền thống.
Năm 2006, Đại hội X của Đảng tiến thêm một bước trong nhận thức và hành
động hội nhập quốc tế, đề ra chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực”.
Tháng 2/2019, Việt Nam đảm nhiệm và hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ASEAN
2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc năm 2020 - 2021,
đã chứng tỏ bản lĩnh Việt Nam trước sự biến động phức tạp, khó lường của môi trường
địa - chính trị, địa - kinh tế thế giới.
Theo Viện Nghiên cứu Lowy (Australia) năm 2020, sức mạnh và tầm ảnh hưởng
của ngoại giao Việt Nam xếp thứ 9 tại khu vực châu Á, tăng 3 bậc so với năm 2019 và
đứng thứ 2 trong số các nước Đông Nam Á.
Tính đến đầu năm 2021, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức với
186/193 quốc gia thành viên của LHQ, hợp tác kinh tế - thương mại với 230 quốc gia
và vùng lãnh thổ, là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu
vực, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện với 30 quốc gia.
Các thách thức đối với quá trình thực thi địa - chiến lược Việt Nam
Không gian biển, đất liền:
Khác với nhiều vùng biển trên thế giới, Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp
hơn, đặc biệt là tranh chấp lãnh thổ chủ quyền, ổn định khu vực, an ninh, an toàn, tự do
hàng hải, hàng không, việc giải thích, áp dụng luật cũng như bảo vệ môi trường và
nguồn lợi biển.
Quá trình triển khai, một phần do năng lực và nguồn lực còn hạn chế. Chẳng hạn,
so sánh năng lực khai thác biển, Việt Nam chỉ bằng 1/7 của Hàn Quốc hay 1/94 của
Nhật Bản. Số lượng tàu bè, phương tiện của Việt Nam tuy tăng lên trong những năm
qua nhưng rõ ràng chưa đáp ứng được nhu cầu quản trị biển một cách hiệu quả, chẳng
hạn như trong bảo vệ môi trường.
Việt Nam cần phát huy hơn nữa sức mạnh tiềm năng của biển và biên giới đất
liền thông qua tăng cường xây dựng và kết nối kết cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội, hiện
đại hóa hệ thống logistics. Điều này sẽ góp phần làm tăng vị thế của một quốc gia nằm
ở phía Đông của bán đảo Đông Dương, có bờ biển dài hướng ra Biển Đông và có “cửa
ngõ” thông thương với nhiều quốc gia, như Trung Quốc, Lào và Campuchia...
Không gian mạng:
Hạ tầng thông tin và công nghệ của Việt Nam còn thiếu đồng bộ, chưa bảo đảm
phục vụ nền kinh tế số, chưa bảo đảm mức độ an toàn, chưa kể việc thiếu vắng các cơ
chế quản trị toàn cầu và các quy tắc, quy chuẩn ứng xử được chấp nhận rộng rãi trong
không gian số.
Không gian hội nhập, liên kết:
Việt Nam cần nâng cao nhận thức về các cam kết chất lượng cao. Mặc dù dựa
trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, nhưng phải đến năm 2016, Việt Nam mới đạt
con số xuất siêu đáng kể (hơn 2,5 tỷ USD).
Kim ngạch xuất, nhập khẩu còn phụ thuộc vào khu vực có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI), trong khi năng lực hấp thụ đầu tư cũng cần được cải thiện. Do đó,
tuy có các FTA thế hệ mới, nhưng để phát huy được lợi thế đòi hỏi Việt Nam phải có
sự chuẩn bị đồng bộ ở tất cả các phương diện, như thể chế, luật pháp, chính sách, nguồn
nhân lực,... càng sớm càng tốt

Xu hướng cạnh tranh chiến lược của các nước


18.

lớn 2023, tầm nhìn 2045 và những vấn đề đặt ra


vs VN trong vấn đề bảo vệ lợi ích quốc gia - dân
tộc
Dự báo tình hình thế giới năm 2023
Thế giới chào đón năm 2023 với những hy vọng mới, tuy nhiên, vẫn còn đó nhiều vấn đề từ năm 2022 đầy biến động, dự
kiến sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến cục diện an ninh - chính trị toàn cầu, trong đó phải kể đến xung đột tại Ucraina, căng thẳng
giữa phương Tây và Trung Quốc, suy thoái kinh tế và biến đổi khí hậu.
Một là, xung đột Nga - Ucraina khó đàm phán
Hầu hết các nhà phân tích đều nhận định, đàm phán giữa các bên rất khó xảy ra trong tương lai gần, mặc dù mới đây
Tổng thống Nga Vladimir Putin cho biết Nga sẵn sàng đàm phán với tất cả các bên liên quan trong cuộc chiến tại
Ucraina. Ucraina, với sự hỗ trợ của Mỹ và phương Tây và Nga sau gần một năm giao tranh vẫn đang trong thế giằng co,
chưa bên nào nhượng bộ.
Hai là, căng thẳng giữa Trung Quốc và phương Tây vẫn tiếp tục tác động đến tình hình thế giới
Cuộc gặp trực tiếp đầu tiên giữa Tổng thống Mỹ Joe Biden và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hồi tháng 11 bên lề
Hội nghị Thượng đỉnh G20 cho thấy hai bên đều mong muốn cứu vãn quan hệ song phương đang lao dốc. Nhưng cuộc
gặp chỉ giảm bớt phần nào những căng thẳng giữa hai quốc gia và vẫn còn đó nhiều “ngòi nổ” bất ổn. Đáng chú ý, Trung
Quốc được dự đoán tiếp tục tăng cường năng lực quân sự với tốc độ nhanh chóng, đặc biệt tại khu vực Thái Bình Dương.
Trong khi đó, Mỹ sẽ hỗ trợ các nước đối tác trong khu vực thúc đẩy khả năng quốc phòng với các liên minh như AUKUS
(gồm Ôxtrâylia, Anh, Mỹ) hay Quad (gồm Ôxtrâylia, Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ).
Ba là, nguy cơ suy thoái kinh tế tiếp tục trầm trọng
Kinh tế thế giới trong năm 2023 vẫn đối mặt nhiều thách thức. Trung Quốc - trung tâm sản xuất toàn cầu, dù đã nới lỏng
hạn chế phòng dịch Covid-19 nhưng vẫn ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế, đặc biệt là chuỗi cung ứng. Trong
khi một số nước thu nhập thấp gặp khó khăn trước việc giá năng lượng và thực phẩm tăng cao, chủ yếu do cú sốc kinh tế
từ xung đột Nga - Ucraina, thì chính phủ một số nước thu nhập cao đang thúc đẩy cùng lúc các gói kích thích kinh tế
nhằm giúp người dân và các công ty đối mặt với cơn bão kinh tế này. Theo Ngân hàng Trung ương châu Âu, sức mua của
người dân đang giảm dần, tiền lương không theo kịp với sự tăng giá nhà ở và các hàng hóa cơ bản. Năm 2023, việc kiểm
soát lạm phát trong khi duy trì số lượng việc làm ở mức cao sẽ là bài toán khó khăn với chính phủ các nước.
3. Tác động của bối cảnh quốc tế đến Việt Nam và đối sách
Thuận lợi
Sau hơn 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được
nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cục diện thế giới đầy biến động hiện nay, Việt
Nam cũng có những lợi thế rất cơ bản. Đó là:
Một là, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, tạo điều kiện để Việt Nam tiếp tục giữ gìn môi trường hòa bình,
ổn định để phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Cục diện cạnh tranh và thỏa hiệp giữa các nước lớn cho
phép Việt Nam có điều kiện lựa chọn những kế sách phù hợp, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến” để không bị chi phối
trong quan hệ quốc tế, giảm sức ép của các nước lớn; thúc đẩy quan hệ với nhiều đối tác, nhất là các nước lớn, trên các
vấn đề lợi ích chiến lược; qua đó, kiềm chế, đẩy lùi âm mưu, ý đồ và hành động xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ, thực hiện
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với Việt Nam.
Hai là, với sự ổn định về chính trị, thế và lực của Việt Nam ngày càng gia tăng trên trường quốc tế, do vậy, cộng đồng
quốc tế đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong hợp tác cũng như tham gia xử lý các vấn đề mang tính toàn cầu. Việt
Nam là thành viên đóng vai trò ngày càng quan trọng trong ASEAN và nhiều tổ chức khu vực khác. Trong nhìn nhận của
các nước, Việt Nam là một trong những nước có ảnh hưởng mang tính “dẫn dắt” trong ASEAN. Do đó, trong chính sách
của các nước, nhất là các nước lớn đối với khu vực, Việt Nam có vị trí tương đối quan trọng, được các nước coi là một
đối tác cần tăng cường, là nhân tố góp phần kết nối quan hệ của các nước với ASEAN (3). Đây chính là điều kiện thuận
lợi để Việt Nam phát huy vị thế, lựa chọn những chính sách phù hợp trong hội nhập, phát triển.
Ba là, là nước có sự phát triển nhanh về công nghệ thông tin nên Việt Nam có những điều kiện thuận lợi để tiếp cận công
nghệ, tranh thủ thị trường, tham gia mạng lưới sản xuất và chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, cũng như ứng dụng thành
tựu khoa học - công nghệ mới, tạo sức đột phá mới trong phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường tiềm lực, sức
mạnh quốc phòng - an ninh, góp phần tích cực trong việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong tình hình mới.
Hơn nữa, khu vực châu Á - Thái Bình Dương với sự hội tụ của các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn
Độ, Nga và các nước ASEAN sẽ giúp mở rộng không gian tăng trưởng kinh tế, tạo cơ hội để Việt Nam mở rộng quan hệ
và tận dụng nguồn lực từ bên ngoài, góp phần nâng cao sức mạnh quốc gia của Việt Nam.
Khó khăn, thách thức
Bên cạnh mặt thuận lợi căn bản trên, Việt Nam cũng sẽ phải đối phó với nhiều khó khăn, thách thức, như:
Cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung tại khu vực đẩy nhanh và mạnh mẽ hơn quá trình tập hợp lực lượng, tìm cách lôi kéo
các đối tác, tạo nên áp lực không nhỏ đối với các nước trong việc “chọn bên”. Bên cạnh sự cạnh tranh gay gắt, không loại
trừ các nước lớn thỏa hiệp với nhau, ảnh hưởng đến lợi ích của các nước vừa và nhỏ, trong đó có Việt Nam. Mặt khác,
những tác động tiêu cực do chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ đối với Việt Nam là không
hề nhỏ.
Việt Nam có vị trí địa lý đặc thù, chịu tác động lớn từ các thách thức an ninh phi truyền thống, ảnh hưởng lớn đến nguồn
lực. Xu hướng già hóa dân số nhanh, tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa tăng mạnh, an ninh mạng, biến đổi khí hậu gay
gắt, phức tạp... tác động ngày càng nghiêm trọng đến sự phát triển của đất nước. Chẳng hạn với vấn đề khí hậu, một số
đánh giá cho rằng, tác động của vấn đề này tới đây sẽ còn lớn hơn nhiều và thay vì đặt vấn đề “biến đổi” cần xác định
nhân loại đang đối mặt với “thảm họa khí hậu”. Tình hình Biển Đông và các vấn đề an ninh khu vực, các vấn đề an ninh
phi truyền thống như biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước... đặt ra nhiều thách thức, thậm chí nguy cơ bùng phát thành
xung đột không thể loại trừ.
Hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn, bên cạnh những cơ hội, Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi
tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong khi năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của các doanh
nghiệp chưa cao. Những nguy cơ suy thoái, đứt gãy chuỗi cung ứng, lạm phát tăng cao... cả ngắn và trung hạn đều tác
động không thuận đến hội nhập và phát triển của Việt Nam. Nền kinh tế nước ta còn phát triển chưa bền vững, còn nhiều
hạn chế, yếu kém, lại gặp nhiều khó khăn mới do tác động của đại dịch Covid-19, khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các vấn
đề an ninh phi truyền thống khác gây ra. Việt Nam cũng phải cạnh tranh với các nước khác về các nhà đầu tư tiềm năng,
đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao.
Thách thức đặt ra đối với việc giữ gìn ổn định vĩ mô để bảo đảm độc lập, tự chủ trong hội nhập là: Việt Nam phải nhanh
chóng nâng cấp cơ sở hạ tầng và lực lượng lao động để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đồng thời giải quyết một số hậu
quả không mong muốn. Chẳng hạn như Việt Nam ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào đầu tư nước ngoài, xuất khẩu và
thặng dư thương mại với Mỹ do mở rộng cơ sở sản xuất và năng lực xuất khẩu(4). Việc chuyển đổi cơ cấu vẫn chưa hoàn
chỉnh, với một sân chơi vẫn chưa đồng đều giữa doanh nhiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân...
Đối sách của Việt Nam
Cục diện thế giới và khu vực đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, ảnh hưởng sâu sắc đến an ninh, hội nhập và phát triển
của Việt Nam. Tính bất định, khó dự báo của các khuynh hướng phát triển toàn cầu đang đưa đến những rủi ro không nhỏ
đối với quá trình hội nhập, phát triển của đất nước. Điều này đòi hỏi chúng ta phải suy ngẫm kỹ càng hơn, tìm ra những
đối sách ứng phó hiệu quả với những biến động phức tạp, khó lường hiện nay.
Trước hết, bối cảnh quốc tế hiện nay đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển cơ sở lý luận về độc
lập, tự chủ, đánh giá một cách kỹ lưỡng các bài học thực tiễn của Việt Nam cũng như quốc tế, đưa ra những dự báo chính
xác về các xu hướng thế giới cùng tác động của chúng đối với Việt Nam. Từ đó, đề xuất những điều chỉnh bổ sung cần
thiết để thực hiện thắng lợi đường lối độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế, không ngừng nâng cao vị thế và sức mạnh
quốc gia, đưa đất nước phát triển bền vững.
Thứ hai, trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, không tránh khỏi việc quốc gia chịu tác
động tiêu cực bởi những biến động, khủng hoảng quốc tế, chịu sức ép phụ thuộc và có thể là sự can thiệp ở mức độ nào
đó từ các quốc gia khác. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là không thể có và không thể giữ được độc lập, tự chủ khi hội
nhập sâu rộng, hay muốn giữ độc lập tự chủ thì không nên hội nhập sâu rộng. Quốc gia chịu tác động, phụ thuộc như thế
nào, ở mức độ nào tùy thuộc vào năng lực tự chủ, tự cường, sức chống chịu của quốc gia và sự lựa chọn chính sách, tiến
trình, bước đi, sân chơi trong hội nhập.
Thứ ba, để bảo đảm độc lập, tự chủ thì cần tránh dựa dẫm, lệ thuộc vào bất kỳ đối tác, thị trường cụ thể nào, trên bất cứ
lĩnh vực nào mà cần đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, đối tác, thị trường, nhất là không gắn mình, lệ thuộc
vào các đối tác lớn, có vai trò và ý nghĩa chiến lược. Muốn giữ được độc lập, tự chủ thì trong chiến lược, chính sách phát
triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung và trong chính sách đối ngoại nói riêng cần nắm vững quan điểm
kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trong đó dựa vào sức mình, dựa vào nội lực đất nước là chính,
khơi dậy và phát huy cao độ nội lực, tranh thủ tối đa các nguồn ngoại lực.
Trong bối cảnh cục diện thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, ảnh hưởng sâu sắc đến an ninh, hợp tác, phát triển
của mỗi quốc gia cũng như vận mệnh của toàn nhân loại, Việt Nam cần có sự điều chỉnh chính sách đối ngoại cho phù
hợp với từng đối tác, không thể có một chính sách chung cho quan hệ với tất cả các nước. Trước những biến động lớn của
thế giới, Việt Nam không chọn phe, chọn bên mà chọn chính nghĩa, hòa bình, đối thoại và luật pháp quốc tế. Việt Nam
tôn trọng sự lựa chọn của các quốc gia. Đây chính là triết lý của đối ngoại Việt Nam, đa dạng, linh hoạt nhưng có nguyên
tắc, đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết, mọi lựa chọn đều ưu tiên cho lợi ích quốc gia, vì hòa bình và phát triển của
đất nước.

19. Những tác động ( thời cơ - thách thức ) từ sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn và đối
sách của VN
1- Chiến lược của Mỹ: Trong chiến lược toàn cầu, Nhà Trắng coi CA-TBD là khu vực địa -chiến
lược, địa-chính trị trọng yếu, quan hệ trực tiếp đến an ninh quốc gia và vai trò lãnh đạo thế giới của
Mỹ. Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ đã nhiều lần tuyên bố, đối với nước Mỹ hiện nay, không có khu vực
nào quan trọng hơn là khu vực CA-TBD. Mục tiêu xuyên suốt của Mỹ ở CA-TBD là nắm vững quyền
chủ đạo, làm nền tảng để bảo vệ lợi ích sống còn của quốc gia ở khu vực và thực hiện chiến lược toàn
cầu. Mỹ thực hiện chiến lược CA-TBD dựa trên 3 trụ cột chính: an ninh, kinh tế và đối ngoại. Về an
ninh, để duy trì an ninh, ổn định ở CA-TBD, Nhà Trắng tăng cường củng cố các liên minh quân sự
truyền thống với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Phi-líp-pin và Thái Lan; coi liên minh với Nhật
Bản là “hòn đá tảng” và tăng cường mở rộng quan hệ quân sự, an ninh với các nước, các cơ cấu an
ninh khu vực, để gây ảnh hưởng và tạo thành “các chân rết” phục vụ chiến lược của Mỹ ở khu vực.
Đồng thời, tăng cường sức mạnh quân sự, hiện đại hóa các lực lượng quân đội đồn trú ở phía trước, các
căn cứ quân sự, hình thành thế bố trí quân sự chiến lược, nhằm khống chế, kiểm soát toàn bộ khu vực,
ngăn chặn không để các nước thách thức đến vai trò lãnh đạo của Mỹ. Về kinh tế, thời gian qua, kim
ngạch buôn bán hai chiều, đầu tư của Mỹ vào khu vực tăng nhanh và cao hơn nhiều so với các khu vực
khác. Hiện nay, Mỹ đang tập trung vào 2 hướng: Một là, tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế
với các nước, nhất là các nước được coi là thị trường lớn, như Nhật Bản, Trung Quốc, ASEAN... Hai
là, phát huy vai trò chủ đạo trong các tổ chức khu vực, như Diễn đàn hợp tác kinh tế CA-TBD (APEC),
để thúc đẩy mở cửa thị trường, tự do hoá thương mại, đầu tư và chi phối kinh tế khu vực. Bên cạnh đó,
Mỹ cũng tăng cường chính sách ngăn chặn, như lập hàng rào thuế quan, áp dụng luật sở hữu trí tuệ, các
chế tài tài chính.., để bảo vệ thị trường trong nước và kiềm chế nước khác về kinh tế. Về đối ngoại, lấy
chiêu bài “chống khủng bố”, “dân chủ”, “nhân quyền”, Mỹ thực hiện chính sách can dự vào khu vực.
Trong quan hệ, coi trọng sách lược “cây gậy và củ cà rốt”, đối xử với các nước theo “tiêu chuẩn kép”,
nhất là với các nước mà Mỹ cho là “bất trị”; thể hiện rõ nhất là cách giải quyết vấn đề hạt nhân của
CHDCND Triều Tiên. Đánh giá về chiến lược của Mỹ, các nhà phân tích cho rằng, đó là một chiến
lược nhằm phát huy sức mạnh tổng thể để đạt mục tiêu của Mỹ ở khu vực; nhưng, chiến lược đó chưa
phù hợp với một CA-TBD đã có nhiều thay đổi; bởi: Thứ nhất, chiến lược đó vẫn mang tư duy của thời
kỳ “chiến tranh lạnh”, là lấy sức mạnh để “ngăn chặn, kiềm chế” nước khác, nhằm bảo vệ an ninh, lợi
ích quốc gia của mình. Điều đó làm cho mâu thuẫn giữa Mỹ với các nước, kể cả các nước đồng minh,
ngày càng sâu sắc, phức tạp. Thứ hai, Mỹ tăng cường sức mạnh quân sự là nhân tố thúc đẩy chạy đua
vũ trang, đe dọa đến đến an ninh, ổn định của khu vực, bị dư luận phản đối.
2- Chiến lược của Trung Quốc (TQ): Trong chiến lược phát triển đất nước, TQ coi CA-TBD là
khu vực có tầm quan trọng chiến lược đối với an ninh và sự phát triển của TQ. Mục tiêu và cũng là
chính sách của TQ đối với CA-TBD là tăng cường hợp tác với các nước, xây dựng CA-TBD thành một
khu vực hoà bình, hợp tác và phát triển. Về kinh tế, sau 15 năm liên tục đạt mức tăng trưởng kinh tế
cao nhất thế giới (trên dưới 10%/ năm), TQ đã trở thành một nền kinh tế quan trọng, một đối tác giàu
tiềm năng đối với các nước trong khu vực và thế giới. Nhưng sự phát triển cũng đặt ra những yêu cầu
cấp bách, đòi hỏi TQ phải tăng cường mở rộng hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế với các nước, để thu
hút đầu tư nước ngoài, tăng cường kim ngạch thương mại hai chiều và mở rộng thị trường ra khu vực
và quốc tế. Trong quan hệ hợp tác, TQ chú trọng phát huy những thế mạnh về công nghệ, giá thành sản
phẩm để tiêu thụ hàng hoá, cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Về an ninh, là quốc gia rộng lớn có hàng
vạn ki-lô-mét đường biên giới tiếp giáp với hàng chục quốc gia, nên TQ rất coi trọng việc đàm phán
với các nước láng giềng để phân định đường biên giới, giải quyết những tranh chấp về lãnh thổ do lịch
sử để lại, tăng cường mở rộng hợp tác, xây dựng biên giới quốc gia hoà bình, ổn định, phục vụ cho
nhiệm vụ xây dựng, phát triển. Mặt khác, TQ ủng hộ và tích cực tham gia vào các cơ cấu an ninh ở khu
vực, nhất là Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO), để tăng cường sức mạnh, bảo vệ an ninh, lợi ích quốc
gia và đối phó với mưu đồ bao vây, kiềm chế TQ của một số cường quốc phương Tây. Đối với vấn đề
Đài Loan, TQ nêu rõ lập trường, giải quyết hoà bình trên tinh thần thống nhất đất nước, “một nước hai
chế độ”, tương tự mô hình của Hồng Công; kiên quyết phản đối nước ngoài can thiệp vào vấn đề Đài
Loan. Về đối ngoại, TQ chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng
hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, dựa trên 5 nguyên tắc chung sống hoà bình mà TQ đã đề ra, nhằm
tạo dựng môi trường hoà bình, ổn định để phát triển. TQ coi trọng quan hệ hợp tác toàn diện với các
nước láng giềng, các nước hữu nghị truyền thống, các nước trong khu vực. Thời gian qua, TQ và Việt
Nam đã không ngừng thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước lên tầm cao mới,
theo phương châm 16 chữ: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương
lai”. Hai nước quyết tâm xây dựng quan hệ hai nước mãi mãi là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí
tốt, đối tác tốt”. Trong quan hệ với Mỹ và Nhật Bản, TQ chủ trương gác lại những tồn tại do lịch sử để
lại; hạn chế những bất đồng, tận dụng những điểm tương đồng, những lợi ích chung để mở rộng hợp
tác cùng có lợi. TQ cũng tích cực phát huy vai trò của mình trong giải quyết các vấn đề khu vực, nhất
là trong giải quyết khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, thông qua đó nâng cao vị trí và vai
trò quan trọng của TQ ở khu vực và trên trường quốc tế. Tuy nhiên, TQ cũng đang đứng trước những
thách thức không nhỏ. Thứ nhất, lo ngại về sự lớn mạnh của TQ, nhiều cường quốc phương Tây đã coi
TQ là “đối thủ cạnh tranh chiến lược” và thực hiện chính sách kiềm chế, ngăn chặn TQ trên tất cả các
lĩnh vực. Thứ hai, việc tăng cường sức mạnh quân sự của TQ làm cho nhiều nước cảnh giác, lo ngại
TQ đang có ý định “lấp chỗ trống quyền lực” ở CA-TBD, điều đó làm cho cạnh tranh chiến lược giữa
các cường quốc ngày càng quyết liệt.
3- Chiến lược của Nhật Bản (NB): Là một cường quốc kinh tế, NB đang có những điều chỉnh
chính sách để khẳng định vị trí chính trị, quân sự ở khu vực và trên trường quốc tế. Về kinh tế, NB tiếp
tục mở rộng ảnh hưởng ở khu vực, thông qua quan hệ hợp tác kinh tế, nhất là các thị trường lớn như
TQ, ASEAN. Về an ninh, NB vẫn coi liên minh quân sự với Mỹ là nền tảng cho an ninh quốc gia và để
tăng cường ảnh hưởng của NB ở khu vực. Vừa qua, NB đã quyết định nâng cấp Cục Phòng vệ thành
Bộ Quốc phòng. Các nhà lãnh đạo của NB cũng công khai chủ trương sửa đổi Hiến pháp để quân đội
NB có thể tham gia các hoạt động quân sự ở bên ngoài lãnh thổ quốc gia. Tăng cường hợp tác an ninh
với Mỹ, nhất là trong xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa chiến trường, mà họ cho là để đối phó với
các mối đe dọa tiềm tàng, nhất là từ CHDCND Triều Tiên. Về đối ngoại, NB ủng hộ chủ trương cải tổ
Liên hợp quốc (LHQ), tích cực vận động Mỹ và các nước khác ở khu vực ủng hộ NB làm uỷ viên
thường trực mới của Hội đồng Bảo an LHQ. Tuy nhiên, việc NB ủng hộ yêu cầu của Mỹ đòi EU tiếp
tục lệnh cấm vận vũ khí đối với TQ, đưa Đài Loan vào phạm vi tác chiến của quân đội NB, đã bị TQ
phản đối quyết liệt, coi đây là sự vi phạm trắng trợn chủ quyền của TQ, làm phương hại đến quan hệ
hai nước. Hơn nữa, chính sách quân sự mới của NB khiến cho dư luận nhiều nước lo ngại NB sẽ quay
trở lại chủ nghĩa quân phiệt. Theo các nhà phân tích, với chính sách như vậy, NB đang tự gây khó khăn
cho mình trong việc thực hiện tham vọng khu vực và quốc tế.
4- Chiến lược của Nga: Các nhà lãnh đạo Nga cho rằng, CA-TBD là khu vực có tầm quan trọng chiến
lược đối với Nga, nhất là hiện nay, Nga đang rất cần có “đối trọng” để đối phó với mưu đồ và các hành
động tranh giành ảnh hưởng, bao vây, khống chế bằng quân sự đối với Nga của Mỹ và NATO. Hiện
nay, Nga rất chú trọng tăng cường quan hệ hợp tác với các nước, nhất là các nước láng giềng, các nước
có quan hệ truyền thống, như TQ, ấn Độ, các nước khu vực Trung á. Trong quan hệ với Mỹ, Nga vẫn
lấy hợp tác làm chính, nhưng kiên quyết phản đối Mỹ can thiệp nội bộ của Nga. Nga chú trọng phát
huy thế mạnh, trách nhiệm trong cải thiện, nâng tầm quan hệ, chất lượng hợp tác trong các tổ chức khu
vực mà Nga tham gia, như SNG, SCO, đáp ứng nguyện vọng của các nước thành viên cũng như yêu
cầu của tình hình mới, để bảo vệ an ninh, lợi ích quốc gia và phát huy vai trò, vị trí quan trọng của
mình ở khu vực.
Khu vực CA-TBD giàu tiềm năng kinh tế và đang đứng trước những thuận lợi to lớn cho sự phát
triển, song cũng còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, xung đột dân tộc, tôn giáo, tranh chấp chủ quyền lãnh
thổ, tài nguyên thiên nhiên, chủ nghĩa ly khai, khủng bố, tình trạng phổ biến vũ khí hạt nhân... ở đây
còn có nhiều “điểm nóng” tiềm tàng, đe dọa đến an ninh, ổn định khu vực và thế giới. Dư luận cho
rằng, giữ vững môi trường an ninh, ổn định và hợp tác chính là “chìa khoá” cho sự phát triển của khu
vực trong thời gian qua, cũng như trong thời gian tới. Điều này là phù hợp với xu thế hoà bình, hợp tác,
phát triển của thời đại, là nguyện vọng cấp thiết cho sự phát triển của các quốc gia-dân tộc. Chính vì
vậy, hơn lúc nào hết, các nước, nhất là các nước lớn cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng, lợi ích và
trách nhiệm đối với an ninh, ổn định khu vực, tăng cường mở rộng hợp tác khu vực, liên khu vực, quốc
tế, trên tinh thần tuyệt đối tuân thủ luật pháp quốc tế, Hiến chương LHQ, tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp nội bộ nước khác; không đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc
tế; giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng đàm phán hoà bình; hợp tác bình đẳng cùng có lợi, để cùng
nhau đối phó với những thách thức, nguy cơ, xây dựng CA-TBD hoà bình, ổn định, hợp tác và phát
triển.
Đối sách của Việt Nam
Về những tác động thuận lợi
Một là, cấu trúc an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay bảo đảm môi trường an ninh
và không gian phát triển cho Việt Nam. Sự gia tăng cạnh tranh chiến lược của các nước lớn tại khu
vực, đặc biệt là cạnh tranh chiến lược của Mỹ và Trung Quốc đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam
phát triển thị trường, tiếp cận nguồn vốn và công nghệ. Nhiều mặt hàng Mỹ đánh thuế nhập khẩu từ
Trung Quốc đều nằm trong thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nay, hành lang kinh tế Đông - Tây
đã hình thành. Với vị trí chiến lược, Việt Nam trở thành điểm kết nối, tạo điều kiện cho hàng hóa của
các nước thuộc tiểu vùng sông Mê Kông thâm nhập vào các thị trường tiềm năng khu vực Nam Á và
Tây Á, từ đó nối trực tiếp ra Thái Bình Dương xuất khẩu đi các nước trên thế giới. Với hệ thống kho
vận, cảng biển quy mô lớn, hiện đại trên trục kết nối Đông - Tây đã tạo một không gian phát triển mới,
bền vững cho ASEAN và Việt Nam.
Hai là, cấu trúc an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay đã tạo cơ hội để Việt Nam
tham gia giải quyết các vấn đề chung của khu vực thông qua cơ chế hợp tác của ASEAN. Sự tương
quan lực lượng giữa các nước tại khu vực, đặc biệt là sự tương quan lực lượng giữa các nước lớn có
nhiều thay đổi đã tác động tới quan hệ quốc tế và cấu trúc an ninh khu vực. Trong bối cảnh đó,
ASEAN trở thành vai trò trung tâm trong cấu trúc an ninh khu vực và là chủ thể thúc đẩy hợp tác tại
khu vực. Là thành viên của ASEAN, với tinh thần trách nhiệm, sự chủ động tích cực, Việt Nam đã
cùng các nước ASEAN thiết lập nên các cơ chế, diễn đàn, tác động vào tiến trình định hình cấu trúc an
ninh tại khu vực. Điều đó được thể hiện qua việc Việt Nam hoàn thành tốt vai trò điều phối quan hệ
ASEAN - Trung Quốc; ASEAN-EU; ASEAN - Nhật Bản. Việt Nam đảm nhiệm thành công vai trò
Chủ tịch trong năm 2010, thúc đẩy thành lập cơ chế ADMM+. Đặc biệt năm 2020, với vai trò là Chủ
tịch ASEAN, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) giữa ASEAN với 5 nước đối tác đã
được ký vào ngày 15-11-2020, đưa RCEP trở thành một FTA có quy mô lớn nhất toàn cầu hiện nay.
Ba là, cấu trúc an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay với ASEAN giữ vai trò trung
tâm đã tạo cơ hội cho Việt Nam nâng cao vai trò, vị thế, uy tín trong khu vực và trên thế giới. Hiện
nay, trong chiến lược của các nước lớn, Việt Nam được xác định là đối tác quan trọng hàng đầu tại
Đông Nam Á. Trung Quốc đã xác định Việt Nam là một trọng điểm trong các chiến lược như Sáng
kiến Vành đai Con đường, Cộng đồng chung vận mệnh hay ngoại giao láng giềng. Mỹ xác định Việt
Nam ở vị trí ưu tiên trong tổng thể chính sách với khu vực châu Á - Thái Bình Dương hay Ấn Độ
Dương - Thái Bình Dương. Còn các cường quốc khu vực cũng đặt Việt Nam ở vị trí đối tác hàng đầu
trong ASEAN. Cụ thể, Việt Nam được xác định là một trọng tâm tăng cường quan hệ trong chính sách
“Hướng Nam” của Nhật Bản, “Hành động Hướng Đông” của Ấn Độ, “Hướng Đông” của Nga, “Hướng
Bắc” của Ôxtrâylia... Hiện nay, ASEAN đã và đang phát huy vai trò trung tâm trong cấu trúc an ninh
khu vực. Các cơ chế, thể chế, diễn đàn do ASEAN tạo ra đã quy tụ được nhiều nước tham gia, đặc biệt
là các nước lớn. Vai trò trung tâm và uy tín của ASEAN được nâng cao, có ý nghĩa quan trọng đối với
mỗi thành viên của ASEAN, trong đó có Việt Nam.
Về những thách thức
Thứ nhất, cấu trúc an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương bị chi phối bởi cạnh tranh chiến
lược nước lớn ngày càng gay gắt, ảnh hưởng đến việc thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác của Việt Nam
với các nước. Sự cạnh tranh chiến lược trong quan hệ Mỹ - Trung Quốc làm cho môi trường an ninh
khu vực chuyển sang trạng thái khó đoán định. So sánh tương quan lực lượng ở khu vực đã có nhiều
thay đổi. Trung Quốc thiết lập và tăng cường nhiều cơ chế quốc tế lớn đối trọng với các cơ chế, khuôn
khổ mà Mỹ xây dựng. Phạm vi cạnh tranh trong không gian chiến lược được trải rộng toàn khu vực
châu Á - Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Dù xét trên phạm vi nào thì địa bàn
trung tâm trong không gian đó chính là khu vực Đông Nam Á. Vì vậy, các nước thành viên ASEAN,
trong đó có Việt Nam đang đứng trước rất nhiều khó khăn trong việc lựa chọn thúc đẩy quan hệ hợp
tác với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, vai trò trung tâm của ASEAN đang gặp những thách thức từ sự phân hóa nội bộ thành
viên, tác động sâu sắc đến quá trình hợp tác, liên kết của Việt Nam. Sự tìm kiếm duy trì đồng thuận
trong ASEAN đang đứng trước nhiều thách thức, đặc biệt là trong vấn đề Biển Đông. Cách tiếp cận
riêng lẻ của các nước lớn đã gây ra sự chia rẽ, thiếu tính đoàn kết trong nội bộ ASEAN về xử lý các
vấn đề chung của khu vực. Điều đó đã tạo nên những khoảng cách khác biệt giữa các thành viên và ảnh
hưởng không nhỏ đến Việt Nam trong hợp tác, liên kết và giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN
trong cấu trúc an ninh khu vực.
Giải pháp thích ứng của Việt Nam
Thứ nhất, Việt Nam cần đánh giá đúng tác động của cấu trúc an ninh khu vực châu Á-Thái Bình
Dương đối với lợi ích quốc gia
Trong xu thế toàn cầu, Việt Nam thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế, toàn diện, sâu rộng, giữ
vững độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Vì vậy, sự vận động, định hình
cấu trúc an ninh khu vực có ý nghĩa rất quan trọng với Việt Nam. Nghiên cứu, đánh giá và dự báo đúng
tác động từ môi trường cấu trúc an ninh khu vực và quốc tế sẽ giúp cho Việt Nam xác định, xây dựng
chính sách ngoại giao phù hợp, chủ động trong mọi tình huống, chuẩn bị các phương án thích ứng linh
hoạt trong các trường hợp cụ thể trước mọi diễn biến phức tạp.
Thứ hai, Việt Nam cần tích cực, chủ động đóng góp trách nhiệm thành viên trong Cộng đồng
ASEAN nhằm giữ vững vai trò trung tâm trong cấu trúc an ninh khu vực
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước
ASEAN xây dựng Cộng đồng đoàn kết, vững mạnh, giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu
trúc an ninh khu vực”(7). Vai trò trung tâm của ASEAN có được hiện nay một phần là do cạnh tranh các
nước lớn không bên nào chiếm ưu thế tuyệt đối. Hơn nữa, bản thân ASEAN cũng đã tạo ra được những
khuôn khổ, diễn đàn, cơ chế phù hợp để các bên bày tỏ quan điểm, chính sách và bảo vệ lợi ích chính
đáng của mình, vừa làm tốt vai trò trung gian để kết nối các bên xử lý tranh chấp, bất đồng...
Để bảo đảm lợi ích trong những năm tới, ASEAN cần thúc đẩy một cấu trúc khu vực trên cơ sở các cơ
chế hiện có mà ASEAN giữ vai trò chủ đạo. Bên cạnh đó, ASEAN cần nâng cao sức hấp dẫn của các
cơ chế, thu hút ngày càng nhiều các quốc gia tham gia, đặc biệt là các nước lớn. Vì vậy, Việt Nam
cùng các nước ASEAN cần nỗ lực nâng cao vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu
vực.
Thứ ba, Việt Nam cần giữ vững sự ổn định chính trị, môi trường an ninh, bảo đảm không
gian phát triển, nâng cao vị thế trong khu vực và trên thế giới
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại
trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để
phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước” (8). Như vậy, mục tiêu xuyên suốt, nhất quán
của Việt Nam là duy trì và bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Đồng
thời, sự ổn định và phát triển của Việt Nam cũng phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường hòa bình, ổn định
của khu vực và trên thế giới. Việt Nam cần tích cực tham gia xây dựng, định hình cấu trúc an ninh khu
vực thông qua các cơ chế hợp tác mà ASEAN giữ vai trò trung tâm. Từ đó, Việt Nam sẽ có nhiều cơ
hội để phát huy vai trò, nâng cao vị thế, uy tín quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

Phân tích và nhận xét đặc điểm ĐCT khu vực


a.

11Trung Đông từ 2000 - nay ( 229)


- QT VẬN ĐỘNG ( KO HỢP TÁC LIÊN KẾT, NHIỀU BIẾN ĐỘNG, TIẾN TRÌNH HÀO
BÌNH Ở TRUNG ĐÔNG NHƯ THẾ NÀO - NÓI RÕ)
- BẤT ỔN CHÍNH TRỊ Ở KHU VỰC TRUNG ĐÔNG BẮC PHI NHƯ THẾ NÀO
- XU HƯỚNG TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC TRONG KHU VỰC ( CÁC LIÊN MINH VS
NUCOWS Ả RẬP ,...LIÊN MINH KT, XUẤT KAHAUR DẦU)
- XUNG ĐỘT ISRAEL VÀ HAMAS (NN, DỰ ĐOÁN,...)
- NX ĐỊA CHÍNH TRỊ ( HIỆN NAY NTN, TƯƠNG LAI NTN)

- ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC CỦA KV

Nằm ở ngã ba Á - Âu - Phi, Trung Đông nắm giữ vị trí địa chính trị quan trọng và luôn được xem là
tâm điểm chiến lược của thế giới vì có nhiều dầu mỏ. Ngược dòng thời gian mới thấy, những bất ổn ở
Trung Đông đã có từ lâu, trong khi chúng kéo dài chưa hồi kết thì lại có hàng loạt những bất ổn mới bị
khơi lên.

Các chuyên gia khi phân tích về vùng đất này đều nhìn nhận có những vấn đề nội tại phức tạp khiến
Trung Đông trùng trùng nỗi lo. Đó là tranh chấp lãnh thổ như giữa Israel và Palestine, tranh chấp về
quyền lợi của các dân tộc, những nhóm người cư trú không phải bên trong lãnh thổ một quốc gia mà
phân tán ở nhiều nước, trong đó nổi bật là nhóm người Kurd đang rải rác ở Iran, Iraq, Syria và Thổ Nhĩ
Kỳ. Đó là những bất đồng kéo dài hàng ngàn năm giữa hai dòng Sunni và Shi'ite trong lòng thế giới
Hồi giáo. Và đó còn là cuộc cạnh tranh quyền lực về vai trò và tham vọng lãnh đạo trong thế giới Ả
Rập. Chính những vấn đề ấy khiến các nước Trung Đông bao năm nay vẫn ngổn ngang chia rẽ.

Trung Đông bao gồm một số quốc gia ở cả hai châu lục Á – Phi, do vậy nó trở thành cầu nối giữa hai
lục địa.

Từ khu vực này có thể thông thương với châu Âu qua Địa Trung Hải, tiến đến Nam Á qua vùng biển Ả
Rập và là điểm dừng chân trên con đường đi đến vùng Viễn Đông.

Chính vì thế, các đế chế hùng mạnh đều mong muốn khống chế, sở hữu vùng địa lý quan trọng này,
biến nó thành bàn đạp để tiếp túc xâm lấn các vùng đất khác. Ngay từ thời cổ đại, Đế chế Ba Tư, tiếp
đó là Đế chế Macedonia của Alexandros đã xua quân xâm chiếm khu vực quan trọng này.

Khi đế quốc La Mã trở lên hùng mạnh ở châu Âu, một trong những việc quan trọng đầu tiên của họ là
xâm lược Ai Cập. Rồi khi Đế chế Mông Cổ tung vó ngựa xâm chiếm cả thế giới cũng không quên
khống chế nơi hiểm địa trọng yếu này. Khi Đế quốc Ottoman của người Thổ quật khởi trở thành một
thế lực lớn của thế giới cũng tìm mọi cách nhòm ngó, xâm chiếm và đô hộ nơi đây…

Ngày nay, các cường quốc thế giới cũng luôn tìm cách áp đặt ảnh hưởng của mình ở khu vực địa –
chính trị quan trọng này.

Sở hữu một nửa trữ lượng dầu mỏ của thế giới

Mặc dù được phát hiện và sử dụng từ hàng ngàn năm trước, nhưng mãi đến giữa thế kỉ XIX, khi mà
ngành công nghiệp phát triển bùng nổ với sự phổ biến của động cơ đốt trong, trong cả sản xuất và đời
sống thường nhật, dầu mỏ mới trở thành nguồn nguyên liệu vô cùng quan trọng của thế giới.

Nguồn nguyên liệu này lại vô cùng phong phú ở khu vực Trung Đông. Theo thống kê của Cơ quan
Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) và Tổ chức Các nước Xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) thì Trung Đông sở
hữu ½ trữ lượng dầu mỏ của thế giới.

Người ta dự tính, trữ lượng dầu mỏ này còn đủ cho cả thế giới dùng trong khoảng 50 năm nữa. Trong
khoảng thời gian này, dầu mỏ vẫn được xác định là nguồn năng lượng chính không thể thay thế.

Chính vì vậy, “rốn dầu của thế giới” Trung Đông trong tương lai vẫn sẽ là một trong những trọng địa
của thế giới.

Với tất cả những đặc trưng trên, Trung Đông giống như một “miếng mồi béo bở”, hấp dẫn mà bất cứ
một quốc gia nào cũng đều ham muốn sở hữu hoặc áp đặt sự ảnh hưởng của mình ở khu vực. Vì những
lý do đó, Trung Đông luôn tiềm ẩn những nguy cơ căng thẳng và leo thang. Tuy nhiên,thực tế cho
thấy, bài toán nào cũng có lời giải, vấn đề ai, hoặc những ai sẽ góp phần giải bài toán đó…

- ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ CHÍNH TRỊ KINH TẾ VĂN HÓA XH

- QTRINH VẬN ĐỘNG ĐỊA CHÍNH TRỊ ( HỢP TÁC LIÊN KẾT VỀ CHÍNH TRỊ, AN NINH
QUỐC PHÒNG, KINH TẾ, VĂN HÓA XH VÀ MÔI TRƯỜNG)

Với vị trí địa - chiến lược trọng yếu cùng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, Trung Đông
từ lâu đã trở thành một trong những địa bàn xung đột và tranh giành ảnh hưởng “nóng” nhất
trên thế giới. Sự xuất hiện của nhiều yếu tố mới trong thời gian qua đã tác động không nhỏ tới
cục diện chính trị - an ninh Trung Đông, báo hiệu một tương lai đầy bất ổn đối với khu vực được
cho là phức tạp và khó lường nhất thế giới này.
Thay đổi chính quyền và chính sách phát triển của các nước lớn trong khu vực

Sự điều chỉnh chính sách đối với khu vực Trung Đông của các nước lớn

Cùng với sự thay đổi trong chính sách phát triển của các nước lớn trong khu vực, thời gian qua, cục
diện khu vực Trung Đông cũng chứng kiến bước chuyển lớn trong cạnh tranh chiến lược giữa các
cường quốc trên thế giới. Mỹ giảm dần can dự trên thực địa, nhất là về quân sự; Trung Quốc, Nga đẩy
mạnh ảnh hưởng cả về kinh tế và quân sự, tăng cường can dự để lấp dần những khoảng trống, đã tác
động lớn tới cục diện và cán cân lực lượng tại khu vực.

Với Mỹ, mặc dù không còn là ưu tiên hàng đầu, song khu vực Trung Đông vẫn là một phần quan trọng
trong chính sách đối ngoại - an ninh của Mỹ. Chính quyền Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn cơ bản vẫn duy
trì các mục tiêu cốt lõi của chính quyền tiền nhiệm, như: 1- Bảo đảm an ninh cho các đồng minh, kiềm
chế sự trỗi dậy của I-ran; 2- Duy trì các lợi ích kinh tế, quân sự, an ninh chiến lược tại khu vực. Theo
báo cáo thường niên năm 2021 của Viện Nghiên cứu Hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI) về “Xu
hướng chuyển giao vũ khí quốc tế”, trong giai đoạn 2016 - 2020, Trung Đông chiếm khoảng 47% số
thỏa thuận mua vũ khí của Mỹ, góp phần quan trọng giúp Mỹ khẳng định vị trí số một về xuất khẩu vũ
khí trên toàn cầu. Đồng thời, chính quyền Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn cũng thực hiện một số thay đổi
quan trọng trong chính sách của Mỹ đối với khu vực, như: 1- Quyết liệt hoàn thành việc rút quân và
giảm dần can dự quân sự như tại Áp-ga-ni-xtan và I-rắc; 2- Tăng cường quan hệ với các đồng minh
trong khu vực, như I-xra-en, A-rập Xê-út, Các tiểu Vương quốc A-rập Thống nhất (UAE) thông qua
hợp tác về quân sự, kinh tế bất chấp một số khác biệt; 3- Coi trọng giải quyết các vấn đề khu vực thông
qua các biện pháp ngoại giao. Trong giải quyết vấn đề xung đột giữa I-xra-en và Pa-le-xtin, Tổng
thống Mỹ G. Bai-đơn quyết định nối lại viện trợ cho người dân Pa-le-xtin, khẳng định giải pháp “hai
nhà nước” thông qua đàm phán là con đường khả thi nhất để đạt được nghị quyết lâu dài cho xung đột
I-xra-en - Pa-le-xtin. Bên cạnh đó, chính quyền của Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn cũng rất coi trọng vấn
đề hạt nhân và chương trình tên lửa đạn đạo của I-ran, một mặt, tích cực đàm phán nối lại JCPOA; mặt
khác, tiếp tục thực hiện chiến thuật kiềm tỏa, buộc I-ran phải nhượng bộ. Trong cuộc trao đổi với Thủ
tướng I-xra-en Náp-ta-li Ben-nét vào tháng 8-2021, Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn khẳng định sẽ bảo đảm
I-ran không thể sản xuất được bất kỳ một vũ khí hạt nhân nào và Mỹ sẽ xem xét triển khai các bước
kiềm chế hành động gây nguy hiểm tới khu vực của I-ran.

Với Trung Quốc, khi Mỹ giảm dần sự hiện diện tại khu vực, Trung Quốc ngày càng quyết tâm đạt
được các mục tiêu chiến lược tại khu vực, như: 1- Bảo đảm nguồn cung dầu mỏ, khí đốt giá rẻ từ
Trung Đông; 2- Hoàn thiện hơn nữa mạng lưới Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) qua khu vực
Trung Đông tới châu Phi, châu Âu, tạo thế trong cạnh tranh nước lớn; 3- Tập hợp lực lượng, tìm kiếm
sự ủng hộ chính trị của các nước lớn trong khu vực, như I-ran, A-rập Xê-út, UAE. Về chính trị, Trung
Quốc tập trung: 1- Đẩy mạnh trao đổi đoàn, điện đàm cấp cao với lãnh đạo các quốc gia trong khu vực;
2- Ký kết các thỏa thuận hợp tác lâu dài, tăng cường đồng thuận chính trị với “Sáng kiến 5 điểm” để
giữ vững an ninh, ổn định và hòa bình lâu dài tại khu vực Trung Đông; 3- Tăng cường chia sẻ kinh
nghiệm quản trị với các quốc gia khu vực thông qua một số cơ chế như Diễn đàn phát triển và cải cách
A-rập - Trung Quốc, Diễn đàn An ninh Trung Đông năm 2021. Trung Quốc cho biết sẵn sàng làm
trung gian giải quyết các vấn đề còn tồn tại của khu vực, như xung đột I-xra-en - Pa-le-xtin, ủng hộ
sáng kiến của A-rập Xê-út nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng ở Y-ê-men. Về kinh tế, Trung Quốc tập
trung: 1- Đẩy mạnh hợp tác trong khuôn khổ BRI phù hợp với chiến lược phát triển của các quốc gia
khu vực; 2- Tăng cường trao đổi thương mại, đầu tư, nhất là trong lĩnh vực công nghệ số, củng cố vị
thế là đối tác thương mại và nhà đầu tư lớn nhất ở Trung Đông. Đồng thời, với sự bùng phát mạnh mẽ
của dịch bệnh COVID-19, Trung Quốc tích cực hỗ trợ vắc-xin và nhiều trang thiết bị y tế giúp các
quốc gia khu vực nhanh chóng kiểm soát dịch bệnh COVID-19. Trong bối cảnh Mỹ đang ngày càng
thắt chặt “vòng vây” kiềm tỏa sự vươn lên của Trung Quốc, Trung Đông sẽ tiếp tục đóng vai trò huyết
mạch trong chiến lược “phá vây” của Trung Quốc, hứa hẹn sẽ có những bước tiến vượt bậc trong quan
hệ hai bên thời gian tới.

Với Nga, khu vực Trung Đông ngày càng giữ vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại - an ninh của
Nga. Từ vị trí “rất quan trọng với lợi ích của Nga” trong “Học thuyết chính sách đối ngoại của Liên
bang Nga” năm 2000, Trung Đông trở thành khu vực có vị trí “chiến lược quan trọng đối với lợi ích
của Nga” trong “Những định hướng cơ bản chính sách đối ngoại của Liên bang Nga” năm 2008. Năm
2016, với mong muốn thể hiện rõ vị thế cường quốc tại khu vực Trung Đông, Nga đưa ra chủ trương
“khẳng định vị thế cường quốc trong giải quyết các vấn đề khu vực” trong Học thuyết chính sách đối
ngoại(7). Với chiến lược đúng đắn, linh hoạt và thực dụng, thông qua trục quan hệ I-ran, I-xra-en, A-
rập Xê-út, Nga ngày càng củng cố được vị thế cường quốc trong xử lý các vấn đề khu vực, bảo đảm
các lợi ích chiến lược, như: 1- Vị thế nước lớn của Nga; 2- An ninh khu vực phía Tây Nam trước sự
mở rộng mạng lưới quân sự của phương Tây do Mỹ đứng đầu; 3- Thu hút nguồn lực bên ngoài trong
bối cảnh vẫn bị phương Tây cấm vận. Trong khuôn khổ chuyến thăm đầu tiên tới Nga vào ngày 22-10-
2021, Thủ tướng I-xra-en N. Ben-nét nhấn mạnh “Nga có vai trò rất quan trọng tại khu vực Trung
Đông”(8). Tiến trình giải quyết khủng hoảng Xy-ri do Nga bảo trợ thông qua các Hội nghị Át-xta-na,
Xô-chi đã và đang cho thấy hiệu quả thiết thực hơn rất nhiều so với các cuộc đàm phán ở thành phố
Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ) do Mỹ và các nước đồng minh dẫn dắt. Thành tựu này cùng với sự “lạnh nhạt”
của Mỹ đã thúc đẩy Nga tăng cường can dự hơn nữa tại khu vực Trung Đông, thông qua các mối quan
hệ đan xen đối với cả I-ran, Xy-ri, A-rập Xê-út và I-xra-en, góp phần kiến tạo hòa bình cho một số
“điểm nóng” của khu vực, như xung đột I-xra-en - Pa-le-xtin, vấn đề hạt nhân I-ran, nội chiến tại Y-ê-
men(9) và khủng hoảng kinh tế - chính trị tại Li-băng(10), bảo đảm vị thế và các lợi ích chiến lược của
Nga tại khu vực. Trong bối cảnh bạo lực leo thang giữa I-xra-en và Ha-mát tại khu vực Bờ Tây, ngày
31-5-2021, Bộ trưởng Ngoại giao Nga Xéc-gây Vích-tô-rô-vích La-vơ-rốp cho biết, cả I-xra-en và Pa-
le-xtin đều bày tỏ sẵn sàng tham gia đàm phán dưới sự trung gian dẫn dắt của Nga(11).

Tình hình Bắc Phi - Trung Đông những năm qua

Biến động chính trị, làn sóng biểu tình chống chính phủ diễn ra ở một loạt nước Bắc Phi - Trung Đông từ đầu
năm 2011 khiến khủng hoảng chính trị leo thang ở nhiều nước, hàng loạt rối loạn dân sự và can thiệp quân sự
nổ ra trên toàn khu vực này đã đẩy tình hình Trung Đông - Bắc Phi vào tình trạng mất ổn định nghiêm trọng,
gây chấn động thế giới và tác động đến tình hình quan hệ quốc tế.

Biến động chính trị ở Bắc Phi - Trung Đông là một “làn sóng cách mạng” và biểu tình xảy ra ở các nước trong
thế giới A-rập. Hầu hết các cuộc biểu tình đều phát triển về quy mô và tạo thành “hiệu ứng đô-mi-nô”, nhanh
chóng tác động và lan sang nhiều nước khác trong khu vực, với mục đích phản đối tình trạng giá lương thực,
nhiên liệu tăng, thất nghiệp cao; đòi sửa đổi hiến pháp và bầu cử tự do; chống độc tài, chuyên chế, đấu tranh đòi
dân chủ... Bên cạnh đó, ở mỗi nước, cách thức biểu dương lực lượng của người dân cũng như cách thức trấn áp
của chính quyền lại khác nhau. Chính phủ các nước từ lâu quá dựa dẫm vào sự bảo trợ, “chiếc ô” an ninh của
Mỹ và các nước châu Âu nên rất lúng túng trong xử lý tình hình, dẫn đến mắc sai lầm trong đối phó với biểu
tình, bạo loạn, khiến đất nước ngày càng lún sâu vào khủng hoảng.

Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng, biến động chính trị trong khu vực là sự tác động của khủng
hoảng kinh tế toàn cầu. Nhưng nguyên nhân sâu xa nằm trong nội tại những thể chế kinh tế - chính trị - xã hội
mà các nước Bắc Phi - Trung Đông thiết lập, như việc duy trì quá lâu chế độ chính trị độc tài, tập quyền, dẫn
đến tình trạng vi phạm nhân quyền, mất dân chủ diễn ra ở nhiều nước; tình trạng tham nhũng trầm trọng khiến
khoảng cách giàu - nghèo ngày càng nới rộng, kinh tế kém phát triển, thất nghiệp tăng cao, gây nên sự bất bình
và phản kháng của người dân. Đây cũng là lý do khiến khu vực này trở thành nạn nhân đầu tiên của cuộc suy
thoái kinh tế toàn cầu.

Ngoài ra, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến biến động chính trị tại Bắc Phi - Trung Đông là
chính sách hai mặt về dân chủ cùng những can thiệp dân sự, quân sự, chính trị của một số nước phương Tây tại
khu vực này nhằm xóa bỏ những chế độ không còn phù hợp với lợi ích của họ và dựng lên những chính quyền
mới để duy trì lợi ích của họ trong khu vực.

Khủng hoảng nổ ra khiến chính quyền nhiều nước cũng như chế độ quân chủ và cộng hòa chuyên chế bị lật đổ.
Tập hợp lực lượng trong một khu vực vốn có nhiều chia rẽ và hạn chế nay càng trở nên khó khăn hơn. Mặt
khác, quá trình dân chủ hóa đang được đẩy nhanh đã gây ra sự biến động lớn trong tình hình chính trị của khu
vực này, có thể dẫn đến quá trình tái thiết, hình thành nên những nhà nước mới, gây xáo trộn không nhỏ trên
bản đồ chính trị khu vực...

Cuộc khủng hoảng này đã dẫn đến những hệ quả trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là sự thay đổi chính sách của
từng nước và trong các cặp quan hệ. Biến động chính trị - xã hội làm gia tăng thêm sự cạnh tranh ảnh hưởng
giữa các nước xung quanh tình hình Li-bi, Xy-ri, khi giữa các nước lớn, hay các nước Hồi giáo vốn có thái độ
và cách ứng xử khác nhau, thậm chí trái ngược, dẫn đến những điều chỉnh nhất định trong chính sách khu vực.

Từ sau biến động chính trị của “Mùa xuân A-rập”, khu vực Bắc Phi - Trung Đông đã có những chuyển động
mới, dẫn đến dần hình thành cục diện chính trị mới tại đây. Các đặc điểm chính trị tại khu vực này chính là
những nhân tố quan trọng tác động đến sự biến động cục diện chính trị. Tiêu biểu là sự nổi lên mạnh mẽ của xu
hướng Hồi giáo cực đoan, sự trỗi dậy của lực lượng khủng bố, đặc biệt là Tổ chức nhà nước Hồi giáo (IS) tự
xưng tại Trung Đông, dẫn đến cuộc chiến chống khủng bố cũng gia tăng. Cùng với đó là vấn đề hạt nhân I-ran
bước đầu được giải quyết sau khi Thỏa thuận hạt nhân toàn diện (JCPOA) giữa I-ran và P5+1 đã có hiệu lực...
Đặc biệt là cuộc cạnh tranh Nga - Mỹ đã dẫn đến sự thay đổi cán cân quyền lực tại khu vực Trung Đông - Bắc
Phi hiện nay.

Sau thời kỳ “Mùa xuân A-rập”, các nước Trung Đông - Bắc Phi vẫn đang phải đối mặt với các mối đe dọa
nghiêm trọng và viễn cảnh đầy u ám. Đàn áp, bất công, nghèo đói, mâu thuẫn sắc tộc và phe phái sâu sắc đã tạo
điều kiện cho các nhóm khủng bố và lực lượng thánh chiến cực đoan hoành hành khắp khu vực, trong khi nguy
cơ xung đột vũ trang vẫn đang chực chờ tại nhiều điểm nóng. Các nước ở khu vực này vẫn chật vật đối phó với
vấn đề an ninh khi bạo lực và xung đột vẫn bùng phát ở khắp nơi, từ Xy-ri, I-rắc, I-xra-en, Pa-le-xtin đến Li-bi,
Ai Cập, Tuy-ni-di.

Cuộc xung đột kéo dài nhất trong lịch sử thế giới hiện đại giữa I-xra-en và Pa-le-xtin chưa có dấu hiệu hạ nhiệt
ở vùng đất Trung Đông khói lửa này. Việc Tổng thống Mỹ Đô-nan Trăm tuyên bố chính thức công nhận vùng
đất còn đang tranh chấp Giê-ru-xa-lem là Thủ đô của I-xra-en (ngày 6-12-2017) và chuyển Đại sứ quán Mỹ
hiện ở Ten A-víp về thành phố này (ngày 14-5-2018) không chỉ dễ dẫn đến việc đặt dấu chấm hết cho tiến trình
đàm phán hòa bình Trung Đông, mà còn làm trầm trọng thêm tình trạng thù địch ở khu vực này, khiến làn sóng
bạo lực căng thẳng giữa người Pa-le-xtin và I-xra-en, giữa cộng đồng người Do Thái và A-rập bùng phát trở lại,
đẩy Trung Đông vào một tình trạng hỗn loạn mới.

Trong khi đó, một số nước, như Ai Cập, Tuy-ni-di vừa phải tiếp tục hoàn tất tiến trình chuyển tiếp chính trị,
phục hồi kinh tế sau khủng hoảng, vừa phải đối phó với mối đe dọa khủng bố. Nhiều vụ tấn công đẫm máu đã
xảy ra ở các nước này, gây thiệt hại nặng nề. Xy-ri vẫn là tâm điểm của cuộc chiến mang đậm màu sắc tôn giáo
và sắc tộc. Quốc gia này đang là tiền tuyến số một trong cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố và các lực lượng
cực đoan.

Bên cạnh đó, hồ sơ hạt nhân của I-ran, cuộc đàm phán kéo dài hơn một thập niên đã được khép lại sau thỏa
thuận hạt nhân lịch sử giữa I-ran với các cường quốc nhóm P5+1. Thỏa thuận hạt nhân này đánh dấu bước
ngoặt trong quan hệ giữa I-ran với Mỹ và Liên minh châu Âu (EU), mở cánh cửa hợp tác giữa hai bên từng trải
qua thời gian dài đối đầu. Ngay sau khi thỏa thuận hạt nhân I-ran được ký kết, nhiều nhà lãnh đạo các nước
châu Âu đã tới quốc gia Hồi giáo này nhằm đón đầu làn gió đầu tư mới. Chuyển biến trong quan hệ I-ran -
phương Tây đem đến nhiều cơ hội cho cả hai phía. Tuy nhiên, vẫn còn không ít thách thức trong quá trình thực
thi thỏa thuận khi quá khứ đối đầu thật sự chưa thể khép lại đối với hai bên. Quyết định của Tổng thống Mỹ Đ.
Trăm rút khỏi JCPOA vào ngày 8-5-2018 làm các đồng minh châu Âu của Mỹ đều cảm thấy bất an, trong khi I-
xra-en, Các tiểu vương quốc A-rập thống nhất và A-rập Xê-út đã chào đón tuyên bố này trong hân hoan.

Có thể nói, khu vực Bắc Phi - Trung Đông đang trong giai đoạn mà sự đối đầu, nghi kỵ lớn hơn bao giờ hết.
Trong khi các cuộc “chiến tranh ủy nhiệm” tại Xy-ri, Y-ê-men chưa hết nóng bỏng, khu vực này đã liên tiếp
phải hứng chịu các cơn “địa chấn” chính trị mới. Từ cuộc khủng hoảng ngoại giao giữa các nước A-rập và Ca-
ta; vấn đề Mỹ chuyển Đại sứ quán về Giê-ru-xa-lem cho tới nguy cơ đổ vỡ của thỏa thuận hạt nhân I-ran.

Những chuyển động chính của bức tranh chính trị tại khu vực này phụ thuộc vào các chủ thể cơ bản, đóng vai
trò quyết định quan hệ quốc tế trong nội bộ khu vực cũng như giữa khu vực với các chủ thể quan hệ quốc tế
khác, đặc biệt là các nước lớn. Đó là vai trò của thế giới A-rập, I-ran, Thổ Nhĩ Kỳ và I-xra-en. Các chủ thể này
lệ thuộc, kiềm chế, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau và tạo nên cấu trúc đa cực tại khu vực này. Đặc điểm chính
trị chủ yếu tại Bắc Phi - Trung Đông đó là một nền chính trị bất ổn với sự chia sẻ quyền lực và sự can thiệp của
các cường quốc.

Sự cạnh tranh giữa các nước trong khu vực

Qua bức tranh Trung Đông thời kỳ hậu “Mùa xuân A-rập” có thể thấy rõ sự cạnh tranh giữa các nước lớn nhằm
tìm kiếm địa vị lãnh đạo khu vực. Các nước I-ran, Thổ Nhĩ Kỳ, A-rập Xê-út tiếp tục khẳng định vị thế của mình
tại khu vực, kể cả bằng biện pháp quân sự, liên minh chống khủng bố; gác lại những bất đồng về lợi ích, liên
kết với Nga, giải quyết vấn đề hòa bình Xy-ri và khu vực, độc lập hơn với Mỹ và EU.

Quan hệ giữa chính các quốc gia A-rập đang rạn nứt nghiêm trọng bởi khác biệt về chính trị và tôn giáo. Tháng
6-2017, cuộc khủng hoảng ngoại giao giữa Ca-ta và nhóm nước A-rập vùng Vịnh Péc-xích bùng phát và kéo
dài tới nay là minh chứng rõ nhất cho những rạn nứt và bất đồng sâu sắc ở Trung Đông. Không chỉ cắt đứt quan
hệ ngoại giao, Ba-ren, A-rập Xê-út, Các tiểu vương quốc A-rập thống nhất cùng quốc gia Bắc Phi là Ai Cập
còn siết chặt các biện pháp cô lập và “trừng phạt hội đồng” nhằm vào Ca-ta. A-rập Xê-út và các nước theo dòng
Hồi giáo Xăn-ni từ lâu đã đối đầu với I-ran - quốc gia có 80% dân số theo dòng Hồi giáo Si-ai. I-ran và A-rập
Xê-út không chỉ đại diện cho hai cộng đồng Hồi giáo khác biệt, mà còn có những liên minh đối đầu nhau trên
khắp Trung Đông, dẫn đến xung đột công khai tại Xy-ri và Y-ê-men; tranh giành vị thế áp đảo chính trị tại I-
rắc, hậu thuẫn cho các bên đối nghịch tại Ba-ren và Ca-ta. Mặc dù ít có nguy cơ xảy ra đối đầu quân sự trực
tiếp, song sự tranh giành ảnh hưởng gay gắt giữa hai cường quốc khu vực này đang trở thành ngòi nổ kích hoạt
những mâu thuẫn và căng thẳng bạo lực ở Trung Đông.

I-ran đẩy mạnh cạnh tranh với các nước quân chủ vùng Vịnh Péc-xích và với Thổ Nhĩ Kỳ. Chính phủ I-ran chủ
trương ủng hộ chính quyền của Tổng thống Ba-sa an-Át-xát nên đã cung cấp và ủng hộ vũ khí và quân sự cho
chính quyền Xy-ri. Ngược lại, A-rập Xê-út, Ca-ta và Thổ Nhĩ Kỳ lại ủng hộ phe đối lập, yêu cầu ông B. A. Át-
xát phải từ chức. I-ran đang phải đối mặt với nhiều khó khăn khi cuộc xung đột tại Xy-ri tiếp tục leo thang.
Đồng minh Xy-ri thất bại sẽ khiến không gian sinh tồn của trục Xi-ai chống phương Tây do I-ran đứng đầu bị
đe dọa. Việc Mỹ rút khỏi Thỏa thuận hạt nhân với I-ran, bất chấp những nỗ lực của đồng minh phương Tây
càng khiến I-ran phải đối mặt với nhiều thách thức, mà trước mắt là những gói trừng phạt kinh tế nặng nề của
Mỹ nhằm vào lĩnh vực năng lượng và tài chính.

I-xra-en với những thế mạnh về kinh tế, là một đồng minh quan trọng của Mỹ tại Trung Đông. Tuy nhiên, I-
xra-en đang dần trở nên cô lập hơn trong chính không gian địa - chính trị của khu vực. I-xra-en là nước chịu tổn
thất và ảnh hưởng nghiêm trọng nhất từ các chính biến tại Ai Cập, Y-ê-men, Li-bi. Chính quyền của cựu Tổng
thống Ai Cập H. Mu-ba-rắc sụp đổ khiến I-xra-en mất đi một đồng minh quan trọng. Mâu thuẫn giữa I-xra-en
với đồng minh Thổ Nhĩ Kỳ cũng chưa được cải thiện. Tình hình biên giới của I-xra-en luôn căng thẳng. Việc
Mỹ công nhận Giê-ru-xa-lem là Thủ đô của I-xra-en cho thấy Mỹ dường như đang nghiêng nhiều về I-xra-en;
tuy nhiên sự kiện này cũng khiến I-xra-en bị các nước A-rập cô lập.

Mặt khác, IS đã tạo ra những ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến các cường quốc khu vực và toàn cầu, buộc các quốc
gia này xác định lại cách thức hành xử. Sự hiện diện của tổ chức này vừa lạ thường, vừa khó có thể lờ đi bởi nó
là một thực thể địa lý. Kết quả là các quốc gia đã buộc phải điều chỉnh lại những chính sách và quan hệ lẫn
nhau. Có thể thấy được điều này trong trường hợp Xy-ri và I-rắc. Hai nước này không phải là những bên duy
nhất phải đương đầu với IS; các cường quốc khu vực khác - chủ yếu là Thổ Nhĩ Kỳ, I-ran và A-rập Xê-út -
cũng đang cân nhắc lại lập trường của mình. Bên trong Xy-ri và I-rắc, IS mang những đặc điểm của cộng đồng
người dân A-rập theo Hồi giáo dòng Xăn-ni. Tổ chức này đã áp đặt sự cai trị tại những vùng ở I-rắc có người
A-rập theo dòng Xăn-ni, và cho dù người Xăn-ni có kháng lại quyền lực của IS, thì sự chống đối lại bất cứ một
nhà nước mới nổi lên nào như vậy là lẽ dĩ nhiên. IS đã từng đối phó được với sự chống đối này. Nhưng tổ chức
này cũng đã gây căng thẳng lên ranh giới khu vực giữa người Cuốc và người Hồi giáo dòng Si-ai, và đã cố gắng
tạo dựng liên kết địa lý với những lực lượng của mình ở Xy-ri, khiến động lực nội bộ của I-rắc thay đổi đáng
kể.

Thổ Nhĩ Kỳ đóng vai trò quan trọng tại khu vực này, song trong việc giải quyết vấn đề IS thì lại cần phải xem
xét. Mặc dù có nền kinh tế và quân đội lớn nhất khu vực, và cũng là nước dễ bị tổn thương nhất trước những sự
kiện đang diễn ra ở Xy-ri và I-rắc, sát biên giới phía Nam của Thổ Nhĩ Kỳ, Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã nỗ lực
hết mình nhằm giữ cho cuộc xung đột ở Xy-ri nằm ở ngoài biên giới nước mình và hạn chế can dự trực tiếp vào
cuộc nội chiến ở Xy-ri. Họ cũng không muốn IS gây áp lực đối với những người Cuốc ở I-rắc, vì có thể sẽ dần
lan sang những người Cuốc ở Thổ Nhĩ Kỳ. Mặc dù tham gia giúp Mỹ chống IS sẽ giải quyết được lợi ích cần
thiết với an ninh quốc gia của Thổ Nhĩ Kỳ; song việc Mỹ không muốn loại bỏ chính quyền của Tổng thống B.
A. Át-xát vì lo sợ làm vậy sẽ mở đường cho một chế độ mới của những chiến binh thánh chiến dòng Xăn-ni
khiến nước này do dự. IS đã trở thành tâm điểm trong quan hệ Mỹ - Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay.

Sự nổi lên của IS cũng đã tái định hình vị thế của I-ran trong khu vực. I-ran coi việc có một chính quyền thân I-
ran và do những người dòng Si-ai kiểm soát tại I-rắc là điều thiết yếu đối với những lợi ích của mình. Vì sự
kiện IS - cũng như những xu hướng dài hạn lớn hơn - mà Mỹ và I-ran xích lại gần nhau hơn bởi những lợi ích
chung.

Cạnh tranh chiến lược Nga - Mỹ tại khu vực

Có thể nói, khu vực Trung Đông - Bắc Phi là địa bàn chiến lược của cả hai cường quốc Nga và Mỹ. Sau khi
Chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ đã tận dụng được khoảng trống quyền lực tại đây và sau đó đã kiểm soát được trữ
lượng dầu mỏ tại Trung Đông. Mỹ thiết lập quan hệ đồng minh với I-xra-en, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của
các nước A-rập, đặc biệt thông qua vai trò nối lại tiến trình hòa bình tại Trung Đông giữa I-xra-en và Pa-le-xtin.
Mỹ thực hiện chính sách cứng rắn với vấn đề hạt nhân của I-ran, nhưng lại lấy việc xây dựng khu vực mậu dịch
tự do Mỹ - Trung Đông làm công cụ chính để xoa dịu các nước thù địch với Mỹ tại khu vực. Chính quyền của
cựu Tổng thống B. Ô-ba-ma cũng sử dụng chính sách ôn hòa nhằm cải thiện quan hệ với các nước A-rập. Dù là
cường quốc có nhiều ảnh hưởng tại đây, song cách thức hành động mang tính áp đặt của Mỹ đã khiến nhiều
quốc gia trong khu vực này nghi ngại.

Sau Chiến tranh lạnh, vai trò của Nga tại khu vực này không thực sự rõ nét, chủ yếu là quan hệ buôn bán vũ khí
với các quốc gia tại đây. Gần đây, Nga tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp nhằm củng cố sức mạnh quốc gia, vượt
qua cấm vận, lấy lại vị thế trên trường quốc tế; bảo vệ và mở rộng lợi ích tại các khu vực chiến lược, trong đó
có gia tăng ảnh hưởng tại Trung Đông... Nga là một trong bốn bên đóng vai trò bảo trợ cho tiến trình hòa bình
giữa Pa-le-xtin và I-xra-en. Nga chủ động trong tiến trình hòa bình Xy-ri, buộc Mỹ và phương Tây phải thừa
nhận vai trò quốc tế của mình. Nga không chỉ có lợi ích địa - chiến lược, mà còn có những lợi ích về kinh tế, cụ
thể là về nguồn năng lượng khí đốt tại Xy-ri. Bảo vệ được vị thế của Nga tại Xy-ri đồng nghĩa với việc khẳng
định được vị thế của Nga trước Mỹ và các nước đồng minh.

Vấn đề Xy-ri là một trong những vấn đề nội cộm thể hiện sự tranh giành ảnh hưởng rõ rệt giữa Nga và Mỹ.
Cuộc nội chiến tại Xy-ri hơn 7 năm chưa đi đến hồi kết được đánh giá là một trong những xung đột phức tạp,
có sự tham gia của nhiều bên nhất, với sự chia sẻ lợi ích của nhiều quốc gia nhất trong lịch sử thế giới hiện đại,
bao gồm cả I-ran, Thổ Nhĩ Kỳ, các lực lượng đối lập tại Xy-ri cũng như sự can dự của Nga, Mỹ - phương Tây.
Hai năm qua, sự can dự của quân đội Nga đã giúp Tổng thống Xy-ri B. A. Át-xát từ chỗ bên bờ vực đổ vỡ, nay
đã gần như nắm được phần thắng trong tầm tay; đồng thời làm tan rã phiến quân IS, cho thấy vai trò lớn mạnh
của Nga tại Trung Đông dần được xác lập. Những vùng an toàn đã được thiết lập sau những chiến thắng trên
chiến trường Xy-ri. Cụ thể có 4 vùng an toàn được thiết lập, dưới sự bảo trợ của Nga, I-ran và Thổ Nhĩ Kỳ
nhằm chấm dứt bạo lực, cải thiện tình hình nhân đạo và tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình và dàn xếp chính trị
của cuộc khủng hoảng ở Xy-ri. Nga cũng bắt đầu hỗ trợ Chính phủ Xy-ri trong việc tái thiết các khu vực bị tàn
phá bởi các cuộc xung đột. Với sự hỗ trợ của Nga, hiện quân đội Xy-ri đã giành quyền kiểm soát khoảng 87,4%
lãnh thổ nước này.

Nga tiếp tục cùng với Thổ Nhĩ Kỳ, I-ran đóng vai trò trung gian cho các cuộc hòa đàm nhằm tìm kiếm giải
pháp chính trị cho cuộc nội chiến Xy-ri. Điều đó cho thấy vai trò quan trọng của Nga trong những diễn biến
chính trị lớn tại Trung Đông, vượt qua tầm ảnh hưởng của Mỹ. Mặc dù, Mỹ và đồng minh đã thực hiện cuộc
không kích vào Xy-ri (ngày 14-4-2018), song hành động đó chỉ mang tính răn đe, không mang tính chất quyết
định đến so sánh lực lượng trên thực địa.

Tóm lại, có thể nói tình hình chính trị tại Bắc Phi - Trung Đông vẫn còn diễn biến phức tạp, với nhiều “điểm
nóng”, nhiều vấn đề chưa đi đến hồi kết. Đó là tiến trình hòa bình và hòa giải giữa I-xra-en và Pa-le-xtin, mâu
thuẫn giữa A-rập Xê-út với I-ran, mối bất hòa giữa A-rập Xê-út và đồng minh với Ca-ta, nội chiến ở Y-ê-men,
và bất ổn ở Xy-ri, I-rắc, Li-bi và Li-băng vẫn còn rất phức tạp. Những vấn đề của Trung Đông không chỉ là
những vấn đề tôn giáo phức tạp, là những vấn đề do lịch sử để lại, mà còn là sự can dự, tác động từ nhiều yếu tố
bên ngoài, trong đó có sự cạnh tranh ảnh hưởng của các nước lớn. Chính sự bất ổn chính trị và sự yếu kém về
kinh tế đã làm cho các nước khác dễ dàng can thiệp vào quan hệ giữa các nước trong khu vực. Do đó, muốn có
được sự tự chủ, cần có một nền chính trị ổn định và kinh tế phát triển./.

Nhà thờ Al-Aqsa, nơi người Hồi giáo tin rằng Nhà tiên tri Mohammed đã lên thiên đường, nằm trong khu vực Thành
Cổ ở Đông Jerusalem. Trong Cuộc chiến 6 ngày vào năm 1967, Israel đã chiếm được Đông Jerusalem, thiết lập
kiểm soát thực địa trên toàn bộ thành phố.

Israel từ đó coi toàn bộ Jerusalem là thủ đô không bị chia cắt của mình. Tuy nhiên, luật pháp quốc tế coi Đông
Jerusalem, Bờ Tây, Cao nguyên Golan và Dải Gaza là những vùng lãnh thổ bị chiếm đóng, theo các nghị quyết của
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, bất chấp sự phản đối từ chính phủ Israel.
Hamas là viết tắt của Harakat al-Muqawama al-Islamiyya trong tiếng Arab, có nghĩa là Phong trào Kháng chiến Hồi
giáo. Nhóm được hình thành từ năm 1987 sau khi phong trào nổi dậy chống Israel (intifada) lần thứ nhất của người
Palestine bùng nổ, chống lại việc quân đội Israel chiếm đóng Bờ Tây và Dải Gaza.

Hamas ban đầu vừa thực hiện cuộc đấu tranh vũ trang chống Israel và cung cấp chương trình phúc lợi xã hội cho
người Palestine. Nhưng từ năm 2005, khi Israel rút quân đội và người định cư khỏi Dải Gaza, Hamas bắt đầu tham
gia vào chính trị ở Palestine. Họ chiến thắng bầu cử quốc hội Palestine năm 2006 và kiểm soát Gaza từ năm 2007.

Mục tiêu của Hamas là thành lập một nhà nước Hồi giáo của người Palestine trên vùng lãnh thổ được hoạch định
trước năm 1948. Phong trào này xác định con đường duy nhất để hoàn thành sứ mệnh là đấu tranh bạo lực, do đó
Hamas khước từ mọi giải pháp hòa bình và không công nhận nhà nước Israel. Hamas đối chọi về mặt chính trị và
chiến lược với phong trào Fatah của Tổng thống Mahmoud Abbas ở Bờ Tây, bên được quốc tế công nhận là chính
quyền Palestine chính thức.

Tổ chức hiện được chia làm hai nhánh, gồm Dawah phụ trách dân sự và lữ đoàn Izz ad-Din al-Qassam phụ trách
quân sự. Các thành viên Hamas đang chiếm thế đa số trong nghị viện Palestine, dù chính phủ vẫn do đảng Fatah
của Tổng thống Abbas kiểm soát. Hamas và Israel đã vài lần xung đột trong 15 năm qua.

Salah Arouri, phó thủ lĩnh Hamas đang sống lưu vong, lý giải chiến dịch mới của nhóm là phản ứng "đối với những
tội ác diễn ra dưới chế độ chiếm đóng". Ông khẳng định đây là chiến dịch bảo vệ đền Al-Aqsa cùng hàng nghìn tù
nhân Palestine đang bị Israel giam giữ.

Trong những năm qua, Israel đã gia tăng kiểm soát khu vực đền thờ Al-Aqsa, hạn chế người Palestine tiếp cận
vùng đất thiêng, tổ chức nhiều vụ đột kích bằng vũ lực để bắt giữ những mục tiêu mà Israel cho là mối nguy hiểm
hoặc giải tán những hoạt động họ cho là quá khích.

Truyền thông Arab đưa tin chính quyền Israel gần đây trấn áp người Hồi giáo Palestine ở Jerusalem, tạo điều kiện
cho một số nhóm Do thái cực hữu tiếp cận khu đền Al-Aqsa. Phái chính trị này từ năm 1967 đã tuyên bố mong
muốn kiểm soát hoàn toàn khu vực, phá dỡ những kiến trúc Hồi giáo lịch sử và xây dựng đền thờ Do thái giáo.

Nhà thờ Al-Aqsa được coi là địa điểm linh thiêng thứ ba trên thế giới của người Hồi giáo. Trong khi đó, người Do
Thái cho rằng khu vực này có hai ngôi đền Do Thái thời cổ đại.

Lãnh đạo Hamas thông báo tổ chức này đã bắt nhiều người Israel, trong đó có những sĩ quan cấp cao, khi tiến
hành chiến dịch tiến công. Ông nói rằng số binh sĩ Israel bị bắt đủ để buộc Tel Aviv thả toàn bộ tù nhân Palestine
đang bị giam trong các nhà tù của nước này.

Israel và Ai Cập đã kiểm soát chặt chẽ biên giới với Dải Giaza trong những năm qua nhằm ngăn Hamas đưa vũ khí
vào vùng này. Tuy nhiên, chính sách cả hai nước đã dẫn đến khủng hoảng nhân đạo ở Dải Gaza, khiến dân
thường trong khu vực này khó tiếp cận nhu yếu phẩm cơ bản, nước và lương thực.

Người Palestine ở Bờ Tây lẫn Dải Gaza thường xuyên cáo buộc chính sách chiếm đóng của Israel khiến cuộc sống
của họ trở nên khó khăn, đặc biệt là những chốt kiểm soát an ninh của quân đội Israel và chiến lược từng bước
giành đất xây dựng cho người định cư Do Thái. Trong khi đó, Tel Aviv luôn khẳng định các biện pháp an ninh của
họ phù hợp, nhằm đối phó mối đe dọa thường trực từ Hamas và các lực lượng không chấp nhận sự tồn tại của
quốc gia Do Thái.

Theo Al Jazeera, chiến dịch của Hamas còn nhằm phát thông điệp chính trị đến các nước Arab và Hồi giáo đang
có xu hướng bình thường hóa quan hệ với Israel. Bằng đợt tấn công với quy mô chưa từng có tiền lệ khiến Israel
phải phản ứng quyết liệt và kéo dài chiến sự, Hamas buộc thế giới Arab phải tiếp tục cân nhắc "sự nghiệp
Palestine" trong chính sách đối ngoại và quan hệ với Israel.

Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE) và Bahrain vào năm 2020 đã ký thỏa thuận chấm dứt đối đầu
với Israel và bình thường hóa quan hệ. Chính phủ Israel cũng đang thúc đẩy đàm phán bình thường hóa quan hệ
với Arab Saudi, trong đó Mỹ đóng vai trò trung gian.

Tác động của một số nhân tố tới tình hình Trung Đông năm 2023

Tác động của các điểm nóng trên toàn cầu

Các xu hướng phát triển của Trung Đông trong năm 2023 chịu ảnh hưởng không nhỏ từ các điểm nóng xung
đột trên thế giới, đáng kể nhất vẫn là cuộc chiến đang diễn ra ở Ukraine. Các điểm nóng khác như khủng hoảng
châu Phi hay những mâu thuẫn dọc “vành đai giao thoa biển và lục địa” ở khu vực Ấn Độ Đương – Thái Bình
Dương cũng có những cách ảnh hưởng khác nhau tới tình hình Trung Đông.

Chiến sự ở Ukraine vẫn tiếp diễn sau gần 2 năm (từ ngày 24/02/2022), kéo theo đó là áp lực duy trì cuộc chiến
đối với tất cả các bên liên quan. Khó có thể nói cuộc chiến ở Ukraine đang vận hành theo ý muốn của phương
Tây, khi bản thân thế giới phương Tây đang dần lâm vào thế bị động trong việc viện trợ cho Kiev. Châu Âu vẫn
ở trong tình thế lưỡng nan khi cắt đứt quan hệ với Nga, nhưng chưa thực sự tìm được đối tác kinh tế ổn định
mới. Đặc biệt là việc tìm nguồn cung năng lượng trở thành bài toán khó khăn đối với lục địa già. Trung Đông
chắc chắn là một nguồn cung lớn, gần về mặt địa lý, nhưng sự bất định về an ninh ở khu vực này luôn là một
rào cản.

Thế lưỡng nan của các bên liên quan tới cuộc chiến tại Ukraine tạo ra một cách tiếp cận không triệt để và sâu
sát của họ đối với các khu vực khác, bao gồm cả Trung Đông. Điều đó khiến các lực lượng chính trị trong khu
vực này có được thời cơ thuận lợi, thực hiện các tham vọng riêng của mình.

Trong khi đó, khủng hoảng đang diễn ra ở châu Phi với tâm điểm là sự trỗi dậy của các quốc gia ở vùng Sahel.
Một loạt các cuộc đảo chỉnh ở khu vực này đang đẩy các cường quốc, đặc biệt là Pháp, vào tình thế mất khả
năng ảnh hưởng ở châu Phi. Bên cạnh đó, hình thái căng thẳng dọc vùng Sahel làm tăng thêm vai trò của Trung
Đông đối với châu Âu, nhất là về vấn đề năng lượng và thị trường.

Sức ảnh hưởng của các điểm nóng ở Đông Á đối với Trung Đông thể hiện chủ yếu ở góc độ kinh tế. Các quốc
gia cũng như tổ chức khu vực ở Trung Đông đang có xu hướng tích cực mở rộng và tăng cường hợp tác kinh tế
với khu vực Đông Á. Sự chồng chéo về lợi ích kinh tế, an ninh giữa các đối tác có mối quan hệ phức tạp với
nhau đã và đang tạo ra sự đa dạng trong chính sách đối ngoại của các quốc gia khu vực Trung Đông.

Cạnh tranh nước lớn ở Trung Đông

Năm 2023, Trung Đông tiếp tục trở thành tâm điểm của cuộc đua giữa các siêu cường gồm Mỹ, Trung Quốc và
Nga. Với vai trò kết nối cả ba lục địa Á, Phi, Âu, đồng thời, việc kiểm soát được Trung Đông có ý nghĩa đặc
biệt đối với chiến lược của các bên.

Đối với Mỹ, sau khoảng thời gian khó khăn khi ảnh hưởng ở Trung Đông suy giảm từ khi Nga triển khai các
hoạt động quân sự hỗ trợ Syria và sự ảnh hưởng về mặt kinh tế của Trung Quốc, Tổng thống Biden đang cho
thấy những nỗ lực tăng cường can dự vào khu vực này. Một mặt, Mỹ cần giữ chắc Trung Đông nhằm đạt được
các mục tiêu: (1) tăng cường kiểm soát nguồn năng lượng ở khu vực này; (2) cản trở những nỗ lực thực hiện
Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc (3); uy hiếp an ninh Nga ở khu vực biển Caspian và Biển
Đen; (4) kiềm chế Iran; (5) triển khai tham vọng kinh tế mới kết nối từ Ấn Độ tới châu Âu.

Tại Hội nghị Thượng đỉnh G20 diễn ra tại Ấn Độ, các bên gồm: Ấn Độ, Ả Rập Saudi, UAE, EU, Pháp, Đức, Ý
và Mỹ đã công bố dự án cơ sở hạ tầng quốc tế – Hành lang kinh tế Ấn Độ – Trung Đông – châu Âu (IMEC).
Dự án thương mại và đầu tư này đã được ra mắt dưới dạng bản ghi nhớ[1], hàm ý của Mỹ thông qua IMEC
nhằm đối trọng với BRI của Trung Quốc, nhưng khác ở chỗ, đây vẫn là một ý tưởng chưa được hiện thực hóa.

Đối với Trung Quốc, học giả Muhammad Wasama Khalid đã nhận định “dầu mỏ chỉ là một trong nhiều thứ mà
Trung Quốc quan tâm khi họ đến Trung Đông. Lợi ích của họ vượt xa điều đó”[2]. Năng lượng không phải là
mục đích duy nhất của Trung Quốc, thay vào đó, nâng tầm BRI là một trong những ưu tiên hàng đầu và Trung
Đông là một mắt xích không thể thiếu. Trung Quốc tiếp tục từng bước đẩy lùi ảnh hưởng kinh tế của Mỹ ở khu
vực khi trở thành đối tác kinh tế lớn nhất của các quốc gia Trung Đông. Thậm chí, cùng với Nga, Trung Quốc
đang thực tạo ra mối đe dọa mới đối với vị thế của đồng đô la ở khu vực này.

Đối với Nga, nước này đã thiết lập được sự ảnh hưởng vững chắc ở Syria, tạo dựng được vành đai an ninh kéo
dài từ Caspian ra tới Địa Trung Hải. Điều này tạo ra lợi thế to lớn cho Moskva trong cuộc đối đầu với phương
Tây. Trước đây, Mỹ đã sử dụng cuộc chiến chống khủng bố để can thiệp vào khu vực. Tuy nhiên, việc Nga
triển khai các hoạt động quân sự ở Syria đã làm phá sản chiến lược này của Mỹ tại nhiều địa điểm phía Bắc của
Trung Đông.

Sự mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc và Nga khiến Mỹ ngày càng có ít lựa chọn hơn trong việc tìm kiếm khả
năng chi phối cục diện khu vực Trung Đông trong thời gian qua.

Mâu thuẫn bên trong

Có 5 mâu thuẫn lớn có thể tác động tới cục diện Trung Đông, bao gồm 3 mâu thuẫn từ lịch sử, và 2 mâu thuẫn
từ yếu tố địa chiến lược mới.

Thứ nhất, mâu thuẫn giữa thế giới Arab và Israel. Sự “sắp xếp” của các bên thắng trận sau Chiến tranh thế giới
thứ hai đã tạo ra mầm mống của mâu thuẫn giữa quốc gia Do Thái Israel với các quốc gia Arab mà trực tiếp
nhất là với Palestine. Mâu thuẫn này được coi là một thùng thuốc súng có thể bùng nổ bất cứ lúc nào trong gần
80 năm qua.

Thứ hai, mâu thuẫn bên trong nội bộ của thế giới Arab, chủ yếu giữa hai nhánh Hồi giáo Shia và Sunni với hai
đại diện lớn nhất là Iran và Arabia Saudi. Tuy nhiên, mâu thuẫn này đã ghi nhận những động thái cải thiện đáng
kể trong năm 2023, sau khi Iran và Saudi Arabiađã từng bước bình thường hóa quan hệ với yếu tố trung gian
hòa giải của Trung Quốc.

Thứ ba, mâu thuẫn giữa các nhà nước với các nhóm cực đoan có vũ trang. Các lực lượng cực đoan này tương
đối đa dạng, bao gồm các nhóm Hồi giáo cực đoan cũng như các lực lượng đánh thuê có tài trợ từ bên ngoài.

Thứ tư, mâu thuẫn giữa nhiều quốc gia ở khu vực với các cường quốc có hiện diện quân sự, đặc biệt là Mỹ.
Chiến lược can dự sâu vào Trung Đông của Washington vẫn đang vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ từ các
quốc gia trong khu vực này.

Cuối cùng, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể chính trị trong khu vực với nhau liên quan tới các sáng
kiến chiến lược toàn cầu từ nhiều phía. Mỗi quốc gia đóng vai trò khác nhau trong các “đại dự án xuyên biên
giới” của các siêu cường, đặc biệt là Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc và gần đây là
Hành lang kinh tế Ấn Độ – Trung Đông – châu Âu IMEC do Mỹ và các đối tác của họ đề xướng. Sự khác biệt
về lợi ích cũng như yếu tố nội tại khác nhau tạo ra sự phát triển không đồng đều. Điều này cũng trở thành một
mâu thuẫn cần được xem xét khi đánh giá về tình hình khu vực.

Những diễn biến đáng chú ý ở Trung Đông năm 2023

Nỗ lực bình thường hóa Israel – Saudi Arabia: từ triển vọng tích cực lâm vào thế khó

Sau thành công trong việc hàn gắn quan hệ Nhật Bản – Hàn Quốc ở Đông Bắc Á, Mỹ đã tiếp tục thúc đẩy ngoại
giao hòa giải ở Trung Đông, mục tiêu nhằm nối lại quan hệ giữa Israel và Saudi Arabia – những đồng minh
cũng là các nhân tố quan trọng đối với chiến lược của Washington.

Đáp lại tác động từ Mỹ, ngày 17/4/2023, Thủ tướng Benjamin Netanyahu đã phát biểu rằng, Israel muốn bình
thường hóa và hòa bình với Saudi Arabia. Đây có thể là một bước nhảy vọt tiến tới chấm dứt cuộc xung đột
giữa người Arab và người Israel. Thỏa thuận này có thể tạo ra những tác động lớn lao, lịch sử cho cả Israel,
Saudi Arabia, khu vực và thế giới”[3]. Tuy nhiên, Saudi Arabia tỏ ra thận trọng hơn, nhất là khi nước này cũng
đang tiến hành chính sách nối lại quan hệ với Iran, cùng chính sách đoàn kết thế giới Hồi giáo ở khu vực Trung
Đông.

Đặc biệt, sau khi xung đột ở dải Gaza bùng nổ, cuộc chiến Israel – Palestine được xem là yếu tố then chốt quyết
định tới tính toán của Saudi Arabia về vấn đề bình thường hóa quan hệ với quốc gia Do Thái. Sau khi chiến sự
nổ ra không lâu, Saudi Arabia đã tuyên bố đình chỉ các cuộc đàm phán về bình thường hóa quan hệ với
Israel[4]. Những diễn biến đang tiếp diễn có nguy cơ làm sụp đổ những nỗ lực trung gian hòa giải của Mỹ.

Quan hệ nội bộ thế giới Hồi giáo có bước tiến tích cực

Đầu tiên, sự kiện Syria tham dự hội nghị thượng đỉnh tại Saudi Arabia hồi tháng 5/2023 đã đánh dấu sự trở lại
Liên đoàn Arab (AL) sau 11 năm của nước này.

Tháng 11/2011, AL đã đình chỉ tư cách thành viên của Syria. Gần đây, Saudi Arabia đóng vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy Syria trở lại AL. AL cũng đã nhất trí thành lập một ủy ban liên lạc cấp bộ trưởng để tìm
kiếm một giải pháp toàn diện cho cuộc khủng hoảng Syria[5]. Việc Syria trở lại Liên đoàn Arab là dấu hiệu
quan trọng đầu tiên trong việc tái đoàn kết cộng đồng Hồi giáo ở Trung Đông.

Tiếp đến, Iran – Saudi Arabia bình thường hóa quan hệ trở thành dấu mốc mới cho tương lai đoàn kết thế giới
Hồi giáo ở Trung Đông. Theo các phương tiện truyền thông chính thức của Iran ngày 19/3/2023, Tổng thống
Iran Abdul Latif Rahid đã nhận được thư mời của Quốc vương Saudi Arabia Salman bin Abdulaziz đến thăm
Riyadh[6]. Đến ngày 6/4/2023, ngoại trưởng hai nước đã có cuộc gặp quan trọng tại Bắc Kinh (Trung Quốc),
mở đường cho việc bình thường hóa quan hệ[7]. Việc hai “cựu địch thủ” bình thường hóa quan hệ đã mở ra một
chương mới cho khu vực Trung Đông. Vấn đề xung đột ở Yemen từng bước được gỡ rối dưới tác động của hai
cường quốc khu vực này. Tình hình Chiến tranh Lạnh trong thế giới Hồi giáo Trung Đông được hứa hẹn sẽ tiến
tới chấm dứt.

Bên cạnh đó, Iraq và Iran ký thỏa thuận an ninh biên giới để cùng duy trì an ninh biên giới và đảm bảo các
nhóm vũ trang bất đồng chính kiến ở các khu vực của Iraq do người Kurd kiểm soát sẽ không tạo thành mối đe
dọa đối với an ninh của Iran[8].

Có thể nói, năm 2023 đánh dấu một bước tiến rất dài trong việc đoàn kết các quốc gia Hồi giáo ở khu vực
Trung Đông.

Cục diện an ninh mới ở Trung Đông được hình thành

Làn sóng hòa giải giữa các nước Arab cùng sự thay đổi trong chiến lược giữa các siêu cường về cơ bản đã làm
đảo lộn cục diện an ninh Trung Đông trong năm qua. Bố cục an ninh “bốn lớp” đã có sự điều chỉnh:

Lớp thứ nhất, sự can dự của các nước lớn vẫn được duy trì, nhưng trong khi Trung Quốc và Nga gia tăng ảnh
hưởng thì Mỹ đang tỏ ra vất vả trong những nỗi lực can thiệp.

Lớp thứ hai, sự chi phối của mâu thuẫn giữa các cường quốc khu vực, đặc biệt là Saudi Arabia và Iran đã thay
đổi. Quan hệ Saudi – Iran từ thế đối đầu đã chuyển sang hợp tác, bình thường hóa. Từ việc là căn nguyên tác
động tới các cuộc xung đột khu vực, hai bên đang đầy triển vọng hướng đến hợp tác đảm bảo an ninh chung của
khu vực.

Lớp thứ ba, mâu thuẫn giữa các quốc gia nhỏ hơn trong khu vực được cải thiện đáng kể. Ngoài xung đột Israel
– Palestine, quan hệ giữa các nước Arab khác có dấu hiệu ấm lên. Điều này có tác động tích cực tới tình hình an
ninh khu vực.

Lớp thứ tư, vai trò của các tổ chức vũ trang thánh chiến mờ nhạt dần. Kể từ thời điểm Nga triển khai các hoạt
động quân sự hỗ trợ Syria, vai trò của các nhà nước ở Trung Đông đã được nâng cao đáng kể. Các tổ chức vũ
trang thánh chiến, các tổ chức cực đoan dần bị thu hẹp ảnh hưởng. Đồng thời, sự hòa giải Iran – Saudi cũng
khiến nhiều lực lượng vũ trang có sự hậu thuẫn của hai quốc gia này giảm các hoạt động thù địch lẫn nhau.

Có thể nói, các nhân tố quyết định đến cục diện an ninh Trung Đông chỉ còn lại các yếu tố: sự chi phối của các
siêu cường, vai trò chung của tập thể các nước Hồi giáo Arab trong khu vực và sự tham gia của các bên tham
gia trong cuộc chiến Israel – Palestine.
Dự báo tình hình Trung Đông năm 2024

Với những diễn biến đang diễn ra và những yếu tố đang thay đổi ở khu vực, tình hình Trung Đông trong năm
tiếp theo khó có thể trở lại trạng thái hòa bình trọn vẹn. Thay vào đó, có thể đưa ra một số dự báo mang tính
tương đối như sau:

Thứ nhất, xung đột ở dải Gaza tất nhiên sẽ có nhiều kịch bản phát triển. Tuy nhiên, sẽ không thể đi đến kết cục
một bên còn, một bên mất. Sẽ có hai khả năng chính, hoặc cuộc chiến sẽ kéo dài và mở rộng với sự tham gia
của nhiều bên hơn, hoặc sẽ đạt được thỏa thuận ngừng bắn mong manh, trở lại trạng thái trước thời điểm
Hamas thực hiện cuộc tấn công vào Israel ngày 7/10/2023. Với những diễn biến chiến sự phức tạp trong hơn 2
tháng qua, khả năng quay lại trạng thái trước trước cuộc chiến là không nhiều. Nguy cơ mở rộng cuộc xung đột
với nhiều bên tham gia hơn là một thực tế cần được tính đến. Các lực lượng ủng hộ Palestine và phong trào
Hamas sẽ có những vai trò tích cực hơn trong cuộc chiến chống lại Israel.

Thứ hai, cuộc chiến ở Gaza một mặt sẽ tạo thêm động lực đoàn kết thế giới Hồi giáo, nhưng sẽ tạo ra một tình
thế phức tạp mới trong quan hệ Iran – Saudi Arabia. Mối quan hệ song phương mới được bình thường hóa này
sẽ đứng trước những thách thức mới trong việc hợp tác giải quyết các vấn đề khu vực. Một mặt, với tư cách là
đồng minh của Mỹ, Saudi Arabia sẽ chịu những áp lực từ phía đồng minh trong việc hỗ trợ Israel, ít nhất là về
mặt chính trị. Điều đó vốn không được nhiều nước Arab mong đợi. Tuy nhiên, sức ảnh hưởng của Mỹ đối với
Saudi Arabia cũng không còn như trước, hình ảnh Thống đốc Mecca đón Tổng thống Mỹ Biden thay vì người
đứng đầu Saudi Arabia đã cho thấy điều đó. Do vậy, Saudi Arabia có thể thực hiện một chính sách cân bằng
mới giữa các bên liên quan đến vấn đề xung đột Israel – Palestine.

Thứ ba, xu hướng hòa giải quan hệ giữa các nước Hồi giáo ở Trung Đông sẽ tiếp tục được thúc đẩy. Đáng chú ý
sẽ là quá trình bình thường hóa quan hệ giữa Syria và các quốc gia trong khu vực. Đồng thời, theo sau Saudi
Arabia, nhiều quốc gia Hồi giáo Sunni khác cũng sẽ có những tín hiệu tích cực trong việc cải thiện mối quan hệ
với Iran. Xung đột Israel – Palestine càng leo thang, xu hướng hòa hợp của thế giới Hồi giáo sẽ càng được đẩy
mạnh.

Thứ tư, cạnh tranh nước lớn sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp trong năm tới. Đặc biệt là Mỹ đang có dấu hiệu yếu
thế trước sức ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc và Nga ở khu vực này. Điều đó có thể dẫn tới
những hành động phiêu lưu mới của Washington. Cũng cần lưu ý rằng, Israel đang là mắt xích quan trọng trong
chiến lược của Mỹ ở Trung Đông. Tuy nhiên, như Tổng thống Biden đã từng nói “nếu không có Israel thì Mỹ
cũng sẽ tạo ra một Israel khác”[9]. Do vậy, trong trường hợp Israel gặp bất lợi và những tính toán của Mỹ thông
qua đồng minh Do Thái này thất bại, Mỹ nhiều khả năng sẽ kích hoạt một điểm nóng mới để can thiệp vào tình
hình Trung Đông trong thời gian tới. Mặc dù Nga có những ưu tiên đối với tình hình ở Ukraine, nhưng vấn đề
Syria và toàn bộ vành đai Biển Caspian – Biển Đen – Trung Đông – Địa Trung Hải có ý nghĩa chiến lược trong
cuộc đối đầu với phương Tây. Kiểm soát tốt vành đai này sẽ càng khiến châu Âu lâm vào thế khó. Các động
thái của Mỹ và đồng minh có nguy cơ đe dọa tới vành đai an ninh mới của Nga chắc chắn sẽ vấp phải những
phản ứng đáp trả. Đối với Trung Quốc, sự “bế tắc” của Hành lang Kinh tế Ấn Độ – Trung Đông – châu Âu
(IMEC) tiếp tục nâng cao thêm vị thế của Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) ở khu vực Trung Đông.
Bằng sức ảnh hưởng về kinh tế, Trung Quốc sẽ tiếp tục thúc đẩy ngoại giao hòa giải với các quốc gia nằm trên
BRI.

Các xu hướng đa chiều sẽ khiến tình hình Trung Đông trong thời gian tới ngày càng trở nên phức tạp hơn.
Trung Đông trong năm 2024 về cơ bản vẫn là một điểm nóng đáng chú ý của thế giới, nhưng khả năng đổ vỡ
bằng một cuộc chiến quy mô rộng khắp, có khả năng làm đảo lộn trật tự thế giới là không cao. Cuộc xung đột
Israel – Palestine có thể mở rộng thêm đối tượng tham gia, nhưng phạm vi xung đột sẽ khó có thể lan rộng liên
quan đến lợi ích chồng chéo của các bên. Cục diện cạnh tranh chiến lược ở Trung Đông sẽ chờ đợi một chính
sách mới đến từ người kế nhiệm Tổng thống Biden vào cuối năm 2024./.

Sự leo thang của cuộc xung đột quân sự giữa Israel-Hamas đe dọa nền kinh tế thế giới không chỉ với giá dầu tăng mạnh, ngoài
ra, nếu có nhiều quốc gia tham gia vào xung đột thậm chí sẽ xảy ra suy thoái kinh tế và tăng trưởng toàn cầu chậm lại rõ rệt.

Một ví dụ nổi bật về việc xung đột ở Trung Đông có thể gây ra biến động trên toàn thế giới như thế nào là Chiến tranh Ả Rập-
Israel năm 1973. Vào những năm 70, cuộc xung đột đã dẫn đến hậu quả dưới hình thức cấm vận dầu mỏ và tình trạng lạm phát
đình trệ kéo dài nhiều năm ở các nền kinh tế lớn.
Theo kịch bản thứ nhất, trong tình huống xung đột không vượt ra ngoài cuộc đối đầu Israel-Hamas, giá dầu có thể tăng từ 3-4
USD/thùng. Tác động đến nền kinh tế toàn cầu theo kịch bản này sẽ ở mức tối thiểu, đặc biệt nếu Saudi Arabia và Các tiểu
vương quốc Arab Thống nhất (UAE) bù đắp lượng dầu thiếu hụt từ Iran bằng công suất dự phòng.

Trong một cuộc phỏng vấn tại cuộc họp thường niên của Quỹ Tiền tệ quốc tế ở Maroc, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen
cho biết, bà không thấy dấu hiệu của “những tác động kinh tế lớn” ở giai đoạn này. Bà Yellen nói: “Điều cực kỳ quan trọng là
bảo đảm xung đột không lan rộng”.

Trong kịch bản thứ hai, cuộc xung đột sẽ biến thành một cuộc chiến ủy nhiệm, khi đó là những cuộc giao tranh đang diễn ra
giữa các đại diện của Hezbollah, một lực lượng chính trị và quân sự có ảnh hưởng ở Lebanon được Iran hỗ trợ. Trong trường
hợp này, xung đột có thể sẽ lan sang Lebanon và Syria, nơi các lực lượng thân Iran đóng quân.

Cùng với sự tham gia có thể có của các nước láng giềng vào cuộc khủng hoảng, chẳng hạn như Ai Cập và Tunisia, nơi có thể
bắt đầu bất ổn chính trị, những sự kiện như vậy có thể dẫn đến sự suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu xuống còn
2,4%.

Yair Golan, cựu phó tham mưu trưởng quân đội Israel đánh giá: “Iran và Hezbollah đang theo dõi và đánh giá tình hình. Nếu
Hezbollah tham gia vào cuộc xung đột hiện nay thì thời điểm có thể là sau khi Israel bắt đầu chiến dịch trên bộ ở Gaza”.

Trong cuộc chiến Israel-Hezbollah ngắn ngủi nhưng đẫm máu năm 2006, dầu thô đã tăng 5 USD/thùng. Với kịch bản xảy ra
một cuộc chiến ủy nhiệm, giá dầu thế giới có thể tăng khoảng 10% so với hiện nay. Giá dầu cao hơn cũng sẽ làm tăng thêm
khoảng 0,2 điểm phần trăm vào lạm phát toàn cầu - giữ ở mức gần 6% và duy trì áp lực lên các ngân hàng trung ương trong
việc thắt chặt chính sách tiền tệ ngay cả khi tăng trưởng đáng thất vọng.

Trong kịch bản thứ ba, một cuộc xung đột trực tiếp khó xảy ra nhưng cực kỳ nguy hiểm giữa Israel và Iran - các chuyên gia dự
đoán một cuộc suy thoái toàn cầu và giá dầu sẽ tăng lên 150 USD/thùng. Giá dầu tăng mạnh sẽ làm chệch hướng nỗ lực kiềm
chế giá cả trên toàn thế giới - khiến lạm phát toàn cầu ở mức 6,7% trong năm tới.

Thay đổi chính quyền và chính sách phát triển của các nước lớn trong khu vực

Sự bùng phát của dịch bệnh COVID-19, sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu và cạnh tranh chiến lược ngày càng khốc liệt
giữa các nước lớn đã và đang đẩy nhanh việc định hình một cục diện thế giới mới. Trong dòng chảy chung đó, Trung Đông
cũng đối mặt nhiều thách thức. Các quốc gia trong khu vực, nhất là các quốc gia “chủ chốt”, bao gồm I-ran, I-xra-en và A-rập
Xê-út đã và đang có những điều chỉnh lớn trong đường lối phát triển để có thể thay đổi và định hình một cục diện hợp tác, cạnh
tranh mới tại khu vực Trung Đông.

Tại I-ran, sau những chính sách cải cách thiếu hiệu quả cả về kinh tế, chính trị và đối ngoại, chính quyền của Tổng thống I-ran
Hát-xan Rô-ha-ni đã đánh mất uy tín và vị thế của mình trên chính trường (1). Phe bảo thủ liên tiếp giành chiến thắng áp đảo từ
kỳ bầu cử Quốc hội I-ran (tháng 3-2021) cho tới cuộc bầu cử Tổng thống I-ran (tháng 6-2021) quay trở lại cầm quyền toàn diện
trên cả ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Với sự tín nhiệm từ Lãnh tụ tối cao A-li Kha-me-ni, ông E-bra-him Rai-xi -
ứng cử viên theo đường lối cứng rắn - đã dễ dàng giành chiến thắng và chính thức trở thành tân Tổng thống I-ran kể từ tháng
8-2021. Về đối nội, chính quyền mới của Tổng thống I-ran E. Rai-xi thực hiện một số điều chỉnh, tập trung: 1- Phục hồi, xây
dựng nền kinh tế tự lực, tự cường, vốn bị kìm hãm bởi các lệnh trừng phạt của Mỹ và chịu ảnh hưởng bởi tham nhũng, quản lý
yếu kém cùng dịch bệnh COVID-19(2); 2- Phát triển khu vực kinh tế tư nhân, xuất khẩu các sản phẩm phi dầu mỏ, thúc đẩy
công nghiệp du lịch, đa dạng nguồn ngoại hối; 3- Coi việc phát triển chương trình tên lửa đạn đạo là vấn đề liên quan tới lợi ích
quốc gia - dân tộc nên không thể nhượng bộ, duy trì sức mạnh tại khu vực. Về đối ngoại, chính quyền của Tổng thống I-ran E.
Rai-xi thực hiện đường lối cứng rắn hơn so với chính quyền tiền nhiệm, đó là: 1- Cứng rắn hơn đối với Mỹ, phương Tây và I-
xra-en, không lệ thuộc vào Kế hoạch hành động chung toàn diện (JCPOA, hay còn được gọi là Thỏa thuận hạt nhân I-ran năm
2015); 2- Đẩy mạnh sự phát triển của văn hóa Hồi giáo I-ran, góp phần tuyên truyền cho thế giới Hồi giáo; 3- Tăng cường hỗ
trợ cho các lực lượng ủy nhiệm tại khu vực, bảo vệ an ninh từ xa; 4- Đẩy mạnh ngoại giao kinh tế và thương mại quốc tế (3),
thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, đa dạng nguồn ngoại tệ; 5- Thúc đẩy chính sách đối ngoại hướng Đông, tập trung vào các quốc
gia láng giềng và các nước châu Á, nhất là Trung Quốc và Nga.

Tại I-xra-en, Chính phủ liên minh của tám đảng(4) đã được thành lập sau thời gian dài đàm phán, chấm dứt 12 năm cầm quyền
của Thủ tướng I-xra-en Ben-gia-min Nê-ta-ni-a-hu. Lần đầu tiên, Chính phủ I-xra-en có sự góp mặt của một đảng A-rập tham
gia liên minh cầm quyền (Đảng Danh sách A-rập đoàn kết Ra’am) và có sự kết hợp đa dạng nhất từ các đảng chính trị với hai
đảng cánh tả (Công Đảng và Meretz), hai đảng trung dung (Yesh Atid và Xanh - Trắng), ba đảng cánh hữu (Yamina, Hy vọng
mới và Yisrael Beiteinu) và Đảng Ra’am Hồi giáo bảo thủ. Trong nhiệm kỳ bốn năm, vị trí tân Thủ tướng I-xra-en sẽ do ông
Náp-ta-li Ben-nét và Yai La-pít thay nhau đảm nhiệm. Chính phủ mới có một số điều chỉnh quan trọng so với chính quyền tiền
nhiệm, nhất là về vấn đề đối ngoại. Theo đó, chính quyền của Thủ tướng I-xra-en tập trung: 1- Củng cố và tăng cường quan hệ
với Mỹ bất chấp một số bất đồng(5); 2- Từ chối đàm phán hòa bình với Pa-le-xtin, cứng rắn hơn với những yêu cầu của các lực
lượng như Hamas, mở rộng xây dựng các công trình ở khu vực Bờ Tây; 3- Cạnh tranh quyết liệt hơn với I-ran khi cho rằng I-
ran gần đạt được điểm quan trọng trong chương trình hạt nhân; 4- Tích cực, chủ động tăng cường quan hệ với các quốc gia A-
rập trong khu vực, hình thành liên minh nhằm chống lại sự ảnh hưởng của I-ran; 5- Nâng cao hình ảnh của I-xra-en trên trường
quốc tế trong bối cảnh ngày càng nhiều tổ chức đưa ra các báo cáo bất lợi cho I-xra-en, nhất là về vấn đề nhân quyền.

Tại A-rập Xê-út, Chính phủ nước này tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách đất nước với trọng tâm xây dựng nền kinh tế phi
dầu mỏ thông qua Tầm nhìn năm 2030, khẳng định vị thế nền kinh tế lớn nhất khu vực, trung tâm của thế giới Hồi giáo dòng
Xăn-ni. Trong bối cảnh Mỹ đang giảm dần sự hiện diện của mình tại khu vực và sự cạnh tranh từ các quốc gia trong khu vực
ngày càng gay gắt, A-rập Xê-út buộc phải đề cao tính “tự chủ” trong chính sách phát triển và đường lối đối ngoại cũng như tăng
cường tiềm lực quân sự. Trong nhiều năm, A-rập Xê-út luôn nằm trong nhóm các quốc gia có kinh phí đầu tư cho quân sự
nhiều nhất trên thế giới. Năm 2020, A-rập Xê-út chi tới 57,5 tỷ USD cho quân sự, đứng thứ sáu trên thế giới (6). Chính quyền A-
rập Xê-út đã đưa ra một số điều chỉnh chính sách đối ngoại đáng chú ý như: 1- Bình thường hóa quan hệ với Ca-ta vào đầu
năm 2021, khép lại cuộc khủng hoảng ngoại giao tồi tệ kéo dài hơn ba năm qua tại khu vực Vùng Vịnh; 2- Đề xuất một thỏa
thuận ngừng bắn với lực lượng Houthi trong cuộc nội chiến tại Y-ê-men; 3- Tăng cường quan hệ với I-rắc, bảo đảm vùng đệm
vững chắc trước nguy cơ an ninh từ I-ran; 4- Thúc đẩy quan hệ với I-ran, bảo đảm cân bằng chiến lược tại khu vực. Đặc biệt,
khác với I-xra-en và I-ran, với lợi thế riêng, A-rập Xê-út vừa duy trì, vừa tăng cường củng cố quan hệ tốt đẹp đối với cả Mỹ,
Trung Quốc và Nga.

- Nhận xét Trung Đông:

Hiện nay Trung Đông tiếp tục trở thành tâm điểm của cuộc đua giữa các siêu cường gồm Mỹ, Trung Quốc và
Nga. Với vai trò kết nối cả ba lục địa Á, Phi, Âu, đồng thời, việc kiểm soát được Trung Đông có ý nghĩa đặc
biệt đối với chiến lược của các bên.

- Bất định và phức tạp là những đặc tính của cục diện khu vực Trung Đông trong năm 2023, một năm đã chứng
kiến nhiều biến động mới trên cả hai chiều hướng: hòa giải và xung đột. Quan hệ Iran với các nước Saudi
Arabia, Iraq, Syria và Liên đoàn Arab, vấn đề Yemen, cuộc xung đột giữa Israel và lực lượng Hồi giáo Hamas.
Khu vực này vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức
Với những diễn biến đang diễn ra và những yếu tố đang thay đổi ở khu vực, tình hình Trung Đông trong năm
tiếp theo khó có thể trở lại trạng thái hòa bình trọn vẹn. Thay vào đó, có thể đưa ra một số dự báo mang tính
tương đối như sau:
Thứ nhất, xung đột ở dải Gaza tất nhiên sẽ có nhiều kịch bản phát triển
Thứ hai, cuộc chiến ở Gaza một mặt sẽ tạo thêm động lực đoàn kết thế giới Hồi giáo, nhưng sẽ tạo ra một tình
thế phức tạp mới trong quan hệ Iran – Saudi Arabia
Thứ ba, xu hướng hòa giải quan hệ giữa các nước Hồi giáo ở Trung Đông sẽ tiếp tục được thúc đẩy
Thứ tư, cạnh tranh nước lớn sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp trong năm tới.

You might also like