You are on page 1of 168

Phần 2 – NỘI DUNG CÁC CHƯƠNG


Chương 1
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CHỨC NĂNG
CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN

A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
- Mục đích
Cung cấp những tri thức cơ bản về sự ra đời và phát triển của môn học kinh tế
chính trị Mác – Lênin. Bao gồm: đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và
chức năng của kinh tế chính trị Mác - Lênin trong nhận thức cũng như trong thực
tiễn.
- Yêu cầu
Sinh viên hiểu được sự hình thành phát triển nội dung khoa học của môn học
kinh tế chính trị Mác - Lênin, biết được phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa của môn
học đối với bản thân khi tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội.
B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Kinh tế chính trị là môn khoa học xã hội, có một lịch sử hình thành và phát triển
lâu dài. A.Montchrétien – Nhà kinh tế học trường phái trọng thương Pháp là người
đầu tiên đưa ra thuật ngữ “Kinh tế chính trị “ vào năm 1615. Trong đó, theo ông kinh
tế học chính trị là khoa học về kinh tế nhà nước, nghiên cứu sự tham gia tích cực của
nhà nước vào đời sống kinh tế, sự hỗ trợ của nhà nước cho quá trình tích lũy ban đầu.
Kinh tế chính trị tư sản cổ điển phát triển qua các trường phái:
 Chủ nghĩa trọng thương.
 Chủ nghĩa trọng nông.
 Kinh tế – chính trị tư sản cổ điển (Anh).

9
Kinh tế chính trị Mác – Lênin kế thừa phát triển những thành tựu của kinh tế
chính trị tư sản cổ điển, áp dụng những phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử vào nghiên cứu, đưa kinh tế chính trị trở thành một khoa học thực sự.
Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế chính trị học là quá trình đấu
tranh, phát triển kế thừa nối tiếp nhau qua các trường phái sau:
1. Chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng thương là học thuyết kinh tế đầu tiên về phương thức sản xuất
TBCN. Lý luận của chủ nghĩa trọng thương là cơ sở cho các chính sách của nhà nước
trong thời kỳ ra đời của CNTB.

Giữa thế kỷ XV - XVII

Đại biểu: Thomas Mun (Anh)


Chủ nghĩa A.Montchrétien (Pháp)
trọng thương
Đối tượng: lĩnh vực lưu thông
Nghiên cứu: hiện tượng bề ngoài, bằng kinh
nghiệm

Lý luận của chủ nghĩa trọng thương là sự thử nghiệm đầu tiên việc nghiên cứu
về lý luận phương thức sản xuất TBCN, đồng thời cũng là chính sách của nhà nước
trong thời kỳ ra đời của CNTB. Trong thời kỳ này, tư bản thương nghiệp chiếm địa
vị thống trị và thực sự chỉ có lĩnh vực lưu thông hàng hóa mang tính chất tư sản. Vì
vậy, trọng tâm chú ý của chủ nghĩa trọng thương là lĩnh vực lưu thông và phương
pháp nghiên cứu là sự khái quát có tính chất kinh nghiệm những hiện tượng trên bề
mặt cuộc sống.
Tư tưởng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa trọng thương:
- Lợi nhuận là mục đích là động lực của chủ nghĩa trọng thương.
- Nguồn gốc của lợi nhuận từ ngoại thương.
- Lợi nhuận thương nghiệp do mua rẻ bán đắt.
Theo A.Montchrenetien : “Nội thương là hệ thống ống dẫn, ngoại thương là
máy bơm, muốn tăng của cải phải có ngoại thương dẫn của cải qua nội thương”
10
Trong khi nhận thức đúng rằng, sự săn đuổi lợi nhuận là động lực của CNTB,
chủ nghĩa trọng thương lại mắc sai lầm cho rằng, nguồn gốc của lợi nhuận là từ
thương nghiệp mà trước hết là từ ngoại thương, do đó họ không giải thích được bản
chất của lợi nhuận và của tiền tệ.
Sự phát triển của CNTB đã làm cho những luận điểm của Chủ nghĩa trọng
thương trở nên lỗi thời. Vì theo đà phát triển của CNTB, cách thức chủ yếu để tăng
thêm của cải không đơn thuần là tích lũy tiền tệ nữa, mà là tái sản xuất mở rộng tư
bản. Trung tâm chú ý của các nhà kinh tế học ngày càng chuyển từ lĩnh vực lưu thông
sang lĩnh vực sản xuất. Chủ nghĩa trọng thương nhường chỗ cho chủ nghĩa trọng
nông.
2. Chủ nghĩa trọng nông.
Thuật ngữ “chủ nghĩa trọng nông” do F.Quesney (1694–1774) người sáng lập
và đứng đầu trường phái này đưa ra.
Lý luận của chủ nghĩa trọng nông có bước tiến xa so với Chủ nghĩa trọng
thương, song do giới hạn lịch sử, Chủ nghĩa trọng nông còn nhiều hạn chế.

Nửa cuối thế kỷ XVII đến Nửa đầu thế kỷ


XVIII
Chủ nghĩa Đại biểu: F.Quesney và J.Turgot
trọng
Đối tượng : chuyển sang lĩnh vực sản xuất
nông
Dựa trên nền tảng: Học thuyết trật tự tự
nhiên

Tư tưởng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa trọng nông:


- Tìm nguồn gốc của cải trong sản xuất.
- Chỉ có lao động sản xuất nông nghiệp tạo ra của cải.
- Lao động nông nghiệp là lao động có ích và tạo ra sản phẩm ròng.
- Tư tưởng tự do kinh tế.
Theo F.Quesney: ”Chỉ có của cải dân cư ở nông thôn mới đẻ ra của cải quốc
gia” – “nông dân nghèo thì xứ sở nghèo”.

11
Công lao của các nhà trọng nông là chuyển việc nghiên cứu nguồn gốc của của
cải từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Nhưng họ quan niệm một cách hạn
chế rằng chỉ có nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm ròng. Họ đề nghị chỉ thu thuế từ
sản phẩm ròng (tức chỉ thu thuế từ chủ trang trại và chủ sở hữu ruộng đất). Họ đã
phân tích một cách khoa học về tư bản cố định và tư bản lưu động dưới dạng tư bản
ứng trước ban đầu và tư bản ứng trước hằng năm. F.Quesney là người đầu tiên nêu
lên phạm trù “tái sản xuất” và sơ đồ tái sản xuất trong ”biểu kinh tế”, mà sau này
C.Mác kế thừa khi nghiên cứu lý luận tái sản xuất và lưu thông tổng tư bản xã hội.
Mặc dù là giai đoạn cao hơn so với chủ nghĩa trọng thương, nhưng chủ nghĩa
trọng nông còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chỉ giới hạn ở lĩnh vực sản xuất trong nông
nghiệp và chưa có một khái niệm đúng đắn về giá trị. Chủ nghĩa trọng nông nhường
chỗ cho kinh tế học chính trị tư sản cổ điển.
3. Kinh tế học chính trị tư sản cổ điển.
Quan niệm đối tượng của kinh tế học chính trị là nghiên cứu nguồn gốc, bản
chất của của cải, sự giàu có của các dân tộc và sự phân phối của cải đó giữa các tầng
lớp xã hội. Kinh tế học chính trị tư sản cổ điển khẳng định, lao động sản xuất là nguồn
gốc của giá trị hàng hóa, còn lợi nhuận, lợi tức, địa tô là những khoản khấu trừ vào
sản phẩm của lao động hay là vào giá trị của những sản phẩm đó.
D.Ricardo tiêu biểu cho trường phái này, đã nhận rõ lợi nhuận bắt nguồn từ lao
động không được trả công. Vì vậy, có mâu thuẫn giữa tiền công và lợi nhuận.
Trường phái này đã cố gắng tìm hiểu những mối liên hệ bên trong, nhằm phát
hiện ra những quy luật chi phối nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nhưng họ mắc sai lầm
là đồng nhất sản xuất tư bản chủ nghĩa với quá trình sản xuất nói chung, coi CNTB
là vĩnh cửu, coi những đặc điểm của xã hội TBCN là thuộc tính chung của mọi giai
đoạn phát triển của xã hội loài người, các quy luật kinh tế trong CNTB là quy luật
tuyệt đối, vốn có của mọi xã hội.
Kinh tế chính trị tư sản cổ điển phát triển rực rỡ nhất ở Anh.
* Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh được mở đầu từ W.Petty (1622 – 1687) đến
A.Smith (1723 – 1790) và kết thúc ở D.Ricardo (1772 – 1823).
12
A.Smith là nhà kinh tế của thời kỳ công trường thủ công của CNTB. Còn
D.Ricardo là nhà kinh tế của thời kỳ đại công nghiệp cơ khí của CNTB, là đỉnh cao
lý luận của kinh tế học chính trị tư sản cổ điển.
Từ sau A.Smith, kinh tế học chính trị tự tách ra làm 2 dòng chính :
- D.Ricardo đã phát triển những yếu tố khoa học của kinh tế học chính trị cổ
điển và đặt khoa kinh tế học chính trị trên những cơ sở khoa học.
- Malthus (1766 – 1834) và Gi.B.Xay (1767 – 1832) lại phát triển những yếu
tố tầm thường trong các học thuyết của A.Smith để trở thành kinh tế học chính trị
tầm thường. Đó là một loại kinh tế học chính trị tư sản, mà đặc trưng của nó là miêu
tả một cách hời hợt, giả danh khoa học các hiện tượng của kinh tế TBCN nhằm che
đậy những mâu thuẫn căn bản của CNTB và coi trọng CNTB.
Sự phát triển của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, có thể được khái quát như
sau:

KTCT D.Ricardo
Phát triển (1772 – - Nhà kinh tế học giai đoạn CMCN
tầm
yếu tố thường 1823) - Kế thừa phát triển yếu tố khoa
tầm TK XVIII
thường học của kinh tế chính trị
- XIX

- Nhà ktế học giai đoạn CTTCN


A.Smith (1723 – 1790)
- Đặt cơ sở lý luận kinh tế thị trường

- Người sáng lập ra KTCT cổ điển


W.Petty (1623 – 1687) - Đặt nền tảng lý luận giá trị lao động

Hạn chế của kinh tế chính trị cổ điển Anh:


- Thiếu phương pháp duy vật lịch sử.
- Không hiểu được tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
- Giới hạn về lịch sử và lợi ích giai cấp.

13
Khắc phục những hạn chế trên C.Mác và Ph.Ănghen thực hiện cuộc cách mạng
trong lĩnh vực kinh tế chính trị.
4. Sự hình thành và phát triển kinh tế chính trị học Mác – Lênin.
Giữa thế kỷ XIX C.Mác và Ph.Ănghen đã thực hiện cuộc cách mạng trong lịch
sử các học thuyết kinh tế, đưa kinh tế chính trị trở thành một môn khoa học.
Kinh tế chính trị do C.Mác và Ph.Ănghen sáng lập ra là sự phát triển mới về
chất, khác về cơ bản với các học thuyết kinh tế trước đó về đối tượng, phương pháp
nghiên cứu, nội dung, tính giai cấp…Nó là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính
cách mạng.

Những _ Kinh tế chính trị tư sản cổ điển


tiền đề _ Thành tựu khoa học
lý luận _ Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử
Kinh tế chính
trị Mác - Lênin
Khoa học và
cách mạng

Cơ sở _ Phương thức sản xuất Tư bản chủ


thực nghĩa thống trị.
tiễn _ Giai cấp vô sản lớn mạnh.
_ Mâu thuẫn giai cấp sâu sắc

 Phân tích:
- Về cơ sở thực tiễn:
Đây là thời kỳ lịch sử mà giai cấp tư sản đã giành được chính quyền, đã hoàn
thành cuộc cách mạng công nghiệp, đã củng cố vững chắc sự thống trị của mình,
nhưng đồng thời, Chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã bắt đầu bộc lộ những mâu thuẫn đối
kháng; những cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ đã phá hoại nền kinh tế TBCN. Cùng
với sự phát triển của nền kinh tế TBCN, giai cấp vô sản cũng phát triển cả về số
lượng và chất lượng, từng bước hình thành ý thức giai cấp và bắt đầu cuộc đấu tranh
giai cấp chống lại giai cấp tư sản. Đó chính là những cơ sở kinh tế – xã hội cho sự ra
đời Chủ nghĩa Mác nói chung, học thuyết kinh tế của Mác nói riêng.

14
- Những tiền đề lý luận:
Kinh tế học chính trị của Mác đã kế thừa có phê phán và phát triển những yếu
tố khoa học trong kinh tế học chính trị tư sản cổ điển, đấu tranh với những quan điểm
của kinh tế học chính trị tư sản tầm thường, kinh tế học chính trị tiểu tư sản, và những
quan điểm của chủ nghĩa xã hội không tưởng.
Theo Lênin:” Học thuyết C.Mác ra đời là sự kế thừa thẳng và trực tiếp những
học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, kinh tế chính trị học và chủ
nghĩa xã hội khoa học” (V.I.Lênin – toàn tập – NXB Tiến Bộ M.1980, T23, Tr 49 – 50)
- Sự phát triển của kinh tế chính trị Mác – Lênin.
C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập ra kinh tế chính trị Mácxít và nó được Lênin
phát triển nâng lên ở trình độ cao hơn trong diều kiện lịch sử mới của CNTB.
V.I.Lênin đã sáng lập ra lý luận khoa học về chủ nghĩa đế quốc, khởi thảo lý
luận mới về cách mạng XHCN và những cơ sở của kinh tế chính trị XHCN, đề ra
chính sách kinh tế mới (NEP) …..
Như vậy, kinh tế chính trị Mác - Lênin là một trong những dòng lý thuyết kinh
tế chính trị nằm trong dòng chảy tư tưởng kinh tế phát triển liên tục trên thế giới,
được hình thành, xây dựng bởi C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin, dựa trên cơ sở kế
thừa và phát triển những giá trị khoa học kinh tế chính trị của nhân loại trước đó, trực
tiếp là những giá trị khoa học của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Kinh tế chính
trị Mác - Lênin có quá trình phát triển không ngừng kể từ thế kỷ XIX đến nay. Kinh
tế chính trị Mác - Lênin là một môn khoa học trong hệ thống các môn khoa học kinh
tế của nhân loại.
II. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là hệ thống các quan
hệ xã hội giữa người với người trong sản xuất và trao đổi, mà các quan hệ này được
đặt trong sự liên hệ chặt chẽ với sự phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tương ứng.

15
Như vậy, kinh tế chính trị Mác - Lênin xác định đối tượng nghiên cứu nằm trong
nền sản xuất - cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.

Trong quá trình tái SX : Sản xuất – Phân phối – Trao đổi – tiêu dùng
KTCT Mác
– Lênin Quan hệ sản xuất trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất.
nghiên cứu Quan hệ sản xuất trong sự tác động qua lại với kiến trúc thượng tầng
Vạch ra quy luật kinh tế vận động Quan hệ sản xuất

2. Mục đích nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Mục đích nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là nhằm phát hiện ra các
quy luật kinh tế chi phối quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi.
Từ đó, giúp cho các chủ thể trong xã hội vận dụng các quy luật ấy nhằm tạo động
lực cho con người không ngừng sáng tạo, góp phần thúc đẩy văn minh và sự phát
triển toàn diện của xã hội thông qua việc giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích.
Kết quả nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin tạo cơ sở lý luận khoa học
cho việc xây dựng đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia
phù hợp với những giai đoạn phát triển nhất định.

QUY LUẬT KINH TẾ CHÍNH SÁCH KINH TẾ


_ Quy luật kinh tế tồn tại khách quan, _ Chính sách kinh tế là sản phẩm chủ
không phụ thuộc vào ý chí của con quan của con người được hình thành
người, con người không thể thủ tiêu trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế.
quy luật kinh tế, nhưng có thể nhận Chính sách kinh tế vì thế có thể phù hợp,
thức và vận dụng quy luật kinh tế để hoặc không phù hợp với quy luật kinh tế
phục vụ lợi ích của mình. khách quan.
_ Khi vận dụng không phù hợp, con _ Khi chính sách không phù hợp, chủ thể
người phải thay đổi hành vi của mình ban hành chính sách có thể ban hành
chứ không thay đổi được quy luật. chính sách khác để thay thế.

* Ý nghĩa của việc nghiên cứu:


Nhận thức đầy đủ về quy luật kinh tế, chính sách kinh tế giúp cho sinh viên hiểu
rõ cơ sở khách quan cùng các mục tiêu, biện pháp, công cụ của các chính sách kinh
tế cụ thể, từ đó tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà

16
nước; đồng thời chủ động lựa chọn hình thức tham gia thực hiện hiệu quả trong hoạt
động thực tiễn.
Ví dụ: Trong bối cảnh tác động của đại dịch Covid-19, các mặt trái của kinh tế
thị trường biểu hiện gay gắt hơn thông qua những ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động
sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội, đòi hỏi các chính phủ phải có những chính
sách kinh tế hỗ trợ phù hợp. Ở Việt Nam, để giảm thiểu tác động tiêu cực của đại
dịch Covid-19, trong thờigian qua Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách
kinh tế - xã hội vừa hỗ trợ doanh nghiệp và người dân trong sản xuất kinh doanh, vừa
đảm bảo an sinh xã hội. Sự ủng hộ, tham gia tích cực của cộng đồng doanh nghiệp
và người dân vào thực hiện các chính sách đó đã góp phần từng bước đẩy lùi đại dịch
và khôi phục sản xuất kinh doanh, đảm bảo đời sống cho nhân dân.
3. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Với tư cách là một môn khoa học, KTCT Mác – Lênin sử dụng phép biện chứng
duy vật và nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội nói chung như: trừu tượng
hóa khoa học, logic kết hợp với lịch sử, quan sát thống kê, phân tích tổng hợp, quy
nạp diễn dịch, hệ thống hóa, mô hình hóa…
Tuy nhiên, khác với nhiều môn khoa học khác, đặc biệt là khoa học tự nhiên.
Ở đó, người nghiên cứu có thể thực hiện các thực nghiệm khoa học để rút ra những
quy luật chi phối sự vận động và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Kinh tế chính trị nghiên cứu các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi. Đây
là những quan hệ trừu tượng, khó có thể bộc lộ trong các thí nghiệm thực nghiệm,
chỉ có thể bộc lộ ra trong các quan hệ kinh tế trên bề mặt xã hội.
Do đó, các thí nghiệm Kinh tế chính trị sẽ khó có thể được thực hiện trong quy
mô phòng thí nghiệm vì không có một phòng thí nghiệm nào mô phỏng được một
cách đầy đủ các quan hệ xã hội của quá trình sản xuất và trao đổi. Cho nên, phương
pháp quan trọng của Kinh tế chính trị Mác – Lênin là phương pháp trừu tượng
hóa khoa học.
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học: là cách thức thực hiện nghiên cứu
bằng cách gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên, những hiện tượng tạm thời xảy ra trong
các hiện tượng quá trình nghiên cứu để tách ra được những hiện tượng bền vững,
17
mang tính điển hình, ổn định của đối tượng nghiên cứu. Từ đó, mà nắm được bản
chất, xây dựng được các phạm trù và phát hiện được tính quy luật và quy luật chi
phối sự vận động của đối tượng nghiên cứu.
Cùng với phương pháp trừu tượng hóa khoa học, KTCT Mác – Lênin còn sử
dụng phương pháp logic kết hợp với lịch sử. Phương pháp này, cho phép nghiên cứu,
tiếp cận bản chất, các xu hướng và quy luật kinh tế gắn với tiến trình hình thành, phát
triển của các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi.
Việc áp dụng phương pháp logic kết hợp với lịch sử cho phép rút ra những kết
quả nghiên cứu mang tính logic từ trong tiến trình lịch sử của các quan hệ giữa con
người với con người trong quá trình sản xuất và trao đổi.
III. CHỨC NĂNG CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Kinh tế chính trị Mác - Lênin có các chức năng sau đây: chức năng nhận thức,
chức năng thực tiễn, chức năng tư tưởng, chức năng phương pháp luận. Các chức
năng đó thể hiện tính khoa học và cách mạng, sâu sắc của kinh tế chính trị Mác –
Lênin.
1. Chức năng nhận thức
Đây là chức năng quan trọng của Kinh tế chính trị, cung cấp những tri thức
khoa học để:
- Nhận thức lịch sử phát triển của sản xuất vật chất, lịch sử phát triển của xã hội
loài người nói chung và của CNTB nói riêng.
- Giải thích các hiện tượng và các quá trình kinh tế đang diễn ra trong thực tiễn,
phân tích những nguyên nhân và dự báo triển vọng, chiều hướng phát triển kinh tế
xã hội.
2. Chức năng thực tiễn
Trên cơ sở nhận thức các quy luật kinh tế để thực hiện nhiệm vụ cải tạo thế giới
quan thông qua định hướng và thực thi các giải pháp phát triển kinh tế xã hội trong
từng giai đoạn lịch sử: Đề ra đường lối, chính sách kinh tế tác động vào hoạt động
kinh tế, định hướng cho sự phát triển kinh tế và là cơ sở để nhận thức đường lối,
chính sách kinh tế.

18
Như vậy, chức năng nhận thức và chức năng thực tiễn của kinh tế chính trị có
quan hệ mật thiết với nhau. Nhận thức cung cấp lý luận mở đường cho việc thực hiện
các hoạt động thực tiễn và ngược lại thực tiễn là nơi kiểm nghiệm nhận thức và làm
phong phú thêm lý luận kinh tế.
Đối với sinh viên, kinh tế chính trị Mác - Lênin là cơ sở khoa học lý luận để
nhận diện và định vị vai trò, trách nhiệm sáng tạo cao cả của mình. Từ đó mà xây
dựng tư duy và tầm nhìn, kỹ năng thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội trên mọi
lĩnh vực ngành nghề của đời sống xã hội phù hợp với quy luật khách quan. Thông
qua đó đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung của xã hội.
3. Chức năng tư tưởng
Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần xây dựng nền tảng tư tưởng mới cho
những người lao động tiến bộ, biết quý trọng thành quả lao động của bản thân và của
xã hội; yêu chuộng tự do, hòa bình, củng cố niềm tin cho sự phấn đấu vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Kinh tế chính trị Mác Lênin góp phần xây dựng lý tưởng khoa học cho những
chủ thể có mong muốn xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp, hướng tới giải phóng con
người, xóa bỏ dần những áp bức, bất công giữa con người với con người.
4. Chức năng phương pháp luận
KTCT là nền tảng lý luận cho các môn khoa học kinh tế cụ thể vì chúng đều
phải xuất phát và dựa vào những kết luận về các phạm trù kinh tế và quy luật kinh tế
mà kinh tế chính trị nêu ra.

19
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Thảo luận trong nhóm để làm rõ sự liên hệ giữa kinh tế chính trị Mác - Lênin
với dòng chảy tư tưởng kinh tế của nhân loại?
2. Trong các phương pháp nghiên cứu kinh tế chính trị Mác - Lênin, phương
pháp nào quan trọng nhất? Vì sao?
3. Thông qua phân tích các chức năng của kinh tế chính trị Mác - Lênin, anh
(chị) hãy làm rõ sự cần thiết phải nghiên cứu kinh tế chính trị Mác - Lênin ở nước ta
hiện nay.

GỢI Ý TÀI LIỆU HỌC TẬP CHO SINH VIÊN


1. Bộ giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho bậc
đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb.Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội,
tr11 – tr33, 2021.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, T13, Nxb. Chính trị quốc gia 1993, Tr 13-18
3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, T13, Nxb. Chính trị quốc gia 1993, Tr 604-609
4. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, T23, Nxb. Chính trị quốc gia 1993, Tr 15-22
5. Robert B. Ekelund, JR và Robert F. Hesbert: Lịch sử các học thuyết kinh tế, bản
tiếng Việt, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2003.
6. Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, TS. Nguyễn Minh Tuấn, TS. Nguyễn
Hữu Thảo, Nxb. Đại học quốc gia TPHCM, năm 2016.

20
Chương 2
HÀNG HÓA, THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ
CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƯỜNG

A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
- Mục đích
Chương 2 cung cấp một cách có hệ thống về lý luận giá trị lao động của C.Mác
thông qua các phạm trù cơ bản về hàng hóa, tiền tệ, giá cả, quy luật giá trị, tính hai
mặt của lao động sản xuất hàng hóa, năng suất lao động... giúp nhận thức một cách
cơ bản cơ sở lý luận của các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Trên
cơ sở đó, góp phần vận dụng để hình thành tư duy và kỹ năng thực hiện hành vi kinh
tế phù hợp với yêu cầu khách quan của công dân khi tham gia các hoạt động kinh tế
- xã hội nói chung.
- Yêu cầu
Sinh viên cần nắm được những nội dung cơ bản sau:
+ Lý luận của C.Mác về sản xuất hàng hóa và hàng hóa (nội dung này sẽ nhấn
mạnh những vấn đề lý luận thuộc học thuyết giá trị của C.Mác), trong đó sinh viên
phải chú ý tới khía cạnh về sự phong phú của thế giới hàng hóa trong bối cảnh ngày
nay.
+ Thị trường và vai trò của các chủ thể tham gia thị trường. (nội dung này cung
cấp các tri thức cơ bản về thị trường, cơ chế thị trường, kinh tế thị trường và các quy
luật chủ yếu của nền kinh tế thị trường).
B. NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA
1. Sản xuất hàng hóa
a. Khái niệm sản xuất hàng hóa
Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó, những
người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán.

21
b. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa

Các chủ thể sản


Phân công xuất có quan hệ
lao động kinh tế với nhau,
xã hội phụ thuộc nhau
Sản xuất
hàng hóa
Sự tách biệt
Các chủ thể sản
về mặt kinh tế
xuất độc lập
của các chủ
tương đối với
thể sản xuất
nhau

Một là, phân công lao động xã hội


Khái niệm: Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội
thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của
những người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau.
Tác động của phân công lao động xã hội: Do phân công lao động xã hội, mỗi
người chỉ sản xuất một hoặc một vài sản phẩm nhất định. Trong khi đó, nhu cầu của
họ lại đòi hỏi nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu, giữa những
người sản xuất cần có sự trao đổi sản phẩm với nhau.
Như vậy, phân công lao động xã hội làm xuất hiện mối quan hệ trao đổi sản
phẩm giữa những người sản xuất với nhau. Phân công lao động xã hội càng phát triển
thì sản xuất và trao đổi sản phẩm càng mở rộng hơn, đa dạng hơn. Vì vậy, phân công
lao động xã hội đóng vai trò là cơ sở cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa.
Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất do quan hệ sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất.
Sự tách biệt nêu trên làm cho giữa những người sản xuất độc lập với nhau có sự
tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của
người khác phải thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm, dựa trên nguyên tắc bình
đẳng, ngang giá, hai bên đều có lợi. Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản
xuất hàng hoá là điều kiện đủ để nền sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển.

22
Điều kiện đầu là điều kiện cần, điều kiện cơ sở. Điều kiện sau là điều kiện đủ.
Thiếu 1 trong 2 điều kiện sẽ không có sản xuất hàng hoá.
Tóm lại, khi còn sự hiện diện của hai điều kiện trên, con người không thể dùng
ý chí chủ quan mà xoá bỏ nền sản xuất hàng hoá được. Việc cố tình xoá bỏ nền sản
xuất hàng hoá sẽ làm cho xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Với ý nghĩa
đó, cần khẳng định, nền sản xuất hàng hoá có ưu thế tích cực vượt trội so với nền sản
xuất tự cung tự cấp.
c. Đặc trưng của sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích để trao đổi chứ không
phải để tiêu dùng cho người sản xuất ra nó, khác với sản xuất tự cung tự cấp là sản
xuất ra sản phẩm để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội bộ của từng gia đình, từng đơn vị
sản xuất.
 Sản xuất hàng hóa có đặc trưng là cạnh tranh gay gắt.
2. Hàng hoá
a. Khái niệm và thuộc tính của hàng hóa
* Khái niệm hàng hoá:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán.
Như vậy, không phải bất kỳ sản phẩm nào cũng là hàng hóa, mà chỉ có những
sản phẩm mang hai đặc trưng sau đây mới là hàng hóa:
- Sản phẩm nhất thiết phải do lao động con người tạo ra và phải có ích.
- Phải thông qua trao đổi và mua bán trên thị trường.
Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm... hoặc
ở dạng vô hình như: những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên,
bác sĩ và nghệ sĩ...
* Thuộc tính của hàng hoá:
Dù ở dạng nào thì hàng hóa cũng có hai thuộc tính là: giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có
thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.

23
Nhu cầu đó có thể là nhu cầu vật chất hoặc nhu cầu tinh thần; có thể là nhu cầu
cho tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu cho sản xuất.

Công dụng của vật được xác định là giá trị sử dụng của

Giá trị sử dụng do những thuộc tính tự nhiên của vật quy
định

Giá trị
Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn
sử dụng

Khoa học kỹ thuật càng phát triển, người ta càng phát


hiện thêm có nhiều giá trị sử dụng trong một hàng hóa.

Trong nền sản xuất hàng hóa, giá trị sử dụng đồng thời
cũng là vật mang giá trị trao đổi.

Giá trị của hàng hóa:


Để lý giải rõ khái niệm này, C.Mác đặt vấn đề, tại sao giữa các hàng hóa có giá
trị sử dụng khác nhau lại trao đổi được với nhau? Mối quan hệ tỷ lệ về lượng giữa
các giá trị sử dụng khác nhau được C.Mác gọi là giá trị trao đổi.
Như vậy, giá trị trao đổi là: quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử
dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
VD: 1 m vải  5 kg thóc
Vải và thóc là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau về chất, tại sao chúng
lại có thể trao đổi được với nhau và trao đổi theo một tỷ lệ nhất định (1:5)
- Vải và thóc có thể trao đổi được với nhau vì sau khi gạt bỏ đi tính chất cụ thể
của chúng thì giữa chúng chỉ còn một cái chung làm cơ sở cho quan hệ trao đổi. Đó
là, chúng đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Vì vậy,
người ta trao đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn giấu
trong những hàng hóa đó.

24
- Vải và thóc được trao đổi theo một tỷ lệ nhất định (1:5) vì: mặc dầu một số
lượng vải ít hơn đổi lấy một lượng thóc nhiều hơn (1m vải = 5 kg thóc) nhưng lượng
lao động hao phí để sản xuất ra chúng là ngang bằng nhau.
Ví dụ: Người thợ dệt vải mất 2 giờ lao động để làm ra 1 mét vải, người nông
dân cũng mất 2 giờ lao động để sản xuất ra được 5 kg thóc. Chẳng qua là trao đổi 2
giờ lao động làm ra vải lấy 2 giờ lao động sản xuất thóc.
 Vậy giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa
kết tinh trong hàng hóa đó.
Giá trị là nội dung bên trong, còn biểu hiện ra bên ngoài là giá trị trao đổi của
hàng hóa.
Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử - có sản xuất hàng hóa thì mới có giá
trị hàng hóa
b. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
Sở dĩ hàng hoá có 2 thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng là vì: lao động của
người sản xuất hàng hoá có tính 2 mặt: vừa mang tính chất cụ thể (lao động cụ thể),
lại vừa mang tính chất trừu tượng (lao động trừu tượng).

Lao động cụ thể Giá trị sử dụng

Lao động sản


xuất hàng hoá Hàng hoá

Lao động trừu tượng Giá trị

* Lao động cụ thể


Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng lao động, công cụ, phương pháp
lao động riêng và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Ví dụ: Người thợ may, người thợ mộc, người thợ nề

25
Lao động Công cụ Đối tượng Phương pháp lao Kết quả
cụ thể lao động lao động động lao động
May Máy may, kéo Vải Cắt, may Áo quần
Mộc Cái cưa, cái bào Gỗ Cưa, bào Bàn, ghế
Nề Bay, thước Cát, sạn Xây Nhà
Các loại lao động cụ thể khác nhau tạo ra những sản phẩm có giá trị sử dụng
khác nhau. Phân công lao động xã hội càng phát triển, xã hội càng nhiều ngành, nghề
khác nhau, các hình thức lao động cụ thể càng phong phú, đa dạng, càng có nhiều giá
trị sử dụng khác nhau.
* Lao động trừu tượng
Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa không kể
đến hình thức cụ thể của nó; đó là sự hao phí sức lao động nói chung của người sản
xuất hàng hóa về cơ bắp, thần kinh, trí óc.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
Vì vậy, giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong
hàng hóa.
Lưu ý: Không phải có hai thứ lao động khác nhau, mà chỉ là lao động sản
xuất hàng hóa được xem xét về hai mặt. Nếu xét lao động sản xuất hàng hóa với
thao tác riêng, đối tượng riêng, mục đích riêng, kết quả riêng thì đó là lao động cụ
thể. Cũng lao động sản xuất hàng hóa đó, nhưng lại xét xem nó tốn bao nhiêu sức
lực, hết bao nhiêu thời gian thì đó là lao động trừu tượng.
c. Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng lượng giá trị của hàng hoá
* Lượng giá trị hàng hóa

Chất giá trị hàng Lượng giá trị hàng Lượng lao động
hóa là lao động trừu hóa là do lượng lao được xác định
tượng kết tinh trong động tiêu hao để sản bằng thời gian lao
hàng hóa. xuất ra hàng hóa đó động xã hội cần
quyết định thiết

26
Giá trị của hàng hóa do lao động xã hội, trừu tượng của người sản xuất ra hàng
hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động đã hao
phí để tạo ra hàng hóa.
Lượng lao động đã hao phí được tính bằng thời gian lao động. Thời gian lao
động này phải được xã hội chấp nhận, không phải là thời gian lao động của đơn vị
sản xuất cá biệt, mà là thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra một giá
trị sử dụng nào đó trong những điều kiện bình thường của xã hội với trình độ thành
thạo trung bình, cường độ lao động trung bình.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
- Năng suất lao động:
+ Khái niệm: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nó được
tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng
thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
+ Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao
động xã hội nhưng chỉ có năng suất lao động xã hội có ảnh hưởng đến giá trị xã hội
của hàng hóa vì trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không phải theo giá trị cá
biệt mà theo giá trị xã hội.
+ Năng suất lao động lại tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ khéo léo của
người lao động, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất và
các điều kiện tự nhiên.
+ Ảnh hưởng của năng suất lao động tới lượng giá của hàng hóa: năng suất lao
động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá
càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại năng suất lao
động xã hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng
hoá càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị
của một đơn vị hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch
với năng suất lao động xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hoá
xuống, thì ta phải tăng năng suất lao động xã hội.
27
- Cường độ lao động:
+ Khái niệm: Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ khẩn trương, là
sự căng thẳng mệt nhọc của người lao động.
+ Ảnh hưởng của cường độ lao động đến lượng giá trị hàng hóa: khi cường độ
lao động tăng lên, thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian cũng
tăng lên và lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng lên tương ứng còn lượng giá trị
của một đơn vị sản phẩm thì không đổi. Xét về bản chất, tăng cường độ lao động
cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
- Mức độ phức tạp của lao động:
+ Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị
của hàng hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành lao
động giản đơn và lao động phức tạp.
+ Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một
người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được. Lao động
phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động lành nghề.
Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra được
nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn.
+ Trong nền sản xuất hàng hóa, hoạt động trao đổi diễn ra liên tục, phức tạp, để
thuận tiện cho trao đổi, người ta lấy lao động giản đơn trung bình làm đơn vị trao đổi
và quy tất cả lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình.
Như vậy, lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần
thiết, giản đơn trung bình.
3. Tiền tệ
a. Nguồn gốc và bản chất của tiền tệ
Ngay từ thời cổ đại, tiền tệ đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học, trong đó phải kể đến sự dự đoán thiên tài của Aristoteles (Aritxtốt) về vai
trò của tiền tệ trong tương lai. Thế nhưng, chỉ có C.Mác mới là người đầu nghiên cứu
một cách có hệ thống, sâu sắc về nguồn gốc bản chất của tiền tệ.
Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao
đổi hàng hóa. Lịch sử ra đời của tiền tệ chính là lịch sử phát triển các hình thái giá trị
28
của hàng hóa từ thấp đến cao như sau: Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên –
Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng – Hình thái chung của giá trị – Hình thái tiền tệ
của giá trị.
Khi tiền tệ xuất hiện, thế giới hàng hóa chia làm hai cực: một bên là các hàng
hóa thông thường, một bên là hàng hóa đặc biệt đóng vai trò tiền tệ.
Bản chất của tiền: “Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt, là kết quả của quá trình
phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, tiền xuất hiện là yếu tố ngang giá chung
cho thế giới hàng hóa, là hình thái biểu hiện giá trị của hàng hóa và phản ánh lao
động xã hội và mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa
b. Chức năng của tiền
Để hiểu rõ hơn bản chất của tiền tệ cần phải nghiên cứu các chức năng của nó.
Tiền tệ có 5 chức năng sau đây:
- Thước đo giá trị:
Với chức năng này, tiền tệ được dùng để xác định lượng giá trị của hàng hóa.
Giá trị hàng hóa được biểu hiện qua tiền tệ gọi là giá cả. Giá cả là hình thức biểu
hiện bằng tiền của giá trị. Giá trị là cơ sở của giá cả.
Ngoài giá trị, sự hình thành giá cả hàng hóa còn chịu ảnh hưởng của các nhân
tố sau đây: giá trị của tiền tệ; quan hệ cung cầu về hàng hóa và dịch vụ….
- Phương tiện lưu thông:
Tiền tệ làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hóa. Trao đổi hàng hóa thông
qua tiền tệ làm trung gian, môi giới gọi là lưu thông hàng hóa. Chức năng phương
tiện lưu thông đòi hỏi phải có tiền mặt. Chức năng này của tiền tệ làm cho hành vi
mua hàng (T – H) và hành vi bán hàng (H – T’) tách rời nhau cả về không gian và
thời gian. Điều này chứa đựng nguy cơ khủng hoảng kinh tế.
- Phương tiện cất trữ:
Của cải tồn tại dưới dạng tiền tệ là thuận tiện nhất cho người ta. Có thể tích lũy
hay cất trữ của cải dưới dạng tiền tệ, vì tiền tệ là vật ngang giá chung cho các hàng
hóa khác. Chức năng này của tiền đòi hỏi tiền tệ phải có đủ giá trị (tiền vàng). Làm
chức năng này tiền tệ rút khỏi lĩnh vực lưu thông. Nó được tung vào lưu thông những
khi cần thiết.
29
- Phương tiện thanh toán
Kinh tế hàng hóa phát triển đến một trình độ nào đó, tất yếu sẽ nảy sinh việc
mua – bán chịu, và do đó tiền có chức năng phương tiện thanh toán.
Tiền làm phương tiện thanh toán, tức là được dùng để chi trả sau khi công việc
giao dịch, mua – bán đã hoàn thành. Ví dụ: trả tiền mua hàng chịu, trả nợ, nộp thuế…
Phương tiện thanh toán của tiền tệ gắn với chế độ tín dụng, trong đó có tín dụng
thương mại là mua – bán chịu hàng hóa…
- Tiền tệ thế giới
Chức năng tiền tệ thế giới là dùng tiền làm công cụ mua và thanh toán quốc tế,
công cụ tín dụng, di chuyển của cải từ nước này sang nước khác. Làm chức năng tiền
tệ thế giới thì phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện
thanh toán quốc tế.
4. Dịch vụ và quan hệ trao đổi trong trường hợp một số yếu tố khác hàng
hoá thông thường ở điều kiện ngày nay
Nội dung trình bày ở mục này thể hiện sự nghiên cứu có tính chất làm rõ thêm
một số khía cạnh mà trong điều kiện thời của mình, C.Mác chưa có điều kiện nêu ra
một cách đầy đủ.
a. Dịch vụ
Theo cách hiểu của kinh tế chính trị Mác - Lênin, dịch vụ là một loại hàng hóa,
nhưng đó là hàng hóa vô hình.
Để có được các loại dịch vụ, người ta cũng phải hao phí sức lao động và mục
đích của việc cung ứng dịch vụ là nhằm thỏa mãn nhu cầu của người có nhu cầu về
loại hình dịch vụ đó.

Là hàng hoá vô hình

Dịch vụ Không cất trữ được

Sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời

30
Trong điều kiện ngày nay, do sự phát triển của phân công lao động xã hội dưới
tác động của sự phát triển khoa học công nghệ, dịch vụ ngày càng có vai trò quan
trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu văn minh của con người.
b. Quan hệ trao đổi trong một số yếu tố khác hàng hóa thông thường ở điều
kiện ngày nay
Nền sản xuất hàng hóa ngày nay hình thành quan hệ mua bán nhiều yếu tố không
hoàn toàn do lao động hao phí mà có. Những yếu tố này được xem là những hàng
hóa đặc biệt.
Tính đặc biệt của hàng hóa đó thể hiện ở điểm, chúng có các đặc trưng như: có
giá trị sử dụng, có giá cả, có thể trao đổi, mua bán nhưng lại không do hao phí lao
động trực tiếp tạo ra như các hàng hóa thông thường khác.
Khi xuất hiện hiện tượng trao đổi, mua bán các hàng hóa đặc biệt như vậy, làm
cho nhiều người ngộ nhận cho rằng lý luận về hàng hóa của C.Mác không còn phù
hợp. Thực chất do họ chưa phân biệt được hàng hóa và những yếu tố có tính hàng
hóa. Quyền sử dụng đất đai, thương hiệu (danh tiếng), chứng khoán, chứng quyền là
một số yếu tố điển hình trong số đó.

Một số hàng hóa đặc biệt

Quyền sử dụng Thương hiệu Chứng khoán, chứng quyền


đất đai và một số giấy tờ có giá

II. THỊ TRƯỜNG VÀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


1. Khái niệm, phân loại, vai trò và các chức năng chủ yếu của thị trường
a. Khái niệm và phân loại thị trường
- Khái niệm thị trường
Thị trường ra đời, phát triển gắn liền với sự phát triển của sản xuất hàng hoá.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của sản xuất, khái niệm thị trường cũng có nhiều
thay đổi.

31
Theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi diễn ra hành vi trao đổi, mua bán hàng hoá
giữa các chủ thể kinh tế với nhau. Tại đó, người có nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ sẽ
nhận được thứ mà mình cần và ngược lại, người có hàng hoá, dịch vụ sẽ nhận được
một số tiền tương ứng. Như vậy, thị trường có thể là chợ, cửa hàng, quầy hàng lưu
động, văn phòng giao dịch hay siêu thị... Theo nghĩa này, thị trường là hữu hình, phù
hợp giai đoạn thị trường mới hình thành.
Theo nghĩa rộng, thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao đổi,
mua bán hàng hóa, dịch vụ trong xã hội, được hình thành do những điều kiện lịch sử,
kinh tế, xã hội nhất định. Theo nghĩa này, thị trường là tổng thể các mối quan hệ kinh
tế gồm cung, cầu, giá cả; quan hệ hàng - tiền; quan hệ giá trị, giá trị sử dụng; quan
hệ hợp tác, cạnh tranh; quan hệ trong nước, ngoài nước... Cùng với đó là các yếu tố
kinh tế như nhu cầu (người mua hàng); người bán; tiền - hàng; dịch vụ mua bán...
Tất cả các quan hệ và yếu tố kinh tế này được vận động theo quy luật của thị trường.
- Phân loại thị trường
Căn cứ vào đối tượng trao đổi, mua bán cụ thể, có các loại thị trường như: thị
trường hàng hóa, thị trường dịch vụ. Trong mỗi loại thị trường này lại có thể chia cụ
thể thành các thị trường theo các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau.
Căn cứ vào phạm vi các quan hệ, có thị trường trong nước và thị trường thế giới.
Căn cứ vào vai trò của các yếu tố được trao đổi, mua bán, có thị trường tư liệu
tiêu dùng và thị trường tư liệu sản xuất.
Căn cứ vào tính chất và cơ chế vận hành, có thể chia thành: thị trường tự do, thị
trường có điều tiết, thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường cạnh tranh không
hoàn hảo (độc quyền).
Ngày nay, các nền kinh tế phát triển ngày càng nhanh và phức tạp hơn, do đó
hệ thống thị trường cũng biến đổi cho phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của
nền kinh tế. Vì vậy, để tổ chức có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi
phải hiểu rõ bản chất của hệ thống thị trường, những quy luật kinh tế cơ bản của thị
trường và các vấn đề liên quan khác.

32
b. Vai trò của thị trường

Thị trường thực hiện giá trị hàng hóa, là điều kiện,
môi trường cho sản xuất phát triển.

Vai trò Kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong xã
của thị hội, tạo ra cách thức phân bổ nguồn lực hiệu quả trong
trường
nền kinh tế.

Gắn kết nền kinh tế thành một chỉnh thể, gắn kết nền
kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới.

c. Các chức năng chủ yếu của thị trường


Chức năng thừa nhận: Thị trường là nơi thừa nhận công dụng, tính có ích hay
giá trị sử dụng của hàng hoá, thừa nhận chi phí lao động để sản xuất ra hàng hoá.
Nếu sản phẩm của người sản xuất tiêu thụ được trên thị trường, tức là hàng hóa đã
được thị trường thừa nhận giá trị và giá trị sử dụng. Khi đó, quá trình tái sản xuất mới
tiếp tục diễn ra bình thường. Chức năng này đòi hỏi các doanh nghiệp khi tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh phải tìm hiểu kỹ thị trường, đặc biệt là nhu cầu thị
trường; phải xác định cho được thị trường cần gì, khối lượng bao nhiêu... để hàng
hóa sản xuất ra có thể tiêu thụ được.
Chức năng thực hiện: Thông qua các hoạt động trao đổi trên thị trường, người
mua, người bán thực hiện được các mục đích của mình. Người bán nhận tiền và
chuyển quyền sở hữu cho người mua. Đổi lại, người mua trả tiền cho người bán để
có được giá trị sử dụng của hàng hoá. Vì vậy, thị trường là nơi thực hiện các hành vi
trao đổi hàng hóa, thực hiện giá trị hàng hóa và thực hiện cân bằng cung, cầu từng
loại hàng hóa thông qua giá cả thị trường.
Chức năng thông tin: Thị trường là nơi phát tín hiệu, thông tin về tình hình
cung, cầu trên thị trường, thông tin về sự biến động của nền kinh tế. Căn cứ thông tin
trên thị trường, người sản xuất kinh doanh đưa ra được các quyết định, hành vi ứng
xử cụ thể của mình nhằm thu được lợi ích lớn nhất. Vì vậy, thị trường là nơi cung

33
cấp thông tin cho người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Chức năng này đòi hỏi người
sản xuất phải tổ chức tốt hệ thống thông tin của mình, có phương pháp thu thập, xử
lý thông tin kịp thời để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch phát triển
thị trường phù hợp.
Chức năng điều tiết và kích thích: Do cạnh tranh, người sản xuất phải không
ngừng cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ để hạ giá thành. Người nào có sản phẩm
chất lượng cao, giá cả thấp sẽ được thị trường lựa chọn; ngược lại, người nào đưa ra
thị trường sản phẩm kém phẩm chất, giá thành cao sẽ bị đào thải. Thị trường hoạt
động như một trọng tài khách quan, dân chủ trong việc chọn lọc các yếu tố tiến bộ,
có ích cho xã hội. Với chức năng trên, thị trường thực hiện việc chọn lọc, đào thải,
kích thích hoặc hạn chế sản xuất, tiêu dùng, bảo đảm cho sản xuất phù hợp với nhu
cầu xã hội.
2. Nền kinh tế thị trường và một số qui luật chủ yếu của nền kinh tế thị
trường
a. Nền kinh tế thị trường
* Khái niệm

Nền kinh
tế thị trường

Khái niệm: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị
trường. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và
trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy
luật thị trường.

34
* Đặc trưng phổ biến của nền kinh tế thị trường

Nhiều chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu và các chủ thể
bình đẳng trước pháp luật

Thị trường đóng vai trò quyết định đến việc phân bổ các
nguồn lực xã hội

Giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường, cạnh tranh
là môi trường, là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển
Đặc
trưng Động lực trực tiếp của các chủ thể sản xuất kinh doanh là lợi ích
kinh tế - xã hội.

Nhà nước quản lý các quan hệ kinh tế và thực hiện khắc phục
những khuyết tật của thị trường

Kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, thị trường trong nước gắn
liền với thị trường quốc tế.

* Ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường


- Ưu thế của nền kinh tế thị trường
Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực cho sự sáng tạo các chủ thể
kinh tế.
Hai là, nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể,
các vùng, miền cũng như lợi thế quốc gia.
Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu
cầu của con người, từ đó thúc đẩy sự tiến bộ, văn minh của xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các thành viên của xã hội luôn có thể tìm thấy cơ
hội tối đa để thỏa mãn nhu cầu của mình. Với sự tác động của các quy luật thị trường
nền kinh tế thị trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng, cơ cấu sản xuất với
khối lượng, cơ cấu nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng các loại
hàng hóa, dịch vụ khác nhau được đáp ứng kịp thời; người tiêu dùng được thỏa mãn
nhu cầu cũng như đáp ứng đầy đủ mọi chủng loại hàng hóa, dịch vụ. Thông qua đó,

35
nền kinh tế thị trường trở thành phương thức để thúc đẩy sự văn minh, tiến bộ của xã
hội.
- Khuyết tật của nền kinh tế thị trường
Bên cạnh những ưu thế, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật vốn có mà
đa số trong số đó tự nó không thể khắc phục, sửa chữa được. Những khuyết tật chủ
yếu của kinh tế thị trường bao gồm:
Một là, trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng.
Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài
nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu
sắc trong xã hội.
Do những khuyết tật của kinh tế thị trường nên trong thực tế không tồn tại một
nền kinh tế thị trường thuần túy, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa
những thất bại của cơ chế thị trường. Khi đó, nền kinh tế được gọi là kinh tế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước hay nền kinh tế hỗn hợp.
b. Một số qui luật chủ yếu của nền kinh tế thị trường
* Quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật xác định số lượng tiền cần
thiết cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kỳ nhất định.

Khi tiền chỉ thực hiện chức năng phương tiện lưu thông thì số
lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định bằng công thức
.
Công thức: =
Trong đó: M là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một
Quy luật thời gian nhất định; P là mức giá cả; Q là khối lượng hàng hóa,
lưu dịch vụ đưa ra lưu thông; V là số vòng lưu thông của đồng tiền.
thông
tiền tệ Khi tiền thực hiện cả chức năng phương tiện thanh toán thì số
lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định như sau:
P. Q − (G1 + G2) + G3
M=
V
Trong đó: P.Q là tổng giá cả hàng hóa; G1 là tổng giá cả hàng hóa
bán chịu; G2 là tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau; G3 là tổng
giá cả hàng hóa đến36kỳ thanh toán; V là vòng quay trung bình của
tiền tệ
Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật lưu thông tiền tệ:
Tri thức về quy luật lưu thông tiền tệ giúp cho sinh viên đại học, cao đẳng nâng
cao nhận thức và hiểu rõ thêm về vị trí, vai trò, tác động của yếu tố tiền tệ trong điều
tiết các quan hệ kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường; từ đó
nắm được cơ sở khoa học cơ bản cho hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ của
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ngày
nay, việc xác định lượng tiền cần thiết cho lưu thông trở nên phức tạp hơn do tác
động của nhiều yếu tố mới, song không vượt ra ngoài khuôn khổ nguyên lý nêu trên.
Mặc dù, ngày nay chức năng phát hành tiền được quy định là chức năng của Nhà
nước, song nếu phát hành tiền với số lượng quá nhiều vào lưu thông sẽ làm cho đồng
tiền bị mất giá, giá cả hàng hóa tăng lên dẫn đến lạm phát. Bởi vậy, Nhà nước không
thể in và phát hành tiền giấy một cách tùy tiện mà phải tuân theo nguyên lý của quy
luật lưu thông tiền tệ.
Nắm vững lý luận về quy luật lưu thông tiền tệ góp phần bổ sung nền tảng khoa
học cho nghiên cứu quy luật kinh tế, mối quan hệ giữa các quy luật kinh tế, đặc biệt
là quan hệ giữa quy luật lưu thông tiền tệ và quy luật giá trị, hoạt động của quy luật
kinh tế trong nền kinh tế thị trường, các vấn đề liên quan đến giá cả và vai trò của
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Sự nhận thức sâu sắc về quy luật lưu thông tiền tệ giúp cho sinh viên đại học,
cao đẳng nâng cao năng lực tư duy và vận dụng vào nhận diện đúng đắn nguyên
nhân, bản chất, xu hướng vận động của giá cả thị trường, lạm phát; đồng thời bổ sung
kỹ năng phân tích, đánh giá về thể chế, chính sách của Nhà nước liên quan đến hoạch
định và điều hành chính sách tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao năng lực và
hiệu quả nghiên cứu, tạo cơ sở cho việc sử dụng tiền hợp lý hiệu quả khi trực tiếp
tham gia vào hoạt động kinh tế.

37
* Quy luật giá trị

Vị trí: Là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa

Đối với sản xuất: Hao phí lao


Nội dung: Yêu cầu sản xuất và trao
động cá biệt phải phù hợp với
đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao
hao phí lao động xã hội
phí lao động xã hội cần thiết

Đối với trao đổi: Dựa trên


nguyên tắc ngang giá
Quy
luật Cơ chế tác động: Sự lên xuống của giá cả thị
trường xoay quanh giá trị hàng hóa
giá trị

Điều tiết sản xuất và


lưu thông hàng hóa

Tác động Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản
xuất, tăng năng suất lao động

Phân hóa người sản xuất thành người giàu,


người nghèo một cách tự nhiên
Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật giá trị:
Tri thức về quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường góp phần củng cố và
nâng cao nhận thức về hoạt động, biểu hiện và tác động của quy luật khách quan
trong nền kinh tế thị trường. Quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi
thời, kích thích sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có
tác dụng lựa chọn, đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản
xuất; vừa có cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực. Các tác động đó diễn ra một
cách khách quan trên thị trường. Nắm vững yêu cầu, biểu hiện và tác động khách
quan của quy luật giá trị là cơ sở nhận thức về hoạt động của quy luật kinh tế căn bản
của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Nhận
thức đầy đủ, sâu sắc về quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường giúp cho sinh viên
đại học, cao đẳng hiểu sâu sắc thêm về cơ sở khách quan của vai trò kinh tế - xã hội,
những cơ hội, thách thức đối với hoạt động kinh tế trong kinh tế thị trường định

38
hướng xã hội chủ nghĩa để có những quyết định lựa chọn hành động đúng đắn, hiệu
quả trong thực tiễn.
* Qui luật cung – cầu

Vị trí: Là quy luật kinh tế điều tiết giữa


cung và cầu hàng hóa trên thị trường

Cung > cầu


 Giá cả < Giá trị
Nội dung: cung – cầu có quan
Quy luật hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau Cung < cầu
cung cầu và ảnh hưởng trực tiếp đến giá  Giá cả > Giá trị

Cung = cầu
 Giá cả = Giá trị

Điều tiết quan hệ giữa


Sản xuất và lưu thông hàng hóa

Tác dụng Làm biến đổi cơ cấu và dung lượng


thị trường

Giúp dự đoán xu thế biến động


của giá cả

Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật cung – cầu:


Tri thức về quy luật cung - cầu trong nền kinh tế thị trường giúp cho sinh viên
đại học, cao đẳng bổ sung nhận thức và hiểu rõ, sâu sắc hơn những mối quan hệ kinh
tế quan trọng khách quan của nền kinh tế thị trường thể hiện thông qua các khái niệm
cung, cầu, tạo cơ sở khoa học để nâng cao nhận thức, năng lực nghiên cứu về mối
quan hệ giữa cung - cầu và tác động của quy luật cung - cầu tới giá cả trong nền kinh
tế thị trường nói chung, trong đó có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
nói riêng, góp phần củng cố và làm sâu sắc, toàn diện hơn hiểu biết về quy luật kinh
tế, mối quan hệ giữa các quy luật kinh tế, đặc biệt là quan hệ giữa quy quy luật giá
trị và quy luật cung - cầu, hoạt động của luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường, tạo

39
cơ sở khoa học cho nghiên cứu các vấn đề kinh tế cụ thể trong bối cảnh mới của thế
giới và trong nước.
Sự nhận thức sâu sắc về quy luật cung - cầu giúp cho sinh viên đại học, cao đẳng
nâng cao năng lực tư duy và vận dụng vào nhận diện đúng đắn nguyên nhân, bản
chất, xu hướng vận động của giá cả thị trường nói chung, dự báo giá cả của từng mặt
hàng cụ thể trong từng điều kiện nhất định nói riêng; đồng thời bổ sung kỹ năng phân
tích, đánh giá, dự báo hành vi của các chủ thể sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng trong
nền kinh tế thị trường dưới tác động của cung - cầu; hiểu rõ hơn về nội dung thể chế,
chính sách của Nhà nước liên quan đến giá cả; nâng cao năng lực và hiệu quả nghiên
cứu, tư vấn kinh doanh hoặc trực tiếp tham gia hoạt động kinh tế.
* Quy luật cạnh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất
nhằm giành giựt những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng
hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng trở nên
thường xuyên, quyết liệt hơn. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có thể diễn ra
giữa các chủ thể trong nội bộ ngành, cũng có thể diễn ra giữa các chủ thể thuộc các
ngành khác nhau.
Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
- Những tác động tích cực của cạnh tranh:
Thứ nhất, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất.
Thứ hai, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt trong việc phân bổ các nguồn
lực.
Thứ tư, cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội.
- Những tác động tiêu cực của cạnh tranh:
Khi thực hiện cạnh tranh thiếu lành mạnh, cạnh tranh có thể dẫn tới các tác động
tiêu cực như:
Một là, cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại đến môi trường kinh doanh.
Hai là, cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phí nguồn lực xã hội.
40
Ba là, cạnh tranh không lành mạnh sẽ làm tổn hại phúc lợi của xã hội.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật cạnh tranh:
Nắm vững lý luận về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là cơ sở nhận
thức sâu sắc hơn về ưu thế, động lực phát triển của nền kinh tế thị trường cũng như
nguyên nhân của những khuyết tật.
Sự nhận thức sâu sắc về quy luật cạnh tranh giúp cho sinh viên đại học, cao
đẳng nâng cao năng lực tư duy và vận dụng vào nhận diện đúng đắn môi trường kinh
doanh, nguyên nhân, bản chất, xu hướng hoạt động của các chủ thể thị trường; đồng
thời bổ sung kỹ năng phân tích, đánh giá về thể chế, chính sách của Nhà nước liên
quan đến tạo lập môi trường kinh doanh; tạo căn cứ để tìm kiếm, lựa chọn phương
án hoạt động thích hợp khi kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, từ đó nâng cao
năng lực và hiệu quả nghiên cứu, tư vấn kinh doanh hoặc trực tiếp tham gia vào hoạt
động kinh tế.
III. VAI TRÒ CỦA MỘT SỐ CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƯỜNG
Với tư cách là môi trường cho các quan hệ sản xuất và trao đổi phát huy tác
dụng dưới tác động của các quy luật thị trường, có rất nhiều chủ thể khác nhau tham
gia thị trường, mỗi chủ thể có những vai trò quan trọng riêng. Sau đây là vai trò của
một số chủ thể chính, đó là: người sản xuất, người tiêu dùng, các chủ thể trung gian
trong thị trường và nhà nước. Cụ thể:

Người sản • Là người sản xuất và cung cấp hàng hóa và dịch vụ ra thị trường
xuất • Mục tiêu: tìm kiếm lợi nhuận

• Là những người mua hàng hóa và dịch vụ trên thị trường để


Người tiêu thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng
dùng
• Có vai trò quan trọng trong định hướng sản xuất

• Là những chủ thể kết nối thông tin,


Các chủ thể
trung gian • Giúp tăng cơ hội thực hiện các giá trị của HH, thỏa mãn nhu cầu
người tiêu dùng

Nhà nước • Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, khắc phục
những khuyết tật thị trường
41
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Bằng kiến thức đã học, hãy chứng minh sự xuất hiện của sản xuất hàng hóa
là kết quả tất yếu của nền kinh tế xã hội; Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ở Việt Nam
hiện nay.
2. Phân tích lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hóa? Để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế
ở Việt Nam hiện nay, theo anh (chị) cần phải làm gì để giảm lượng giá trị hàng hóa.
3. Thị trường là gì? Vai trò của thị trường? Ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế
thị trường? Các quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường?
4. Phân tích, đánh giá cơ chế vận dụng các quy luật kinh tế trong hoạch định
các chính sách kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
5. Lý luận cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Những giải pháp đối với
doanh nghiệp và đối với nhà nước (chủ thể quản lý vĩ mô) nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế.
6. Tham khảo thêm những câu hỏi trong Đề cương chi tiết học phần Kinh tế
chính trị - Trường đại học Kiến trúc TPHCM, 2021 (Phần Phụ lục)

GỢI Ý TÀI LIỆU HỌC TẬP CHO SINH VIÊN


1. Bộ giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho
bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà
Nội, tr34 – tr83, 2021.
2. C.Mác – Ăngghen Toàn tập, NXB CTQG Hà Nội 1994, tập 20.
3. C.Mác – Ăngghen Toàn tập, NXB CTQG Hà Nội 1994, tập 23.
4. Tham khảo các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6, 7, 8, 9, 10, 11,
12, 13, của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
5. David Begg, Stanley Fisher, Rudiger Dornbusch, Kinh tế học, Nhà xuất bản
Giáo dục Hà Nội, 1992
6. P. Samuelson: Kinh tế học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.

42
7. Song Hongbing (Hồ Ngọc Minh dịch), Chiến tranh tiền tệ, Nxb Trẻ, Hồ Chí
Minh, 2008.
8. Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền & Nguyễn
Viết Thông, 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, H.
2015
9. Trang web: www.lyluanchinhtri.vn

43
Chương 3
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
- Mục đích
Chương 3 trang bị hệ thống tri thức lý luận về giá trị thặng dư của C.Mác trong
điều kiện nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh tư bản chủ nghĩa để thấy được các
quan hệ lợi ích cơ bản nhất thông qua phân phối giá trị mới do lao động tạo ra giữa
các chủ thể cơ bản trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, giúp
cho sinh viên hình thành kỹ năng giải quyết có căn cứ khoa học quan hệ lợi ích của
mình khi khởi nghiệp hoặc tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội trong bối cảnh xã
hội hiện đại.
- Yêu cầu:
Sau khi học xong chương 3, sinh viên cần nắm được những nội dung cơ bản sau:
- Nắm được lý luận của C.Mác về giá trị thặng dư.
- Nắm được vấn đề tích lũy tư bản.
- Nắm được vấn đề phân phối giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tự
do cạnh tranh TBCN.
B. NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CỦA C. MÁC VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư
a. Công thức chung của tư bản
Tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức: H – T – H.
Tiền trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động theo công thức T – H – T’.
- Điểm giống nhau của hai công thức lưu thông nói trên là đều cấu thành bởi hai
yếu tố hàng và tiền; đều chứa đựng hai hành vi đối lập nhau là mua và bán; đều biểu
hiện quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán.
- Điểm khác nhau của hai công thức đó là:
+ Lưu thông hàng hoá giản đơn bắt đầu bằng hành vi bán (H – T) và kết thúc
bằng hành vi mua (T – H), điểm xuất phát và điểm kết thúc đều là hàng hóa, tiền chỉ

44
đóng vai trò trung gian. Ngược lại, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng hành vi mua
(T – H) và kết húc bằng hành vi bán (H – T’), tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm
kết thúc của quá trình, còn hàng hóa đóng vai trò trung gian.
+ Mục đích của lưu thông hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng, nên các hàng
hóa trao đổi với nhau phải có giá trị sử dụng khác nhau. Còn mục đích lưu thông của
tư bản là giá trị, và giá trị lớn hơn nên số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra. Vậy
với tính cách là tư bản, công thức vận động của tiền là (T – H –T’), trong đó T’ = T
+ t là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, số tiền trội hơn đó gọi là giá trị thặng dư
và ký hiệu bằng m.
T – H – T’ được gọi là công thức chung của tư bản; vì mọi tư bản đều vận
động như vậy nhằm mục đích mang lại giá trị thặng dư.
+ Trong lưu thông hàng hóa giản đơn, lưu thông chỉ là phương tiện để đạt được
mục đích tiêu dùng nằm ngoài lưu thông nên sự vận động của nó có giới hạn. Nó sẽ
chấm dứt ở giai đoạn thứ hai, khi T chuyển thành H (T – H). Còn mục đích của lưu
thông tư bản là sự lớn lên không ngừng của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận
động của nó không có giới hạn.
* Mâu thuẫn của công thức chung:
Sự vận động công thức chung của tư bản cho ta cảm giác hình như trong lưu
thông cũng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Nhưng thực sự có tạo ra hay không?
Lưu thông là quá trình trong đó diễn ra các hành vi mua và bán. Nếu mua bán
theo nguyên tắc ngang giá thì chỉ có sự thay đổi về hình thái là tiền thành hàng hóa
và ngược lại. Còn tổng giá trị vẫn không đổi.
Trong trường hợp trao đổi không ngang giá: nếu hàng hóa bán cao hơn giá trị
thì người bán sẽ được lời, còn nếu hàng hóa bán thấp hơn giá trị thì người mua sẽ
được lời. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất vừa là người
mua và lại vừa là người bán. Vì vậy, phần lợi mà họ thu được khi bán hoặc khi mua
sẽ bù lại phần thiệt khi mua hoặc khi bán. Do đó không làm tăng thêm giá trị. Ngay
cả khi có những kẻ chuyên mua rẻ bán đắt thì tổng giá trị xã hội cũng không tăng.

45
Từ sự phân tích trên cho thấy lưu thông không tạo ra giá trị nhưng rõ ràng, nếu
không có lưu thông tham gia vào quá trình vận động hay, nói cách khác, nếu tiền để
trong tủ sắt, hàng hóa để trong kho thì không thể có giá trị và giá trị thặng dư.
Như vậy, giá trị và giá trị thặng dư vừa không sinh ra trong lưu thông, vừa sinh
ra trong lưu thông. Đó chính là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.
C. Mác là người đầu tiên phân tích và giải quyết mâu thuẫn đó bằng lý luận về
hàng hóa sức lao động.
b. Hàng hóa sức lao động
C. Mác viết: “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực
thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được
người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”
* 2 điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:

Điều kiện biến sức lao động


thành hàng hoá

Người lao động được tự do Người lao động không có đủ


về thân thể các Tư liệu sản xuất cần thiết
để tự kết hợp với sức lao động
của mình tạo ra hàng hóa để
bán, cho nên họ phải bán sức
lao động

Thiếu một trong hai điều kiện trên, sức lao động không thể chuyển biến thành
hàng hoá.
 Ý nghĩa của việc sức lao động trở thành hàng hoá:
- Về mặt tích cực: Sức lao động là một yếu tố đầu vào trong sản xuất và nó trở
thành hàng hoá là điều kiện thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị
trường.
- Về mặt tiêu cực: Dù dưới hình thức nào thì bản chất bóc lột của chủ sở hữu tư
liệu sản xuất vẫn mâu thuẫn với người lao động.

46
* Thuộc tính của hàng hoá sức lao động:
Hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị hàng hóa sức lao động:
Về mặt chất thì giá trị hàng hóa sức lao động cũng do lao động hao phí kết tinh.
Về mặt lượng thì giá trị hàng hóa sức lao động được tính bằng thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó. Tuy nhiên, vì sức lao động là một
loại hàng hóa đặc biệt tồn tại trong cơ thể của con người nên việc sản sinh sức lao
động cũng có nghĩa là duy trì đời sống của con người thông qua tiêu dùng các tư liệu
sinh hoạt. Vì vậy, giá trị hàng hóa sức lao động được xác định bằng toàn bộ giá trị
các tư liệu sinh hoạt cần thiết về vật chất và tinh thần để duy trì đời sống bình thường
của công nhân và gia đình anh ta và những chi phí để công nhân có một trình độ nhất
định.

Cấu thành giá trị hàng hóa sức lao động

Giá trị những tư liệu sinh Chi phí đào tạo Giá trị những tư liệu sinh
hoạt cần thiết để duy trì sức người công nhân hoạt cho gia đình con cái của
lao động của công nhân công nhân

Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động:


Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu
dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Quá trình đó là
quá trình sản xuất ra một loạt hàng hóa nào đó. Trong quá trình lao động, sức lao
động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó, phần giá trị dôi ra so
với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. Đó chính là đặc điểm riêng có của giá trị
sử dụng của hàng hóa sức lao động. Đặc điểm này là chìa khóa để giải quyết mâu
thuẫn trong công thức chung của tư bản đã trình bày ở trên.

47
c. Sự sản xuất giá trị thặng dư
Trước hết nó là quá trình kết hợp giữa tư liệu sản xuất với sức lao động nằm
dưới sự điều khiển của nhà tư bản với mục đích tạo ra giá trị thặng dư.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này ta sẽ nghiên cứu ví dụ sau :
Ví dụ : Quá trình dệt vải.
Chi phí sản xuất Giá trị hàng hóa
20 kg sợi _ Giá 20 USD 20 kg sợi  Vải _ 20 USD

Khấu hao máy móc _ 4 USD Khấu hao máy móc _ 4 USD

8 giờ lao động với tiền công _ 3 USD 8 giờ lao động với tiền công _ 6 USD

Tổng cộng : 27 USD Tổng cộng : 30 USD

- Theo ví dụ trên ta thấy :


Người ta thuê người công nhân trả công 3 USD, nhưng giá trị thực người đó tạo
ra là 6 USD  Sức lao động tạo ra giá trị lớn hơn thu nhập (tiền công).
- Giả định hàng hóa bán đúng giá trị
Chênh lệch = Giá trị hàng hóa – Chi phí sản xuất.
= 30 USD 27 USD
= 3 USD
3 USD này chính là giá trị thặng dư.
Như vậy, giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động do công nhân tạo ra, là kết quả của lao động không công của công nhân cho
nhà tư bản. Ký hiệu giá trị thặng dư là m.
Để khẳng định rõ hơn nguồn gốc của giá trị thặng dư là do hao phí sức lao động
tạo ra, cần phân tích vai trò của tư liệu sản xuất trong mối quan hệ với người lao động
trong quá trình làm tăng giá trị. Việc phân tích này được C. Mác nghiên cứu dưới nội
hàm của hai thuật ngữ: tư bản bất biến và tư bản khả biến.

48
d. Tư bản bất biến và tư bản khả biến
Để tiến hành sản xuất nhà tư bản ứng tiền ra mua tư liệu sản xuất và sức lao
động. Hai yếu tố này có vai trò khác nhau trong việc tạo ra giá trị thặng dư.
Tư bản bất biến, ký hiệu là c
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất (nhà xưởng, máy móc
thiết bị, nhiên liệu, nguyên liệu...) mà lượng giá trị của nó được bảo tồn và chuyển
nguyên vẹn vào sản phẩm, tức là giá trị không đổi về lượng trong quá trình sản xuất
gọi là tư bản bất biến (ký hiệu là c).
Tư bản khả biến, ký hiệu là v
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức sức lao động trong quá trình sản xuất lại
thay đổi về lượng, tăng lên do giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có đặc điểm
khi được tiêu dùng thì nó tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân
nó, gọi là tư bản khả biến (ký hiệu là v). Nó là nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Như vậy, việc phân chia thành tư bản bất biến và tư bản khả biến chỉ rõ nguồn
gốc duy nhất của giá trị thặng dư là do lao động của công nhân làm thuê tạo ra và
không được trả công. Tư bản bất biến tuy không là nguồn gốc duy nhất của giá trị
thặng dư nhưng nó có vai trò quan trọng trong sản xuất, quyết định năng suất lao
động của công nhân.
Trong thực tế, máy móc công nghệ càng hiện đại thì năng suất cao hơn và nhờ
đó nhà tư bản thu được lợi nhuận nhiều hơn. Tuy nhiên, không nên lầm tưởng máy
móc tạo ra giá trị thặng dư. Máy móc chỉ là phương tiện để nâng cao sức sản xuất
của lao động. Cho dù chúng hiện đại đến đâu cũng chỉ là lao động chết, nó phải được
lao động sống cải tử hoàn sinh để trở thành nhân tố của quá trình sản xuất.
 Từ việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Ta có
công thức giá trị hàng hoá: G = c + (v + m)
Trong đó:
(v + m) là bộ phận giá trị mới của hàng hóa, do hao phí lao động tạo ra;

49
c là giá trị của những tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng, là bộ phận lao động
quá khứ đã được kết tinh trong máy móc, nguyên, nhiên, vật liệu. Bộ phận này được
chuyển vào giá trị sản phẩm mới.
đ. Tiền công

Giá cả của.hàng hóa


Tiền công

Tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, nó chính là
giá cả của hàng hóa sức lao động.
e. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản
* Tuần hoàn của tư bản

Định nghĩa: Tuần hoàn của tư bản là sự Mô hình của tuần hoàn tư bản:
vận động của tư bản lần lượt trải qua ba TLSX
giai đoạn dưới ba hình thái kế tiếp nhau T–H .... sản xuất… H’ – T’
(tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản Sức lao
động
hàng hóa) gắn với thực hiện những chức
năng tương ứng (chuẩn bị các điều kiện
cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư,
thực hiện giá trị thặng dư) và quay trở
về hình thái ban đầu cùng với giá trị
thặng dư.

Sự vận động này trải qua ba giai đoạn:


- Giai đoạn thứ nhất - diễn ra trong lưu thông:
TLSX
T–H
Sức lao động

Trong giai đoạn này, tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ thực hiện chức
năng là phương tiện mua hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động và sau khi mua
xong, tư bản tiền tệ chuyển hoá thành tư bản sản xuất.
- Giai đoạn thứ hai - diễn ra trong sản xuất:
TLSX
H …. Sản xuất …. H’
Sức lao động

50
Trong giai đoạn này, tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất, có chức năng
thực hiện sự kết hợp hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động để sản xuất ra hàng
hóa mà trong giá trị của nó có giá trị thặng dư. Trong các giai đoạn tuần hoàn của tư
bản thì giai đoạn sản xuất có ý nghĩa quyết định nhất, vì nó gắn trực tiếp với mục
đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Kết thúc giai đoạn này thì tư bản sản xuất
chuyển hoá thành tư bản hàng hoá.
- Giai đoạn thứ ba - diễn ra trong lưu thông: H’ – T’
Trong giai đoạn này, tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa, có chức
năng thực hiện giá trị hàng hóa trong đó có giá trị thặng dư hay chức năng chuyển
hóa tư bản hàng hoá thành tư bản tiền tệ.
Vậy sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn nói trên là sự vận động có tính
tuần hoàn. Sự vận động liên tiếp của tư bản qua ba giai đoạn, trong mỗi giai đoạn, tư
bản mang một hình thái nhất định và có một chức năng nhất định được gọi là tuần
hoàn tư bản.
* Chu chuyển của tư bản
Sự tuần hoàn tư bản là nghiên cứu mặt chất của sự vận động tư bản, còn chu
chuyển tư bản là nghiên cứu mặt lượng hay tốc độ vận động của tư bản.
Chu chuyển tư bản là sự tuần hoàn tư bản nếu xét nó là một quá trình định kỳ
đổi mới, diễn ra liên tục và lặp đi lặp lại không ngừng.
Công thức khái quát:
TLSX
T-H …. Sản xuất …. H’ - T’….T’’….T’’’….
Sức lao động

Chu chuyển tư bản phản ánh tốc độ vận động nhanh hay chậm của tư bản.
Thời gian chu chuyển tư bản:
Thời gian chu chuyển tư bản là thời gian tính từ khi tư bản ứng ra dưới một hình
thái nhất định cho đến khi thu về cũng dưới hình thái ban đầu, có kèm theo giá trị
thặng dư. Thời gian chu chuyển = Thời gian sản xuất + Thời gian lưu thông.

51
Tốc độ chu chuyển tư bản:
Tốc độ chu chuyển tư bản là khái niệm dùng để chỉ sự vận động nhanh hay chậm
của tư bản ứng trước. Đơn vị tính tốc độ chu chuyển tư bản là số vòng hoặc số lần
chu chuyển của tư bản.
Nếu gọi n là tốc độ chu chuyển tư bản, ch là thời gian chu chuyển tư bản (tính
theo đơn vị ngày hoặc tháng) và CH là thời gian tư bản vận động trong một năm (360
ngày hoặc 12 tháng), ta có công thức tính tốc độ chu chuyển tư bản là:

CH
n=
ch

Căn cứ vào phương thức (đặc điểm) chu chuyển về mặt giá trị nhanh hay chậm
của các bộ phận tư bản, thì tư bản sản xuất được chia thành tư bản cố định và tư bản
lưu động.
* Tư bản cố định
Tư bản cố định là bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thái giá trị của những máy
móc, thiết bị, nhà xưởng... tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của
nó chỉ chuyển từng phần vào sản phẩm trong quá trình sản xuất.
Đặc điểm của tư bản cố định là về hiện vật, nó luôn luôn cố định trong quá trình
sản xuất, chỉ có giá trị của nó là tham gia vào quá trình lưu thông cùng sản phẩm,
hơn nữa nó cũng chỉ lưu thông từng phần, còn một phần vẫn bị cố định trong tư liệu
lao động, phần này không ngừng giảm xuống tới khi nó chuyển hết giá trị vào sản
phẩm.
* Tư bản lưu động
Tư bản lưu động là bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thái giá trị nguyên,
nhiên, vật liệu và giá trị sức lao động mà giá trị của nó được chuyển toàn bộ (một
lần) vào sản phẩm hàng hóa trong quá trình sản xuất.
Đặc điểm của loại tư bản này là chu chuyển nhanh về mặt giá trị. Nếu tư bản cố
định muốn chu chuyển hết gia trị của nó phải mất nhiều năm, thì trái lại tư bản lưu
động trong một năm giá trị của nó có thể chu chuyển nhiều lần hay nhiều vòng.

52
Đối với tư bản cố định, trong quá trình hoạt động tất yếu bị hao mòn. Có hai
loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình là hao mòn do sử dụng hoặc do bị phá hủy của tự nhiên gây
ra làm cho tư bản cố định mất giá trị và giá trị sử dụng.
Hao mòn vô hình là hao mòn do ảnh hưởng của sự tiến bộ khoa học và công
nghệ. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, những
máy móc, thiết bị được sản xuất ra có giá cả thấp hơn và có hiệu suất lớn hơn, làm
cho những máy móc, thiết bị cũ giảm giá trị ngay khi giá trị sử dụng của nó vẫn còn
nguyên vẹn hoặc mới suy giảm một phần.
Để thu được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao, các nhà tư bản phải nỗ lực rút
ngắn thời gian chu chuyển hay đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tư bản trên cơ sở nắm
vững các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển tư bản, đồng thời sử dụng hiệu
quả tư bản cố định và tư bản lưu động.
2. Bản chất của giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư có bản chất kinh tế - xã hội là quan hệ giai cấp, trong đó giai
cấp các nhà tư bản làm giàu dựa trên cơ sở lao động làm thuê.
Mục đích của nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không
những chỉ dừng lại ở mức có được giá trị thặng dư, mà quan trọng là phải thu được
nhiều giá trị thặng dư, do đó cần có thước đo để đo lường giá trị thặng dư về lượng.
C.Mác đã sử dụng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư để đo lường giá trị thặng dư.
- Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả
biến để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.
m
Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư là: m'  100 %
v
Trong đó: m' là tỷ suất giá trị thăng dư; m là giá trị thặng dư; v là tư bản khả
biến.
Tỷ suất giá trị thặng dư cũng có thể tính theo tỷ lệ phần trăm giữa thời gian lao
động thặng dư (t') và thời gian lao động tất yếu (t).

t'
m'  100 %
t
53
Khối lượng giá trị thặng dư là lượng giá trị thặng dư bằng tiền mà nhà tư bản
thu được. Công thức tính khối lượng giá trị thặng dư là:
M = m'. V
Trong đó: M là khối lượng giá trị thặng dư, m’ là tỷ suất giá trị thặng dư, V là
tổng tư bản khả biến.
Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ khai thác sức lao động làm thuê; khối
lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô giá trị thặng dư mà chủ sở hữu tư liệu sản
xuất thu được.
3. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Để có khối lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn, nhà tư bản dùng nhiều phương
pháp khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế – kỹ thuật trong từng giai đoạn phát triển
của CNTB. Có hai phương pháp cơ bản sản xuất giá trị thặng dư: tuyệt đối và tương
đối.
a. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao
động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Ví dụ:
- Lúc ban đầu: Một ngày có 8 tiếng lao động. Trong đó có:
4 tiếng là thời gian lao động tất yếu (t)
4 tiếng là thời gian lao động thặng dư (t’)
 m’ = (t’/t) x100% = (4/4) x 100% = 100%
- Sau đó vì muốn có nhiều giá trị thặng dư hơn, các nhà tư bản đã kéo dài thời
gian làm việc từ 8 tiếng/ ngày lên 10 tiếng/ ngày. Trong đó:
4 tiếng là thời gian lao động tất yếu (t)
6 tiếng là thời gian lao động thặng dư (t’)
 m’ = (6 /4) x 100% = 150%

54
Bản chất của phương pháp này:
Chỉ là kéo dài thời gian lao động, tăng cường độ lao động làm tăng hao phí sức
lao động của công nhân mà không có cải tiến gì trong sản xuất.
Giới hạn của phương pháp này:
Giới hạn về mặt sinh học: (vì người công nhân còn phải có thời gian ăn, ngủ,
nghỉ ngơi, … để phục hồi sức khỏe)
Giới hạn về mặt xã hội: người công nhân cần có thời gian để thõa mãn những
nhu cầu về mặt tinh thần.
Giai cấp công nhân đã đấu tranh ngày càng mạnh mẽ đòi tăng lương, giảm giờ
làm buột các chủ tư bản không thể kéo dài ngày lao động theo ý chủ quan của họ.
Đồng thời cùng với sự phát triển của CNTB, khoa học – kỹ thuật – công nghệ ngày
càng tiên tiến giúp cho các nhà tư bản có thể sử dụng phương pháp mới. Đó là phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
b. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian
lao động tất yếu; do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao
động không thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
Ví Dụ:
Lúc ban đầu: ngày lao động là 8 tiếng. Trong đó:
Thời gian lao động cần thiết là 4 tiếng
Thời gian lao động thặng dư là 4 tiếng.
 m’ = 100%
Nếu giá trị sức lao động giảm đi 2 tiếng thì thời gian lao động tất yếu còn 2 tiếng
và thời gian lao động thặng dư tăng lên 6 tiếng/ ngày.  m’ = (6/2) x 100% = 300%
Bản chất của phương pháp này :
Dựa trên sự cải tiến trong sản xuất
Dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội

55
Giới hạn của phương pháp này.
Phương pháp này không có giới hạn bởi vì nó dựa trên cơ sở cải tiến trong sản
xuất, tăng năng suất lao động xã hội. Phương pháp này tạo ra rất nhiều giá trị thặng
dư cho nhà tư bản, lớn hơn rất nhiều so với phương pháp tuyệt đối.
c. Giá trị thặng dư siêu ngạch
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công
nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn
giá trị thị trường của nó.
Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời,
nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại thường xuyên tồn tại. Giá trị thặng dư siêu
ngạch là động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng
năng suất lao động cá biệt, đánh bại đối thủ của mình trong cạnh tranh. Các Mác gọi
giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Kết luận:
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối thường được sử dụng trong thời
kỳ đầu của CNTB. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối thường sử dụng
trong thời kỳ sau của CNTB (Khi khoa học – kỹ thuật – công nghệ phát triển) nhưng
điều này chỉ có ý nghĩa tương đối, trên thực tế các nhà tư bản thường kết hợp chặt
chẽ cả hai phương pháp trên
Muốn có thêm lao động thặng dư, sản phẩm thặng dư phải khai thác triệt để trên
3 mặt sau: thời gian lao động, cường độ lao động và năng suất lao động.
II. TÍCH LŨY TƯ BẢN
1. Bản chất của tích lũy tư bản

Bản chất của tích lũy tư bản là quá trình tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa
thông qua việc chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để tiếp tục mở rộng
sản xuất kinh doanh thông qua mua thêm hàng hóa sức lao động, mở mang nhà xưởng,
mua thêm nguyên vật liệu, trang bị thêm máy móc thiết bị…

56
Thực chất, nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư. Nhờ
có tích lũy tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không những trở thành thống
trị, mà còn không ngừng mở rộng sự thống trị đó.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới quy mô tích lũy gồm:

3. Một số hệ quả của tích luỹ tư bản

Thứ nhất Tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản

Thứ hai Tích lũy tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản

Quá trình tích lũy tư bản không ngừng làm tăng chênh lệch
Thứ ba giữa thu nhập của nhà tư bản với thu nhập của người lao
động làm thuê cả tuyệt đối lẫn tương đối

III. CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Lợi nhuận
a. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa
Giá trị hàng hóa là c + v + m. Nhưng đối với nhà Tư bản, để sản xuất hàng hóa,
họ chỉ cần chi phí ra một lượng tư bản nhất định để mua tư liệu sản xuất (c) và mua
sức lao động (v). Chi phí đó gọi là chi phí sản xuất TBCN, và ký hiệu là k

Chi phí sản xuất TBCN = c + v = k

57
 Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị của hàng hóa, bù lại giá
cả của những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và giá cả của sức lao động đã được sử
dụng để sản xuất ra hàng hóa ấy. Đó là chi phí mà nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất ra
hàng hóa.
Khi xuất hiện chi phí sản xuất TBCN, thì công thức giá trị hàng hóa (G = c + v
+ m) sẽ chuyển thành G = k + m.
Chi phí sản xuất có vai trò quan trọng: bù đắp tư bản về giá trị và hiện vật, đảm
bảo điều kiện cho tái sản xuất trong kinh tế thị trường; tạo cơ sở cho cạnh tranh, là
căn cứ quan trọng cho cạnh tranh về giá bán hàng giữa các nhà tư bản.
b. Bản chất của lợi nhuận
Do có chênh lệch giữa giá trị hàng hóa (G = c + v + m) và chi phí sản xuất tư
bản chủ nghĩa (k = c + v), nên khi bán hàng hóa theo giá thị trường, các nhà tư bản
thu được khoảng tiền lời, gọi là lợi nhuận.
Lợi nhuận (Kí hiệu là p) là giá trị thặng dư do lao động của công nhân tạo ra
nhưng được nhà tư bản xem đó là kết quả do tổng số tư bản mang lại.
Lợi nhuận chính là biểu hiện của giá trị thặng dư, tuy nhiên lợi nhuận không
phải lúc nào cùng bằng giá trị tặng dư. So sánh giữa p và m ta thấy:
 Khi cung = cầu  giá cả = giá trị  p = m
 Khi cung < cầu  giá cả > giá trị  p > m
 Khi cung > cầu  giá cả < giá trị  p < m
Tùy từng trường hợp, từng nhà tư bản cá biệt có thể thu được một lượng lợi
nhuận lớn hơn hoặc nhỏ hơn lượng giá trị thặng dư. Nhưng trong toàn xã hội, tổng
số giá cả ngang bằng tổng số giá trị, tổng số lợi nhuận ngang bằng tổng số giá trị
thặng dư.
Thực chất lợi nhuận và giá trị thặng dư là một, cái khác nhau ở chổ nói đến m
là hàm ý so sánh nó với v, còn nói đến p là hàm ý so sánh với k = c + v. Lợi nhuận
chẳng qua là hình thức thần bí hóa giá trị thặng dư
Khi m  p, thì giá trị hàng hóa (c+v+m) chuyển thành chi phí sản xuất tư bản
chủ nghĩa cộng với lợi nhuận  W= c + v + m => W = k + p

58
c. Tỷ suất lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận
* Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ % giữa tổng số giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng
trước. Ký hiệu là: p’

Trong thực tế, người ta thường tính p’ (hằng năm) bằng tỷ lệ % giữa tổng số lợi
nhuận thu được trong năm (p) và tổng tư bản ứng trước (k)

Vậy trên thực tế người ta tính p’ bằng công thức p’ = p / k x 100% nhưng xét
về bản chất thì p’ = m / (C + V) x 100%.
So sánh m’ và p’
Lượng Chất

m’ p’
p’ < m’ Phản ánh trình độ bóc lột _ Mức doanh lợi
của tư bản đối với lao _ Khu vực đầu tư có lợi
động làm thuê

* Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận


Từ công thức tính tỷ suất lợi nhuận có thể thấy, những nhân tố nào ảnh hưởng
tới giá trị của tử số hoặc mẫu số, hoặc cả tử số cả mẫu số của phân thức cũng sẽ ảnh
hưởng tới tỷ suất lợi nhuận. C.Mác nêu ra các nhân tố sau:
Thứ nhất, tỷ suất giá trị thặng dư: Sự gia tăng của tỷ suất giá trị thặng dư sẽ
có tác động trực tiếp làm tăng tỷ suất lợi nhuận. Do vậy, những biện pháp nâng cao
tỷ suất giá trị thặng dư cũng là những biện pháp nâng cao tỷ suất lợi nhuận.
Thứ hai, cấu tạo hữu cơ của tư bản (c/v): Cấu tạo hữu cơ của tư bản tác động
tới chi phí sản xuất, do đó tác động tới lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
c
  tỷ suất lợi nhuận 
v

59
Ví dụ:
Cho k = 100; m’ = 100 %
c 7
Nếu   70c + 30v + 30m  p’ = 30%
v 3
c 8
Nếu   80c + 20v+ 20m  p’ = 20%
v 2
Thứ ba, tốc độ chu chuyển của tư bản: Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng
lớn thì tỷ lệ giá trị thặng dư hằng năm tăng lên, do đó, tỷ suất lợi nhuận tăng.
c 8
Ví dụ: Với một tư bản ứng trước ra 10.000 đơn vị tiền tệ,  , m’ = 100%,
v 2
nếu tốc độ chu chuyển của tư bản n = 1 ta có: 8000c+2000v+ 2000m và p’= 20%.
Còn nếu n = 2 thì cũng số tư bản như trên ta có:
8000c + 2000v + (2000m x 2) và p’ = 40%.
Như vậy tỷ suất lợi nhận tỷ lệ thuận với số vòng chu chuyển và tỷ lệ nghịch với
thời gian chu chuyển của tư bản. Do đó để nâng cao tỷ suất lợi nhuận, các nhà tư bản
tìm mọi biện pháp rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông hàng hóa của
mình.
Thứ tư, tiết kiệm tư bản bất biến: Trong điều kiện tư bản khả biến (v) không
đổi, nếu giá trị thặng dư giữ nguyên, tiết kiệm tư bản bất biến làm tăng tỷ suất lợi
nhuận.
Trong công thức p’= m/(c+v), nếu m và v không đổi thì p’ tỷ lệ nghịch với tư
bản bất biến c.
Vì thế để nâng cao tỷ suất lợi nhuận, các nhà tư bản tìm mọi cách tiết kiệm tư
bản bất biến như sử dụng máy móc thiết bị, nhà xưởng, nhà kho, phương tiện vận tải
với hiệu quả cao nhất, giảm tiêu hao năng lượng và tận dụng phế phẩm, phế liệu, phế
thải trong tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của xã hội để sản xuất hàng hóa.
d. Lợi nhuận bình quân
Cạnh tranh giữa các ngành là cơ chế cho sự hình thành lợi nhuận bình quân.

60
Giả sử có ba ngành sản xuất (cơ khí, dệt và da), vốn của các ngành đều bằng
nhau (bằng 100 đơn vị tiền tệ), tỷ suất giá trị thặng dư đều bằng nhau (bằng 100%),
tốc độ chu chuyển của vốn ở các ngành đều bằng nhau.
Do đặc điểm của mỗi ngành sản xuất khác nhau, nên cấu tạo hữu cơ của vốn (tư
bản) ở từng ngành khác nhau, tỷ suất lợi nhuận ở các ngành khác nhau (xem bảng).
Ngành Chi phí sx Tỷ suất Giá trị Tỷ suất Lợi nhuận Tỷ suất Giá cả
sản TBCN (k giá trị thặng lợi bình quân lợi nhuận sản xuất
xuất = C + V) thặng dư dư nhuận (p) bình quân k+p
(m’) (m) (p’) ( p’)
80C + 100% 20 20% 30 30% 130
Cơ khí
20V
70C + 100% 30 30% 30 30% 130
Dệt 30V
60C + 100% 40 40% 30 30% 130
Da 40V

Trong trường hợp trên, ngành da là ngành có tỷ suất lợi nhuận cao nhất, tư bản
ở các ngành khác sẽ chuyển sang làm cho quy mô sản xuất của ngành da mở rộng,
sản phẩm của ngành da nhiều lên, cung sản phẩm của ngành da lớn hơn cầu, giá cả
sẽ hạ xuống, tỷ suất lợi nhuận giảm.
Ngược lại, quy mô sản xuất ở những ngành mà tư bản di chuyển đi sẽ bị thu
hẹp, cung nhỏ hơn cầu, giá cả sẽ cao hơn, dẫn đến tỷ suất lợi nhuận tăng. Như vậy,
sự tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi tỷ suất lợi
nhuận của ngành và dẫn đến hình thành tỷ suất lợi nhuận ngang nhau, mỗi ngành đều
nhận được tỷ suất lợi nhuận 30%. Đó là tỷ suất lợi nhuận chung hay tỷ suất lợi nhuận
bình quân, ký hiệu là p'
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là "con số trung bình" của tất cả các tỷ suất lợi
nhuận khác nhau hay tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số theo phần trăm giữa tổng
giá trị thặng dư và tổng tư bản xã hội.

Hoặc p' 
M x 100%
K
Trong đó:
61
- ΣM là tổng giá trị thặng dư của xã hội
- ΣK là tổng tư bản của xã hội.
Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, có thể tính được lợi nhuận bình
quân p từng ngành theo công thức: p = k x p' ; trong đó k là tư bản ứng trước của
từng ngành.
Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận bằng nhau của những lượng vốn tư bản đầu
tư bằng nhau khi đầu tư vào các ngành khác nhau.
Khi lợi nhuận chuyển hóa thành lợi nhuận bình quân thì giá trị của hàng hóa
chuyển hóa thành giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất được tính như sau: Giá cả sản xuất
=k+ p
Những điều kiện hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân,
giá cả sản xuất bao gồm: tư bản tự do di chuyển và sức lao động tự do di chuyển.
Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận bình quân đã trở thành căn
cứ cho các doanh nghiệp lựa chọn ngành, nghề, phương án kinh doanh sao cho có
hiệu quả nhất.
đ. Lợi nhuận thương nghiệp

Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra
trong quá trình sản xuất mà tư bản công nghiệp nhường cho tư bản
thương nghiệp, để tư bản thương nghiệp bán hàng hóa cho mình.

Tư bản công nghiệp “nhường” một phần giá trị thặng dư cho tư bản
thương nghiệp bằng cách bán hàng hóa thấp hơn giá trị thực tế của
nó để rồi tư bản thương nghiệp bán đúng giá trị, thu về lợi nhuận
thương nghiệp.

Lợi nhuận thương nghiệp thực chất là một phần của giá trị
thặng dư do công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất

62
2. Tư bản cho vay và lợi tức cho vay
* Sự hình thành tư bản cho vay
Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, mà người chủ của nó cho nhà
tư bản khác sử dụng trong thời gian nhất định để nhận được một số tiền lời nào đó
(gọi là lợi tức).
Tư bản cho vay ra đời và phát triển do: Trong nền kinh tế luôn có những khoản
tiền nhàn rỗi chưa được sử dụng. Đồng thời lại luôn có nhu cầu vay tiền để mở rộng
sản xuất và đổi mới công nghệ. Từ đó tư bản cho vay ra đời.
Đặc điểm của tư bản cho vay:
- Tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Đối với người cho vay nó là tư
bản sở hữu, đối với người đi vay nó là tư bản sử dụng.
- Tư bản cho vay là một hàng hóa đặc biệt, vì khi cho vay người bán không mất
quyền sở hữu, còn người mua chỉ được nua quyền sử dụng trong một thời gian nhất
định. Và khi sử dụng giá trị của nó không mất đi mà còn tăng lên (tăng lên là do
những khỏan lợi tức mà nhà tư bản cho vay thu được).
- Tư bản cho vay hoạt động theo công thức: T – T’ cho nên nó là tư bản được
sùng bái nhất (vì nó gây cho chúng ta có cảm giác có tiền thì đẻ ra tiền, không liên
quan đến sản xuất).
* Lợi tức
Là 1 phần của lợi nhuận bình quân mà tư bản đi vay trả cho tư bản cho vay về
quyền sở hữu tư bản để được quyền sử dụng tư bản trong một thời gian nhất định, ký
hiệu là z.

Về thực chất lợi tức cũng là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra
trong lĩnh vực sản xuất. Nhưng việc nhà tư bản cho vay thu được lợi tức đã che dấu
thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa.

63
* Tỷ suất lợi tức
Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho
vay trong một thời gian nhất định, ký hiệu là z’
z
z' 100 %
K
Trong đó: K là số tư bản cho vay
Giới hạn vận động của tỷ suất lợi tức là: 0 < z' < p 
Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào các nhân tố sau:
+ Tỷ suất lợi nhuận bình quân
+ Quan hệ cung cầu về tư bản cho vay ( ví dụ như nếu lượng cung của tư bản
cho vay không thay đổi mà nhu cầu vay tiền tăng lên thì z’ sẽ tăng lên hoặc ngược
lại).
3. Tư bản kinh doanh nông nghiệp và địa tô Tư bản chủ nghĩa.
* Tư bản kinh doanh nông nghiệp
Tư bản kinh doanh nông nghiệp là bộ phận tư bản xã hội đầu tư vào lĩnh vực
nông nghiệp.
Sự hình thành và trở thành thống trị của tư bản trong sản xuất nông nghiệp trong
lịch sử phát triển kinh tế thị trường trên thế giới được thực hiện thông qua hai con
đường:
- Theo con đường thứ nhất, kinh tế địa chủ phong kiến thông qua cải cách mà
dần dần chuyển sang kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Đó là con đường
của các nước Đức, Italy, Nhật Bản, Nga...
- Theo con đường thứ hai, chế độ kinh tế địa chủ cùng quyền sở hữu ruộng đất
phong kiến được thủ tiêu bằng các biện pháp cách mạng, mở đường cho kinh tế tư
bản chủ nghĩa nhanh chóng hình thành và phát triển. Đó là con đường diễn ra ở Pháp.
Sự hình thành và trở thành thống trị của tư bản trong nông nghiệp dẫn tới trong
nông nghiệp tư bản chủ nghĩa có ba giai cấp cơ bản: địa chủ (là người sở hữu ruộng
đất, nhưng không trực tiếp kinh doanh mà cho thuê đất); nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp (là người thuê ruộng đất của địa chủ để kinh doanh theo phương thức sản xuất

64
tư bản chủ nghĩa); công nhân nông nghiệp (là người lao động làm thuê cho các nhà
tư bản kinh doanh nông nghiệp).
* Địa tô tư bản chủ nghĩa
Địa tô tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân
mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải trả cho địa chủ vì đã kinh doanh trên
ruộng đất của địa chủ.
Địa tô tư bản chủ nghĩa có hai loại chủ yếu là địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt
đối:
Địa tô chênh lệch: là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân
được hình thành trên những ruộng đất có điều kiện kinh doanh trung bình và thuận
lợi.
Địa tô chênh lệch được tính bằng chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung của
nông sản, được hình thành trong những điều kiện kinh doanh kém thuận lợi nhất, và
giá cả sản xuất cá biệt trên những ruộng đất có điều kiện kinh doanh trung bình và
thuận lợi.
Địa tô chênh lệch có hai loại: địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II:
- Địa tô chênh lệch I được hình thành trên những ruộng đất có điều kiện tự nhiên
trung bình và thuận lợi, bao gồm những thuận lợi về mức độ màu mỡ của đất và vị
trí địa lý của đất.
- Địa tô chênh lệch II do thâm canh mà có.
Địa tô tuyệt đối là địa tô mà địa chủ thu được trên mảnh đất cho thuê, không kể
độ màu mỡ tự nhiên thuận lợi hay do thâm canh. Đó là phần lợi nhuận siêu ngạch dôi
ra ngoài lợi nhuận bình quân được tính bằng số chênh lệch giữa giá trị nông sản và
giá cả sản xuất chung của nông sản.
Trong chủ nghĩa tư bản, không phải chỉ đất đai sử dụng vào sản xuất nông
nghiệp mới phải nộp địa tô, mà tất cả các loại đất - đất xây dựng, đất hầm mỏ -
cũng phải đem lại địa tô cho người sở hữu chúng.
Lý luận địa tô tư bản chủ nghĩa của C. Mác không những chỉ rõ bản chất quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp mà còn là cơ sở khoa học để xây
dựng các chính sách kinh tế liên quan đến thuế, đến điều tiết các loại địa tô, đến
65
giải quyết các quan hệ đất đai... nhằm kết hợp hài hòa các lợi ích, khuyến khích
thâm canh, sử dụng đất đai tiết kiệm, phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa
bền vững.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Lý luận của C.Mác về nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư và vận dụng
nhằm giải quyết mối quan hệ giữa người mua và người bán sức lao động trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Tại sao nói quy luật sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của
Chủ nghĩa tư bản? Đặc điểm của sản xuất giá trị thặng dư trong giai đoạn hiện nay?
3. Bằng kiến thức đã học, Anh (chị) hãy chứng minh trong sản xuất công nghiệp,
đối với từng nhà tư bản giá trị thặng dư siêu ngạch thường không ổn định, trái lại đối
với toàn xã hội lại thường ổn định.
4. Từ nội dung của chu chuyển tư bản, Anh (chị) hãy cho biết bằng cách nào để
các nhà tư bản không ngừng tăng thêm khối lượng giá trị thặng dư? Liên hệ với thực
tiễn ở Việt Nam hiện nay?
5. Lý luận về tích luỹ tư bản và sự vận dụng nhằm tăng cường tích lũy vốn cho
doanh nghiệp và cho nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
6. Vận dụng lý luận về giá trị thặng dư siêu ngạch trong việc thúc đẩy nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia.
7. Vận dụng lý luận về các hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư trong việc
tạo giá trị tăng thêm ở các lĩnh vực thương nghiệp, tín dụng, ngân hàng và nông
nghiệp.
8. Hãy cho biết nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
Rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
9. Tham khảo thêm Đề cương chi tiết học phần Kinh tế chính trị - Trường đại
học Kiến trúc TPHCM, 2021 (Phần Phụ lục)

66
BÀI TẬP ÔN TẬP + HƯỚNG DẪN GIẢI ĐÁP
Bài 1: Để tái sản xuất sức lao động người công nhân cần phải có những vật
phẩm tiêu dùng sau đây:
- Sản phẩm ăn uống 14 đô-la/ngày.
- Đồ dùng gia đình 72,5 đô-la/năm.
- Quần áo, giày dép dùng cá nhân là 270 đô-la/năm.
- Những đồ dùng lâu bền là 5.000 đô-la/10 năm.
Hãy xác định giá trị sức lao động trong một ngày của công nhân.
Trả lời:
Theo đầu bài, giá trị sức lao động 1 ngày là:

Đáp số: 16,3 đô-la.

Bài 2: Trong quá trình sản xuất sản phẩm, hao mòn thiết bị và máy móc (c1) là
200.000 $. Chi phí nguyên, nhiên, vật liệu (c2) là 600.000 $.
Hãy xác định chi phí tư bản khả biến nếu biết rằng giá trị sản phẩm là 2 triệu $
và trình độ bóc lột giá trị thặng dư là 200%.
Trả lời:
Chi phí từ bản bất biến (c) là: c = c1 + c2 = 200.000 $+ 600.000 $= 800.000 $
giá trị sản phẩm là W = c + v + m = 2.000.000 $
Vậy từ bản khả biến và giá trị thặng dư là: v + m= 2.000.000 - 800.000 =
1.200.000 $; do m’ = 200% có nghĩa là m = 2v, do đó v = 400.000 $, còn m =
800.000$.
Đáp số: Tư bản khả biến (v) là 400.000$.

Bài 3: Tư bản đầu tư K=450.000$, trong đó bỏ vào tư liệu sản xuất 390.000$.
Số công nhân làm thuê là 200 người.
Hãy xác định giá trị mới do 1 công nhân tạo ra, biết rằng tỷ suất giá trị thặng dư
là 200%.
Trả lời :
Ta có : K= c + v = 450.000$; c =390.000$, do đó v =60.000$, m` = 200%
=> m = 2v, tức m = 60.000 x 2 = 120.000 đô-la.
67
Giá trị mới do 200 công nhân tạo ra = 60.000 + 120.000 = 180.000 đô-la.
Vậy, giá trị mới do 1 công nhân tạo ra
180.000$:200 người = 900$
Đáp số: 900 $.

Bài 4: Ngày làm việc 8 giờ thì tỷ suất giá trị thặng dư = 300%. Sau đó nhà tư
bản kéo dài ngày làm việc đến 12 giờ.
Trình độ bóc lột trong xí nghiệp thay đổi như thế nào nếu giá trị sức lao động
không đổi. Nhà tư bản tăng thêm giá trị thặng dư bằng phương pháp nào?
Trả lời :
Ngày lao động 8 giờ, m’ = 300%, tức m = 3v, hay thời gian lao động cần thiết
là 2 giờ còn thời gian lao động thặng dư là 6 giờ:
Nếu kéo dài thời gian lao động ra 12h mà v không đổi = 2 giờ thì m tăng lên =
10 giờ, do đó: m’ = 10/2 x100% = 500%.
Đáp số: Trình độ bóc lột tăng lên 500%, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối.

Bài 5: Ngày làm việc 10 giờ, thời gian lao động thặng dư là 5 giờ. Sau đó tăng
năng suất lao động trong các ngành sản xuất vật phẩm tiêu dùng nên giá cả hàng hóa
ở trong ngành này rẻ hơn trước 2 lần.
Trình độ bóc lột lao động thay đổi như thế nào, nếu độ dài ngày lao động không
đổi? Dùng phương pháp bóc lột giá trị thặng dư nào?
Trả lời:
Cần dựa vào lý luận giá trị thặng dư tương đối để giải. Nếu ngày lao động 10
giờ và thời gian lao động thặng dư là 5 giờ, thì :
m’ = 5/5 x 100% = 100%
Trong thời gian lao động cần thiết, giá trị sức lao động được tái sản xuất. Nếu
giá trị hàng tiêu dùng giảm 2 lần, thì giá trị sức lao động giảm 2 lần. Và bây giờ để
tái sản xuất giá trị sức lao động chỉ cần 2,5 giờ lao động (v = 5 – 2,5 = 2,5 giờ),
do đó thời gian lao động thặng dư tăng lên = 10g – 2,5g = 7,5g, khi ấy:
m’ = (7,5 x 100%) / 2,5 = 300%
Đáp số: - Tỷ suất giá trị thặng dư tăng từ 100% lên 300%.
- Nhà tư bản dùng phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

68
Bài 6: Cơ sở chế biến hương liệu chưng cất nước hoa Beauty của Áo có các
khoản chi phí tư bản như sau: tư bản ứng trước 500.000 USD, trong đó bỏ vào nhà
xưởng 200.000 USD, máy móc thiết bị 100.000 USD. Nguyên liệu, nhiên liệu và vật
liệu phụ gấp 3 lần sức lao động.
Hãy xác định tổng số tư bản cố định, tư bản lưu động, tư bản bất biến, tư bản
khả biến. Việc phân chia tư bản cố định, tư bản lưu động, tư bản bất biến, tư bản khả
biến theo những nguyên tắc nào?
Trả lời:
Lượng tư bản cố định (bao gồm giá trị nhà xưởng, thiết bị, máy móc):
200.000USD + 100.000USD = 300.000USD
Lượng tư bản lưu động (bao gồm giá trị nguyên, nhiên vật liệu và giá trị sức lao
động) là:
500.000 USD - 300.000USD = 200.000USD
Lượng tư bản khả biến là:
200.000USD : 4 = 50.000USD
Lượng tư bản bất biến là:
500.000USD - 50.000USD = 450.000USD
Việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động căn cứ vào tính chất chu
chuyển giá trị của các bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất, còn việc phân chia tư
bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến là căn cứ vai trò và tác dụng của các bộ
phận tư bản trong quá trình bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Đáp số:
- Tư bản cố định 300.000 USD
- Tư bản lưu động 200.000USD
- Tư bản bất biến 450.000USD
- Tư bản khả biến 50.000USD

Bài 7: Trong một xí nghiệp sản xuất, chi phí tư bản chủ nghĩa là 500.000 USD.
Cấu tạo hữu cơ c/v = 9/1. Tư bản bất biến hao mòn dần trong một chu kỳ sản xuất là
một năm. Tư bản khả biến quay một năm 12 vòng, mỗi vòng tạo ra 100.000 USD giá
trị thặng dư.
Hãy xác định khối lượng giá trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm.
Trả lời:
Lượng giá trị thặng dư tạo ra trong một năm là:
69
100.000USD × 12 = 1.200.000USD
Lượng tư bản khả biến là:
500.000USD : 10= 50.000USD
Tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm là:
m' = m/ V × 100% = (1.200.000/ 50.000) x 100 = 2.400%
Đáp số: 1,2 triệu USD và 2.400%

Bài 8: Năm 1960, tại tập đoàn AT&T, người ta đo lường được trình độ bóc lột
giá trị thặng dư của nhà tư bản đối với công nhân là 200% và cấu tạo hữu cơ c/v =
7/1. Trong giá trị hàng hóa có 8.000 USD giá trị thặng dư. Với điều kiện tư bản bất
biến hao mòn hoàn toàn trong một chu kỳ sản xuất.
Hãy xác định chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và giá trị hàng hóa đó
Trả lời:
Lượng tư bản khả biến là:
8.000 USD : 200% = 4.000USD
Lượng tư bản bất biến là:
4.000 USD x 7 = 28.000USD
Nếu tư bản bất biến hao mòn hết trong một năm thì chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa bằng tư bản ứng trước.
Lượng chi phí sản xuất tư bản (c + v):
28.000USD + 4.000USD = 32.000USD
Giá trị của hàng hóa (c +v+m):
32.000USD + 8.000USD = 40.000USD
Đáp số: Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa 32.000USD
Giá trị hàng hóa là 40.000USD

Bài 9: Mới đầu trong giá trị hàng hóa có 2.000$ tư bản bất biến, tư bản khả biến
là 400$, giá trị thặng dư là 1.200$
Sau đó do đấu tranh bãi công của công nhân đòi tăng lương, tư bản khả biến
trong hàng hóa tăng lên 480$. Điều đó được phản ánh như thế nào trong chi phí sản
xuất tư bản chủ nghĩa và giá trị hàng hóa. Hãy vạch rõ sai lầm của các nhà kinh tế
học tư sản khi nói giá trị của hàng hóa tăng là do nâng cao tiền lương của người lao
động.

70
Trả lời:
Lượng giá trị hàng hóa = 2.000 $+ 400 $+ 1.200 $= 3.600 $
Khi công nhân chưa bãi công, chi phí sản xuất tư bản =2.000$ + 400$= 2.400$.
Sau khi bãi công, chi phí sản xuất tư bản = 2.000 $+ 480 $= 2.480$. Song lượng
giá trị mới do công nhân tạo ra vẫn như cũ (v + m = 400 + 1.200 = 1.600$). Do đó
chỉ có sự thay đổi trong việc phân phối lại giá trị mới mà thôi: 2.000 $ + (400 $+
80$)+ (1.200 $– 80 $)= 3.600 $
Đáp số:
Chi phí sản xuất tư bản đã tăng từ 2.400$ lên 2.480$. Giá trị hàng hóa không
đổi. Chỉ xảy ra việc phân phối lại giá trị mới có lợi cho công nhân và thiệt hại đối với
nhà tư bản.

Bài 10: Tổng số tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp là 800 $, tỷ suất
lợi nhuận bình quân 20%, lợi nhuận công nghiệp là 108$.
Các nhà tư bản thương nghiệp cần phải mua và bán sản phẩm theo giá bao nhiêu
để họ và các nhà tư bản công nghiệp thu được lợi nhuận bình quân.
Trả lời:
Theo bài ra, tư bản công nghiệp = 108 x 100 = 540$
20
Tư bản thương nghiệp = 800 – 540 = 260 đơn vị
Lợi nhuận thương nghiệp = 260 x 20 = 52$
100
Nhà tư bản thương nghiệp mua hàng của nhà tư bản công nghiệp theo giá = chi
phí sản xuất + lợi nhuận công nghiệp (tức giá cả sản xuất) = 540 + 108 = 648$.
Nhà tư bản thương nghiệp bán hàng cho người tiêu dùng theo giá
= giá cả sản xuất + lợi nhuận thương nghiệp (tức giá trị) = 648 + 52 = 700 $.
Đáp số: 648 và 700 đơn vị.

Bài 11: Giả sử tư bản công nghiệp trong xã hội là 250 tỷ đô-la, tư bản thương
nghiệp là 30 tỷ đô-la. Tổng giá trị thặng dư tạo ra là 50 tỷ, chi phí lưu thông thuần
túy là 5 tỷ đô-la.
Hỏi tỷ suất lợi nhuận bình quân là bao nhiêu?

71
Trả lời:
Chi phí lưu thông thuần túy được khấu trừ vào giá trị thặng dư. Tổng số lợi
nhuận còn lại = 50 tỷ - 5 tỷ = 45 tỷ.
Tổng tư bản xã hội = 250 tỷ + 30 tỷ = 280 tỷ.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân = 45 x 100% = 16%
280
Vậy tỷ suất lợi nhuận bình quân trong điều kiện trên là 16 %.
Đáp số: 16%

Bài 12: Tháng 12-1980 trên thị trường hàng hóa ở Mỹ, giá đậu tương là 170 đô-
la/1 tấn. Giả sử, nhà tư bản sản xuất dự đoán sẽ được mùa, giá cả sẽ giảm xuống đáng
kể nên đã ký hợp đồng có thời hạn với nhà tư bản thương nghiệp bán 1.000 tấn đậu
tương với giá 170 đô-la/1 tấn, và trả tiền vào tháng 12 năm 1981. Thực tế giá đậu
tương đến tháng 12 lên 235 đô-la/1 tấn.
Hỏi ai đã thu được lợi nhuận và thu được bao nhiêu từ hợp đồng ký kết trên?
Tại sao sự hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa lại thúc đẩy việc sản xuất hàng hóa
vượt quá nhu cầu thực tế xã hội.
Trả lời:
Sự chênh lệch giữa giá cả thực tế và giá cả hợp đồng = 235 đô la – 170 đô la =
65 đô la, do đó Nhà tư bản thương nghiệp đã lời và số lời đó = 65 x 1.000 = 65.000
đô la.
Đáp số: - Nhà tư bản thương nghiệp đã được lời 65.000 đô-la.
- Các hợp đồng giao dịch đẻ ra nhiều nhu cầu giả tạo về hàng hóa.

Bài 13: Có 400.000 đô-la cho vay trong 3 tháng mang lại thu nhập cho người
sở hữu là 8000 đô-la. Sau khi thu hồi tiền về, nhà tư bản lại sử dụng chúng để cho
vay trong thời gian 8 tháng với tỷ suất lợi tức 3% một năm. Tháng cuối cùng trong
năm với số tiền đó nhà tư bản cho vay còn thu được 4.000 đô-la lợi tức. Hãy xác định
tỷ suất lợi tức tiền vay bình quân cả năm?
Trả lời:
Lượng lợi tức thu được trong 8 tháng cho vay là :
Z = (400.000$ + 8.000$) x3% x 8 tháng = 8.160$
12 tháng

72
Tổng lợi tức thu được trong cả năm = 8.000đôla+ 8.160đôla+4.000đôla =
20.160 đôla.
Như vậy tỷ suất lợi nhuận bình quân cả năm là :
z’ = 20.160$ = 5,04%
400.000
Đáp số: 5,04%

Bài 14:Nhà tư bản sản xuất cao su có tổng chi phí là 250 triệu đô-la, trong đó
100 triệu đô-la đi vay.
Hãy xác định tổng số thu nhập của nhà tư bản sản xuất và lợi tức của nhà tư bản
cho vay. Nếu tỷ suất lợi nhuận bình quân là 12% và tỷ suất lợi tức tiền cho vay là 3%
cả năm.
Trả lời:
Tổng lợi nhuận do 250 tỷ tư bản sản xuất đem lại là :
∑p = 12%x250tr = 30 triệu $
100%
Lợi tức tư bản cho vay là :
Z = 3% x 100 triệu = 3 triệu $
100%
Thu nhập của các nhà tư bản sản xuất = 30 triệu - 3 triệu = 27 triệu đôla.
Đáp số: Thu nhập của nhà tư bản công nghiệp là 27 triệu đôla và lợi tức của nhà
tư bản cho vay là 3 tỷ đôla.

GỢI Ý TÀI LIỆU HỌC TẬP CHO SINH VIÊN


1. Bộ giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho
bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị) , Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà
Nội, tr84 – tr123, 2021.
2. Đảng cộng sản Việt Nam (2016) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 55-132.
3. C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002, tr. 250-296.
4. C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002, Phần I, 47-83.
73
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 3 tháng 6 năm
2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
6. TS. Bùi Ngọc Quỵnh, Lý luận các hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư và
vấn đề tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2010
7. Trang web: www.lyluanchinhtri.vn

74
Chương 4
CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
Mục đích:
- Cung cấp hệ thống tri thức lý luận của V.I. Lênin về độc quyền và độc quyền
nhà nước trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
- Người đọc hiểu được bối cảnh kinh tế thế giới đang có những đặc trưng mới,
từ đó hình thành được tư duy thích ứng trước tình hình thế giới nhiều thách thức.
Yêu cầu:
- Nắm được quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường.
- Nắm được độc quyền, độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
- Hiểu được tính quy luật: cạnh tranh đến một trình độ phát triển nhất định tất
yếu dẫn tới sự hình thành các tổ chức độc quyền.
B. NỘI DUNG
I- CẠNH TRANH Ở CẤP ĐỘ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
1. Độc quyền, độc quyền nhà nước và tác động của độc quyền
1.1. Nguyên nhân hình thành độc quyền và độc quyền nhà nước
a. Độc quyền và nguyên nhân hình thành độc quyền
- Độc quyền
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C. Mác đã dự báo rằng: “tự do
cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới
một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền”.

75
Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, có khả năng thâu tóm
việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định ra giá cả độc quyền,
nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
Trong nền kinh tế thị trường, độc quyền có thể được hình thành một cách tự
nhiên, cũng có thể được hình thành bởi ý chí của nhà nước tạo ra các tổ chức độc
quyền.
- Nguyên nhân hình thành độc quyền
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong nền kinh tế thị trường các nước tư
bản chủ nghĩa đã xuất hiện các tổ chức độc quyền. Các tổ chức độc quyền xuất hiện
do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, do sự phát triển của lực lượng sản xuất
Dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật xuất hiện những ngành sản xuất
mới, ngay từ đầu có trình độ tích tụ cao đòi hỏi những hình thức kinh tế tổ chức mới,
đó là những xí nghiệp lớn phát triển rất mạnh tạo thành nền sản xuất lớn có ưu thế
hơn hẳn so với nền sản xuất nhỏ.
Thứ hai, do cạnh tranh.
Cạnh tranh tự do tác động mạnh đến tích tụ và tập trung tư bản. Một mặt, nó
buộc các nhà tư bản phải cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích luỹ để thắng trong cạnh
tranh và giành lợi nhuận tối đa. Mặt khác, kết quả trực tiếp của cạnh tranh tự do
khốc liệt là nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật kém hoặc bị các đối thủ mạnh
hơn thôn tính, hoặc phải liên kết với nhau để đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy,
chỉ còn một số ít những nhà tư bản lớn nắm địa vị thống trị trong một ngành hay
trong một số ngành công nghiệp.
Thứ ba, do khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế dẫn đến nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản; những xí
nghiệp và công ty lớn phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, do đó thúc
đẩy quá trình tập trung sản xuất.
Thứ tư, tín dụng tư bản chủ nghĩa: Tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng, trở
thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là hình thành các công ty
cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
76
Thứ năm, những xí nghiệp và công ty lớn, có tiềm lực kinh tế mạnh tiếp tục
cạnh tranh với nhau vô cùng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì thế nảy sinh xu hướng
thoả hiệp, từ đó hình thành các tổ chức độc quyền.
Bảng tóm tắt Những nguyên nhân chủ yếu ra đời CNTB độc quyền:

Tích tụ và tập Xí nghiệp quy


LLSX  trung sx mô lớn

Ngành sản Xí nghiệp


xuất mới quy mô lớn

KH – KT 
cuối TK 19

Năng suất Tích lũy tư


LĐ  bản

Tập
Tác động của Biến đổi cơ cấu trung sx
quy luật kinh tế kinh tế Độc quyền
quy mô

Tích tụ, tập


Cạnh tranh Tích lũy  trung tư bản

Xí nghiệp vừa
& nhỏ phá sản Xn lớn
tồn tại
Khủng
Phân hóa & phát
hoảng ktế
triển.
Xí nghiệp lớn
càng lớn thêm

Tín dụng Tích tụ, tập Tập trung sản


phát triển trung tư bản xuất

77
Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện, họ có thể ấn định giá cả độc quyền
để thu lợi nhuận độc quyền cao.
Lợi nhuận độc quyền Giá cả độc quyền
Là lợi nhuận thu được cao hơn lợi Là giá cả do các tổ chức độc quyền áp
nhuận bình quân, do sự thống trị của các đặt trong việc bán hàng hóa, nó bao gồm
tổ chức độc quyền đem lại. chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc
quyền.

Thực chất nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao vẫn do lao động của công
nhân làm việc trong các xí nghiệp độc quyền; thêm vào đó là lao động không công
của công nhân làm việc trong các xí nghiệp ngoài độc quyền; giá trị thặng dư của
các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất đi do thua thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao động
thặng dư và đôi khi cả một phần lao động tất yếu của những người sản xuất nhỏ,
nhân dân lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa và phụ thuộc.
b. Độc quyền nhà nước, nguyên nhân hình thành và bản chất của độc
quyền nhà nước
- Độc quyền nhà nước
Độc quyền nhà nước là kiểu độc quyền trong đó nhà nước nắm giữ vị thế độc
quyền trên cơ sở duy trì sức mạnh của các tổ chức độc quyền ở những lĩnh vực then
chốt của nền kinh tế nhằm tạo ra sức mạnh vật chất cho sự ổn định của chế độ chính
trị - xã hội ứng với điều kiện phát triển nhất định trong các thời kỳ lịch sử.
Độc quyền nhà nước mang tính phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Để duy
trì sức mạnh của mình, các quốc gia, ở các mức độ khác nhau luôn nắm giữ những
vị thế độc quyền theo phạm vi nhất định. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa, độc quyền nhà nước được hình thành trên cơ sở cộng sinh giữa độc quyền tư
nhân, độc quyền nhóm và sức mạnh kinh tế của nhà nước, sự chi phối của tầng lớp
tư bản độc quyền (đặc biệt là của tư bản tài chính) đối với bộ máy nhà nước.
- Nguyên nhân hình thành độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản ra đời do những nguyên nhân chủ
yếu sau đây:
78
Một là, tích tụ và tập trung vốn càng lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất càng
cao, sinh ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi phải có sự điều tiết về sản xuất và
phân phối từ một trung tâm.
Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội làm xuất hiện một số ngành
mới có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, nhưng các tổ chức độc
quyền tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư, do vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn
chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao
thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản... Vì vậy, nhà nước phải đứng
ra đảm nhận phát triển các ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư
nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.
Ba là, sự thống trị của độc quyền tư nhân đã làm gia tăng sự phân hóa giàu -
nghèo, làm sâu sắc thêm sự mâu thuẫn giai cấp trong xã hội. Trong điều kiện như
vậy đòi hỏi nhà nước phải có những chính sách xã hội để xoa dịu những mâu thuẫn
đó, như: các chính sách trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển
phúc lợi xã hội, ... để duy trì sự ổn định chế độ chính trị và trật tự xã hội.
Bốn là, cùng với xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng của
các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia, dân tộc và xung
đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự
điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế, trong đó không thể thiếu vai trò
của nhà nước.
Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới và tác động của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại cũng đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước vào đời sống
kinh tế.
- Bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức
độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể chế
thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ
nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa
tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Nó là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó
79
chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp
của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với sức mạnh
của nhà nước trong một cơ chế thống nhất và làm bộ máy nhà nước ngày càng phụ
thuộc vào các tổ chức độc quyền.
Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã trở thành
một tập thể tư bản khổng lồ. Nó cũng là chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành
kinh doanh như một nhà tư bản thông thường. Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ: ngoài
chức năng một nhà tư bản thông thường, nhà nước còn có chức năng chính trị và các
công cụ trấn áp xã hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù...
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính
trị, xã hội trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản.

Sức mạnh CNTB Sức mạnh

độc quyền độc Nhà nước


quyyền
tư nhân Nhà Tư sản
nước

Quan hệ KT-CT-
XH

1.2. Tác động của độc quyền trong nền kinh tế thị trường
Tác động của độc quyền, dù ở trình độ độc quyền tư nhân hay độc quyền nhà
nước, thể hiện ở cả mặt tích cực và tiêu cực.
a. Tác động tích cực
Thứ nhất, độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển
khai các hoạt động khoa học - kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật.
Độc quyền là kết quả của quá trình tích tụ, tập trung sản xuất ở mức độ cao. Do
đó, các tổ chức độc quyền có khả năng tập trung được các nguồn lực, đặc biệt là

80
nguồn lực về tài chính trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học -
kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Tuy nhiên, đây chỉ là khả năng, còn khả năng
có trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là phụ thuộc
vào mục đích kinh tế của các tổ chức độc quyền trong nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, độc quyền có thể làm tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực
cạnh tranh của bản thân tổ chức độc quyền.
Là kết quả của tập trung sản xuất và sự liên minh các doanh nghiệp lớn, độc
quyền tạo ra được ưu thế về vốn trong việc ứng dụng những thành tựu kỹ thuật, công
nghệ sản xuất mới, hiện đại, áp dụng những phương pháp sản xuất tiên tiến, làm
tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, do đó nâng cao năng lực cạnh tranh
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, độc quyền tạo được sức mạnh kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh
tế phát triển theo hướng sản xuất lớn hiện đại.
Với ưu thế tập trung được sức mạnh kinh tế to lớn vào trong tay mình, nhất là
sức mạnh về tài chính, tạo cho độc quyền có điều kiện đầu tư vào các lĩnh vực kinh
tế trọng tâm, mũi nhọn, do đó thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng
sản xuất tập trung, quy mô lớn, hiện đại. V.I. Lênin viết: “. nhưng trước mắt chúng
ta, cạnh tranh tự do biến thành độc quyền và tạo ra nền sản xuất lớn, loại bỏ nền sản
xuất nhỏ, thay thế nền sản xuất lớn bằng một nền sản xuất lớn hơn nữa”.
b. Tác động tiêu cực
Một là, độc quyền xuất hiện làm cho cạnh tranh không hoàn hảo gây thiệt
hại cho người tiêu dùng và xã hội.
Với sự thống trị của độc quyền và vì mục đích lợi nhuận độc quyền cao, mặc
dù như đã phân tích ở trên, độc quyền tạo ra sản xuất lớn, có thể giảm chi phí sản
xuất và do đó giảm giá cả hàng hóa, nhưng độc quyền không giảm giá, mà họ luôn
áp đặt giá bán hàng hóa cao và giá mua thấp, thực hiện sự trao đổi không ngang giá,
hạn chế khối lượng hàng hóa... tạo ra sự cung cầu giả tạo về hàng hóa, gây thiệt hại
cho người tiêu dùng và xã hội.
Hai là, độc quyền có thể kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự
phát triển kinh tế – xã hội.
81
Độc quyền tập trung được các nguồn lực lớn, tạo ra khả năng nghiên cứu, phát
minh các sáng chế khoa học - kỹ thuật. Nhưng vì lợi ích độc quyền, hoạt động nghiên
cứu, phát minh, sáng chế chỉ được thực hiện khi vị thế độc quyền của chúng không
có nguy cơ bị lung lay. Do vậy, mặc dù có khả năng tạo ra nguồn lực tài chính trong
nghiên cứu, phát minh các sáng chế khoa học, kỹ thuật, nhưng các tổ chức độc quyền
không tích cực thực hiện các công việc đó. Điều này chứng tỏ, độc quyền đã ít nhiều
kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, khi độc quyền nhà nước bị chi phối bởi nhóm lợi ích cục bộ hoặc khi
độc quyền tư nhân chi phối các quan hệ kinh tế - xã hội sẽ gây ra hiện tượng làm
tăng sự phân hóa giàu - nghèo.
Với địa vị thống trị kinh tế của mình và mục đích lợi nhuận độc quyền cao, độc
quyền có khả năng và không ngừng bành trướng sang các lĩnh vực chính trị, xã hội,
kết hợp với các nhân viên chính phủ để thực hiện mục đích lợi ích nhóm, kết hợp
với sức mạnh nhà nước hình thành độc quyền nhà nước, chi phối cả quan hệ, đường
lối đối nội, đối ngoại của quốc gia vì lợi ích của các tổ chức độc quyền, không vì lợi
ích của đại đa số nhân dân lao động.
2. Quan hệ cạnh tranh trong trạng thái độc quyền
Khái niệm cạnh tranh và quy luật cạnh tranh đã được trình bày trong Chương
2. Ở đây tiếp tục xem xét cạnh tranh ở trạng thái độc quyền.
Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do. Nhưng sự xuất hiện của độc quyền
không thủ tiêu cạnh tranh. Trái lại, độc quyền làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng,
gay gắt hơn.
Trong nền kinh tế thị trường, nhìn chung, không chỉ tồn tại sự cạnh tranh giữa
các chủ thể sản xuất kinh doanh nhỏ và vừa mà còn có thêm các loại cạnh tranh giữa
các tổ chức độc quyền. Đó là:
Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các doanh nghiệp ngoài
độc quyền. Các tổ chức độc quyền thường tìm cách để chi phối, thôn tính các doanh
nghiệp ngoài độc quyền bằng nhiều biện pháp như: độc quyền mua nguyên liệu đầu
vào; độc quyền phương tiện vận tải; độc quyền tín dụng... để có thể loại bỏ các chủ
thể yếu thế hơn ra khỏi thị trường.
82
Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại hình cạnh tranh
này có nhiều hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong cùng một
ngành, kết thúc bằng một sự thỏa hiệp hoặc bằng sự phá sản của một bên cạnh tranh;
cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền khác ngành có liên quan với nhau về nguồn
lực đầu vào...
Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những doanh nghiệp
tham gia các tổ chức độc quyền cũng có thể cạnh tranh với nhau để giành lợi thế
trong hệ thống. Các thành viên trong các tổ chức độc quyền cũng có thể cạnh tranh
nhau để chiếm tỷ lệ cổ phần khống chế, từ đó chiếm địa vị chi phối và phân chia lợi
ích có lợi hơn.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, cạnh tranh và độc quyền luôn cùng tồn
tại song hành với nhau. Mức độ khốc liệt của cạnh tranh và mức độ độc quyền hóa
phụ thuộc vào hoàn cụ thể của mỗi nền kinh tế thị trường khác nhau.

II - LÝ LUẬN CỦA V.I. LÊNIN VỀ CÁC ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA ĐỘC
QUYỀN VÀ ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
1. Lý luận của V.I. Lênin về đặc điểm kinh tế của độc quyền
Tổng kết thực tiễn vai trò của độc quyền trong nền kinh tế các nước tư bản phát
triển nhất giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin khái quát năm đặc
điểm của độc quyền tư bản chủ nghĩa như sau:
a) Các tổ chức độc quyền có quy mô tích tụ và tập trung tư bản lớn
Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là
đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.
Tổ chức độc quyền là liên minh giữa những nhà tư bản lớn để tập trung vào
trong tay một phần lớn (thậm chí toàn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên
minh này phát huy ảnh hưởng quyết định đến quá trình sản xuất và lưu thông của
ngành đó.

83
Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa, các tổ chức độc quyền hình thành
theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một
ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát
triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau.
Về mặt lịch sử, các hình thức tổ chức độc quyền cơ bản từ thấp đến cao, bao
gồm: cartel (cácten), syndicate (xanhdica), trust (tờrớt), consortium
(côngxoócxiom).
Cartel là hình thức tổ chức độc quyền trong đó các xí nghiệp tư bản lớn ký các
hiệp nghị thỏa thuận với nhau về giá cả, sản lượng hàng hóa, thị trường tiêu thụ, kỳ
hạn thanh toán,.
Các xí nghiệp tư bản tham gia cartel vẫn độc lập cả về sản xuất và lưu thông
hàng hóa. Họ chỉ cam kết thực hiện đúng hiệp nghị đã ký, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền
theo quy định của hiệp nghị. Vì vậy, cartel là liên minh độc quyền không vững chắc.
Trong nhiều trường hợp, những thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi đã rút ra khỏi
cartel, làm cho cartel thường tan vỡ trước kỳ hạn.
Syndicate là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cartel. Các xí
nghiệp tư bản tham gia syndicate vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ không độc lập ở
khâu lưu thông hàng hóa (mọi việc mua, bán do một ban quản trị chung của
syndicate đảm nhận). Mục đích của syndicate là thống nhất đầu mối mua và bán để
mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hóa với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền
cao.
Trust là hình thức độc quyền cao hơn cartel và syndicate. Trong trust thì cả
việc sản xuất, tiêu thụ hàng hóa đều do một ban quản trị chung thống nhất quản lý.

84
Các xí nghiệp tư bản tham gia trust trở thành những cổ đông để thu lợi nhuận theo
số lượng cổ phần.
Consortium là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các
hình thức độc quyền trên. Tham gia consortium không chỉ có các xí nghiệp tư bản
lớn mà còn có cả các syndicate, các trust, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên
quan với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy, một consortium
có thể có hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính
vào một nhóm các nhà tư bản kếch xù.
b) Sức mạnh của các tổ chức độc quyền do tư bản tài chính và hệ thống tài
phiệt chi phối
Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp, cũng diễn ra
quá trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến sự hình thành các tổ chức
độc quyền trong ngân hàng.
Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp vay
và nhận gửi những số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp trong một thời
gian dài, nên lợi ích của chúng xoắn xuýt với nhau, hai bên đều quan tâm đến hoạt
động của nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau. Từ đó hình thành một loại tư bản mới
gọi là tư bản tài chính.
Tư bản tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vào nhau giữa tư bản độc
quyền trong ngân hàng và tư bản độc quyền trong công nghiệp.

85
Sự xuất hiện của tư bản tài chính biểu hiện sự xã hội hóa tư bản, xã hội hóa sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Không có sự kết hợp với nhau thì bản thân tư bản độc quyền
công nghiệp hay ngân hàng đều không ở trạng thái ổn định lâu dài và phát triển có
hiệu quả. Hình thức hoạt động của thị trường chứng khoán là một biểu hiện sinh
động của tư bản tài chính. Tư bản tài chính có vai trò to lớn. Nó thống trị, chi phối
mọi hoạt động trong đời sống kinh tế, chính trị của xã hội tư bản cũng như trong các
quan hệ quốc tế. Trong đó, các nhà tư bản tài chính lớn có vai trò rất quan trọng.
Sự phát triển của tư bản tài chính dần dần dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ
những nhà tư bản kếch xù chi phối toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị của toàn xã
hội, gọi là tài phiệt (hay đầu sỏ tài chính, trùm tài chính).
Các tài phiệt thực hiện sự thống trị của mình thông qua “chế độ tham dự”. Thực
chất của “chế độ tham dự” là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính mua
số cổ phiếu khống chế, chi phối một công ty lớn nhất - công ty gốc gọi là "công ty
mẹ"; công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị các "công ty con";
"công ty con" đến lượt nó lại chi phối các "công ty cháu",...
Nhờ có “chế độ tham dự” và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích
như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, mà tài phiệt có thể khống chế và điều
tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.
Ngoài "chế độ tham dự", tài phiệt còn sử dụng những thủ đoạn như lập công ty
mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dịch,
đầu cơ ruộng đất... để thu lợi nhuận độc quyền cao. Về mặt chính trị, hệ thống các
nhà tài phiệt chi phối mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là chi phối
các chính sách đối nội, đối ngoại của nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ
phục vụ lợi ích cho chúng, do chúng thống trị được về kinh tế.

Chế độ tham dự Thống trị Thống trị


Đầu sỏ tài chính
(Tài phiệt) kinh tế chính trị
Thủ đoạn

86
c) Xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến

Xuất khẩu hàng


CNTB tự hóa ra nước ngoài
do cạnh Xuất khẩu nhằm mục đích
tranh hàng hóa thực hiện giá trị

Là xuất khẩu giá trị ra


nước ngoài nhằm mục
CNTB đích chiếm đoạt giá trị
Xuất khẩu
Độc quyền thặng dư và nguồn lợi
Tư bản
khác ở các nước nhập
khẩu tư bản

Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá
trị thặng dư. Còn xuất khẩu tư bản là mang tư bản đầu tư ở nước ngoài để sản xuất
giá trị thặng dư nơi sở tại.
Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước
ngoài) nhằm mục đích thu được giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở
các nước nhập khẩu tư bản.
Xét về hình thức đầu tư, có hai hình thức xuất khẩu tư bản chủ yếu là:
- Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp
mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư để trực tiếp
kinh doanh thu lợi nhuận cao, biến nó thành một chi nhánh của “công ty mẹ” ở chính
quốc. Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương
hoặc đa phương, nhưng cũng có những xí nghiệp toàn bộ vốn là của công ty nước
ngoài.
- Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc cho vay để thu lợi tức,
mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán
và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Xét về chủ sở hữu tư bản, có thể phân chia thành: xuất khẩu tư bản nhà nước và
xuất khẩu tư bản tư nhân.
87
Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước
ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị của tư bản tài chính ra toàn thế
giới. Tuy nhiên, việc xuất khẩu tư bản về khách quan cũng có những tác động tích
cực đến nền kinh tế các nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá trình chuyển kinh tế tự
cung tự cấp thành kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự chuyển biến từ cơ cấu kinh tế thuần
nông thành cơ cấu kinh tế nông – công nghiệp, mặc dù cơ cấu này còn què quặt, lệ
thuộc vào kinh tế của chính quốc.

Hướng vào các Tạo điều


Kinh tế ngành thuộc kết kiện cho tư
cấu hạ tầng bản tư nhân

Xuất khẩu Thực hiện chủ nghĩa


tư bản Chính trị thực dân mới
nhà nước

Đặt căn cứ quân sự


Quân sự trên lãnh thổ
Xuất khẩu
tư bản

Xuất khẩu Ngành chu chuyển vốn


tư bản tư nhanh và lợi nhuận độc
nhân quyền cao.

d) Cạnh tranh để phân chia thị trường thế giới là tất yếu giữa các tập đoàn
độc quyền
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên
cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa
các tập đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ thị trường trong nước luôn
gắn với thị trường ngoài nước. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền,
thị trường ngoài nước còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước tư bản.
V.I. Lênin nhận xét: "Bọn tư sản chia nhau thế giới, không phải do tính độc ác đặc

88
biệt của chúng, mà do sự tập trung đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào con đường
ấy để kiếm lời"
Sự đụng độ trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền có sức mạnh kinh
tế hùng hậu lại được sự ủng hộ của nhà nước "của mình" và các cuộc cạnh tranh
khốc liệt giữa chúng tất yếu dẫn đến xu hướng thỏa hiệp, ký kết các hiệp định, để
củng cố địa vị độc quyền của chúng trong những lĩnh vực và những thị trường nhất
định. Từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng cartel, syndicate,
trust quốc tế.
đ) Lôi kéo, thúc đẩy các chính phủ vào việc phân định khu vực lãnh thổ
ảnh hưởng là cách thức để bảo vệ lợi ích độc quyền

Sự phát triển Phát triển không Xung đột về Chiến


không đều về đều về chính trị, quân sự để phân tranh thế
kinh tế quân sự chia lãnh thổ giới

Sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc
quyền xảy ra cùng với sự phân chia đất đai thế giới giữa các cường quốc đế quốc.
Đầu thế kỷ XX, sự phân chia ấy đã hoàn thành, nhưng việc phân chia đó không thể
chỉ diễn ra một lần là xong. Do tác động của quy luật phát triển không đều của CNTB,
các đế quốc ra đời muộn hơn đấu tranh đòi chia lại thế giới. Đó là nguyên nhân chính
dẫn đến các cuộc chiến tranh Thế giới lần thứ nhất 1914 – 1918 và lần thứ hai 1939
– 1945, và những xung đột nóng ở nhiều khu vực trên thế giới.
Tóm lại :
Chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền;
về mặt chính trị là sự xâm lược nước ngoài, là hệ thống thuộc địa nảy sinh từ yêu cầu
kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Nếu định nghĩa một cách vắn tắt thì chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn độc quyền
của CNTB. Định nghĩa cụ thể hơn thì Chủ nghĩa đế quốc gồm 5 đặc trưng cơ bản
sau:
- Sự tập trung sản xuất và tư bản đạt tới một sự phát triển cao khiến nó tạo ra
những tổ chức độc quyền có vai trò quyết định trong hoạt động kinh tế.

89
- Sự dung hợp giữa Tư bản Ngân hàng với Tư bản Công nghiệp làm xuất hiện
“Tư bản Tài chính” và bọn đầu sỏ tài chính.
- Việc xuất khẩu tư bản khác với việc xuất khẩu hàng hóa, mang một ý nghĩa
quan trọng đặc biệt.
- Sự hình thành những liên minh độc quyền quốc tế của bọn tư bản chia nhau
thị trường thế giới.
- Việc các cường quốc TBCN lớn nhất chia nhau đất đai trên thế giới.
2. Lý luận của V.I. Lênin về đặc điểm kinh tế của độc quyền nhà nước
trong chủ nghĩa tư bản
a) Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước
Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các đảng phái tư sản. Chính
các đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự
thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước.
Thông qua các hội chủ xí nghiệp, một mặt, các đại biểu của các tổ chức độc
quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau: mặt khác, các
quan chức và nhân viên chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc
quyền, nắm giữ những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự, hoặc trở thành
những người đỡ đầu các tổ chức độc quyền.
Sự thâm nhập vào nhau này (còn gọi là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu hiện
mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước từ trung
ương đến địa phương ở các nước tư bản.
b) Sự hình thành, phát triển sở hữu nhà nước
Chủ nghĩa TB độc quyền nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống,
nhưng nét nổi bật nhất là sức mạnh của độc quyền và của nhà nước kết hợp với nhau
trong lĩnh vực kinh tế. Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong kinh tế
là sự thay đổi các quan hệ sở hữu. Nó biểu hiện không những ở chổ sở hữu nhà nước
tăng lên mà cả ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sỡ hữu độc
quyền tư nhân, hai loại sỡ hữu này đan kết với nhau trong quá trình chu chuyển của
tổng tư bản xã hội.
Sở hữu nhà nước hình thành dưới những hình thức sau đây:
90
- Xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách.
- Quốc hữu hóa các xí nghiệp của tư nhân bằng cách mua lại.
- Nhà nước mua cổ phiếu của các doanh nghiệp tư nhân.
- Mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp tư
nhân.
c) Độc quyền nhà nước trở thành công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh
tế
Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước đã dung hợp cả 3 cơ chế: thị trường, độc
quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt
tiêu cực của từng cơ chế. Xét cho đến cùng và về bản chất, hệ thống điều tiết đó phục
vụ cho CNTB Độc quyền.

Nhà nước tư sản

Kết hợp về
con người Chế độ tham dự

Độc quyền tư nhân

Xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng


vốn ngân sách

Quốc hữu hóa xí nghiệp tư nhân bằng


Hình thành sỡ cách mua lại
hữu nhà nước
Nhà nước mua cổ phần của các doanh
nghiệp tư nhân

Mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn


tích lũy của các DNTN

Bộ máy NSNN
nhà nước
Sự điều tiết Thuế
ktế của nhà =
nước tư sản
Chính Hệ thống tiền tệ
sách – tín dụng

DNNN

Kế hoạch hóa
91
III- BIỂU HIỆN MỚI CỦA ĐỘC QUYỀN, ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG
ĐIỀU KIỆN NGÀY NAY; VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA
CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1. Biểu hiện mới của độc quyền
a) Biểu hiện mới của tích tụ và tập trung tư bản
Hiện tượng liên kết đa dạng tiếp tục phát triển, sức mạnh của các Concern và
conglomerat ngày càng được tăng cường.
Nếu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trước đây dẫn đến sự ra đời của các công
ty quy mô lớn, thì cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần này dường như biểu
lộ thành 2 xu hướng đối lập nhau nhưng thực ra là thống nhất với nhau: xu hướng tập
trung và xu hướng phi tập trung hóa:
- Một mặt đã hình thành nên những công ty khổng lồ, những Concern hay
conglomerat bành trướng hoạt động ra ngoài biên giới quốc gia, trở thành những công
ty độc quyền xuyên quốc gia có các chi nhánh ở hàng trăm nước trên thế giới với
doanh số đạt được hàng trăm tỷ USD và sử dụng hàng chục vạn lao động.
- Mặt khác, trong các nước tư bản lớn, lại phát triển rất nhiều các công ty vừa
và nhỏ. Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ là do:
Thứ nhất, việc ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ cho phép tiêu chuẩn
hóa và chuyên môn hóa sản xuất sâu, dẫn đến hình thành hệ thống gia công. Đây
cũng chính là biểu hiện của độc quyền dưới một dạng mới, thể hiện ở chỗ: các hãng,
công ty vừa và nhỏ phụ thuộc vào các concern và conglomerate về nhiều mặt. Sự
kiểm soát của độc quyền được thực hiện dưới những hình thức mới thông qua quan
hệ hợp tác giữa độc quyền lớn với các hãng vừa và nhỏ. Thông qua quan hệ hợp tác
này, các độc quyền lớn sẽ mở rộng khả năng kiểm soát sản xuất nói chung, tiến bộ
khoa học và công nghệ nói riêng.
Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những thế mạnh riêng, như: nhạy
cảm với những thay đổi trong sản xuất; linh hoạt ứng phó với sự biến động của thị
trường; mạnh dạn đầu tư vào những ngành mới đòi hỏi sự mạo hiểm; dễ đổi mới
trang thiết bị, kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí bổ sung; có thể kết hợp nhiều

92
loại hình kỹ thuật để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao trong điều kiện
kết cấu hạ tầng hạn chế.
Ngoài ra, độc quyền cũng bắt đầu xuất hiện cả ở những nước đang phát triển.
Đó là kết quả của sự thâm nhập của các công ty xuyên quốc gia vào các nước đang
phát triển và sự ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại khiến cho
chỉ một doanh nghiệp lớn cũng đủ sức mạnh chi phối việc sản xuất và tiêu thụ của
cả một ngành mới ra đời ở một nước đang phát triển và tới mức độ nhất định có thể
bành trướng ra bên ngoài.
Các tổ chức độc quyền luôn có xu hướng bành trướng quốc tế. Trong điều kiện
hiện nay, xu hướng vận động của các tổ chức độc quyền là trở thành các công ty
xuyên quốc gia và liên minh với nhà nước hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước. Đó là biểu hiện mới của độc quyền và là hình thức vận động mới của quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong những điều kiện mới.

Các tổ conglomerate.
chức độc
quyền
mới xuất
hiện concern
Lực
lượng
sản xuất
phát Các doanh nghiệp vừa và nhỏ
triển tiêu chuẩn hóa và chuyên môn
Phát triển hóa cao, phù hợp với những
các ngành mới xuất hiện như : tin
DNghiệp học, điện tử ……

vừa và
nhỏ
Thích ứng nhanh với biến động
của thị trường.

93
b) Biểu hiện về vai trò của tư bản tài chính trong các tập đoàn độc quyền

Lực lượng sản xuất


phát triển.

Các ngành mới xuất hiện : điện tử,


bảo hiểm, chất dẻo, dịch vụ …
ngày càng chiếm tỷ trọng lớn.

Các hình thức và cơ chế thống trị


của tư bản tài chính thay đổi.

Sự xâm nhập vào Tư bản tài chính Tư bản tài chính


nhau giữa tư bản mở rộng thị chủ yếu phát hành
ngân hàng và trường chứng cổ phiếu với mệnh
công nghiệp được khoán trong và giá nhỏ để thu hút
mở rộng ngoài nước nhiều tầng lớp dân
cư mua cổ phiếu

Thay đổi hình Cơ chế thống trị


thức tồn tại của tư thay đổi gồm
bản tài chính

Công – nông – Công nghiệp – Chế độ ủy Chế độ


thương – tín quân sự – dịch vụ nhiệm tham dự
– dịch vụ – quốc phòng

Do sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, trong các
nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới, đặc biệt là
các ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Thích ứng với sự biến
đổi đó, hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản tài chính đã thay đổi. Sự thay
đổi diễn ra ngay trong quá trình liên kết và thâm nhập vào nhau giữa tư bản ngân
hàng và tư bản công nghiệp. Ngày nay, phạm vi liên kết được mở rộng ra nhiều
94
ngành, do đó các tập đoàn tài chính thường tồn tại dưới hình thức những tổ hợp đa
dạng kiểu công – nông – thương – tín – dịch vụ hay công nghiệp – quân sự – dịch vụ
– quốc phòng.
Tư bản tài chính mở rộng thị trường chứng khoán và tham gia vào việc đẩy
mạnh hoạt động trong các sở giao dịch trên thị trường trong và ngoài nước. Vai trò
kinh tế và chính trị của tư bản tài chính ngày càng lớn, không chỉ trong khuôn khổ
quốc gia mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nước khác trên thế giới.
Cơ chế thị trường của tư bản tài chính cũng biến đổi, cổ phiếu có mệnh giá nhỏ
được phát hành rộng rãi, khối lượng cổ phiếu tăng lên, nhiều tầng lớp dân cư mua cổ
phiếu. Mặt khác, do tư bản sản xuất gặp nhiều rủi ro, các nhà tư bản không muốn “bỏ
toàn bộ trứng của mình vào một giỏ”.
Để bành trướng ra thế giới và thích ứng với quá trình quốc tế hóa đời sống kinh
tế, các tập đoàn tư bản tài chính đã thành lập các ngân hàng đa quốc gia và xuyên
quốc gia thâm nhập vào các nước khác, đặc biệt là ngân hàng thế giới (WB) và quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF). Hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc tế đã dẫn đến sự ra
đời các trung tâm tài chính của thế giới như: Nhật Bản, Mỹ, Cộng hòa liên bang Đức,
Hồng Kông, Singapore, ………
c) Biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản
Các nước tư bản phát triển xuất khẩu lẫn nhau.
Từ những Các nước đang
năm 70 phát triển
Ở những nước tư bản phát triển cách mạng
của TK 20
trở về khoa học công nghệ đã tạo ra những ngành
trước bán dẫn và vi điện tử, ngành vũ trụ và đại
dương… Trong thời gian đầu những ngành
này thu được nhiều lợi nhuận.
Xuất khẩu tư
bản
Từ những
năm 70 Nguyên Cơ cấu kinh tế dễ thay đổi phù hợp cho sự
của TK tiếp nhận các ngành khoa học công nghệ cao,
nhân lượng vốn lớn.
20 đến
nay
Các nước tư
bản phát triển
Có các điều kiện để tiếp nhận khoa học –
công nghệ cao của các nước đầu tư như: trình
95 độ tay nghề công nhân cao, cơ sở hạ tầng
kinh tế phát triển, trình độ khoa học – công
nghệ cao.
Hình thức xuất khẩu chủ yếu là kết hợp xuất khẩu hàng hóa với xuất khẩu tư bản.
Trong đầu tư trực tiếp xuất hiện những hình thức mới như: xây dựng – kinh doanh –
chuyển giao (BOT).
CNTB từ thế kỷ XVIII đến cuối TK XIX (giai đoạn tự do cạnh tranh), xuất khẩu
chủ yếu là dưới hình thức xuất khẩu hàng hóa. Từ đầu thế kỷ XX đến những năm 50
của TK XX, xuất khẩu chủ yếu là dưới hình thức xuất khẩu tư bản, từ những năm 50
của TK XX đến nay, hình thức xuất khẩu chủ yếu là kết hợp xuất khẩu tư bản với
xuất khẩu hàng hóa.
d) Biểu hiện mới của sự phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh
độc quyền
Ngày nay, sự phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh độc quyền có
những biểu hiện mới do tác động của xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa kinh tế
ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu vực hóa nền kinh tế.
Sức mạnh và phạm vi bành trướng của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) tăng
lên đã thúc đẩy xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa kinh tế và sự phân chia phạm vi
ảnh hưởng giữa chúng với nhau, đồng thời thúc đẩy việc hình thành chủ nghĩa tư
bản độc quyền quốc tế.
Cùng với xu hướng toàn cầu hóa kinh tế lại diễn ra xu hướng khu vực hóa kinh
tế, hình thành nhiều liên minh kinh tế khu vực như: Liên minh châu Âu (EU) (ngày
1/1/1999 đồng tiền chung châu Âu - EURO ra đời). Đến nay EU đã bao gồm hầu
hết quốc gia châu Âu. Khối Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) gồm: Canada, Mêhicô
và Mỹ... Việc phân chia thế giới về kinh tế cũng có sự tham gia của một loạt nước
đang phát triển nhằm chống lại sức ép của các cường quốc tư bản. Đó là việc thành
lập tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC); thị trường chung vùng Nam Mỹ
(MERCOSUS), gồm: Braxin, Achentina, Urugoay, Paragoay;... Ngày càng có nhiều
nước tham gia vào các Liên minh mậu dịch tự do (FTA) và các liên minh thuế quan
(CU),... Tư bản độc quyền quốc tế là thế lực đang chi phối quá trình toàn cầu hóa
thông qua các tổ chức kinh tế quốc tế và đang ra sức hạn chế sự phát triển của các
tổ chức khu vực.

96
đ) Biểu hiện mới về sự phân chia lãnh thổ ảnh hưởng dưới sự chi phối của
các tập đoàn độc quyền
Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc tư bản vẫn tiếp tục dưới
những hình thức cạnh tranh và thống trị mới:
Vào nửa cuối thế kỷ XX, tuy chủ nghĩa thực dân cũ đã hoàn toàn sụp đổ và chủ
nghĩa thực dân mới đã suy yếu, nhưng các cường quốc tư bản vẫn tranh giành nhau
phạm vi ảnh hưởng bằng cách thực hiện “chiến lược biên giới mềm”, ra sức bành
trướng “biên giới kinh tế” rộng hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi phối các nước
kém phát triển từ sự lệ thuộc về vốn, công nghệ đi đến sự lệ thuộc về chính trị vào
các cường quốc tư bản dưới mọi hình thức lúc ngấm ngầm, lúc công khai.
Sang đầu thế kỷ XXI, chiến tranh lạnh kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị
đẩy lùi, nhưng vẫn tiềm ẩn những nguy cơ chạy đua vũ trang mới, thực chất là nguy
cơ chiến tranh lạnh phục hồi trở lại. Mặt khác, sự phân chia lãnh thổ thế giới lại
được thay thế bằng những cuộc chiến tranh thương mại, những cuộc chiến tranh sắc
tộc, tôn giáo, đứng bên trong hoặc núp đằng sau, trực tiếp hoặc gián tiếp các cuộc
đụng độ đó chính là các cường quốc tư bản.
2. Biểu hiện mới của độc quyền nhà nước dưới chủ nghĩa tư bản
a) Những biểu hiện mới về cơ chế quan hệ nhân sự
Sự phát triển của trình độ dân trí và quy luật cạnh tranh trong xã hội tư bản
ngày nay dẫn đến sự thay đổi về quan hệ nhân sự trong bộ máy chính quyền nhà
nước. Thể chế đa nguyên trong phân chia quyền lực nhà nước trở thành phổ biến.
Tại các nước tư bản phát triển nhất xuất hiện cơ chế thỏa hiệp để cùng tồn tại, cùng
phân chia quyền lực giữa các thế lực tư bản độc quyền không cho phép bất kỳ một
thế lực tư bản nào độc tôn, chuyên quyền ở các nước tư bản phát triển.
Trong không ít trường hợp, trọng tâm quyền lực nhà nước lại thuộc về một thế
lực trung dung có vị thế cân bằng giữa các thế lực đối địch nhau. Đến lượt nó, vị thế
quyền lực đó tạo nên những thể chế kinh tế, chính trị, xã hội.... ôn hòa hơn, ít cực
đoan hơn so với những thời kỳ trước.

97
b) Những biểu hiện mới về sở hữu nhà nước
Chi tiêu ngân sách nhà nước là công việc thuộc quyền của giới lập pháp. Giới
hành pháp bị giới hạn, thậm chí bị quản lý chặt chẽ bằng luật ngân sách nhà nước.
Chống lạm phát và chống thất nghiệp được ưu tiên. Dự trữ quốc gia trở thành nguồn
vốn chỉ có thể được sử dụng trong những tình huống đặc biệt; cổ phần của nhà nước
trong các ngân hàng và công ty lớn trở thành phổ biến.
Vai trò của đầu tư nhà nước để khắc phục những chi phí tốn kém trong nghiên
cứu khoa học cơ bản, trong xây dựng kết cấu hạ tầng và giải quyết các nhu cầu mang
tính xã hội ngày càng tăng lên ở các nước tư bản phát triển. Nhà nước đã dùng ngân
sách của mình để tạo nên những cơ sở vật chất, gánh chịu các rủi ro lớn, còn các
công ty tư nhân tập trung vào các lĩnh vực có lợi nhuận hấp dẫn.
Nhờ lợi thế vượt trội của mình về tiềm lực khi tham gia đấu thầu các dự án đầu
tư bằng ngân sách nhà nước mà các tập đoàn độc quyền lớn thường thu được lợi
nhuận khổng lồ khi thực hiện các đơn đặt hàng trong các dự án đầu tư của nhà nước.
Nhà nước tư sản hiện đại là nhân tố quyết định sự ổn định kinh tế vĩ mô thông
qua thu - chi ngân sách, kiểm soát lãi suất, trợ cấp và trợ giá, kiểm soát tỷ giá hối
đoái mua sắm công, ... Trong những điều kiện nhất định như khủng hoảng kinh tế,
ngân sách nhà nước còn được dùng để cứu những tập đoàn lớn khỏi nguy cơ phá
sản. Ví dụ: Ngày 28/2/2009, Chính phủ Mỹ nâng cổ phần nắm giữ trong Citigroup
lên 36%. Citigroup đã được Chính phủ Mỹ bơm cho 45 tỉ USD và bảo lãnh cho 301
tỉ USD tài sản độc hại. AIG đã được Chính phủ Mỹ giải cứu hai lần bằng tổng số
tiền lên tới 150 tỉ USD trong năm 2008. Đổi lại, Chính phủ Mỹ đã kiểm soát mức
cổ phần gần 80% của hãng bảo hiểm này. Chính phủ Anh đã tung ra một gói giải
cứu ngân hàng thứ hai trị giá khoảng 145 tỉ USD.
Tại một số nước, định hướng ưu tiên cho các vấn đề xã hội trong chi tiêu ngân
sách nhà nước được luật pháp hóa. Trong số đó có phần chi cho các hoạt động bảo
vệ môi trường, an sinh xã hội. Nhờ đó ở những nước phát triển có môi trường xanh
và sạch hơn, như Nauy có giáo dục và y tế miễn phí toàn dân; ở một số nước châu
Âu người dân thực tế được hưởng phúc lợi xã hội khá cao. Nhưng sẽ là sai lầm nếu
như coi những điều tốt đẹp đó là sự thức tỉnh của giai cấp tư sản hay là sự nhân đạo
98
hóa của chủ nghĩa tư bản. Đó thực ra là những thành quả của cuộc đấu tranh bền bỉ
nhiều năm của nhân dân tiến bộ ở những nơi đó, là những sự “chuẩn bị vật chất của
chủ nghĩa xã hội” mà chủ nghĩa tư bản tạo ra trong quá trình phát triển của mình.
c) Biểu hiện mới trong vai trò công cụ điều tiết kinh tế của độc quyền nhà
nước
Độc quyền nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ngày nay tập trung
trong một số hạn chế lĩnh vực. Về chính trị, các chính phủ, nghị viện tư sản hiện đại
cũng được tổ chức như một công ty cổ phần tư bản chủ nghĩa. Sự tham dự của các
đảng đối lập kể cả đảng cộng sản trong chính phủ hoặc trong nghị viện cũng chỉ
được chấp nhận ở mức độ chưa đe dọa quyền lực khống chế của giai cấp tư sản độc
quyền. Với ý nghĩa đó “đa nguyên tư sản” được tầng lớp tư sản độc quyền sử dụng
vừa để làm dịu đi làn sóng đấu tranh của các tầng lớp nhân dân tiến bộ chống sự bóc
lột, khống chế của tư bản lũng đoạn, vừa làm suy yếu sức mạnh của các lực lượng
đối lập. Còn một khi thấy xuất hiện nguy cơ bị mất quyền chi phối thì ngay lập tức
sẽ giải tán chính phủ, quốc hội hoặc thiết quân luật, tình trạng khẩn cấp thậm chí
đảo chính quân sự. Những gì xảy ra ở Chilê năm 1973, nước Nga năm 1993 và rất
nhiều nơi khác chứng tỏ rõ điều đó...
Viện trợ ưu đãi từ nguồn lực nhà nước có xu hướng gia tăng. Viện trợ cho nước
ngoài của chính phủ trở thành một bộ phận của điều tiết kinh tế trong nước. Được
chỉ định thực hiện những dự án đó là một cơ hội lớn mà không có tập đoàn độc
quyền nào không quan tâm. Đó có thể là một phương thuốc cứu nguy trong bối cảnh
hàng hóa tồn đọng, công nghệ lỗi thời hoặc thị giá cổ phiếu sụt giảm, ... Chỉ cần điều
này thôi cũng đủ lý giải cho thực tế là trong các dự án viện trợ song phương, nước
tiếp nhận chỉ được nhận một phần ít ỏi bằng ngoại tệ còn đa phần là hàng hóa, công
nghệ, thiết bị và chuyên gia của nước cung cấp.
3. Vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản
a) Vai trò tích cực của chủ nghĩa tư bản
* Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát
triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: chuyển từ kỹ thuật
99
lao động thủ công lên kỹ thuật cơ khí, sang tự động hóa, tin học hóa,... Cùng với sự
phát triển của kỹ thuật và công nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao
hiệu quả khám phá và chinh phục tự nhiên của con người. Chủ nghĩa tư bản có công
lớn trong phát triển các cuộc cách mạng công nghiệp và hiện nay là cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư xuất hiện vào đầu thế kỷ XXI, chuyển nền kinh tế của nhân
loại bước vào một thời đại mới - thời đại của kinh tế tri thức. "
* Chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn hiện đại
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy chuyển kinh tế hàng hóa giản đơn
lên kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa phát triển, chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền
sản xuất tập trung quy mô lớn, hiện đại, năng suất cao. Dưới tác động của quy luật
của nền kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản đã kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng
suất lao động, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa khổng lồ, phong phú.
* Thực hiện xã hội hóa sản xuất
Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới
mức điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất cả về
chiều rộng và chiều sâu. Đó là sự phát triển của phân công lao động xã hội; sản xuất
tập trung với quy mô lớn, hợp lý; chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu
sắc; mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, các lĩnh vực, giữa các quốc gia
ngày càng chặt chẽ... làm cho các quá trình sản xuất phân tán được liên kết với nhau
và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống, một quá trình sản xuất xã hội thống nhất.
Đây cũng là một trong những điều kiện kinh tế thuận lợi thúc đẩy nền sản xuất xã
hội phát triển ngày càng cao hơn.
b) Những giới hạn phát triển của chủ nghĩa tư bản
Bên cạnh những mặt tích cực nói trên, CNTB cũng gây ra hậu quả nặng nề cho
loài người. CNTB là thủ phạm của hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu và hàng
trăm cuộc chiến tranh cục bộ khác, là thủ phạm chính của cuộc chạy đau vũ trang và
ô nhiễm môi trường, CNTB cũng phải chịu trách nhiệm chính về nạn nghèo đói, bệnh
tật của hàng trăm triệu con người nhất là ở các nước chậm phát triển ……
Chủ nghĩa tư bản cũng đứng trước những giới hạn mà nó không thể vượt qua.
Những giới hạn này bắt nguồn từ sự mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa
100
cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất.
Mặc dù CNTB ngày nay đã có những điều chỉnh nhất định trong hình thức quan hệ
sỡ hữu, quản lý và phân phối nhưng vẫn không thể khắc phục được mâu thuẫn khách
quan này.
Mâu thuẫn cơ bản nói trên biểu hiện ra thành những mâu thuẫn cụ thể sau đây:

Phân cực giàu


Mâu thuẫn nghèo tăng.
giữa lao
động với tư
bản. Bất công xã
hội tăng.
Tính chất
và trình
độ XHH Làm sâu
Mâu thuẫn giữa các nước thuộc sắc thêm
cao mâu địa với các nước Đế quốc
thuẫn với những
sỡ hữu tư mâu
nhân thuẫn
Giữa 3 trung
TBCN về vốn có
tâm ktế Thế
tư liệu của
giới hàng đầu
sản xuất. Mâu thuẫn với nhau
CNTB.
giữa các
nước Tư bản
với nhau.
Giữa các tập
đoàn Tư bản

Mâu thuẫn giữa CNTB với


CNXH.

Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa tư bản vẫn không tự giải quyết được mâu
thuẫn cơ bản của mình. Vì vậy, chủ nghĩa tư bản càng phát triển, mâu thuẫn cơ bản
của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt và chủ nghĩa tư bản phát triển đến một trình
độ nhất định thì quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị thay bằng một quan hệ sản
xuất khác dựa trên sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất để phù hợp với trình độ xã hội
hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Đó là do yêu cầu của quy luật quan hệ
sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Lý
101
luận chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: chủ nghĩa tư bản không tồn tại vĩnh viễn,
mà phát triển đến một trình độ nhất định sẽ bị thay thế bởi một hình thái kinh tế - xã
hội mới tiến bộ hơn.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Trình bày nguyên nhân hình thành và những đặc điểm kinh tế cơ bản của
độc quyền trong chủ nghĩa tư bản? Những biểu hiện mới về kinh tế của độc quyền
trong chủ nghĩa tư bản ngày nay?
2. Phân tích nguyên nhân hình thành và đặc điểm của độc quyền nhà nước trong
nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa? Vai trò và hạn chế phát triển của chủ nghĩa
tư bản ngày nay?
3. Độc quyền có tác động tích cực đối với nền kinh tế, vậy vì sao cần kiểm soát
độc quyền? Có thể kiểm soát độc quyền thực hiện lợi ích của các tổ chức này trong
quan hệ lợi ích với xã hội bằng những phương thức nào?
4. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thông
qua kinh nghiệm áp dụng thành tựu các cuộc cách mạng công nghiệp của tổ chức độc
quyền?
5. Giải pháp hạn chế có hiệu quả sự chi phối chính sách của các tập đoàn xuyên
quốc gia và đa quốc gia?
6. Tham khảo thêm trong Đề cương chi tiết học phần Kinh tế chính trị - Trường
đại học Kiến trúc TPHCM, 2021 (Phần Phụ lục)

GỢI Ý TÀI LIỆU HỌC TẬP CHO SINH VIÊN


1. Bộ giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho
bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà
Nội, tr124 – tr168, 2021.
2. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa
học Mác - Lênin, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004

102
3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999,
t.25, phần I
4. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005, t.27; t.31.
5. V.I.Lênin, Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, Nxb.
Tiến bộ, Matxcơva.1975.
6. Peter Barnes, Chủ nghĩa tư bản phiên bản 3.0. Nxb trẻ, Hà Nội 2007.
7. John Perkins, Lời thú tội mới của một sát thủ kinh tế. Nxb Thông tấn,
2017.
8. Trang web: www.lyluanchinhtri.vn

103
Chương 5
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
- Mục đích
Chương 5 cung cấp tri thức lý luận cơ bản về:
- Nền kinh tế thị trường mang đặc thù phát triển của Việt Nam.
- Vấn đề quan hệ lợi ích và bảo đảm hài hòa các quan hệ lợi ích trong phát
triển ở Việt Nam.
Thông qua nhận thức một cách khoa học về nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, vấn đề giải quyết các quan hệ lợi ích, sinh viên sẽ hiểu được lý do
khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hình thành
kỹ năng tư duy, vận dụng lý luận nền tảng vào giải quyết các vấn đề kinh tế khi tham
gia các quan hệ kinh tế xã hội, các quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Yêu cầu:
Sau khi học xong chương 5, sinh viên cần nắm được những nội dung cơ bản
sau:
- Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
- Đặc trưng, bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
- Thực trạng và các giải pháp để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Quan hệ lợi ích và bảo đảm hài hòa các quan hệ lợi ích trong phát triển ở Việt
Nam.
B. NỘI DUNG
I - KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường là trình phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ
các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng

104
hoá và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ
phát triển. Về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và bản chất.
Có thể chia kinh tế hàng hoá thành: kinh tế hàng hoá giản đơn và kinh tế thị
trường. Kinh tế thị trường phát triển qua hai giai đoạn: kinh tế thị trường tự do và
kinh tế thị trường hỗn hợp ( còn gọi là kinh tế thị trường hiện đại ). Sự khác biệt cơ
bản giữa hai giai đoạn này là, kinh tế thị trường hỗn hợp có sự điều tiết của nhà nước.

- Xuất hiện sở hữu Nhà nước


Kinh tế thị - Nhà nước điều tiết nền kt
trường hỗn - Xu hướng khu vực hóa,
hợp toàn cầu hóa
Kinh tế - Cơ chế kinh tế hỗn hợp
thị trường
Kinh tế Tự do cạnh tranh, Nhà nước
thị trường chưa điều tiết nền kinh tế
Kinh tế tự do Cơ chế thị trường tự điều
hàng hóa chỉnh

Kinh tế Hàng hóa chưa mang tính


hàng hóa phổ biến, còn tồn tại xen
giản đơn kẽ với kinh tế tự cung tự
cấp.

Kinh tế tự - Tự sản xuất


nhiên - Tự tiêu dùng

Ở Việt Nam: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế
vận hành theo các quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng
bước xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”

105
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo

Kinh tế thị Vận hành theo các Quy luật thị trường
trường định
hướng XHCN Có sự Quản lý của Nhà nước

Mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, dân


chủ, công bằng, văn minh"

Quá trình hình thành nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam
về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Khi bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới (năm 1986), Đảng ta quan niệm kinh tế
hàng hóa có những mặt tích cực cần vận dụng cho xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Trong quá trình đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng ta đã
nhận thức rõ hơn, kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường là phương thức, điều kiện tất yếu
để xây dựng chủ nghĩa xã hội; từ áp dụng cơ chế thị trường đến phát triển kinh tế thị
trường; đưa ra quan niệm và từng bước cụ thể hóa mô hình và thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tổng kết thực tiễn đổi mới kinh tế, Đại hội IX của Đảng khẳng định: Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Đại hội XI của Đảng khẳng định: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Đại hội XII của Đảng có sự phát triển mới bằng việc đưa ra quan niệm: Nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ | |nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy
đủ, đồng bộ | |theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm | | định hướng
xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát | | triển của đất nước. Đó là nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đại hội XIII khẳng định: Đó là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
VII, VIII, IX, X, XI, XII, XIII.

2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu ở Việt Nam
xuất phát từ những lý do cơ bản sau:

106
Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù
hợp với xu hướng phát triển khách quan của Việt Nam trong bối cảnh thế giới
hiện nay.
Trước hết cần phải khẳng định rằng: kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ở
nước ta là một tất yếu khách quan, là sự cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Bởi lẽ, sự tồn tại hay không tồn tại của kinh tế thị trường là do những điều
kiện kinh tế - xã hội khách quan sinh ra nó quy định. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam những điều kiện cho sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng
hóa như: phân công lao động xã hội, các hình thức khác nhau của quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất không hề mất đi thì việc sản xuất và phân phối sản phẩm vẫn phải
được thực hiện thông qua thị trường với những quan hệ giá trị - tiền tệ.
Mặt khác, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
về thực chất là quá trình phát triển “rút ngắn” của lịch sử, chứ không phải là sự “đốt
cháy” giai đoạn. Với ý nghĩa đó, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam chúng ta phải làm một cuộc cách mạng về cách thức tổ chức nền kinh tế - xã
hội, chuyển từ một nền kinh tế lạc hậu mang nặng tính tự cung, tự cấp sang nền kinh
tế thị trường hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, do tính ưu việt của kinh tế thị trường trong thúc đẩy phát triển Việt
Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn trên thế giới và Việt Nam cho thấy kinh tế thị trường là phương thức
phân bổ nguồn lực hiệu quả mà loài người đã đạt được so với các mô hình kinh tế
phi thị trường. Kinh tế thị trường luôn là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển nhanh và có hiệu quả. Dưới tác động của các quy luật thị trường, nền kinh tế
luôn phát triển theo hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, nâng
cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Xét trên góc độ đó, sự
phát triển của kinh tế thị trường không hề mâu thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội.
Do vậy, Việt Nam cần phải phát triển kinh trường để thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển nhanh và có hiệu quả, thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, trong quá trình
107
phát triển kinh tế thị trường cần chú ý tới những thất bại và khuyết tật của thị trường
để có sự can thiệp, điều tiết kịp thời của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn cách làm,
bước đi đúng quy luật kinh tế khách quan để đi đến mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Ba là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện
vọng mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của người
dân Việt Nam.
Trên thế giới có nhiều mô hình kinh tế thị trường, nhưng nếu việc phát triển
mà dẫn tới tình trạng dân không giàu, nước không mạnh, thiếu dân chủ, kém văn
minh thì không quốc gia nào mong muốn. Vì vậy, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là khát vọng của nhân dân Việt Nam. Để
hiện thực hóa khát vọng đó, thực hiện kinh tế thị trường, trong đó hướng tới những
giá trị mới, do đó, là tất yếu khách quan.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phá vỡ tính chất
tự cấp, tự túc, lạc hậu của nền kinh tế; đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát
triển ngành, nghề; tạo việc làm cho người lao động; thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển mạnh mẽ, khuyến khích ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới bảo đảm tăng năng
suất lao động, tăng số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hóa, dịch vụ góp phần
từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân; thúc đẩy tích tụ và tập trung
sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các vùng, miền trong nước và với nước
ngoài; khuyến khích tính năng động, sáng tạo trong các hoạt động kinh tế; tạo cơ
chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực xã hội một cách hợp lý, tiết kiệm... Điều này
phù hợp với khát vọng của người dân Việt Nam.
3. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
a) Về mục tiêu
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hướng tới phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
108
b) Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
c) Về quan hệ quản lý nền kinh tế
Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ quản lý nền
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế
thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý thị trường để kích thích sản
xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực,
khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động và của toàn
thể quần chúng nhân dân.
d) Về quan hệ phân phối
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế nhiều thành
phần với sự đa dạng hóa các loại hình sở hữu và do vậy thích ứng với nó là các loại
hình phân phối khác nhau.
Trong các hình thức phân phối đó, phân phối theo lao động và hiệu quả kinh
tế, phân phối theo phúc lợi là những hình thức phân phối phản ánh định hướng xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
đ) Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực hiện gắn
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa - xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường.
Đây là đặc trưng phản ánh thuộc tính quan trọng mang tính định hướng xã hội
chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, bởi tiến bộ và công bằng xã hội
vừa là điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, vừa là mục
tiêu thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta phải hiện
thực hóa từng bước trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

109
Với những đặc trưng trên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là sự kết hợp những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với bản
chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội để hướng tới một nền kinh tế thị trường hiện đại,
văn minh. Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
đang trong quá trình hình thành và phát triển tất sẽ còn bộc lộ nhiều yếu kém cần
phải khắc phục và hoàn thiện.

Về mục tiêu phát triển KTTT: Phát triển LLSX, xây dựng cơ sở
vật chất cho CNXH; nâng cao đời sống nhân dân

Nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo

Cơ chế TT có sự quản lý của Nhà nước

Nhiều hình thức phân phối thu nhập, phân phối theo lao
động là chủ yếu

Gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, phát triển kinh tế
đi đôi với phát triển văn hóa - xã hội; thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội

II- HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1. Sự cần thiết phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
a) Thể chế và thể chế kinh tế
* Thể chế
Thể chế là một thuật ngữ xuất hiện khá sớm, nhưng chỉ được sử dụng rộng rãi
trong nghiên cứu và hoạch định chính sách sau khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-
1933.
110
Theo cách hiểu chung nhất: Thể chế là những quy định, luật lệ của một chế độ
xã hội buộc mọi người phải tuân theo hay: Thể chế là những quy tắc, luật pháp, bộ
máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm điều chỉnh các hoạt động của con người trong
một chế độ xã hội.
Từ quan niệm trên, thể chế bao gồm ba bộ phận: một là, các luật lệ, quy tắc,
chuẩn mực (kể cả tập quán và chuẩn mực xã hội...) do nhà nước đặt ra hoặc thừa
nhận; hai là, các tổ chức có chức năng xây dựng và bảo đảm thực hiện một loại thể
chế nhất định; ba là, cách thức, biện pháp được vận dụng để thực thi thể chế.
Trong xã hội, thể chế đặt ra để điều chỉnh hành vi của các thành viên trong mỗi
nhóm, mỗi cộng đồng và toàn xã hội. Trên mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội lại có
những thể chế tương ứng như: thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế văn hóa, xã
hội...
* Thể chế kinh tế
Thể chế kinh tế là hệ thống quy tắc, luật pháp, bộ máy quản lý và cơ chế vận
hành nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh
doanh và các quan hệ kinh tế.
Theo đó, các bộ phận cơ bản của thể chế kinh tế bao gồm: hệ thống pháp luật
về kinh tế của nhà nước và các quy tắc xã hội được nhà nước thừa nhận; hệ thống
các chủ thể thực hiện các hoạt động kinh tế; các cơ chế, phương pháp, thủ tục thực
hiện các quy định và vận hành nền kinh tế.
b) Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hệ thống luật pháp,
cơ chế, chính sách, các quy định, quy tắc, chế định, điều tiết hành vi của mọi chủ thể,
mọi quá trình diễn ra trong nền kinh tế nhằm tạo điều kiện cho sự hình thành, vận
hành thông suốt và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Các thành tố cấu thành thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
bao gồm:
Một là, các bộ quy tắc, chế định, luật lệ (luật chơi) ... với tư cách là các chuẩn
mực cho hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
111
Hai là, các chủ thể tham gia kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(người chơi) gồm các doanh nghiệp; các tổ chức kinh tế; các tổ chức chính trị - xã
hội; xã hội nghề nghiệp..., các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế và hoạt động của
các tổ chức này.
Các lực lượng tham gia thể chế kinh tế thị trường gồm:
Nhà nước: là lực lượng quan trọng, không thể thiếu nhằm bảo đảm cho sự ổn
định và phát triển của nền kinh tế thị trường. Nhà nước có các chức năng như: xây
dựng và hoàn thiện thể chế; cung cấp các hàng hóa công cộng; kiểm soát độc quyền;
khắc phục tình trạng thị trường không hoàn hảo; bảo hiểm xã hội; phối hợp các hoạt
động tư nhân và thực hiện phân phối lại của cải xã hội...
Doanh nghiệp, các chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh: là tế bào, chủ thể của
nền kinh tế thị trường mà sự phát triển của nó có ý nghĩa to lớn, ảnh hưởng đến sự
tồn vong, phát triển của nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, các tế bào kinh tế này
vừa phụ thuộc vào thể chế kinh tế, vừa góp phần không nhỏ vào xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế.
Các tổ chức xã hội như: các hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp... các thành
viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức đoàn thể... là chủ thể phi sản xuất
kinh doanh nằm ngoài hệ thống cơ quan nhà nước và tồn tại song song với thể chế
nhà nước. Đây là hệ thống các tổ chức và quan hệ công dân, cộng đồng để hiện thực
hóa và củng cố lợi ích của họ. Các tổ chức này phối hợp với Nhà nước bảo đảm cho
quan hệ giữa Nhà nước và xã hội được cân bằng, ổn định, bền vững; hỗ trợ cho Nhà
nước thông qua việc bổ sung, lấp đầy các khoảng trống thiếu hụt của thể chế nhà
nước; phản biện chính sách; giám sát các hoạt động của thể chế nhà nước; tạo ảnh
hưởng tới các hoạt động của thị trường thông qua việc xác lập và ứng dụng các chuẩn
mực xã hội cho các tác nhân khác của thị trường.
Ba là, các cơ chế vận hành thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (cách chơi) gồm: cơ chế cạnh tranh tự do; cơ chế phân cấp; cơ chế phối hợp;
cơ chế tham gia; cơ chế điều tiết... Đó có thể là những cơ chế kích thích để thực hiện
các chuẩn mực về hành vi của các chủ thể, hoặc có thể là các chế tài xử lý các hành
vi không đúng chuẩn mực.
112
Bốn là, thể chế các thị trường cơ bản (sân chơi). Một nền kinh tế thị trường
hiện đại, hoàn thiện cần có đầy đủ, đồng bộ các yếu tố và các bộ phận của nó như:
thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường các yếu tố sản xuất, thị trường sức lao động,
thị trường tài chính (thị trường vốn, thị trường tiền tệ), thị trường khoa học - công
nghệ... Mặc dù mỗi thị trường có bản chất, đặc điểm và cơ chế vận hành riêng, song
đều có quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau và đều chứa đựng những nguyên tắc hoạt
động và các thành tố chung như: cung cầu, giá cả, số lượng, người mua, người bán...
Thông qua sân chơi đó mà các giao dịch kinh tế được thực hiện.
c) Lý do phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Thứ nhất, do thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn
chưa đồng bộ.
Do mới được hình thành và phát triển, cho nên, việc tiếp tục hoàn thiện thể chế
là yêu cầu mang tính khách quan. Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường
bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ khác nhằm giảm
thiểu các thất bại của thị trường, thực hiện công bằng xã hội. Do đó, cần phải xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để phát huy mặt tích cực, khắc phục
mặt tiêu cực và khuyết tật của nó.
Thứ hai, hệ thống thể chế chưa đầy đủ.
Thể chế kinh tế thị trường là sản phẩm của nhà nước, nhà nước với tư cách là
tác giả của thể chế chính thức nên đương nhiên là nhân tố quyết định số lượng, chất
lượng của thể chế cũng như toàn bộ tiến trình xây dựng và hoàn thiện thể chế. Với
bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, do vậy thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam phải
là thể chế phục vụ lợi ích, vì lợi ích nhân dân. Trình độ và năng lực tổ chức và quản
lý nền kinh tế thị trường của Nhà nước thể hiện chủ yếu ở năng lực xây dựng và
thực thi thể chế. Do vậy, Nhà nước phải xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường để thực hiện mục tiêu của nền kinh tế.
Thứ ba, hệ thống thể chế còn kém hiệu lực, hiệu quả, thiếu các yếu tố thị
trường và các loại thị trường.
113
Trên thực tế, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam còn nhiều khiếm khuyết, hệ thống thể chế vừa chưa đủ mạnh, vừa hiệu quả
thực thi chưa cao. Các yếu tố thị trường, các loại hình thị trường mới ở trình độ sơ
khai. Do đó, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là yêu cầu khách quan.
2. Một số nhận định của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh giá về thành công
và hạn chế trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam đã trải qua gần bốn thập kỷ được khởi đầu từ Đại hội VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam đã đạt được những thành công và hạn chế chủ yếu sau đây:
a) Những thành công
Đánh giá về thành công của quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa nhận định:
- Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng
đầy đủ hơn; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, có
nhiều đặc điểm của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập. Hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn với luật pháp quốc tế, đồng
thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực hiện cam kết hội nhập quốc tế. Chế độ sở hữu,
các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng. Các quyền và
nghĩa vụ về tài sản được thể chế hóa tương đối đầy đủ. Hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế được nâng lên. Việc đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh; kinh tế tập thể được quan tâm đổi mới; kinh
tế tư nhân ngày càng được coi trọng; đội ngũ doanh nhân không ngừng lớn mạnh;
thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt được kết quả tích cực.
- Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn
kết với thị trường khu vực và thế giới. Hầu hết các loại giá hàng hóa, dịch vụ được
114
xác lập theo cơ chế thị trường. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện và thông
thoáng hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm hơn.
- Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về
hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu.
Việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực phù hợp hơn với cơ chế thị trường.
Các cơ chế, chính sách đã chú trọng kết hợp giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người dân tham gia và nhận thức được thành
quả từ quá trình phát triển kinh tế. Phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt động quản
lý của Nhà nước từng bước được đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (Xem Đảng Cộng sản Việt Nam; Các nghị quyết
của Trung ương Đảng 2016 - 2020, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.87-
88).
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc
hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì
ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được
cải thiện.
Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy
đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với
yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị
trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu
vực và thế giới. Nhiều rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ; môi trường đầu tư,
kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá
sôi động. Doanh nghiệp nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả
hơn; kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh
tế; kinh tế tập thể từng bước đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài phát triển nhanh, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta”. (Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.59-60)

115
b) Những hạn chế

Đánh giá của Đảng Cộng sản Việt Nam về một số hạn chế trong thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
thực hiện còn chậm. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn chồng chéo, mâu
thuẫn, thiếu ổn định, nhất quán; còn có biểu hiện lợi ích cục bộ, chưa tạo được bước đột phá
trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa đồng bộ, đầy đủ để bảo đảm thị trường vận
hành thông suốt.
Hai là, hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong
nền kinh tế còn nhiều hạn chế. Việc tiếp cận một số nguồn lực xã hội chưa bình đẳng giữa
các chủ thể kinh tế. Cải cách hành chính còn chậm. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực
sự thông thoáng, mức độ minh bạch, ổn định chưa cao. Quyền tự do kinh doanh chưa được
tôn trọng đầy đủ. Quyền sở hữu tài sản chưa được bảo đảm thực thi nghiêm minh.
Ba là, một số loại thị trường chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng
mắc, kém hiệu quả. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa được xác lập thật sự theo
cơ chế thị trường.
Bốn là, thể chế bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều bất cập. Bất
bình đẳng xã hội, phân hóa giàu - nghèo có xu hướng gia tăng. Xóa đói, giảm nghèo còn
chưa bền vững.
Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới về kinh tế. Cơ chế kiểm soát quyền lực, phân
công, phân cấp còn nhiều bất cập. Quản lý nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; hiệu lực, hiệu quả chưa cao; kỷ luật, kỷ cương chưa
nghiêm. Hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả chưa cao, thiếu chủ động trong phòng ngừa
và xử lý tranh chấp thương mại quốc tế.
Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017, tr.24-26; Đảng Cộng
sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021, t.II, tr.67.

3. Nội dung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Trong quá trình không ngừng hoàn thiện, phát triển, thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã dần trở nên đầy đủ, đồng bộ hơn, song vẫn còn nhiều
điểm hạn chế, cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa. Nội dung chủ yếu của việc hoàn thiện

116
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần tập trung bao
gồm:
a) Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp
- Hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam cần thực hiện các nội dung sau:
Một là, thể chế hóa đầy đủ quyền tài sản (quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền
định đoạt và hưởng lợi từ tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Bảo đảm công
khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và
dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt; bảo đảm hiệu lực thực thi
và bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai, tài nguyên để huy động, phân
bổ và sử dụng hiệu quả đất đai. tài nguyên, khắc phục tình trạng sử dụng đất lãng
phí.
Ba là, hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên
nhiên.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật về đầu tư vốn nhà nước, quản lý và sử dụng có
hiệu quả tài sản công; phân biệt rõ tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản để thực hiện
chính sách xã hội.
Năm là, hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo,
bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Sáu là, hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp dân sự theo
hướng thống nhất, đồng bộ. Phát triển hệ thống đăng ký các loại tài sản, nhất là bất
động sản.
Bảy là, “xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng
cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia”. (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.132.)
- Hoàn thiện thể chế phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp cần thực hiện các nội dung sau:

117
Một là, thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh
nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh
tranh lành mạnh theo pháp luật.
Hai là, hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh, bảo đảm đầy đủ quyền tự do
kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh của các chủ thể kinh tế đã được Hiến pháp quy
định; xóa bỏ các rào cản đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Ba là, hoàn thiện thể chế về cạnh tranh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh; xử lý
dứt điểm tình trạng chồng chéo các quy định về điều kiện kinh doanh.
Bốn là, rà soát, hoàn thiện pháp luật về đấu thầu, đầu tư công và các quy định
pháp luật có liên quan, kiên quyết xóa bỏ các quy định bất hợp lý.
Năm là, hoàn thiện thể chế về các mô hình sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu
quả của các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã, các đơn vị sự nghiệp, các nông lâm
trường.
Sáu là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy các thành phần kinh tế, các khu vực
kinh tế phát triển đồng bộ để góp phần xác lập trình độ phát triển dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; trong đó cần tạo thuận lợi để phát triển khu
vực kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc
đẩy hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện
đại và năng lực quản trị tiên tiến. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển các doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
Bảy là, hoàn thiện thể chế thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài theo hướng
chủ động lựa chọn các dự án đầu tư nước ngoài có chuyển giao công nghệ tiên tiến
và quản trị hiện đại, có cơ sở nghiên cứu và phát triển công nghệ tại Việt Nam, có
cam kết liên kết, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, phù
hợp với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế và các chiến lược, quy hoạch phát triển
kinh tế. Trong quản lý và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế,
cần phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước; đồng thời kiểm tra, giám sát, kiểm
soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực.

118
b) Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị
trường
Một là, hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường.
Các yếu tố thị trường như hàng hóa, giá cả, cạnh tranh, cung cầu... cần phải
được vận hành theo nguyên tắc thể chế kinh tế thị trường. Muốn vậy, hệ thống thể
chế về giá, về thúc đẩy cạnh tranh, về chất lượng hàng hóa, dịch vụ... cần phải được
hoàn thiện để thúc đẩy sự hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường.
Hai là, hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt các
loại thị trường.
Các loại thị trường cơ bản như thị trường hàng hóa, dịch vụ; thị trường vốn; thị
trường công nghệ; thị trường hàng hóa sức lao động... cần phải được hoàn thiện. Đảm
bảo sự vận hành thông suốt, phát huy tác động tích cực, cộng hưởng của các thị
trường đối với sự phát triển của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
c) Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền
vững, tiến bộ và công bằng xã hội và thúc đẩy hội nhập quốc tế
Xây dựng hệ thống thể chế để có thể kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế nhanh
và bền vững với phát triển xã hội bền vững, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, tạo
cơ hội cho mọi thành viên trong xã hội tham gia bình đẳng và thụ hưởng công bằng
thành quả từ quá trình phát triển.
Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng, những nước có nền kinh tế thị trường phát
triển nhanh đều là những nước biết mở cửa, hội nhập. Theo đó, xây dựng và hoàn
thiện thể chế về hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay cần tập trung vào các
nhiệm vụ sau:
Một là, tiếp rà soát, bổ sung, điều chỉnh hệ thống pháp luật và các thể chế liên
quan đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Hai là, thực hiện nhất quán chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong hợp
tác kinh tế quốc tế, không để bị lệ thuộc vào một số ít thị trường. Nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia, tiềm lực của các doanh nghiệp trong nước. Xây dựng và thực
hiện các cơ chế phù hợp với thông lệ quốc tế để phản ứng nhanh nhạy trước các diễn
119
biến bất lợi trên thị trường thế giới, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển của đất nước.
d) Hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và
hệ thống chính trị
Xây dựng hệ thống thể chế đồng bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng,
vai trò xây dựng và thực hiện thể chế kinh tế của Nhà nước, phát huy vai trò làm chủ
của nhân dân trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để phát triển thành công kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam phải phát huy được sức mạnh về trí tuệ, nguồn lực và sự đồng thuận của toàn
dân tộc. Muốn vậy cần phải nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò của Nhà
nước và phát huy vai trò của nhân dân.
III - CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
Sau khi nghiên cứu về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, nội dung tiếp theo sẽ trang bị cho sinh viên những khía cạnh lý luận cơ
bản về quan hệ lợi ích và các phương thức bảo đảm hài hòa các quan hệ lợi ích trong
phát triển ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, góp phần giúp sinh viên hình thành được kỹ
năng ứng xử và bảo vệ lợi ích chính đáng của bản thân khi tham gia các hoạt động
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1. Lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế
a) Lợi ích
Lợi ích không phải là một cái gì trừu tượng và có tính chất chủ quan, mà cơ sở
của lợi ích là nhu cầu khách quan của con người.
Con người có nhiều lọai nhu cầu (vật chất, chính trị, văn hóa), do đó có nhiều
lợi ích (lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hóa, tinh thần).

a) Lợi ích kinh tế


120
* Khái niệm lợi ích kinh tế
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt động
kinh tế của con người.
* Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế

Về mặt bản chất, lợi ích kinh tế sẽ phản


ánh mục đích và động cơ của các quan hệ
giữa các chủ thể trong nền sản xuất xã hội
Bản chất và biểu hiện của
lợi ích Kinh tế
Về mặt biểu hiện của lợi ích kinh tế, ta
thấy rằng gắn với mỗi chủ thể kinh tế
khác nhau là những lợi ích kinh tế cũng
khác nhau

Về mặt bản chất,


Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách quan
của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan
hệ sản xuất quyết định.
Lợi ích bắt nguồn từ nhu cầu và là cái để đáp ứng nhu cầu, nhu cầu làm nảy sinh
lợi ích. Cũng giống như lợi ích của con người nói chung, lợi ích kinh tế gắn liền với
nhu cầu, song đây không phải là nhu cầu bất kỳ, mà là nhu cầu kinh tế (nhu cầu vật
chất). Chỉ có những nhu cầu kinh tế mới làm phát sinh lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế, nó biểu hiện ở mức độ của cải vật chất
mà mỗi con người có được khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Mặt khác,
nó phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình tham gia vào
các hoạt động đó để tạo ra của cải vật chất cho mình. Những quan hệ đó chính là
quan hệ sản xuất trong xã hội. Vì vậy, lợi ích kinh tế còn là hình thức biểu hiện của
quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất quyết định.
Về biểu hiện, gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích tương ứng:
Ví dụ: lợi ích của chủ doanh nghiệp trước hết là lợi nhuận, lợi ích của người lao
động là thu nhập, lợi ích của người cho vay là lợi tức, ….

121
* Vai trò của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế – xã hội
Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của
các chủ thể và hoạt động kinh tế - xã hội.

Vai trò của lợi ích kinh tế


Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát
triển các lợi ích khác.

Lợi ích kinh tế được nhận thức và thực hiện đúng thì nó sẽ là động lực kinh tế
thúc đẩy con người hành động. Do đó, lợi ích kinh tế thể hiện như là một trong những
động lực cơ bản của sự tiến bộ xã hội nói chung, phát triển sản xuất, kinh doanh nói
riêng.
Lợi ích kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố, duy trì các mối
quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất, kinh doanh. Một khi con người (chủ thể)
tham gia vào các hoạt động kinh tế đều nhằm đạt tới những lợi ích kinh tế tương xứng
với kết quả sản xuất, kinh doanh thì mới đảm bảo nâng cao tính ổn định và sự phát
triển của các chủ thể lợi ích và ngược lại.
Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều kiện vật chất cho sự hình thành và
thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích văn hóa của các chủ thể xã hội. Lợi
ích kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế - xã
hội.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nguyên tắc lợi ích vì dân
... Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân
dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo
và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.69.

Điều cần lưu ý là, chỉ khi có sự đồng thuận, thống nhất giữa các lợi ích kinh tế
thì lợi ích kinh tế mới thực hiện được vai trò của mình. Ngược lại, việc theo đuổi
những lợi ích kinh tế không chính đáng, không hợp lý, không hợp pháp sẽ trở thành
trở ngại cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

122
Ở Việt Nam, trong một thời gian rất dài, vì rất nhiều lý do, các lợi ích kinh tế,
nhất là lợi ích cá nhân, không được chú ý đúng mức. Hiện nay, trong điều kiện cơ
chế thị trường, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: coi lợi ích kinh tế là động lực
của các hoạt động kinh tế; phải tôn trọng lợi ích cá nhân chính đáng. Điều này góp
phần tạo động lực cho sự phát triển đất nước ta trong những năm vừa qua.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu Vai trò của lợi ích kinh tế:
Nghiên cứu về vai trò của lợi ích kinh tế góp phần nâng cao nhận thức của bản
thân về khía cạnh lợi ích, đồng thời thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nỗ lực
lao động sáng tạo để có được các lợi ích hợp pháp. Từ đó, đến lượt nó, các lợi ích
kinh tế lại trở thành động lực để cá nhân tiếp tục sáng tạo, nỗ lực hơn nữa. Trong
điều kiện kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế, kinh doanh, hoạt động lao động
là hết sức phong phú, việc hiểu biết một cách sâu sắc về vai trò của lợi ích kinh tế sẽ
giúp cho bản thân vừa có được hành vi thực hiện lợi ích đúng đắn, vừa nỗ lực không
ngừng lao động sáng tạo để làm giàu cho bản thân và cho xã hội một cách đúng đắn.
b) Quan hệ lợi ích kinh tế
* Khái niệm quan hệ lợi ích kinh tế
Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa con người với con
người, giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận hợp
thành nền kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa quốc gia với phần còn
lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối liên hệ với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng của một
giai đoạn phát triển xã hội nhất định.
Như vậy, quan hệ lợi ích kinh tế có biểu hiện hết sức phong phú, quan hệ đó
có thể là các quan hệ theo chiều dọc, giữa một tổ chức kinh tế với một cá nhân trong
tổ chức kinh tế đó. Cũng có thể theo chiều ngang giữa các chủ thể, các cộng đồng
người, giữa các tổ chức, các bộ phận khác nhau hợp thành nền kinh tế. Trong điều
kiện hội nhập ngày nay, quan hệ lợi ích kinh tế còn phải xét tới quan hệ giữa quốc
gia với phần còn lại của thế giới.
* Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế
- Sự thống nhất trong quan hệ lợi ích kinh tế
123
Quan hệ lợi ích kinh tế thống nhất với nhau vì một chủ thể có thể trở thành bộ
phận cấu thành của chủ thể khác. Do đó, lợi ích của chủ thể này được thực hiện thì
lợi ích của chủ thể khác cũng trực tiếp hoặc gián tiếp được thực hiện. Chẳng hạn,
mỗi cá nhân người lao động có lợi ích riêng của mình, đồng thời các cá nhân đó lại
là bộ phận cấu thành tập thể doanh nghiệp và tham gia vào lợi ích tập thể đó. Doanh
nghiệp hoạt động càng có hiệu quả, lợi ích doanh nghiệp càng được đảm bảo thì lợi
ích của người lao động càng được thực hiện tốt: việc làm được đảm bảo, thu nhập
ổn định và được nâng cao... Ngược lại, lợi ích của người lao động càng được thực
hiện tốt thì người lao động càng tích cực làm việc, trách nhiệm với doanh nghiệp
càng cao và từ đó lợi ích của doanh nghiệp càng được thực hiện tốt.
Trong nền kinh tế thị trường, sản lượng đầu ra và các yếu tố đầu vào đều được
thực hiện thông qua thị trường. Điều đó có nghĩa là, mục tiêu của các chủ thể chỉ
được thực hiện trong mối quan hệ và phù hợp với mục tiêu của các chủ thể khác.
Như vậy, khi các chủ thể kinh tế hành động vì mục tiêu chung hoặc các mục tiêu
thống nhất với nhau thì các lợi ích kinh tế của các chủ thể đó thống nhất với nhau.
Chẳng hạn, để thực hiện lợi ích của mình, doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, nâng cao
chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã sản phẩm... thì lợi ích của doanh nghiệp và
lợi ích xã hội thống nhất với nhau. Chủ doanh nghiệp càng thu được nhiều lợi nhuận
thì nền kinh tế, đất nước càng phát triển.
- Sự mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
Các quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn với nhau vì các chủ thể kinh tế có thể
hành động theo những phương thức khác nhau để thực hiện các lợi ích của mình. Sự
khác nhau đó đến mức đối lập thì trở thành mâu thuẫn. Ví dụ, vì lợi ích của mình,
các cá nhân, doanh nghiệp có thể làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế... thì lợi ích của
cá nhân, doanh nghiệp và lợi ích của xã hội mâu thuẫn với nhau. Khi đó, chủ doanh
nghiệp càng thu được nhiều lợi nhuận, lợi ích kinh tế của người tiêu dùng, của xã
hội càng bị tổn hại.
Lợi ích của những chủ thể kinh tế có quan hệ trực tiếp trong việc phân phối kết
quả hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng có thể mâu thuẫn với nhau vì tại một thời
điểm kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh là xác định. Do đó, thu nhập của chủ
124
thể này tăng lên thì thu nhập của chủ thể khác giảm xuống. Chẳng hạn, tiền lương
của người lao động bị bớt xén sẽ làm tăng lợi nhuận của chủ doanh nghiệp; nhà nước
giảm thuế sẽ làm lợi nhuận doanh nghiệp tăng...
Khi có mâu thuẫn thì việc thực hiện lợi ích này có thể sẽ ngăn cản, thậm chí
làm tổn hại đến các lợi ích khác.
Mâu thuẫn về lợi ích kinh tế là cội nguồn của các xung đột xã hội. Do vậy, điều
hòa mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế buộc các chủ thể phải quan tâm và trở thành
chức năng quan trọng của nhà nước nhằm ổn định xã hội, tạo động lực phát triển
kinh tế – xã hội.
Trong các hình thức lợi ích kinh tế, lợi ích cá nhân là cơ sở, nền tảng của các
lợi ích khác, bởi vì: thứ nhất, nhu cầu cơ bản, sống còn trước hết thuộc về các cá
nhân, quyết đinh hoạt động của các cá nhân; thứ hai, thực hiện lợi ích cá nhân là cơ
sở để thực hiện các lợi ích khác vì cá nhân cấu thành nên tập thể, giai cấp, xã hội...
Do đó, lợi ích cá nhân chính đáng cần được pháp luật tôn trọng, bảo vệ.
Gợi ý về sự vận dụng của bản thân:
Việc nghiên cứu về sự thống nhất và mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
giúp bản thân có thể gợi ý vận dụng trên các khía cạnh như:
Thứ nhất, cần đặt lợi ích của cá nhân trong quan hệ với lợi ích của cộng đồng,
tập thể hoặc doanh nghiệp, tổ chức nơi mà cá nhân tham gia hoạt động lao động. Từ
đó thấy được lợi ích chính đáng của mình tương xứng với sự đóng góp của mình đối
với tập thể hoặc tổ chức. Đồng thời biết cách bảo vệ lợi ích chính đáng của mình khi
tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội.
Thứ hai, việc nghiên cứu các mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế giúp cho
các thành viên trong xã hội biết cách để giải quyết đảm bảo hài hòa các lợi ích trong
hoạt động lao động cũng như kinh doanh, quản lý.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế
Các quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị trường chịu tác động của nhiều nhân
tố, cụ thể như sau:
- Thứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Thứ hai, địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội.
125
- Thứ ba, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước.
- Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế.

* Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản trong nền kinh tế thị trường
Trong điều kiện kinh tế thị trường, ở đâu có hoạt động kinh tế, ở đó có quan hệ
lợi ích; trong đó có một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản sau đây:
Một là, quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động.

126
Để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, người lao động và người sử dụng lao động
đã thành lập các tổ chức riêng. Công đoàn là tổ chức quan trọng nhất bảo vệ quyền
lợi của người lao động. Người sử dụng lao động có các nghiệp đoàn, hội nghề
nghiệp... Trong xã hội hiện đại, đấu tranh giữa các bên cần phải tuân thủ các quy
định của pháp luật.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu quan hệ lợi ích giữa người lao động và người
sử dụng lao động:
Việc nghiên cứu mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động với người sử
dụng lao động có ý nghĩa rất quan trọng đối với người lao động cụ thể là:
Thứ nhất, giúp cho bản thân người lao động nhận thức một cách sâu sắc lợi ích
của mình trong khi tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội. Biết đặt lợi ích chính
đáng của mình trong mối quan hệ lợi ích với người sử dụng lao động.
Thứ hai, người lao động biết được cơ sở khoa học của việc bản thân có được
các lợi ích chính đáng. Từ đó biết cách và có phương pháp bảo vệ lợi ích chính đáng
của mình trong mối quan hệ với lợi ích của người sử dụng lao động.
Thứ ba, đối với người sử dụng lao động cũng nhận thức một cách sâu sắc lợi
ích của bản thân trong mối quan hệ với lợi ích của người lao động. Từ đó biết cách
chăm lo lợi ích chính đáng của người lao động cũng đồng thời là chăm lo lợi ích
chính đáng của mình. Việc xâm phạm vào lợi ích của người lao động hoặc chỉ quan
tâm tới lợi ích của mình là kém văn minh.
Hai là, quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động.

127
Những người sử dụng lao động có quan hệ lợi ích kinh tể chặt chẽ với nhau.
Trong cơ chế thị trường, những người sử dụng lao động vừa là đối tác, vừa là đối
thủ của nhau, từ đó tạo ra sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa họ.
Những người sử dụng lao động liên kết và cạnh tranh với nhau trong ứng xử với
người lao động, với những người cho vay vốn, cho thuê đất, với nhà nước, trong
chiếm lĩnh thị trường... Trong cơ chế thị trường, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa
những người sử dụng lao động làm cho họ cạnh tranh với nhau quyết liệt. Hệ quả
tất yếu là các nhà doanh nghiệp có giá trị cá biệt cao hơn giá trị xã hội và các rủi ro
khác sẽ bị thua lỗ, phá sản..., bị loại bỏ khỏi thương trường. Đồng thời, những người
thu được nhiều lợi nhuận sẽ phát triển nhanh chóng.
Những người sử dụng lao động không chỉ cạnh tranh trong cùng ngành, mà còn
cạnh tranh giữa các ngành, bằng việc di chuyển vốn (tư bản) từ ngành này sang
ngành khác. Từ đó hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, tức là những người sử
dụng lao động đã chia nhau lợi nhuận theo vốn đóng góp. Sự thống nhất và mâu
thuẫn về lợi ích kinh tế giữa những người sử dụng lao động biểu hiện tập trung ở lợi
nhuận bình quân mà họ nhận được.
Sự thống nhất về lợi ích kinh tế làm cho những người sử dụng lao động liên kết
chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Quan hệ chặt chẽ về lợi ích kinh tế giữa những
người sử dụng lao động làm cho họ trở thành đội ngũ doanh nhân. Trong cơ chế thị
trường, đội ngũ doanh nhân đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội.
Vì vậy cần tôn vinh và tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ doanh nhân phát triển.
Ba là, quan hệ lợi ích giữa những người lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, nhiều người muốn bán sức lao động. Để thực hiện
lợi ích kinh tế của mình, người lao động không chỉ phải quan hệ với người sử dụng
lao động, mà còn phải quan hệ với nhau. Nếu có nhiều người bán sức lao động,
người lao động phải cạnh tranh với nhau. Hậu quả là tiền lương của người lao động
bị giảm xuống, một bộ phận người lao động bị sa thải. Nếu những người lao động
thống nhất được với nhau, họ có thể thực hiện được các yêu sách của mình (ở một
chừng mực nhất định) đối với giới chủ (những người sử dụng lao động).

128
Để hạn chế mâu thuẫn lợi ích kinh tế, những người lao động có thể thành lập
các tổ chức của mình. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người lao động
trong giải quyết các mối quan hệ là rất cần thiết nhưng phải dựa trên các quy định
của pháp luật.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu mối quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng
lao động và giữa những người lao động:
- Có ý nghĩa quan trọng trong nâng cao nhận thức của bản thân về quan hệ lợi
ích, đồng thời góp phần xây dựng kỹ năng hợp tác, chăm lo lợi ích chính đáng, hợp
pháp của bản thân trong các mối quan hệ lợi ích của người lao động khác khi là
người lao động trong một tổ chức. Khi là người quản lý, sử dụng lao động thì biết
cách hình thành kỹ năng quản lý nhân lực và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi
ích với đối tác cũng như với người lao động. Điều này có ý nghĩa rất lớn tới việc tạo
ra môi trường lao động văn minh và cách thức có được lợi ích chính đáng, hợp pháp
phù hợp với sự phát triển của xu hướng tiến bộ.
Bốn là, quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội.
Giữa lợi ích kinh tế cá nhân, tâp thể và xã hội vừa thống nhất, vừa có mặt mâu
thuẫn với nhau (đặc biệt trong thời kỳ quá độ).
Mặt thống nhất biểu hiện ở chỗ: ba loại lợi ích kinh tế đó cùng đồng thời tồn
tại trong một hệ thống kinh tế của xã hội, trong đó lợi ích kinh tế cá nhân là cơ sở
để thực hiện lợi ích kinh tế tập thể và xã hội. Đồng thời, lợi ích kinh tế tập thể và xã
hội tạo điều kiện thực hiện tốt hơn lợi ích kinh tế cá nhân. Dân giàu thì nước mới
mạnh, mà ngược lại nước có mạnh thì dân mới càng giàu.
(Khi Nhà nước thu được đúng và đủ thuế, tức lợi ích kinh tế của Nhà nước, của
xã hội được đảm bảo, từ đó Nhà nước mới có điều kiện đầu tư xây dựng những cơ
sở hạ tầng kinh tế như đường xá, cầu cống, hệ thống thủy lợi… Điều đó sẽ tạo điều
kiện để các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống của từng cá nhân, đơn
vị, cơ sở được nâng cao hơn, có nghĩa là lợi ích kinh tế của họ được thực hiện tốt
hơn.)
Mặt mâu thuẫn giữa 3 lợi ích kinh tế thể hiện ở sự tách biệt nhất định giữa
chúng, do đó nếu dành quá nhiều cho lợi ích này thì bộ phận lợi ích khác sẽ bị vi
129
phạm. Nhìn chung, mỗi chủ thể thường có xu hướng chỉ theo đuổi lợi ích kinh tế cá
nhân, làm cho lợi ích kinh tế cá nhân nhiều khi đi ngược lại với lợi ích kinh tế tập
thể và xã hội. Đôi khi vấn đề cũng diễn ra theo chiều hướng ngược lại. Ví dụ: trong
trường hợp nhà nước quy định mức thuế quá cao.
Lưu ý: Để phát huy tối đa tính tích cực của người lao động không chỉ chú trọng
đến lợi ích kinh tế của họ mà còn phải phát huy vai trò của các lợi ích khác như lợi
ích chính trị, lợi ích tinh thần. Người lao động giỏi, xuất sắc bên cạnh khen thưởng
bằng vật chất còn có thể được khen thưởng bằng tinh thần. Có như vậy, mới khai
thác được thế mạnh không chỉ của lợi ích kinh tế, mà cả thế mạnh của các lợi ích
khác, và thế mạnh tương hỗ giữa các lợi ích đó trong mỗi con người.
Tóm lại, lợi ích kinh tế, mà trước hết là lợi ích kinh tế cá nhân phản ánh mục
đích và động cơ khách quan của các chủ thể khi tham gia vào cá hoạt động kinh tế
xã hội, nó là động lực kinh tế mạnh mẽ nhất thúc đẩy các chủ thể tham gia tích cực
vào các hoạt động đó. Tuy nhiên, không nên tuyệt đối hóa chúng mà xem nhẹ vai
trò của lợi ích tập thể, lợi ích xã hội: không thể qúa nhấn mạnh lợi ích vật chất mà
coi nhẹ lợi ích chính trị, tư tưởng, vì các lợi ích đó cùng tồn tại trong một hệ thống,
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Ngoài ra, các cá nhân, tổ chức hoạt động trong cùng ngành, cùng lĩnh vực, liên
kết với nhau trong hành động để thực hiện tốt hơn lợi ích riêng (lợi ích cá nhân, tổ
chức) của họ hình thành nên “lợi ích nhóm”. Đó là các hiệp hội ngành nghề, các tổ
chức chính trị xã hội, các nhóm dân cư chung một số lợi ích theo vùng, theo sở
thích... Các cá nhân, tổ chức hoạt động trong các ngành, lĩnh vực khác nhau nhưng
có mối liên hệ với nhau, liên kết với nhau trong hành động để thực hiện tốt hơn lợi
ích riêng của mình hình thành nên “nhóm lợi ích”. Đó là mô hình liên kết giữa 4 nhà
trong nông nghiệp: nhà nông - nhà doanh nghiệp - nhà khoa học - nhà nước; mô
hình liên kết trên thị trường nhà ở: nhà doanh nghiệp kinh doanh bất động sản -
ngân hàng thương mại - người mua nhà...
“Lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” nếu phù hợp với lợi ích quốc gia, không gây
tổn hại đến các lợi ích khác cần được tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện vì đất nước

130
có thêm động lực phát triển; ngược lại, khi chúng mâu thuẫn với lợi ích quốc gia,
làm tổn hại các lợi ích khác thì cần phải ngăn chặn.
Trong thực tế, “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có sự tham gia của công chức,
viên chức hoặc các cơ quan công quyền nhiều khả năng sẽ tác động tiêu cực đến lợi
ích xã hội và các lợi ích kinh tế khác vì quyền lực nhà nước sẽ bị lạm dụng và phục
vụ cho lợi ích của các cá nhân. Điều cần lưu ý, “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích”
tiêu cực thường không lộ diện. Vì vậy, việc chống “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích"
tiêu cực vô cùng khó khăn. Để bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội, việc chống “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” tiêu cực phải được thực hiện
quyết liệt, thường xuyên.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm
với lợi ích xã hội:
Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm với lợi ích xã
hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xác lập hành vi thực hiện lợi ích cá
nhân, lợi ích nhóm tích cực trong mối quan hệ với lợi ích xã hội.
Trên cơ sở đó giúp cho cá nhân biết đặt lợi ích của mình trong mối quan hệ với
lợi ích xã hội, tôn trọng lợi ích xã hội trong khi bảo vệ lợi ích chính đáng của cá
nhân. Bên cạnh đó, nghiên cứu mối quan hệ này còn giúp cho các thành viên trong
xã hội thấy được vai trò của mình trong việc bảo vệ lợi ích chung, tránh bệnh quan
liêu, thờ ơ, lãnh cảm với các lợi ích của xã hội, lợi ích chung. Việc chăm lo lợi ích
cá nhân là đúng đắn song phải biết xác định mối quan hệ đúng đắn lợi ích cá nhân
trong quan hệ với lợi ích xã hội. Việc chỉ chạy theo lợi ích cá nhân mà không chú ý
đúng mức tới lợi ích xã hội sẽ tạo ra sự ích kỷ, hẹp hòi trong mối quan hệ giữa bản
thân và xã hội.
Hơn nữa, việc hiểu về lợi ích nhóm tích cực và nhóm lợi ích tiêu cực sẽ góp
phần nâng cao nhận thức và hành vi của cá nhân không tham gia vào các nhóm lợi
ích tiêu cực để gây ảnh hưởng tới lợi ích của xã hội. Việc thực hiện các hành vi lợi
ích nhóm tiêu cực sẽ bị pháp luật nghiêm trị.
* Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích chủ yếu
Thứ nhất, thực hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường.
131
Các quan hệ lợi ích, các chủ thể lợi ích kinh tế mặc dù đa dạng, song để có thể
thực hiện được lợi ích của mình, trong bối cảnh kinh tế thị trường cần phải căn cứ
vào các nguyên tắc của thị trường. Đây là phương thức phổ biến trong mọi nền kinh
tế thị trường, bao gồm cả kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Thứ hai, thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của nhà nước và vai trò
của các tổ chức xã hội.
Khi thực hiện lợi ích kinh tế, nếu chỉ căn cứ theo nguyên tắc thị trường, tất yếu
sẽ dẫn đến những hạn chế về mặt xã hội. Do đó, để khắc phục những hạn chế của
phương thức thực hiện theo nguyên tắc thị trường, phương thức thực hiện lợi ích
dựa trên chính sách của nhà nước và vai trò của các tổ chức xã hội cần phải được
chú ý nhằm tạo sự bình đẳng và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Thứ ba, xác lập rõ quyền hạn và nghĩa vụ của các chủ thể kinh tế trong xã
hội, chống lợi ích nhóm, tham nhũng, lãng phí trong khu vực nhà nước.
Thực hiện xác lập rõ quyền hạn, nghĩa vụ của các chủ thể kinh tế ở Việt Nam
chính là quá trình Nhà nước thay mặt xã hội định ra những thể chế, những nguyên
tắc, những thiết chế, chế tài và quy định để chỉ rõ, cụ thể, dễ nhận biết các quyền
hạn và nghĩa vụ cơ bản của các chủ thể kinh tế trong xã hội.
Thuộc nội dung đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là việc xây dựng và ban
hành hệ thống pháp luật trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Vai trò của Nhà nước trong bảo đảm hài hòa các quan hệ lợi ích

132
Hài hòa các lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế của
các chủ thể, trong đó mặt mâu thuẫn được hạn chế, tránh được va chạm, xung đột;
mặt thống nhất được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển cả chiều rộng và chiều
sâu, từ đó tạo động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế, góp phần thực hiện tốt hơn
các lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích xã hội.
Để có sự hài hòa giữa các lợi ích kinh tế chỉ có kinh tế thị trường là không đủ
vì các lợi ích kinh tế luôn vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau, mà cần có sự
can thiệp của nhà nước. Bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế là sự can thiệp của nhà
nước vào các quan hệ lợi ích kinh tế bằng các công cụ giáo dục, pháp luật, hành
chính, kinh tế... nhằm gia tăng thu nhập cho các chủ thể kinh tế; hạn chế mâu thuẫn,
tăng cường sự thống nhất; xử lý kịp thời khi có xung đột.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về ngăn ngừa
những quan hệ lợi ích tiêu cực
Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy
phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, góp phần xóa
bỏ cơ chế “xin - cho”, “duyệt - cấp”; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, “lợi
ích nhóm”, “sân sau”, trục lợi trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công, cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài
chính, ngân hàng, thuế, hải quan, phân bổ, quản lý và sử dụng biên chế...
Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.41.

* Ý nghĩa của việc nghiên cứu


Việc nghiên cứu về vai trò của Nhà nước trong bảo đảm hài hòa các quan hệ lợi
ích kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam góp phần nâng cao
nhận thức của bản thân về vấn đề phát huy vai trò của Nhà nước trong bảo đảm hài
hòa các quan hệ lợi ích trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trên cơ sở thấy rõ được vai trò của Nhà nước sẽ góp phần khẳng định
niềm tin của bản thân vào Nhà nước và chế độ xã hội trong việc bảo đảm lợi ích cho
các thành viên trong xã hội. Đồng thời, giúp cho cá nhân xây dựng tư duy và tầm
nhìn về trách nhiệm công dân cũng như trách nhiệm của người lao động khi được
tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước thì cần phải có nghĩa vụ bảo đảm hài
133
hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội để thúc đẩy sự phát triển của xã hội và chăm lo
lợi ích chính đáng của các thành viên trong xã hội.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Trình bày lý luận cơ bản về kinh tế thị trường (khái niệm kinh tế hàng hóa,
kinh tế thị trường; điều kiện hình thành kinh tế thị trường; logic phát triển kinh tế thị
trường; các trình độ phát triển kinh tế thị trường)
2. Phân tích tính tất yếu khách quan của việc lựa chọn mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
3. Phân tích những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam?
4. Trình bày những nhiệm vụ chủ yếu để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
5. Có quan điểm cho rằng: “Kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa
là không thể tương dung được với nhau”? Hãy thảo luận và cho biết ý kiến về quan
điểm nêu trên?
6. Bản chất và những đặc trưng chủ yếu của lợi ích kinh tế? Vai trò của lợi ích
kinh tế?
7. Các quan hệ lợi ích kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế thị trường? Sự thống
nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản?
8. Những nội dung và biện pháp đảm bảo hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế trong
phát triển ở Việt Nam?
9. Hãy thảo luận ý kiến cho rằng: ở đâu có hoạt động kinh tế ở đó có quan hệ
lợi ích? Chỉ ra sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế chủ yếu
trong nền kinh tế thị trường? Đề xuất ý kiến đảm bảo hài hòa quan hệ lợi ích giữa
cá nhân - doanh nghiệp - xã hội?
10. Tham khảo thêm những câu hỏi trong Đề cương chi tiết học phần Kinh tế
chính trị - Trường đại học Kiến trúc TPHCM, 2021 (Phần Phụ lục)

134
GỢI Ý TÀI LIỆU HỌC TẬP CHO SINH VIÊN
1. Bộ giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho
bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà
Nội, tr169 – tr223, 2021.
2. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lí luận -
thực tiễn qua ba mươi năm đổi mới (1986-2016), Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 03/6/2017
về “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
4. Tham khảo các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6, 7, 8, 9, 10, 11,
12, 13, của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
5. Nguyễn Văn Hậu, Nguyễn Thị Như Hà (Đồng chủ biên): Hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện Việt Nam là thành viên của
WTO. Nxb CTQG, H. 2009;
6. Phạm Văn Dũng (Chủ biên): Tính phổ biến và tính đặc thù trong phát triển
kinh tế thị trường. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, H. 2009.
7. Đặng Phong, Tư duy kinh tế Việt Nam 1975 - 1989. Nxb Tri Thức, Hà Nội,
2015.
8. PAUL S.ADLER, Nền kinh tế 99% cách thức Chủ nghĩa xã hội vượt qua các
cuộc khủng hoảng của Chủ nghĩa tư bản, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội,
2020
9. Trang web: www.lyluanchinhtri.vn

135
Chương 6
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU


- Mục đích
Chương 6 sẽ cung cấp hệ thống tri thức về công nghiệp hóa. hiện đại hóa ở Việt
Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (trong đó đề cập đến
những nội dung cơ bản như: khái quát lịch sử các cuộc cách mạng công nghiệp; khái
quát về công nghiệp hóa và các mô hình công nghiệp hóa tiêu biểu; tính tất yếu và
nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, những quan điểm
và giải pháp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong bối cảnh
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư)
Cùng với đó, Chương 6 cung cấp một cách có hệ thống tri thức về hội nhập
kinh tế quốc tế, tác động của hội nhập kinh tế quốc tế và việc xây dựng nền kinh tế
Việt Nam độc lập, tự chủ trong hội nhập.
- Yêu cầu
Từ kiến thức đã học, sinh viên hiểu rõ những quan điểm và giải pháp thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.
Từ kiến thức đã học, sinh viên hiểu được cách thức giải quyết các quan hệ lợi
ích giữa Việt Nam với các quốc gia trên thế giới trong hội nhập kinh tế quốc tế.
B. NỘI DUNG
I - CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
1. Khái quát về cách mạng công nghiệp và công nghiệp hóa
a) Khái quát về cách mạng công nghiệp
* Khái niệm về cách mạng công nghiệp
Cách mạng công nghiệp là những bước phát triển nhảy vọt về chất trình độ của
tư liệu lao động trên cơ sở những phát minh đột phá về kỹ thuật và công nghệ trong
quá trình phát triển của nhân loại kéo theo sự thay đổi căn bản về phân công lao

136
động xã hội cũng như tạo bước phát triển năng suất lao động cao hơn hẳn nhờ áp
dụng một cách phổ biến những tính năng mới trong kỹ thuật - công nghệ đó vào đời
sống xã hội.
* Khái quát lịch sử các cuộc cách mạng công nghiệp
Về mặt lịch sử, cho đến nay, loài người đã trải qua ba cuộc cách mạng công
nghiệp và đang bắt đầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cụ thể:
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất khởi phát từ nước Anh, bắt đầu từ
giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX.
Nội dung cơ bản của Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là chuyển từ lao
động thủ công thành lao động sử dụng máy móc, thực hiện cơ giới hóa sản xuất
bằng việc sử dụng năng lượng nước và hơi nước.
Những phát minh quan trọng tạo tiền đề cho cuộc cách mạng này là: Phát minh
máy móc trong ngành dệt như thoi bay của John Kay (1733), xe kéo sợi Jenny của
Jame Hargreaves (1764), máy dệt của Edmund Cartwright (1785)... làm cho ngành
công nghiệp dệt phát triển mạnh mẽ. Phát minh máy động lực, đặc biệt là máy hơi
nước của James Watt (1784) là mốc mở đầu quá trình cơ giới hóa sản xuất. Các phát
minh trong công nghiệp luyện kim của Henry Cort (1784), Henry Bessemer (1885)
về lò luyện gang, công nghệ luyện sắt là những bước tiến lớn đáp ứng nhu cầu chế
tạo máy móc. Trong ngành giao thông vận tải, sự ra đời và phát triển của đầu máy
xe lửa chạy bằng hơi nước (do Stephenson phát minh năm 1814), tàu thủy (do Robert
Fulton phát minh năm 1807)... đã tạo điều kiện cho ngành giao thông vận tải phát
triển mạnh mẽ.
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra từ nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX.
Nội dung của Cách mạng công nghiệp lần thứ hai được thể hiện ở việc sử dụng
năng lượng điện và động cơ điện, để tạo ra các dây chuyền sản xuất có tính chuyên
môn hóa cao, chuyển nền sản xuất cơ khí sang nền sản xuất điện - cơ khí và sang
giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất.
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai là sự tiếp nối Cách mạng công nghiệp lần
thứ nhất, với những phát minh về công nghệ và sản phẩm mới được ra đời và phổ
137
biến như điện, xăng dầu, động cơ đốt trong. Kỹ thuật phun khí nóng, công nghệ
luyện thép Bessemer trong sản xuất sắt thép đã làm tăng nhanh sản lượng, giảm chi
phí và giá thành sản xuất. Ngành sản xuất giấy phát triển kéo theo sự phát triển của
ngành in ấn và phát hành sách, báo. Ngành chế tạo ôtô, điện thoại, sản phẩm cao su
cũng được phát triển nhanh. Sự ra đời của những phương pháp quản lý sản xuất tiên
tiến của H. Fayol và F.W. Taylor như sản xuất theo dây chuyền, phân công lao động
chuyên môn hóa được ứng dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp đã thúc đẩy nâng
cao năng suất lao động. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai cũng đã tạo ra
những tiến bộ vượt bậc trong giao thông vận tải và thông tin liên lạc.
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu từ khoảng những năm đầu thập
niên 60 của thế kỷ XX đến cuối thế kỷ XX.
Đặc trưng cơ bản của cuộc cách mạng này là sự xuất hiện công nghệ thông
tin, tự động hóa sản xuất.
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra khi có các tiến bộ về hạ tầng điện
tử, máy tính và số hóa vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu
máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và internet
(thập niên 1990). Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba đã đưa tới những tiến bộ
kỹ thuật, công nghệ nổi bật trong giai đoạn này là: hệ thống mạng, máy tính cá nhân,
thiết bị điện tử sử dụng công nghệ số và robot công nghiệp.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được đề cập lần đầu tiên tại Hội chợ triển
lãm công nghệ Hannover (Cộng hòa liên bang Đức) năm 2011 và được Chính phủ
Đức đưa vào “Kế hoạch hành động chiến lược công nghệ cao” năm 2012.
Gần đây, tại Việt Nam cũng như trên nhiều diễn đàn kinh tế thế giới, việc sử
dụng thuật ngữ “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” với hàm ý có một sự thay đổi
về chất trong lực lượng sản xuất trong nền kinh tế thế giới. Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư được hình thành trên cơ sở cuộc cách mạng số, gắn với sự phát triển và
phổ biến của internet kết nối vạn vật với nhau (Internet of Things IoT). Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư có biểu hiện đặc trưng là sự xuất hiện các công nghệ mới có
tính đột phá về chất như trí tuệ nhân tạo, big data, in 3D...

138
Tóm tắt đặc trưng của các cuộc cách mạng công nghiệp
Cách mạng công Cách mạng công Cách mạng công Cách mạng công
nghiệp lần thứ nhất nghiệp lần thứ hai nghiệp lần thứ ba nghiệp lần thứ tư

Sử dụng năng lượng Sử dụng năng Sử dụng công nghệ Liên kết giữa thế
nước và hơi nước, để lượng điện và thông tin và máy giới thực và ảo, để
cơ khí hóa sản xuất động cơ điện, để tính, để tự động thực hiện công việc
tạo ra dây truyền hóa sản xuất thông minh và hiệu
sản xuất hàng loạt quả nhất
Nguồn: Nghiên cứu của Sogeti VINT, 2016

Như vậy, mỗi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện có những nội dung cốt lõi,
phát triển nhảy vọt về tư liệu lao động. Sự phát triển của tư liệu lao động đã thúc đẩy
sự phát triển của văn minh nhân loại. Theo nghĩa đó, vai trò của cách mạng công
nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy phát triển.
* Vai trò của cách mạng công nghiệp đối với phát triển
Vai trò của các cuộc cách mạng công nghiệp đối với phát triển có thể được khái
quát như sau:
Một là, thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất.
Các cuộc cách mạng công nghiệp có những tác động vô cùng to lớn đến sự phát
triển lực lượng sản xuất của các quốc gia, đồng thời, tác động mạnh mẽ tới quá trình
điều chỉnh cấu trúc và vai trò của các nhân tố trong lực lượng sản xuất xã hội.
Về tư liệu lao động, từ chỗ máy móc ra đời thay thế cho lao động thủ công cho
đến sự ra đời của máy tính điện tử, chuyển nền sản xuất sang giai đoạn tự động hóa,
tài sản cố định thường xuyên được đổi mới, quá trình tập trung hóa sản xuất được
đẩy nhanh.
Cách mạng công nghiệp có vai trò to lớn trong phát triển nguồn nhân lực, nó
vừa đặt ra những đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao nhưng mặt
khác lại tạo điều kiện để phát triển nguồn nhân lực.
Về đối tượng lao động, cách mạng công nghiệp đã đưa sản xuất của con người
vượt quá những giới hạn về tài nguyên thiên nhiên cũng như sự phụ thuộc của sản
xuất vào các nguồn năng lượng truyền thống. Hiện nay, các yếu tố đầu vào của sản

139
xuất sẽ thay đổi căn bản. Những đột phá của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
sẽ làm mất đi những lợi thế sản xuất truyền thống, đặc biệt là từ các nước đang phát
triển như nhân công rẻ, dồi dào hay sở hữu nhiều tài nguyên.
Thành tựu của các cuộc cách mạng công nghiệp tạo điều kiện để các nước tiên
tiến tiếp tục đi xa hơn trong phát triển khoa học - công nghệ và ứng dụng các thành
tựu khoa học - công nghệ tiên tiến vào sản xuất và đời sống. Đồng thời, tạo cơ hội
cho các nước đang và kém phát triển tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học
công nghệ, tận dụng lợi thế của những nước đi sau; thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa để bứt phá, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển với các nước đi trước.
Cách mạng công nghiệp tạo cơ hội cho các nước phát triển nhiều ngành kinh tế
và những ngành mới thông qua mở rộng ứng dụng những thành tựu về công nghệ
thông tin, công nghệ số, công nghệ điều khiển, công nghệ sinh học. Cách mạng công
nghiệp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế mới theo hướng
hiện đại, hội nhập quốc tế và hiệu quả cao. Các thành tựu mới của khoa học - công
nghệ được ứng dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng
và quản lý, quản trị...
Từ góc độ tiêu dùng, người dân được hưởng lợi nhờ tiếp cận được với nhiều
sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng cao với chi phí thấp hơn. Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư mới chỉ bắt đầu ở một vài nước, nhưng Cách mạng công nghiệp
lần thứ ba lại đang tác động mạnh hơn ở đại đa số các quốc gia trên thế giới. Một số
nước lạc hậu hiện chưa thực hiện xong các nội dung của Cách mạng công nghiệp
lần thứ nhất và thứ hai. “Hiện 17% thế giới chưa được hưởng thành quả từ Cách
mạng công nghiệp lần thứ hai, khi gần 1,3 tỷ người chưa được tiếp cận điện lưới.
Tình trạng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba cũng vậy, khi có một nửa
dân số thế giới, tức là 4 tỷ người, phần lớn ở các nước đang phát triển, được sử dụng
internet” (Klaus Schwab: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2018, tr.22-23). Hiện nay, các nước đang và kém phát triển, đều phải
nỗ lực thực hiện công nghiệp hóa, xây dựng nền kinh tế công nghiệp.
Đối với Việt Nam, khi chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng chủ trương tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, và từ cuối thế kỷ XX
140
đến nay, quá trình này được xác định đầy đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là
một quá trình kinh tế, kỹ thuật - công nghệ và kinh tế - xã hội toàn diện, sâu rộng
nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu
lên trình độ công nghiệp với các trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại, văn
minh.
Trên cơ sở tổng kết công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đầu thập kỷ 90
của thế kỷ XX đến nay và bám sát bối cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đại hội XIII của
Đảng nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền
tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”. Phát triển mạnh mẽ các
yếu tố của lực lượng sản xuất.
Hai là, thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Các cuộc cách mạng công nghiệp tạo sự phát triển nhảy vọt về chất trong lực
lượng sản xuất và sự phát triển này tất yếu dẫn đến quá trình điều chỉnh, phát triển
và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội và quản trị phát triển.
Trước hết là sự biến đổi về sở hữu tư liệu sản xuất. Ngay từ cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất, nền sản xuất lớn ra đời thay thế dần cho sản xuất nhỏ,
khép kín, phân tán, “tập trung các tư liệu sản xuất và tích tụ tài sản vào trong tay
một số ít người”. Quá trình tích tụ và tập trung tư bản dưới tác động của quy luật giá
trị thặng dư và cạnh tranh gay gắt đã đẻ ra những xí nghiệp có quy mô lớn. Dưới tác
động của cách mạng khoa học công nghệ, sở hữu tư nhân không còn đủ khả năng
đáp ứng nhu cầu của sản xuất và yêu cầu cải tiến kỹ thuật. Tư bản buộc phải liên kết
lại dưới hình thức công ty cổ phần, là loại hình công ty ra đời vào cuối thế kỷ XIX
và sự phát triển của loại hình công ty này cho phép mở rộng chủ thể sở hữu tư bản
ra các thành phần khác của xã hội. Sự hình thành nhiều ngành kinh tế mới đòi hỏi
phải có quy mô lớn ngay từ đầu mới có thể ứng dụng được kỹ thuật công nghệ mới.
Thực tế trên buộc các nước phải điều chỉnh chế độ sở hữu, thực hiện đa dạng hóa sở
hữu, lấy sở hữu tư nhân làm nòng cốt đồng thời phát huy sức mạnh và ưu thế tối đa
của sở hữu nhà nước và khu vực kinh tế nhà nước.

141
Cách mạng công nghiệp cũng đặt ra những yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường, nhằm bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; hoàn
thiện các thể chế về giá, cạnh tranh, kiểm soát độc quyền cũng như hệ thống luật
pháp; lấy quy luật giá trị và quan hệ cung - cầu để xác định giá cả; coi cạnh tranh là
động lực phát triển; thực hiện tự do kinh doanh, mở cửa và hướng tới tự do hóa. Thể
chế kinh tế thị trường tương thích với nhau sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập
kinh tế quốc tế, trao đổi thành tựu khoa học công nghệ giữa các nước.
Trong lĩnh vực phân phối, cách mạng công nghiệp mà nhất là Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, làm giảm chi phí sản
xuất, nâng cao thu nhập và cải thiện cuộc sống của nhân dân, tạo điều kiện cho mọi
người dân đều có thể khởi nghiệp và làm giàu. Tuy nhiên, nó lại có tác động tiêu
cực đến việc làm và thu nhập. Trong những thập niên gần đây bất bình đẳng về thu
nhập đã có xu hướng tăng nhanh. Theo Báo cáo Thịnh vượng Toàn cầu năm 2015
của Credit Suisse, một nửa của tất cả các tài sản trên toàn thế giới hiện đang được
nắm giữ bởi 1% những người giàu nhất. Trong khi tổng cộng một nửa dân số thế
giới có thu nhập thấp sở hữu ít hơn 1% của cải toàn cầu. Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư có khả năng làm khuếch đại thêm xu hướng này đã xuất hiện nhiều tỷ phú
đôla chỉ ở độ tuổi trên 20 dưới 30, đó là điều rất khác biệt so với giai đoạn trước
đây. Lợi suất của kỹ năng, đặc biệt là các kỹ năng thúc đẩy hay bổ trợ cho quá trình
số hóa, tự động hóa (bằng người máy hay bằng phần mềm - tức là trí tuệ nhân tạo
có khả năng tự học) cũng tăng mạnh. Trong khi đó, các kỹ năng truyền thống đã
từng có vai trò quan trọng trong giai đoạn trước đang bị người máy thay thế nên có
lợi suất giảm mạnh. Nhóm lao động chịu tác động mạnh nhất là lao động giản đơn
chiếm tuyệt đại bộ phận người lao động. Do họ ít kỹ năng nên rất dễ bị thay thế bởi
người máy. Chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa một bên là lao động ít kỹ năng
hay có kỹ năng dễ bị người máy thay thế, và bên kia là những người có ý tưởng hay
kỹ năng bổ trợ cho quá trình tự động hóa và số hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh.
Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng bất bình đẳng trên
toàn cầu.

142
Ở những nước tư bản phát triển nhất đang diễn ra một mâu thuẫn mang tính
nền tảng của kinh tế thị trường: dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, cung gia tăng mạnh mẽ trong khi cầu không theo kịp do nhiều người lao động
bị thay thế bởi quá trình tự động hóa nên không có thu nhập. Phổ thu nhập ở nhiều
nước phát triển mang tính lưỡng cực với sự phân hóa rất rõ nét, tạo nên một khoảng
trống lớn ở giữa. Đây cũng là mâu thuẫn đã được C.Mác chỉ ra giữa sự phát triển
lực lượng sản xuất ở mức cao và phương thức phân phối của chủ nghĩa tư bản.
Trên cơ sở đó, các nước đều phải điều chỉnh chính sách phân phối thu nhập và
an sinh xã hội nhằm giải quyết những mâu thuẫn cố hữu của hệ thống phân phối của
nền kinh tế thị trường.
Ba là, thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển.
Ngay từ buổi đầu của cách mạng công nghiệp, sự hình thành nền sản xuất lớn
đã tác động mạnh mẽ tới sự thay đổi phương thức quản trị doanh nghiệp gắn với phân
công và chuyên môn hóa trong xưởng thợ. Ngày nay, cách mạng công nghiệp đòi hỏi
cần phải có những sự thay đổi lớn cả về phương thức quản lý của nhà nước và phương
thức quản trị trong doanh nghiệp.
Về cơ chế quản lý của nhà nước: Từ đầu thế kỷ XX, tích tụ và tập trung sản
xuất cùng với tác động của cách mạng khoa học công nghệ buộc nhà nước tư sản
phải can thiệp trực tiếp vào quá trình kinh tế, điều chỉnh kinh tế. Sự ra đời của chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vào giữa thế kỷ XX cho thấy nhà nước ngày càng
có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Các cuộc cách mạng công
nghiệp không chỉ làm tăng vai trò của nhà nước mà còn làm thay đổi phương thức,
cơ chế, chính sách tác động của nhà nước.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng sẽ tạo sức ép lên chính các cơ quan
quyền lực công. Kỷ nguyên số với các công nghệ mới, nền tảng điều hành mới liên
tục thay đổi cho phép người dân được tham gia rộng rãi hơn vào các hoạt động hoạch
định chính sách, đồng thời, các cơ quan công quyền có thể dựa trên hạ tầng công
nghệ số để tối ưu hóa hệ thống giám sát và điều hành xã hội theo kiểu chính phủ điện
tử, đô thị thông minh... Bộ máy hành chính nhà nước vì vậy buộc phải cải tổ theo
hướng minh bạch và hiệu quả.
143
Các nhà hoạch định chính sách và pháp luật cũng phải đổi mới tư duy, trau dồi
năng lực, hợp tác chặt chẽ với khu vực doanh nghiệp và các lực lượng xã hội để có
thể thích nghi và ứng biến linh hoạt với các thay đổi mới có thể điều tiết được các
thay đổi trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, các thách thức trước tác động của làn sóng
công nghệ mới, công nghệ cao đối với vấn đề an ninh quốc gia và khu vực rất cần
giải pháp mạnh mẽ để nỗ lực ứng phó, đặc biệt đối với các tội phạm công nghệ cao,
vũ khí sinh học, vũ khí tự động... có tầm ảnh hưởng xuyên quốc gia.
Về quản trị doanh nghiệp: cách mạng công nghiệp có tác động mạnh mẽ đến
phương thức quản trị trong các doanh nghiệp.
Sự thay đổi của công nghệ sản xuất dựa trên ứng dụng công nghệ cao vào sản
xuất làm cho các doanh nghiệp sẽ phải thay đổi cách thức thiết kế, tiếp thị và cung
ứng hàng hóa dịch vụ theo cách mới, bắt nhịp với không gian số. Xu thế của cách
mạng công nghệ là kết hợp cả cung lẫn cầu nhằm làm đổ vỡ mô hình kinh doanh
truyền thống, cung và cầu phải gắn kết với nhau.
Các doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược kinh doanh xuất phát từ nguồn
lực, trong đó, nguồn lực chủ yếu là trí tuệ. Các nhà quản trị cần có một nhận thức sâu
sắc, phải hiểu mình là ai và đánh giá đúng nguồn lực của mình. Từ đó, nhìn nhận
những vấn đề này trong định hướng chiến lược và hoạch định kế hoạch phát triển
một cách hiệu quả nhất nhằm đem lại lợi ích tối đa cho doanh nghiệp.
Để thích nghi với làn sóng Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các doanh nghiệp
phải nhận thức và hiểu được Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tác động, điểm
mạnh gì có thể tận dụng.
Phương thức quản trị doanh nghiệp cũng thay đổi khi áp dụng các phần mềm và
quy trình trong quản lý, tiến hành số hóa các quá trình quản trị, quá trình kinh doanh,
bán hàng nhằm tiết giảm chi phí quản lý điều hành.
Làn sóng công nghệ mới giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất, đổi
mới sáng tạo các sản phẩm dịch vụ, giảm tiêu hao nguyên nhiên liệu, chi phí sản xuất
- vận hành, đồng thời có khả năng đáp ứng chính xác hơn nhu cầu của khách hàng,
tạo giá trị gia tăng bằng chất lượng chứ không phải cạnh tranh bằng tài chính, bằng

144
khoáng sản hay bằng lao động phổ thông và gia công, đồng thời có thể sử dụng công
nghệ để tối ưu việc sử dụng các nguồn lực bên ngoài.
Các xu thế công nghệ cũng đang mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp, đặc
biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể khởi nghiệp sáng tạo, có cơ hội thâm nhập thị
trường ngách với nhiều sản phẩm, dịch vụ công nghệ mang tính đột phá. Doanh
nghiệp thành công nào cũng phải trải qua bốn giai đoạn: khởi nghiệp, tồn tại, phát
triển và thành danh, duy trì, phát triển và trường tồn Trong đó, giai đoạn thứ nhất là
bước rất khó khăn. Theo số liệu thống kê năm 2015, tại Việt Nam có tới 80% doanh
nghiệp khởi nghiệp không thành công. Để có thể đi được đến giai đoạn trường tồn,
các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến và tái cấu trúc, thậm chí có những giai
đoạn phải tái lập lại công ty.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện diện ngày càng nhiều trong cuộc sống
và kinh doanh. Quản trị nhân sự là một trong 4 thành phần chủ chốt (con người, quy
trình, cơ cấu tổ chức và công nghệ) sẽ thay đổi rất nhiều, từ những thay đổi trong
nhận thức về vai trò của nhân tố con người đến tổ chức, sử dụng, tạo môi trường,
động lực để khuyến khích vai trò sáng tạo của con người.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng
đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn với doanh nghiệp. Làn sóng đổi mới công
nghệ tốc độ cao song hành với hội nhập và tự do hóa thương mại toàn cầu sẽ tạo sức
ép cạnh tranh rất lớn, buộc các doanh nghiệp phải rà soát lại mô hình kinh doanh; cải
thiện phương thức cung cấp sản phẩm, dịch vụ; không ngừng đổi mới sáng tạo để
thích ứng với các thay đổi liên tục của thị trường. Các doanh nghiệp cần chuẩn bị sẵn
tinh thần và tâm thế, không ngần ngại trước các thách thức, chủ động dự báo để chuẩn
bị các biện pháp ứng phó kịp thời.
Tóm lại, để tận dụng tốt cơ hội mới và vượt qua thách thức lớn trong việc thực
hiện Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chính phủ phải thay đổi phương thức quản
lý theo hướng chính phủ kiến tạo, chính phủ hành động với các công cụ thông tin
hiện đại, nhằm tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện ý tưởng mới, tính sáng
tạo của người dân và doanh nghiệp. Trong khi đó, doanh nghiệp phải nâng cao năng

145
lực quản trị, trình độ công nghệ, chất lượng sản phẩm và hạ thấp chi phí để thích ứng
với điều kiện kinh doanh mới.

Tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư


Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có ảnh hưởng lớn lao và đa chiều đối với
kinh tế toàn cầu đến mức khó có thể tách bạch một tác động cụ thể nào. Quả thực,
tất cả các biến số vĩ mô ta có thể tính đến như GDP, đầu tư, tiêu dùng, việc làm,
thương mại, lạm phát... đều chịu ảnh hưởng.
Nguồn: Klaus Schwab: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Sđd, tr.56.

b) Công nghiệp hóa và các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới
* Công nghiệp hóa
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi nền sản xuất xã hội từ dựa trên lao
động thủ công là chính sang nền sản xuất xã hội dựa chủ yếu trên lao động bằng máy
móc nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
* Các mô hình công nghiệp hóa tiêu biểu trên thế giới
- Mô hình công nghiệp hóa cổ điển.

Diễn ra
Giữa TK
XVIII

Mâu thuẫn gay Bắt đầu từ


gắt giữa tư bản CNH cổ điển Công nghiệp
và lao động (Anh) nhẹ (dệt)

Bóc lột
người lao động

Công nghiệp hóa của các nước tư bản cổ điển, tiêu biểu là nước Anh được thực
hiện gắn liền với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, diễn ra vào giữa thế kỷ
XVIII. Công nghiệp hóa ở nước Anh được bắt đầu từ ngành công nghiệp nhẹ, trực
tiếp là ngành công nghiệp dệt - ngành đòi hỏi vốn ít, thu lợi nhuận nhanh. Sự phát
146
triển của ngành công nghiệp dệt ở Anh đã kéo theo sự phát triển của ngành trồng
bông và chăn nuôi cừu, để đáp ứng nguyên liệu cho ngành công nghiệp dệt. Ngành
công nghiệp nhẹ và nông nghiệp phát triển, đòi hỏi phải cung cấp nhiều máy móc,
thiết bị cho sản xuất, từ đó đã tạo tiền đề cho sự phát triển của ngành công nghiệp
nặng, mà trực tiếp là ngành cơ khí chế tạo máy.
Nguồn vốn để công nghiệp hóa ở các nước tư bản cổ điển chủ yếu do khai thác
lao động làm thuê, làm phá sản những người sản xuất nhỏ trong nông nghiệp, đồng
thời gắn liền với việc xâm chiếm và cướp bóc thuộc địa. Quá trình này đã dẫn đến
mâu thuẫn gay gắt giữa tư bản và lao động, làm bùng nổ những cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân chống lại nhà tư bản ở các nước tư bản lúc bấy giờ, tạo tiền đề
cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Quá trình công nghiệp hóa ở các nước tư bản cổ
điển cũng dẫn đến mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau và mâu thuẫn giữa các
nước tư bản với các nước thuộc địa, quá trình xâm chiếm và cướp bóc thuộc địa đã
dẫn đến phong trào đấu tranh giành độc lập của các nước thuộc địa, thoát khỏi sự
thống trị và áp bức của các nước tư bản.
Quá trình công nghiệp hóa của các nước tư bản cổ điển diễn ra trong một thời
gian tương đối dài, trung bình 60 - 80 năm.
- Mô hình công nghiệp hóa kiểu Liên Xô.

Diễn ra từ
đầu những
năm 1930

Giai đoạn đầu đã Ưu tiên phát


xây dựng được CNH kiểu triển CN nặng
CSVC to lớn Liên Xô

Giai đoạn sau


khủng hoảng trì
trệ

Mô hình này bắt đầu từ đầu những năm 1930 ở Liên Xô sau đó được áp dụng
cho các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sau năm 1945 và một số nước đang phát
147
triển đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam vào những năm 1960.
Con đường công nghiệp hóa theo mô hình của Liên Xô thường là ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng. Để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi nhà nước phải huy động
những nguồn lực to lớn trong xã hội, từ đó phân bổ, đầu tư cho ngành công nghiệp
nặng, trực tiếp là ngành cơ khí, chế tạo máy, thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, mệnh lệnh. Công nghiệp hóa với mục tiêu và cơ chế nêu trên đã cho phép trong
một thời gian ngắn các nước theo mô hình Liên Xô đã xây dựng được hệ thống cơ sở
vật chất - kỹ thuật to lớn, hoàn thành được mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, khi tiến bộ
khoa học - kỹ thuật ngày càng phát triển, hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật to lớn ở
trình độ cơ khí hóa đã không thích ứng được, làm kìm hãm việc ứng dụng những tiến
bộ kỹ thuật mới; đồng thời cơ chế kế hoạch hóa tập trung mệnh lệnh được duy trì quá
lâu đã dẫn đến sự trì trệ. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng
hoảng và sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
- Mô hình công nghiệp hóa của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới
(NICs).

Công nghiệp
hóa rút ngắn

Thu hút nguồn Đẩy mạnh xuất


CNH của Nhật khẩu, thay thế
lực bên ngoài để Bản và Nics
CNH, HĐH nhập khẩu

Rút kinh nghiệm từ quá trình công nghiệp hóa của các nước tư bản cổ điển và
các nước xã hội chủ nghĩa, Nhật Bản và các nước công nghiệp hóa mới (NICs) như
Hàn Quốc, Singapore đã tiến hành công nghiệp hóa theo con đường mới. Chiến lược
công nghiệp hóa của các nước này thực chất là chiến lược công nghiệp hóa rút ngắn,
đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu, thông
qua việc tận dụng lợi thế về khoa học - công nghệ của các nước đi trước, cùng với
việc phát huy nguồn lực và lợi thế trong nước, thu hút nguồn lực từ bên ngoài để tiến
hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Kết quả là trong một khoảng thời gian
148
ngắn, trung bình khoảng 20 - 30 năm đã thực hiện thành công quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Từ thực tiễn của Nhật Bản và các nước công nghiệp hóa mới
(NICs) cho thấy, trong thời đại ngày nay các nước đi sau nếu biết khai thác tốt lợi thế
trong nước và tận dụng, tiếp thu những nguồn lực, đặc biệt là những thành tựu khoa
học - công nghệ mới, hiện đại của các nước tiên tiến, thì sẽ giúp cho quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả. Việc tiếp thu và phát
triển khoa học - công nghệ mới, hiện đại của các nước kém phát triển có thể thực
hiện bằng các con đường cơ bản như:
Một là, thông qua đầu tư nghiên cứu, chế tạo và hoàn thiện dần dần trình độ
công nghệ từ trình độ thấp đến trình độ cao, con đường này thường diễn ra trong thời
gian dài, và tổn thất nhiều trong quá trình thử nghiệm.
Hai là, tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại từ nước phát triển hơn, con
đường này một mặt đòi hỏi phải có nhiều vốn và ngoại tệ, mặt khác luôn luôn chịu
sự phụ thuộc vào nước ngoài.
Ba là, xây dựng chiến lược phát triển khoa học - công nghệ nhiều tầng, kết hợp
cả công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại. Kết hợp vừa nghiên cứu chế tạo
vừa tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển hơn, con đường vừa cơ
bản, lâu dài và vững chắc; vừa đảm bảo đi tắt và bám đuổi theo các nước phát triển
hơn.
Nhật Bản và các nước công nghiệp hóa mới (NICs) đã sử dụng con đường
thứ ba để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kết hợp với những chính sách
phát triển đúng đắn và hiệu quả, từ đó đã thực hiện thành công quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; trong một khoảng thời gian ngắn đã gia nhập vào nhóm các nước
công nghiệp phát triển. Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Nhật Bản và
các nước công nghiệp hóa mới (NICs) là gợi ý tốt cho Việt Nam trong quá trình tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.
2. Tính tất yếu khách quan và nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở Việt Nam
a) Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) là khái niệm ghép do Đảng ta nêu
149
ra tại hội nghị trung ương lần thứ VII, năm 1994, được phát biểu như sau:
“CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. (Đảng cộng sản việt
Nam: Văn kiện hội nghị TƯ lần thứ 7, khóa VII, Nxb CTQG, HN. 1994, tr 65)
Quan niệm nêu trên cho thấy:
- Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta phải kết hợp chặt chẽ hai
nội dung công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong quá trình phát triển.
- Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ đơn thuần phát triển công
nghiệp mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và
toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
- Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ tuần tự trải qua các bước
cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, mà còn sử dụng kết hợp thủ công truyền thống
với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang
tính quyết định.
Lý do khách quan Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
bao gồm:
Một là, lý luận và thực tiễn cho thấy, công nghiệp hóa là quy luật phổ biến của
sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội mà mọi quốc gia đều trải qua dù ở các quốc
gia phát triển sớm hay các quốc gia đi sau.
Công nghiệp hóa là quá trình tạo ra động lực mạnh mẽ cho nền kinh tế, là đòn
bẩy quan trọng tạo sự phát triển đột biến trong các lĩnh vực hoạt động của con người.
Thông qua công nghiệp hóa, các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân được
trang bị những tư liệu sản xuất, kỹ thuật - công nghệ ngày càng hiện đại, từ đó nâng
cao năng suất lao động, tạo ra nhiều của cải vật chất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
và đa dạng của con người.
Mỗi phương thức sản xuất có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Cơ sở
vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất là hệ thống các yếu tố vật chất của
150
lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật mà lực lượng lao động xã
hội sử dụng để tiến hành quá trình lao động sản xuất. Cơ sở vật chất - kỹ thuật được
xem là tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hiện đại của một nền kinh tế, nó cũng là điều
kiện quyết định để xã hội có thể đạt được một năng suất lao động nào đó. Bất kỳ quốc
gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải thực hiện nhiệm vụ hàng đầu là xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội phải là nền kinh tế hiện đại: có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao
dựa trên trình độ khoa học và công nghệ hiện đại.

Cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH là nền công nghiệp lớn hiện đại,
có cơ cấu kinh tế hợp lý, trình độ xã hội hóa cao, dựa trên nền tảng
của khoa học – công nghệ tiên tiến, được hình thành có kế hoạch trên
toàn bộ nền kinh tế quốc dân

Cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNTB là nền đại công


nghiệp và công nghiệp hiện đại, có năng suất lao động cao
hơn phương thức phong kiến.

Các phương thức sản xuất trước


CNTB đều dựa trên cơ sở vật chất – kỹ
thuật với công cụ lao động ở trình độ
thủ công, lạc hậu năng suất thấp.

Hai là, đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội như nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực
hiện từ đầu thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi bước tiến của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó từng bước nâng dần trình độ văn minh
của xã hội.

151
Phát triển và hoàn thiện cơ sở đó trên những thành
tựu mới nhất của cách mạng khoa học – công nghệ

được phát triển trên cơ sở vật chất


Phương thức sản xuất CNXH phải
với cơ cấu kinh tế quốc dân cân đối, hợp lý cho
phép khai thác tối đa các nguồn lực trong nước,

– kỹ thuật cao hơn CNTB


tham gia tích cực và có hiệu quả vào phân công lao
động và hợp tác quốc tế.

Nó kế thừa những thành quả về cơ sở vật chất –


kỹ thuật mà nhân loại đã đạt được trong CNTB.

Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, trước hết là nhằm xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế dựa trên những thành tựu khoa học -
công nghệ tiên tiến, hiện đại. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là một bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời
củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho nền sản xuất xã
hội không ngừng phát triển, đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của người dân không
ngừng được nâng cao.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển lực lượng sản xuất, nhằm khai thác,
phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước, nâng cao dần
tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Đồng thời, thúc đẩy sự liên kết, hợp tác giữa các
ngành, các vùng trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tham gia vào quá
trình phân công lao động và hợp tác quốc tế ngày càng hiệu quả.
Quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho khối liên minh công
nhân, nông dân và trí thức ngày càng được tăng cường, củng cố; đồng thời nâng cao
vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện cũng sẽ tăng cường tiềm lực cho
an ninh, quốc phòng, góp phần nâng cao sức mạnh của an ninh, quốc phòng, đồng
thời tạo điều kiện vật chất và tinh thần để xây dựng nền văn hóa mới và con người
mới xã hội chủ nghĩa.
152
Như vậy, có thể khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhân tố quyết định
sự thắng lợi của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Nhân dân ta đã lựa
chọn.

CƠ SỞ VẬT
CNH, HĐH
CHẤT – KỸ
NỀN KINH
TẠO RA THUẬT
TẾ QUỐC
CỦA CNXH
DÂN

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và Việt
Nam đang tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
b) Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Một là, tạo lập những điều kiện để có thể thực hiện chuyển đổi từ nền sản
xuất - xã hội lạc hậu sang nền sản xuất - xã hội tiến bộ.
Muốn thực hiện chuyển đổi trình độ phát triển, đòi hỏi phải dựa trên những tiền
đề trong nước, quốc tế. Do đó, nội dung quan trọng hàng đầu để thực hiện thành
công công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phải tạo lập các điều kiện cần thiết trên tất cả
lĩnh vực của đời sống sản xuất - xã hội. Các điều kiện chủ yếu cần có như: tư duy
phát triển, thể chế và nguồn lực; môi trường quốc tế thuận lợi và trình độ văn minh
của xã hội, ý thức xây dựng xã hội văn minh của người dân. Tuy vậy, không có
nghĩa là chờ chuẩn bị đầy đủ mới thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà phải
thực hiện các nhiệm vụ trên một cách đồng thời.
Hai là, thực hiện các nhiệm vụ để chuyển đổi nền sản xuất - xã hội lạc hậu
sang nền sản xuất - xã hội hiện đại. Cụ thể là:

153
- Đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ mới,
hiện đại.
Đối với những nước còn kém phát triển, trình độ kỹ thuật - công nghệ của sản
xuất còn lạc hậu, thì nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện cơ khí hóa nhằm thay thế lao
động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, để nâng cao năng suất lao động.
Tuy nhiên, trong những ngành, nghề và lĩnh vực của nền kinh tế khi điều kiện và
khả năng cho phép, vẫn có thể ứng dụng ngay những thành tựu khoa học - công nghệ
mới hiện đại để rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển.
Để phát triển lực lượng sản xuất, từng bước xây dựng nền kinh tế có tính độc
lập, tự chủ cao, quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi xây dựng
và phát triển ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất (sản xuất máy cái), vì đây
là ngành có vị trí quan trọng quyết định cho sự phát triển của các ngành khác.
Quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi phải ứng dụng những
thành tựu khoa học - công nghệ mới, hiện đại vào tất cả các ngành, các vùng, các
lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, cần phải có sự lựa chọn cho phù hợp với khả
năng, trình độ và điều kiện thực tiễn trong từng giai đoạn; không chủ quan, nóng vội
cũng như không trì hoãn, cản trở việc ứng dụng khoa học - công nghệ mới, hiện đại
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đòi hỏi phải phát triển các ngành
công nghiệp bao gồm: công nghiệp nhẹ, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp
thực phẩm... theo hướng hiện đại, dựa trên cơ sở những thành tựu khoa học - công
nghệ mới. Đồng thời, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn, ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp
để nâng cao năng suất lao động, xây dựng nền nông nghiệp xanh, sạch, từng bước
nâng cao đời sống người nông dân, gắn với xây dựng nông thôn mới.
Ứng dụng khoa học - công nghệ mới, hiện đại đòi hỏi phải được tiến hành đồng
bộ, cân đối ở tất cả các ngành, các vùng và các lĩnh vực của nền kinh tế, thì mới đem
lại hiệu quả cao.
Việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ ở nước ta hiện nay phải gắn
liền với phát triển kinh tế tri thức.
154
Năm 1995, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra định nghĩa:
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri
thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng
cao chất lượng cuộc sống.
Với định nghĩa trên, có thể hiểu kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của
lực lượng sản xuất xã hội, theo đó trong quá trình lao động của từng người lao động
và toàn bộ lao động xã hội, trong từng sản phẩm và trong tổng sản phẩm quốc dân
thì hàm lượng lao động cơ bắp, hao phí lao động cơ bắp giảm đi vô cùng nhiều trong
khi hàm lượng tri thức, hao phí lao động trí óc tăng lên vô cùng lớn.
Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát
triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới của khoa học -
công nghệ. Đó có thể là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao (như công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học...); nhưng cũng có thể là những ngành kinh tế
truyền thống (như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được ứng dụng khoa học -
công nghệ cao.
Qua thực tế phát triển, có thể khái quát những đặc điểm chủ yếu của kinh tế tri
thức như sau:
+ Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là
vốn quý nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng - phát
triển kinh tế.
+ Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế
có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng; trong đó các ngành kinh tế dựa vào tri thức,
dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học - công nghệ ngày càng tăng và chiếm
đa số.
+ Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong
mọi lĩnh vực và thiết lập được các mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước,
nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng
nhất của nền kinh tế.

155
+ Trong nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa;
sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và
phát triển con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
+ Trong nền kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề toàn
cầu hóa kinh tế, có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng tới nhiều mặt của đời
sống xã hội trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.
Những đặc điểm trên đòi hỏi trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta, nhất thiết phải tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và
phổ biến hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới; công nghiệp hóa,
hiện đại hóa phải gắn với kinh tế tri thức, phát triển mạnh các ngành và sản phẩm
kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử dụng nguồn
vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại; kết hợp
quá trình phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; từng bước phát triển kinh tế tri thức,
để vừa phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững vừa rút ngắn được khoảng cách
với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả.

Là mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng


CƠ CẤU và các thành phần kinh tế. Các bộ phận này có
KINH TẾ quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau, được
thể hiện ở tỷ trọng giá trị của chúng trong tổng
thể.

Về nội dung, cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân có thể được xem xét dưới
góc độ: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu
kỹ thuật – công nghệ, cơ cấu lao động …… Trong hệ thống cơ cấu kinh tế, cơ cấu
ngành kinh tế (công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ) giữ vị trí quan trọng nhất, vì nó
phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế và kết quả của quá trình thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng hiện đại,
hiệu quả chính là quá trình tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ
trọng của ngành nông nghiệp trong GDP.
Cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và hiệu quả phải đáp ứng được các yêu cầu sau
156
+ Khai thác, phân bổ và phát huy hiệu quả các nguồn lực trong nước, thu hút
có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế - xã hội.
+ Cho phép ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ mới, hiện đại vào
các ngành, các vùng và các lĩnh vực của nền kinh tế.
+ Phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế và yêu cầu của toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế.
Hệ thống cơ cấu kinh tế tồn tại trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất,
không tách rời, vì vậy nó đều chịu sự chi phổi và tác động của một thể chế, cơ chế
và chính sách chung. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng và thành phần kinh tế
theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả không thể tách rời sự phát triển các lĩnh vực
khác của nền kinh tế như công nghệ thông tin, năng lượng, viễn thông, giao thông
vận tải... Đồng thời, phải được đặt trong chiến lược phát triển tổng thể của nền kinh
tế, có tính đến các mối quan hệ trong và ngoài nước; quan hệ giữa Trung ương với
địa phương; quan hệ giữa phát triển kinh tế với đảm bảo an ninh, quốc phòng; quan
hệ giữa tích lũy với tiêu dùng.
- Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân ở nước ta là
nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì vậy phải củng cố và tăng cường hoàn thiện quan
hệ sản xuất; trong đó thực hiện thường xuyên nhiệm vụ hoàn thiện quan hệ sở hữu,
quan hệ phân phối, quan hệ quản lý, phân bổ nguồn lực theo hướng tạo động lực cho
phát triển, giải phóng sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân.
- Việt Nam sẵn sàng thích ứng với tác động của bối cảnh cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang làm thay đổi căn bản nền sản
xuất của thế giới, đồng thời tác động đến các quốc gia trên nhiều phương diện khác
nhau. Chính phủ nhiều nước đã đề ra những chính sách để nắm bắt cơ hội phát triển
cũng như ứng phó với những thách thức của cuộc cách mạng này. Các nước trong
khu vực đều đã chính thức ban hành chiến lược Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
với những lộ trình cụ thể.
157
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với xu thế công nghệ là tất yếu mà Việt Nam
phải hướng đến để bắt kịp các nước phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư cũng mang đến nhiều thách thức cho các tổ chức và doanh
nghiệp Việt Nam, đặc biệt về vấn đề hạ tầng công nghệ, an toàn và an ninh thông
tin cũng như thích ứng và tận dụng cơ hội mà làn sóng công nghệ lần thứ tư mang
lại. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ chính trị về một số chủ trương,
chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã chỉ ra:
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều
thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng
mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đất nước.
Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một
số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư với mục tiêu tổng quát là: Tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hoá đất
nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa
học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng
cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ
môi trường sinh thái.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục khẳng định: “Cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột
phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân
tộc”. Trong điều kiện thực tiễn Việt Nam hiện nay, phương hướng thích ứng với
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cần chú trọng vào các nội dung sau:
Một là, tích hợp những tác động tích cực của các cuộc cách mạng công nghiệp
trong phát triển của Việt Nam. Để chủ động ứng phó với các tác động của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức, Việt Nam cần
nỗ lực thực hiện mục tiêu trở thành “nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, thực
hiện cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và
sức cạnh tranh của nền kinh tế; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và mục
158
tiêu lâu dài, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường; thực hiện công bằng xã
hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.
Hai là, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng kết hợp có hiệu quả
giữa phát triển theo chiều rộng với phát triển theo chiều sâu, chú trọng phát triển
theo chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở ứng
dụng thành tựu tiên tiến của khoa học công nghệ để nâng cao năng suất lao động.
Ba là, tập trung cao độ các nguồn nhân lực, trí lực, vật lực cần thiết để phát
triển khoa học công nghệ, ứng dụng thành tựu của cách mạng công nghiệp để đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
- Huy động ở mức cao nhất các nguồn lực của Nhà nước, của toàn dân và nguồn
lực quốc tế phục vụ cho nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu của cách
mạng công nghiệp, đặc biệt là Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và đời sống.
- Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
được những yêu cầu của cách mạng công nghiệp trên cơ sở đổi mới, nâng cao trình
độ đào tạo, sử dụng nhân lực, nhân tài với các giải pháp cơ bản: (1) Đổi mới mạnh
mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng chất
lượng, hiệu quả và coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học; (2) Quy
hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực; (3) Tăng cường đầu tư cho
phát triển nguồn nhân lực, mà trực tiếp nhất là đầu tư cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo,
coi giáo dục là nền tảng và là phương thức tạo ra nguồn lực phát triển - “Tri thức đẻ
ra tri thức, tri thức là thứ lấy không bao giờ cạn” (A. Toffler); (4) Tổ chức nghiên
cứu khoa học và đào tạo phải thay đổi cơ bản phương thức hoạt động, nâng cao cơ
sở, trang thiết bị nghiên cứu, gắn kết giữa nghiên cứu, đào tạo với doanh nghiệp theo
cơ chế hợp tác cùng có lợi, đưa nhanh các tiến bộ khoa học vào sản xuất và kinh
doanh.

159
- Xác định các lĩnh vực công nghệ cần ưu tiên phát triển nhanh để tập trung
nguồn lực cần thiết cho nghiên cứu và triển khai có hiệu quả. Trong đó cần chú trọng
lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ mạng xã hội, di động, phân tích và điện
toán đám mây (SMAC) đang là xu hướng mới mẻ của thế giới và Việt Nam có cơ
hội phát triển lĩnh vực này với lợi thế có hạ tầng Internet tương đối tốt, giá rẻ trong
khi thiết bị di động có cấu hình cao. Mục tiêu đến năm 2030, khoa học và công nghệ
Việt Nam có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới.
- Việt Nam cũng cần xác định các lĩnh vực, các ngành công nghiệp mũi nhọn
có thế mạnh để tập trung đầu tư phát triển, tạo lợi thế cạnh tranh trên thế giới. Phát
triển có chọn lọc một số ngành, lĩnh vực công nghiệp hiện đại và có khả năng tạo
tác động lan tỏa trong nền kinh tế. Tiếp tục xây dựng và phát triển các ngành công
nghiệp theo hướng hiện đại, tăng hàm lượng khoa học - công nghệ và tỷ trọng giá
trị nội địa trong sản phẩm, tập trung vào những ngành có tính nền tảng, có lợi thế so
sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững; nâng cao tính
độc lập, tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản
xuất và phân phối toàn cầu. Đó là:
+ Phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, công
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí điện tử,
công nghiệp quốc phòng - an ninh.
+ Phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp
phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, từng bước
phát triển công nghệ sinh học, phát triển công nghiệp môi trường, v.v..
+ Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức
và công nghệ cao, như: du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông
tin.
+ Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, như: tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, logistics và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất, kinh doanh khác.
+ Đẩy mạnh việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội để tập trung
đầu tư hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tương đối đồng bộ với
một số công trình hiện đại. Ưu tiên đầu tư cho các lĩnh vực trọng tâm là: Hạ tầng
160
giao thông đồng bộ, có trọng điểm, kết nối giữa các trung tâm kinh tế lớn và giữa
các trục giao thông đầu mối. Hạ tầng ngành điện, bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản
xuất và sinh hoạt, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Hạ tầng thủy lợi, đáp
ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Hạ tầng đô thị lớn, được xây dựng hiện đại, đồng bộ, từng bước đáp ứng chuẩn mực
đô thị xanh của một nước công nghiệp.
+ Xây dựng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, phù hợp với điều kiện
và khả năng thực tế để tạo điều kiện, cơ sở cho việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ
mới.
Bốn là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đầu tư, nghiên cứu, ứng dụng kỹ thuật
công nghệ mới. Tranh thủ tận dụng sự hỗ trợ từ các nước phát triển để phát triển
khoa học công nghệ, nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi phải thay đổi cách tiếp cận với định
hướng và chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Cần chú trọng ưu
tiên thu hút FDI vào công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường, giáo dục
và đào tạo, nghiên cứu và phát triển.
Việt Nam cũng cần phải có chính sách ưu đãi đối với những dự án FDI thâm
dụng lao động như dệt may, da giày; tận dụng thế mạnh từ sự khác biệt của từng địa
phương thu hút FDI vào dự án khai thác tiềm năng, phát triển sản phẩm và dịch vụ,
du lịch của địa phương và vùng kinh tế; đồng thời tận dụng điều kiện địa lý để kết
nối với các doanh nghiệp FDI ở địa phương phụ cận để thu hút FDI vào công nghệ,
dịch vụ hiện đại.
Cần coi trọng hơn vốn đầu tư từ các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới trong
các ngành và lĩnh vực công nghệ cao, xây dựng các trung tâm nghiên cứu và phát
triển (R&D) lớn để tạo ra sản phẩm mới có giá trị gia tăng và chất lượng cao, có sức
cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Năm là, đổi mới chính sách nhà nước về phát triển khoa học công nghệ:
- Thực sự coi trọng phát triển khoa học công nghệ, bảo đảm phát triển khoa học
công nghệ là quốc sách hàng đầu.

161
- Đổi mới căn bản về tổ chức, hoạt động và nâng cao hiệu quả của các cơ quan
nghiên cứu khoa học công nghệ quốc gia. Khuyến khích các hoạt động liên kết
nghiên cứu, triển khai khoa học công nghệ với các nước, các tổ chức khoa học uy
tín trên thế giới.
- Đổi mới quản lý nhà nước về nghiên cứu, triển khai khoa học công nghệ: đổi
mới đầu tư, đổi mới công tác đấu thầu, nghiệm thu đề tài khoa học. Khắc phục tình
trạng đầu tư dàn trải, bệnh hình thức trong đấu thầu, nghiệm thu công trình nghiên
cứu khoa học dẫn đến hậu quả nghiên cứu khoa học không đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn, gây lãng phí cho ngân sách ưu tiên tài trợ cho các tổ chức, cá nhân có
thành tích khoa học công nghệ xuất sắc.
- Coi trọng chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài. Có chính sách đãi ngộ thỏa
đáng đối với người tài, coi hiền tài là nguyên khí quốc gia, là điều kiện tiên quyết
để phát triển đất nước trong thời đại khoa học công nghệ mới.
Sáu là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
- Cơ bản hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập
quốc tế.
- Xây dựng môi trường cạnh tranh về khoa học công nghệ, phát triển thị trường
khoa học công nghệ tạo điều kiện cho quá trình trao đổi thành quả nghiên cứu khoa
học công nghệ và chuyển giao công nghệ.
- Hoàn thiện luật pháp và cơ chế quản lý của Nhà nước, đặc biệt là luật pháp
có liên quan đến phát triển khoa học công nghệ như Luật Sở hữu trí tuệ. Giải quyết
kịp thời và hiệu quả các vấn đề pháp lý nảy sinh từ cách mạng công nghiệp và phát
triển khoa học công nghệ.
Bảy là, nâng cao nhận thức về vai trò, tác động của cách mạng công nghiệp của
các cơ quan hoạch định chính sách cũng như khu vực doanh nghiệp. Trong một báo
cáo gần đây của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) mang tên “Sự sẵn sàng cho nền
sản xuất tương lai”, Việt Nam nằm trong nhóm các nước chưa có sự sẵn sàng cho
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Các yếu tố về đổi mới sáng tạo công nghệ và
giáo dục - chuẩn bị cho Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đều đang ở mức thấp. Cụ
162
thể, Việt Nam đứng thứ 90/100 về công nghệ và đổi mới (Technology &
Innovation); xếp thứ 92/100 về công nghệ nền (Technology Platform); xếp thứ
77/100 về năng lực sáng tạo; xếp hạng 70/100 về nguồn lực con người. Tổng cộng,
Việt Nam chỉ đạt 4,9/10 điểm về mức độ sẵn sàng với Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư.
Tám là, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ứng phó với các tác động mặt trái
của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Các tác động này chủ yếu phát sinh do kết
cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật yếu kém, nguồn lực trong nước có hạn, chất lượng
nguồn nhân lực thấp, năng lực khoa học công nghệ quốc gia còn yếu kém, các doanh
nghiệp chưa đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài làm hạn chế việc
tiếp thu và ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ mới.
- Tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể dẫn đến sự phát triển
không đều giữa các ngành, các vùng; tạo ra sự phân hóa về mức độ phát triển, thu
nhập, làm gia tăng bất bình đẳng xã hội.
- Cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn có thể gây ra những tác động tiêu cực
về môi trường, văn hóa, xã hội. Do vậy, phải hết sức chú trọng đến việc giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam phải hướng đến khắc phục
những xu hướng đang làm mờ nhạt bản sắc văn hóa dân tộc; đấu tranh với những tư
tưởng sai trái, phản động và lối sống thực dụng.
- Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ thúc đẩy nhanh chóng quá trình hội
nhập kinh tế và đi liền với nó là sự bất ổn về an ninh quốc phòng do sự xâm nhập
của nạn khủng bố, tội phạm quốc tế. Do đó cần nêu cao tinh thần cảnh giác, giữ
vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự xã hội, bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc
gia.
- Một trong những tác động mặt trái cần hết sức chú ý là Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư có thể dẫn đến nguy cơ thiếu việc làm. Đối với nước ta, theo dự
báo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), công nghệ tự động hóa có thể thay thế
47% việc làm (Theo dự báo của OECD là 9%). Trong tương lai gần, nguồn lao động
dồi dào, giá rẻ sẽ không còn là yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh tức là sẽ phải đối
mặt với sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Theo Niên giám thống kê, năm 2020 tỷ lệ thất
163
nghiệp khu vực thành thị là 3,89%. Năm 2020, tỷ trọng lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp là 33,1% trong khi tỷ trọng lao động ngành công nghiệp là 30,8%, ngành
dịch vụ là 36,1%. Thị trường lao động đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng
giảm dần sử dụng lao động giản đơn sang sử dụng nhóm lao động có kỹ năng và
trình độ cao. Hiện tại, 46 triệu lao động chưa qua đào tạo đang đứng trước nguy cơ
không có cơ hội tham gia làm những công việc có mức thu nhập cao. Bên cạnh đó,
một số ngành, lĩnh vực chủ lực của thời kỳ kỷ nguyên số như bưu chính - viễn thông
và công nghệ thông tin có thể rơi vào tình trạng thiếu nguồn nhân lực chất lượng
cao... Do vậy, nếu không có tầm nhìn sớm, nhìn xa thì sẽ có nguy cơ hàng loạt người
lao động phải ra khỏi dây chuyền sản xuất, không có việc làm và hậu quả của nó là
rất lớn không chỉ về kinh tế, mà còn về chính trị, văn hóa.
II- HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1. Khái niệm và nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
a) Khái niệm và sự cần thiết khách quan hội nhập kinh tế quốc tế
* Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện
gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích, đồng
thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.

Chia sẻ Quốc Tuân thủ


lợi ích gia A chuẩn
mực
Quốc
gia B
Tổ chức Kinh
tế quốc tế

* Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.
164
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành tất yếu
khách quan vì: Toàn cầu hóa kinh tế đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân
công lao động quốc tế, các mối liên hệ quốc tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia
tăng, khiến cho nền kinh tế của các nước trở thành một bộ phận hữu cơ và không thể
tách rời của nền kinh tế toàn cầu. Trong toàn cầu hóa kinh tế, các yếu tố sản xuất
được lưu thông trên phạm vi toàn cầu. Do đó, nếu không hội nhập kinh tế quốc tế,
các nước không thể tự đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn
cầu đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều, tận dụng được các thành tựu của cách
mạng công nghiệp, biến nó thành động lực cho sự phát triển.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các
nước, nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội
để tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học - công
nghệ, kinh nghiệm của các nước cho phát triển. Khi các nước tư bản giàu có nhất,
các công ty xuyên quốc gia đang nắm trong tay những nguồn lực vật chất và phương
tiện hùng mạnh nhất để tác động lên toàn thế giới thì chỉ có phát triển kinh tế mở và
hội nhập quốc tế, các nước đang và kém phát triển mới có thể tiếp cận được những
nguồn lực này cho quá trình phát triển của mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp mở cửa thị trường, thu hút vốn, thúc đẩy công
nghiệp hóa, tăng tích lũy; tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu nhập
tương đối của các tầng lớp dân cư.
Tuy nhiên, điều cần chú ý ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về vốn
và công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình toàn cầu hóa
thành quá trình tự do hóa kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.
Điều này khiến cho các nước đang và kém phát triển phải đối mặt với không ít rủi
ro, thách thức, đó là: gia tăng sự phụ thuộc do nợ nước ngoài, tình trạng bất bình
đẳng trong trao đổi mậu dịch - thương mại giữa các nước đang phát triển và phát
triển. Bởi vậy, các nước đang và kém phát triển cần phải có chiến lược hợp lý, tìm

165
kiếm các đối sách phù hợp để thích ứng với quá trình toàn cầu hóa đa bình diện và
đầy nghịch lý.
b) Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập hiệu quả, thành
công.
Hội nhập là tất yếu, tuy nhiên, đối với Việt Nam, hội nhập không phải bằng
mọi giá. Quá trình hội nhập phải được cân nhắc với lộ trình và cách thức tối ưu. Quá
trình này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị các điều kiện trong nội bộ nền kinh tế cũng
như các mối quan hệ quốc tế thích hợp.
Thứ hai, thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc
tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Theo đó, hội nhập
kinh tế quốc tế có thể được coi là nông, sâu tùy vào mức độ tham gia của một nước
vào các quan hệ kinh tế đối ngoại, các tổ chức kinh tế quốc tế hoặc khu vực. Theo
đó, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được chia thành các mức độ cơ bản từ thấp
đến cao là: Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA), Khu vực mậu dịch tự do (FTA),
Liên minh thuế quan (CU), Thị trường chung (hay thị trường duy nhất), Liên minh
kinh tế - tiền tệ.....
Xét về hình thức, hội nhập kinh tế quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh tế đối
ngoại của một nước gồm nhiều hình thức đa dạng như: ngoại thương, đầu tư quốc
tế, hợp tác quốc tế, dịch vụ thu ngoại tệ...
2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến quá trình phát triển của Việt
Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gia tăng sự liên hệ giữa nền kinh tế Việt
Nam với nền kinh tế thế giới. Do đó, một mặt, quá trình hội nhập sẽ tạo ra nhiều tác
động tích cực đối với quá trình phát triển của Việt Nam, mặt khác cũng đưa đến
nhiều thách thức đòi hỏi phải vượt qua mới có thể thu được những lợi ích to lớn từ
quá trình hội nhập kinh tế thế giới đem lại.

166
a) Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế

Tạo điều kiện mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học -
công nghệ, vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước
Tác động tích
cực của hội
Tạo cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
nhập kinh tế
quốc tế
Tạo điều kiện để thúc đẩy hội nhập của các lĩnh vực văn
hóa, chính trị, củng cố an ninh - quốc phòng

b) Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế

Gia tăng sự cạnh tranh tạo khó khăn cho doanh nghiệp
và ngành kinh tế trong nước.

Gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị
trường bên ngoài.

Phân phối không công bằng về lợi ích và rủi ro cho các
nước… nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu - nghèo và
bất bình đẳng xã hội.
Tác động tiêu
cực của hội Có nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp và công nghệ
nhập kinh tế thấp, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường
quốc tế
Tạo ra một số thách thức đối với quyền lực nhà nước,
chủ quyền quốc gia…

Gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền
thống bị xói mòn

Gia tăng nguy cơ tình trạng khủng bố, buôn lậu, tội
phạm xuyên quốc gia

Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ hội
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu
quả rất khó lường. Vì vậy, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức trong hội nhập kinh
tế là vấn đề cần phải đặc biệt coi trọng.
167
3. Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong phát
triển của Việt Nam
a) Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại
Trong nhận thức, trước hết cần phải thấy rằng hội nhập kinh tế là một thực tiễn
khách quan, là xu thế khách quan của thời đại, không một quốc gia nào có thể né
tránh hoặc quay lưng với hội nhập. Việt Nam cũng không thể đứng ngoài dòng chảy
của lịch sử, hội nhập quốc tế không chỉ là “khẩu hiệu thời thượng” mà phải là
“phương thức tồn tại và phát triển” của nước ta hiện nay.
Nhận thức về hội nhập kinh tế cần phải thấy rõ cả mặt tích cực và tiêu cực vì
tác động của nó là đa chiều, đa phương diện; trong đó, cần phải coi mặt thuận lợi,
tích cực là cơ bản. Đó là những tác động thúc đẩy của hội nhập kinh tế quốc tế tới:
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, tiếp cận khoa học - công nghệ, mở rộng thị
trường...; đồng thời cũng phải thấy rõ những tác động mặt trái của hội nhập kinh tế
như: những thách thức về sức ép cạnh tranh gay gắt hơn; những biến động khó lường
trên thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường hàng hóa quốc tế và cả những thách thức
về chính trị, an ninh, văn hóa. Nhận thức này là cơ sở để đề ra đối sách thích hợp
nhằm tận dụng ưu thế và khắc chế tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế,
phù hợp với điều kiện thực tiễn.
b) Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập kinh tế phù hợp
- Trước hết, cần đánh giá đúng được bối cảnh quốc tế:
Trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, xu hướng liên kết kinh tế đa tầng nấc,
đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do (FTA) gia tăng mạnh, Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương (CPTTP)... Châu Á - Thái Bình Dương đang đóng vai trò đầu tàu trong
tăng trưởng và liên kết toàn cầu.
Mặt khác, cũng cần phải đánh giá được vai trò của tổ chức kinh tế quốc tế, các
công ty xuyên quốc gia và vai trò của các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản,
Nga và EU; cũng như các điều chỉnh chính sách của các nước này trong vai trò chủ
đạo, dẫn dắt các xu hướng liên kết kinh tế quốc tế.
168
- Hai là, đánh giá được những điều kiện khách quan và chủ quan có ảnh
hưởng đến hội nhập kinh tế của nước ta:
Hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã và đang được đẩy nhanh về
tốc độ cũng như phạm vi, song việc chuẩn bị bên trong lại không đi liền với tiến trình
này. Những vấn đề mang tính vĩ mô như khung khổ pháp lý, năng lực thể chế, chất
lượng nguồn nhân lực như là nút thắt của nền kinh tế, cản trở cạnh tranh ở nhiều cấp
độ. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam còn nhận thức khá mơ hồ, thiếu sự quan tâm,
thiếu thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế. Chưa nắm bắt được các luật chơi, những
quy định trên sân chơi lớn. Điều này dẫn đến chưa chủ động trong hoạch định chiến
lược sản xuất kinh doanh khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Những hạn chế này
cần phải được tính toán cụ thể, khắc phục kịp thời để từng bước nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế.
Ba là, trong xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế cần nghiên cứu kinh nghiệm
của các nước nhằm đúc rút cả những bài học thành công và thất bại để tránh đi vào
những sai lầm mà các nước đã từng phải gánh chịu hậu quả.
Bốn là, xây dựng phương hướng, mục tiêu, giải pháp hội nhập kinh tế phải đề
cao tính hiệu quả, phù hợp với thực tiễn về năng lực kinh tế, khả năng cạnh tranh,
tiềm lực khoa học - công nghệ và lao động theo hướng tích cực, chủ động.
Năm là, chiến lược hội nhập kinh tế phải gắn với tiến trình hội nhập toàn diện,
đồng thời có tính mở, điều chỉnh linh hoạt để ứng phó kịp thời với sự biến đổi của
thế giới và các tác động mặt trái phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế.
Sáu là, chiến lược hội nhập kinh tế cần phải xác định rõ lộ trình hội nhập một
cách hợp lý.
c) Tích cực, chủ động tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện
đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong các liên kết kinh tế quốc tế và khu vực
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cho đến nay, về hợp tác song phương,
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn hàng trăm quốc gia trên thế giới,
mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới các thị trường quốc gia và vùng
lãnh thổ, ký kết trên 90 hiệp định thương mại song phương, hiệp định khuyến khích
và bảo hộ đầu tư, hiệp định chống đánh thuế hai lần.
169
Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế là sự hình thành các liên kết kinh tế
quốc tế và khu vực để tạo ra sân chơi chung cho các nước.

Các mốc cơ bản trong tiến trình hội nhập


kinh tế quốc tế của Việt Nam giai đoạn đầu

Năm 1995: gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Năm 1996: tham gia Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA).
Năm 1996: tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM).
Năm 1998: tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương
(APEC).
Năm 2007: chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO).
Nguồn: Lâm Quỳnh Anh - Văn phòng Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế
quốc tế, Bộ Ngoại giao: “Những thành tựu trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam”, Cổng Thông tin điện tử Bộ Ngoại giao Việt Nam, ngày
2/8/2018.

Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN,
APEC..., Việt Nam đã nỗ lực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và tích cực
tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các tổ chức này.
Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách chính sách thương mại theo hướng minh
bạch và tự do hóa thể hiện ở các cam kết đa phương về pháp luật và thể chế cũng như
các cam kết mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ. Thực hiện các cam kết hội nhập
sâu rộng nhằm xây dựng Cộng đồng ASEAN; thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp
tác của APEC, tích cực đề xuất và triển khai nhiều sáng kiến, hoạt động của ASEM...
Việt Nam triển khai đầy đủ, nghiêm túc các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế,
đặc biệt là về cắt giảm thuế quan, mở cửa dịch vụ, đầu tư,... Về cơ bản, Việt Nam đã
hoàn thành lộ trình cắt giảm theo WTO từ năm 2014. Bên cạnh đó, Việt Nam đã thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ ban hành các biểu thuế ưu đãi, thuế nhập khẩu đối với các FTA
đã ký kết.
Việc tích cực tham gia các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện nghiêm túc các
cam kết của các liên kết góp phần nâng cao uy tín, vai trò của Việt Nam trong các tổ
chức này; tạo được sự tin cậy, tôn trọng của cộng đồng quốc tế, đồng thời giúp chúng

170
ta nâng tầm hội nhập quốc tế trên các tầng nấc, tạo cơ chế liên kết theo hướng đẩy
mạnh chủ động đóng góp, tiếp cận đa ngành, đa phương, đề cao nội hàm phát triển
để đảm bảo các lợi ích cần thiết trong hội nhập kinh tế.
d) Hoàn thiện thể chế kinh tế và luật pháp
Để nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, cần hoàn thiện cơ chế thị trường
trên cơ sở đổi mới mạnh mẽ về sở hữu, coi trọng khu vực tư nhân và doanh nghiệp
nhà nước; hình thành đồng bộ các loại thị trường; đảm bảo môi trường cạnh tranh
bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế...
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải cải cách hành chính, chính sách kinh tế,
cơ chế quản lý ngày càng minh bạch hơn, làm thông thoáng môi trường đầu tư, kinh
doanh trong nước để thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế, các nhà
đầu tư trong và ngoài nước. Đó là cơ sở then chốt để nước ta có thể tham gia vào tầng
nấc cao hơn của chuỗi cung ứng và giá trị khu vực cũng như toàn cầu.
Nhà nước cần rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là luật pháp liên quan
đến hội nhập kinh tế như: đất đai, đầu tư, thương mại, doanh nghiệp, thuế, tài chính
tín dụng,... Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với luật pháp quốc tế;
đồng thời phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là tranh
chấp thương mại, đầu tư quốc tế; xử lý có hiệu quả các tranh chấp, vướng mắc kinh
tế, thương mại nhằm bảo đảm lợi ích của người lao động và doanh nghiệp trong hội
nhập.
đ) Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế
Để đứng vững trong cạnh tranh, các doanh nghiệp phải chú trọng tới đầu tư, cải
tiến công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Đặc biệt là phải học các
cách thức kinh doanh trong bối cảnh mới: (1) học cách tìm kiếm cơ hội kinh doanh,
(2) học cách kết nối cùng chấp nhận cạnh tranh, (3) học cách huy động vốn, (4) học
cách quản trị sự bất định, (5) học cách đồng hành với Chính phủ, (6) học cách “đối
thoại pháp lý”.
Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp vượt
qua những thách thức của thời kỳ hội nhập. Nhà nước cần chủ động, tích cực tham
gia đầu tư và triển khai các dự án xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
171
chất lượng cao, gắn với nhu cầu của các doanh nghiệp; tổ chức các khóa đào tạo, trao
đổi kinh nghiệm về kỹ năng hội nhập, quản trị theo cách toàn cầu, đề cao năng lực
sáng tạo, đặc biệt là kiến thức về luật kinh tế, thương mại quốc tế..., phát triển, hoàn
thiện hạ tầng cơ sở sản xuất, giao thông, thông tin, dịch vụ... giúp giảm chi phí sản
xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút vốn, công nghệ tiên tiến, thúc đẩy tăng
năng suất lao động của các doanh nghiệp.
e) Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam
Nền kinh tế độc lập, tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào
nước khác, người khác, hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính
sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương
mại, viện trợ... để áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ
bản của dân tộc.
Để xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với tích cực và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện một số biện pháp sau
đây:
Thứ nhất, hoàn thiện, bổ sung đường lối chung và đường lối kinh tế, xây dựng
và phát triển đất nước.
Thứ hai, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là nhiệm vụ
trọng tâm nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, xây dựng cơ sở vật chất cho
chủ nghĩa xã hội, giúp Việt Nam đi tắt, đón đầu, tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với các nước khác.
Thứ ba, đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế đáp ứng yêu cầu và lợi ích của đất nước trong quá trình phát triển; đồng thời qua
đó phát huy vai trò của Việt Nam trong quá trình hợp tác với các nước, các tổ chức
khu vực và thế giới.
Thứ tư, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng đổi mới, hoàn
thiện thể chế kinh tế, hành chính, đặc biệt là tăng cường áp dụng khoa học - công
nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh tế, nhất là
những ngành có vị thế của Việt Nam.

172
Thứ năm, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong
hội nhập quốc tế. Mở rộng quan hệ quốc tế phải quán triệt và thực hiện nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; giải quyết các tranh chấp bằng
thương lượng hòa bình. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các quan hệ hợp tác quốc tế
về kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại để tạo sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau
giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
Độc lập, tự chủ là khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc. Hội nhập quốc tế là
phương thức phát triển đất nước trong thế giới ngày nay. Giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế có mối quan hệ biện chứng; vừa tạo tiền đề cho nhau và phát huy lẫn
nhau, vừa thống nhất với nhau trong việc thực hiện mục tiêu cơ bản của cách mạng
và lợi ích căn bản của đất nước của dân tộc, trước hết là mục tiêu phát triển và an
ninh.
Giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh bên trong là nền tảng của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Song, độc lập, tự chủ không
có nghĩa là biệt lập, “đóng cửa” với thế giới, vì điều đó không phù hợp với xu thế
khách quan của thời đại, sẽ không thể phát triển và tất yếu làm suy yếu độc lập, tự
chủ. Giữ vững độc lập, tự chủ phải đi đôi với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Có giữ vững độc lập, tự chủ thì mới có thể đẩy mạnh hội nhập quốc tế, vì không giữ
được độc lập, tự chủ thì quá trình hội nhập sẽ chuyển hóa thành “hòa tan”, mục tiêu
phát triển và an ninh đều không đạt được. Đồng thời, càng hội nhập quốc tế có hiệu
quả thì càng có thêm điều kiện và tạo được thế thích hợp để giữ vững độc lập, tự chủ
thông qua việc tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tạo lập sự đan xen lợi ích với đối
tác, nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới, cả về chính trị, kinh tế,
văn hóa, quốc phòng, an ninh...
Vừa giữ vững độc lập, tự chủ; vừa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế còn là
phương thức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

173
Hiệu quả của hội nhập quốc tế được đo bằng mức độ thực hiện các mục tiêu
phát triển, an ninh và gia tăng vị thế của đất nước. Để bảo đảm hội nhập quốc tế có
hiệu quả, cần độc lập, tự chủ trong việc quyết định chiến lược tổng thể, mức độ, phạm
vi, lộ trình và bước đi hội nhập quốc tế trên từng lĩnh vực. Hội nhập quá nhanh, quá
rộng trong khi năng lực tự chủ còn yếu thì không thể có hiệu quả.
Độc lập, tự chủ còn là cơ sở để giữ gìn bản sắc của dân tộc. Càng hội nhập sâu
rộng càng đòi hỏi khẳng định bản sắc, càng có nhu cầu giữ gìn giá trị văn hóa, truyền
thống dân tộc.
Hội nhập quốc tế cũng tạo nên những thách thức mới đối với nhiệm vụ giữ vững
độc lập, tự chủ. Sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước có thể chuyển hóa thành sự lệ
thuộc của nước này vào nước khác. Trường hợp này dễ xảy ra đối với các nước
nghèo, nước nhỏ trong mối quan hệ với các nước giàu, nước lớn. Hội nhập quốc tế
cũng có thể tác động tới sự phân hóa xã hội của từng nước, khi lợi ích từ việc hội
nhập được phân chia khác nhau đối với các nhóm khác nhau trong xã hội, và từ đó
góp phần làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội. Hội nhập quốc tế còn có thể làm
cho lợi ích nhóm nổi trội hơn, từ đó làm cho quá trình quyết sách thêm phức tạp, nhất
là trong trường hợp lợi ích nhóm trong các nước liên kết với các yếu tố nước ngoài.
Hội nhập quốc tế không hiệu quả sẽ làm suy giảm độc lập, tự chủ, suy giảm chủ
quyền quốc gia.
Để hội nhập có hiệu quả, không thể tuyệt đối hóa độc lập, tự chủ và quan niệm
về độc lập, tự chủ là bất biến. Tuyệt đối hóa hay quan niệm cứng nhắc về độc lập, tự
chủ sẽ ngăn cản hội nhập, bỏ lỡ thời cơ hoặc làm giảm hiệu quả của hội nhập và do
đó sẽ tác động tiêu cực trở lại tới độc lập, tự chủ. Mặt khác, nếu không chủ động,
sáng tạo tìm ra những phương thức mới phù hợp với hoàn cảnh và các điều kiện hình
thành từ quá trình hội nhập quốc tế, thì việc bảo đảm độc lập, tự chủ cũng sẽ gặp
nhiều thách thức.
Việc quán triệt, xử lý thành công mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế đã góp phần quan trọng giúp đất nước ta đạt được những thành tựu phát triển
to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 35 năm đổi mới. Nước ta đã tiến vào một chiều sâu mới
trên quỹ đạo hội nhập quốc tế, thực hiện những điều chỉnh căn bản, nâng cao vị thế,
174
quy mô và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; độc lập dân tộc được củng cố, năng
lực tự chủ quốc gia được tăng cường.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Phân tích nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam?
2. Phân tích quan điểm và những giải pháp để thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập kinh
tế quốc tế?
3. Hãy thảo luận làm rõ những tác động của các cuộc cách mạng công nghiệp
đối với sự phát triển của xã hội loài người?
4. Phân tích những cơ hội và thách thức của Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam? Với tư cách là
một công dân, hãy thảo luận trong nhóm và trình bày những ý tưởng bản thân sẽ
làm gì để góp phần thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam trong bối cảnh thích ứng với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư?
5. Phân tích tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế và những tác động của hội
nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam?
6. Trình bày những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
trong phát triển của Việt Nam?
7. Hãy thảo luận để làm rõ những tác động tích cực và tiêu cực của hội nhập
kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của Việt Nam? Việt Nam cần phải thích ứng với
những tác động đó như thế nào?
8. Tham khảo thêm Đề cương chi tiết học phần Kinh tế chính trị - Trường đại
học Kiến trúc TPHCM, 2021 (Phần Phụ lục)

175
GỢI Ý TÀI LIỆU HỌC TẬP CHO SINH VIÊN
1. Bộ giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho
bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà
Nội, tr224 – tr286, 2021.
2. Tham khảo các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6, 7, 8, 9, 10, 11,
12, 13, của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
3. Jeremy Rifkin: Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba, Nxb, Lao động xã
hội, Hà Nội, 2014.
4. Joseph E.Stiglitz: Toàn cầu hóa và những mặt trái, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh, 2008.
5. Manfred B. Steger: Toàn cầu hóa, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2011.
6. Klaus Schwab: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nxb. Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2018.
7. GS.TS Võ Thanh Thu, Quan hệ kinh tế quốc tế, Nxb Lao động - Xã hội, 2010.
8. TS. Phạm Thuyên, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam trong
bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
2019.
9. PGS,TS Ngô Thị Tuyết Mai, PGS,TS Nguyễn Như Bình (đồng chủ biên),
Giáo trình Hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2020.
10. Trang web: www.lyluanchinhtri.vn

176

You might also like