You are on page 1of 42

Câu 1: Phân tích những truyền thống tốt đẹp của tỉnh Bình Định

Câu 2. Phân tích sự ra đời, quá trình lãnh đạo và những bài học kinh nghiệm
của Đảng bộ tỉnh Bình Định giai đoạn 1930-2020
Câu 3: Phân tích kết quả, hạn chế, nguyên nhân và một số kinh nghiệm của công
tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị tỉnh Bình Định, giai đoạn 2015 - 2020.
Câu 4: Phân tích những nhiệm vụ và giải pháp đổi mới công tác xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị của tỉnh Bình Định, giai đoạn 2020 - 2025.
Câu 5. Phân tích nội dung và phương thức chống phá chủ yếu của các thế lực thù
địch đối với nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay. Liên hệ thực tiễn
Câu 6. Phân tích tình hình công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, Đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình hiện nay ở tỉnh bình
Định
2

Câu 1: Phân tích những truyền thống tốt đẹp của tỉnh Bình Định
Trả lời:
Bình Định là tỉnh nằm ở duyên hải miền Trung. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía
Nam giáp tỉnh Phú Yên, phía Tây giáp tỉnh Gia Lai, phía Đông giáp biển Đông. Diện tích
6.047,2 km2, chiều dài Bắc - Nam 110km, chiều ngang Tây - Đông 55km. Địa hình Bình
Định đa dạng, gồm các vùng: rừng núi, đồng bằng ven biển, đô thị và hải đảo. Bình Định
có 134 km chiều dài bờ biển, chạy từ cửa Tam Quan (Hoài Nhơn) đến chân đèo Cù Mông
(Quy Nhơn), có nhiều cửa biển lớn, nhỏ
Bình Định là nơi sinh cơ lập nghiệp chủ yếu của 4 dân tộc anh em: Bana, Chăm,
H’rê và người Kinh. Lớp người Việt đầu tiên định cư ở Bình Định vốn phần lớn là những
lưu dân được dùng để khai khẩn mảnh đất vửa khắc nghiệt vừa giàu tiềm năng này. Hơn
500 năm thường xuyên đấu tranh chống các thế lực thống trị phản động, chống ngoại xâm,
chống thiên tai, cải tạo thiên nhiên xây dựng vùng đất mới, ở con người Bình Định đã hình
thành được những truyền thống quý báu, những đức tính cao đẹp vừa đặc trưng chung của
truyền thống con người Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của con người Bình Định.
Những điều kiện về lịch sử - địa lý và kinh tế - xã hội đã tạo cho con người Bình
Định vừa có tính cách chung của người Việt Nam vừa có sắc thái riêng. Trải qua quá trình
lịch sử lâu dài, các thế hệ ông cha của Bình Định đã đúc kết và để lại cho các thế hệ con
cháu di sản truyền thống quý báu.
1. Truyền thống lao động xây dựng quê hương
Nhân dân Bình Định có truyền thống lao động cần cù, sáng tạo xây dựng quê hương
ngày càng giàu đẹp. Bình Định có nhiều nghề thủ công truyền thống như: dệt, rèn, đúc, làm
nón, tráng bánh, sản xuất cơ khí, … Nhân dân Bình Định có truyền thống thượng võ từ lâu
đời. Nguyễn Huệ là người có công lớn trong việc tập hợp và phát triển linh hoa của các
dòng võ trong nước và nước ngoài để lập nên phái võ Tây Sơn - Bình Định.
Cùng với thời gian, nông nghiệp, ngư nghiệp và lâm nghiệp được hình thành và phát
triển, tạo ra những vùng đất phì nhiêu: An Nhơn, Hoài Nhơn, Tuy Phước, Phù Mỹ …Nhiều
sản phẩm nổi tiếng như nhiễu, lụa, tơ tằm, gạch ngói (Phú Phong), rượu (Bàu đá), bún
Song Thằng, nón Gò Găng (An Nhơn), bánh tráng nước dừa Tam Quan, nem chợ Huyện,
chả cá Quy Nhơn…Các làng nghề ở Bình Định trước đây đã từng cung cấp vũ khí, vải,
quân lương cho nghĩa quân Tây Sơn, du kích, bộ đội trong kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ. Người lao động Bình Định được công nhận là năng nổ, khéo tay, từng làm ra nhiều
công trình độc đáo, những sản phẩm thủ công nổi tiếng cả trong nước và ngoài nước.
3

Hiện nay, Bình Định có 54 làng nghề, vùng nghề, trong đó An nhơn 17 làng nghề,
Tây sơn 10 làng nghề, Phù Mỹ 9 làng nghề, Phù Cát 5 làng nghề, Tuy Phước 3 làng nghề,
Hoài Ân 2 làng nghề, Vĩnh Thạnh 2 làng nghề.
2. Truyền thống đấu tranh anh dũng
Nhân dân Bình Định có truyền thống đấu tranh chống áp bức, bất công, đấu tranh
chống giặc ngoại xâm; là nơi khởi phát phong trào khởi nghĩa nông dân của ba anh em
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Phát huy truyền thống Tây Sơn quật khởi, nhân
dân Bình Định kiên cường chiến đấu chống đế quốc xâm lược và bọn tay sai. Khi thực dân
Pháp đánh chiếm Đà Nẵng. Gia Định mở đầu xâm lược nước ta, ông Võ Duy Dương (tức
Thiên hộ Dương) đà hô hào quần chúng quyên góp công của, xây dựng đội quân kéo vào
Nam chống giặc (1860). Phong trào cần Vương chống Pháp, nhân dân Bình Định dưới sự
lãnh đạo của của Tổng đốc Đào Doãn Địch và sau đó là Mai Xuân Thưởng, đã nổi dậy
đánh chiếm thành Bình Định, gây cho quân địch nhiêu phen khốn đốn. Đây là một trong
những cuộc khởi nghĩa lớn của cả nước (1858 - 1890).
Phong trào chống sưu, thuế năm 1908, gần 3 vạn nhân dân Bình Định từ khắp các
huyện kéo đến bao vây thành Bình Định, sôi sục chống sưu cao, thuế nặng. Đây là cuộc nổi
dậy có quy mô toàn tỉnh và quyết liệt, làm cho thực dân Pháp và tay sai phải ra sức đối
phó, đàn áp đẫm máu nhân dân la.
Những năm 1900 - 1929, đồng bào miền rừng núi liên tiếp đứng lên chống sưu,
chống cướp đất. Nông dân Bình Định không ngừng dấy lên phong trào chống địa chủ
phong kiến, nhất là nạn chiếm đoạt ruộng đất của nông dân và bao chiếm ruộng công, ...
Từ khi Đảng ra đời, lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc, nhân dân Bình Định
sớm tiếp thu và đi theo ánh sáng đường lối của Đảng, lập nên những chiến công, thành tích
có ý nghĩa sâu sắc đối với sự phát triển của quê hương. Trong vòng 15 năm (1930 - 1945),
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Bình Định đã nổi dậy giành chính quyền cách mạng
tháng Tám năm 1945; ra sức xây dựng cuộc sống mới dưới chế độ mới, bảo vệ vững chắc
vùng tự do và đóng góp xứng đáng sức người, sức của vào thắng lợi chung của cả dân tộc
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
nhân dân Bình Định vượt qua biết bao gian khổ, hy sinh cho nền độc lập dân tộc mãi mãi
tươi xanh và bền vững.
3. Truyền thống văn hóa
Bình Định được xem là trung tâm của một vùng văn hóa lâu đời có nhiều tầng và
nhiều lớp đan xen, đồng thời là một vùng đất hiếu học, khoa cử.
4

Bình Định nằm trong khu vực có trầm tích nền “Văn hóa Sa Huỳnh” phát triển rực
rỡ. Qua nghiên cứu khảo cổ học cho thấy, những cư dân vùng dọc biển miền Trung từ Bình
Trị Thiên cho đến Đồng Nai, một số điểm khác ở Tây Nguyên. Bình Định có dấu tích của
“Văn Hóa Sa huỳnh” đậm đặc và tiêu biểu nhất. Những di chỉ nổi tiếng như: Truông Xe,
Gò Lồi, Thuận Đạo. Chánh Trạch thuộc xã Mỹ Thắng; Hội Lộc, Núi Ngang, Đồi Điệp,
thành phố Quy Nhơn; Động Cườm thuộc thôn Tăng Long, xã Tam Quan, huyện Hoài
Nhơn (nay là thị xã Hoài Nhơn).
Ai đã từng đến Bình Định sẽ nhớ mãi những ngọn Tháp Chămpa ngạo nghễ, đẹp đến
ngây ngất bởi lối kiến trúc cho đến bây giờ cũng còn chứa đựng nhiều bí ẩn. Những nhà
khảo cổ học và nghiên cứu nghệ thuật Chăm đánh giá những cụm tháo Chăm Bình Định đã
đạt tới độ chin mùi của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. Với 14 ngọn tháp còn lại, Bình
Định là địa phương thứ 2 sau Quảng Nam sở hữu được nhiều tháp Chăm nhất nước ta.
Bên cạnh đó, dòng văn hóa phi vật thể ở Bình Định cũng vô cùng phong phú như
các lễ hội, nghệ thuật hát bội, nhạc võ Tây Sơn, ca kịch bài chòi…Những lễ hội mang tính
chất truyền thống và dân gian như: Lễ hội chiến thắng Đống Đa, Lễ hội cầu ngư, Lễ cúng
cá ông, Lễ hội Tây Sơn …Đây là nhũng món ăn tinh thần đặc sắc không chỉ đối với nhân
dân Bình Định mà nó còn đặc sản để giới thiệu đến bạn bè trong và ngoài nước.
Ngày nay, nhân dân Bình Định phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng,
cùng đồng bào cả nước vượt qua những khó khăn thử thách mới, kiên quyết đi theo
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn.
5

Câu 2: Những bài học kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Bình Định giai đoạn 1930 - 1975
và giai đoạn 1975 - 2020.
1. Sự ra đời của tổ chức Đảng ở Bình Định
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dưới ách thống trị của thực dân Pháp và địa chủ phong
kiến, nhân dân Bình Định phải sống trong cánh bị áp bức, bóc lột tàn bạo, nặng nề. Vì vậy,
họ đã đứng lên chống thực dân Pháp và địa chủ phong kiến. Các cuộc đấu tranh nổ ra hết
sức sôi nổi, tinh thần yêu nước rất cao, nhưng thiếu sự lãnh đạo của một tổ chức cách mạng
với một đường lối đúng đắn nên các cuộc đấu tranh đều thất bại.
Dưới tác động của chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào cách mạng Bình Định đã có
sự chuyển biến về chất. Năm 1926, tại Bình Định đã hình thành một lớp thanh niên yêu
nước ưu tú có xu hướng Cộng sản, có trí thức đã tiếp nhận và truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin.
Chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên của Bình Định được thành lập
(2/1928, Cửu Lợi - Tam Quan Nam - Hoài Nhơn), đ/c Nguyễn Trân làm bí thư. Từ Chi hội
phát triển thành Huyện bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên Hoài Nhơn (viết tắt
VNCMTN Hoài Nhơn) (thành lập cuối năm 1928, do đồng Nguyễn Trân làm bí thư)
Khi Huyện bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên Hoài Nhơn được thành lập và đẩy
mạnh hoạt động ở Hoài Nhơn thì tổ chức Tân Việt cũng tiến hành các hoạt động (An
Nhơn, Phù Mỹ, Quy Nhơn…)
Nhờ tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê nin và con đường giải phóng dân tộc của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc (1918 – 1929), Hội VNCMTN và Tân Việt ở Bình Định đã phát động
nông dân, thợ thủ công và sinh viên tiến hành một số cuộc đấu tranh. Thông qua đó, giáo
dục tinh thần yêu nước và giác ngộ cách mạng cho các tầng lớp nhân dân.
ĐCSVN ra đời đã tác động mạnh đến phong trào cách mạng Bình Định. Trên cơ sở
tiểu tố Tân Việt cách mạng, Chi bộ Cộng sản tại Nhà máy Đèn Quy Nhơn được thành lập
(3.1930, đồng chí Lê Xuân Trữ làm bí thư). Tiếp đó, Chi bộ Trưởng Quốc học Quy Nhơn
được thành (1/1930).
Cũng trong khoảng thời gian này, chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Hoài Nhơn
được thành lập (8/1930, đồng chí Nguyễn Trân làm bí thư). Tiếp đó, Đảng bộ huyện Hoài
Nhơn được thành lập (10/1930, đồng chí Nguyễn Trân làm bí thư). Đảng bộ Hoài Nhơn bắt
liên lạc với Đảng bộ thành phố Quy Nhơn, Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi và Ban điều hành của
Xứ ủy Trung Kỳ.
Như vậy, sau khi ĐCSVN ra đời, các tổ chức đảng đầu tiên của tỉnh Bình Định lần
lượt được thành lập với khoảng 40 đảng viên (cuối năm 1930). Các chi bộ, đảng bộ cấp
huyện đầu tiên ra đời ở Bình đã đáp ứng yêu cầu lịch sử tỉnh nhà.
2. Bài học kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Bình Định, giai đoạn 1930 – 1975:\
Năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Đây là sự kiện chính trị vô
cùng trọng đại, là mốc lịch sử quyết định tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam,
6

trong đó Bình Định. Đầu tháng 3/1930, từ cơ sở Tân Việt cách mạng Đảng, Chi bộ Nhà
Máy đèn Quy Nhơn thành lập gồm 5 đảng viên do đồng chí Lê Xuân Trữ - công nhân kỹ
thuật làm Bí thư. Đây là chi bộ đầu tiên của Đảng bộ Bình Định.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản VN, Đảng bộ Bình Định lãnh đạo quân và dân
toàn tỉnh ra sức xây dựng và bảo vệ vững chắc vùng tự do, đẩy lùi các cuộc càn quét lấn
chiếm của địch, cùng cả nước làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu”. Trải qua 20 năm chống Mỹ, cứu nước; từ đường lối đúng đắn,
sáng tạo của Đảng, quân và dân Bình Định đã vượt qua vô vàn hy sinh, gian khổ, chiến đấu
anh dũng, kiên cường đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ; góp
phần cùng cả nước giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, giải phóng quê
hương Bình Định vào ngày 31/3/1975.
Tổng kết quá trình lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp giải phóng và bảo vệ nền độc lập dân
tộc, Đảng bộ tỉnh Bình Định đã rút ra những bài học kinh nghiệm
Một là, quán triệt quan điểm: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” trong mọi
chủ trương, hoạt động của Đảng bộ.
Hồ Chí Minh đã khẳng định "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng ". Quần
chúng cách mạng chính là các tầng lớp nhân dân; nhân dân là lực lượng đông đảo của toàn
xã hội; nhân dân là người hiểu biết tất cả; là nguồn sức mạnh vô tận ở mọi nơi, mọi lúc.
Nhận rõ được vai trò, tầm quan trọng của sức mạnh nhân dân, Đảng bộ tỉnh Bình Định đã
đoàn kết toàn dân trong tỉnh vận dụng một cách sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng,
những quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của tỉnh nhà;
Đảng bộ đã chủ động lãnh đạo nhân dân tạo thời cơ và chớp lấy thời cơ đúng lúc; quan
trọng hơn, Đảng bộ đã biết dựa vào dân, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân. Hơn một
tuần lễ (23 - 31/8/1945), nhân dân Bình Định đã vùng lên giành chính quyền toàn tỉnh
thắng lợi. Trước cơn bão táp cách mạng của quần chúng, bộ máy chính quyền của đế quốc
và phong kiến từ làng, xã đến huyện, tỉnh bị sụp đổ hoàn toàn, âm mưu phá hoại của bọn
phản cách động cũng bị đập tan. Với thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hơn
750.000 người dân Bình Định không kể tuổi tác, giai cấp, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo...
thật sự đổi đời
Sau khi giành được chính quyền, nhân dân Bình Định cùng với nhân dân cả nước
lại phải bước vào cuộc trường chinh máu lửa với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, cứu nước,, Giai đoạn 1945-1954: Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, quân và
dân Binh Định đã góp phần quan trọng từng bước làm thất bại các kế hoạch chiến tranh
của thực dân Pháp. Buộc Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ - ne - vợ, kết thúc cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam. Giai đoạn 1954-1975: Đảng bộ tỉnh Bình Định đã lãnh đạo
7

chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, Góp phần cùng quân và dân miền Nam
đánh thắng các chiến lược chiến tranh của Mỹ, rồi kết thúc bằng đại thắng mùa Xuân năm
1975, đưa nhân dân Bình Định hòa trong niềm vui thống nhất đất nước, cùng tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Hai là, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ trên cơ sở quán triệt
và vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng.
Suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhất là trước các bước ngoặt, Đảng bộ không hề
chệch choạc, luôn bám sát tình hình kịp thời khắc phục những khuyết điểm và lệch lạc về
đánh giá lực lượng so sánh giữa ta và địch, về vận dụng phương châm, phương pháp cách
mạng. Không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức thực tiễn, chấp hành
nghiêm chỉnh quyết tâm và sự chỉ đạo chiến lược của Đảng một cách chủ động, sáng tạo.
Nhờ đó, trước kẻ thù vô cùng nham hiểm và tàn bạo, có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh
nhất thế giới tư bản chủ nghĩa, nhưng cuộc đấu tranh của nhân dân Bình Định vẫn phát
triển đúng quy luật cuộc chiến tranh cách mạng. Ta càng đánh càng mạnh, thực lực mọi
mặt phát triển vượt bậc, thắng lợi to lớn và toàn diện hơn thắng lợi trước.
Ba là, vừa chiến đấu vừa chăm lo xây dựng hai lực lượng cách mạng cơ bản. (lực
lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân).
21 năm chống Mỹ, cứu nước, Bình Định luôn là chiến trường nóng bỏng của cuộc
đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ. "Không có gì quý hơn độc lập tự do", Đảng bộ đã kiên
cường trụ bám, phát động và tập hợp quần chúng trên cả 3 vùng, vận dụng ngày càng thành
công phương châm đấu tranh "2 chân 3 mũi giáp công" lợi hại. Chẳng những vượt qua
thách thức hết sức ngặt nghèo của những năm 1956-1957, 1962-1963, 1966-1967, 1969…,
Bình Định còn anh dũng vươn lên liên tiếp đánh bại các âm mưu và thủ đoạn đánh phá chủ
yếu (tố cộng, ấp chiến lược, tìm diệt, bình định tại chỗ, lấn chiếm - bình định…) trong 5 kế
hoạch chiến lược của địch ở địa phương. Đồng thời khẩn trương chuẩn bị thực lực mọi
mặt, tạo và tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quan trọng vào các thời điểm quyết định
(1959-1960, 1964-1965, 1968, 1972, 1975), cùng cả nước làm nên "một chiến công vĩ đại
của thế kỷ XX".
Bốn là, chủ động và tích cực xây dựng, củng cố hậu phương và thế trận chiến tranh
nhân dân. Sau ngày thành lập Chính quyền nhân dân (3/9/1945), quân dân Bình Định
bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Với khí thế của người
làm chủ, Đảng bộ đã động viên toàn dân ra sức xây dựng và bảo vệ vững chắc vùng tự do
hoàn chỉnh, đẩy lùi các cuộc càn quét lấn chiếm của địch nhất là chiến dịch Atlăng, cùng
cả nước làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Đồng thời hoàn thành xuất sắc nhiệm
8

vụ hậu phương chiến lược trực tiếp cuộc kháng chiến của quân dân Liên Khu V, góp phần
làm nhiệm vụ quốc tế với Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia.
Trong hoàn cảnh thiếu thốn và bị địch bao vây đánh phá, nhưng thông qua Mặt trận
và Chính quyền nhân dân, công cuộc "kiến quốc" đạt được những thành tựu to lớn. Sản
lượng lương thực gấp đôi thời thuộc Pháp (240.000/110.000 tấn), đặc biệt giải quyết thắng
lợi những nhu cầu thiết yếu về ăn mặc, học hành, thuốc chữa bệnh… cho địa phương và
một số địa phương khác. Thanh toán nạn mù chữ sớm (3/1949), số học sinh tăng hơn 16
lần chế độ cũ (87.505/5.550) và chiếm 12% dân số. Bước đầu xây dựng nếp sống văn minh
vui khỏe và lành mạnh, chan chứa tình đồng bào và tình quân dân cá nước.
Năm là, xây dựng Đảng bộ vững mạnh về mọi mặt là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của phong trào cách mạng địa phương.
2. Bài học kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Bình Định giai đoạn 1975 – 2020
- Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời
sống xã hội, bước đầu thực hiện đường lối đổi mới (3/1975-6/1989). Từ tháng 11/1975-
6/1989, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình, bằng nỗ lực vượt bậc, được nhân
dân tin tưởng, ủng hộ, các cấp uỷ Đảng đã hoàn thành các nhiệm vụ được giao, góp phần
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bước vào công
cuộc đổi mới, Đảng bộ đã nhanh chóng lãnh đạo chuyển đổi cơ chế quản lý, cơ cấu đầu tư,
khơi dậy và phát huy những tiềm năng của địa phương tạo được những kết quả bước đầu
rất quan trọng, trên tất cả các lĩnh vực, tạo tiền đề quan trọng để các cấp ủy Đảng và nhân
dân phát huy khi tỉnh Bình Định được tái lập.
- Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo tiếp tục thực hiện đường đổi mới của Đảng
(7/1989 – 4/1996). Ngày 1/7/1989, Tỉnh Bình Định sau tái lập có những thuận lợi, khó
khăn nhất định. Đến năm 1996, sau 7 năm tái lập tỉnh Bình Định, trong hoàn cảnh đất nước
cũng như trong tỉnh trải qua muôn vàn khó khăn, nhưng dưới sự chỉ đạo của Ban chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bình Định đoàn kết một lòng
vượt qua thách thức, giành được những thành tựu quan trọng. Kinh tế phát triển tương đối
toàn diện, tăng trưởng khá; lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc vượt mức nhiều chỉ tiêu
do Đại hội Đảng bộ đề ra; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất phát triển
một bước, tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhiều công trình quan
trọng đã được đưa vào sử dụng như thủy điện Vĩnh Sơn, cầu cảng Quy Nhơn, hồ chưa
nước Thuận Ninh, nâng công suất Nhà máy nước Quy Nhơn..., cơ cấu kinh tế bắt đầu
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nền kinh tế nhiều thành phần hình
thành và phát triển. Các doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp hợp lý, sản xuất kinh doanh
có hiệu quả hơn trước, một số xí nghiệp được xây dựng nơi văn hoá - xã hội một số mặt có
chuyển biển tích cực, quốc phòng được củng cố, an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội có
nhiều tiến bộ; công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội từng bước được đổi mới đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp
9

nhân dân được cải thiện. Những thành tích đó đã góp phần quan trọng cùng cả nước hoàn
thành chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
-Tiếp theo đó, Đảng bộ tỉnh Bình Định đã lãnh đạo nhân dân thực hiện sự nghiệp
CNH, HĐH (5/1996-10/2020) và đạt được nhiều kết quả rất quan trọng: Kinh tế tăng
trưởng khá, quy mô kinh tế không ngừng mở rộng; cơ cấu kinh - tế chuyển dịch theo
hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ; sản xuất nông nghiệp phát triển
khá toàn diện và đạt mức tăng trưởng cao; du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng của
tỉnh; thu ngân sách vượt kế hoạch đề ra; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tập trung đầu
tư, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển của tỉnh; bộ mặt đô thị, nông thôn có nhiều khởi sắc;
các hoạt động giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa - thể thao, thông tin -
truyền thông, chăm sóc sức khỏe nhân dân... có nhiều tiến bộ. An sinh xã hội cơ bản được
đảm báo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Quốc phòng
được củng cố; an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội cơ bản đảm bảo.
Công tác xây dựng hệ thống chính trị đạt được kết quả tích cực. Một số công trình quan
trọng trong nhiệm kỳ được đưa vào sử dụng như: Bệnh viện Đa khoa tỉnh - phần mở rộng,
Bệnh viện đa khoa khu vực Bồng Sơn, Trung tâm Y tế Hoài Nhơn, nâng cấp mở rộng một
số hạng mục Bệnh viện Đa khoa tỉnh; mở rộng, nâng cấp Bảo tàng Quang Trung, mở rộng
Quảng trưởng Nguyễn Tất Thành, xây dựng nhà hát Nghệ thuật truyền thống, mở rộng,
nâng cấp Quảng trường Chiến thắng, Quảng trường Quy Nhơn...Hệ thống trường, lớp học
tiếp tục được củng cố và mở rộng; thành lập mới trường Trung học phổ thông chuyên Chu
Văn An đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh các huyện phía Bắc tỉnh,...Những thành tựu
đạt được tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh và bền vững trong những năm tới.
Tóm lại, từ 31/3/1975 đến Đại hội đại biểu lần thứ XX (2020), Đảng bộ và nhân dân
Bình Định bước tiếp chặng đường lịch sử mới với hơn ba thập kỷ cùng cả nước xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Chặng đường 45 năm là cả một quá trình phấn đấu gian khổ đầy khó
khăn, thử thách và trưởng thành trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ. Những
thành tựu và thắng lợi to lớn đạt được, trong 30 năm xây dựng và trưởng thành, đã tiếp tục
làm rạng danh truyền thống vẻ vang của Đảng bộ, góp phần tô đậm những trang sử vàng
của Đảng, của dân tộc.
Tổng kết chung cả chặng đường 45 năm thực hiện nhiệm vụ cách mạng xã hội
chủ nghĩa và công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối của Đảng,
Đảng bộ đúc rút bốn bài học kinh nghiệm sau:
Một là, quán triệt sâu sắc, chấp hành nghiêm chỉnh, vận dụng linh hoạt các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với điều kiện của tỉnh; luôn tranh thủ
sự chỉ đạo và đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của Trung ương Đảng, Nhà nước và các bộ, ban
ngành Trung ương.
Hai là, phát huy cao độ truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng của cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh; quán triệt và thực hiện triệt để tư tưởng
10

-‘lấy dân làm gốc”, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, nên Đảng bộ đã huy động
tối đa mọi nguồn lực xã hội trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương; đặc biệt là
huy động được sức mạnh tổng hợp của xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
Ba là, hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, trong
sạch, vững mạnh và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng bộ, đặc biệt là đoàn
kết trong nội bộ Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.
Bốn là, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc đổi mới trên địa bàn tỉnh
một cách toàn diện, có trọng điểm và bước đi thích hợp; trong lãnh đạo phát triển kinh tế
luôn gắn với chăm lo giải quyết các vấn đề xã hội, quan tâm cải thiện và nâng cao đời sống
của các tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào vùng sâu, vùng khó khăn, miền núi trong tỉnh;
với củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn,
tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị
11

Câu 3: Phân tích kết quả, hạn chế, nguyên nhân và một số kinh nghiệm của công
tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị tỉnh Bình Định, giai đoạn 2015 - 2020.
1. Kết quả đạt được và nguyên nhân
1.1. Kết quả đạt được
1.1.1. Công tác xây dựng Đảng
a. Công tác chính trị, tư tưởng
Công tác chính trị, tư tưởng được chú trọng. Các cấp ủy, tổ chức đảng trong tỉnh
thường xuyên bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị xây dựng đạo
đức, lối sống theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới được duy trì tổ
chức thường xuyên.
Công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch được quan tâm, triển khai thực hiện. Kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn
các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Công tác tuyên truyền đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc được quan tâm chỉ đạo thực hiện và đạt kết quả tích cực.
b. Ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong rèn luyện phẩm chất đạo
đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng
Các cấp ủy, tổ chức đảng đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai quán triệt và tổ
chức thực hiện các quy định của Đảng về những điều đảng viên không được làm; về trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp và Chỉ
thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh” trong cán bộ, đảng viên của Đảng bộ.
Ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, tinh thần trách nhiệm trong thực thi
công vụ, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
trong tỉnh được nâng lên. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy viên, cán bộ chủ chốt
các cấp trong tỉnh luôn có lập trường chính trị, tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, có thái độ nhất quán bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ động tự học tập, rèn luyện nâng cao nhận thức, trình độ lý luận chính trị,
Chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoạt động thực tiễn, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh
thần khắc phục khó khăn, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
c. Tổ chức bộ máy, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và
chất lượng đội ngũ đảng viên trong Đảng bộ
12

Cấp ủy các cấp đã tích cực triển khai thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Từng bước kiện toàn, sắp xếp tổ chức đảng đồng
bộ, phù hợp với tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Thực hiện thí điểm hợp nhất chức
danh và hợp nhất một số cơ quan có chức năng, nhiệm vụ tương đồng. Việc thành lập tổ
chức đảng trong các đơn vị kinh tế tư nhân được quan tâm.
Các cấp ủy, tổ chức đảng trong tỉnh thực hiện nghiêm chế độ sinh hoạt đảng bộ, chi
bộ và sinh hoạt cấp ủy. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt
đảng. Gắn nội dung sinh hoạt chi bộ với việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Công tác quản lý đảng viên, kết nạp đảng viên mới được chú trọng thực hiện. Công
tác đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, chất lượng đảng viên ngày càng đi
vào thực chất.
d. Công tác cán bộ và công tác bảo vệ chính trị nội bộ
Triển khai thực hiện nghiêm túc các chủ trương, quan điểm, quy định - Đảng về công
tác cán bộ. Có nhiều chủ trương, giải pháp thích hợp trong công tác cán bộ và xây dựng đội
ngũ cán bộ. Ban hành các quy định cụ thể hóa về công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ trên địa bàn.
Thực hiện đồng bộ các nội dung trong công tác cán bộ. Thường xuyên và bổ sung,
xây dựng quy hoạch cán bộ các cấp, bảo đảm chặt chẽ, đúng quy trình, quy định. Công tác
bảo vệ chính trị nội bộ được chú trọng, thực hiện thẩm tra, xác minh, thẩm định tiêu chuẩn
chính trị chặt chẽ, đúng quy định. Nhờ thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp về
công tác cán bộ, tỉnh đã xây dựng được đội ngũ cán bộ: có phẩm chất chính trị vững vàng,
đạo đức tốt; nêu cao ý thức trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật; tích cực học tập nâng cao
trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ; ngày càng trưởng thành cả về số lượng và chất
lượng, đáp ứng yêu cầu và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
đ. Công tác nội chính, đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí tiếp tục được các cấp ủy, chính quyền
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và đã đạt được những kết quả quan trọng. Công tác
tuyên truyền, giáo dục được duy trì thực hiện có hiệu quả, tạo sự chuyển biến trong nhận
thức và hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân
trên địa bàn về đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống tham nhũng phí được kiện toàn về
tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Công tác phát hiện, khởi tố điều tra, truy
13

tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng được tiến hành khẩn trương, xử lý đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật
e. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
Các cấp ủy đảng đã ban hành chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá và chương
trình kiểm tra, giám sát hàng năm với những nội dung, đối tượng cụ thể.
Cấp ủy các cấp đã chỉ đạo các ban của cấp ủy chủ động phối hợp với ủy ban kiểm tra
xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức kiểm tra, giám sát theo chức năng, nhiệm vụ, cử
cán bộ tham gia các cuộc kiểm tra, giám sát của cấp ủy và thực hiện một số cuộc kiểm tra,
giám sát được cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy giao.
Hàng năm, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Thường vụ cấp huyện trong tỉnh chỉ đạo,
chủ trì hội nghị tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng của đảng bộ.
Đồng thời, tiến hành sơ kết, tổng kết các quy chế, quy định, kết luận về công tác kiểm tra,
giám sát theo chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương.
Việc thi hành kỷ luật trong Đảng được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định. Góp
phần ngăn chặn tiêu cực, từng bước làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên. Việc giải
quyết khiếu nại, kỷ luật đảng và giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng, đảng viên được cấp
ủy, ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện kịp thời đúng quy trình, quy định.
g. Phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng
Tỉnh ủy và các cấp ủy đảng đã lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội trong tỉnh hoạt động theo đúng cương lĩnh, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, điều lệ của từng tổ
chức. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng sát thực tế, sát cơ sở, hiệu lực,
hiệu quả, chú trọng các nhiệm vụ trọng tâm và theo kế hoạch, chương trình đã đề ra. Điều
chỉnh linh hoạt, xử lý kịp thời những việc mới phát sinh. Xây dựng quy chế làm việc, quy
chế phối hợp vừa đảm bảo phát huy vai trò lãnh đạo của cấp ủy, vừa phát huy vai trò, trách
nhiệm, tính chủ động của từng cơ quan trong hệ thống chính trị.
Các cấp ủy trong tỉnh thực hiện tốt quy chế làm việc, giữ vững nguyên tắc tập trung
dân chủ, vừa đề cao trách nhiệm tập thể, vừa phát huy vai trò của từng thành viên trong cấp
ủy. Công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng được quan tâm. Cải cách hành chính trong Đảng, việc ứng dụng công nghệ thông
tin...đạt kết quả bước đầu.
1.1.2. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý,
điều hành của chính quyền các cấp
14

Hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục được đổi mới, chất lượng được
nâng lên. Các kỳ họp hội đồng nhân dân được thực hiện đúng pháp luật, dân chủ, công
khai. Phát huy vai trò của đại biểu, trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà
nước ở địa phương. Hiệu quả giám sát của hội đồng nhân dân các cấp ngày càng được phát
huy. Công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân được tăng cường.
Bộ máy chính quyền các cấp tiếp tục được công cố, kiện toàn. Bộ máy chính quyền
các cấp đã được rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
Rà soát, sắp xếp các cơ quan hành chính đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thực hiện hợp nhất,
sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị nghiệp công lập tinh gọn, nâng cao hiệu quả hoạt động, gắn
với tinh giảm biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức.
Công tác cải cách hành chính được quan tâm thực hiện hiệu quả góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên địa bàn, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của người
dân và doanh nghiệp.
Công tác tiếp công dân, đối thoại trực tiếp với nhân dân của các cơ quan hành chính
nhà nước, nhất là ở cấp tỉnh, cấp huyện từng bước đi vào nền nếp, bảo đảm đúng pháp
thuật, nghiêm túc, có hiệu quả; việc giải quyết đơn, - khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
của công dân được thực hiện kịp thời theo quy định.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được các cấp, các ngành, địa
phương trong tỉnh thực hiện thường xuyên.
1.1.3. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội và công
tác dân vận, góp phần tích cực vào xây dựng Đảng, chính quyền và khối đại đoàn kết
toàn dân tộc
Nhìn chung, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân được phát huy. Công tác dân vận,
hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội có nhiều đổi mới, chất lượng,
hiệu quả được nâng lên. Triển khai thực hiện tốt cơ chế “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, giám sát”, góp phần tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với
Nhân dân.
Cấp ủy và chính quyền các cấp đã tăng cường và đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo
đối với công tác dân vận của hệ thống chính trị. Thực hiện nghiêm các quy định về công
tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, nâng cao hiệu quả công tác
dân vận của cơ quan nhà nước các cấp. Tổ chức đối thoại trực tiếp với Nhân dân về những
vấn đề xã hội quan tâm.
15

Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được chú
trong thực hiện gắn với các nhiệm vụ trọng tâm của địa phương, đơn vị, quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và tầng lớp nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong tỉnh tăng cường đổi
mới về nội dung và phương thức hoạt động. Tập trung củng cố, kiện toàn, nâng cao chất
lượng hoạt động tổ chức cơ sở, giảm dần tỷ yếu kém.
1.2. Nguyên nhân của kết quả đạt được
Một là, đạt được những thành tựu nêu trên là nhờ có chủ trương, đường lối đúng đắn
của Đảng; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ. Đảng bộ tỉnh nhận được
sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời của Trung ương Đảng, Chính phủ. Nhờ vậy, Đảng bộ
tỉnh đã lãnh đạo toàn dân, toàn quân trong tỉnh gặt hái được những thành tựu hết sức quan
trọng như đã đề cập ở trên.
Hai là, sự giúp đỡ, hỗ trợ của các bộ, ban, ngành Trung ương và các tỉnh bạn. Trong
giai đoạn 2015 - 2020, nhờ kết hợp nội lực và sự giúp đỡ, hỗ trợ của các bộ, ban, ngành
Trung ương và các tỉnh, thành bạn nên Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân đạt được những
thành tựu lớn như đã trình bày ở trên.
Ba là, xuất phát từ những kết quả trong đầu tư phát triển từ các nhiệm kỳ trước. Kế
thừa, phát huy những thành tựu đã đạt được là một trong những biện pháp hết sức cần thiết
trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của mỗi tổ chức đảng nói chung, Đảng bộ tỉnh Bình Định
nói riêng.
Bốn là, sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền, dân và quân trong tỉnh. Những
khó khăn, thách thức ấy đến từ tình hình thế giới, trong nước và ngay tại địa phương, như
thiên tai, dịch covid 19. Do đó, để vượt qua khó khăn, thách thức đòi hỏi sự nỗ lực phấn
đấu của Đảng bộ, chính quyền, dân và quân trong tỉnh. Nhờ sự nỗ lực này mà Đảng bộ tỉnh
đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao.
Năm là, tinh thần đoàn kết thống nhất cao trong Ban Chấp hành, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy và lãnh đạo các địa phương, đơn vị. Đoàn kết là một yếu tố cực kỳ quan trọng góp
phần làm nên thắng lợi.
Sáu là, sự ủng hộ của các thế hệ cán bộ lãnh đạo tiền nhiệm và sự đồng thuận của các
tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh chỉ có thể đạt kết quả khi có
được sự ủng hộ của các thế hệ cán bộ lãnh đạo tiền nhiệm và sự đồng thuận của các tầng
lớp nhân dân trong tỉnh.
2. Hạn chế và nguyên nhân
2.1. Hạn chế
16

2.1.1. Đối với công tác xây dựng Đảng


Một là, chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận có mặt còn hạn chế: một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị. Bên cạnh
đó, công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị của một số cấp ủy còn thực hiện chưa
tốt như hình thức tuyên truyền ít đổi mới.
Hai là, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng còn
yêu. Chưa kịp thời phát hiện, giải quyết những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở, nhất là
những nơi có tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội phức tạp và những nơi nội bộ thiếu
thống nhất, đoàn kết.
Ba là, tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số trong một số cấp ủy
còn thấp.
Bốn là, phương thức lãnh đạo của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Năm là, kết nạp đảng viên hàng năm không đạt chỉ tiêu đề ra. Một số ít đảng viên
thiếu tu dưỡng, rèn luyện, bỏ sinh hoạt đảng phải xoá tên trong danh sách đảng viên hoặc
vi phạm các quy định của Đảng và Nhà nước đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sáu là, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát ở một số nơi còn
hạn chế. Chưa kịp thời, phát hiện, giải quyết những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở, nhất là
những nơi có tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội phức tạp và những nơi nội bộ thiếu
thống nhất, đoàn kết.
2.1.2. Đối với công tác xây dựng chính quyền và hoạt động của Mặt trận tổ quốc,
các tổ chức chính trị, xã hội, quần chúng
Một là, cải cách hành chính có mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước trên một số lĩnh vực, tại một số sở, ngành, địa phương còn hạn chế.
Hai là, nội dung, phương thức hoạt động của một số hội, đoàn thể chậm đổi mới,
chưa theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình hiện nay. Nội dung, phương thức hoạt
động của một số hội, đoàn thể chậm đổi mới, chia theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ trong tình
hình hiện nay.
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Một là, nguyên nhân khách quan. Nguồn lực đầu tư cho phát triển còn hạn chế, thu
ngân sách còn thấp, trong khi hạ tầng kinh tế còn yếu kém, nhất là hạ tầng giao thông, các
khu, cụm công nghiệp. Thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu đã gây nhiều bất lợi đến
sản xuất, kinh doanh và đời sống của Nhân dân.
17

Hai là, nguyên nhân chủ quan. Năng lực tổ chức thực hiện và tinh thần trách nhiệm
của một số cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu một số ngành, đơn vị, địa phương chưa
cao. Việc tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc còn chậm. Các giải
pháp thực hiện và sự phối hợp giữa các sở, ngành với địa phương có nơi, có lúc thiếu đồng
bộ, chưa kịp thời. Công tác chỉ đạo xử lý một số vấn đề tồn tại, yếu kém chưa tập trung,
thiếu kiên quyết. Tinh thần trách nhiệm, trình độ năng lực của một bộ phận cán bộ, công
chức còn hạn chế.
Một số cấp ủy, cán bộ, đảng viên chưa quán triệt sâu sắc, toàn diện về vị trí, vai trò
của tổ chức cơ sở đảng cũng như yêu cầu phải nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên.
3. Một số kinh nghiệm
Một là, phải có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy, nhận thức và quyết tâm chính
trị cao trong đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp trong thực
hiện, vận dụng sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước vào thực tiễn và quá trình phát triển của địa phương.
Hai là, cần bám sát, nắm chắc, dự báo đúng diễn biến tình hình, kịp thời đề ra nhiệm
vụ, giải pháp phù hợp và tập trung chỉ đạo quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm trong giải
quyết các vấn đề nảy sinh.
Ba là, cùng với huy động nguồn nội lực, phát huy tiềm năng, lợi thế của tỉnh phải chủ
động, tích cực tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương và thu hút các nguồn lực khác trong đầu
tư phát triển kinh tế - xã hội.
Bốn là, coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh
đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương. Tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa
cấp ủy đảng, chính quyền với nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị
vững vàng, đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ, có tâm huyết, trách nhiệm với sự
nghiệp xây dựng và phát triển quê hương.
Năm là, tăng cường và giữ vững sự đoàn kết trong Đảng bộ, sự đồng thuận xã hội.
Không ngừng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ
thống chính trị trong triển khai thực hiện nhiệm vụ cũng như giải quyết các vấn đề xã hội
bức xúc.
18

Câu 4: Phân tích những nhiệm vụ và giải pháp đổi mới công tác xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị của tỉnh Bình Định, giai đoạn 2020 - 2025.
Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Định lần thứ XX và Chương trình hành động số
05-CTr/TU ngày 14/5/2021, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh BĐ, về “Nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên giai đoạn
2020 – 2025”, đã xác định rõ cần thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau
đây:
1. Đổi mới công tác xây dựng Đảng tỉnh Bình Định, giai đoạn 2020-2025:
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng bộ tỉnh Bình Định
1.1. Đổi mới và thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo
đức
- Thứ nhất Đổi mới và thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
+ Một là, tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao chất lượng giáo dục, học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sinh hoạt đảng bố và cấp ủy. Nâng cao
nhận thức, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tinh mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết cán bộ lãnh đạo,
quản lý. Phát huy Vũ phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, cấp ủy viên.
+ Hai là, tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, tình hình thế giới, trong nước và trong tình " viên, cán bộ, công chức,
viên chức, Nhân dân. Thực hiện có hiệu quả cao pháp đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình”,
những thông tin xấu độc trên internet, mạng xã hội.
+ Ba là, tăng cường quản lý và định hướng hoạt động của các cơ quan báo chí để
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, tiếp tục triển khai thực hiện chủ trương mua và
đọc báo Đảng ở các chi bộ, đảng bộ. Phát huy hơn nữa vai trò của văn học, nghệ thuật trên
mặt trận tư tưởng. Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ phục vụ công tác
tuyên truyền, bảo đảm an ninh tư tưởng trên môi trường không gian mạng.
+ Bốn là, tiếp tục đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, quán triệt, triển khai
nghị quyết của Đảng. Đưa việc bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán
bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của cấp ủy cơ sở đi vào nền nếp.
Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý
luận chính trị, nghiệp vụ công tác đảng và bồi dưỡng đảng viên mới. Nâng cao phẩm chất,
năng lực của đội ngũ giảng viên chính trị, báo cáo viên.
- Thứ hai, Tăng cường công tác xây dựng Đảng về đạo đức
19

+ Một là, thực hiện đồng bộ các giải pháp ngăn chặn, kịp thời phát hiện, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên.
+ Hai là, Xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của tổ chức Đảng, đảng viên. Đẩy
mạnh giáo dục đào luyện đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức tu dưỡng rèn luyện đạo đức
cách mạng, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người
đảng viên. Tiếp tục thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ ,
đảng viên, trước hết là người đứng đầu các cấp.
+ Ba là, tổ chức các vi sinh hoạt chuyến đề Xây dựng Đảng về đạo đức, góp phần
xây dựng, đội ngũ đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong
sáng, thực sự tiện đấu tranh tự phê bình và phê bình.
+ Bốn là, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng: kết
hợp với phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc các tổ chức
chính trị - xã hội và Nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu và bộ chủ chốt.
1.2. Tăng cường xây dựng tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị
- Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, kiện toàn tổ chức đảng đồng bộ, phù hợp với tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị, quan tâm xây dựng tổ chức đảng trong các đơn vị
ngoài nhà nước, nâng cao vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức đảng, bảo đảm sự lãnh đạo
toàn diện của Đảng ở mỗi cơ quan, địa phương, đơn vị.
- Hai là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đảng bộ, chi bộ đạt tiêu chuẩn trong
sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và
chất lượng đội ngũ đảng viên. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức trong sinh hoạt
đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Tiếp tục đổi mới, nâng
cao chất lượng sinh hoạt phù hợp với từng loại hình chi bộ. Thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc
công tác quản đảng viên. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng
tưởng cách mạng, phát huy tính tiền phong, gương mẫu của mỗi đảng viên.
Nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên, chú trọng phát triển đảng viên là
đoàn viên thanh niên, học sinh, sinh viên ở nông thôn, đơn vị kinh tế tư nhân. Thực hiện
việc rà soát, sàng lọc đội ngũ đảng viên, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra
khỏi Đảng.
1.3. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên
- Thứ nhất, Xây dựng tổ chức cơ sở đảng
20

+ Một là, tiếp tục củng cố, kiện toàn mô hình tổ chức cơ sở đảng phù hợp với đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của
Đảng ở cơ sở. Hoàn thiện mô hình tổ chức đảng trực thuộc đảng ủy xã, phường, thị trấn;
mô hình tổ chức đảng trong các doanh nghiệp: Đây mạnh xây dựng tổ chức đảng trong các
đơn vị kinh tế ngoài khu vực nhà nước.
+ Hai là, rà soát, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, môi quan hệ
công tác của một số loại hình tổ chức cơ sở đảng. Xây dựng và thực hiện nghiêm quy chế
làm việc của cấp ủy cơ sở.
+ Ba là, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức trong sinh hoạt đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ phù hợp với từng loại hình chi bộ; tăng cường
kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý cấp ủy, chi bộ, đảng viên vi phạm quy định, nguyên tắc
sinh hoạt đảng. Khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm trong tự phê bình và
phê bình, nhất là ở các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và các loại hình doanh
nghiệp. Thực hiện nghiêm túc việc phân công cấp ủy viên các cấp dự sinh hoạt chi bộ hằng
tháng.
+ Bốn là, thực hiện thí điểm sinh hoạt đảng hằng tháng tại tổ đảng, thay cho sinh hoạt
chi bộ ở một số chi bộ khu dân cư (thôn, khu phố, làng) có đông đảng viên.
+ Năm là, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả tự phê bình và phê bình, đánh giá, xếp loại
chất lượng tổ chức đảng, đảng viên hằng năm.
+ Sáu là, bồi dưỡng kỹ năng và nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp | ủy viên cơ
sở, nhất là bí thư, phó bí thư cấp ủy. Cơ bản thực hiện mô hình bí thư đảng ủy đồng thời là
chủ tịch HĐND cấp xã. Thực hiện mô hình bí thư đảng ủy đồng thời là CT UBND cấp xã,
thị trấn , bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, trưởng khu phố ở những nơi có đủ điều
kiện.
+ Bảy là, cấp ủy, bí thư cấp ủy phải chịu trách nhiệm về mọi mặt công tác tại cơ sở.
Nếu địa phương, cơ quan, đơn vị xảy ra tham nhũng, tiêu cực, mất đoàn kết nội bộ hoặc
mất an ninh trật tự thì cấp ủy, bí thư cấp ủy phải xem xét xử lý.
- Thứ hai, Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
+ Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Bồi dưỡng lý tưởng, nhân
sinh quan cách mạng, nâng cao nhận thức và trình độ lý luận chính trị cho đảng viên.
+ Hai là, nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên. Mỗi cấp ủy, chi bộ và
đảng viên phải có trách nhiệm trong công tác phát triển đảng viên. Chủ động tạo nguồn,
bồi dưỡng quần chúng cảm tình đảng để Phát triển đảng viên mới. Chú trọng phát triển
21

đảng viên là đoàn viên thanh niên, trí thức, quân nhân dự bị, dân quân tự vệ, học sinh, sinh
viên, ở nông thôn, công nhân trong các đơn vị kinh tế tư nhân.
+ Ba là, tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên. Hằng năm, chi
ủy, bí thư chi bộ rà soát, điều chỉnh việc phân công công tác cho từng đảng viên; quy định
rõ trách nhiệm của đảng viên trong việc chấp hành chế độ sinh hoạt đảng và thực hiện
nhiệm vụ được chi bộ phân công. Thường xuyên rà soát, sàng lọc đưa những đảng viên
không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
+ Bốn là, tiếp tục thực hiện nghiêm túc chế độ kiểm tra đảng viên chấp hành. Điều lệ
Đảng định kỳ tại chi bộ. Phát hiện kịp thời, kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện vi phạm,
xử lý nghiêm những đảng viên có động cơ sai trái, tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích
nhóm”, lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, internet, mạng xã hội... để xuyên tạc,
kích động, gây mất đoàn kết nội bộ.
+ Năm là, triển khai thực hiện quy định đảng viên là trưởng, phó các cơ quan cấp
tỉnh dự sinh hoạt đảng bộ cấp xã: trưởng, phó các cơ quan cấp huyện dự sinh hoạt chi bộ
thôn; cán bộ xã theo dõi xóm, tổ dân phố, đảng viên phụ trách nhóm hộ gia đình,
1.4. Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
- Một là, tăng cường kiểm tra, giám sát tổ chức cơ sở đảng và đảng viên thực hiện
Điều lệ Đảng, các chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Gắn kiểm tra, giám sát tổ chức đảng với kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp
ủy trong thực hiện quy chế làm việc, thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao; rèn luyện,
giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; trách nhiệm nêu gương và thực hiện các quy định về
những điều cán bộ, đảng viên không được làm.
- Hai là, đẩy mạnh tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của các cấp ủy, tổ chức
đảng. Chủ động, thường xuyên kiểm tra, giám sát đảng viên trong chi bộ. Tăng cường
giám sát chuyên đề đối với tổ chức cơ sở đảng và đảng viên là cấp ủy viên, cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên, việc chấp hành chế độ sinh
hoạt và thực hiện nghị quyết của chi bộ.
- Ba là, chủ động nắm chắc tình hình hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên,
nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp, các ngành, địa phương, cơ
quan, đơn vị để phát hiện dấu hiệu vi phạm khi mới xuất hiện.
- Bốn là, phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra của tổ chức đảng với công tác
thanh tra, giữa công tác giám sát của tổ chức đảng với giám sát của hội đồng nhân dân và
của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp. Phát huy vai trò giám sát của
nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ và rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
22

1.5. Đổi mới mạnh mẽ phong thức lãnh đạo của Đảng ở cơ sở
- Một là, xây dựng và rà soát, bổ sung quy chế làm việc của cấp ủy, chi bộ. Xác định
rõ quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các cấp ủy trong lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị. Quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu và mối
quan hệ giữa tập thể cấp ủy, tổ chức Đảng với người đứng đầu, bảo đảm nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Hai là, nâng cao chất lượng ban hành, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết,
kế hoạch công tác hằng năm của cấp ủy. Đổi mới mạnh mẽ phong cách lãnh đạo, phương
pháp công tác, lề lối làm việc của cấp ủy. Thực hiện giảm hội họp, dành thời gian đi cơ sở,
tổng kết thực tiễn, gặp gỡ, tiếp xúc lắng nghe, đối thoại với Nhân dân.
- Ba là, đổi mới công tác tuyên truyền, vận động của tổ chức cơ sở đảng theo hướng
nâng cao tính giáo dục, thuyết phục , tính chiến đấu, tạo sự thống nhất trong đảng bộ, chi
bộ và sự đồng thuận trong Nhân dân. Các tổ chức đảng đảng viên phải gương mẫu tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật, nêu cao vai trò tiên phong trong thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; làm cơ sở, nền tảng vận động quần chúng
thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Bốn là, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu của Đảng bộ. Đây mạnh cải cách hành
chính, ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong hoạt động lãnh. đạo, chỉ đạo của các
cấp ủy.
1.6. Coi trọng công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa cấp ủy, tổ
chức đảng với nhân dân
- Một là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng cơ sở đối với công tác dân vận,
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, và Nhân dân tham gia
xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Nâng cao chất lượng công tác dân vận; xác
định nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, hiệu quả để tiếp tục đổi mới công tác dân vận của hệ
thống chính trị ngay từ cơ sở.
- Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của các cấp ủy, chi
bộ và chính quyền cơ sở. Chú trọng công tác dân vận đối với đồng bào dân tộc thiểu số,
đồng bào tôn giáo. Tăng cường phối hợp, thực hiện quy chế công tác dân vận của hệ thống
chính trị. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa chính quyền, các cơ quan, tổ chức với Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp trong thực hiện công tác dân vận.
- Ba là, thực hiện tốt công tác dân vận chính quyền. Thực hiẹn nghiêm có hiệu quả
các quy định về dân chủ ở cơ sở, công tác tiếp dân, đối thoại với nhân dân, giải quyết
những kiến nghị chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Xử lý kịp thời, dứt điểm các vấn đề
23

bứcxúc liên quan đến đời sống Nhân dân, các vụ khiếu kiện đông người, vượt cấp, kéo dài,
không để hình thành | nóng về an ninh, trật tự xã hội.
- Bốn là, nắm chắc tình hình tư tưởng của Nhân dân, nhất là ở những địa bàn trọng
điểm về an ninh trật tự, xử lý kịp thời các tình huống phức tạp nảy sinh. Thực hiện nề nếp
việc bí thư cấp ủy, người đứng đầu chính quyền định kỳ đối thoại, tiếp xúc với đảng viên
và Nhân dân.
- Năm là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
tổ chức chính trị - xã hội. Xây dựng tổ chức cơ sở vững mạnh. Nâng cao hiệu quả công tác
đoàn kết, tập hợp quần chúng, phát triển đoàn viên, hội viên, nhất là ở địa bàn dân cư.
- Sáu là, phát triển các mô hình tự quản ở cộng đồng dân cư, huy động các nguồn lực
trong Nhân dân tham gia các chương trình phát triển kinh tế - Xã hội ở địa phương. Nâng
cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội và đóng góp xây dựng Đảng, chính
quyền vững mạnh đáp ứng yêu cầu tình hình mới.
1.7. Công tác cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ
- Một là, xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý đủ về số lượng và bảo đảm về tiêu chuẩn, chất lượng, bố trí, sử dụng hợp lý
và có cơ cấu hài hoà về độ tuổi, cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán
bộ trí thức, cán bộ quản trị doanh nghiệp nhằm phát huy năng lực, sở trường của đội ngũ
cán bộ; bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng cán bộ; bảo đảm công khai,
dân chủ, công bằng và minh bạch trong công tác cán bộ. Chú trọng nâng cao trình độ cán
bộ, đảng viên; thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định, quy chế, chế
độ chính sách đối với cán bộ.
- Hai là, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chú trọng chính trị hiện nay.
Tập trung rà soát, thẩm tra tiêu chuẩn chính trị của đội ngũ cán bộ , nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp.
1.8. Tăng cường công tác nội chính. Đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực
- Một là, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và
hành động, nhất là nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên
trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Tăng cường giám sát, kiểm soát quyền
lực, thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các
tổ chức cơ quan, đơn vị theo quy định; kịp thời phát hiện, xử lý kiên quyết, nghiêm mình,
24

công khai, đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với các vụ án, vụ việc
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
- Hai là, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan, đơn vị làm công tác phòng, chống tham nhũng. Đấy mạnh. công tác cải cách tư pháp;
đổi mới và nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp trong hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử, thị hành án.
2. Đổi mới công tác xây dựng Hệ thống chính trị tỉnh Bình Định, giai đoạn 2020-
2025:
2.1. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy chính quyền tỉnh Bình Định
theo hướng tinh giản, hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân vì Nhân dân
Nâng cao vai trò và chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân, hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước của ủy ban nhân dân các cấp trong tỉnh. Tập trung hoàn thiện thể chế về
tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân các cấp. Lấy mạnh phân
cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực. Xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các sở, ngành tỉnh và phòng, ban cấp huyện. Thực hiện đổi mới hệ thống tổ
chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, gọn, có năng lực tự
chủ, hoạt động hiệu quả.
Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức có bản lĩnh chính chính trị vững vàng, đạo
đức trong sáng, tinh thông về nghiệp vụ, năng động, sáng và thiện danh mục và bản mô tả
vị trí việc làm trong các cơ quan hành hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập gắn với sắp
xếp bố trí cán bộ, công chức, tinh giản biên chế và cải cách chính sách tiền lương.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong cải
cách hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính. Tăng cường giám sát, kiểm tra
việc thực hiện cải cách hành chính.
2.2. Tiếp tục củng cố, tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chủ động phối hợp với các cấp,
các ngành nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên
và các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy, chính quyền địa phương; thực hiện có hiệu quả việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đang đi huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các
tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
25

chính trị. Nâng cao chất lượng công tác dân vận; xác định nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, hiệu
quả để tiếp tục đổi mới công tác dân vận của hệ thống chính trị. Thực hiện tốt công tác dân
vận chính quyền và quy chế dân chủ ở cơ sở.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và tổ chức
chính trị - xã hội. Xây dựng tổ chức cơ sở vững mạnh. Nâng cao hiệu quả công tác đoàn
kết, tập hợp quần chúng, phát triển đoàn viên, hội viên, nhất là ở địa bàn dân cư. Đẩy mạnh
các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo”; tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân.
2.3. Tăng cường mối quan hệ giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị và cơ chế
thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa
Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động, của các cấp uỷ đảng, hệ thống
chính trị về công tác dân vận. Tăng cường đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của
các cơ quan Cảng, nhà nước và cả hệ thống chính trị. Phát huy vai trò của Nhân dân tham
gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
trong tình hình mới.
Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “gần dân, tin dân, trọng dân, hiểu dân, học
dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”. Thực hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận
khéo”.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan Đảng, Nhà
nước và chính quyền các cấp. Chú trong công tác dân vận đối với đồng bào dân tộc thiểu
số, đồng bào tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài, Chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ chuyên trách công tác dân vận, Nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện
xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; đa dạng hoá
các hình thức tổ chức và phương thức tập hợp, vận động, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện
vọng hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân, phù hợp với biến đổi cơ cấu xã hội
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kịp thời thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về công tác dân vận thành pháp
luật của Nhà nước. Tiếp tục cụ thể hoá phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Lãnh đạo thể chế hoá Hiến pháp về quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân nhằm phát huy cao nhất quyền làm chủ của Nhân dân trong quá
trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Nghiên cứu, ban hành cơ chế để Nhân dân
tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ. Tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các
nghị quyết của Đảng về công tác dân vận.
Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động Nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và
26

trách nhiệm của công dân; đồng thời chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình
thức, mị dân. Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân và quan tâm chăm lo đời sống của
Nhân dân.
2.4. Tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Bình Định
Tiếp tục quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng lãnh đạo công tác cán bộ
và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng
đầu các tổ chức trong chính trị về công tác cán bộ. Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy
đị chế, cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ chẽ giữa các khâu,
liên thông giữa các cấp.
Xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán. đạo, quản lý đủ về
số lượng và bảo đảm về tiêu chuẩn, chất lượng; bố - dụng hợp lý và có cơ cấu hài hoà về
độ tuổi, cán bộ nữ, cán bộ trẻ, các người dân tộc thiểu số, cán bộ trí thức, cán bộ quản trị
doanh nghiệp nhà phát huy năng lực, sở trường của đội ngũ cán bộ; bổ sung, hoàn thiện cơ
chế, chính sách thu hút, sử dụng cán bộ; bảo đảm công khai, dân chủ, công bằng và minh
bạch trong công tác cán bộ. Chú trọng nâng cao trình độ cán bộ, đảng viên; thường xuyên
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định, quy chi chế độ chính sách đối với cán bộ.
Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chú trọng chính trị hiện nay. Tập trung rà
soát, thẩm tra tiêu chuẩn chính trị của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp.
Hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm gắn với rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức và tinh viản biên chế tăng cường kiểm soát quyền lực gắn với siết
chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức,.
Thực hiện nghiêm các quy định về trình tự, thủ tục và tiêu chuẩn chức danh khi bổ
nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ, định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ
chuyên môn theo quy định. Tăng cường thanh, kiểm tra để kịp thời phát hiện và xử lý
nghiêm những trường hợp sai phạm trong tuyển dụng, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ, công
chức, viên chức.
Thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp huyện không là người địa phương ở
những nơi đủ điều kiện. Thí điểm tổ chức thi tuyển cạnh tranh vào các vị trí lãnh đạo, quản
lý cấp phòng trở lên và các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các sở, ban, ngành, ủy ban
nhân dân các huyện, thị xã, thành phố.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vụ trong đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức. Đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá cán bộ theo kết quả công việc.
Bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo,
dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung.
27

Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng. Hoàn thành việc bồi
dưỡng tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp theo CHỉ thị số 28/CT-TTg ngày
18/9/2019 của Thủ tướng Chính phủ.
Tóm lại, Xác định rõ nhiệm vụ và giải pháp đổi mới công tác xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị trong từng giai đoạn là một việc vô cùng quan trọng. Từ cơ sở này, các địa
phương, cơ quan, đơn vị có thể vận dụng vào công tác lãnh đạo điều hành thực tế, góp
phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà
28

Câu 5. Phân tích nội dung và phương thức chống phá chủ yếu của các thế lực thù
địch đối với nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay. Liên hệ thực tiễn
Hoạt động phá hoại chính trị, tư tưởng: đây là mặt trận nóng bỏng hàng đầu, là khâu
“đột phá khẩu” trong chiến lược "“diễn biến hòa bình”" của chủ nghĩa đế quốc trong đó có
chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Trong đó chúng xác định:
- Chống phá chính trị, tư tưởng làm khâu đột phá
- Chống phá về kinh tế làm mũi nhọn
- Lấy dân tộc, tôn giáo dân chủ, nhân quyền làm ngòi nổ
- Dùng ngoại giao, quân sự hỗ trợ, hậu thuẫn
- Lấy quân sự răn đe, sẵn sàng can thiệp khi có điều kiện, thời cơ.
Nội dung và phương thức chống phá chủ yếu của các thế lực thù địch đối với nền tảng
tư tưởng của Đảng ta được thể hiện ở một số điểm:
1. Nhận diện nội dung các quan điểm sai trái, thù địch
Một là, tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng (chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh); sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử cách
mạng Việt Nam; tấn công vào cá nhân các đồng chí lãnh đạo, các lãnh tụ của Đảng, ...
Các thế lực thù địch tập trung tấn công thẳng vào mặt trận lý luận đó là chủ nghĩa
Mác – Lê nin, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, thực hiện đa nguyên, đa
Đảng, “dân chủ”, “nhân quyền”; đả phá nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức
có ý nghĩa sống còn của Đảng cộng sản. Xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, công
tác quản lý điều hành của Nhà nước nhất là chính sách đối ngoại, chủ trương giải quyết vấn
đề Biển Đông; truyền bá khuynh hướng “xã hội dân sự”, Đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp năm
2013; xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ uy tín của Đảng, kích động trào lưu “bỏ Đảng”. Đặc biệt,
các phần tử xấu, cơ hội chính trị điên cuồng chống phá, không từ một thủ đoạn nào, từ
xuyên tạc sự thật lịch sử, bôi nhọ nhân cách và phẩm giá, đến đánh giá phiến diện, sai trái;
tìm mọi cách “hạ thấp uy tín, bôi nhọ lãnh tụ” của Đảng ta, bài bác, hòng phủ nhận tư
tưởng của Hồ Chí Minh. Các thế lực thù địch còn ra sức rêu rao: “Đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập là điều kiện cần thiết để thực thi dân chủ ở Việt Nam”. Thực chất đây là
những luận điệu phản động, sai trái, bịa đặt nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Hai là, phá hoại tư tưởng, chia rẽ nội bộ, xuyên tạc, bịa đặt, thông tin lợi dụng các
vấn đề nhạy cảm chính trị xã hội, vụ việc phức tạp thu hút sự quan tâm của quần chúng,
29

các tổ chức phản động kích động biểu tình, gây bất ổn về an ninh, trật tự, tìm thời cơ tiến
hành bạo loạn lật đổ tại Việt Nam, ...
Triệt để lợi dụng các vấn đề nóng, bức xúc trong xã hội như tham nhũng, tiêu cực ,
khiếu kiện, tranh chấp đất đai… để tuyên truyền, khoét sâu mâu thuẫn, yếu kém, lấy hiện
tượng đơn lẻ để quy thành bản chất nhằm kích động, gây mâu thuẫn nội bộ, kích động các
giai tầng xã hội phản đối sự lãnh đạo của Đảng. Về lý luận, chúng ra sức phê phán Đảng áp
dụng máy móc học thuyết Mác-Lê nin trong hoạch định đường lối phát triển đất nước; khái
niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” chỉ là ảo tưởng; vu cáo Đảng tiêu
tốn ngân sách, thiếu năng lực quản lý, điều hành, độc tài, tham nhũng…
Ba là, lợi dụng những sai lầm. khuyết điểm của Đảng để xuyên tạc bản chất Đảng.
Mục đích là hạ uy tín của Đảng, làm cho nhân dân mất niềm tin và Đảng.
Mặt khác chúng lợi dụng những khó khăn, sai lầm, thiếu sót trong công tác điều hành,
quản lý nhà nước, gây mâu thuẫn nội bộ, chia rẽ Đảng với nhân dân, kích động đòi “dân
chủ hóa” đời sống chính trị xã hội, đòi tiến hành “bầu cử tự do” theo chế độ đa nguyên, đa
Đảng và tìm mọi cách để tài trợ, giúp đỡ các phần tử đối lập thắng cử, giành những vị trí
lãnh đạo quan trọng để từng bước thiết lập “chuyên chính tư sản”, xóa bỏ chính quyền cách
mạng ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, lợi dụng vấn đề chống tham nhũng nhất là sau khi ta xét xử một số vụ án
tham nhũng kinh tế các đối tượng thù địch thông qua các trang mạng xã hội tuyên truyền,
xuyên tạc, bóp méo sự thật về cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam. Lợi dụng
cuộc đấu tranh chống tham nhũng kêu gọi biểu tình, khiếu kiện đông người làm ảnh hưởng
đến tình hình an ninh - chinh tri, trật tự an toàn xã hội, ...
Việc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta gần đây diễn ra rất kiên
quyết, mạnh mẽ, “Sai phạm đến đâu thì xử lý đến đó và không có vùng cấm, không có
ngoại lệ, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào” được cán bộ,
đảng viên và nhân dân đồng thuận, ủng hộ. Tuy nhiên, các thế lực phản động, những kẻ đội
lốt “dân chủ” bóp méo rằng, công tác phòng chống tham nhũng của Đảng chỉ là sự “thanh
lọc” trong nội bộ chứ không phải vì mục đích phục vụ sự phát triển của đất nước; chúng
còn vu cáo, tham nhũng là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, thể chế một đảng không
thể chống được tham nhũng... Chúng lợi dụng việc xử lý kỷ luật những cán bộ, đảng viên
vi phạm, gây hậu quả nghiêm trọng, nhất là sau việc Ủy ban Kiểm tra Quân ủy Trung ương
đề nghị kỷ luật Ban Thường vụ Đảng ủy Học viện Quân y và 12 quân nhân có vi phạm, các
phần tử xấu thổi phồng, “vơ đũa cả nắm”, ... tung luận điệu rằng: “Tham nhũng xảy ra ở
toàn quân, ...”. Thực chất đây là kiểu quy chụp, chúng đưa những thông tin sai trái, xuyên
tạc nhằm lái dư luận sang chiều hướng tiêu cực, hòng làm giảm lòng tin của nhân dân vào
30

sự lãnh đạo của Đảng, giảm uy tín, vai trò của quân đội; tự bịa đặt, suy diễn, kích động làm
“nóng” tình hình. Các thông tin do các thế lực thù địch, cơ hội chính trị nhào nặn rất tinh
vi, trộn lẫn tốt xấu, thật giả, khó nhận diện, trở nên cực kỳ nguy hiểm.
2. Phương thức chống phá của các thế lực thù địch
Thứ nhất, các thế lực thù địch sẵn sàng dùng mọi phương thức, biện pháp, phương
tiện, hình thức có thể để thực hiện chống phá: Tuyên truyền miệng, các phương tiện truyền
thông hiện đại, mạng xã hội, các loại hình văn hóa, nghệ thuật, xuất bản, báo chí, ... đều
được chúng tận dụng tối đa. Bọn chúng sử dụng không gian mạng để tuyên truyền, kích
động, lôi kéo, tập hợp dư luận, gây hoang mang trong dư luận xã hội. Chuyển hóa các bài
viết có sẵn thành thể thơ hoặc bài hát phát trên các kênh âm nhạc trực tuyến làm công cụ
tuyên truyền, chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.
Thứ hai, xây dựng các website, blog, facebook, fanpage giả mạo của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có uy tín để đăng tải thông tin xuyên tạc tình hình chính trị, kinh tế, xã hội,
xuyên tạc về bản chất chế độ XHCN và kích động chống đối. Chủ yếu là sử dụng phương
tiện truyền thông đại chúng ở nước ngoài, sản xuất băng, đĩa hình chuyển vế trong nước;
tài trợ tài chính cho một số cơ quan báo chí nước ngoài chuyên chống phá Việt Nam, …
Các thế lực thù địch, phản động tăng cường hoạt động chống phá nước ta với âm mưu, thủ
đoạn hết sức tinh vi, nham hiểm, xảo quyệt, đặc biệt là chúng lợi dụng internet, mạng xã
hội đưa những ý kiến trái với quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, phản ánh sai tình hình thực tiễn cách mạng, đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam như: Tổ chức Việt Tân, Đài Á châu
tự do, BBC Việt ngữ, thoibao.de, … thường xuyên đăng tải, tung thông tin sai sự thật
chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm 2014, Tổ chức phản động nước ngoài sử dụng dịch vụ Popfax (dịch vụ sử dụng
giao thức mã hóa và không lưu địa chỉ IP người gửi fax trên mạng Internet) để tán phát
“Lời kêu gọi đầu năm” tới 200 cơ quan, doanh nghiệp, nhà hàng, khách sạn tại 34 tỉnh,
thành phố kêu gọi “Tổng tuyển cử tự do, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên,
đa đảng”
Thứ ba, chống phá bằng cách tung ra những thông tin lập lờ giữa đúng và sai, giữa
thật và giả, kể cả bịa đặt trắng trợn để gây hoài nghi trong nhân dân. Thậm chí, chúng dựng
lên những sự việc, sự kiện không có thật, gây hoang mang, thất thiệt trong quần chúng
nhân dân.
Chúng lợi dụng phức tạp tình hình trên Biển Đông và chủ trương xử lý của Đảng,
Nhà nước ta để xuyên tạc, kích động. Nhất là thời điểm Trung Quốc đưa giàn khoan Hải
Dương 981 vào vùng biển, thềm lục địa nước ta hoặc thời điểm Quốc hội nước ta đang
31

xem xét thảo luận về Luật Đặc khu, Luật biểu tình... để kích động tuyên truyền, bịa đặt,
làm một bộ phận người dân biểu tình tại các thành phố lớn, Bình Thuận... Ngoài ra lợi
dụng những khó khăn sau đại dịch Covid 19, lạm phát thất nghiệp tăng cao, các điều kiện
an sinh xã hội bị cắt giảm để tuyên truyền, kích động người dân nhằm mục đích làm phức
tạp tỉnh hình, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân.
Thứ tư, ngoài ra, các thế lực thù địch còn lợi dụng dân chủ, những sơ hở trong pháp
luật nước ta để viết bài, bản kiến nghị, đơn đề nghị, thư ngỏ gửi các đồng chí lãnh đạo cấp
cao, các tổ chức, ban ngành để chống phá Những bài viết, bản kiến nghị, thư ngỏ loại này
rất đa dạng, đề cập đến nhiều vấn đề từ lịch sử đến hiện tại, từ lý luận chính trị đến Cương
lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, …
Một số văn nghệ sĩ, trí thức, cán bộ lão thành đăng tải lên mạng hàng trăm tài liệu, thư
kiến nghị, trả lời phỏng vấn báo, đài bên ngoài có nội dung trái chiều, phê phán sự lãnh đạo
của Đảng, Nhà nươc, xuyên tạc nội bộ, đòi từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lê nin, đổi tên Đảng, tên
nước đã tác động tiêu cực đến một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
2. Liên hệ thực tiễn
Trong thời gian qua, trên địa bàn tỉnh Bình Định hoạt động phá hoại tư tưởng của các
thế lực thù địch, phần tử bất mãn tiếp tục tiềm ẩn phức tạp về hình thức và nội dung. Đáng
chú ý, việc một số Đảng viên, trí thức, văn nghệ sĩ… thiết lập và sử dụng Weblog, mạng xã
hội facebook với nhiều từ ngữ thô tục, sáng tác kịch nhiều hồi dựa vào những sự việc có
thật với mục đích xúc phạm, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm các tổ chức, cá nhân; đăng thơ
ủng hộ việc làm của các đối tượng “đấu tranh cho dân chủ, tự do” bị pháp luật ta xử lý về
tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam; bày tỏ quan điểm “cấp tiến” phê
phán chủ trương đường lối của Đảng, nhà nước; đặt đường liên kết đến các Website của
các tổ chức phản động để khai thác thông tin tài liệu có nội dung xấu, giới thiệu cho nhiều
người cùng xem thông qua trang tin điện tử cá nhân.
Trên các trang thông tin điện tử, các thế lực thù địch, phản động triệt để khai thác các
thông tin liên quan đến việc khiếu nại, khiếu kiện của người dân yêu cầu về chính sách đền
bù, giải tỏa mặt nước nuôi trồng thủy sản, hỗ trợ hoa màu, tận thu titan, thực hiện các dự án
điện gió, điện mặt trời nhằm phát triển kinh tế của các doanh nghiệp (Lộ Diêu, Hoài Nhơn;
Mỹ Thành, Mỹ An-Phù Mỹ…) và việc giải quyết chế độ, chính sách, việc thực thi pháp
luật về đất đai (Dự án nâng cấp mở rộng Quốc lộ 1A, 1D, 19…) các phần tử xấu xoáy sâu,
thổi phồng một số bất cập trong việc phòng chống dịch Covid 19, trong việc vận dụng chủ
trương, chính sách của Đảng, nhà nước và lãnh đạo cấp tỉnh, các sai phạm, thiếu sót của
cán bộ lãnh đạo cơ sở, đăng các bài viết có nội dung chống Đảng và Nhà nước ta.
32

Trước tình hình đó, Lãnh đạo Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã thường xuyên chỉ đạo các cơ
quan, ban ngành, đoàn thể đăng tải hàng nghìn lượt tin, bài tuyên truyền, định hướng dư
luận trên Trang Thông tin điện tử và các trang facebook do các sở, ban, ngành quản lý; gỡ
bỏ 01 clip và nhiều tin, bài đăng tải, chia sẻ trên các trang mạng xã hội không đúng sự thật
liên quan công tác phòng, chống dịch. Nắm chắc tình hình, phòng ngừa, ngăn chặn hoạt
động phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch, phản động; kịp thời phát hiện, đấu tranh
với âm mưu thực hiện "diễn biến hòa bình", các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Thành lập Đoàn kiểm tra tiến hành kiểm tra việc chấp hành các quy định của
pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước trên không gian mạng tại các cơ quan, ban, ngành.
Ban Chỉ đạo 35 tỉnh ban hành Quy chế hoạt động của Tiểu ban chỉ đạo An toàn An ninh
mạng Bình Định; đăng tải hơn 1000 tin, bài, video clip, phóng sự tuyên truyền bảo vệ nền
tảng tư tưởng của đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch và định hướng
dư luận xã hội và mang lại hiệu quả tích cực.
33

CÂU 6. Phân tích tình hình công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, Đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình hiện nay ở tỉnh bình
Định
Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức phá hoại, xuyên tạc chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, công kích nền tảng tư tưởng của Đảng ta hòng làm
giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động của các
đảng cộng sản và công nhân trong sự nghiệp đấu tranh chống các thế lực áp bức, bốc lột và
xây dựng CNXH trong suốt thế kỷ XX cho đến nay. Do đó, bảo vệ nền tảng tư tương của
Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ trọng yếu, có ý
nghĩa sống còn trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đã
được khẳng định trong các văn bản của Đảng như: (Nghị quyết Trung ương 6 Khóa VI
tháng 3/1989 “về kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng
nhiệm vụ ba năm tới” ; Hội nghị Trung ương 7 Khóa VI; Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)...
Đặc biệt, việc lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng được thể hiện đậm nét
nhất trong Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị (ngày 22/10/2018) “Về tăng cường
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
trong tình hình mới” đã cho thấy tính cấp thiết của việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong điều kiện hiện nay.
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng CS VN lần thứ XIII xác định: “Coi trọng xây dựng
đảng về tư tưởng. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo
hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả, nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục,
tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng HCM,
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Nắm bắt, dự báo
đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong đảng,
trong XH. Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội đảm bảo tính thống nhất tư tưởng
trong Đảng, đồng thuận cao trong XH. Đẩy mạnh tổng kết thực tiến, nghiên cứu lý luận,
hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới cũng như lý luận về CN XH và con
đường đi lên CNXH ở VN.
Trước hết cần nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch tập trung vào các nội
dung đó là:
Một là, tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng; sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc
Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lịch sử
34

dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử CMVN; tấn công vào cá nhân đồng chí lãnh đạo, các lãnh tụ
Đảng…
Hai là, phá hoại tư tưởng, chia rẻ nội bộ, xuyên tạc, bịa đặt, thông tin lợi dụng các
vấn đề nhạy cảm chính trị xã hội, vụ việc phức tạp thu hút sự quan tâm của quần chúng,
các tổ chức phản động kích động biểu tình, gây bất ổn về anninh, trật tự, tìm thời cơ tiến
hành bạo loạn lật đổ tại VN.
Ba là, lợi dụng những sai lầm, khuyết điểm của Đảng để xuyên tạc bản chất Đảng.
Mục tiếu là hạ uy tín của Đảng, làm cho nhân dân mất niềm tin vào Đảng.
Bốn là, lợi dụng vấn đề chống tham nhũng kêu gọi biểu tình, khiếu kiện đông người
làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội,…
* Truớc tình hình trên, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong thời gian, tỉnh Bình Định đã đạt được
một số kết quả sau:
- Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo: Thực hiện Chỉ thị số 34-CT/TW ngày
17/4/2009 của Ban Bí thư TW Đảng về tăng cường đấu tranh phòng, chống âm mưu “ Diễn
biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa; Nghị quyết số 35-NQ/TW về “tăng cường
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
trong tình hình mới”, theo đó, nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ
sở về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác tư tưởng nói chung, công tác đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, thông tin xấu độc đã được nâng lên, góp phần giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh; không để xảy ra các tình huống bị
động, bất ngờ, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị.
Ban thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị số 41-CT/TU ngày 23/10/2018 “về nâng
cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong việc sử dụng internet, mạng xã hội và
đấu tranh phản bác các quan điểm, thông tin sai trái, thù địch trong tình hình mới”; Kế
hoạch số 52-KH/TU ngày 03/6/2019 về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản
bác các quan điểm sai trái thù địch trong tình hình mới và các văn bản liên quan. Đã thành
lập Ban chỉ đạo 35 cấp tỉnh, ban tuyên giáo Tỉnh ủy BĐ là cơ quan thường trực Ban Chỉ
đạo 35 của tỉnh, ban hành quy chế hoạt đọng của Ban chỉ đạo 35 và các văn bản chỉ đạo
thực hiện công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng , đấu tranh phản bác các quan điểm
sai trái, thù địch.
Tích cực chủ động đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch, phản động,.. Qua đó đã kịp thời nắm bắt, thông báo tình
hình chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, cũng như định hướng
35

công tác đấu tranh phản bác cho cơ quan làm công tác tư tưởng văn hóa, các huyện, thành,
thị ủy và đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy. Chủ động tuyên truyền định hướng, thông tin kịp
thời, chính xác để cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu rõ các chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, về các vấn đề dư luận xã hội quan tâm, giải quyết kịp thời
các vấn đề bức xúc, phức tạp, không để xảy ra “điểm nóng”, góp phần giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
- Hoạt động của Ban Chỉ đạo 35:
Ban tuyên giáo Tỉnh ủy – Cơ quan thường trực Ban chỉ đạo 35 đã chủ động, kịp thời
tham mưu đổi mới phương pháp, cách thức, hình thức đấu tranh phản bác quan điểm sai
trái, thù địch, phản động… , tích cực tham mưu triển khai thực hiện Nghị quyết số 35-
NQ/TW và các văn bản, kế hoạch của Trung ương và Ban Thường vụ tỉnh ủy ban hành.
Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị , địa phương trên địa bàn tỉnh tăng cường công tác quản lý cán
bộ, đảng viên, yêu cầu không đăng tải, chia sẻ các nội dung xấu, tin giả mạo, sai sự thật,
kịch động kêu gọi biểu tình, chống phá người thi hành công vụ,… Tham mưu Tỉnh ủy
thành lập Tổ thư ký, nhóm chuyên gia, cộng tác viên cấp tỉnh, Ban chỉ đạo 35 cấp huyện,
tăng cường tuyên truyền, định hướng bảo đảm an ninh trật tự , phòng chống biểu tình, bạo
động, giải quyết kịp thời các vấn đề phức tạp có thể nảy sinh , không để tình trạng xảy ra
điểm nóng góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Ban Tuyên giáo tỉnh ủy tham mưu giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Đề án số
03-ĐA/TU ngày 18/10/2019 về tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch, thông tin xấu độc trên internet, mạng xã hội. Một mặt khai thác công dụng, tiện ích
của Internet, mạng xã hội trong công tác bảo vệ nền tảng tưu tưởng của Đảng; đồng thời
nâng cao chất lượng hiệu quả công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch,
thông tin xấu độc. Chỉ đạo các cơ quan báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng, đội
ngũ cộng tác viên tăng cường đăng tải, chia sẻ các bài viết có nội dung tích cực, có tính
giáo dục , tính chiến đấu và định hướng tư tưởng; vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá
của đối tượng thù địch,phản động. Kịp thời nhắc nhở các cơ quan báo chí trên địa bàn tỉnh
thực hiện tốt công tác kiểm duyệt tin, bài, phóng sự trước khi đăng tải, tránh gây hoang
mang trong dư luận.
Xây dựng, quản lý, Duy trì hoạt động các trang facebook, fanpage nhằm liên kết
tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tăng
cường thông tin, chia sẻ thông tin tốt, nhân lên các điển hình tiên tiến, trên tinh thần ‘ lấy
cái đẹp, dẹp cái xấu”. Không ngừng tuyên truyền, giáo dục, vận động cán bộ, đảng viên và
nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành Luật An ninh mạng.
36

-Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác trên các phương tiện
thông tin đại chúng:
Thực hiện sự chỉ đạo của Thường trực Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo tỉnh ủy đã mở
chuyên mục “ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”trên bản tin thông báo nội bộ phục vụ
sinh hoạt chi bộ, cung cấp thông tin cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và cấp ủy
trong toàn tỉnh để đấu tranh, phản bác thông tin sai trái của các thế lực thù địch; Phối hợp
với Công an tỉnh, Sở TT và Truyền thông đề xuất Ban Tuyên giáo TW, Bộ TT và Truyền
thông rà soát trên báo chí, mạng xã hội để nắm bắt thông tin về Bình Định, kịp thời phát
hiện, ngăn chặn gỡ bỏ tin xấu, độc trên báo, mạng xã họi facebook, kịp thời xử phạt các
hành vi vi phạm.
Hội Văn học – Nghệ thuật tỉnh, Hội Nhà báo tỉnh tích cực tuyên truyền, định hướng
để cán bộ, đảng viên, hội viên, phóng viên , các văn nghệ sĩ trên địa bàn tỉnh nêu cao tinh
thần cảnh giác, tích cự đấu tranh phản bác thông tin sai trái của thế lực thù địch, phản
động, cơ hội chính trị, không tham gia các tổ chức “ Văn đoàn độc lập”, “ Hội nhà báo độc
lấp VN”, “ Thư ngõ 61.”…
Các báo, đài của tỉnh thường xuyên duy trì chuyên mục “ theo dòng thời sự” và “
Đảng trong cuộc sống” qua đó đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên
tạc cảu các thế lực thù địch. Các cơ quan báo chí của tỉnh giữ vững bản lĩnh chính trị, đạo
đức cách mạng, bám sát định hướng, phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh.
-Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác, xử lý thông tin xấu
độc trên internet và mạng xã hội:
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã xây dựng các trang fanpage trên facebook để phục vụ
công tác tuyên truyền, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thế lực thù địch trên
mạng xã hội, thu hút nhiều người tham gia và thường xuyên theo dõi; chỉ đạo 11/11 huyện,
thành phố, thị ủy và đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy xây dựng các trang fanpage trên facebook
nhằm liên kết tuyền truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước của các
thế lực thù địch, phản động. Đến nay đã có các trang, nhóm của các địa phương, đon vi: “
Gocnhinguoibinhdinh”, Tin Bình Định, Quê ta hoài Nhơn”…
Sở TT và TT, Công an tỉnh, Báo Bình Định, Đài phát thanh và Truyền hình tỉnh ,
các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh và nhiều cơ quan, đơn vị cũng đã xây dựng và duy trì
fanfage trên facebook của cơ quan đơn vị tuyền truyền, định hướng dư luận; tích cực đấu
tranh, phản bác âm mưu , luận điệu xuyên tác của các thế lực thù địch.
37

Ban chỉ đạo 35 và Ban chỉ đạo 47 của các huyện, thị, thành ủy, đảng ủy trực thuộc
Tỉnh ủy đã tiến hành tập huấn xây dựng lực lượng tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu trtanh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, qua đó đã xây dựng được 134
nhóm với 600 thành viên; đẩy mạnh công tác tuyền truyền, chia sẻ các bài viết tích cực
trên không gian mạng thông qua các trang, nhóm.
Tổ chức xây dựng “ Lực lượng 47” với nhiều tổ và thành viên; tích cực đăng tải,
chia sẻ, bình luận đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế
lực thù địch, cơ hội chính trị trên không gian mạng. Cấp ủy Đảng nắm bắt tình hình tư
tưởng , tâm trạng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong tỉnh về “diến biến
hòa bình” bạo loạn lật đổ và các hoạt động sai trái của các thế lực thù địch và phần tử xấu.
Sở thông tin và TT tăng cường công tác quản lý báo chí, xuất bản, thông tin điện tử , thông
tin đối ngoại, thông tin cơ sở để xác điịnh nội dung vi phạm và đề xuất phương án chấn
chỉnh tình trạng hoạt đọng không đúng tôn chỉ, mục đích…
-Phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên Trường Chính trị trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác, xử lý thông tin xấu, độc của các thế lực
thù địch:
Ở mỗi môn học, phần học đều có những giá trị, ý nghĩa riêng trong phòng, chống
những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, đồng thời góp phần quan trọng và bảo
vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Theo đó, Đội ngũ giảng viên Trường Chính trị
tỉnh Bình Định đã thực hiện tốt những vấn đề sau:
+ Không ngừng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ và chuyên môn, nghiệp vụ, trình
độ lý luận chính trị là vũ khí của mỗi giảng viên để góp phần phản bác chính xác, kịp thời,
có hiệu quả đối với kẻ địch ngày càng mưu mô, xảo quyệt.
+ Tham gia các hoạt động nghiên cứu thực tế của trường, của mỗi khoa phòng, mỗi
giảng viên luôn tìm tòi, bám sát cơ sở, bams át thực tế của đất nước để có nhiều tư liệu
sống động nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp và góp phần làm hạn chế những tồn tại tiêu
cực…
+ Bản thân mỗi giảng viên- đảng viên luôn không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, mà
trước hết là đạo đức: những giá trị đạo đức tốt đẹp cảu dân tộc ta, của đạo đức CM, học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách HCM. Theo đó, mỗi giảng viên đã luôn thể hiện
sự gương mẫu trong nhận thức và trong hành động, bản lĩnh chính trị phải vững vàng,
trung thành và tin tưởng tuyệt đối vào nền tảng tư tưởng của Đảng là CN mác Lênin, tư
tưởng HCM. Bên cạnh đó, luôn tích cực, chủ động khắc phục mọi khó khăn, có trách
nhiệm với nhiệm vụ chính trị mà cơ quan đơn vị giao cho; bản thân mỗi đồng chí giảng
38

viên đã không ngừng tích cực rèn học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ mọi mặt, nhất là
trình độ năng lực giảng dạy, nghiên cứu khoa học , đồng thời tích cực tham gia đấu tranh
phòng chống có hiệu quả chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên các
lĩnh vực tư tưởng, chính trị , văn hóa, góp phần vào khẳng định về vai trò, sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân nói chung cũng như bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta nói
riêng.
Mặc khác nghiên cứu khoa học với các đề tài nghiên cứu sẽ góp phần không nhỏ cho
các bài giảng thêm sống động, thuyết phục, mặt khác việc xuất bản thông tin lý luận ở
Trường CHính trị hàng năm cũng đã giúp các đồng chí giảng viên nâng cao khả năng viết,
đề cập đến các chủ đề khác nhau, trong đó, có chủ đề đấu tranh phản bác quan điểm sai
trái, thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Ngoài ra việc tham gia viêt bài
trên các tạp chí báo trung ương, địa phương cũng có ý nghĩa tương tự.
- Niềm tin của các tầng lớp nhân dân trên đại bàn tỉnh đối với Đảng được cũng
cố, tăng cườg: các giai cấp, tầng lớp, nhân dân, cán bộ, đảng viên luôn tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, ra sức thi đua, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, năng động
sáng tạo trong lao động, sản xuất kinh doanh, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh.
* Để đạt được kết quả trên là do:
- Ban chỉ đạo của tỉnh và các huyện ủy, thị ủy , thành ủy và các đảng ủy trực
thuộc Tỉnh ủy đã thực hiện tốt công tác nắm bắt tinh hình, chủ động trong công tác
tuyên truyền, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và trực tiếp đấu tranh với các thông
tin sai trái, xấu, độc trên không gian mạng, kịp thời, hiệu quả, nhất là các vấn đề liên
quan đến tình hình của tỉnh.Theo đó đã ban hành quy chế hoạt động, phân công nhiệm
vụ cụ thể đối với các thành viên, xây dựng kế hoạch hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch với nhiệm vụ trọng tâm: Chủ
động đấu tranh phản bác những thông tin xuyên tạc, không đúng sự thật, nhất là những
thông tin liên quan đến đại hội đảng và các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng.
- Bên cạnh đó vai trò của cơ quan báo chí, truyền thông và các lực lượng
chuyên trách trong việc tham gia đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch trên internet, mạng xã hội đã được phát huy; tích cực tuyên truyền chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường nắm chắc tình hình
địa bàn, cơ sở, dư luận xã hội, tư tưởng, nguyện vọng và những vấn đề quan tâm chính
đáng của cán bộ , đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tù đó chỉ đạo, tham mưu, giải quyết
39

kịp thời, hiệu quả, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện
thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Bên cạnh kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, tỉnh Bình Định
gặp những khó khăn cụ thể như sau:
Công tác phối hợp giữa các ngành, địa phương, đơn vị trong nắm bắt, xử lý thông
tin đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin sai sự thật chưa kịp thời.
Hiệu quả hoạt động của một số ban chỉ đạo 35 các địa phương , đơn vị còn hạn chế,
nhất là việc xây dựng lực lượng, trang, nhóm để chia sẻ các bài viết tích cực trên không
gian mạng; việc báo cáo kết quả hoạt động định kỳ chưa đảm bảo theo quy định.
Công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ đảng viên và
quần chúng nhân dân về âm mưu, thủ đoạn, phương thức và tác hại của các quan điểm sai
trái, thù địch trên internet, mạng xã hội còn hạn chế. Số lượng bài viết nhằm đấu tranh,
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu độc chưa nhiều; kỹ năng viết tin
bài đấu tranh, phản bác còn hạn chế.
-Nguyên nhân của các hạn chế trên là do:
Một số cấp ủy, chính quyền , cơ quan , đơn vị, nhất là ở cơ sở chưa quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch, thông tin xấu độc trên internet, mạng xã hội.
Một số cán bộ , đảng viên còn biểu hiện bàng quan, thờ ơ trước những quan điểm sai
trái, thù địch, cá biệt còn tiếp tay cho các thông tin xấu, độc lan truyền trên mạng.
Chưa xây dựng được mạng lưới các trang xã hội để liên kết, phối hợp trao đổi thông
tin, cung cấp thông tin giữa các lực lượng nên còn hạn chế trong việc nắm bắt tình hình và
đáu tranh với các thông tin có quan điểm sai trái, thù địch chưa cao, chưa hiệu quả, Công
tác phối hợp đấu tranh, phản bác, báo cáo các tài khoản đăng tải thông tin xấu, độc chưa có
sự chỉ đạo thống nhất cuả Trung ương.
Cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho công tác đấu tranh còn thiếu, lạc hậu chưa
đáp ứng yêu cầu. Chưa có quy định rõ ràng về đối tượng tham gia, cách thức đấu tranh, hỗ
trợ về chế độ phụ cấp, phương tiện làm việc nên chưa huy động được sức mạnh tổng họp
trong công tác đấu tranh, phản bác.
* Trước diễn biến hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài
nước nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, để tăng cường nắm bắt tình hình tư
tưởng của cán bọ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Để chủ động phòng, chống,
40

ngăn chặn kịp thời các hành vị thủ đoạn của các thế lực thù địch, cần tập trung các
gải giáp cụ thể sau:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giá trị to lớn
của chủ nghĩa Mác – Lênin , tư tưởng HCM , bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng:
trong đó các cấp ủy, tổ chức chính quyền, mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
cần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Xây dựng mối quan hệ gắn bó chặt chẽ hơn nữa
giữa Đảng với Nhân dân. Thực hiện có hiệu quả phương châm “dân biết, dân làm, dân
bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân,
học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với nhân dân”, xứng đáng là người lãnh đạo,
người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân.
- Đổi mới nội dung, phương thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng:
Đẩy mạnh công tác đấu tranh có hiệu quả trong phòng, chống tham nhũng; thực
hiện vai trò nêu gương của người đứng đầu trong công tác phòng, chống tham nhũng;
tuyên truyền cac cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân trong việc sử dụng có hiệu quả
mạng xã hội, có lập trường tư tưởng vững vàng, không bị tác động bởi những quan điểm
sai trái trên môi trường mạng; chủ động ngăn chặn, phản bác các quan điểm, thông tin
xuyên tạc, sai trái, thù địch. Chủ động chia sẻ thông tin tích cực , người tốt; định hướng tư
tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với những vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự, địa
phương.
- Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận , đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác bồi dưỡng , cập nhập kiến thức lý luận chính trị: không
ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị;
- Tăng cường hoạt động quản lý đối với các trang mạng xã hội:triển khai thực
hiện Kết luận số 53-KL/TW ngày 4/6/2019 của Ban Bí thư về việc chỉ đạo đấu tranh ngăn
chặn, xử lý , gỡ bỏ, triệt phá tin giả, thông tin sai sự thật, xấu, độc trên internet, mạng xã
hội. Chủ động nắm tình hình , phát hiện sớm hoạt động chống phá để đấu tranh làm thất
bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị.
- Xây dựng lực lượng chuyên trách đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch:
+Ban Chỉ đạo 35 cấp tỉnh:
Một là thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của cấp trên, tham mưu giúp cấp ủy
kiện toàn thành viên Ban Chỉ đạo 35, Tổ thư ký giúp việc, nhóm chuyên gia, cộng tác viê
41

các cấp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái , thù
địch trong tình hình mới.
Hai là, phát huy vai trò của các cơ quanbaos chí, các cơ quan hoạt động trên lĩnh vực
văn hóa tư tưởng trong đấu tranh vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các
thế lực thù địch, phản động, góp phần định hướng dư luận xã hội.
Ba là, định kỳ thời gian thông báo tình hình hoạt động chống phá của các thế lực thù
địch, phản động, cơ hội chính trị và định hướng nội dung cần tập trung đấu tranh, phản
bác.
Bốn là, phối hợp cơ quan liên quan tăng cường phát hiện, rà soát các tài khoản mạng
xã hội, trang mạng, trang web đăngtin giả, thông tin sai sự thật và phối hợp xử lý các nhân,
tổ chức vi phạm Luật Báo chí, Luật An ninh mạng.
Năm là, tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác đấu tranh, phản
bác các quan điểm sai trái thì địch trên địa bàn tỉnh.
- Đối với các huyện, thành, thị ủy và đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy:
Một là, xây dựng trang Fanpage trên facebook công khai để tổ chức tuyên truyền,
đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu, độc trên internet và
mạng xã hội.
Hai là, tổ chức quản trị tốt trang fanpage trên facebook: Ban tuyên giáo các huyện,
thành, thị ủy và đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy.
-Tăng cường quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, xử lý nghiêm minh các
trường hợp vi phạm: Nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân trong khai thác, sử dụng thông tin trên internet, mạng xã hội thực sự hữu ích, văn
hóa, văn minh. Kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với các hoạt động chống phá
của các thế lực thù địch.Trong quá trình đấu tranh phải đảm bảo tính định hướng, an toàn
thông tin, không làm lộ lọt bí mật Nhà nước, bí mật công tác.
- Chủ động trong bảo vệ nền tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan
điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng thông qua phản biện xã hội và các buổi
sinh hoạt chuyên đề, các buổi tọa đàm..:
Một là, hệ thống chính trị các cấp mà trước hết là các cấp ủy, tổ chức đảng và các tổ
chức chính trị - xã hội từ tỉnh đến cơ sở chủ động xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, giáo dục
chính trị, tư tưởng thường xuyên, định kỳ, đa dạng, phong phú về hình thức cho cán bộ,
đảng viên, họi viên , đoàn viên về CN Mác – Lênin, tư tưởng HCM, Cương lĩnh chính trị,
42

đường lối cảu Đảng, thành tựu của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, HĐH đất nước và
hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN.
Hai là, thường xuyên trao đổi, rút kinh nghiệm giữa các cơ quan chức năng , lực
lượng nòng cốt chuyên sâu trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên mạng
xã hội
- Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là hạn tầng công nghệ để đủ sức
đấu tranh, phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng ngày
càng tinh vi, hiện đại:
Một là, đẩy mạnh việc ưng dụng công nghệ thông tin, quan tâm đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị điện tử vào phục vụ công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái
của các thế lực thù địch trên internet, mạng xã hội.
Hai là, chủ động phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ, tính toán sử dụng các giải
pháp về công nghệ để ngăn chặn một một cách triệt để các tin xấu, độc trên các trang
mạng.

You might also like