Professional Documents
Culture Documents
Tổng quan nghiên cứu giáo dục tài năng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
Tổng quan nghiên cứu giáo dục tài năng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
4.0
Trần Thành Nam, Lữ Thị Mai Oanh1
Tóm tắt: Giáo dục tài năng đã xuất hiện từ lâu và trở thành yêu cầu cơ bản của giáo dục thời đại 4.0.
Nhiều nghiên cứu nhấn mạnh giáo dục tài năng cần hướng đến cách tiếp cận đa chiều mang tính khoa học
nhằm xây dựng cơ sở dẫn chứng cho người học, đáp ứng thế mạnh, nhu cầu giáo dục riêng biệt và cung
cấp một môi trường lý tưởng để phát triển tối đa tiềm năng người học. Bởi vậy, bài viết tổng quan các
nghiên cứu về giáo dục tài năng học sinh phổ thông hướng đến làm rõ bốn nội dung: nhận diện học sinh
tài năng, chương trình giáo dục tài năng, mô hình đào tạo tài năng và đội ngũ giáo viên đáp ứng giáo dục
tài năng để từ đó gợi mở các chỉ dẫn về mặt lý luận cũng như thực tiễn nhằm hướng đến xây dựng mô
hình đào tào tài năng phù hợp với bối cảnh Việt Nam và đáp ứng xu thế đào tạo tài năng trong bối cảnh
cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ khóa: tài năng, năng khiếu, giáo dục tài năng, giáo dục tài năng cách mạng công nghiệp 4.0
1. Mở đầu
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được xem là bước tiến mới trong phát triển khoa học và công
nghệ, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt của nền văn minh nhân loại trên toàn thế giới. Những tiến bộ trong
công nghệ đã cho phép tự động hóa diễn ra trong hầu hết lĩnh vực; và là động cơ để tiếp tục hoạt động,
đổi mới, trở thành nền tảng cho những phát triển khoa học và công nghệ, bao gồm cách mạng công
nghiệp 4.0, 5.0 và các cuộc cách mạng công nghiệp mới khác trong tương lai (Sima et al., 2020). Các
công nghệ và phương pháp tiếp cận mới kết hợp thế giới vật lý, kỹ thuật số và sinh học theo cách sẽ thay
đổi cơ bản nhân loại. Chính vì vậy, để đối phó với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và các cuộc cách
mạng tương lai cần có sự chuẩn bị tốt nguồn nhân lực chất lượng cao, đào tạo nguồn lực tài năng, bao
gồm đổi mới phương pháp học tập (Oke & Fernandes, 2020). Thật vậy, giáo dục và đào tạo tài năng sẽ
đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng bối cảnh
cách mạng 4.0 (Q. Zhang, Jiang, Hu, & Pan, 2017).
Ở các quốc gia phát triển, tác động đến sự phát triển tài năng của một cá nhân tham gia tìm kiếm
tài năng đã cho thấy sự lan tỏa trong thời gian dài. Tìm kiếm nhân tài được coi là cánh cửa dẫn đến nhiều
cơ hội quan trọng, có lợi về mặt giáo dục khác. Bởi vậy, từ những năm 1995-1996 đã có hơn 135.000 học
sinh đã đăng ký thi SAT với một tổ chức tìm kiếm tài năng và 110.000 trong số đó đã thực sự là học sinh
tài năng tham gia kỳ thi (S. Graff, 1996). Đồng thời, có 31.000 học sinh khác đã thi AC và hầu hết trong
số này đáp ứng yêu cầu tổ chức tìm kiếm tài năng (Dana, Personal Communication, 21/10/1996); 11.498
học sinh từ lớp 3 đến lớp 6 đã làm bài kiểm tra khám phá thông qua ACT (Dana, 1996) và hơn 19.000 học
sinh lớp 5 và lớp 6 đã làm bài kiểm tra PLUS (D. Freeman, 1996) (tổng hợp từ Lee & Olszewski‐Kubilius,
2006). Có thể thấy, việc nhận diện sớm học sinh năng khiếu, tài năng qua nhiều hình thức đo lường, đánh
giá, kiểm tra là rất quan trọng và theo TDSP, nhận biết và can thiệp sớm được xem là chìa khóa để tạo
điều kiện cho trẻ có năng khiếu phát triển và thể hiện tiềm năng cao (MOE, 2011).
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có rất nhiều tài năng trẻ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học
công nghệ, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học quản lý, khoa học quân sự, văn hóa
nghệ thuật… đóng góp quan trọng cho sự ổn định và phát triển của đất nước. Đặc biệt, ngành Giáo dục và
Đào tạo nói chung, các trường đại học nói riêng đã thu được những kết quả nhất định thông qua các chủ
trương, biện pháp quan trọng nhằm nhận diện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài. Điều này phần nào
được phản ánh qua kết quả học sinh năm cuối của các trường trung học phổ thông khối năng khiếu đỗ vào
các trường đại học trên 80%. Trong đó, khối trường, lớp chuyên đã có những đóng góp quan trọng nhằm
phát hiện, đào tạo và đạt được nhiều thành tích trong các cuộc thi học sinh giỏi Quốc gia, các cuộc thi
Olympic Quốc tế, góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước. Đặc biệt, với mong
muốn thu hút sinh viên năng khiếu, tài năng trong học tập, nhiều trường cao đẳng và đại học đã thực hiện
các chính sách và thực tiễn nhằm đáp ứng nhu cầu của nguồn chất lượng cao này. Nhiều trường học quyết
định tăng khả năng chấp nhận thông qua các kế hoạch quyết định sớm; hỗ trợ người học nhiều hơn dựa
trên thành tích; phát triển các chương trình cấp tốc, danh dự và xét đầu vào sớm. Bên cạnh đó, các chương
1
Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội
trình đào tạo cử nhân tài năng, tiên tiến, chất lượng cao đã và đang triển khai thực hiện có hiệu quả ở một
số trường trọng điểm trong cả nước. Bởi vậy, bài viết tổng quan nghiên cứu nhằm góp phần bổ sung
nghiên cứu lý luận, gợi mở các hướng nghiên cứu chuyên sâu về nhận diện tài năng, chương trình, mô
hình đào tạo tài năng và đội ngũ giáo viên nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục tài năng cho khối
phổ thông đáp ứng xu thế giáo dục chất lượng cao trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0.
2.2.4. Nghiên cứu về đội ngũ giáo viên đáp ứng đào tạo tài năng
Cho đến giữa những năm 1960, nhiều người tin rằng trường học và giáo viên tạo ra rất ít sự khác
biệt đối với thành tích của học sinh, điều này phần lớn được xác định bởi di truyền, nền tảng gia đình và
bối cảnh kinh tế xã hội (Dinham, 2007b). Tuy nhiên, gần đây đã có bằng chứng quốc tế cho thấy ảnh
hưởng chính trong trường đối với thành tích của học sinh là chất lượng của giáo viên đứng lớp (Hattie,
2007; OECD, 2005). Mục tiêu của chương trình giáo dục tài năng cho học sinh là sự phát triển đầy đủ
nhất có thể về khả năng đã được chứng minh và tiềm năng của người học. Ngoài thành tích học tập tối đa,
các chương trình học phải giúp học sinh phát triển giá trị bản thân, tinh thần tự cường và tự hào về dân
tộc, trách nhiệm công nhân, năng lực hướng nghiệp và năng lực tiềm năng. Do đó, hiểu theo nghĩa rộng
nhất, để xác định được nhu cầu học tập và tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập của học sinh tài năng,
giáo viên cần đảm bảo kiến thức về đặc thù văn hóa cũng như đặc điểm nhận thức, học tập, tình cảm cá
nhân và xã hội.
Theo Roeper (1997), thành công thực sự trong việc dạy dỗ những đứa trẻ có năng khiếu, tài năng
chỉ có thể đạt được khi những đam mê, tâm hồn, trí óc được chấp nhận làm nền tảng để giáo viên kết nối
với những kỳ vọng xã hội. Bởi vậy, hướng đến thành công là thước đo của học tập, giáo viên cần được
tham gia các chương trình hướng dẫn nghiên cứu chuyên sâu và khuyến nghị chương trình giảng dạy phù
hợp với phong cách học tập và trình độ kỹ năng đa dạng của người học (Ford, 2011). National
Association for Gifted Children (NAGC, 2013) nhấn mạnh, một trong những chuẩn năng lực giáo viên
đào tạo học sinh năng khiếu và tài năng là nhận thức được nhu cầu học tập chuyên môn của bản thân, hiểu
được ý nghĩa của việc học tập suốt đời, tham gia vào các hoạt động chuyên môn và cộng đồng học tập”.
NAGC đề xuất chuẩn kiến thức, kỹ năng của giáo viên dạy đối tượng là học sinh năng khiếu cần nhận
biết sự khác biệt trong học tập, cột mốc phát triển, nhận thức/ tình cảm của học sinh năng khiếu, tài năng
dựa trên nền tảng văn hóa, ngôn ngữ và nhu cầu cá nhân về hoạt động học tập, về nhận thức xã hội; thiết
kế quá trình học tập phù hợp, chú ý sáng tạo, tăng tốc, độ sâu và phức tạp trong mỗi chủ đề chuyên sâu;
điều chỉnh và sử dụng chiến lược giảng dạy thúc đẩy động cơ, hoạt động học tập của học sinh.
Đặc biệt, với xu hướng phát triển nền giáo dục 4.0 đòi hỏi đội ngũ giáo viên cũng phải thay đổi và
bắt kịp xu thế. Giáo viên trong giáo dục 4.0 phải là người hướng dẫn, hạn chế đứng lớp mà thay vào đó là
người định hướng và truyền đạt nhiều hơn với người học, giám sát và giám sát, chịu trách nhiệm về sự
tiến bộ của người học trong quá trình tự học. Người dạy phải quan tâm đến nhu cầu kiến thức thực sự của
người học, động viên, hỗ trợ người học tìm ra kiến thức phù hợp với từng đối tượng người học. Bản thân
giáo viên phải là học sinh không ngừng trau dồi, bổ sung kiến thức; việc tự học phải được mở rộng không
chỉ trong nội bộ lớp, trong trường mà cả xã hội. Với giáo dục 4.0, người học cũng thay đổi, có sự liên kết
nhanh hơn giữa kiến thức học thuật và thực tế cuộc sống. Người học dễ dàng truy cập kho dữ liệu khổng
lồ, thông tin và sự kiện sẽ xuất hiện trực tuyến. Kết nối xã hội được mở rộng, người học có cơ hội tiếp
xúc không chỉ với giáo viên mà còn với các chuyên gia trong và ngoài lĩnh vực xã hội, cá nhân người học
có thể giao tiếp bản thân thông qua người khác và việc tiếp cận với những người nổi tiếng trở nên dễ dàng
hơn. Giáo dục luôn thay đổi từ định hướng, cách tiếp cận chiến lược và quản lý giáo dục (Hill & Kumar
eds., 2009). Bởi vậy, hướng đến giáo dục phát triển bền vững, đào tạo giáo viên đáp ứng đào tạo tài năng
cần có những bước tiến mang tính chiến lược, đảm bảo kiến thức liên ngành, nắm bắt giá trị xu thế và
thành thạo trong việc ứng dụng công nghệ trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.
3. Kết luận và bàn luận.
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục tài năng có ý nghĩa vô cùng quan trọng
nhằm đáp ứng nhu cầu lực lượng lao động chất lượng nói chung, nguồn lực chất lượng cao nói riêng. Với
sự kết nối vạn vật nhờ mạng internet, học sinh không chỉ được đáp ứng về khả năng tự học qua ứng dụng
công nghệ mà còn hỗ trợ nâng cao kĩ năng sử dụng công nghệ, làm chủ công nghệ, giúp đẩy nhanh tốc độ
học tập cũng như mở rộng mạng lưới học tập. Hadley Ferguson, Giám đốc điều hành của Edcamp
Foundation nhấn mạnh, thay đổi và tiếp cận công nghệ hiện đại không chỉ là sở hữu máy tính trong lớp
học, mà còn là sự hiểu biết đúng đắn về các ứng dụng của công nghệ để xử lý vấn đề hợp lý và hiệu quả
hơn (Nguyen Hong Phuong, 2019). Hadley cũng dự đoán rằng nhu cầu giáo dục sẽ thay đổi theo công
nghệ, chứ không phải công nghệ sẽ thay đổi bản chất của giáo dục và công nghệ giáo dục hiện đại sẽ hỗ
trợ học sinh hoàn thiện việc học một cách độc lập (Miraz, Ali, Excell, & Picking, 2015). Cho đến nay, có
rất nhiều tổ chức, chương trình cung cấp các cuộc thi, nâng cao kiến thức chuyên môn, nguồn lực giáo
viên và các thông tin về ý tưởng tiếp cận môn học chuyên sâu mà không có trong sách giáo khoa hoặc
những trường học truyền thống bị hạn chế. Chính vì vậy, công nghệ là một phần mà học sinh tài năng có
thể được tiếp cận, đặc biệt với những học sinh tài năng thiệt thòi, môi trường điều kiện sống khó khăn.
Giáo dục tài năng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đã cho thấy tầm quan trọng của việc
nhận diện, tiếp cận tài năng; chương trình học tài năng; mô hình đào tạo tài năng và đội ngũ giáo viên đáp
ứng xu hướng đào tạo tài năng theo cá nhân hóa học sinh. Nếu như trước đây, giáo dục thường được tiếp
cân một chiều trong quy mô lớp học thì ngày nay, với xu hướng giáo dục cá nhân hóa, hệ thống giáo dục
hiện đại yêu cầu phải áp dụng các phương pháp tiếp cận sư phạm hoặc các phương thức phân phối sáng
tạo để nâng cao cách người học học hơn nhằm khuyến khích sự tìm tòi và sáng tạo. Bởi vậy, chương trình
giáo dục tài năng cần đề cao sự phân hóa, tăng cường thử thách với những đặc thù tài năng. Bên cạnh đó,
chương trình dạy học cần có cách tiếp cận đa chiều mang tính khoa học cao để làm cơ sở dẫn chứng cho
học sinh tài năng như năng lực nhận thức, khả năng ngôn ngữ, giải quyết vấn đề, thành tích vượt trội; lấy
người học làm trung tâm đáp ứng bốn yếu tố là trao quyền để học sinh tự chủ, giáo dục cá nhân hóa, xây
dựng xã hội học tập và dạy học dựa trên năng lực. Đồng thời, mô hình đào tạo tài năng cần được tiếp cận
toàn diện, đáp ứng xu thế giáo dục và phát triển các kỹ năng tâm lý, xã hội cho người học góp phần thành
công trong tương lai. Để làm được tất cả những điều trên cần có sự thay đổi trong cách thức mà hệ thống
giáo dục thu hút, chuẩn bị, hỗ trợ người học và phát triển đội ngũ giáo viên tài năng có thể giảng dạy theo
cách thức hấp dẫn hơn (Darling-Hammond, 2007).
Tài liệu tham khảo
1. Al-Hroub, A. (2013). Multidimensional model for the identification of gifted children with learn ing
disabilities. Gifted and Talented International, 28, 51–69.
2. Al-Hroub, A. (2010). Developing assessment profiles for mathematically gifted children with learning
difficulties in England. Journal of Education for the Gifted, 34(1), 7–44
3. Al-Hroub, A., & Whitebread, D. (2008). Teacher nomination of ‘mathematically gifted children with
learning difficulties’ at three public schools in Jordan. The British Journal of Special Education, 35, 152–
164.
4. Bracken, B. A., & Brown, E. F. (2006). Behavioral identification and assessment of gifted and talented
students. Journal of Psychoeducational Assessment, 24(2), 112–122
5. Davidson (Eds.), Conceptions of giftedness (pp. 80–97). Cambridge: University Press.
6. Dinham, S. (2007b). ‘How Schools Get Moving and Keep Improving: Leadership for Teacher
Learning, Student Success and School Renewal’, Australian Journal of Education, 51(3), pp. 263–275.
7. Development. (2005). Teachers Matter: Attracting, Developing and Retaining Effective Teachers.
Paris: OECD
8. Hattie, J. (2007). ‘Developing Potentials for Learning: Evidence, Assessment, and Progress’, EARLI
Biennial Conference, Budapest, Hungary. Available at:
http://www.education.auckland.ac.nz/uoa/education/ staff/j.hattie/j.hattie_home.cfm
9. El Khoury, S., & Al-Hroub, A. (2018). Gifted education in Lebanese schools: Integrating theory,
research, and practice. Springer
10. Freeman, J. (2005). Permission to be gifted: How conceptions of giftedness can change lives. In R.
Sternberg & J. Davidson (Eds.), Conceptions of giftedness (pp. 80–97). Cambridge: University Press.
11. Ford, D. (2011). Multicultural gifted education. Sourcebooks, Inc..
Kemple, J. J., Herlihy, C. M., & Smith, T. J. (2005). Making progress toward graduation: Evidence from
the talent development high school model. MDRC.
12. Karnes, F. A., Reis, S. M., & Renzulli, J. S. (2005). Curriculum compacting: An easy start to
differentiating for high-potential students. PRUFROCK PRESS INC
13. Kaplan, S., Rodriguez, E., & Siegel, V. (2000). Nontraditional screening. Communicator, 31(2), 20–
21. Karnes, F. A., & Stephens, K. R. (2009). Gifted education and legal issues. In L. V. Shavinina (Ed.),
International handbook on giftedness (pp. 1327–1341). New York: Springer
14. Leavitt, M. (2017). Your passport to gifted education. Springer.
15. Lee, S. Y., & Olszewski‐Kubilius, P. (2006). Comparisons between talent search students qualifying via scores
on standardized tests and via parent nomination. Roeper Review, 28(3), 157-166.
16. Miraz, M. H., Ali, M., Excell, P. S., & Picking, R. (2015). A review on Internet of Things (IoT),
Internet of Everything (IoE) and Internet of Nano Things (IoNT). In 2015 Internet Technologies and
Applications, ITA 2015 - Proceedings of the 6th International Conference.
https://doi.org/10.1109/ITechA.2015.7317398
17. National Association for Gifted Children & Council for Exceptional Children, The Association for the
Gifted. (2013). NAGC -CEC Teacher Preparation Standards in Gifted and Talented Education
18. Gagne´, F. (2011). Academic talent development and the equity issue in gifted education. Talent
Development and Excellence, 3, 3–22.
19. Hill, Dave & Ravi Kumar [eds]. (2009). Global Neo Liberalism and Education and its
Consequences. New York: Routledge
19. Sima, Violeta et al. (2020). “Influences of the Industry 4.0 Revolution on the Human Capital
Development and Consumer Behavior: A Systematic Review” in SUSTAINABILITY, Volume 12, pp.1-
28.
20. Subotnik, R. F., Olszewski-Kubilius, P., & Worrell, F. C. (2011). Rethinking giftedness and gifted
education: A proposed direction forward based on psychological science. Psychological Science in the
Public Interest, 12, 3-54
21. Pomerantz, A.M. (2008). Behavior therapy. In Corsini, R. J. & Wedding, D. (Eds). Curent
Psychotherapies. 8th Ed., (pp. 187-262). Thomson Brooks/Cole.
22. Gormally, C., Brickman, P., Hallar, B., & Armstrong, N. (2009). Effects of inquiry-based learning on
students' science literacy skills and confidence. International journal for the scholarship of teaching and
learning, 3(2), n2.
23. Oke, Adekunle & Fatima Araujo Pereira Fernandes. (2020). “Innovations in Teaching and Learning:
Exploring the Perceptions of the Education Sector on the 4th Industrial Revolution (4IR)” in Journal of
Open Innovation: Technology, Market, and Complexity, Volume 6(31), pp.1-22.
24. Phuong, N. H. (2019). What solutions should be applied to improve the efficiency in the management
for port system in Ho Chi Minh City? International Journal of Innovation, Creativity and Change, 5(2),
1747–1769
25. Zhang, Q., Jiang, N., Hu, Y., & Pan, D. (2017). Design of Course-Keeping Controller for a Ship
Based on Backstepping and Neural Networks. International Journal of E-Navigation and Maritime
Economy, 7, 34–41. https://doi.org/10.1016/j.enavi.2017.06.004