You are on page 1of 7

Giáo Dục & Đào Tạo

Xây dựng hệ thống đảm bảo


và kiểm định chất lượng
trong giáo dục đại học tại Việt Nam
BÙI VÕ ANH HÀO
Trường Đại học Kinh tế - Tài chính TP.HCM
Nhận bài: 15/10/2015 - Duyệt đăng: 09/12/2015

S
ự ra đời của bộ tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học và kế
hoạch kiểm định chất lượng dựa trên các tiêu chuẩn theo quy
định tất yếu phải đi kèm một hệ thống tổ chức và cơ chế quản lý
để đưa bộ tiêu chuẩn này trở thành hiện thực. Hiện nay, một hệ thống đảm
bảo chất lượng giáo dục đại học tương đối hoàn chỉnh đang được hình
thành tại VN, với cơ quan quản lý nhà nước đối với các hoạt động đảm
bảo chất lượng giáo dục cấp quốc gia là Cục Khảo thí và Kiểm định chất
lượng giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, và các bộ phận đảm bảo
chất lượng bên trong đã và đang được thiết lập tại các trường.
Từ khóa: Đảm bảo chất lượng, kiểm định chất lượng, giáo dục đại
học.

1. Đặt vấn đề 2005 đầu 2006 VN đã bắt đầu Luật Giáo dục sửa đổi, Luật
Đảm bảo chất lượng (ĐBCL) triển khai Kiểm định chất lượng GDĐH, Chiến lược phát triển
trong giáo dục đại học (GDĐH) (KĐCL) GDĐH. Tuy vậy, sau gần GDĐH 2011-2020 cũng như các
đã phát triển từ rất lâu, và rất thịnh hơn 10 năm (2006-2015), hệ thống chương trình cải cách GDĐH trong
hành trong hệ thống giáo dục đại KĐCL vẫn chưa hoàn thành và đi những năm gần đây đã chuyển
học của Pháp, Ý và Anh. Tuy nhiên, vào hoạt động chính thức. Hệ thống trọng tâm vào chất lượng giáo dục,
phải đến đầu thập niên 90 của thế ĐBCL GDĐH quốc gia về cơ bản từ đó đặt ra yêu cầu cấp thiết đối
kỷ trước, ĐBCL mới thực sự trở vẫn chưa đượchình thành, chủ yếu với việc hoàn thiện và phát triển hệ
thành xu hướng tất yếu toàn cầu. dựa vào KĐCL và thiếu vắng nhiều thống ĐBCL GDĐH quốc gia. Bài
Với xu hướng này, hệ thống ĐBCL công cụ ĐBCL được sử dụng phổ viết này chỉ ra một số những vấn
GDĐH cấp quốc gia đã hình thành biến ở những nền giáo dục tiên tiến đề của hệ thống ĐBCL và KĐCL
ở các nền giáo dục tiên tiến. Đi như Mỹ, Anh, Hà Lan, Úc và các GDĐH VN, qua đó đưa ra một
liền với đó là sự ra đời của các tổ nước châu Âu khác. Hai trung tâm số khuyến nghị đối với việc phát
chức, đơn vị ĐBCL và các công cụ KĐCL mới được thành lập ở VN, triển hệ thống này. Một vài trong
ĐBCL, điển hình là kiểm định chất chưa chính thức triển khai hoạt số những khuyến nghị này đã từng
lượng (KĐCL - Accreditation), động đánh giá chất lượng. Có thể được các chuyên gia nghiên cứu
thẩm định chất lượng (Audit), xếp nói giữa nền GDĐH của VN và GDĐH trong nước đề cập, tuy
hạng đại học (Ranking). các nước trong khu vực cũng như nhiên ở thời điểm hiện tại, những
Cùng với xu hướng thế giới trên thế giới tồn tại những khoảng khuyến nghị này vẫn có giá trị nên
trong ĐBCL GDĐH, từ cuối năm cách khá lớn về nhiều mặt, trong vẫn được đưa vào bài viết này.
đó có công tác ĐBCL.

Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 103


Giáo Dục & Đào Tạo
2. Một số vấn đề về công tác đã được triển khai ở cấp trường tiêu chuẩn ĐBCL của ENQA,
ĐBCL trong GDĐH VN nhưng không đồng bộ. Hơn nữa, theo đó thông tin các CSGDĐH
Về hình thức có thể thấy hệ do phiếu khảo sát của các trường công bố công khai phải được một
thống ĐBCL GDĐH của VN còn không được xây dựng trên bên độc lập kiểm chứng và xác
rất nhiều hạn hữu. Sự thiếu vắng nền tảng cùng một bộ chỉ báo nhận2. Đối với việc kiểm soát
vai trò của các tổ chức hiệp hội ví (Indicator Set) nên kết quả khảo các điều kiện ĐBCL của CTĐT,
dụ như Hiệp hội ĐBCL hay Hiệp sát không đem lại thông tin giá Thông tư 08/2011/TT-BGDĐT
hội các trường ĐH&CĐ VN trong trị đối với hệ thống ĐBCL toàn ban hành năm 2011 về bản chất
hệ thống ĐBCL quốc gia khiến cho quốc. quy định những điều kiện “kiểm
hệ thống ĐBCL GDĐH của VN về Hệ thống ĐBCL nội bộ bên tra nhanh” để “mở và duy trì
cơ bản chỉ hoạt động theo phương trong các trường ĐH&CĐ hầu CTĐT”. Chính vì tính chất “kiểm
thức áp đặt “từ trên xuống dưới”, như chưa hình thành mặc dù tra nhanh” này mà các tiêu chuẩn
từ Bộ GD&ĐT xuống các trường phần lớn các trường đã thành lập đặt ra khá đơn giản và sơ sài,
ĐH&CĐ. Dù rằng cách tiếp cận bộ phận/đơn vị phụ trách ĐBCL. chỉ đơn thuần là các tiêu chuẩn
này sẽ có tác dụng tích cực trong Nhiệm vụ chủ yếu của các đơn vị “cứng”, không tính đến đặc thù
giai đoạn ngắn ban đầu nhưng về này là thực hiện những yêu cầu của các lĩnh vực đào tạo khác
lâu dài, nó sẽ hạn chế sự phát triển ĐBCL của Bộ GD&ĐT, đồng nhau như khoa học tự nhiên, xã
của hoạt động ĐBCL. Các chuyên thời kiêm nhiệm các công tác hội, văn hoá nghệ thuật, thể thao
gia, các nhà nghiên cứu trong lĩnh khác như khảo thí và hoặc thanh hay quân sự. Việc Bộ GD&ĐT
vực này đều cho rằng ĐBCL chủ tra mà nhiều khi các nhiệm vụ đình chỉ tuyển sinh nhiều CTĐT
yếu “nằm trong tay” của các cơ này lại chiếm phần lớn các nhiệm do vi phạm những điều kiện này,
sở GDĐH (CSGDĐH) và cán bộ, vụ thường xuyên của đơn vị. Các dù không thực sự thuyết phục đối
giảng viên. Các tài liệu hướng dẫn công cụ ĐBCL bên trong các với một số trường ĐHCĐ, vẫn
thực hành ĐBCL của INQAAHE1 trường nhìn chung rất hạn chế. là một động thái cần thiết đánh
hay Hiệp hội ĐBCL GDĐH châu Về thực chất, mặc dù sự ra đời động ý thức chất lượng trong
Âu (ENQA) đều nhấn mạnh vai của KĐCL năm 2006 đã tạo ra “cú hệ thống. Tuy vậy việc sử dụng
trò của các trường ĐH&CĐ trong hích” đáng kể đối với hoạt động các điều kiện “kiểm tra nhanh”,
ĐBCL. ĐBCL của cả hệ thống GDĐH, thuần tuý mang tính thủ tục, làm
Thêm vào đó, cũng không có thể nói hoạt động ĐBCL về “chiếc roi” chất lượng phản ánh
quá khó khăn để nhận định rằng cơ bản vẫn mang tính hình thức thực trạng Bộ GD&ĐT thiếu
các công cụ ĐBCL được sử dụng và thiếu thực chất. KĐCL chưa công cụ hữu hiệu trong quản lý
trong hệ thống còn rất đơn giản giúp kiểm soát hay đảm bảo chất chất lượng GDĐH.
hoặc quá sơ sài, chỉ có KĐCL, lượng giáo dục của các trường Đồng thời, động thái này
yêu cầu công khai thông tin và ĐH&CĐ hay các CTĐT do các cũng đặt ra các câu hỏi về việc
việc cấp phép mở ngành/CTĐT trường cung cấp (phân tích cụ sử dụng cấp phép “mở và duy
hiện đang được sử dụng trong thể ở phần sau về KĐCL). Thậm trì CTĐT” này và KĐCL trong
hệ thống. KĐCL thì chưa hoàn chí KĐCL còn tạo hiệu ứng hệ thống ĐBCL quốc gia. Liệu
thiện và đi vào hoạt động trong ngược khi gây phản ứng tiêu cực có thể dùng nó thay thế KĐCL
khi chương trình Ba công khai từ các trường do triển khai chậm CTĐT không? KĐCL nên được
còn để ngỏ nhiều câu hỏi về tính trễ, cồng kềnh, kém hiệu quả và dùng như thế nào? Có cần thiết
chính xác và độ tin cậy của thông thiếu nhất quán. triển khai KĐCL cả cơ sở đào tạo
tin. Hệ thống xếp hạng đại học Thông tin công khai theo và CTĐT không? Khi hệ thống
trong nước chưa hình thành trong chương trình Ba công khai mặc KĐCL quốc gia hoàn thiện, việc
khi xếp hạng đại học thế giới và dù phần nào giúp tăng tính minh cấp phép nên được sử dụng thế
khu vực hầu như chưa chạm tới bạch trong hệ thống nhưng không nào?
các trường ĐH&CĐ của VN. được kiểm chứng, xác minh, do 2
Hiệp hội ĐBCL GDĐH châu Âu (ENQA,
Khảo sát ý kiến của người học vậy chưa phải là nguồn tin đảm 2005)
1
International Network for Quality Assurance bảo. Ở đây có thể tham khảo
Agencies in Higher Education

104 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016


Giáo Dục & Đào Tạo
3. Giải pháp, đề xuất đối với việc lượng như VN, ĐBCL chỉ được học, hệ thống và thực chất.
xây dựng và phát triển hệ thống hiểu một cách hạn chế và nhầm Ba là, thúc đẩy, hỗ trợ phát
ĐBCL trong GDĐH VN lẫn với KĐCL. Việc đa dạng hoá triển hệ thống ĐBCL nội bộ trong
Việc xây dựng và phát triển các công cụ còn hỗ trợ thay đổi các trường ĐH&CĐ. Thẩm định
hệ thống ĐBCL quốc gia, đặc nhận thức này. nội bộ (Internal Audit), đánh giá
biệt là thiết kế của hệ thống từ Cụ thể về công cụ ĐBCL, cần đồng cấp và đối sánh là những
việc sử dụng các công cụ ĐBCL, xem xét giới thiệu sử dụng đối công cụ ĐBCL nội bộ cần được
chức năng và nhiệm vụ của các sánh làm công cụ cải tiến chất thúc đẩy sử dụng tại các trường
tổ chức ĐBCL đến vai trò của lượng. Phương pháp này đã được ĐH&CĐ.
các bên tham gia, phụ thuộc vào sử dụng phổ biến ở Mỹ, Anh, Bốn là, nâng cao tính thực
nhiều yếu tố. Mô hình ĐBCL khi Úc, cộng đồng châu Âu và một chất của các hoạt động và công
áp dụng vào một hệ thống GDĐH số quốc gia khác trên thế giới, cụ ĐBCL. Trước hết, nhất thiết
cần tính đến tính thực tiễn, quy và được cho là công cụ cải tiến phải có cơ chế xác nhận thông
mô của hệ thống, các yếu tố văn chất lượng hữu ích. Đặc biệt, tại tin công khai của các trường
hoá cũng như mức độ tự chủ của Anh đối sánh CTĐT theo chuyên ĐH&CĐ, có thể qua một tổ chức
các CSGDĐH. Dựa trên hiện ngành đang được sử dụng ở cấp độc lập như một cơ quan thống
trạng ĐBCL trong GDĐH VN quốc gia, được QAA tổ chức và kê giáo dục, hoặc có thể sử dụng
hiện nay và xu hướng ĐBCL trên điều phối thực hiện. Đối sánh cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
thế giới, người viết xin đưa ra cũng được sử dụng ở quy mô khu quản lý nhà nước (QLNN).
một số đề xuất đối với việc phát vực, như dự án đối sánh GDĐH Năm là, cần thiết lập cơ chế
triển hệ thống ĐBCL quốc gia châu Âu và dự án đối sánh nhằm quản lý, quy định pháp lý và
dưới đây. thúc đẩy cải cách quản trị đại học quy tắc nghề nghiệp phù hợp và
Một là, cần khuyến khích trong các trường đại học ở khu chặt chẽ đối với các tổ chức, cá
và thường xuyên thúc đẩy vai vực Trung Đông và Bắc Phi. Sử nhân tham gia ĐBCL. Do năng
trò chủ động, tích cực của các dụng đối sánh được cho là xu thế lực ĐBCL ở các trường ĐH&CD
trường ĐH&CĐ thông qua tăng tương lai của ĐBCL GDĐH trên còn hạn chế, nhu cầu được tư vấn
cường sự tham gia của các tổ thế giới. về công tác này là rất lớn. Điều
chức hiệp hội vào hoạt động Bên cạnh đó, rất cần thiết tối quan trọng ở đây là phải có cơ
ĐBCL ngoài. Các hiệp hội có thể phải thiết lập, phát triển và ban chế quản lý hiệu quả, phù hợp và
là Hiệp hội các trường ĐH&CĐ hành các công cụ theo dõi, giám khung pháp lý thuận lợi để một
VN (mới thành lập) hoặc Hiệp sát và đánh giá hoạt động của mặt tạo môi trường lành mạnh
hội ĐBCL GDĐH và Hiệp hội hệ thống GDĐH, ví dụ như hệ và đảm bảo tính liêm chính trong
KĐCL GDĐH (chưa tồn tại, cần thống chỉ số, chỉ báo hiệu quả và các hoạt động chuyên môn, mặt
thành lập). hoạt động GDĐH, đơn vị chuyên khác hạn chế tối đa nguy cơ xảy
Hai là, kết hợp sử dụng đa trách thu thập và theo dõi các ra tình trạng “vừa đá bóng, vừa
dạng nhiều công cụ ĐBCL nhằm chỉ số này3, khung tiêu chuẩn thổi còi” và tiêu cực xảy ra trong
đa dạng hoá hoạt động ĐBCL, chất lượng GDĐH, khung năng đánh giá chất lượng.
khai thác tối đa các thế mạnh của lực quốc gia,...Việc phát triển Sáu là, “cấp phép” cần phải
các công cụ khác nhau để công một công cụ khảo sát tương tự được sử dụng kết hợp chặt chẽ
tác ĐBCL toàn diện hơn và đạt như SEQ (Student Experience với KĐCL. Nếu cấp phép được
hiệu quả cao hơn. Việc sử dụng Questionnaire), bảng hỏi khảo dùng để kiểm soát chất lượng
kết hợp nhiều công cụ khác nhau sát trải nghiệm của người học, để ban đầu tại thời điểm mở trường,
cũng nhằm đảm bảo công tác này các trường ĐH&CĐ sử dụng, dù mở ngành đào tạo thì KĐCL cần
bao trùm được nhiều mặt và khía nguyên bản hay có điều chỉnh, phải tập trung kiểm soát chất
cạnh của chất lượng trong GDĐH. cũng là rất quan trọng trong việc lượng trong quá trình đào tạo và
Đối với những nền GDĐH kém thúc đẩy triển khai khảo sát ý phát triển của trường và chương
phát triển trong đó ĐBCL chủ kiến người học một cách khoa trình. Những đề xuất cụ thể đối
yếu chỉ dựa vào KĐCL chất với KĐCL sẽ được đề cập ở phần
3 Mô hình HESA, Anh

Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 105


Giáo Dục & Đào Tạo
sau của bài viết. hai trung tâm KĐCL hiện tại ĐH&CĐ đã hoàn thành báo
Đối với KĐCL, do đây là một thuộc hai đại học quốc gia chưa cáo tự đánh giá (TĐG) và gửi
tiểu hệ thống trong ĐBCL và do cho thấy những nguy cơ này về Bộ. Nhiều trường trong số
vai trò quan trọng của KĐCL được nhận diện và ngăn chặn này hoàn thành báo cáo TĐG từ
trong GDĐH của VN, những đề phù hợp, đồng thời chưa làm rõ năm 2010 và 2011, đã nhận được
xuất đối với việc hoàn thiện và hoặc né tránh đề cập đến mối nhận xét phản biện với báo cáo
phát triển KĐCL sẽ được bàn quan hệ giữa hai cơ quan này TĐG nhưng vẫn chưa được đánh
riêng ở phần tiếp theo của bài với cơ quản chủ quản là đại học giá ngoài. Mức thời gian trễ 2-3
viết. quốc gia, mức độ và phạm vi can năm có rất nhiều thay đổi khiến
4. Kiến nghị đối với việc triển thiệp của giám đốc đại học quốc các trường phải tự đánh giá lại,
khai KĐCL ở VN gia trong quá trình giao nhiệm tức là lại tập hợp minh chứng và
vụ cho trung tâm, và mối liên hệ thậm chí viết lại báo cáo. Phải
4.1. Áp dụng và thực hiện triển
giữa Chính phủ với cơ quan này nói khối lượng công việc phải xử
khai nguyên tắc “tính độc lập”
thông qua giám đốc đại học quốc lý để hoàn tất KĐCL cho toàn bộ
Đây là nguyên tắc căn bản
gia. Về mặt pháp lý, Quy định hệ thống là rất lớn, chưa kể đến
làm nền tảng cho KĐCL; do vậy,
về tổ chức KĐCL giáo dục do những phản ứng tiêu cực từ các
nguyên tắc này khuyến nghị nếu
Bộ GD&ĐT 5 mới chỉ quy định trường do sự cồng kềnh, quan
không nói là bắt buộc phải được
các tổ chức này “hoạt động độc liêu giấy tờ trong quy trình triển
đảm bảo dù ở bất cứ hệ thống nào.
lập với các cơ sở giáo dục”. Đối khai KĐCL và sự chậm trễ trong
Mô hình KĐCL của VN cũng xác
với kiểm định viên (KĐV), quy việc triển khai đánh giá ngoài.
lập nguyên tắc quan trọng này
định trong Thông tư 60/2012/TT- Là một hệ thống tụt hậu so
trong thiết kế của hệ thống với
BGDĐT tại điều 13 và 14 đã giúp với KĐCL của Mỹ và nhiều nước
việc thành lập hai cơ quan KĐCL
ngăn chặn một phần xung đột lợi tiên tiến khác, chúng ta cần tận
độc lập trực thuộc hai đại học
ích giữa KĐV và CSGDĐH, tuy dụng lợi thế của người đi sau, có
quốc gia. Độc lập trong trường
vậy quy định “KĐV không được thể tham khảo những vấn đề họ
hợp này cần phải được hiểu là
nhận tiền hay lợi ích nào từ cơ đã trải qua, đã xử lý để phát triển
hoạt động kiểm định gồm toàn
sở giáo dục đăng ký KĐCL” là KĐCL thay vì trung thành cứng
bộ quá trình đánh giá, ra quyết
không rõ ràng và gây tranh cãi, nhắc với bản gốc. Cũng cần tính
định điều chỉnh đối với cơ sở
do vậy không khả thi. đến các đặc điểm của hệ thống
đào tạo hoặc CTĐT không chịu
4.2. Tiệm tiến, từng bước cải tổ GDĐH để có những giải pháp
tác động, ảnh hưởng, dù chính
quy trình tổ chức nhằm giảm tải phù hợp sao cho KĐCL hiệu quả
trị hay tài chính, của các bên liên
cho việc KĐCL và thực chất. Ví dụ, hệ thống
quan bao gồm Chính phủ, Bộ
KĐCL GDĐH từ khi bắt đầu GDĐH của Mỹ có tới hơn 4.000
GD&ĐT, các cơ quan QLNN,
năm 2006 đến nay đã hơn 10 cơ sở đào tạo, nhưng họ đã có
các trường ĐH&CĐ cùng các
năm, hệ thống KĐCL chưa hoàn hàng trăm năm phát triển KĐCL
đối tượng tham gia vào quá trình
thiện. Bộ GD&ĐT chưa dựa với 60 tổ chức KĐCL. Hơn thế
này. Nguyên tắc này được thể
được vào công cụ này để kiểm nữa, do các tổ chức KĐCL là các
hiện ở việc triển khai quy trình
soát chất lượng GDĐH. Trong hiệp hội của các trường ĐH&CĐ
KĐCL trên thực tế chứ không
giai đoạn 2007-2009, 40 trường và hiệp hội nghề nghiệp trong
hẳn nằm ở hình thức của việc cơ
đã hoàn thành đánh giá ngoài, một hệ thống GDĐH hàng đầu
quan KĐCL do ai thành lập4.
và đến năm 2014 đáng lẽ đã là thế giới, họ huy động được đội
Xung đột lợi ích giữa các bên
thời điểm triển khai KĐCL chu ngũ đông đảo các chuyên gia có
liên quan cũng như can thiệp của
kỳ tiếp theo của các trường này. trình độ và năng lực cao tham
cơ quan QLNN phải được nhận
Theo thông báo mới nhất của Bộ gia vào quá trình đánh giá. Nhìn
diện là những nguy cơ hiển hiện
GĐ&ĐT, tính đến tháng 04/2014 sang các hệ thống du nhập mô
đe doạ nguyên tắc “Độc lập” và
đã có 369 trường ĐH&CĐ và hình KĐCL của Mỹ như Hà Lan,
cần có cơ chế ngăn chặn. Trong
đến 31/08/2015 có 129 trường Bỉ, Úc, họ có đội ngũ chuyên gia
khi đó, quy chế hoạt động của 5
Thông tư 61/2012/TT-BGDĐT ngày GDĐH giỏi và đông đảo, trong
4
Tham khảo trường hợp TEQSA 28/12/2012

106 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016


Giáo Dục & Đào Tạo

khi số lượng CSĐT ở các hệ phải đánh giá lại mức độ hiệu viên và các CTĐT của họ nhưng
thống này chỉ là ở mức vài chục. quả của quá trình này. những kết quả này không được
Các nước này chỉ mất 2 đến 3 4.3. Hướng đến phương pháp tiếp Bộ GD&ĐT công nhận, buộc các
năm để hoàn thành hệ thống cận “Bắt buộc” dựa trên cơ sở trường thành viên phải triển khai
KĐCL và chu kỳ KĐCL đầu tiên phân cấp KĐCL lại. Điều này là không cần
trong toàn hệ thống. Đối với một nền GDĐH còn thiết, lãng phí nhân lực và vật lực
Đối với một hệ thống gồm phát triển chậm, trong đó thiếu của các trường này cũng như của
421 trường ĐH&CĐ (theo thống vắng những cơ chế góp phần Bộ GD&ĐT, đồng thời đi ngược
kê của Bộ GD&ĐT năm 2013), điều chỉnh chất lượng như trách với chủ trương tăng cường tự
số lượng chuyên gia GDĐH còn nhiệm giải trình, dựa theo tính chủ, tự chịu trách nhiệm cho các
hạn chế, và nền tảng GDĐH nói cung-cầu đào tạo và lựa chọn trường ĐH&CĐ.
chung chưa cao, việc giảm tải của người học, nhất thiết phải sử Theo nhận định của nhiều
khối lượng công việc của tất cả dụng KĐCL, cả CSĐT và CTĐT, chuyên gia và các nhà quản lý
các bên liên quan như cơ quan đối với cả khối công lập và ngoài GDĐH, hai trung tâm KĐCL
QLNN, cơ quan KĐCL và các công lập để “gác cổng” và đảm thuộc hai đại học quốc gia VN là
trường trong quá trình KĐCL có bảo những điều kiện tối thiểu chưa đủ cơ sở pháp lý để xử lý
thể là yếu tố mấu chốt quyết định phải được đáp ứng. Tuy nhiên, và thực hiện khối lượng KĐCL
sự thành công của công cụ này. KĐCL không nhất thiết phải áp trong toàn hệ thống. Việc mở
Việc thay đổi cần tham khảo mô dụng với tất cả các trường, đặc rộng giao quyền tự kiểm định cho
hình KĐCL của các nước phát biệt các trường theo mô hình hai đại học quốc gia và đại học vùng
triển, tham vấn các chuyên gia cấp như đại học quốc gia và đại một phần giảm tải cho hệ thống
GDĐH trong và ngoài nước, đặc học vùng có đủ năng lực triển KĐCL quốc gia, mặt khác phù
biệt cần tham vấn ý kiến của các khai tự kiểm định. hợp với chủ trương phân tầng đại
trường ĐH&CĐ. Việc tự đánh Trên thực tế, hai đại học quốc học và tăng cường tính tự chủ, tự
giá trong quy trình KĐCL từng gia đều đã triển khai tự kiểm chịu trách nhiệm cho các trường.
được cho là hữu ích, tuy vậy cần định đối với các trường thành Về lâu dài, có thể xét giao quyền

Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 107


Giáo Dục & Đào Tạo
tự kiểm định cho những trường AUN) và Hiệp hội ĐBCL GDĐH cũng sẵn có những hiểu biết khá
đáp ứng được những điều kiện châu Âu (ENQA). sâu rộng về giáo dục nói chung
nhất định thay vì dựa trên cơ sở 4.5. Triển khai thực hiện và GDĐH nói riêng (lưu ý rằng
phân tầng các trường ĐH&CĐ. Tuyển chọn, đào tạo kiểm đây không phải là đặc điểm của
4.4. Bộ tiêu chuẩn KĐCL cần định viên GDĐH VN và khó có thể trang
nhấn mạnh về quá trình thực Nhằm triển khai hệ thống bị hay nâng cao những hiểu biết
hiện với những bước tiến bộ KĐCL, năm 2012, Bộ GD&ĐT này trong phạm vi một khoá tập
Theo ý kiến của người viết, ban hành Quy định về kiểm định huấn ngắn hạn). Dù vậy, tiêu
những thay đổi trong hệ thống viên chất lượng giáo dục kèm chuẩn KĐV vẫn đặt ra những yêu
GDĐH những năm gần đây dẫn theo Thông tư số 60/2012/TT- cầu cao về kinh nghiệm, ví dụ
tới sự cần thiết phải thay đổi bộ BGDĐT. Thực hiện Thông tư tiêu chuẩn bắt buộc để lựa chọn
tiêu chuẩn KĐCL. Như đã trình này, tháng 7/2015, Bộ GĐ&ĐT đánh giá viên của Anh là phải có
bày ở trên, KĐCL cần phải kết cũng đã ra thông báo tuyển kinh nghiệm quản lý, xây dựng
hợp chặt chẽ với các công cụ chọn KĐV thông qua kỳ thi sát và/hoặc đánh giá các trường đại
khác để tạo hiệu quả cao hơn hạch. Như vậy, thông qua Cục học và cao đẳng.
trong công tác KĐCL. Nếu như KT&KĐCL, Bộ GD&ĐT đang Đánh giá ngoài không chỉ là
việc cấp phép hoạt động cho thực hiện vai trò chuyên môn thay xem xét CSĐT hay CTĐT có đạt
CSĐT và CTĐT được sử dụng vì chức năng quản lý nhà nước. Ở những tiêu chuẩn đã đề ra hay
với mục đích kiểm soát các điều đây có hai điều cần làm rõ. Thứ không mà còn phải chỉ ra những
kiện ĐBCL ban đầu thì KĐCL nhất, tuyển chọn KĐV để tiến điểm yếu và đề xuất các khuyến
cần phải tập trung vào quá trình hành đánh giá ngoài trong quy nghị. Sẽ vô cùng nguy hiểm nếu
hoạt động của CSĐT, mức độ trình KĐCL là nhiệm vụ của nhà như các CSĐT và CTĐT bị đánh
hoàn thành kế hoạch, sứ mạng, tuyển dụng, tức là của trực tiếp giá qua nhãn quan hạn chế, cứng
và mục tiêu. Như vậy, các tiêu các trung tâm KĐCL. Thứ hai, nhắc và bó hẹp trong một phạm vi
chuẩn KĐCL cần phải tập trung việc sát hạch năng lực và trình độ nhỏ. Còn nguy hiểm hơn nếu các
đánh giá mức độ tiến bộ, sự thay của KĐV và cấp chứng chỉ hành khuyến nghị cải tiến được đưa ra
đổi theo thời gian trong hoạt động nghề là nhiệm vụ chuyên môn từ những lăng kính hạn hẹp, một
của CSĐT, cũng như đánh giá của tổ chức nghề nghiệp (tương chiều. Do vậy, việc tuyển chọn
nỗ lực cải tiến chất lượng, hiệu tự như kiểm toán), ở đây là hiệp KĐV phải chú trọng xem xét kinh
quả hoạt động và thực hành tại hội KĐCL và/hoặc ĐBCL, nếu nghiệm thực tế và trình độ của ứng
CSĐT. Nói cách khác, các tiêu như kiểm định viên chất lượng viên, bằng không kết quả đánh
chuẩn, tiêu chí cần nhấn mạnh giáo dục được coi là một nghề giá sẽ khó thuyết phục đối với các
yếu tố cải tiến chất lượng. Điều như trong Quy định này. trường.
này giúp hệ thống KĐCL của VN Ngoài ra, các điều kiện tuyển Thành lập ban kiểm soát độc
có khả năng tiếp cận gần hơn với lựa KĐV cần phải bám sát thực lập, giám sát chất lượng và KĐCL
xu hướng phát triển của ĐBCL tiễn. Một đoàn đánh giá ngoài Cuối cùng, để đảm bảo tính
và KĐCL ở các hệ thống tiên tiến thông thường bao gồm chuyên công bằng, minh bạch, khách quan
trên thế giới. gia KĐCL/ĐBCL, các chuyên gia và liêm chính, yêu cầu cấp thiết
Bên cạnh đó, để thúc đẩy một giáo dục đại học cùng với những phải có một uỷ ban độc lập giám
cách sâu rộng hoạt động ĐBCL nhà quản lý GDĐH dày dạn kinh sát, đánh giá hoạt động của các tổ
bên trong các trường ĐH&CĐ, nghiệm với sự hỗ trợ hành chính chức KĐCL và ĐBCL cũng như
cần bổ sung tiêu chuẩn đánh giá của nhân viên tổ chức KĐCL. Ở các hoạt động và công cụ khác để
hệ thống ĐBCL nội bộ của các các hệ thống GDĐH tiên tiến, các tư vấn cho Nhà nước, Chính phủ,
CSĐT. Việc điều chỉnh này phù chuyên gia này trải qua tập huấn BGDĐT về các vấn đề liên quan
hợp với những hướng dẫn thực đơn giản về quy trình và các cách đến chất lượng GDĐH.
hành ĐBCL của Mạng lưới các thức đánh giá. Họ là những người 5. Kết luận
trường đại học khu vực ASEAN đang hoạt động trong những nền
(ASEAN Universities Network- giáo dục phát triển, do vậy họ Chất lượng giáo dục là một
phạm trù đa diện và tương đối

108 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016


Giáo Dục & Đào Tạo
phức tạp do bởi có quá nhiều yếu hơn 10 năm, hệ thống ĐBCL và vọng mở rộng cuộc đối thoại giữa
tố tham gia ảnh hưởng đến quá KĐCL trong GDĐH của VN vẫn các nhà quản lý, những người làm
trình giáo dục. Vì vậy, đảm bảo chưa hoàn thiện trong khi các nước chính sách và các nhà nghiên cứu
chất lượng GDĐH cho dù có thông khác đã trải qua 1 đến 2 kỳ đánh trong vấn đề nàyl
qua công cụ và phương tiện nào đi giá chính sách và thực hành ĐBCL Tài liệu tham khảo
chăng nữa cũng là một quá trình và KĐCL để điều chỉnh, cải tiến hệ
European Association for Quality Assurance
lâu dài. Không có công cụ ĐBCL thống của họ. Tính đến thời điểm in Higher Education [ENQA]. (2005).
nào có thể ngay lập tức làm thay hiện tại, về ĐBCL, chúng ta đã đi Standards and Guidelines for Quality
đổi chất lượng giáo dục. Và, cũng chậm hơn tới 25-30 năm so với Assurance in the European Higher
không có một công cụ nào có thể các hệ thống GDĐH tiên tiến trên Education Area (ESG).
độc lập nâng cao được chất lượng thế giới. Đã có rất nhiều bài học từ Thông tư 08/2011/TT-BGDĐT ban hành
ngày 17/02/2011 về Quy định điều kiện,
của cả một hệ thống giáo dục mà các nền GDĐH đi trước và rõ ràng
hồ sơ, quy trình mở ngành đào tạo, đình
không kết hợp với các giải pháp chúng ta có thể và nên nghiên cứu chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định mở
khác. Bản chất của các công cụ cải tiến hệ thống của chúng ta từ ngành đào tạo trình độ đại học, trình độ
ĐBCL cũng phải được sử dụng kết những bài học đó. Thông thường, cao đẳng.
hợp với nhau để ĐBCL đạt hiệu đó là cách khôn ngoan và hiệu quả Thông tư 61/2012/TT-BGDĐT ngày
quả cao hơn. để rút ngắn khoảng cách với các 28/12/2012 ban hành quy định về tổ
ĐBCL và KĐCL trong GDĐH nền giáo dục tiên tiến và đẩy nhanh chức KĐCL giáo dục do Bộ GD&ĐT

của VN bắt đầu “thụt lùi” so với quá trình hội nhập. Tuy nhiên, việc
phong trào ĐBCL ở các nước tiên này cần được thực hiện một cách
tiến tới khoảng 15 năm. Sau gần cẩn trọng và chọn lọc. Bài viết hy

Tác động của tỷ giá... (Tiếp theo trang 52)

Tài liệu tham khảo Tổng cục Thống kê. (2006). Xuất nhập khẩu VN năm 2012. Hà Nội. NXB Tài chính.
hàng hóa VN 20 năm đổi mới 1986 - Tổng cục Hải quan. (2014). Niên giám thống
Jerry H. Bergstrand. (1985). The Gravity
2005. Hà Nội. NXB Thống kê. kê Hải quan về xuất nhập khẩu hàng hóa
equation in international trade: Some
Tổng cục Thống kê. (2008). Xuất nhập VN năm 2013. Hà Nội. NXB Tài chính.
microeconomic foundations and
khẩu hàng VN năm 2006. Hà Nội. NXB Tổng cục Hải quan (2014). Niên giám thống
empirical evidence. The Review of
Thống kê. kê Hải quan về xuất nhập khẩu hàng hóa
Economics and Statistics, 67(3): 474-
Tổng cục Thống kê. (2009). Xuất nhập VN năm 2014 (tóm tắt). Hà Nội. NXB
481.
khẩu hàng VN năm 2007. Hà Nội. NXB Tài chính.
Konstantinos Kepaptsoglou, Matthew G.
Thống kê. Trần Nhuận Kiên, Ngô Thị Mỹ. (2015). Các
Karlaftis and Dimitrios Tsamboulas,
Tổng cục Hải quan. (2010). Niên giám thống yếu tố ảnh hưởng đến kim ngạch xuất
(2013). The gravity model specification
kê Hải quan về xuất nhập khẩu hàng hóa khẩu nông sản VN: Phân tích bằng mô
for modeling international trade flows
VN năm 2009. Hà Nội. NXB Tài chính. hình trọng lực. Chuyên đề Kinh tế &
and free trade agreement effects: a 10-
Tổng cục Thống kê. (2011). Xuất nhập Chính trị thế giới, Số 3, trang 47 - 52
year review of empirical studies. The
khẩu hàng VN năm 2008. Hà Nội. NXB Trần Thanh Long, Phan Thị Quỳnh Hoa.
Open Economics Journal, Vol 3(2010):
Thống kê. (2015). Phân tích các yếu tố tác động
1-13.
Tổng cục Hải quan (2011). Niên giám thống đến xuất khẩu thủy sản của VN. Tạp
Krugman Obsfeld Melitz. (2012).
kê Hải quan về xuất nhập khẩu hàng hóa chí Kinh tế và Dự báo, Số 13, trang 32
International economic. 9th ed. Paul R.
VN năm 2010. Hà Nội. NXB Tài chính. – 34.
Krugman, ed., Addison Wesley Pearson.
Tổng cục Hải quan. (2012). Niên giám thống
Phạm Thị Ngân, Nguyễn Thanh Tú. (2015).
kê Hải quan về xuất nhập khẩu hàng hóa
Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
VN năm 2011. Hà Nội. NXB Tài chính.
thủy sản của VN sang thị trường Âu Mỹ.
Tổng cục Hải quan. (2013). Niên giám thống
Tạp chí Khoa học thương mại, Số 80,
kê Hải quan về xuất nhập khẩu hàng hóa
trang 10 – 19.

Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 109

You might also like