You are on page 1of 308

LỊCH SỬ

ĐẢNG BỘ
XÃ BÌNH TÂN
(1975-2020)

1
THẨM ĐỊNH NỘI DUNG
HUYỆN ỦY BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI

CHỈ ĐẠO NỘI DUNG


BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ BÌNH TÂN

CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN


UNG ĐÌNH HIỀN Ủy viên Ban Thường vụ
Huyện ủy - Bí thư Đảng ủy xã
TRƯƠNG QUANG MINH Phó Bí thư Thường trực Đảng
ủy xã, Chủ tịch Hội đồng
nhân dân xã
NGUYỄN CHÍ CƯỜNG Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã

BAN TƯ VẤN
PHẠM ĐÀO TRẦN TIẾN MAI
THỚI HOÀNG BÙI THANH LONG
ĐOÀN CÔNG PHỤNG ĐỖ VĂN DŨNG
BÙI THANH SƠN NGUYỄN THANH HÙNG
TRẦN VĂN NGỌC NGUYỄN THỊ PHƯỚC
VÕ DUY ĐỐI NGUYỄN THANH TÙNG
PHẠM KÍNH

CHỦ BIÊN
NGUYỄN PHƯỚC ĐOÀN TUẤN KIỆT
NGUYỄN HUỲNH BẢO NGỌC

2
HUYỆN ỦY BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ BÌNH TÂN

LỊCH SỬ
ĐẢNG BỘ
XÃ BÌNH TÂN
(1975-2020)

3
4
LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Trải qua 45 năm xây dựng và phát triển, Đảng bộ và nhân dân
xã Bình Tân đã cùng với Đảng bộ và nhân dân huyện Bình Sơn,
tỉnh Quảng Ngãi và cả nước viết tiếp chặng đường lịch sử xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; tập trung
khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành cải tạo, xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đặc biệt, bước vào thời kỳ đổi mới, được sự quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy Bình Sơn, Đảng bộ và nhân
dân xã Bình Tân luôn phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần
lao động sáng tạo, đoàn kết một lòng, tích cực thi đua xây dựng và
phát triển quê hương đạt được nhiều thành tựu quan trọng như: cơ
cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch và từng bước ổn định theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đời sống của nhân dân ngày càng
được cải thiện; tình hình quốc phòng - an ninh của địa phương
được giữ vững; công tác xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể
được triển khai toàn diện, đồng bộ,...
Để lưu lại những trang sử vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân
xã Bình Tân; đồng thời góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền
thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế
hệ trẻ hiện nay, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Bình Tân xuất bản
cuốn sách Lịch sử Đảng bộ xã Bình Tân (1975-2020).

5
Nội dung cuốn sách gồm 02 phần chính, với 10 chương trình
bày một cách khái quát, có hệ thống về quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
và phát triển của Đảng bộ xã cùng các phong trào hành động cách
mạng của nhân dân, cán bộ, đảng viên ở địa phương từ năm 1975
đến năm 2020; nêu bật những thành tựu, kết quả đạt được trong
quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng
- an ninh, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và hệ thống chính trị
vững mạnh để tiếp tục phát huy, góp phần xây dựng Bình Tân
(nay là xã Bình Tân Phú) trong tương lai trở thành một xã mạnh
về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và cùng với Đảng bộ và nhân
dân huyện Bình Sơn thực hiện thắng lợi cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình biên soạn và xuất
bản, tuy nhiên do có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan,
nhất là những nguồn tư liệu lịch sử có liên quan không còn được
lưu trữ đầy đủ nên cuốn sách khó tránh khỏi còn hạn chế, thiếu
sót. Nhà xuất bản và Ban Chấp hành Đảng bộ xã Bình Tân rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện nội
dung cuốn sách trong lần xuất bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

Tháng 3 năm 2021

6
LỜI NÓI ĐẦU

Với thắng lợi của cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm
1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, non sông thu về
một mối; Đảng bộ và nhân dân xã Bình Tân đã cùng với Đảng
bộ và nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi và cả nước
bước tiếp chặng đường lịch sử đi lên xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vượt qua muôn vàn khó khăn
và thử thách, tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến
hành cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh công cuộc
đổi mới, từ năm 1975 đến năm 2020, Đảng bộ và nhân dân xã
Bình Tân đã tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần
lao động sáng tạo, đoàn kết một lòng, nắm bắt cơ hội, tích cực
thi đua xây dựng và phát triển quê hương, giành được nhiều
thành tựu quan trọng.
Bình Tân là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử - văn hóa.
Mảnh đất đã sản sinh và nuôi dưỡng danh sĩ Đoàn Khắc

7
Nhượng1, chí sĩ yêu nước Võ Thị Đệ 2, là quê hương của những
người chiến sĩ cộng sản, những đảng viên đầu tiên của Đảng bộ
huyện như: Trần Tiến Trực, Phạm Cao Phi, Trần Tây...3. Mảnh
đất Bình Tân còn là căn cứ cách mạng của huyện Đông Sơn
(Cấm An Tráng) tại thôn Nhơn Hòa 1 từ những năm 1970-

1
. Danh sĩ Đoàn Khắc Nhượng (hiệu là Trúc Khê), người làng Nhơn
Hòa, là một trong 16 cử nhân của huyện Bình Sơn trong khoảng 100 năm
(1819-1918). Ông là con trai của cụ Đoàn Khắc Cung, nguyên là Tri
huyện Mộ Hoa (vùng đất Mộ Đức và Đức Phổ ngày nay) thời Vua Gia
Long. Ông đậu cử nhân khoa Bính Ngọ (năm 1846), cuối triều Vua Thiệu
Trị. Cuộc hành trình hoạn lộ của ông bắt đầu từ thời Vua Tự Đức - giữ
chức Bố chánh Khánh Hòa thăng đến Tuần phủ Nam Ngãi. Một trong
những dấu mốc để tên tuổi của ông nổi bật lên là vào năm 1878, tỉnh
Quảng Ngãi bị hạn nặng, sau đó lại bị một trận lụt lịch sử khiến nhân dân
lâm vào cảnh đói kém nghiêm trọng. Ông được triều đình Huế bổ nhiệm
làm Khâm phái trực tiếp tổ chức chỉ đạo việc cứu đói cho dân. Ông đã làm
hết sức mình để cứu tế cho dân, ổn định tình hình đến cuối năm 1879 mới
tạm ổn. Sự đóng góp của ông trong công cuộc cứu đói ở Quảng Ngãi các
năm 1878-1879 được ghi nhận trong sách “Đại Nam thực lục” của Quốc
sử quán triều Nguyễn. Vua Tự Đức từng ban khen: “Khiêm như Nhượng,
thiên hạ hà hữu bất trị” (Khiêm cung như Đoàn Khắc Nhượng, thiên hạ lo
gì không yên). Dòng họ Đoàn của ông là một trong các dòng họ có truyền
thống đăng khoa hiếm hoi ở tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay, tên ông được đặt
cho một tuyến đường ở thị trấn Châu Ổ (huyện Bình Sơn).
2
. Bà Võ Thị Đệ - một chí sĩ yêu nước tiêu biểu trong phong trào
chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Bà là vợ của cử
nhân Đoàn Như Thiện ở thôn Nhơn Hòa và là cháu dâu gọi cụ Đoàn Khắc
Nhượng là bác. Nhà bà là nơi gắn kết các hoạt động yêu nước chống thực
dân Pháp, nơi liên lạc của những nhà lãnh đạo phong trào Cần Vương và
Hội Duy Tân; nơi tổ chức đưa thanh niên ưu tú của tỉnh Quảng Ngãi ra
nước ngoài du học trong phong trào Đông Du; nơi các nhà lãnh đạo Việt

8
1975, gồm cơ quan Huyện ủy và các cơ quan huyện Đông Sơn
để lãnh đạo lực lượng vũ trang và nhân dân chiến đấu chống
Mỹ, cứu nước cho đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước. Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ
chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai để
giành độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, nhân
dân và cán bộ, đảng viên xã Bình Tân đã không ngại hy sinh,
gian khổ đứng lên cùng cả huyện, cả nước liên tục đấu tranh và
giành thắng lợi trọn vẹn. Đã có 502 người con của quê hương
hy sinh, 274 người cống hiến một phần xương máu; 148 Bà mẹ
được phong, truy tặng danh hiệu nhà nước cao quý “Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng”. Đảng bộ và nhân dân xã Bình Tân được Nhà
nước tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Nhì, 2 Huân
chương Chiến công hạng Ba, 32 Bằng khen cho tập thể, 115

Nam Quang Phục Hội ở Quảng Ngãi vạch kế hoạch khởi nghĩa (ngày
03/5/1916). Bà là tấm gương kiên trung, bất khuất đã hiến dâng cả cuộc
đời, con cái và gia tài của mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc. Bà đã bán ruộng đất của gia đình để đóng góp mở các hiệu buôn như
Quảng Chánh, Quảng Lộ, Quảng Hòa Tế để buôn bán gây quỹ cho các tổ
chức yêu nước hoạt động. Bà được phong chức “Biện lương sứ” chuyên lo
hậu cần cho quân khởi nghĩa và được suy tôn là “Hộ quốc mẫu nghi”. Bà
là hiện thân của những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam anh
hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.
3
. Đây là những đảng viên đầu tiên của Đảng bộ huyện Bình Sơn
thuộc Chi bộ Tổng Điền, là con em quê hương Bình Tân. Riêng đồng chí
Trần Tây là Bí thư Huyện ủy Bình Sơn từ tháng 02/1931 đến năm 1932.

9
Bằng khen cho cá nhân, 1.375 Huân, Huy chương các loại.
Đồng thời, vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
Từ sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước, đến nay đã 45 năm (1975-2020) - Một chặng đường
không phải là dài so với lịch sử trường tồn của dân tộc, song đó
là một chặng đường tiếp nối bản anh hùng ca của quá trình đấu
tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do mà Đảng bộ và
nhân dân địa phương đã hòa mình trong đó, góp phần cùng cả
nước viết nên những trang sử vẻ vang trong suốt tiến trình lịch
sử 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
quang vinh.
Việc sưu tầm tư liệu để ghi lại và phản ánh chặng đường
lịch sử trong giai đoạn 1975-2020 của Đảng bộ và nhân dân xã
Bình Tân là nhằm giáo dục truyền thống cách mạng, tổng kết
kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ
quê hương dưới dự lãnh đạo của Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Đây là một việc làm
cần thiết và có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Chính vì thế, Đảng ủy
xã Bình Tân đã quyết định triển khai tìm kiếm, sưu tầm tư liệu,

10
nghiên cứu và tổ chức biên soạn cuốn sách Lịch sử Đảng bộ xã
Bình Tân (1975-2020). Nội dung cuốn sách sẽ hệ thống lại quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo và phát triển của Đảng bộ cùng các phong
trào hành động cách mạng của nhân dân, cán bộ, đảng viên ở địa
phương từ năm 1975 đến năm 2020 trên các lĩnh vực: kinh tế,
văn hóa - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng
bộ, chính quyền và hệ thống chính trị vững mạnh; nêu bật những
thành tích, kết quả đạt được để phát huy trong những chặng
đường tiếp theo. Cuốn sách sẽ là tài liệu quan trọng giúp cho
đảng viên, cán bộ và nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ có thêm
những hiểu biết về địa phương, nâng cao niềm tự hào về truyền
thống cách mạng, truyền thống yêu lao động, đoàn kết để xây
dựng, bảo vệ quê hương, đất nước.
Hoàn thành cuốn sách này, Đảng ủy xã Bình Tân chân
thành cảm ơn những đóng góp quý báu của các đồng chí lão
thành cách mạng, các đồng chí nguyên là lãnh đạo Đảng bộ,
chính quyền, Mặt trận và các hội đoàn thể ở địa phương qua
các thời kỳ. Xin cảm ơn sự quan tâm của Huyện ủy Bình Sơn
cùng các cơ quan, đơn vị liên quan. Trong quá trình biên soạn
cuốn sách chắc chắn sẽ còn những thiếu sót nhất định vì nhiều
tư liệu không còn được lưu giữ.

11
Đảng ủy xã Bình Tân rất mong nhận được các ý kiến đóng
góp và việc tiếp tục cung cấp thêm những tư liệu mới của cán
bộ, đảng viên, nhân dân trong và ngoài địa phương để cuốn
sách được chỉnh lý, bổ sung chính xác, đầy đủ hơn trong lần tái
bản sau.
Trân trọng giới thiệu cuốn sách Lịch sử Đảng bộ xã Bình
Tân (1975-2020) đến cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương
cùng đồng chí, đồng bào gần xa.

Tháng 3 năm 2020


BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ BÌNH TÂN

12
Phần thứ nhất
ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC
HIỆN HAI NHIỆM VỤ CHIẾN
LƯỢC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
(1975-1985)

13
14
Chương I
LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN BƯỚC ĐẦU
ỔN ĐỊNH TÌNH HÌNH, KHẮC PHỤC
HẬU QUẢ CHIẾN TRANH
(3/1975-12/1976)

Ngày 25/3/1975, huyện Bình Sơn được hoàn toàn giải


phóng. Cùng với Đảng bộ và nhân dân trong huyện, Đảng bộ
và nhân dân xã Bình Tân bước vào một chặng đường mới, một
giai đoạn cách mạng mới. Để lãnh đạo địa phương thực hiện tốt
các nhiệm vụ chính trị và chủ trương của Huyện ủy, bộ máy hệ
thống chính trị của xã tiếp tục được củng cố, kiện toàn. Đồng
chí Đào Ngọc Thìn tiếp tục giữ chức Bí thư Đảng ủy xã; Ủy
ban nhân dân cách mạng do đồng chí Bùi Văn Cẩn giữ chức
Chủ tịch. Nhiệm vụ chủ yếu lúc này của Đảng ủy xã và Ủy ban
nhân dân cách mạng là: Kiểm soát để ổn định tình hình an
ninh, trật tự sau giải phóng; tiếp tục xây dựng chính quyền cách
mạng, các tổ chức quần chúng, lực lượng du kích và an ninh
thôn, xóm; thực hành công tác tiếp nhận và quản lý nhân dân,
nhất là nhân dân sinh sống từ các địa phương khác trở về

15
nguyên quán theo chủ trương của cấp trên; ổn định sản xuất
cho nhân dân. Mặc dù lực lượng mỏng, có nhiều khó khăn song
với kinh nghiệm của quá trình hơn 45 năm xây dựng và chiến
đấu, Đảng bộ xã Bình Tân được rèn luyện và không ngừng
trưởng thành đã đứng vững trước những khó khăn, thách thức
mới. Sự lớn mạnh của Đảng bộ xã và niềm tin của nhân dân
vào chế độ mới đã trở thành nguồn sức mạnh tinh thần vô giá,
là động lực to lớn để địa phương phấn đấu vượt qua khó khăn,
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ.
Là địa phương nằm trong vùng giải phóng, nhưng Bình
Tân cũng như một số địa phương khác trong huyện bị địch coi
là địa bàn trọng điểm để xúc tát, lùa dân, đánh phá vô cùng ác
liệt. Nhân dân trong xã phải gánh chịu hàng tấn đạn bom của
địch; nhà cửa, ruộng vườn bị tàn phá nặng nề, vùng giải phóng
trở thành vùng trắng. Đến trước tháng 3/1975, toàn xã chỉ còn
800 người trụ bám để thực hiện nhiệm vụ kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước; số còn lại đều phải dạt sang vùng địch kiểm
soát. Do vậy, sau ngày giải phóng huyện, xã phải đối mặt với
muôn vàn khó khăn, thử thách. Hậu quả của hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để lại hết sức nặng
nề. Bình Tân có 3 thôn, 12 xóm thì đã có 4 xóm trắng dân, trên
70% diện tích ruộng đất bị bỏ hoang, tiêu điều; các xóm có dân
trụ bám cũng bị chiến tranh tàn phá, sản xuất đình trệ, mặt khác
do tập trung cho công cuộc kháng chiến nên một số diện tích

16
không sản xuất được. Hầu hết ruộng vườn của nhân dân bị cày
xới, nhiều nơi còn bom mìn địch để lại, nhất là các vùng đất
địch chiếm để xây dựng các chốt điểm quân sự nên không thể
sản xuất ngay được, làm cho đời sống của nhân dân gặp rất
nhiều khó khăn. Trong khi đó hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội như: giao thông, kênh mương thuỷ lợi, trường học, trạm
y tế, các công trình phục vụ sinh hoạt và sản xuất của nhân dân
hầu như không có; trình độ dân trí thấp, không đồng đều. Hàng
trăm người bị thương tích do chiến tranh, không thể lao động,
sản xuất nên gặp nhiều khó khăn. Diễn biến tư tưởng trong
nhân dân cũng khá phức tạp. Bên cạnh tuyệt đại đa số nhân dân
phấn khởi, tin tưởng vào chế độ mới thì ở địa phương vẫn còn
trên 136 đối tượng chính trị là ngụy quân, ngụy quyền và đối
tượng tham gia các đảng phái phản động. Trong đó, có 80 ngụy
quân, 28 ngụy quyền và 28 đối tượng tham gia đảng phái phản
động (3 đảng viên Quốc dân Đảng, 25 đảng viên Đảng Dân
chủ)4... Trước tình hình trên, chính quyền địa phương đã tập
trung vào công tác quản lý xã hội. Chuẩn bị và sẵn sàng tiếp
nhận, hướng dẫn cho 1.871 người dân từ vùng địch kiểm soát

4
. Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Bình Tân,
ngày 19/10/1978.

17
trở về quê cũ làm ăn, sinh sống; thực hiện công tác quản lý
nhân dân trong địa phương. Lúc này, toàn xã Bình Tân có
2.671 người. Bên cạnh công tác quản lý, chính quyền địa
phương tập trung giải quyết cho những người không có nhà ở,
không có đất sản xuất, thiếu sức lao động, giải quyết việc làm
cho nhân dân, nhất là những người sống tại vùng địch chỉ quen
hưởng thụ. Đặc biệt, được sự hỗ trợ của cấp trên, xã đã thực
hiện phân bổ trên 89.855 kg gạo cho 512 hộ gia đình với 2.104
nhân khẩu; trong đó, diện cứu tế là 36 hộ gia đình với 40 nhân
khẩu, cứu đói cho 77 hộ gia đình với 101 nhân khẩu. Nhờ đó,
đa số nhân dân có điều kiện để tập trung vào việc khôi phục
sản xuất, ổn định đời sống.
Ngày 15/4/1975, Tỉnh ủy Quảng Ngãi tổ chức Hội nghị lần
thứ năm (mở rộng) bàn một số nhiệm vụ cấp bách của Đảng bộ
và nhân dân trong tỉnh sau giải phóng. Hội nghị nêu rõ: “...
Phải tập trung làm công tác tư tưởng trong vùng mới giải
phóng, làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu biết về cách mạng,
về bản chất của đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai, thấy được
sức mạnh của quần chúng nhân dân, các chính sách của Đảng,
chính quyền cách mạng và Mặt trận dân tộc giải phóng. Trên
cơ sở đó, các lực lượng cách mạng phải tích cực vận động quần
chúng tham gia công tác cách mạng, truy tìm và gọi hết số tàn
quân, nhân viên ngụy quyền còn lẩn trốn, bắt giam những tên
ác ôn, nợ máu, phân loại để có đối sách rõ ràng với chúng...

18
Cấp ủy, chính quyền, đoàn thể phải tập trung ổn định mọi sinh
hoạt của nhân dân, nắm chặt quần chúng các giới, chú ý công
nhân, người lao động, đặc biệt chú ý công tác mặt trận, các tôn
giáo,... Về nhiệm vụ tổ chức cuộc chiến đấu mới: Nhiệm vụ
quan trọng là tổ chức phòng thủ, bảo vệ vững chắc thành quả
cách mạng... Các cấp, các địa phương khẩn trương bố trí lực
lượng bảo vệ ven biển, canh gác, tuần tra đề phòng biệt kích đổ
bộ và vớt số tàn quân địch. Các lực lượng cách mạng phải khẩn
trương tổ chức truy lùng bọn tàn quân còn lẩn trốn, vận động
gia đình kêu gọi chúng ra hàng, đề phòng chúng bị đói khát đi
cướp của, giết người. Về nhiệm vụ xây dựng vùng giải phóng
vững mạnh toàn diện: Các cấp, các ngành, các địa phương cần
nghiên cứu kỹ phương hướng, kế hoạch, biện pháp tổ chức
thực hiện thật đúng, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nơi,
tránh sai lầm... Phải tập trung xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân, nắm vững chuyên chính vô sản, dựa vào công nhân, nông
dân, nhân dân lao động xây dựng khối đoàn kết toàn dân, lấy
công nông làm nền tảng, mở rộng Mặt trận dân tộc giải phóng,
thu hút tư sản, trí thức, phú nông, địa chủ tiến bộ và tôn giáo.
Ruộng đất là vấn đề cấp thiết phải khuyến khích đồng bào khai

19
hoang phục hóa, điều hòa ruộng đất, làm cho mọi người đều có
ruộng đất để sản xuất...”5.
Ngày 20/10/1975, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số
19-NQ/TW về điều chỉnh hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam,
theo đó tỉnh Quảng Ngãi hợp nhất với tỉnh Bình Định thành
một đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương và lấy tên là tỉnh
Nghĩa Bình. Ngày 01/01/1976, Hội nghị Tỉnh ủy Nghĩa Bình
lần thứ nhất đã đề ra nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm
1976 là: “Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, khai hoang phục
hóa, làm thuỷ lợi... bảo đảm nhu cầu lương thực, thực phẩm
cho nhân dân trong tỉnh và làm nghĩa vụ đối với Nhà nước...” 6.
Chấp hành chủ trương trên, Đảng ủy và chính quyền địa
phương đã quán triệt trong cán bộ, đảng viên, nhân dân. Lúc
này, toàn xã có 107 người tham gia chế độ cũ và các đảng phái
ra đầu thú, đăng ký trình diện chính quyền cách mạng theo Chỉ
thị số 218-CT/TW ngày 18/4/1975 của Ban Bí thư về chính

5
. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1975-2005), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.15-17.

6
. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1975-2005), Sđd, tr.41.

20
sách đối với tù, hàng binh trong tình hình mới và Chỉ thị số
219-CT/TW ngày 19/4/1975 của Ban Bí thư về chính sách đối
với ngụy quân, ngụy quyền và công tác đấu tranh chống bọn
phản cách mạng; giữ gìn trật tự an ninh ở vùng mới giải phóng
để được hưởng chính sách khoan hồng đối với tù hàng binh,
ngụy quyền7. Đồng thời, xã đã đưa đi cải tạo ở tỉnh 5 tên 8.
Chính quyền lâm thời xã Bình Tân cũng đã tổ chức học tập, cải
tạo tại địa phương từ 3 đến 5 ngày cho số đối tượng này, sau
học tập họ được hưởng quyền công dân và trở về đoàn tụ với
gia đình; tiếp tục vận động nhân dân phát hiện, tố giác số tàn
binh còn lại. Để tăng cường sức mạnh của lực lượng vũ trang,
lực lượng du kích được xây dựng ở xã, thôn và được trang bị
vũ khí, thường xuyên tuần tra, kiểm soát bảo vệ chính quyền
cách mạng. Từ việc kiên quyết xử lý các hành vi chống đối, kết

7
. Báo cáo số 40/VP của Đảng bộ xã Bình Tân: Báo cáo tình hình và
thành quả của xã Bình Tân từ ngày 25/3/1975 đến ngày 10/10/1976
trong dịp học tập Nghị quyết số 254-NQ/TW ngày 15/7/1976 của Bộ
Chính trị.

8
. Báo cáo số 27/VP ngày 23/6/1977 của Đảng bộ xã Bình Tân: Báo
cáo tình hình công tác 6 tháng đầu năm 1977.

21
hợp với chính sách khoan hồng, nhân đạo đối với những người
ra đầu thú được cải tạo đã góp phần ngăn chặn kịp thời các thủ
đoạn nhen nhóm chống phá của địch, giữ gìn an ninh chính trị
và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn sau giải phóng; giải tỏa
được tâm lý hoang mang, lo sợ bị chính quyền cách mạng trả
thù, “tắm máu” trong một bộ phận những người tham gia chế
độ cũ.
Thực hiện Chỉ thị số 95/CT của Tỉnh uỷ Quảng Ngãi về
khắc phục hậu quả chiến tranh, nhanh chóng ổn định các mặt
của đời sống xã hội9 và sự chỉ đạo của Huyện ủy Bình Sơn,
Đảng bộ xã Bình Tân đã xác định một số nhiệm vụ trọng tâm
để lãnh đạo toàn dân thực hiện như: Giải quyết công ăn việc
làm, khôi phục ruộng, đất sản xuất nông nghiệp, sửa chữa
đường sá, cầu cống, thủy lợi... để phục hồi, ổn định sản xuất và
đời sống nhân dân. Một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng trong giai đoạn này là thực hiện Chỉ thị ngày 19/5/1975
của Ban Thường vụ Khu V về điều chỉnh ruộng đất cho nhân
dân thiếu ruộng và không có ruộng 10. Dưới sự lãnh đạo của
Huyện ủy Bình Sơn, Đảng bộ xã Bình Tân đã chỉ đạo chính
quyền phối hợp với Nông hội (Hội Nông dân) tiến hành thống
kê số lượng, phân loại nguồn gốc, hình thức sở hữu ruộng đất,

9
. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1975-2005), Sđd, tr.23.

22
điều tra nhân khẩu, hộ khẩu những gia đình thiếu đất hoặc
không có ruộng đất để làm cơ sở chia, điều chỉnh ruộng đất
đúng với chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên địa bàn xã
Bình Tân lúc này có 9 địa chủ, gồm: 2 địa chủ ác ôn, 5 địa chủ
thường, 1 địa chủ tiến bộ yêu nước và 1 địa chủ thoát ly tham
gia cách mạng. Mặc dù có rất nhiều khó khăn nhưng với sự nỗ
lực vượt bậc của chính quyền và các ngành nên chỉ trong một
thời gian ngắn đã hoàn thành cơ bản việc điều chỉnh ruộng đất
công điền và của địa chủ cho nông dân 11. Việc thi hành chính
sách ruộng đất nêu trên đã đem lại quyền lợi thiết thực cho

10
. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1975-2005), Sđd, tr.24.

11
. Báo cáo số 40/VP của Đảng bộ xã Bình Tân: Báo cáo tình hình
và thành quả của xã Bình Tân từ ngày 25/3/1975 đến ngày 10/10/1976

23
người dân. Từ đó, đã thực sự tạo được niềm tin, phấn khởi cho
các hộ nông dân thiếu ruộng và chưa có ruộng vào sự lãnh đạo
của Đảng, đặc biệt là các gia đình có người tham gia chế độ cũ
cũng có nhận thức tốt hơn về chính quyền cách mạng.
Quá trình khôi phục và ổn định sản xuất gắn liền với quá
trình vận động nhân dân tích cực khai hoang, phục hóa, làm
thuỷ lợi. Sau hơn một năm thực hiện, đến cuối năm 1976, Bình
Tân đã phục hóa và đưa vào sản xuất hầu hết diện tích, chỉ còn
lại một ít diện tích đất bị bom mìn. Trong đó, năm 1975 đã khai
hoang và phục hóa được 190 ha, đưa vào sản xuất trong vụ
đông xuân năm 1975-1976; năm 1976, khai hoang và phục hóa
gần 200 ha. Nhờ vậy đã đẩy lùi được diện tích bị hoang hóa;
nhiều xóm, thôn cơ bản hoàn thành việc khai hoang và phục
hóa, đưa diện tích sản xuất lên gấp 3 lần so với trước giải
phóng. Bên cạnh đó, diện tích đất bị bom mìn cũng dần bị thu
hẹp; phục hồi 10 ha rừng bị địch cày ủi nghiêm trọng, đang
xuất hiện tầng cây mới.
Là một xã khó khăn về thủy lợi, lại không được thiên
nhiên ưu đãi nên để tập trung khôi phục, phát triển sản xuất

trong dịp học tập Nghị quyết số 254-NQ/TW ngày 15/7/1976 của Bộ
Chính trị.

24
nông nghiệp, Đảng ủy xã Bình Tân đã lãnh đạo, tổ chức phát
động phong trào làm thủy lợi. Thông qua công tác vận động
của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, nhân dân trong các
xóm, thôn đều hăng hái đào ao, vét giếng, làm đập, làm kênh
mương dẫn nước. Một số công trình hồ, đập lớn đã được xã
huy động ngày công thực hiện liên tục trong cả tháng. Kết quả
đã xây dựng được 15 công trình đập thủy lợi lớn, nhỏ. Trong số
này, đập Đồng Sác đã giải quyết nước tưới cho 120 ha trong vụ
hè thu năm 1976 (tháng 8), sản lượng lúa đạt 30 tấn, góp phần
hạn chế được nạn đói giáp hạt và đập Bàu Sỏi đã giữ nước
phục vụ tưới cho 70 ha vụ đông xuân năm 1975-1976 (tháng
3). Đây là 2 đập lớn có vai trò quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp; giải quyết chống hạn trong các vụ tháng 3 và tháng 8,
quyết định đến sản lượng lương thực của địa phương. Để hoàn
thành 2 công trình đập thủy lợi này, địa phương đã huy động
mỗi lao động 01 tháng công. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng hỗ
trợ địa phương 33 tấn gạo, 2.996 đồng, 18 tấn xi măng và nhiều
vật liệu khác (cát, sỏi) để hoàn thành công trình.
Nhờ làm tốt công tác khai hoang, phục hóa đất sản xuất,
xây dựng và tu bổ các công trình hồ, đập thủy lợi nên sản xuất
đã nhanh chóng ổn định. Riêng vụ đông xuân 1975-1976 đã
thực hiện được 106 ha lúa và vụ hè thu là 160 ha, cao nhất kể
từ năm 1963. Trong đó, vụ hè thu thu được 2.000 ang lúa; góp
phần ổn định lương thực trong nhân dân và có tích trữ để chống

25
đói. Xã cũng huy động nhân dân bằng mọi biện pháp cứu hạn
cho lúa và cây hoa màu vụ hè thu, kết hợp với ra quân diệt
chuột, sâu phá hoại, bảo đảm mùa màng đạt năng suất cao nhất.
Vận động nhân dân tăng cường đầu tư và sử dụng phân hữu cơ,
phân bắc, phân xanh trong sản xuất các loại cây trồng, góp
phần thực hiện cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp của
Đảng và Nhà nước. Bên cạnh cây lúa, nhân dân cũng tăng gia
các loại cây rau, đậu phục vụ cho đời sống hằng ngày. Với
những kết quả trong sản xuất nông nghiệp, nên hằng năm xã
đều bảo đảm việc thu mua và bán nghĩa vụ lương thực cho Nhà
nước, đạt chỉ tiêu trên giao. Cùng với sản xuất, các hình thức
trong hợp tác sản xuất như tổ vần công đã được xây dựng trong
toàn xã. Theo đó, có 12 tổ bình công, chấm điểm và vần công ở
các xóm. Thông qua hoạt động của tổ, bước đầu quản lý được
lao động, tạo được môi trường bình đẳng và công bằng giữa
những người lao động trong phân phối thành quả sản xuất.
Phong trào trồng cây ăn quả phát triển mạnh mẽ, với hàng
nghìn cây chuối, mít, dừa... được nhân dân trồng khắp nơi.
Chăn nuôi dần dần được phục hồi, nhất là chăn nuôi trong
hộ gia đình, tạo nguồn thực phẩm và hỗ trợ sức cày, kéo, nguồn
phân bón cho sản xuất nông nghiệp. Tổng đàn gia súc (trâu, bò,
heo) có khoảng 1.800 con và đàn gia cầm có hơn 2.850 con.
Hoạt động thương nghiệp được tập trung lãnh đạo, qua đó
đã hình thành hợp tác xã mua bán do đại biểu xã viên quyết

26
định. Hợp tác xã mua bán gồm có Chủ nhiệm và các Ban của
hợp tác xã; chủ yếu cung ứng các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời
sống và sản xuất của nhân dân, như: lương thực, thực phẩm, vật
tư, phân bón... Việc hình thành hợp tác xã mua bán đã góp phần
cải tạo thương nghiệp theo chủ trương của Đảng và Nhà nước
trong thời kỳ mới. Cùng với hoạt động thương nghiệp, xã cũng
thực hiện tốt việc quản lý tiền mặt, các khoản thu - chi, bảo đảm
điều tiết các hoạt động của địa phương, nhất là trong xây dựng
các công trình thủy lợi, giao thông. Để bảo đảm các hoạt động
tại địa phương, xã đã vận động nhân dân đóng góp cùng nguồn
thu từ chiến lợi phẩm được gần 8.789 đồng.
Thực hiện Nghị quyết “Chiến dịch đông xuân” của Huyện
ủy Bình Sơn, xã Bình Tân đã vận động nhân dân bồi đắp, sửa
chữa đường tỉnh lộ và hương lộ trong xã. Đặc biệt, ngay sau
ngày giải phóng, mặc dù còn rất nhiều khó khăn do phải tập
trung ổn định sản xuất, chỗ ở cho nhân dân, nhất là bà con
vùng địch kiểm soát trở về, nhưng Bình Tân đã huy động nhân
dân đóng góp được 5.726 ngày công khôi phục lại toàn bộ hệ
thống đường giao thông đến các thôn, xóm, để thuận lợi cho
nhân dân trong lưu thông và các hoạt động kinh tế - xã hội.
Qua thực hiện, đến cuối năm 1975, xã đã hoàn thành việc tu
bổ, mở mang toàn bộ đường sá, làm được 2 cầu và 13 cống lớn,

27
nhỏ, bảo đảm thuận lợi lưu thông trong xã và lưu thông từ xã
đến các địa phương lân cận khác.
Phát triển văn hóa - xã hội được Đảng bộ xã Bình Tân xác
định là một nhiệm vụ quan trọng cùng với khôi phục và phát
triển kinh tế. Do vậy, Đảng bộ xã đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ. Tập trung vận động
nhân dân thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng đời sống văn
hóa mới; đấu tranh xóa bỏ dần các tàn tích của văn hóa đồi
trụy, phản động do chế độ cũ để lại. Phong trào văn hóa, văn
nghệ phát triển mạnh; tổ chức được nhiều đêm văn nghệ ca
ngợi thành quả cách mạng, ca ngợi chế độ mới và được nhân
dân đồng tình ủng hộ. Đặc biệt phong trào phát triển mạnh nhất
trong đoàn viên và thanh thiếu nhi. Các hoạt động thể dục, thể
thao cũng phát triển mạnh. Xã đã xây dựng được các sân bóng
đá, bóng chuyền tại các xóm, thu hút đông đảo thanh niên tham
gia thi đấu, luyện tập. Các hoạt động trên đã thu hút trên 9.780
lượt nhân dân đến xem. Đây là kết quả chưa từng có trong chế
độ cũ; tạo được không khí vui tươi, phấn khởi trong nhân dân,
động viên tinh thần và cổ vũ nhân dân trong xây dựng cuộc
sống mới, con người mới và chế độ mới.
Giáo dục phổ thông ngày càng phát triển. Xã đã xây dựng
được 1 trường chung và nhiều trường tại các thôn, xóm. Toàn

28
xã có 669 học sinh với 13 giáo viên cấp I; tổ chức khai giảng
năm học mới đầu tiên sau giải phóng (1975-1976) vào đúng
ngày 05/9/1975 theo chủ trương của Huyện ủy. Bên cạnh đó,
phong trào học bổ túc văn hóa phát triển mạnh ở các thôn, xóm
và tại xã có 43 người từ lớp 1 đến lớp 3. Trong cán bộ, có 60
người tham gia các lớp bổ túc ban đêm được mở tại địa phương.
Đến cuối năm 1976, xã đã thanh toán xong nạn mù chữ; đây
cũng là thành tích lớn của địa phương trong lĩnh vực giáo dục,
nâng cao chất lượng nguồn lực; góp phần vào việc nâng cao dân
trí và xây dựng con người mới.
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm
chỉ đạo thực hiện từ trong thời chiến, sau ngày giải phóng tiếp
tục được duy trì và phát triển. Xã tập trung xây dựng trạm y tế
xã và các cơ sở tại thôn; củng cố, tăng cường về số lượng cán
bộ y tế đến tận thôn, xóm. Nhiệm vụ chủ yếu là tuyên truyền và
hướng dẫn nhân dân ăn ở hợp vệ sinh, phòng, chống dịch bệnh,
tích cực thực hiện phong trào ba sạch: “Ăn sạch, uống sạch, ở
sạch”. Phát động phong trào xây dựng hố xí hợp vệ sinh, qua
đó thu được một số kết quả ban đầu đáng ghi nhận, tạo được ý
thức giữ gìn vệ sinh, phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức

29
khỏe bản thân và gia đình trong nhân dân. Đây cũng là thành
tích lớn của địa phương trong công tác chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân và cán bộ sau chiến tranh.
Công tác chính sách xã hội cũng được Đảng bộ xã quan
tâm thực hiện; tổ chức hoạt động nhân ngày thương binh, liệt sĩ
27/7/1976; tiến hành xây dựng Nghĩa trang liệt sĩ xã và chuẩn
bị đưa các phần mộ liệt sĩ vào Nghĩa trang. Qua đó, đã góp
phần xoa dịu vết thương chiến tranh và động viên các gia đình
liệt sĩ, các thương binh.
Một trong những thành tích lớn của địa phương sau ngày
giải phóng, đó là tập trung lãnh đạo thực hiện công tác bảo đảm
an ninh trật tự, an toàn xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy,
xã đã tập trung công tác tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân
về các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước; nhất là chính sách đối với những người tham gia chế độ
cũ để nhân dân biết và phối hợp cùng chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể quần chúng trong công tác tuyên truyền,
vận động, thuyết phục; làm cho các chủ trương của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, xây dựng
được khối đoàn kết trong nhân dân; khắc phục tư tưởng hận thù
dân tộc; xóa bỏ mặc cảm để cùng nhau xây dựng cuộc sống
mới. Do làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục nên

30
tại địa phương chưa phát hiện trường hợp nào, hoạt động nào
ảnh hưởng đến an ninh và trật tự, an toàn xã hội cũng như
chống phá chính quyền cách mạng. Tuy nhiên, trong nhận thức
của một số phần tử tham gia chế độ cũ và các đảng phái; một
số thành phần bất hảo (du côn, du đãng, cao bồi) về cách mạng
cũng chưa thật sự sâu sắc,... Trong đấu tranh chống các hành vi
vi phạm pháp luật, ngành công an đã tập trung xử lý nghiêm
các vụ ăn cắp, phá rối gây mất đoàn kết; chấn chỉnh các hành
vi phi đạo đức cách mạng như ăn mặc, nói năng, phát ngôn bừa
bãi... Qua công tác giáo dục, đa số đã giác ngộ và tự điều chỉnh
các hành vi, hạn chế vi phạm pháp luật; giác ngộ chính trị trong
nhân dân ngày càng thể hiện rõ. Bên cạnh đó, do tư tưởng của
nền sản xuất cá thể vẫn còn tồn tại nên trong thực tế đã xảy ra
một số trường hợp tranh chấp đất đai, ảnh hưởng đến đoàn kết
trong nhân dân. Mặc dù vậy, nhờ có Hội Nông dân và các tổ
hòa giải đã phối hợp với công an xã vận động, thuyết phục nên
tình hình an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn
xã được giữ vững.
Tập trung kiện toàn Ban chỉ huy quân sự xã; xây dựng lực
lượng dân quân, tự vệ đến tận thôn, xóm. Nhiệm vụ trọng tâm
của lực lượng bán vũ trang là tham gia, phối hợp với công an,
trấn áp các phần tử phản động, gây rối làm mất an ninh, trật tự;
bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ và bảo vệ Đảng; tháo gỡ bom,

31
mìn, góp phần cải tạo và phục hồi đất sản xuất; điều tra cơ bản
để thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ; huy động thanh niên
thực hiện nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với việc trấn áp bọn phản động, giữ gìn trật tự, trị an,
Đảng ủy xã đã tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố chính
quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị của địa phương.
Đây là nhiệm vụ hết sức cấp thiết. Về công tác chính quyền,
bên cạnh các nhiệm vụ trọng tâm khôi phục và phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm tình hình an ninh và trật tự, an toàn xã hội,
chính quyền đã phối hợp cùng Mặt trận Tổ quốc, các hội đoàn
thể tổ chức hàng trăm cuộc sinh hoạt chính trị trong nhân dân
để tuyên truyền về thành quả của cách mạng, về trách nhiệm và
nghĩa vụ của công dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận
động nhân dân tham gia cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các
cấp và đại biểu Quốc hội theo chỉ đạo của cấp trên, phát huy
quyền làm chủ và trách nhiệm trong xây dựng chính quyền của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Ngay sau ngày giải
phóng, xã đã tập trung củng cố tổ chức bộ máy Ủy ban nhân
dân, công an nhân dân, lực lượng bán vũ trang (du kích, dân
quân, tự vệ) và quản lý đến tận thôn, xóm; bảo đảm cho công
tác quản lý xã hội, nhất là quản lý nguồn nhân lực của địa
phương (do tăng đột biến từ quản lý 800 dân trụ bám đã quản
lý thêm 1.671 dân từ vùng kiểm soát của địch trở về); phát huy

32
vai trò làm chủ của nhân dân; đấu tranh và xử lý nghiêm các
phần tử xấu, làm trong sạch nội bộ; tạo niềm tin và phấn khởi
trong nhân dân.
Các đoàn thể quần chúng được củng cố, kiện toàn về tổ
chức và phát triển thêm hội viên, đoàn viên mới đến tận thôn,
xóm. Mỗi đoàn thể đều tập trung tập hợp, xây dựng lực lượng
nòng cốt để từ đó đẩy nhanh việc phát triển đoàn viên, hội
viên; có tổ chức huy động được 90% lực lượng tham gia vào tổ
chức Hội. Đến cuối năm 1976, hệ thống các tổ chức đoàn thể
đã được xây dựng đến tận thôn, xóm. Theo đó:
- Hội Nông dân xã có 766 hội viên; tham gia sinh hoạt tại
24 tổ. Ban Chấp hành Hội Nông dân xã có 9 đồng chí; 68 cán
bộ tổ.
- Đoàn Thanh niên xã có 127 đoàn viên, thanh niên; sinh
hoạt tại 3 chi hội, 11 phân hội. Ban Chấp hành Đoàn Thanh
niên xã có 7 đồng chí; 9 cán bộ chi hội và 22 cán bộ phân hội.
- Hội Phụ nữ xã có 628 hội viên; sinh hoạt tại 26 tổ. Ban
Chấp hành Hội Phụ nữ xã có 7 đồng chí; 54 cán bộ tổ12.

12
. Báo cáo số 27/VP của Đảng ủy xã, ngày 23/6/1977.

33
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở xã đã phối hợp tổ chức
được hàng chục cuộc gặp gỡ, trao đổi, vận động các đối tượng
chính trị thực hiện chủ trương hòa hợp, hòa giải dân tộc, giữ
vững khối đoàn kết toàn dân, phát hiện và tố giác những đối
tượng ngấm ngầm chống phá chính quyền cách mạng. Tổ chức
các hoạt động tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia
khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển sản
xuất, ổn định đời sống. Nổi bật nhất là các phong trào khai
hoang, phục hóa, làm thuỷ lợi, khôi phục hệ thống giao thông,
xóa bỏ các tàn dư văn hóa lạc hậu, phản động của chế độ cũ;
vận động nhân dân tham gia các tổ tuần tra bảo vệ trật tự trị an
trong thôn, xóm; tham gia vào các hình thức sản xuất mới do
chính quyền chủ trương, nhất là các tổ vần công, bình công
chấm điểm; tổ chức biểu diễn văn nghệ, luyện tập thể dục, thể
thao; giúp nhân dân trước đây ở vùng địch kiểm soát trở về
dựng lại nhà cửa, ổn định cuộc sống. Các đoàn thể ở xã cũng
vận động hội viên, đoàn viên tích cực tham gia các hoạt động
xã hội, phát triển kinh tế, xây dựng chính quyền và các đoàn
thể quần chúng. Đặc biệt, thông qua các hoạt động trên, đã xuất
hiện đoàn viên, hội viên điển hình trong lao động, sản xuất,
phát triển kinh tế, nhất là trong phong trào khai hoang, phục
hóa, làm thủy lợi. Trong phong trào làm thủy lợi, đoàn viên

34
thanh niên và hội viên phụ nữ là lực lượng đông đảo nhất, xung
kích nhất.
Ngày 03/01/1976, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 228-CT/TW
về lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung trong cả
nước. Ngày 25/4/1976, Đảng ủy xã lãnh đạo và vận động tất cả
cử tri tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, thực hiện nghĩa vụ
công dân. Tại kỳ họp thứ nhất được tổ chức từ ngày 24/6/1976
đến ngày 02/7/1976, Quốc hội đã quyết định đổi tên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà thành nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam; đổi tên Ủy ban nhân dân cách mạng các cấp thành
Ủy ban nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể quần chúng hai
miền Nam - Bắc tiến hành hợp nhất và đổi tên. Trên tinh thần
ấy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng cấp
huyện và xã, thị trấn cũng được đổi tên 13.

13
. Ủy ban nhân dân cách mạng đổi tên thành Ủy ban nhân dân; Mặt
trận dân tộc giải phóng đổi tên thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Đoàn
Thanh niên giải phóng đổi tên thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh; Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng đổi tên thành Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Công đoàn giải phóng đổi tên thành Công đoàn Việt Nam.
Xem Lịch sử Đảng bộ huyện Bình Sơn (1975-2005), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2010, tr. 35.

35
Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ xã Bình Tân chú
trọng xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tăng
cường tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị, tư tưởng trong Đảng
và nhân dân nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân về tình hình
nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới; đặc biệt là chính
sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta đối với sĩ quan,
binh sĩ ngụy và gia đình họ; lãnh đạo nhân dân tích cực xây
dựng nếp sống văn minh, đoàn kết gắn bó cộng đồng dân cư,
xây dựng tình làng nghĩa xóm... Làm cho mỗi cán bộ, đảng
viên xác định đúng đắn tinh thần, thái độ làm việc, chống tư
tưởng thỏa mãn với chiến thắng, mất cảnh giác. Triển khai
Nghị quyết số 247-NQ/TW ngày 29/9/1975 của Hội nghị lần
thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương khóa III về nhiệm vụ cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới; Nghị quyết số
254-NQ/TW ngày 15/7/1976 của Bộ Chính trị về những công
tác trước mắt của cách mạng miền Nam, xác định mục đích,
yêu cầu và phương hướng chung của công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh; những
chủ trương, biện pháp nhằm xóa bỏ chế độ thực dân, phong
kiến về ruộng đất và giải quyết những tranh chấp trong nội bộ
nhân dân; Chỉ thị số 235-CT/TW ngày 20/9/1976 của Ban
Chấp hành Trung ương về vấn đề ruộng đất ở miền Nam để cán
bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đúng về tình hình, nhiệm

36
vụ trong giai đoạn cách mạng mới; tránh tư tưởng thỏa mãn với
chiến thắng, hưởng thụ, lơ là mất cảnh giác; nâng cao ý thức,
trách nhiệm trong công tác xây dựng và bảo vệ Đảng, chấn
chỉnh kỷ luật, kỷ cương; tôn trọng và thực hiện chủ trương của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; nâng cao tinh
thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhìn
chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã giữ gìn được phẩm chất,
đạo đức, lối sống trong sạch, gần gũi quần chúng, bám phong
trào, bám quần chúng và lãnh đạo quần chúng tham gia thực
hiện hoàn thành các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Các
chi bộ và tổ đảng đã nỗ lực, phát huy vai trò lãnh đạo nhân dân
thực hiện phát triển kinh tế - xã hội. Xuất hiện nhiều đảng viên
gương mẫu trong sản xuất và trong xây dựng đời sống mới.
Đây cũng chính là những nhân tố góp phần quan trọng vào xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; thể hiện rõ bản chất của
Đảng cầm quyền.
Công tác xây dựng Đảng về tổ chức được Đảng ủy xã đặc
biệt coi trọng, nhất là công tác xây dựng tổ chức bộ máy Đảng
và các tổ chức trong hệ thống chính trị tại địa phương. Coi đó
là nhiệm vụ thường xuyên, trọng tâm và cấp bách. Do vậy,
ngay sau khi giải phóng, Đảng ủy xã đã tập trung sắp xếp, bố
trí cán bộ của địa phương; tổ chức sắp xếp, bố trí đội ngũ cán
bộ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần
chúng phù hợp với thực tế, nhằm quản lý, điều hành mọi hoạt

37
động trong tình hình mới. Đồng chí Đào Ngọc Thìn tiếp tục giữ
chức vụ Bí thư Đảng ủy xã; đồng chí Bùi Văn Cẩn giữ chức
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; đồng chí Võ Thanh Tùng giữ
chức Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân kiêm Chủ tịch Mặt trận Tổ
quốc xã; đồng chí Đỗ Thị Tiến giữ chức Chủ tịch Hội Phụ nữ
xã, đến giữa năm 1976 đồng chí Phạm Thị Thoa thay thế; đồng
chí Phan Văn Mùi giữ chức Chủ tịch Hội Nông dân xã; các
đồng chí Lê Thị Quy (năm 1975), Phạm Thị Thoa (từ nửa đầu
năm 1976), Đồng Tấn Thắng (từ nửa cuối năm 1976) lần lượt
là Bí thư Đoàn Thanh niên xã; đồng chí Đồng Văn Trí - Xã đội
trưởng đến tháng 10/1975; đồng chí Cù Văn Đến - Trưởng
Công an xã. Cuối tháng 12/1975, thực hiện chủ trương của cấp
trên, tất cả cử tri tại địa phương đã tham gia bầu cử Hội đồng
nhân dân cấp xã; đã bầu được 21 đại biểu Hội đồng nhân dân
xã. Hội đồng nhân dân xã bầu 7 thành viên Ủy ban nhân dân
xã; đồng chí Bùi Văn Cẩn được bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã, đồng chí Cù Văn Đến giữ chức Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân kiêm Trưởng Công an xã, đồng chí Võ Thanh
Tùng giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân kiêm Chủ tịch
Mặt trận Tổ quốc xã; đồng chí Phạm Kính thay đồng chí Đồng
Văn Trí làm Xã đội trưởng từ tháng 10/1975 và đồng chí Phan
Văn Môn - Ủy viên thư ký. Đảng ủy xã tăng cường chỉ đạo
nâng cao nội dung sinh hoạt chi bộ, nâng cao chất lượng đảng
viên. Đến cuối năm 1976, Đảng bộ xã có 65 đảng viên.

38
Có thể khẳng định rằng dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy
Bình Sơn, sau hơn một năm khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn
định và xây dựng cuộc sống mới, Đảng bộ xã Bình Tân đã lãnh
đạo nhân dân vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được những
kết quả ban đầu rất quan trọng, tạo được niềm tin, phấn khởi
trong nhân dân. Các tàn dư của chế độ cũ dần được triệt tiêu;
trật tự xã hội mới được thiết lập. Kết quả đó là do: Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân Bình Tân đã phát huy truyền thống
anh dũng, kiên cường trong chiến đấu để củng cố, tăng cường
tinh thần đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ; phát động, cổ vũ
đảng viên và nhân dân thực hiện chính sách hòa hợp, hòa giải
dân tộc; xây dựng, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân; tích
cực tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục phát
triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống. Tuy nhiên, là một địa
phương vừa thoát khỏi chiến tranh, đội ngũ cán bộ, đảng viên
còn thiếu kiến thức, kinh nghiệm trong quản lý xã hội cùng sự
tác động của nhiều yếu tố khác nên trong công tác xây dựng
Đảng vẫn chưa có nhiều chuyển biến, xuất hiện tư tưởng hẹp
hòi, cố chấp trong công tác tư tưởng. Lãnh đạo phát triển kinh
tế mặc dù đã đạt nhiều kết quả, khích lệ tinh thần hăng say lao
động sản xuất trong nhân dân... nhưng nhìn chung vẫn chưa
thoát khỏi sản xuất nhỏ, manh mún; đời sống của một bộ phận
nhân dân, nhất là gia đình chính sách còn không ít khó khăn,
thiếu thốn. Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân bộc lộ

39
một số hạn chế, chưa thực sự chuyển kịp theo nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn mới. Đây chính là yêu cầu, nhiệm vụ đòi
hỏi Đảng bộ, chính quyền và cả hệ thống chính trị xã Bình Tân
cần tập trung khắc phục và có nhiều biện pháp để thực hiện tốt
hơn nữa trong giai đoạn tiếp theo.
Thực hiện Chỉ thị số 24-CT/TW ngày 10/6/1976 của Ban
Bí thư về tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp, từ ngày 24 đến
ngày 29/10/1976, Đại hội Đảng bộ huyện Bình Sơn lần thứ
XVI (vòng 1) đã được tổ chức. Đại hội đã xác định: “Là Đại
hội xây dựng đất nước”; khẩu hiệu hành động: “Tất cả cho sản
xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tất cả vì Tổ quốc
giàu mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân”. Đại hội cũng xác định
phương hướng trong giai đoạn cách mạng mới, đó là: “Phát
huy cao độ truyền thống cách mạng và thắng lợi đã đạt được,
tiếp tục củng cố đoàn kết của Đảng bộ, quân và dân trong
huyện, dấy lên cao trào cách mạng mới, đẩy mạnh phát triển
nông nghiệp, phấn đấu tự túc được lương thực, phát triển
nhanh cây công nghiệp phục vụ xuất khẩu, tăng nhanh đàn gia
súc, gia cầm, phát triển nghề cá và các ngành, nghề khác... sử
dụng các khả năng sẵn có của địa phương để phục vụ sản xuất
và từng bước ổn định đời sống nhân dân; chăm lo phát triển
văn hóa, giáo dục, y tế; xây dựng lực lượng vũ trang và chính
quyền cơ sở vững mạnh, kiên quyết trấn áp bọn phản cách
mạng; kiện toàn và cải tiến nội dung hoạt động của Mặt trận và

40
các tổ chức đoàn thể; phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động; tích cực xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng
và tổ chức; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ
mới”14.
Từ ngày 14 đến ngày 19/12/1976, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV của Đảng được tổ chức tại Hà Nội. Đại hội đã
tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cách mạng
dân tộc dân chủ trên cả nước; xác định đường lối cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn mới; đề ra mục tiêu chủ yếu của kế
hoạch 5 năm 1976-1980 với hai mục tiêu cơ bản: Xây dựng
một bước cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội; bước đầu hình
thành cơ cấu mới trong cả nước, chủ yếu là cơ cấu công - nông
nghiệp; cải thiện một bước đời sống vật chất của nhân dân; đẩy
mạnh cách mạng tư tưởng, văn hoá; xây dựng và phát triển nền
văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Đây cũng chính
là cơ sở để định hướng, xác định mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng
bộ xã Bình Tân phải lãnh đạo nhân dân thực hiện để cùng cả
nước hoàn thành các mục tiêu Đại hội IV của Đảng đề ra trong
giai đoạn 1976-1980.

14
. Lịch sử Đảng bộ huyện Bình Sơn (1975-2005), Sđd, tr. 40.

41
Chương II
LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TIẾP TỤC
KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, TIẾN
HÀNH CẢI TẠO, XÂY DỰNG VÀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1977-
1980)

Từ cuối năm 1976, trên cơ sở phát huy những kết quả đạt
được trong thời gian đầu sau ngày giải phóng, thống nhất đất
nước; đồng thời thực hiện Nghị quyết số 254-NQ/TW ngày
15/7/1976 của Bộ Chính trị và sự chỉ đạo của Huyện ủy Bình
Sơn, ngày 29/12/197615, Đảng bộ xã Bình Tân đã tổ chức Đại
hội lần thứ VII, nhiệm kỳ 1977-1978. Đại hội đã bầu đồng chí

15
. Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Bình Tân,
ngày 19/10/1978.

42
Đào Ngọc Thìn giữ chức Bí thư Đảng ủy xã, đồng chí Nguyễn
Hữu Phước giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy xã. Đại hội đã đánh
giá kết quả thực hiện nhiệm vụ cải tạo, phát triển kinh tế - xã
hội từ sau ngày giải phóng đến kỳ đại hội. Đại hội xác định
thực hiện nhiệm vụ của địa phương trong điều kiện đất nước
hòa bình, nhân dân phấn khởi với kết quả Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV của Đảng, Đại hội lần thứ I của Đảng bộ tỉnh
Nghĩa Bình và Đại hội lần thứ XVI của Đảng bộ huyện Bình
Sơn. Đây chính là các chủ trương để định hướng, giúp địa
phương vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách về đội ngũ cán
bộ, về cung cách quản lý xã hội, quản lý địa phương, về phát
huy vai trò đội ngũ cán bộ, đảng viên và đặc biệt là vai trò của
quần chúng nhân dân trong lao động sản xuất, hàn gắn vết
thương chiến tranh, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an
toàn xã hội; ổn định sinh hoạt và đời sống nhân dân. Các phong
trào sản xuất, chăn nuôi, khai hoang vỡ hóa, làm thủy lợi;
phong trào giáo dục, học bổ túc văn hóa, y tế phòng bệnh trong
nhân dân được phát động và thực hiện đạt nhiều kết quả. Tuy
nhiên, do ảnh hưởng của hậu quả chiến tranh, trình độ và năng
lực của đội ngũ cán bộ chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ đã tác
động không nhỏ đến công tác lãnh đạo và điều hành tại địa
phương. Nông nghiệp là ngành sản xuất chính, phụ thuộc nhiều
vào thiên nhiên; tiểu thủ công nghiệp gần như không có; quan

43
hệ giữa sản xuất và tiêu dùng còn bất cập; hàng hóa và các loại
vật tư, nhiên liệu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đời
sống khan hiếm đã tác động trực tiếp đến sản xuất, đời sống
nhân dân. Tình hình an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội
vẫn tiềm ẩn phức tạp.
Trước tình hình đó, Đảng ủy xã Bình Tân đã xác định một
số nhiệm vụ trọng tâm trên các lĩnh vực trong hai năm 1977-
1978 để tập trung lãnh đạo và tổ chức thực hiện trong toàn
Đảng bộ, nhân dân địa phương như sau:
Về chính trị, tư tưởng: Tập trung tổ chức quán triệt cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đúng, đầy đủ về nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng trong giai đoạn mới - cách mạng xã
hội chủ nghĩa; thực hiện công tác cải tạo và xây dựng xã hội
mới; phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nhất là
sản xuất nông nghiệp. Làm cho quần chúng nhân dân tin tưởng
vào sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền nhân dân; bảo đảm
thực hiện hoàn thành kế hoạch nhà nước nhiệm kỳ Đại hội
Đảng bộ xã sắp tới.
Tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế.
Trọng tâm là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, bảo đảm lương
thực để không bị thiếu đói giáp hạt các năm 1977-1978. Tích cực
phát triển cây hoa màu, thực hành tiết kiệm. Chú trọng thâm canh
giống lúa mới; phát động nhân dân thực hiện hết diện tích, phấn
đấu năng suất bình quân đạt 2,5-5 tấn/ha; bình quân lương thực

44
đạt 350 kg/người/năm. Tiếp tục mở rộng diện tích khai hoang;
phát triển chăn nuôi gia súc trong hộ gia đình, bình quân mỗi
hộ nuôi khoảng 1-3 con. Đồng thời, vận động nhân dân tăng
cường sử dụng phân xanh, phân chuồng.
Tăng cường công tác thủy lợi. Chủ động nguồn nước tại
các đập hiện có, nhất là đập Bàu Sỏi; chuẩn bị các phương tiện
để sẵn sàng chống hạn. Tập trung đầu tư trạm máy tại đồng Đại
Huệ và hệ thống mương đồng Cây Giá dài gần 4 km; kết nối hệ
thống mương tưới giữa các khu vực sản xuất; xây dựng đập Lô
Đồng và An Tráng; đắp đập bổi ở xóm Vườn. Mức huy động
bình quân là 40 ngày công/lao động/năm để làm thủy lợi.
Hoàn thành việc xây dựng 26 tổ vần công; chọn địa điểm
xây dựng trụ sở và nhân sự chuẩn bị cho việc thành lập hợp tác
xã theo chỉ đạo của Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện. Sắp
xếp các tổ, đội của hợp tác xã; thực hiện điều hòa lao động.
Hình thành các tổ chức và quản lý hoạt động của các lò
rèn, lò gạch, nhóm thợ xây... tiến đến thành lập hợp tác xã để
quản lý sản xuất, giá cả; khuyến khích sản xuất phát triển.
Phấn đấu hoàn thành tuyến đường giao thông từ Bình Phú
đến Tịnh Thiện để xe có trọng tải lớn có thể lưu thông. Hoàn
thành hệ thống giao thông trong xã phù hợp với quy hoạch sản
xuất.

45
Thực hiện rà soát, phân bổ hợp lý lực lượng lao động; bảo
đảm mức ruộng đất cho mỗi lao động là 1 ha; số còn lại vận
động đi kinh tế mới.
Hoàn thành cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở nông thôn. Trọng tâm là hoàn thành việc xây dựng
hợp tác xã nông nghiệp vào năm 1978, phấn đấu vận động đưa
100% hộ nông dân vào các tổ vần công, đổi công. Củng cố lại
hợp tác xã mua bán, triển khai mạng lưới thương nghiệp nhân
dân.
Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, y tế, giáo dục; thực hiện
các chính sách của Nhà nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ,
các đối tượng chính sách xã hội khác.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nắm
vững các quan điểm của Đảng về công tác tư tưởng. Trong hai
năm 1977-1978, cần giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân về chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; động viên nhân
dân tham gia xây dựng nếp sống văn hóa mới, con người mới
xã hội chủ nghĩa; về truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội, xây dựng ý thức làm chủ tập thể; xây dựng tinh thần tương
thân, tương ái, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau.
Tập trung củng cố lực lượng vũ trang xã, thôn, bảo vệ
vững chắc công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Củng cố,
nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền và các tổ chức

46
đoàn thể quần chúng tại thôn; bảo đảm cho công tác quản lý xã
hội và thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Xây dựng Đảng mạnh về tư tưởng, vững chắc về chính trị;
tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ
xã. Đồng thời thực hiện tốt công tác đào tạo cán bộ cho xã và
hợp tác xã16. Riêng đội ngũ cán bộ hợp tác xã, các đồng chí
Phan Văn Mân, Võ Duy Đối, Đỗ Văn Dũng, Võ Đình Nguyên,
Đỗ Lự, Bùi Văn Châu... đã được cử đi đào tạo.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, từ
ngày 04 đến ngày 08/3/1977, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện
Bình Sơn lần thứ XVI (vòng 2) được tổ chức. Đại hội đã vận
dụng quan điểm, đường lối, chủ trương Đại hội IV của Đảng để
làm sâu sắc hơn phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội của huyện trong 5 năm 1976-1980, trước mắt là
trong hai năm 1977-197817.
Sau Đại hội, huyện Bình Sơn đã phân chia địa bàn huyện
thành 6 tiểu vùng kinh tế - kỹ thuật để tập trung phát triển cơ
cấu cây trồng, vật nuôi, ngành nghề phù hợp với điều kiện tự
nhiên và lao động. Các tiểu vùng kinh tế - kỹ thuật này được

16
. Đề án công tác hai năm 1977-1978 của Đảng bộ xã Bình Tân,
ngày 07/11/1976.

47
xác định là cơ sở để huyện tiến hành công cuộc cải tạo và xây
dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trong nông
nghiệp; trọng tâm là xây dựng hợp tác xã. Xã Bình Tân được
xác định nằm trong tiểu vùng 4 với phương hướng sản xuất
chính là hoa màu, cây ăn quả, chăn nuôi bò, lợn, đánh cá biển.
Cụm kinh tế - kỹ thuật ở trung tâm Nông trường Tháng Mười,
xã Bình Hòa18.
Kế thừa những thành quả đạt được, bám sát các nhiệm vụ
trọng tâm đề ra trong hai năm 1977-1978, Đảng ủy xã chỉ đạo
hệ thống chính trị linh hoạt, sáng tạo và căn cứ tình hình tổ
chức, chức năng, nhiệm vụ phối hợp vận động đoàn viên, hội
viên và nhân dân tham gia thực hiện đạt những kết quả quan
trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quán triệt các nhiệm vụ trọng tâm trong lãnh đạo phát
triển kinh tế, từ sau Đại hội Đảng bộ xã lần thứ VII (năm 1977)

17
. Lịch sử Đảng bộ huyện Bình Sơn (1975-2005), Sđd, tr. 50.

18
. Lịch sử Đảng bộ huyện Bình Sơn (1975-2005), Sđd, tr. 56.

48
đến cuối năm 1978, Đảng ủy xã đã tập trung lãnh đạo phát triển
nông nghiệp một cách toàn diện; tập trung lãnh đạo hoàn thành
xây dựng 21 tổ hợp tác giản đơn, làm cơ sở cho việc thành lập
hợp tác xã nông nghiệp và đưa các ngành, nghề vào con đường
làm ăn tập thể; cử Ban quản lý hợp tác xã giản đơn gồm 5 đồng
chí. Để làm cơ sở thành lập hợp tác xã nông nghiệp 19, Bình Tân
đã tổ chức cho 1.962 lượt nông dân học tập các tài liệu liên
quan về hợp tác xã; đến tháng 8/1978 đã hoàn thành công tác
chuẩn bị và hướng dẫn nông dân đăng ký theo quy định. Đồng
thời, hình thành các tổ, đội kỹ thuật, hỗ trợ và hướng dẫn nhân
dân trong xử lý giống, bón phân, chăm sóc, phòng trừ sâu
bệnh, thủy lợi,... Chỉ đạo tập trung sản xuất cây lương thực,
nhất là sản xuất cây lúa, các loại cây hoa màu; chủ động sử
dụng giống mới thay thế các giống cũ, thoái hóa; coi trọng lịch
thời vụ, công tác thủy lợi cùng với việc tăng cường lượng phân
bón hữu cơ nhằm cải tạo đất và tăng năng suất cây trồng. Với
phương châm thực hiện hết diện tích, nhằm đạt sản lượng
lương thực cao nhất, Đảng ủy xã đã vận động nhân dân tích
cực sản xuất các vụ trong năm theo đúng kế hoạch. Tiếp tục

19
. Báo cáo năm 1978 của Đảng ủy xã Bình Tân.

49
khai hoang mở rộng diện tích, trong hai năm 1977-1978, xã đã
khai hoang được trên 35,5 ha; nâng tổng diện tích đất sản xuất
của địa phương lên 706 ha/năm, trong đó diện tích cây lúa là
444 ha/năm. Sản lượng lúa đạt trên 860 tấn, sản lượng cây màu
quy lúa đạt 178,5 tấn. Bình quân lương thực đạt 450
kg/người/năm. Từ kết quả trên, việc thực hiện nghĩa vụ thuế
lương thực đối với Nhà nước đạt chỉ tiêu cấp trên giao. Trong
hai năm 1977-1978, xã đã nộp được 62,7 tấn và thu mua được
48,6 tấn lương thực. Về chăn nuôi, tổng đàn gia súc có 1.885
con; không tăng so với năm 1976.
Xã đã thành lập được một vườn ươm cây giống tại xóm
Vườn, thôn Diên Lộc với 12 lao động, do ông Trương Quang
Lợi làm đội trưởng nhằm phục vụ nhu cầu trong nhân dân. Qua
đó đã ươm được trên 1 triệu cây giống các loại. Phong trào
trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả cũng được nhân dân đồng tình
hưởng ứng và trồng được 34 ha rừng, 380 gốc tre, 370 cây mít
và 130 cây dừa. Đồng thời, chỉ đạo công tác chăm sóc và bảo vệ
rừng, bảo đảm tăng độ che phủ và đạt hiệu quả kinh tế.
Tập trung đầu tư để củng cố, nâng cấp các công trình thủy
lợi, coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, quyết định đến
năng suất, chất lượng sản xuất nông nghiệp. Xã đã vận động
nhân dân đóng góp gần 24.500 ngày công để xây dựng 2 đập,
đắp 19 đập bổi, làm mới trên 4.700 m kênh mương; nạo vét và
đào mới 41 ao, giếng; đầu tư lắp đặt 20 máy bơm, 66 gàu

50
sòng... bảo đảm tưới cho trên 200 ha đất sản xuất. Đáng chú ý
là đã huy động trên 1.700 ngày công để đào mới tuyến kênh từ
Tịnh Thiện (huyện Sơn Tịnh) đưa nước về tưới cho cánh đồng
Diên Lộc và Nhơn Hòa dài 3.976 m. Đây là công trình thủy lợi
lớn, huy động toàn bộ ngày công lao động của nhân dân, không
có máy móc cơ giới và phải thực hiện trong thời gian dài. Công
trình hoàn thành đã giải quyết cơ bản về nước tưới cho toàn bộ
diện tích đất sản xuất của hai thôn Nhơn Hòa và Diên Lộc, giải
quyết được vấn đề lương thực, góp phần ổn định sản xuất và
đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, xã đã tổ chức đào được 777 m
kênh mương liên hoàn ở xóm Nhì, phục vụ nước tưới cho trên
2,5 ha. Nhờ những nỗ lực trên nên hầu hết diện tích đất sản
xuất đã được nhân dân gieo trồng đúng thời vụ, hạn chế được
tình trạng mất mùa do không chủ động nguồn nước. Đồng thời,
tăng cường đội ngũ cán bộ thủy lợi, thợ máy để bảo đảm điều
hòa và thực hiện tiết kiệm nguồn nước, phục vụ tốt công tác
chống hạn khi cần. Thực hiện kiến thiết, quy hoạch hệ thống
tưới tiêu, giao thông bảo đảm cho sản xuất lớn, áp dụng được
cơ giới hóa, thủy lợi hóa và khoa học. Vận động nhân dân thực
hiện cấy vào vụ hè thu. Sử dụng phân xanh, phân chuồng, phân
bắc trong sản xuất với khẩu hiệu “Sạch làng, tốt ruộng” nên
năng suất các loại cây trồng đều đạt khá cao so với trước đây.
Huy động 14.366 ngày công của đoàn viên, hội viên tham gia

51
xây dựng đập Hố Vàng, đập Bà Ích, đập Hóc Dọc và trạm bơm
nam Sông Vệ, với khối lượng đào đắp 1.192 m3 đất20.
Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, tháng 8/1978 xã Bình
Tân đã tập trung xây dựng hậu cứ tại núi Thình Thình, vừa
chăn nuôi, vừa sản xuất, chuẩn bị sẵn sàng phòng khi có chiến
sự xảy ra. Tại đây có trại chăn nuôi trên 40 con bò, 10,5 ha đất
sản xuất lúa và đang tiếp tục mở rộng thêm 30 ha; có 12 lao
động làm việc thường xuyên do ông Trần Hạng phụ trách.
Hoạt động thương nghiệp bước đầu đạt kết quả. Xã đã thành
lập hợp tác xã mua bán, huy động được 771 cổ phần với số vốn
đóng góp là 3.855 đồng; do đồng chí Trần Tiến Mai làm Chủ
nhiệm, đồng chí Đặng Kiệu làm Phó Chủ nhiệm, đồng chí Thới
Hoàng làm Trưởng ban kiểm soát. Qua hoạt động, hợp tác xã
mua bán đã cung cấp các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống và
sản xuất của nhân dân và có một phần tích lũy để tái đầu tư sản
xuất.
Nhằm hỗ trợ cho phát triển sản xuất, Bình Tân cũng tập
trung các nguồn lực để tiếp tục nâng cấp các tuyến đường trong
thôn, xóm. Huy động 15.000 ngày công trong nhân dân, làm

20
. Báo cáo năm 1978 của Đảng ủy xã Bình Tân.

52
được 1.308 m đường từ Nhơn Hòa đến Diên Lộc ra Bình Phú;
15.600 ngày công tu sửa các tuyến đường thôn, xóm; 1.480
ngày công làm 33 cầu, cống các loại, trong đó có 2 cầu lớn.
Huy động 1.612 ngày công làm đường ở Nông trường Tỏi
(Bình Hòa) và đào đắp 1.673 m3 tuyến đường ở Bình Hiệp. Bên
cạnh đó, huy động nhân dân vận chuyển 34 tấn lương thực của
huyện về kho tại Bình Phú.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội ngày một tiến bộ. Các hoạt động
chiếu phim, văn nghệ diễn ra thường xuyên. Xã đã tổ chức
nhiều đợt mít tinh tuyên truyền và làm 13 panô, hàng trăm câu
khẩu hiệu để cổ súy, động viên các phong trào khai hoang phục
hóa, làm giao thông, thủy lợi, thi đua sản xuất, thu mua lương
thực, học bổ túc văn hóa, xoá nạn mù chữ, thực hiện nghĩa vụ
quân sự... Phong trào văn hóa, văn nghệ diễn ra với nhiều nội
dung phong phú, nhất là các tiết mục tự biên, tự diễn đều phục
vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của địa phương, thu hút hàng
nghìn lượt nhân dân đến xem và cổ vũ. Phát động phong trào
rèn luyện sức khỏe trong nhân dân, được đông đảo nhân dân,
đặc biệt là thanh thiếu nhi trong xã tham gia.
Cơ sở vật chất trường, lớp tiếp tục được đầu tư, đủ điều
kiện để tiếp nhận học sinh. Đặc biệt, nhận thức được việc học
tập là cần thiết nhưng địa phương chưa đủ cơ sở trường lớp để
đáp ứng nhu cầu học tập của toàn bộ học sinh nên Đảng ủy xã
đã chủ trương mở một cuộc vận động, trên tinh thần tự lực

53
cánh sinh và đã được nhân dân đồng thuận cao; nhờ đó, đến
năm 1978, tại 3 thôn đã xây dựng được 3 trường, tổ chức được
3 lớp cho học sinh lớp 1. Do vậy, số lượng học sinh tăng hơn
so với năm học trước: nếu năm học 1977-1978, Bình Tân có
762 học sinh cấp I và II, 14 giáo viên thì đến năm học 1978-
1979, toàn xã có 15 lớp cấp I với 634 học sinh; 6 lớp cấp II với
340 học sinh. Mỗi thôn đều có 1-2 lớp mẫu giáo, với 80 cháu.
Chất lượng giáo dục có những chuyển biến tích cực. Giáo viên
và học sinh đều ra sức thi đua dạy tốt, học tốt mặc dù chưa đủ
các loại trang, thiết bị như bàn ghế, sách giáo khoa; tỷ lệ học
sinh lên lớp đạt trên 60%. Phong trào học bổ túc văn hóa tiếp
tục duy trì nền nếp, phát triển. Mỗi xóm đều có trường để tổ
chức học bổ túc văn hóa cho nhân dân; toàn xã mở được 26 lớp
học bổ túc từ lớp 2 đến lớp 4, với 385 người tham gia. Đến
năm 1977, xã đã hoàn thành chương trình phổ cập lớp 2 và
năm 1978 hoàn thành phổ cập lớp 3. Bên cạnh đó, xã còn mở
một lớp học bổ túc hết cấp I có 32 học viên và một lớp học bổ
túc hết cấp II có 28 học viên.
Công tác chính sách xã hội được Đảng bộ xã quan tâm chỉ
đạo thực hiện và đạt kết quả quan trọng. Đến cuối năm 1978, xã
Bình Tân đã lập 200 hồ sơ đề nghị công nhận liệt sĩ; qua đó, đã
có 89 hồ sơ được công nhận. Các phần mộ liệt sĩ đều được quy
tập vào Nghĩa trang địa phương. Quan tâm chăm lo đời sống
cán bộ hưu trí, người có công trên địa bàn. Hoàn thành công tác

54
điều tra, thống kê dân số, lao động và nhà ở trên địa bàn theo
chủ trương của cấp trên. Theo đó, Bình Tân có 731 hộ gia đình
với 3.032 nhân khẩu, trong đó có: 1.669 nữ, 858 người trong độ
tuổi lao động. Về nhà ở có 713 nhà (gồm: 4 nhà ngói, 1 nhà tôn
và 291 nhà tranh và 417 nhà tạm bợ)21; đưa đi kinh tế mới 25
lao động.
Công tác y tế được quan tâm đúng mức. Đội ngũ cán bộ y
tế xã được củng cố đến các thôn. Nhiệm vụ trọng tâm là tuyên
truyền và phối hợp với các đoàn thể tuyên truyền về công tác
phòng, chống dịch bệnh trong nhân dân, đã có 6.019 lượt người
tham gia. Phối hợp vận động thực hiện phong trào 3 công trình
vệ sinh và dân số - kế hoạch hóa gia đình đạt kết quả.
Đảng ủy và chính quyền xã thường xuyên chỉ đạo xây
dựng, củng cố và nâng cao chất lượng lực lượng công an. Ban
an ninh xã có 12 đồng chí; mỗi thôn, xóm đều có lực lượng
công an viên làm nhiệm vụ bảo đảm tình hình trật tự, an toàn
xã hội. Xã đã thiết lập 13 trạm gác tại các xóm và có 1 tiểu đội
canh gác vào ban đêm. Ban an ninh xã, công an thôn, xóm
thường xuyên phối hợp tuần tra, canh gác bảo vệ địa bàn. Theo

21
. Báo cáo 6 tháng đầu năm 1977 của Đảng ủy xã Bình Tân, ngày
23/6/1977.

55
dõi, kêu gọi, răn đe, tổ chức học tập cho số đối tượng chính trị
tham gia chế độ cũ và các đảng phái phản động chưa thực sự
chấp hành chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Đồng thời, tiếp tục quản lý chặt chẽ số đối tượng
này để có biện pháp giáo dục, trấn áp kịp thời nếu có biểu hiện
chống đối hoặc lợi dụng các chủ trương của Đảng để có hành
vi vi phạm pháp luật. Nhờ có những biện pháp tích cực nên
tình hình an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội được giữ
vững ổn định, góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại địa
phương. Tuy nhiên, vẫn còn một số đối tượng ngụy quyền,
ngụy quân chưa thật sự cải tạo tốt mặc dù địa phương đã nhiều
lần giáo dục; tình trạng trộm cắp, gây mất đoàn kết vẫn còn xảy
ra.
Lực lượng du kích được quan tâm xây dựng đủ về số
lượng và bảo đảm chất lượng. Đến thời điểm này, lực lượng du
kích xã có 25 đồng chí; 3 tiểu đội với 42 du kích thôn; dân
quân, tự vệ có 186 đồng chí biên chế ở 15 tiểu đội, 3 trung đội.
Lực lượng du kích thường xuyên phối hợp với công an trực
chiến, tuần tra bảo đảm trật tự trị an tại địa phương. Đồng thời,
vận động nhân dân tu sửa lại hầm, công sự tại gia đình và
những nơi tập trung đông người, dọc đường thôn, xóm đề
phòng chiến tranh có thể xảy ra; thực hiện tốt công tác bố
phòng, phân công lực lượng tại 4 trạm gác để kiểm soát tình
hình và thông báo cho nhân dân khi có vụ việc cần thiết. Xã đã

56
thực hiện 2 đợt giao quân làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, có 72
thanh niên tham gia, vượt chỉ tiêu cấp trên giao.
Công tác xây dựng chính quyền được quan tâm chỉ đạo
thực hiện kịp thời. Bộ máy chính quyền xã, thôn từng bước ổn
định và đi vào hoạt động nhịp nhàng, hiệu quả. Hội đồng nhân
dân xã gồm 21 đại biểu; Ủy ban nhân dân có 7 đồng chí, do
đồng chí Bùi Văn Cẩn giữ chức Chủ tịch, đồng chí Cù Văn
Đến giữ chức Phó Chủ tịch đến cuối năm 1978 (từ năm 1979,
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã là đồng chí Phan Văn Môn);
đồng chí Phan Văn K (Ca) - Ủy viên phụ trách tài chính; đồng
chí Đỗ Tấn Đồng - Ủy viên phụ trách văn hóa - xã hội; đồng
chí Nguyễn Văn Kiện - Trưởng Công an xã (đến tháng 7/1979
đồng chí Phan Văn Môn - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân kiêm
nhiệm Trưởng Công an xã thay đồng chí Nguyễn Văn Kiện); từ
năm 1977, đồng chí Trương Công Đáng - Xã đội trưởng; đồng
chí Nguyễn Thanh Hùng - Ủy viên thư ký. Bộ máy chính
quyền xã được kiện toàn đã quản lý, điều hành các hoạt động
của địa phương trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng
và an ninh.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thường xuyên phối hợp
với chính quyền xã vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ
trương của Đảng, Nhà nước và của địa phương; giáo dục nâng
cao nhận thức, đấu tranh chống chiến tranh phá hoại của các
thế lực thù địch trên các lĩnh vực, nhất là nhằm chống phá khối

57
đại đoàn kết toàn dân. Phát động và vận động hội viên, đoàn
viên và nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua lớn, đó là:
“Phong trào sản xuất, tiết kiệm”, “Phong trào tham gia lao
động sôi nổi” và “Phong trào học tập chính trị, văn hóa”. Qua
đó, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã tổ chức được hàng
chục cuộc học tập về các chủ trương, nhiệm vụ của địa
phương, như: phát triển kinh tế, thực hiện dân số - kế hoạch
hóa gia đình, thực hiện nghĩa vụ quân sự và bảo vệ Tổ quốc, đi
xây dựng vùng kinh tế mới, gửi tiền tiết kiệm, đóng góp ngày
công và vật lực để xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội. Đặc biệt,
Hội Nông dân xã thực hiện tốt vai trò đại diện về quyền lợi cho
hội viên và nông dân; trực tiếp vận động và xây dựng tổ vần
công, đổi công, tổ bình công chấm điểm, đảm phụ thuế nông
nghiệp, phong trào làm phân bón, thủy lợi, khai hoang, vỡ hóa;
lấy các tổ nông dân làm nòng cốt để xây dựng tổ nông dân
đoàn kết sản xuất. Đoàn Thanh niên xã đã xung kích trên mặt
trận thủy lợi, làm giao thông, trồng cây gây rừng, tham gia các
lực lượng vũ trang địa phương để bảo vệ quê hương và thực
hiện nghĩa vụ quân sự... Trong giai đoạn này, tổ chức bộ máy
của các đoàn thể về cơ bản giữ ổn định; riêng Đoàn Thanh niên
xã từ nửa cuối năm 1976 do đồng chí Đồng Tấn Thắng giữ
chức Bí thư, đến tháng 7/1977 do đồng chí Phạm Kính làm Bí
thư và đồng chí Phạm Xuân Hoàng giữ chức Phó Bí thư Đoàn
Thanh niên xã.

58
Công tác xây dựng Đảng có nhiều tiến bộ. Đảng ủy tập
trung triển khai học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, đặc
biệt là Chỉ thị số 228-CT/TW ngày 03/01/1976 của Bộ Chính
trị về lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung trong
cả nước; Chỉ thị số 237-CT/TW ngày 24/9/1976 của Ban Bí
thư về củng cố tổ chức đảng và kết nạp đảng viên mới ở miền
Nam; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng và Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 03-
NQ/TW ngày 19/8/1977 của Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương khóa IV về tập trung thực hiện thắng lợi phát
triển nông nghiệp. Đây là đợt học tập nâng cao tư cách đảng
viên; ra sức xây dựng, củng cố các đảng bộ, chi bộ ở nông
thôn. Qua học tập, đảng viên trong Đảng bộ xã đã giữ vững
được bản lĩnh chính trị, tích cực xây dựng tổ chức đảng vững
mạnh. Sinh hoạt đảng được duy trì nền nếp; nguyên tắc tập
trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong Đảng được phát
huy; đoàn kết nhất trí cao trong nội bộ. Đặc biệt, Đảng ủy xã
Bình Tân đã tổ chức nhiều đợt để quần chúng tham gia góp ý
cho từng đảng viên, chi ủy viên và Đảng ủy viên, nên phần lớn
đảng viên đã phát huy được vai trò, trách nhiệm trong lĩnh vực
được phân công; tạo dựng được mối quan hệ mật thiết với nhân
dân. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được chú trọng, qua học
tập Chỉ thị số 237-CT/TW của Ban Bí thư đã phát hiện và đưa
ra khỏi Đảng 01 đối tượng không đủ tiêu chuẩn đảng viên, lưu

59
đảng 1 trường hợp. Trong hai năm 1977-1978, đã phát triển
được 9 đảng viên mới; Đảng bộ lúc này có 65 đảng viên. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được chú trọng, đã cử 31 đồng
chí tham gia học tập các lớp bồi dưỡng do trường Đảng huyện
mở, góp phần nâng cao chất lượng đảng viên, đội ngũ cán bộ
cơ sở, đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ được giao. Nhìn chung, công
tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức luôn được coi trọng;
đoàn kết trong nội bộ được tăng cường; giữ vững nguyên tắc
tập trung dân chủ... Đây cũng chính là cơ sở để không ngừng
mở rộng khối đoàn kết trong nhân dân, thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ đề ra trong hai năm 1977-1978; tạo đà để thực hiện
tốt các nhiệm vụ địa phương trong thời gian tiếp theo.
Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng ủy xã Bình Tân đã
xác định các nhiệm vụ trọng tâm lãnh đạo trong hai năm 1979-
1980. Đảng ủy, chính quyền xã tập trung lãnh đạo thực hiện tốt
công tác khai hoang, vỡ hóa, tăng diện tích cây trồng; phấn đấu
đến năm 1980, diện tích cây trồng đạt 1.760 ha; chú trọng cây
hoa màu để đưa sản lượng lương thực đạt 3.000 - 3.100 tấn
(trong đó lúa đạt trên 1.800 tấn), bình quân lương thực đạt 500
kg/người/năm. Hoàn thiện hệ thống kênh mương từ Sơn Tịnh
về Bình Tân; tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ của cấp trên xây dựng
một số hồ, đập kiên cố để phục vụ sản xuất và tăng khả năng
chống hạn. Đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm trong các hộ
gia đình; bình quân đạt 2-3 con gia súc/hộ gia đình; 3-4 con gia

60
cầm/hộ gia đình. Phát triển các nghề thủ công, nhất là sản xuất
gạch, đá chẻ; phát huy các đội thợ (mộc, nề). Đẩy mạnh hoạt
động của hợp tác xã mua bán, bảo đảm cung cấp các mặt hàng
thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất của nhân dân.
Hoàn thành phổ cập giáo dục lớp 5; thanh toán xong bổ túc
văn hóa cấp I cho những người từ 40 tuổi trở lên; tập trung hoàn
chỉnh hệ thống trường lớp từ lớp 1 đến lớp 9.
Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, toàn diện bảo
đảm sự lãnh đạo, điều hành và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị của Đảng bộ xã.
Ngày 15/11/1978, Đảng bộ xã Bình Tân tổ chức Đại hội
lần thứ VIII, nhiệm kỳ 1979-1981. Đại hội đã bầu đồng chí
Nguyễn Hữu Phước giữ chức Bí thư Đảng ủy xã, đồng chí Bùi
Văn Cẩn giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy xã và đồng chí Phan
Văn Mân giữ chức Ủy viên Thường vụ - Chủ nhiệm Hợp tác xã
nông nghiệp. Đến tháng 7/1979, đồng chí Nguyễn Hữu Phước
được huyện điều động về giữ chức Ủy viên thường trực Ủy ban
nhân dân huyện; đồng chí Nguyễn Văn Kiện - Đảng ủy viên
được chỉ định làm quyền Bí thư Đảng ủy xã 22. Đến tháng
10/1980, đồng chí Nguyễn Hữu Phước được Huyện ủy điều về
trực tiếp giữ chức danh Phó Bí thư thường trực Đảng ủy xã 23.

22
. Nghị quyết số 116/QĐ-TV ngày 06/7/1979 của Thường vụ Huyện

23
. Nghị quyết số 88/QĐ-TV ngày 21/10/1980 của Thường vụ Huyện

61
Đại hội đã nhận định, bước vào năm 1979 tình hình đất
nước nói chung, cả tỉnh và huyện nói riêng có những diễn biến
phức tạp. Chiến tranh biên giới phía Tây Nam và xung đột vũ
trang ở biên giới phía Bắc nổ ra; các thế lực thù địch tăng cường
chống phá nước ta trên mọi phương diện cùng với những bất
cập, hạn chế trong công tác quản lý sau những năm đầu hoà bình
đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, tác động
không nhỏ đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Xuất phát từ tình hình nêu trên và thực tế địa phương, Đại
hội thống nhất đề ra nhiệm vụ chung trong nhiệm kỳ 1979-
1981:
Một là, đoàn kết toàn dân, tập trung cao độ đẩy mạnh vượt
về sản xuất nông nghiệp, tăng nhanh sản lượng lương thực và
thực phẩm (chủ yếu là lúa và màu). Sử dụng hết lao động và
tiềm năng đất đai; áp dụng các biện pháp thâm canh, các quy
trình kỹ thuật, không ngừng nâng cao năng suất và sản lượng
cây trồng. Đẩy mạnh chăn nuôi phát triển đàn bò, đàn heo và
gia cầm để cuối năm 1980 đưa chăn nuôi thành ngành sản xuất
chính. Bảo đảm tự túc lương thực trong toàn xã, có dự trữ và có
đóng góp cho Nhà nước.
Hai là, đề cao cảnh giác, trấn áp kịp thời những âm mưu,
bạo loạn của kẻ địch và bọn phá hoại. Xây dựng vững chắc
chính quyền, lực lượng công an, lực lượng du kích cơ động ở

62
xã, thôn và lực lượng dân quân rộng rãi. Phát động phong trào
bảo vệ an ninh Tổ quốc trong toàn dân một cách sâu rộng và
liên tục. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động; bảo đảm chỉ tiêu nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ lao động để
xây dựng và bảo vệ đất nước.
Ba là, hoàn thiện cách mạng quan hệ sản xuất ở nông
nghiệp trong năm 1979.
Đại hội cũng đề ra các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể
để thực hiện gắn với đề án chương trình công tác hai năm
1979-1980 của Đảng ủy xã.
Từ ngày 11 đến ngày 14/6/1979, Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện Bình Sơn lần thứ XVII được tổ chức. Đại hội đã phân
tích, đánh giá tình hình, xác định những thuận lợi và khó khăn,
đề ra phương hướng chung cho hai năm 1979-1980 là: Động
viên mạnh mẽ toàn Đảng bộ, quân và dân trong huyện phát huy
truyền thống cách mạng, đoàn kết thống nhất; phát huy quyền
làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, ý thức tự lực, tự cường, ra
sức củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất vừa mới hình thành
trên địa bàn huyện. Ra sức xây dựng và phát triển kinh tế, tập
trung cao độ cho sản xuất lương thực, thực phẩm, đẩy mạnh sự
nghiệp văn hóa, giáo dục, hết sức chăm lo đời sống nhân dân,
nỗ lực xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Sớm hình thành cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư, công nghiệp
trên địa bàn huyện; đồng thời ra sức tăng cường và củng cố

63
quốc phòng; bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã
hội, chuẩn bị cho sẵn sàng chiến đấu, thực hiện tốt hậu cần tại
chỗ và tích cực chi viện cho tiền tuyến. Ra sức xây dựng Đảng
bộ huyện, xây dựng chính quyền và các đoàn thể quần chúng
vững mạnh, toàn diện đủ sức chỉ đạo và tổ chức thực hiện mọi
mặt công tác, bảo đảm hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc24.
Ngày 20/9/1979, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW về tình
hình và nhiệm vụ cấp bách. Trung ương khẳng định: Tình hình
kinh tế và đời sống nhân dân đang có nhiều khó khăn, Đảng và
Nhà nước ta phải có những chủ trương và biện pháp cấp bách,
mạnh mẽ, kiên quyết, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm đẩy
mạnh sản xuất, ổn định và bảo đảm đời sống nhân dân, khắc
phục những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế và xã
hội, đồng thời ra sức củng cố quốc phòng, giữ vững trật tự an
ninh, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc. Từ nay đến năm
1981, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải tập trung sức
thực hiện ba nhiệm vụ cấp bách:

24
. Xem Lịch sử Đảng bộ huyện Bình Sơn (1975-2005), Sđd, tr. 53.

64
Một là, đẩy mạnh sản xuất, ổn định và bảo đảm đời sống
của nhân dân.
Hai là, tăng cường quốc phòng và an ninh, sẵn sàng chiến
đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, kiên quyết đấu tranh khắc phục những mặt tiêu cực
trong hoạt động kinh tế và xã hội, nhất là tệ ăn cắp, hối lộ, ức
hiếp quần chúng.
Quán triệt các chủ trương của Đảng, Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện Bình Sơn lần thứ XVII, Đảng bộ xã Bình Tân
đã tập trung đánh giá những kết quả đạt được từ sau năm 1975
đến nay, triển khai đồng bộ các chương trình, kế hoạch hành
động. Tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp toàn
diện và tiến hành thành lập hợp tác xã nông nghiệp. Ngày
01/5/1979, Hợp tác xã nông nghiệp Bình Tân được thành lập,
gồm có 810 hộ gia đình, 1.600 xã viên, 3.240 nhân khẩu; toàn
bộ tư liệu sản xuất đều được hóa giá và trở thành tài sản chung.
Theo đó, Hợp tác xã quản lý 2.400 ha đất tự nhiên, 392 ha đất
nông nghiệp, trong đó đất lúa 230 ha; 822 con bò. Ban quản trị
Hợp tác xã có 5 thành viên; Chủ nhiệm Hợp tác xã là đồng chí
Phan Văn Mân; Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã là các đồng chí
Phạm Đào và Đào Hợi; Ban kiểm soát Hợp tác xã là đồng chí
Phùng Hợi, sau đó là đồng chí Phan Văn Mùi làm Trưởng ban

65
và đồng chí Đỗ Ngọc Lan làm Ủy viên. Hợp tác xã đã xây
dựng được kế hoạch sản xuất.
Chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp
thông qua việc thành lập hợp tác xã bước đầu đã đem lại nhiều
thuận lợi; thu hút đại đa số nông dân tham gia, là điều kiện để tổ
chức sản xuất, phân công lao động theo từng nhóm, từng ngành.
Đó cũng là điều kiện để Bình Tân tổ chức phân bổ lại đất đai,
cây trồng; tăng diện tích, năng suất và sản lượng cây trồng.
Đồng thời, tiếp tục chỉ đạo huy động nhân dân khai hoang, phục
hóa và đưa vào sản xuất 130 ha tại Thình Thình, Nỗng Rạp,
Nỗng Sáo, Mỹ Lộc, Đại Huệ, xóm Vườn, động Đá vôi ở xóm
Tây. Tiếp tục vận động nhân dân mở mang xây dựng vùng kinh
tế mới; thành lập xóm Tam Phụ, thôn Nhơn Hòa và bước đầu đã
có 31 hộ ở xóm Nhất, xóm Nhì, xóm Tây, xóm Lương Nông
đến sinh sống. Với nỗ lực của toàn Đảng bộ và nhân dân, phong
trào hợp tác xã nông nghiệp ở địa phương đã có những khởi sắc
mới.
Cùng với phát triển nông nghiệp, phong trào thủy lợi phát
triển mạnh mẽ, địa phương đã huy động các nguồn lực và ngày
công trong nhân dân, kết hợp với hỗ trợ của huyện tiếp tục đầu

66
tư, mở rộng hệ thống mương tưới đến các khu vực sản xuất; tu
bổ, nâng cấp các ao, hồ, đập, với trên 10.000 ngày công, nạo vét
trên 8.360 m3 đất; riêng trong năm 1979 huy động được 5.740
ngày công, đào đắp 3.790 m3 đất, phục vụ tưới cho 80 ha vụ hè
thu; mua sắm trên 20 máy bơm các loại, 80 gàu sòng sẵn sàng
phục vụ sản xuất. Nhờ tích cực trong công tác thủy lợi nên hầu
hết sản lượng cây trồng đều tăng nhanh. Đến năm 1980, tổng
diện tích sản xuất lúa 3 vụ (đông xuân, hè thu và vụ 3) đạt hơn
610 ha; sản lượng lương thực quy lúa đạt 970 tấn; bình quân
lương thực đạt gần 300 kg/người/năm. Đàn gia súc (trâu, bò,
heo) có 2.140 con, đàn gia cầm (gà, vịt) phát triển mạnh so với
năm 1978.
Hình thành một số hoạt động hỗ trợ cho Hợp tác xã nông
nghiệp như mở được 2 lò vôi, 4 lò gạch, khai thác 1 hầm đá
chẻ; thành lập các đội thợ phục vụ xây dựng cơ bản của hợp tác
xã và một phần nhu cầu trong nhân dân. Tuy nhiên, Hợp tác xã
nông nghiệp mới thành lập nên còn một số lúng túng trong
quản lý, điều hành hoạt động. Trong quản lý sản xuất phát sinh
mâu thuẫn giữa quy hoạch, kế hoạch và tổ chức thực hiện nên

67
hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của địa
phương.
Công tác phân phối, lưu thông, điều tiết hàng hóa phục vụ
đời sống nhân dân, chủ yếu là các nhu yếu phẩm cần thiết được
bảo đảm thông qua hoạt động của Hợp tác xã mua bán. Đồng
thời, thực hiện việc mua bán hai chiều các sản phẩm nông
nghiệp trong nhân dân gắn với thực hiện chính sách ưu tiên cho
các gia đình thương binh, liệt sĩ về các mặt hàng khan hiếm,
cần thiết. Đặc biệt, hợp tác xã đã điều hòa các mặt hàng hợp lý
và thực hiện phân phối lưu động đến tận các đội sản xuất, tạo
thuận lợi cho việc đi lại và thời gian để nhân dân ưu tiên cho
sản xuất nông nghiệp.
Về xây dựng cơ bản: đã xây dựng được 3 nhà trẻ tại các
thôn. Đồng thời, gia cố lại các tuyến đường, cầu cống; mở rộng
trường cấp II để đủ khả năng tiếp nhận số học sinh lớp 9; triển
khai xây dựng trạm y tế xã, bảo đảm công tác khám và điều trị
bệnh thông thường cho nhân dân; thực hiện quy hoạch nhà ở
liên cơ, tạo thuận lợi trong sinh hoạt, đi lại sản xuất cũng như
chăm lo học tập, sức khỏe trong nhân dân.
Văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Cuộc vận
động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa mới, con
người mới xã hội chủ nghĩa được thực hiện. Các tệ nạn xã hội

68
như: cờ bạc, mê tín dị đoan... từng bước được đẩy lùi. Phong
trào sinh đẻ có kế hoạch được nhân dân đồng tình hưởng ứng,
thực hiện. Công tác tuyên truyền được tổ chức dưới nhiều hình
thức: qua hệ thống loa thông tin, mít tinh, treo tranh cổ động,
băng rôn, khẩu hiệu với nhiều nội dung phong phú để phổ biến
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; về khai
hoang, phục hóa, mở rộng đất sản xuất; làm thủy lợi, làm giao
thông; vận động thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc;
công tác sinh đẻ có kế hoạch và chính sách đền ơn đáp nghĩa.
Thành lập một đội văn nghệ phục vụ biểu diễn, động viên nhân
dân trong lao động sản xuất và lực lượng vũ trang sẵn sàng
hoàn thành nhiệm vụ.
Cơ sở vật chất trường lớp được củng cố. Năm học 1979-
1980, toàn xã có 1.065 học sinh các cấp; bình quân cứ 3 người
dân có 1 người đi học. Đội ngũ cán bộ, giáo viên được đào tạo,
nâng cao về chất lượng, đáp ứng tốt hơn việc học tập trong
nhân dân. Phong trào học bổ túc văn hóa tiếp tục được duy trì.
Đến năm 1979, xã đã hoàn thành chương trình phổ cập giáo
dục lớp 4 và năm 1980 hoàn thành phổ cập giáo dục lớp 5.
Đồng thời, Đảng ủy xã tăng cường động viên cán bộ xã đi học
để đạt trình độ hết cấp II, trong đó có một số đồng chí như: Bùi
Thanh Sơn, Đoàn Công Phụng, Nguyễn Thị Phước, Nguyễn
Thị Quế, Trần Thị An....

69
Ban y tế xã được củng cố, phát huy được vai trò, trách
nhiệm trong công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Tăng
cường kết hợp chữa bệnh bằng đông y và tây y. Vận động nhân
dân tự trồng cây thuốc nam để chữa bệnh, hạn chế điều trị bệnh
thông thường tại trạm. Tiếp tục chỉ đạo và vận động nhân dân
xây dựng 3 công trình vệ sinh phòng bệnh, gồm giếng nước,
nhà vệ sinh và nhà tắm đúng quy chuẩn, đạt kết quả. Công tác
phòng, chống bệnh sốt rét, tiêu chảy, dịch hạch được chú trọng
thực hiện, không để phát sinh phức tạp.
Trong những năm 1979-1980, các thế lực thù địch tiếp tục
tăng cường chống phá cách mạng nước ta. Chúng tuyên truyền,
xuyên tạc, chống đối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về xây dựng hợp tác xã, xây dựng vùng kinh tế mới, luật
nghĩa vụ quân sự, luật lao động... nhằm chia rẽ đoàn kết dân
tộc, chia rẽ cán bộ và nhân dân, kích động, lôi kéo đồng bào rời
bỏ Tổ quốc, vượt biển ra nước ngoài... với nhiều hoạt động
như: rải truyền đơn, phao tin đồn nhảm, viết khẩu hiệu, đặt vè.
Đây là giai đoạn vô cùng phức tạp. Để nhanh chóng ổn định tư
tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tháng 12/1978,
Tỉnh ủy Nghĩa Bình họp Hội nghị bất thường và ban hành Nghị
quyết về công tác an ninh, quốc phòng trong tình hình mới.
Nghị quyết nêu rõ: Nhiệm vụ cực kỳ cấp bách và quan trọng
của Đảng bộ tỉnh là tập trung phòng thủ bảo vệ Tổ quốc,

70
phòng, chống bọn vượt biển, phá hoại cách mạng 25. Tiếp đến,
ngày 29/6/1979, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghĩa Bình ban hành
Chỉ thị số 29-CT/TU về khẩn trương xây dựng thế trận vững
chắc trên tuyến biển trong tình hình mới và Chỉ thị số
31-CT/TU ngày 27/5/1980 về chống chiến tranh tâm lý của
địch.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Huyện
ủy Bình Sơn chủ trương “Chuyển toàn bộ hoạt động của huyện
vào thời chiến”. Trọng tâm là chuyển lực lượng vũ trang, toàn
bộ các hoạt động kinh tế, các sinh hoạt xã hội, tác phong lãnh
đạo sang thời chiến. Thành lập Ban chỉ huy thống nhất và chỉ
đạo xây dựng các phương án tác chiến phòng thủ, cụm chiến
đấu, các kế hoạch phòng, chống bạo loạn.
Chấp hành chủ trương của cấp trên, Đảng bộ xã Bình Tân
nhanh chóng triển khai các phương án sẵn sàng chiến đấu và
phục vụ chiến đấu; tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền
bằng nhiều biện pháp để giáo dục cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân phát huy truyền thống cách mạng, đề cao tinh thần
cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động chống

25
. Xem Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1975-2005), Sđd, tr.81.

71
phá của bọn phản động trên mọi lĩnh vực: tư tưởng, kinh tế,
văn hóa, xã hội, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã
hội; chống chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch. Mặt
khác, tích cực củng cố, mở rộng hậu cứ vững chắc, vận động
nhân dân dự trữ lương thực, thực phẩm đề phòng chiến tranh
xảy ra. Lực lượng công an, dân quân du kích được củng cố cả
về số lượng lẫn chất lượng; đặc biệt chú trọng phối hợp phát
động phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng địa phương
vững mạnh toàn diện. Lực lượng công an, quân sự thường
xuyên nắm tình hình, tổ chức được mạng lưới ở cơ sở đã kịp
thời phát hiện, theo dõi các đối tượng lạ mặt, nghi vấn, các đối
tượng làm ăn phi pháp, có hành vi vi phạm pháp luật để có biện
pháp răn đe, giáo dục, không để ảnh hưởng xấu đến tình hình
địa phương. Đặc biệt, đã tổ chức một đợt học tập 2 ngày cho
toàn bộ số đối tượng chính trị trước đây, thông qua đó tiếp tục
răn đe và kịp thời phát hiện các biểu hiện chống đối, nhằm
quản lý tốt hơn, không để lợi dụng tình hình gây phức tạp tại
địa phương; theo dõi và quản lý chặt chẽ 4 đối tượng thuộc
diện quản chế tại địa phương. Nhờ đó, tình hình tư tưởng trong
cán bộ, đảng viên và nhân dân được ổn định. Bảo vệ an toàn
cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hai cấp (huyện và xã),
nhiệm kỳ 1979-1981. Xã đội trưởng trong giai đoạn 1978-1980
lần lượt là các đồng chí Trương Công Đáng, Đồng Tấn Trị.

72
Tập trung củng cố, kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả
hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được đặt
lên hàng đầu; thường xuyên quán triệt đầy đủ các chủ trương
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Trọng tâm là
tổ chức học tập Nghị quyết số 137 và Chỉ thị số 192 của Trung
ương về rèn luyện tư cách đảng viên, nâng cao bản lĩnh chính
trị, lập trường, quan điểm, khắc phục tư tưởng lệch lạc, nâng
cao chất lượng đảng viên và chi bộ. Tăng cường nắm bắt tâm
tư, nguyện vọng của đảng viên, cán bộ và nhân dân, kịp thời
giải quyết các vấn đề nảy sinh. Thực hiện phân công đảng viên
theo dõi từng lĩnh vực, địa bàn và đoàn thể. Giữ vững nguyên
tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng, tự phê bình và phê
bình trong Đảng nên nâng cao được nhận thức, tinh thần trách
nhiệm của đảng viên, cán bộ. Mở 1 lớp cảm tình đảng cho 19
quần chúng học tập; lập hồ sơ 3 đối tượng và kết nạp được 1
đảng viên mới. Cuối năm 1979, toàn Đảng bộ xã có 66 đảng
viên, sinh hoạt tại 5 chi bộ theo đội sản xuất. Tuy nhiên, trong
công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa tập trung kiểm tra, đôn đốc; một
số đảng viên còn thiếu gương mẫu, chưa thể hiện được vai trò
tiên phong trước quần chúng nhân dân; công tác phát triển đảng
viên còn chậm.
Bộ máy lãnh đạo cấp ủy và chính quyền được kiện toàn bảo
đảm cho công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành tại địa phương.

73
Ngày 20/5/1979, Đảng ủy xã chỉ đạo thành công cuộc bầu cử
Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 1979-1981, gồm 26 đại biểu.
Các đại biểu Hội đồng nhân dân được phân theo liên đội sản
xuất để sinh hoạt; hỗ trợ cho các đội sản xuất phát triển; thể
hiện được vai trò dân cử, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của
người dân. Lúc này, Ủy ban nhân dân xã do đồng chí Bùi Văn
Cẩn giữ chức Chủ tịch đã cùng với các thành viên Ủy ban nhân
dân xã thực hiện điều hành các hoạt động phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội theo
đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao.
Công tác vận động quần chúng được tăng cường. Tập
trung kiện toàn tổ chức, đặc biệt là phân công đảng viên và một
số cấp ủy viên trực tiếp phụ trách. Trong giai đoạn này, đồng
chí Phan Văn Môn giữ chức Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã,
đồng chí Đỗ Ngọc Lan giữ chức Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ
quốc xã26; đồng chí Nguyễn Thanh Hùng giữ chức Bí thư Đoàn
Thanh niên xã, đồng chí Võ Thanh Phiên giữ chức Phó Bí thư
Đoàn Thanh niên xã; Chủ tịch Hội Nông dân tập thể từ năm
1979 là đồng chí Nguyễn Toàn; Chủ tịch Hội Phụ nữ xã từ năm

26
. Hai đồng chí giữ chức vụ này đến năm 1990.

74
1979 là đồng chí Hồ Thị Huề. Nhiệm vụ chủ yếu của các đoàn
thể là tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện
tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là
tham gia các phong trào hành động cách mạng tại địa phương,
như: khai hoang, phục hóa đất sản xuất nông nghiệp; xây dựng
hợp tác xã nông nghiệp; xây dựng 3 công trình vệ sinh; bảo vệ
an ninh Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã
hội... Trong đó, nổi bật nhất là Đoàn Thanh niên và Hội Phụ nữ
xã. Đoàn Thanh niên xã ngoài việc đẩy mạnh công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng cho đoàn viên, thanh thiếu niên với những
hình thức phù hợp, như học tập chuyên đề, tổ chức các hoạt
động văn hóa - văn nghệ, hành quân theo chân Bác, hành quân
theo bước chân những người anh hùng, đã vận động lực lượng
lớn đoàn viên và thanh niên tham gia trên các công trình làm
giao thông, thủy lợi, khai hoang, phục hóa và sản xuất, tham
gia lực lượng dân quân, công an để bảo vệ an ninh và trật tự, an
toàn xã hội. Hội Phụ nữ xã đẩy mạnh cuộc vận động “Người
phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và phối hợp với Đoàn
Thanh niên xã vận động thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự
làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; chăm sóc, giúp đỡ các gia đình
có thanh niên tại ngũ, gia đình thương binh, liệt sĩ...
Sau hơn 5 năm nỗ lực thực hiện Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ các cấp và hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ

75
xã lần thứ VIII và chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, Đảng bộ và nhân
dân xã Bình Tân đã từng bước vượt qua những khó khăn,
thách thức và đạt được nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh
vực: Kinh tế được khôi phục, thực hiện cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với nông nghiệp đã đem lại những thành công; văn
hóa - xã hội đạt được nhiều tiến bộ; đời sống vật chất và tinh
thần của các tầng lớp nhân dân từng bước được cải thiện và
nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm. Hệ thống chính
trị được củng cố, kiện toàn; bước đầu đảm đương được yêu
cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới; tạo tiền đề cơ
bản để Đảng bộ và nhân dân xã Bình Tân bước vào giai đoạn
cách mạng mới với những quyết tâm cao hơn, góp phần cùng
với huyện, tỉnh và cả nước trong thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đặc biệt, với những thành tựu trên cùng với các thành tích
đạt được trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xã
Bình Tân vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước vào ngày 26/8/1978. Đây là sự cổ vũ,
động viên vô cùng to lớn và quý báu để Đảng bộ và nhân dân
trong xã không ngừng tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước,
yêu lao động, đồng tâm hiệp lực xây dựng quê hương ngày
càng phát triển.

76
77
Chương III
LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TIẾP TỤC
THÁO GỠ KHÓ KHĂN, TỪNG BƯỚC
ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ,
CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN
(1980-1985)

Kết quả đạt được trên các lĩnh vực sau hơn 5 năm đất nước
thống nhất là quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến thành
công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, do
chưa lường hết được những khó khăn, thách thức mới đặt ra
trong nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhất là những đảo lộn về
kinh tế - xã hội, hậu quả nặng nề của hơn 30 năm chiến tranh
để lại, những hạn chế, tiêu cực của cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp nên nhiều chỉ tiêu, kế hoạch đề ra không đạt được,
khiến đất nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã
hội nghiêm trọng. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước lại
câu kết, chia rẽ đoàn kết nội bộ, đoàn kết dân tộc và tiến hành
hai cuộc chiến tranh xâm lược ở hai đầu biên giới của Tổ
quốc... Tình hình đó đặt ra cho Đảng ta những vấn đề bức thiết

78
cần tập trung giải quyết để sớm đưa đất nước ta thoát khỏi cuộc
khủng hoảng về kinh tế - xã hội. Trước tình hình đó, Hội nghị
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (tháng 8/1979)
đã đề ra phương hướng, giải pháp khắc phục những khó khăn
gay gắt của đời sống kinh tế - xã hội, đưa đất nước thoát khỏi
cuộc khủng hoảng; trọng tâm là khắc phục những yếu kém
trong quản lý kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển lực
lượng sản xuất phù hợp. Đối với cải tạo nông nghiệp ở miền
Nam, Nghị quyết nêu rõ: Phải nắm vững phương châm tích cực
và vững chắc, chống tư tưởng nóng vội, chủ quan, cưỡng ép,
mệnh lệnh, làm ồ ạt gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống nhân
dân. Đến cuối tháng 8/1980, Trung ương chủ trương điều chỉnh
quy mô hợp tác xã và đội sản xuất cho phù hợp với cơ sở vật
chất và trình độ đội ngũ cán bộ quản lý.
Từ ngày 27 đến ngày 31/3/1982, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ V của Đảng được tổ chức tại Hà Nội. Đại hội đã
xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5
năm 1981-1985; chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp sang hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa;
xác định đất nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung của bước điều chỉnh đó
là: “Trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80, cần tập trung
sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục

79
xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp
nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng
trong cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý” 27.
Từ ngày 22 đến ngày 27/10/1982, Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện Bình Sơn lần thứ XVIII (vòng 2) được tổ chức. Đại hội đã
tập trung đánh giá thành tựu và những hạn chế, yếu kém sau 7
năm giải phóng (1975-1981) và đề ra phương hướng, nhiệm vụ
đến năm 1985: ... Tập trung sức phát triển nông nghiệp toàn
diện, bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước tiến lên sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa, bảo đảm được ba nhiệm vụ lương thực,
thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu... Kết hợp
chặt chẽ nông nghiệp với lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp, ra sức sản xuất hàng tiêu dùng, hình
thành cơ cấu kinh tế nông - lâm - ngư - công nghiệp... Tích cực
áp dụng khoa học, kỹ thuật và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật, trước hết là thuỷ lợi, thủy điện, giao thông vận tải để
chuẩn bị điều kiện cho phát triển tiếp theo. Nâng cao chất lượng
sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, ổn định và cải thiện

27
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ V, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982, tr.62-63.

80
một bước đời sống nhân dân, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà
nước. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đề cao cảnh giác,
ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, giữ gìn an ninh
chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tiếp tục củng cố quốc phòng -
an ninh, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ
quốc tế. Nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng
bộ, làm cho Đảng bộ thực sự vững mạnh, trong sạch, đoàn kết,
thống nhất và ngày càng thành thục trong lãnh đạo kinh tế, văn
hóa. Thiết lập và phát huy tác dụng của cơ chế Đảng lãnh đạo,
nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, đưa phong trào cách mạng
của huyện tiến lên vững chắc28.
Từ ngày 31/01/1983 đến ngày 05/02/1983, Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình lần thứ III (vòng 2) được tổ chức tại
Quy Nhơn. Đại hội đề ra 4 mục tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội
của tỉnh đến năm 1985.
Một là, về đời sống, tập trung giải quyết đủ lương thực,
thực phẩm cho nhu cầu xã hội, giải quyết các nhu cầu về vải
mặc, giấy viết, văn phòng phẩm, thuốc chữa bệnh, phát triển
dân số hợp lý, khuyến khích phát triển kinh tế gia đình nhằm

28
. Báo cáo tình hình và nhiệm vụ của Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện Bình Sơn tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XVIII (vòng
2), tháng 10/1982.

81
giải quyết việc làm, tăng thu nhập chính đáng, cải thiện đời
sống, kiên quyết đẩy lùi các tiêu cực.
Hai là, về cơ sở vật chất, phải coi trọng đầu tư chiều sâu để
nâng cao hiệu quả sản xuất, tiếp tục xây dựng có trọng điểm cơ
sở vật chất - kỹ thuật, tích cực xây dựng những công trình then
chốt phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Ba là, về cải tạo xã hội chủ nghĩa, coi trọng việc củng cố
và phát triển, nâng cao chất lượng kinh tế quốc doanh, kinh tế
tập thể, hướng dẫn giúp đỡ kinh tế gia đình phát triển. Tiếp tục
xây dựng và củng cố vững chắc hợp tác xã nông nghiệp, hợp
tác xã mua bán, đẩy mạnh hợp tác hóa trong sản xuất tiểu thủ
công nghiệp, nghề cá, nghề muối, nghề rừng, kinh doanh vận
tải, hướng dẫn tiểu thương sang sản xuất và sắp xếp kinh doanh
đúng hướng.
Bốn là, về quốc phòng - an ninh, kết hợp chặt chẽ quốc
phòng với kinh tế, thực hiện đường lối quốc phòng toàn dân,
xây dựng phòng tuyến an ninh nhân dân sẵn sàng chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc29.

29
. Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm
1983 và mức phấn đấu đến năm 1985 tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình

82
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bình Tân là xã
nằm trong vùng giải phóng nên địch luôn xác định đây là một
trong những địa bàn trọng điểm để đánh phá, lùa dân vào các
ấp chiến lược; đa số nhân dân (1.671 người) phải lánh ra các
vùng địch kiểm soát. Sau ngày giải phóng, một bộ phận nhân
dân chịu ảnh hưởng khá nặng nề của lối sống thực dụng, chiến
tranh tâm lý, làm ăn cá thể khi trở lại quê hương sinh sống. Mặt
khác, Bình Tân là xã đất rộng, dân thưa, chủ yếu làm nông
nghiệp lại khó khăn về thủy lợi, bị động nguồn nước tưới - tiêu,
phụ thuộc và chịu sự tác động trực tiếp từ thiên nhiên, ảnh
hưởng lớn đến sản xuất; đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được yêu
cầu. Cá biệt còn một bộ phận quần chúng có liên quan đến chế
độ cũ nên giác ngộ chính trị chưa cao; nhận thức của nhân dân
về quyền lợi và nghĩa vụ chưa đúng mức; dân chủ chưa được
phát huy đầy đủ. Mặc dù có nhiều khó khăn, nhưng trong
những năm 1981-1985 Đảng bộ xã Bình Tân đã lãnh đạo nhân
dân thực hiện đạt nhiều kết quả trên các lĩnh vực.
Trong lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng bộ xã Bình Tân
luôn kiên trì thực hiện chủ trương “Coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu”. Đảng bộ xã đã tập trung quán triệt và thực hiện tốt

lần thứ III (vòng 2), tháng 02/1983, tr.7.

83
Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 01/4/1980 của Bộ Chính trị về
một số chủ trương, biện pháp giải quyết khó khăn về lương
thực hiện nay, Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa IV, Chỉ thị số 100-CT/TW ngày 13/01/1981
của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản
phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã
nông nghiệp (gọi tắt là Chỉ thị số 100, hay còn gọi là khoán
100); Chỉ thị số 26-CT/TU ngày 17/7/1981 về khoán sản phẩm
trong sản xuất vụ đông xuân 1981-1982 và Chỉ thị số
22-CT/TU ngày 25/8/1982 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Nghĩa
Bình về một số vấn đề khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo
đúng tinh thần Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư nhằm
đưa nông nghiệp phát triển đi lên, giải quyết các vấn đề về
lương thực; giải quyết đúng đắn mối quan hệ sản xuất mới theo
phương thức khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động nên
năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi ngày càng tăng lên.
Đến năm 1985, tổng diện tích sản xuất cây lương thực trên địa
bàn xã là 484 ha, trong đó diện tích cây lúa là 477 ha; tổng sản
lượng lương thực đạt trên 1.025 tấn.
Thực hiện Chỉ thị số 100, Đảng ủy xã đã chỉ đạo triển khai
sâu rộng trong xã viên hợp tác xã; chọn 1 đội ở xóm Nhất, thôn
Liêm Quang tiến hành làm điểm, rút kinh nghiệm để nhân rộng
ra toàn hợp tác xã. Từ vụ đông xuân 1981-1982, 100% hộ nông
nghiệp có đủ điều kiện đã nhận khoán sản phẩm theo chủ
trương chung của địa phương. Qua thực hiện, xã viên đã gắn bó

84
hơn với đồng ruộng, chủ động đầu tư thâm canh, xen canh gối
vụ, áp dụng các biện pháp cải tiến kỹ thuật trong sản xuất nên
có sản lượng cao hơn mức khoán. Đến cuối năm 1982, toàn xã
đã thực hiện được nguyên tắc về ba lợi ích “Nhà nước, tập thể
và người lao động”; giải quyết được ba mục tiêu về lương thực,
thực phẩm và hàng tiêu dùng. Kinh tế phát triển, đời sống của
cán bộ, nhân dân được cải thiện và nâng lên. Huy động nghĩa vụ
đối với Nhà nước đạt được chỉ tiêu giao, hạn chế nợ thuế trong
nhân dân; thực hiện chủ trương giao cho hộ gia đình nhận và
bảo vệ, chăm sóc rừng. Trong giai đoạn này, tổ chức bộ máy
hợp tác xã đã được củng cố, kiện toàn kịp thời. Chủ nhiệm Hợp
tác xã lần lượt là các đồng chí: Đỗ Tấn Đồng (6/1982 - 8/1982),
Phạm Đào (9/1982 - 10/1983), Võ Duy Đối (11/1983 - 2/1987);
Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã gồm các đồng chí Phạm Đào, Đào
Hợi (6/1982 - 8/1982), Đào Hợi, Đỗ Ngọc Lang, Phạm Kính
(9/1982 - 10/1983), Đỗ Ngọc Lang, Quảng Thanh Lâm, Phan
Minh Hương (11/1983 - 2/1987).
Kết hợp giữa mô hình chăn nuôi tập thể của hợp tác xã nông
nghiệp và gia đình, cá nhân; khuyến khích được các hộ gia đình
xã viên nhận nuôi gia công. Chăn nuôi phát triển, bảo đảm được
sức cày kéo, tăng cường nguồn phân bón và giải quyết nhu cầu
về thực phẩm, phục vụ cho tiêu dùng trong nhân dân. Đến cuối
năm 1985, tổng đàn gia súc có trên 3.000 con, gia cầm trên 5.000
con. Tiếp tục duy trì hoạt động khai thác đá chẻ phục vụ xây

85
dựng; phát triển ngành nghề (mộc, rèn, làm đường thủ công), giải
quyết lao động tại địa phương.
Nhằm giúp nông dân phát huy hiệu quả đất đai, nâng cao
giá trị sản lượng cây trồng, địa phương đã đẩy mạnh phong trào
làm thủy lợi, kết hợp với cải tạo đồng ruộng được coi là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu. Năm 1981, xã đã triển khai xây dựng
đập Hóc Bứa, xóm Mỹ Lộc, với tổng giá trị thực hiện đạt trên
410.000 đồng, phục vụ nước tưới cho 70 ha. Năm 1982, xã tiếp
tục xây dựng hồ chứa nước Phụng Hoàng, xóm Tam Phụ; khối
lượng đất đào đắp đạt 24.225 m 3, trữ lượng 1,7 triệu m3 nước,
với tổng giá trị xây dựng đạt trên 920.000 đồng, phục vụ nước
tưới cho 50 ha lúa và giữ ẩm cho 30 ha cây hoa màu. Việc xây
dựng các công trình thủy lợi này đã góp phần chủ động nước
tưới, ổn định diện tích đất sản xuất, tăng năng suất bình quân
lên 40-45 tạ/ha. Năm 1985, xã thành lập Đội thủy lợi 202
chuyên làm công tác thủy lợi. Hằng năm, xã huy động nhân
dân đóng góp ngày công sửa chữa, nâng cấp các tuyến kênh cũ
và làm mới một số tuyến kênh nhằm chủ động nguồn nước tưới
- tiêu, hạn chế mất mùa. Đồng thời đã huy động lực lượng
thanh niên tham gia trên công trình thủy lợi Thạch Nham theo
kế hoạch giao; trong đó có 8 lao động làm việc thường xuyên
trên công trình. Trong 3 năm, tổng ngày công phục vụ trên
công trình này là 6.480 công.
Các hoạt động văn hóa, xã hội có nhiều khởi sắc, với nhiều
nội dung phong phú, thu hút đông đảo nhân dân tham gia, nhất

86
là phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao. Chất lượng
công tác khám, chữa bệnh trong nhân dân được tăng lên. Phong
trào 3 sạch “Ăn sạch, ở sạch, uống sạch” và thực hiện dứt điểm
“3 công trình vệ sinh” được nhân dân tích cực hưởng ứng.
Phong trào thi đua dạy tốt và học tốt trong thầy cô giáo và
học sinh ngày càng đi vào nền nếp, tạo được ý thức tự học
trong học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục phổ
thông. Tỷ lệ học sinh lên lớp đạt trên 90%; tốt nghiệp cấp I và
cấp II đạt trên 65%. Hoạt động thông tin, tuyên truyền luôn
phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, nhất là
việc thông tin, tuyên truyền nội dung Chỉ thị số 100 của Ban Bí
thư về khoán sản phẩm trong nông nghiệp; chính sách đi xây
dựng vùng kinh tế mới; bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân
đội; điều hòa, hỗ trợ lương thực và giải quyết việc làm cho gia
đình chính sách, bộ đội xuất ngũ... nên đã tạo được niềm tin
trong cán bộ và nhân dân. Đặc biệt, quyền làm chủ của nhân
dân được phát huy; tinh thần hăng say lao động ngày càng thể
hiện rõ nét. Năm 1984, xã Bình Tân đã triển khai xây dựng
vùng kinh tế mới Phước Sơn, khai hoang mở rộng một số diện
tích vùng đất giáp với Tịnh Hòa (thành phố Quảng Ngãi ngày
nay) và đưa một số hộ dân đến sinh sống, sản xuất, thu hẹp
vùng đất bị hoang hóa.
Chỉ đạo đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác quốc phòng -
an ninh. Đảng ủy xã xác định đây là giai đoạn mà tình hình an

87
ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội diễn ra khá phức tạp.
Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện hình thức chiến tranh
phá hoại về nhiều mặt, nhất là phá hoại về kinh tế, tư tưởng,
văn hóa - xã hội. Trên biển, tàu thuyền nước ngoài thường
xuyên thâm nhập sâu vào trong vùng biển của nước ta, khiêu
khích, bắt giữ ngư dân, kích động và lôi kéo người vượt biển.
Xuất phát từ các yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, trên cơ
sở vận dụng nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, Đảng bộ xã
Bình Tân đã tập trung xây dựng mạng lưới an ninh nhân dân và
phương án đấu tranh với các thế lực thù địch, tội phạm; tăng
cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng
viên và nhân dân nhằm tạo sự thống nhất nhận thức về nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đặc biệt là Nghị quyết số 06-
NQ/TW ngày 10/12/1982 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ quốc
phòng - an ninh, trong đó nhấn mạnh: “Tình hình còn phải đối
phó lâu dài với kẻ thù trực tiếp, phải thường xuyên đề cao cảnh
giác, không ngừng tăng cường quốc phòng toàn dân và bảo
đảm các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước; giải quyết
tốt mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng” 30... để cán bộ,

30
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005, t.43, tr.715-716.

88
đảng viên và nhân dân nhận thức rõ âm mưu và hành động
cướp nước của các thế lực thù địch, xác định nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc là quan trọng, là trách nhiệm của toàn Đảng bộ và
nhân dân xã. Do vậy, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội
trên địa bàn xã được bảo đảm. Phát động và đẩy mạnh phong
trào toàn dân tham gia bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường công tác
đấu tranh chống các phần tử cơ hội, lợi dụng các sơ hở trong
công tác quản lý nhà nước về kinh tế để chống phá Đảng, Nhà
nước và gây mất lòng tin trong nhân dân; tăng cường công tác
tuyên truyền và đấu tranh làm thất bại chiến tranh tâm lý của
các thế lực thù địch xuyên tạc đường lối của Đảng, Nhà nước...
Thường xuyên tổ chức cho các hộ gia đình đăng ký quản lý
tạm trú, tạm vắng; ban hành quy ước để nhân dân tham gia bảo
vệ an ninh trật tự; theo dõi các đối tượng chính trị và hình sự để
có biện pháp đấu tranh, đem lại sự bình yên trong nhân dân.
Đẩy mạnh phát động phong trào toàn dân tham gia chống tiêu
cực trong quản lý kinh tế và xã hội, góp phần làm trong sạch
nội bộ, tăng niềm tin trong nhân dân vào chế độ mới. Trong
giai đoạn này, Trưởng Công an xã là đồng chí Phan Văn Môn,
đến năm 1984 là đồng chí Trương Công Đáng.
Công tác quốc phòng toàn dân được bảo đảm, phục vụ tốt
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Đảng ủy xã
chỉ đạo tập trung xây dựng lực lượng bán vũ trang của địa
phương thành 3 lực lượng: du kích cơ động, dân quân rộng rãi
và quân dự nhiệm thành trung đội, đại đội. Hằng năm, tổ chức

89
luyện tập chiến thuật, kỹ thuật, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ
chiến đấu. Lực lượng này thường xuyên phối hợp với lực lượng
công an tuần tra, bảo đảm an ninh và an toàn trên địa bàn. Huy
động thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự đạt chỉ tiêu và được
cấp trên tặng Bằng khen. Lúc này, phụ trách công tác quân sự là
đồng chí Phạm Đặng, đến năm 1984 là đồng chí Phạm Nhơn.
Chính quyền xã đã thực hiện được chức năng quản lý kinh
tế, quản lý xã hội theo phân cấp. Ủy ban nhân dân xã do đồng
chí Nguyễn Văn Kiện giữ chức vụ Chủ tịch từ năm 1982 đến
cuối năm 1983, từ năm 1984 đồng chí Đồng Huyễn làm Chủ
tịch; các đồng chí Đỗ Văn Dũng và Trương Công Đáng làm
Phó Chủ tịch cùng các thành viên Ủy ban nhân dân thực hiện
điều hành các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an
ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội theo đúng chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể được tăng cường, củng
cố và thường xuyên phối hợp với chính quyền tuyên truyền,
vận động nhân dân chấp hành các chủ trương của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước, tham gia có hiệu quả các
phong trào thi đua lao động, sản xuất; xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa; phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân; tham gia phòng, chống tiêu cực.
Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức
được tăng cường và thực hiện đúng theo tinh thần chỉ đạo tại
Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 20/11/1980 của Bộ Chính trị

90
về công tác tổ chức và Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày
24/02/1981 của Ban Bí thư về những nhiệm vụ trước mắt của
công tác tư tưởng; đưa đảng viên về đúng vị trí, phát huy vai
trò đảng viên trong lãnh đạo nhân dân. Đảng bộ xã đã tập trung
triển khai đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đến cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Trong đó chú trọng nâng cao nhận thức
về: tình hình, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay,
Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng, tinh thần và truyền
thống yêu nước, về lợi ích trong làm ăn tập thể, nhiệm vụ bảo
vệ an ninh Tổ quốc, đề cao cảnh giác chống chiến tranh tâm lý,
giáo dục nghĩa vụ công dân và nghĩa vụ quân sự, học tập Hiến
pháp và pháp luật của Nhà nước. Mặc dù trong bối cảnh quốc
tế, trong nước, trong tỉnh có nhiều diễn biến phức tạp, các thế
lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền chống phá
cách mạng nhưng đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực đấu tranh làm thất
bại âm mưu, thủ đoạn, chiến tranh tâm lý, gây chia rẽ, mất
đoàn kết nội bộ của các thế lực thù địch, do đó, tình hình an
ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn xã được ổn
định.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tư tưởng trong Đảng, triển khai
và thực hiện Chỉ thị số 79-CT/TW ngày 05/10/1979 của Ban Bí
thư về nhiệm vụ công tác tư tưởng trong tình hình trước mắt;
Chỉ thị số 20-CT/TU ngày 19/6/1981 của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy về việc vận động tiến hành sinh hoạt chính trị phục vụ xây

91
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng đơn vị cơ sở vững
mạnh, Đảng bộ xã đã tổ chức sinh hoạt để đánh giá tư cách đảng
viên, góp ý xây dựng Đảng nhằm nâng cao trách nhiệm của cán
bộ, đảng viên trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về tư
tưởng, chính trị và tổ chức; nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của
địch, tự giác rèn luyện không để thoái hóa, biến chất; nhận thức
rõ mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; tự giác tự phê
bình và phê bình trên cơ sở đó củng cố tổ chức, kiện toàn cơ sở.
Trong 5 năm thực hiện nhiệm vụ của Đảng bộ gắn liền
với thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng bộ xã Bình Tân
đã tiến hành các kỳ Đại hội Đảng bộ lần thứ IX, nhiệm kỳ
1982-1984 và lần thứ X, nhiệm kỳ 1984-1986. Trong đó:
Đại hội lần thứ IX, nhiệm kỳ 1982-1984 bầu đồng chí
Nguyễn Hữu Phước giữ chức Bí thư Đảng ủy xã, đồng chí
Đồng Huyễn giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy xã.
Đại hội lần thứ X, nhiệm kỳ 1984-1986 bầu đồng chí Phan
Văn Mân giữ chức Bí thư Đảng ủy xã, đồng chí Đồng Huyễn
giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy xã. Đến năm 1985, đồng chí
Đoàn Công Phụng giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy xã.
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ủy xã luôn giữ vững
nguyên tắc sinh hoạt đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên nâng cao tinh
thần, trách nhiệm của đảng viên hoàn thành nhiệm vụ của Đảng
bộ xã đề ra.

92
Công tác vận động quần chúng của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể có nhiều tiến bộ hơn trước. Tập trung tuyên
truyền, vận động các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh phong trào
thi đua lao động sản xuất, vượt qua khó khăn, ổn định đời sống
và phát triển sản xuất. Đồng thời, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, động viên, cổ suý
được hội viên, đoàn viên, đông đảo nhân dân tham gia vào các
phong trào của địa phương và các ngành, giới, góp phần hoàn
thành các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ xã đề ra. Trong giai
đoạn này, tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các hội
đoàn thể ổn định. Riêng Đoàn Thanh niên xã từ năm 1981 đến
năm 1983 do đồng chí Đoàn Công Phụng làm Bí thư, đồng chí
Võ Thanh Phiên làm Phó Bí thư; từ năm 1984 đến năm 1986
do đồng chí Võ Thanh Phiên làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Kỳ
làm Phó Bí thư. Hội Nông dân tập thể từ năm 1981 đến năm
1982 do đồng chí Đồng Huyễn làm Chủ tịch, từ năm 1983 do
đồng chí Phan Văn Mùi làm Chủ tịch.
Phải khẳng định rằng, trong giai đoạn 1980-1985, Đảng bộ
và nhân dân xã Bình Tân đã đồng tâm hiệp lực, chung vai sát
cánh, đoàn kết vượt qua những khó khăn, thách thức và thực
hiện tốt nhiệm vụ chính trị đề ra, góp phần cùng toàn Đảng và
toàn dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Đây chính là động lực để Đảng bộ và nhân dân địa
phương vững tin bước vào chặng đường tiếp theo với niềm tin,
hy vọng và thắng lợi to lớn hơn.

93
Phần thứ hai
ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC
HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI,
ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HÓA
(1986-2020)

94
95
Chương IV
LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN BA
CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN CỦA
ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU ĐỔI MỚI
(1986-1990)

Ngày 11/3/1986, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 79-CT/TW


chủ trương mở đợt tự phê bình và phê bình, chuẩn bị cho Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Thực hiện chỉ đạo
của Huyện ủy Bình Sơn về triển khai, thực hiện đợt tự phê bình
và phê bình trong đảng viên, cán bộ, chuẩn bị các điều kiện
bước vào thời kỳ mới - thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới đất
nước, Đảng ủy xã Bình Tân đã tổ chức triển khai và thực hiện
Chỉ thị số 79-CT/TW và các nghị quyết của Đảng một cách
đồng bộ, nghiêm túc, tạo được sự chuyển biến rõ nét trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Sản xuất nông nghiệp mặc dù bị
tác động không nhỏ của thiên tai, vật tư khan hiếm nhưng sản
lượng lương thực quy thóc và huy động lương thực đóng góp
cho Nhà nước đạt cao. Lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến
bộ. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được chú

96
trọng và nâng cao về chất lượng; tính chiến đấu của tổ chức
đảng và đảng viên thể hiện rõ hơn. Những chuyển biến trên đã
tạo được không khí phấn khởi trong Đảng và trong xã hội, là
bước chuẩn bị tích cực để Đại hội Đảng bộ xã Bình Tân thành
công.
Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, tháng 6/1986, Đảng bộ
xã Bình Tân tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ XI, nhiệm kỳ
1986-1988. Trên cơ sở nhận định tình hình của tỉnh, huyện và
địa phương, Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu
cho nhiệm kỳ 1986-1988; bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa
XI gồm 9 đồng chí; đồng chí Phan Văn Mân tiếp tục được Đại
hội bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy xã, đồng chí Đoàn Công
Phụng giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy xã và đồng chí Bùi Thanh
Sơn giữ chức Ủy viên Thường vụ thường trực Đảng ủy xã. Đến
tháng 9/1987, đồng chí Đoàn Công Phụng được bầu giữ chức
Bí thư Đảng ủy xã thay đồng chí Phan Văn Mân.
Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm của cả nhiệm kỳ là
tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu. Thực hiện tốt ba chương trình kinh tế lớn của
Đảng là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu; đổi mới tư duy nhất là tư duy kinh tế; đổi mới công tác
cán bộ, công tác quản lý kinh tế và phong cách làm việc. Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết nhất trí, thực hiện quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động, phát huy mạnh mẽ hiệu

97
lực quản lý và điều hành của chính quyền địa phương; nêu cao
tinh thần tự lực, tự cường, khai thác mọi tiềm năng và các thế
mạnh của xã; đẩy mạnh công tác lưu thông, phân phối thương
nghiệp - dịch vụ; tích cực xây dựng cơ bản có trọng điểm, tạo
cơ sở vật chất kỹ thuật cho tập thể, không ngừng nâng cao đời
sống cho nhân dân; giáo dục ý thức chính trị hệ tư tưởng xã hội
chủ nghĩa, tạo nên sức mạnh tổng hợp mới đưa xã đi lên một
bước vững chắc.
Từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng đã được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội.
Đại hội đề ra đường lối đổi mới sâu sắc, toàn diện và triệt để,
thể hiện sự quyết tâm chính trị cao của Đảng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam trong điều kiện quốc tế và trong nước có nhiều
khó khăn, thách thức. Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới
do Đại hội đề ra là: Sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành
phần kinh tế, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện
ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu; xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập
trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế kế hoạch hóa theo
phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ. Đại hội cũng đã đề ra mục tiêu
tổng quát của công cuộc đổi mới đất nước là: “Ổn định tình
hình mọi mặt kinh tế - xã hội, bảo đảm những nhu cầu thiết yếu
cho nhân dân, xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy

98
mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
tiếp theo, từng bước đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng và
đi lên”31.
Sau Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XI, Đảng ủy xã tập trung
lãnh đạo hệ thống chính trị triển khai và xây dựng các kế hoạch
để tổ chức thực hiện gắn với vận dụng tư tưởng đổi mới của
Đại hội VI của Đảng và định hướng chỉ đạo của Huyện ủy. Về
kinh tế, tiếp tục quán triệt quan điểm coi sản xuất nông nghiệp
là mặt trận hàng đầu. Tiến hành lập bản đồ giải thửa, phân hạng
đất đai, phân vùng và bố trí lại sản xuất phù hợp với từng loại
cây trồng, ổn định đất sản xuất cho 14 đội của hợp tác xã. Theo
đó, toàn xã có 2.065 ha đất tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp
có 758,8 ha, đất lâm nghiệp có 716,2 ha, đất có khả năng sản
xuất nông nghiệp có 154 ha; đất trồng cây hàng năm có 407 ha.
Thực hiện cải tạo đồng ruộng, thực hiện xen canh, chuyển một
số diện tích cây lúa sang trồng mía và cây họ đậu. Với việc quy
hoạch, bố trí lại sản xuất này đã góp phần cơ cấu đầu tư sản
xuất theo hướng tập trung, thuận lợi cho xã viên trong sản xuất
và tạo nên vùng sản phẩm. Đồng thời, củng cố kiện toàn các

31
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.42.

99
đội thủy lợi, phân bón, bảo vệ thực vật, sức kéo; tổ chức lại
ngành chăn nuôi, lâm nghiệp và các ngành, nghề phi nông
nghiệp cùng với điều hòa lại toàn bộ lao động trong hợp tác
xã... Thực hiện gắn khoán sản phẩm cho xã viên hợp tác xã,
phát huy vai trò xã viên trong sử dụng các nguồn lực với sự hỗ
trợ của hợp tác xã về các khâu dịch vụ trong quá trình sản xuất,
thu mua sản phẩm nông nghiệp, phục vụ tốt ba chương trình
mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu.
Lãnh đạo huy động các nguồn lực trong nhân dân để củng
cố, nâng cấp hệ thống kênh mương thủy lợi; tận dụng tối đa các
công trình thủy lợi đã có (ao, hồ, đập bổi, kênh mương). Tiếp
tục tận dụng các dòng chảy để xây dựng các đập bổi, kết nối
với các tuyến kênh chính. Đặc biệt, trong các năm 1987-1989,
xã đã huy động đào một tuyến kênh mương từ Bình An đến
xóm Phú Vinh, dài 1.500 m, rộng 10 m, sâu 2 m, với khối
lượng đất đào hơn 30.000 m3, nâng cao năng lực tưới phục vụ
sản xuất nông nghiệp. Sau này, tuyến kênh mương đã được sử
dụng vào tuyến mương Thạch Nham; nhân dân và Hợp tác xã
nông nghiệp đã cho vay số vốn 50 triệu đồng để thực hiện công
trình. Đồng thời, xã đã triển khai hoàn thành tuyến đường từ
Bình An đi Bình Phú, xây dựng cầu An Tráng có tải trọng 15
tấn để thuận lợi đi lại và vận chuyển hàng hóa trong nhân dân.
Với các biện pháp tích cực trên, sản xuất nông nghiệp phát

100
triển tương đối toàn diện. Bên cạnh cây lúa, cây màu, rau đậu
các loại thì cây mía cũng được chú trọng phát triển, coi đây là
cây truyền thống và chủ lực để tạo ra các giá trị mang tính đột
phá của địa phương. Tuy nhiên, nông nghiệp nhìn chung vẫn
chưa có bước chuyển biến căn bản, đời sống nhân dân chậm
được cải thiện. Mặt khác, hợp tác xã phải thực hiện nhiệm vụ
phân phối, chi phí cho nhiều hoạt động khác như: văn hóa, văn
nghệ, thể dục - thể thao, quân sự, an ninh, hỗ trợ hoạt động Mặt
trận và các đoàn thể, đại hội xã viên, chi lương và phụ cấp cho
cán bộ địa phương, thực hiện chế độ cho các đối tượng chính
sách... nên gặp rất nhiều khó khăn. Trên thực tế, thời gian này
cơ chế khoán 100 không còn phù hợp với chủ trương xóa bỏ cơ
chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế hạch
toán, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị kinh tế. Trước
tình hình sút kém trong sản xuất nông nghiệp, ngày 05/4/1988,
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới
quản lý kinh tế nông nghiệp (gọi tắt là khoán 10). Nội dung chủ
yếu của Nghị quyết là khắc phục những hạn chế, yếu kém trong
cơ chế khoán 100, thực hiện sắp xếp và tổ chức lại sản xuất
nông nghiệp, củng cố và mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, đổi mới chính
sách quản lý vĩ mô của Nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế
khoán mới, xác định hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự
chủ. Thực hiện Chỉ thị số 11-CT/HU ngày 08/10/1988 của

101
Huyện ủy về tăng cường chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 10-
NQ/TW, hoàn thiện khoán sản phẩm trong hợp tác xã nông
nghiệp, bước đầu đã giải phóng được năng lực sản xuất trong
nông nghiệp, giải quyết đúng đắn ba lợi ích; mở rộng dân chủ,
đề cao pháp chế, xây dựng nông thôn mới; tạo động lực khuyến
khích xã viên nhận khoán, đầu tư phân bón, kỹ thuật, sức lao
động tăng năng suất cây trồng.
Để điều hành phát triển sản xuất nông nghiệp, tháng
02/1987, Đại hội xã viên đã bầu Ban Chủ nhiệm Hợp tác xã
nông nghiệp, đồng chí Trần Tiến Mai được bầu làm Chủ
nhiệm, các đồng chí Nguyễn Thanh Tùng và Phạm Kính làm
Phó Chủ nhiệm, đồng chí Thới Hoàng làm Trưởng ban Kiểm
soát. Tiếp đó, đến tháng 11/1989, Đại hội xã viên đã bầu đồng
chí Võ Duy Đối làm Chủ nhiệm (lần 2), đồng chí Phạm Ngọc
Cảnh làm Phó Chủ nhiệm, đồng chí Phạm Kính làm Trưởng
ban Kiểm soát. Đồng thời đã giảm đội ngũ cán bộ quản lý Hợp
tác xã; giảm các chi phí gián tiếp nên xã viên được hưởng
quyền lợi nhiều hơn trước từ 30% trở lên. Thực hiện cơ cấu lại
cây trồng, tiếp tục vận động nhân dân đưa diện tích lúa 2 vụ
lên sản xuất 3 vụ/năm và sạ thẳng thay cho cấy. Thường xuyên
họp đánh giá tình hình thực hiện sản xuất, chú trọng công tác
khoán các cây, con, ngành nghề, lâm nghiệp một cách hợp lý.
Thực hiện tốt việc công khai, dân chủ trong các hoạt động gắn
với quyền làm chủ của xã viên. Mặc dù bị thiên tai liên tiếp

102
trong hai năm 1987-1988 nhưng sản lượng lương thực vẫn
tăng, cơ bản giải quyết được vấn đề lương thực, thực phẩm và
nộp thuế cho Nhà nước đạt chỉ tiêu giao. Bình quân lương
thực đầu người trên địa bàn xã đạt 265 kg/người/năm; bình
quân của xã viên Hợp tác xã nông nghiệp là 360
kg/người/năm. Bước đầu cơ chế khoán 10 đã tạo ra động lực
mới trong sản xuất nông nghiệp, giải phóng được năng lực sản
xuất, phát huy hiệu quả đầu tư của hộ gia đình; đổi mới cách
quản lý trong sản xuất nông nghiệp và đem lại niềm tin trong
nhân dân. Các loại cây công nghiệp (mía, mì, đậu phộng) và
các loại rau màu khác được nhân dân tích cực thực hiện, đạt
năng suất và sản lượng cao. Phong trào trồng cây lâm nghiệp
phát triển mạnh; tất cả các vùng đất trống không thể sản xuất
nông nghiệp đều được Hợp tác xã và nhân dân trồng cây, với
diện tích đạt trên 30 ha. Bên cạnh đó, tiếp tục vận động nhân
dân trồng dừa, đào lộn hột theo vùng quy hoạch. Chăn nuôi
phát triển cả trong khu vực tập thể và hộ gia đình. Đặc biệt, đàn
trâu, bò cày kéo phát triển mạnh (897 con), bảo đảm phục vụ
sản xuất.
Cùng với lãnh đạo sản xuất nông nghiệp, Đảng ủy xã đã
chỉ đạo tạo điều kiện để duy trì và phát triển các ngành, nghề
truyền thống và có lợi thế của địa phương, như: thợ xây dựng,
mộc, rèn, khai thác đá ong, đá chẻ, giải quyết việc làm thường
xuyên cho 103 lao động, góp phần tăng thu nhập. Hoạt động

103
phân phối, lưu thông, về cơ bản đáp ứng được yêu cầu trong
nhân dân.
Về công tác văn hóa - xã hội: Xã đã tăng cường đầu tư và
hoàn thành xây dựng lại 3 trường tại các thôn, bảo đảm cho
nhu cầu học tập của con em địa phương. Công tác chăm sóc
sức khỏe cho nhân dân được quan tâm đúng mức; cơ sở vật
chất phục vụ công tác khám, chữa bệnh được tăng cường đầu
tư. Các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao được nhân dân
hưởng ứng tích cực. Các hoạt động thông tin, tuyên truyền kịp
thời phổ biến các quan điểm đổi mới của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước; các nhiệm vụ của địa phương; hướng
dẫn dư luận xã hội và đấu tranh chống các tiêu cực trong xã
hội. Huy động được trên 6.400 ngày công nghĩa vụ lao động
trên công trình thủy lợi Thạch Nham.
An ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm.
Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo củng cố, kiện toàn và
nâng cao chất lượng chính trị và hoạt động của lực lượng công
an, dân quân, các đội an ninh nhân dân. Thường xuyên chỉ đạo
phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, làm

104
trong sạch địa bàn. Lúc này, Trưởng Công an xã là đồng chí
Trương Công Đáng32.
Thực hiện tốt công tác huấn luyện, bảo vệ các tuyến phòng
thủ tại địa phương. Công tác gọi công dân nhập ngũ và thực
hiện nghĩa vụ lao động đều đạt 100% chỉ tiêu; tổ chức tốt việc
đón tiếp quân nhân tình nguyện Việt Nam là con em ở địa
phương hoàn thành nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia về nước
theo chủ trương của huyện. Lúc này, phụ trách công tác quân
sự địa phương là đồng chí Phạm Nhơn.
Công tác xây dựng hệ thống chính trị: Từ cuối những năm
1986, tình hình tư tưởng trong một bộ phận cán bộ và nhân dân
có diễn biến phức tạp, hoài nghi, giảm sút lòng tin vào sự lãnh
đạo của Đảng, vào chủ nghĩa Mác - Lênin và mục tiêu đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện cuộc vận động chỉnh đốn
Đảng, làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ
cán bộ, đảng viên, Đảng ủy xã đã từng bước đổi mới phong
cách lãnh đạo, trọng tâm là đổi mới tư duy lãnh đạo; thực hiện

32
. Đồng chí Trương Công Đáng giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân kiêm Trưởng Công an xã từ năm 1987 đến năm 1997; giữ chức
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã đến hết nhiệm kỳ 1999-2004.

105
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, sát công việc và đi sát địa
bàn thôn, xóm và nhân dân. Cuộc vận động đã làm cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, ra sức tu dưỡng đạo
đức, lối sống, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ban thanh tra
đảng được thành lập đã giúp Đảng ủy xã tăng cường công tác
kiểm tra, giải quyết các vấn đề liên quan đến đảng viên. Đảng
bộ xã Bình Tân được Huyện ủy Bình Sơn đánh giá là “Tổ chức
cơ sở đảng vững mạnh”.
Tháng 11/1986, huyện điều động đồng chí Đồng Huyễn đi
nhận công tác mới, đồng chí Trương Công Đáng - Phó Chủ
tịch được chỉ định làm quyền Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã 33.
Tháng 4/1987, Đảng ủy xã lãnh đạo nhân dân địa phương
tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa VIII và Hội đồng nhân
dân các cấp, nhiệm kỳ 1987-1989. Tại xã đã bầu được 19 đại
biểu Hội đồng nhân dân xã. Các đại biểu Hội đồng nhân dân xã
đã thể hiện được vai trò, trách nhiệm trước cử tri; thường
xuyên sâu sát cơ sở, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân về tham gia xây dựng chính quyền. Ủy ban nhân dân xã

33
. Quyết định số 208/QĐ/UB ngày 27/10/1986 của Ủy ban nhân
dân huyện Bình Sơn.

106
gồm 5 ủy viên, trong đó đồng chí Bùi Thanh Sơn làm Chủ tịch;
đồng chí Trương Công Đáng làm Phó Chủ tịch. Hiệu lực quản
lý nhà nước được tăng cường, nâng cao chất lượng quản lý,
điều hành xã hội bằng pháp luật. Ủy ban nhân dân xã lãnh đạo,
điều hành thực hiện tốt các chỉ tiêu về phát triển kinh tế, văn
hóa; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ gìn an ninh chính
trị và trật tự, an toàn xã hội; quản lý nhân khẩu, quản lý lao
động; xây dựng ngân sách, cơ sở vật chất - kỹ thuật, hoàn thành
tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Đảng ủy xã chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể hoàn
thành việc tổ chức Đại hội hết nhiệm kỳ vào tháng 5/1987. Lúc
này, bộ máy lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
gần như ổn định, bảo đảm cho công tác vận động quần chúng
thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước; các chủ trương, nhiệm vụ của địa phương.
Riêng Đoàn Thanh niên xã có sự thay đổi, do đồng chí Quảng
Tiến Sinh giữ chức Bí thư, đồng chí Nguyễn Xuân Phu giữ
chức Phó Bí thư. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tập trung
đoàn kết các tầng lớp nhân dân; chăm lo và bảo vệ quyền và lợi
ích của hội viên, đoàn viên. Do vậy, hội viên, đoàn viên và các
tầng lớp nhân dân đã đồng thuận cao với các chủ trương, nhiệm
vụ của địa phương, tích cực tham gia thực hiện hiệu quả các
chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước,
các phong trào hành động cách mạng tại địa phương, nhất là

107
trong lao động sản xuất, học tập, chiến đấu, mua công trái xây
dựng Tổ quốc, hưởng ứng thực hiện cuộc vận động “Vì Trường
Sa thân yêu”... Thành tích nổi bật trong giai đoạn này của xã
Bình Tân là vận động nhân dân thực hiện tốt cơ chế khoán 100
và khoán 10, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển,
không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần thực hiện hiệu
quả ba chương trình kinh tế lớn của Đảng.
Tháng 8/1988, Đảng bộ xã Bình Tân đã tổ chức Đại hội
lần thứ XII, nhiệm kỳ 1989-1991. Đại hội đã bầu Ban Chấp
hành Đảng bộ xã khóa XII gồm 11 đồng chí; trong đó đồng chí
Đoàn Công Phụng được bầu giữ chức Bí thư Đảng ủy xã, đồng
chí Bùi Thanh Sơn giữ chức Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã và đồng chí Trần Văn Ngọc giữ chức Ủy viên Thường
vụ thường trực Đảng ủy xã.
Từ ngày 19 đến ngày 20/01/1989, Đại hội đại biểu Đảng
bộ huyện Bình Sơn lần thứ XX được tổ chức. Đại hội đề ra
nhiệm vụ chung trong cả nhiệm kỳ: Thật sự đoàn kết, quyết
tâm cao với tinh thần tự lực, tự cường... tập trung sức lãnh đạo
của toàn Đảng bộ vào mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, trước
mắt là tập trung phát triển nông nghiệp toàn diện, trên cơ sở đó
mở rộng phát triển các ngành nghề, tạo sự chuyển biến tích
cực, đồng bộ của nền kinh tế huyện; tăng nhanh nguồn hàng
xuất khẩu, ổn định đời sống nhân dân; tích cực thực hiện chính

108
sách xã hội; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh từ cấp chi bộ trở lên, gắn
với tăng cường hiệu lực quản lý và điều hành của bộ máy nhà
nước. Quyền làm chủ của nhân dân thông qua các tổ chức đoàn
thể quần chúng thật sự được phát huy34.
Ngày 01/7/1989, tỉnh Quảng Ngãi chính thức được tái lập.
Đây là một sự kiện có ý nghĩa chính trị to lớn đối với nhân dân
trong toàn tỉnh, là cơ hội để Đảng bộ và nhân dân Quảng Ngãi
phát huy truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo trong lao
động sản xuất, xây dựng quê hương với tinh thần tự lực, tự chủ.
Từ ngày 27 đến ngày 29/7/1989, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị lần
thứ nhất, ban hành Nghị quyết số 01-NQHN/TU về những
công tác cấp bách trong 6 tháng cuối năm 1989 và năm 1990 35.
Từ ngày 27 đến ngày 29/11/1989, Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ hai

34
. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bình Sơn lần thứ XX,
tháng 01/1989.

35
, 2. Xem Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1975-2005), Sđd,
tr.153, 155-156.

109
ban hành Nghị quyết số 02-NQHN/TU về phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1990, với mục tiêu:
Tiếp tục ổn định tình hình kinh tế - xã hội, trọng tâm là khắc
phục các ách tắc trong sản xuất, lưu thông, đẩy mạnh sản xuất
hàng hóa, khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần... Giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, trước hết là việc
làm cho người lao động, khắc phục có trọng điểm tình trạng
yếu kém của các ngành văn hóa, giáo dục, y tế, tạo chuyển biến
quan trọng trên mặt trận bảo vệ trật tự, trị an, hạn chế các tệ
nạn xã hội, nâng dần mức sống vật chất và văn hóa tinh thần
của nhân dân, bảo đảm an ninh, quốc phòng tại địa phương 2.
Sau Đại hội Đảng các cấp, Đảng ủy xã tập trung quán triệt,
vận dụng những quan điểm chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy và
mục tiêu do Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII đề ra, trọng tâm là
lãnh đạo nhân dân: Tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong toàn
Đảng bộ, tập trung sức để vượt qua những khó khăn, thách
thức đưa kinh tế - xã hội phát triển, giữ vững mức sống vật chất
và văn hóa tinh thần cho nhân dân; ổn định an ninh chính trị và
trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng. Mục tiêu Đại hội

110
đề ra tương đối toàn diện, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Tuy nhiên, quá trình lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại
hội có một số khó khăn, đó là: Bối cảnh quốc tế có nhiều phức
tạp, đặc biệt là sự khủng hoảng toàn diện về chính trị, kinh tế
trong một số nước xã hội chủ nghĩa; trong nước mặc dù thu
được nhiều thành tích trên các lĩnh vực nhưng đất nước chưa
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; các thế lực thù địch
đang ra sức thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, chống phá
Đảng và Nhà nước ta; nạn tham nhũng đang là vấn đề bức xúc.
Tuy vậy, bằng niềm tin, quyết tâm chính trị cao, dưới ánh sáng
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng, Đảng bộ,
quân và dân địa phương đã tổ chức thực hiện đạt nhiều kết quả
quan trọng.
Trong lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, Đảng ủy xã
chỉ đạo tiếp tục thực hiện cơ chế khoán 10. Khuyến khích sản
xuất phù hợp với từng vùng, tạo nguồn thu nhập cho người
dân. Phát huy hệ thống trạm bơm, các hồ đập thủy lợi phục vụ
sản xuất; đưa hệ thống điện vào phục vụ trực tiếp sản xuất và
đời sống; ứng dụng kỹ thuật; thực hành giống mới; tiếp tục vận
động nhân dân khai hoang, phục hóa, tăng diện tích sản xuất.
Người nông dân thực sự được giải phóng sức lao động, gắn bó
chặt chẽ với đất đai. Sản lượng lương thực và các loại cây
trồng tăng hơn trước, đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt.
Một bộ phận nhân dân có đời sống khá hơn, có tích lũy, mức

111
sống tăng lên. Nhiều hộ đã xây dựng được nhà ở kiên cố, mua
sắm được các trang thiết bị cần thiết phục vụ trong sinh hoạt và
sản xuất. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận gia đình chính sách,
neo đơn, già yếu, tàn tật; đời sống cán bộ địa phương còn quá
khó khăn, giá cả thị trường luôn biến động tăng.
Các hoạt động văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ. Các
trường học đều có những biện pháp nâng cao chất lượng giảng
dạy và học tập. Tỷ lệ học sinh lên lớp đạt 80% trở lên; tỷ lệ học
sinh tốt nghiệp lớp 5 đạt 100%. Thực hiện tốt công tác phòng,
chống dịch, không để dịch bệnh xảy ra. Chương trình tiêm
chủng mở rộng cho trẻ em đạt trên 80%. Công tác dân số - kế
hoạch hóa gia đình được nhân dân tự giác thực hiện. Chỉ đạo
tiếp tục thực hiện 3 công trình vệ sinh phòng bệnh, tăng cường
thêm trang thiết bị và đội ngũ cán bộ y tế, phục vụ công tác
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Hướng dẫn và vận động nhân
dân tích cực tham gia xây dựng nếp sống văn minh, gia đình
văn hóa mới...
Công tác quân sự địa phương được quan tâm chỉ đạo.
Trọng tâm là tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức quốc phòng
cho toàn dân, tinh thần cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống
âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; ý thức
sẵn sàng chiến đấu để giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an
toàn xã hội. Thường xuyên củng cố đội ngũ cán bộ bảo đảm
điều hành thực hiện nhiệm vụ về quốc phòng - quân sự địa

112
phương. Năm 1989, dưới sự điều hành của Xã đội trưởng Hồ
Tấn Mai, đến tháng 12/1989 đồng chí Trần Nguyệt thay thế,
lực lượng dân quân đã phối hợp với công an liên tục tuần tra
canh gác bảo vệ các mục tiêu quan trọng về chính trị, kinh tế.
Công tác đăng ký, tuyển chọn công dân nhập ngũ đều đạt
100% chỉ tiêu. Triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 32-
NQ/TU ngày 22/6/1990 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây
dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc và công tác quân
sự địa phương trong thời gian tiếp theo. Thực hiện tốt cơ chế
“Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan công an, quân
sự làm tham mưu”.
Chú trọng công tác xây dựng mạng lưới công an cơ sở.
Thành lập 14 tổ an ninh nhân dân tại các đội sản xuất. Thường
xuyên phát động sâu rộng phong trào quần chúng bảo vệ an
ninh Tổ quốc; xây dựng cơ quan đạt 4 an toàn; nắm chắc tình
hình biến động, tích cực đấu tranh phòng, chống tội phạm và
các tệ nạn xã hội, bảo đảm an toàn, trật tự địa phương. Đặc
biệt, tập trung xây dựng xã vững mạnh toàn diện. Là địa bàn
tương đối phức tạp về an ninh, nơi tập trung nhiều người tham
gia chế độ cũ, đảng phái, nơi giáp ranh với huyện Sơn Tịnh nên
tiềm ẩn phát sinh tội phạm... nhưng nhiều năm liền xã Bình
Tân giữ vững ổn định chính trị và được cấp trên công nhận là
đơn vị vững mạnh toàn diện. Trưởng Công an xã là đồng chí
Trương Công Đáng.

113
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được Đảng
ủy xã xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Thường
xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong đảng
viên nhằm nâng cao nhận thức về bản chất cách mạng của
Đảng, về truyền thống lịch sử vẻ vang của Đảng; về diễn biến
tình hình trong nước và thế giới. Thông qua đó, xác định mục
tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; xây dựng quyết tâm
để thực hiện. Chỉ đạo kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng
hoạt động của các chi bộ, xây dựng các chi bộ thực sự là hạt
nhân lãnh đạo, có khả năng nắm bắt và xử lý tình hình ngay từ
cơ sở; có khả năng cụ thể hóa và thực hiện tốt Nghị quyết Đại
hội của Đảng bộ xã và của cấp trên; thực hiện tốt nguyên tắc
tập trung dân chủ, khắc phục dần tình trạng bao biện, làm thay
chính quyền. Thông qua cuộc vận động xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, đã nêu cao vai trò, trách nhiệm và sức chiến
đấu của tổ chức đảng, của đảng viên; phát huy vai trò và quyền
làm chủ của nhân dân trong việc tham gia góp ý đối với một số
chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh và
quốc phòng của địa phương trước khi thực hiện.
Trước diễn biến phức tạp của tình hình Liên Xô và các
nước Đông Âu, quán triệt chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng ủy xã
chỉ đạo các chi bộ trực thuộc đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân về các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà

114
nước, gắn với việc thông tin tình hình thời sự, những thành quả
của công cuộc đổi mới. Do vậy, đã giữ vững được sự nhất trí
cao trong Đảng bộ và sự đồng tình của nhân dân; kiên định
đường lối đổi mới của Đảng; đấu tranh chống các tư tưởng lệch
lạc, sai trái, các luận điệu xuyên tạc, kích động của kẻ thù; kiên
định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và không chấp nhận đa
nguyên, đa đảng. Đồng thời chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, nêu gương người tốt, việc tốt trong các phong trào; giáo
dục, nâng cao lòng tự hào về truyền thống yêu nước và tinh
thần quật khởi của Đảng bộ và nhân dân địa phương; đấu tranh
chống các biểu hiện sai trái, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ; củng
cố niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thực hiện chủ trương của Huyện ủy về xây dựng chi bộ
theo mô hình thôn, Đảng ủy xã đã thành lập 3 được chi bộ
thôn. Thông qua cuộc vận động xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, chuẩn bị cho Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ tiếp
theo, Đảng ủy xã đã kiểm điểm đối với từng cấp ủy viên và
đảng viên của Đảng bộ; lấy ý kiến đóng góp của quần chúng và
trên cơ sở đó đánh giá, phân loại đảng viên. Đa số đảng viên
trong Đảng bộ xã đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ; không có
đảng viên vi phạm tư cách. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít đảng
viên chưa thể hiện tốt vai trò nòng cốt; công tác cán bộ còn
nhiều hẫng hụt, thiếu cán bộ kế thừa, nhất là cán bộ chủ chốt.
Chỉ đạo và thực hiện giới thiệu những đảng viên, cán bộ có
uy tín và năng lực để ứng cử bầu vào Hội đồng nhân dân và Ủy

115
ban nhân dân xã; kiện toàn và nâng cao chất lượng bộ máy
chính quyền, bảo đảm cho các hoạt động quản lý, điều hành địa
phương. Ngày 19/11/1989, cử tri đã tham gia bầu cử Hội đồng
nhân dân ba cấp nhiệm kỳ 1989-1994. Đồng chí Bùi Thanh
Sơn được bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí
Trương Công Đáng giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
xã; các Ủy viên là đồng chí Đỗ Tấn Đồng, Đỗ Văn Dũng và
Trần Nguyệt36. Công tác quản lý, điều hành của chính quyền
được thực hiện bảo đảm đúng quy định của pháp luật.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng tiếp tục phát
huy vai trò vận động, đoàn kết tập hợp các tầng lớp nhân dân.
Nội dung hoạt động đi vào chiều sâu, thiết thực phục vụ nhiệm
vụ chính trị của địa phương. Đặc biệt, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể quần chúng luôn chủ động đề ra các nhiệm vụ, lựa
chọn các hình thức tuyên truyền, vận động phù hợp nên phong
trào hành động cách mạng của nhân dân diễn ra sôi nổi, mang
lại hiệu quả thiết thực. Thông qua các đợt sinh hoạt chính trị và
học tập Nghị quyết số 8B-NQ/TW ngày 27/3/1990 của Ban
Chấp hành Trung ương khóa VI về đổi mới công tác quần

36
. Quyết định số 221/QĐ-UB ngày 20/12/1989 của Ủy ban nhân dân
huyện Bình Sơn về việc phê chuẩn Ủy ban nhân dân xã Bình Tân.

116
chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân, Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 09/02/1991 của Bộ Chính
trị về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác thanh niên...; quần chúng đã đóng góp nhiều ý kiến
tích cực cho Đảng ủy xã và đảng viên về công tác vận động
quần chúng.
Ngày 10/02/1991, Hội Cựu chiến binh xã được thành lập,
Ban Chấp hành lâm thời do đồng chí Nguyễn Văn Kiện làm
Chủ tịch, đồng chí Võ Tấn Đây làm Phó Chủ tịch và Ủy viên là
đồng chí Nguyễn Văn Tiến; hội viên ban đầu có 21 đồng chí.
Phải khẳng định rằng trong những năm 1989-1990, tình
hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp đã tác
động không nhỏ đến tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân nhưng được sự chỉ đạo kịp thời của Huyện
ủy; cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Bình Tân đã vượt qua
những khó khăn, thách thức, ổn định tình hình và phát triển
mọi mặt của địa phương; xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh đủ sức lãnh đạo, điều hành và thực hiện thắng lợi các
mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XII,
nhiệm kỳ 1989-1991 đề ra. Kinh tế phát triển, từng bước hình
thành kinh tế hàng hóa, tạo được tích lũy trong nhân dân. Hoạt
động văn hóa, y tế, giáo dục có nhiều tiến bộ. An ninh chính trị
và trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Quyền làm chủ của
nhân dân từng bước được thực thi trong xã hội; nhân dân đã
tham gia vào công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tạo

117
được niềm tin, phấn khởi trong nhân dân. Hoạt động của hệ
thống chính trị đồng bộ, hiệu quả hơn. Tổ chức đảng thực sự
phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp, tuyệt đối trên các
lĩnh vực, là hạt nhân chính trị tại cơ sở. Bộ máy chính quyền
được củng cố, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước được thể
hiện rõ nét hơn. Công tác vận động quần chúng đáp ứng cơ bản
các yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Đạt được những kết quả trên là do Đảng bộ xã Bình Tân đã
bám sát Nghị quyết của Trung ương, tỉnh, huyện để cụ thể hóa
và thực hiện; luôn giữ được sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng
và ngoài xã hội; nhân dân đồng thuận; có sự chỉ đạo kịp thời
của Huyện ủy; sự phối hợp của các cơ quan, ban, ngành trong
huyện. Đó là nền tảng để Đảng bộ và nhân dân xã Bình Tân
tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trong những
năm tiếp theo.

118
Chương V
LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TIẾP TỤC THỰC
HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA
ĐẢNG (1991-1995)

Từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991, Đại hội đại biểu toàn


quốc lần thứ VII của Đảng đã được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội.
Với tinh thần trí tuệ, đổi mới, dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, Đại
hội đề ra phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ 5 năm 1991-
1995, với mục tiêu tổng quát: “Vượt qua khó khăn, thử thách,
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính
trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa đất nước ta cơ bản
ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay”. Đại hội đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) và Chiến lược ổn định
kinh tế - xã hội đến năm 2000. Thành công của Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã đánh dấu cột mốc mới
trong tiến trình cách mạng Việt Nam, là nguồn cổ vũ, động
viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta quyết tâm đưa đất nước
ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề để bước
vào thời kỳ phát triển mới.

119
Sau Đại hội VII của Đảng, từ ngày 27 đến ngày
29/11/1991, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bình Sơn lần thứ
XXI (vòng 2) được tổ chức. Đại hội đã đánh giá những thành
tựu trong nhiệm kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XX
và xác định phương hướng, mục tiêu trong nhiệm kỳ 1991-
1995 là: Phát huy tinh thần tự lực, tự cường, vượt qua khó
khăn, thách thức, bảo đảm ổn định về mặt chính trị để tập trung
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, thực hiện
tốt nhiệm vụ an ninh và quốc phòng; tập trung xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa với
nâng cao hiệu lực của bộ máy chính quyền, vai trò của Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân 37.
Trước đó, ngày 05/10/1991, Đảng bộ xã Bình Tân tổ chức
Đại hội lần thứ XIII, nhiệm kỳ 1991-1994 38. Đại hội đã bầu 9
đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa XIII; đồng chí
Đoàn Công Phụng được bầu giữ chức Bí thư Đảng ủy xã, đồng
chí Bùi Thanh Sơn giữ chức Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân

37
. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bình Sơn lần thứ XXI
(vòng 2), tháng 11/1991.

120
dân xã, đồng chí Trần Văn Ngọc giữ chức Ủy viên Thường vụ
thường trực Đảng ủy xã.
Đại hội đã đề ra mục tiêu chung là tập trung bảo đảm ổn
định về mặt chính trị, phát triển kinh tế; không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; thực hiện tốt chính
sách xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã
hội; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; nâng cao
hiệu lực quản lý của chính quyền và vai trò của tổ chức quần
chúng.
Về kinh tế: Trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo của
cấp trên, căn cứ tình hình thực tế của địa phương, Đảng ủy xã
đã tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, trọng tâm là nông
nghiệp toàn diện. Đến cuối nhiệm kỳ, sản lượng lương thực đạt
1.300 - 1.400 tấn. Sản xuất cây lúa 3 vụ/năm, xem trọng cây
nông sản (đậu các loại, mè, ớt). Giao đất ổn định, lâu dài cho
nông dân theo Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Nâng cấp thủy lợi, mở rộng diện tích được tưới. Đẩy mạnh
chăn nuôi, bảo đảm sức cày kéo và phân bón phục vụ sản xuất

38
. Biên bản Đại hội Đảng bộ xã Bình Tân lần thứ XIII, tháng
10/1991.

121
nông nghiệp. Về văn hóa - xã hội: Tập trung đúng mức công
tác đào tạo con người mới; chăm lo sự nghiệp giáo dục, chống
thất học. Củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ y tế; tăng cường
công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình. Đẩy mạnh công tác
thông tin đại chúng, phục vụ nhiệm vụ của địa phương. Về xây
dựng các tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể vững
mạnh: Phát động phong trào và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Chăm lo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận
và các đoàn thể, phát huy vai trò trong xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền vững mạnh. Về xây dựng chính quyền: Bảo
đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật; phát huy vai trò của Hội
đồng nhân dân trong thực hiện quyền lực của cơ quan nhà nước
cao nhất tại địa phương; giải quyết các kiến nghị của cử tri. Về
an ninh và quốc phòng: Xây dựng lực lượng dân quân đạt 2-
2,5% so với dân số. Xử lý tốt các vi phạm về an ninh chính trị
và trật tự, an toàn xã hội. Công tác xây dựng Đảng: Là nhiệm
vụ trọng tâm, quyết định thành công việc thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ xã, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, nêu gương và trách
nhiệm; chống tư tưởng đa nguyên chính trị, thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ, xây dựng đoàn kết nhất trí trong nội bộ
Đảng; coi trọng công tác cán bộ trong hệ thống chính trị, xây
dựng Đảng bộ vững mạnh.

122
Ngày 16/5/1994, Đảng bộ xã Bình Tân tổ chức Đại hội lần
thứ XIV, nhiệm kỳ 1994-199539. Đại hội tiếp tục bầu đồng chí
Đoàn Công Phụng giữ chức Bí thư Đảng ủy xã, đồng chí Bùi
Thanh Sơn giữ chức Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã,
đồng chí Trần Văn Ngọc giữ chức Ủy viên Thường vụ thường
trực Đảng ủy xã. Đại hội đã xác định mục đích, mục tiêu,
nhiệm vụ trọng tâm thực hiện đến cuối nhiệm kỳ. Trong đó tiếp
tục xác định phát triển nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Tập
trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng; đưa diện tích lúa đông xuân
lên 289 ha; thực hiện sản xuất 2 vụ lúa ăn chắc. Tổng sản
lượng lương thực đạt 1.590 tấn, bình quân lương thực đạt 365
kg/người/năm. Tăng cường trồng cây màu, cây rau, đậu. Tập
trung phát triển diện tích cây mía đạt 145 ha. Chỉ đạo thực hiện
trồng 70 ha rừng theo dự án PAM 4304 và mỗi năm trồng
30.000 cây phân tán. Quy hoạch vùng trồng đào lộn hột 3 ha.
Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia súc, với tổng đàn đạt 6.400
con, bình quân mỗi gia đình nuôi 4 con gia súc; chú trọng phát
triển đàn gia cầm... Tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho nhân dân.

39
. Biên bản Đại hội Đảng bộ xã Bình Tân lần thứ XIV, tháng
5/1994.

123
Tập trung các nguồn lực để đẩy mạnh xây dựng lưới điện,
phát triển giao thông, thủy lợi bảo đảm phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội và các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Nâng cao chất lượng giáo dục, hoạt động văn hóa - xã hội.
Hoàn thành giải quyết chính sách cho các đối tượng theo chủ
trương và hướng dẫn của cấp trên. Nâng cấp Nghĩa trang liệt sĩ
và di chuyển toàn bộ phần mộ liệt sĩ vào Nghĩa trang liệt sĩ xã.
Tăng cường các biện pháp nhằm bảo đảm an ninh chính trị
và trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Thực hiện tốt công tác
quân sự - quốc phòng địa phương theo kế hoạch.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng
và tổ chức. Nâng cao năng lực, hiệu quả của chính quyền. Chú
trọng công tác vận động quần chúng, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; tham gia quản
lý nhà nước, quản lý xã hội, xây dựng Đảng và xây dựng chính
quyền40.
Sau Đại hội XIII và Đại hội XIV, Đảng ủy xã Bình Tân tập
trung xây dựng chương trình hành động để tổ chức thực hiện
gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp. Việc triển

40
. Phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ 1994-1996, khóa XIV,
ngày 16/5/1994.

124
khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần
thứ XIII và XIV trong bối cảnh có nhiều khó khăn. Đặc biệt từ
năm 1992, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn
biến phức tạp; các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện chiến lược
“diễn biến hòa bình”; nổi lên tranh giành quần chúng; hoạt động
của các tôn giáo và một số phần tử cơ hội chính trị đã tác động
không nhỏ đến tư tưởng, làm giảm sút lòng tin của đảng viên và
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, nhất là cán bộ hưu trí,
những người đang hưởng các chế độ, chính sách của Nhà nước;
gia đình đông con, hoàn cảnh khó khăn. Trong khi đó, kinh tế
đất nước vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng về kinh tế - xã hội.
Sự nghiệp văn hóa - xã hội có những mặt tiếp tục xuống cấp. Tệ
nạn xã hội phát triển, đạo đức xã hội suy giảm; tình trạng mất
dân chủ, vi phạm pháp luật diễn ra khá phổ biến. Song dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy, sự quan tâm của Ủy ban nhân
dân và các ngành của huyện; sự nỗ lực, quyết tâm của toàn thể
cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương nên đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng.
Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, quán triệt Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VII về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế
nông thôn; tập trung chỉ đạo tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
10-NQ/TW ngày 05/4/1988 của Bộ Chính trị đổi mới quản lý
kinh tế nông nghiệp; Nghị định số 64-CP ngày 27/9/1993 của
Chính phủ về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá

125
nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông
nghiệp; Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 06/12/1993 của Tỉnh
ủy Quảng Ngãi về phát triển kinh tế, với mục tiêu “Phát triển
nhanh và vững chắc nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn nhằm thu hút lao động,
giải quyết vững chắc nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân
dân. Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển, đời sống
văn hóa phong phú, lành mạnh, có cơ sở vật chất cơ bản đáp
ứng được nhu cầu của nhân dân; có hệ thống chính trị vững
mạnh; phát huy dân chủ và công bằng xã hội; củng cố vững
chắc quốc phòng và an ninh”; Quyết định của Ủy ban nhân dân
tỉnh về chuyển hướng sản xuất nông nghiệp 41, Đảng ủy xã tập
trung chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, chú trọng phát
triển các ngành nghề có giá trị kinh tế cao, tăng giá trị thu nhập
trên một đơn vị diện tích sản xuất; chỉ đạo đẩy mạnh việc phân
vùng sản xuất, chuyển đối cơ cấu cây trồng, mùa vụ gắn với
việc giao đất ổn định lâu dài cho hộ sản xuất, thực hiện quyền
tự chủ cho xã viên. Đảng ủy xã đã thành lập Ban chỉ đạo điều
chỉnh ruộng đất của xã và Hợp tác xã do đồng chí Đoàn Công

41
. Xem Lịch sử Đảng bộ huyện Bình Sơn (1975-2005), Sđd, tr.222-
223.

126
Phụng - Bí thư Đảng ủy xã làm Trưởng ban, đồng chí Bùi
Thanh Sơn - Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã
làm Phó ban, các thành viên là các ngành, giới và Chủ nhiệm
Hợp tác xã nông nghiệp; chỉ đạo tiến hành phân chia lại theo
nhân khẩu. Việc phân chia ruộng đất cho nông dân tương đối
công bằng, hợp lý, được nhân dân đồng tình. Vì vậy, đã nhanh
chóng ổn định sản xuất, mở rộng diện tích canh tác, thâm canh,
tăng vụ; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân. Diện tích đất công ích
được quản lý chặt chẽ; các hộ sản xuất yên tâm, phấn khởi.
Trong sản xuất nông nghiệp, tập trung thực hiện các biện
pháp khoa học kỹ thuật, giống mới để tăng giá trị sản xuất trên
một đơn vị diện tích; tăng diện tích lúa 2 vụ, đưa một số diện
tích trồng lúa sang trồng các loại cây nông sản có giá trị cao;
luân canh trên diện tích chủ động nước; chuyển đổi sản xuất
lúa từ 3 vụ sang 2 vụ ăn chắc nhằm giúp nông dân giảm bớt các
chi phí đầu tư, độ quay vòng của đất, tích hợp dinh dưỡng,
phục vụ sản xuất hiệu quả hơn. Chuyển 60 ha lúa năng suất
thấp sang trồng mía, đưa tổng diện tích mía lên 150 ha; chuyển

127
150 ha đất màu sang trồng đậu và bắp lai. Mở rộng diện tích
lúa hè thu. Đồng thời, đầu tư tu bổ hệ thống kênh mương, công
trình thủy lợi, giao thông, điện nhằm hỗ trợ sản xuất... Huy
động nhân dân tham gia trên 5.000 ngày công nghĩa vụ làm
thủy lợi Thạch Nham. Mặc dù, những năm 1991-1995, nhất là
năm 1992 và năm 1995 thời tiết diễn biến khá phức tạp, ảnh
hưởng trực tiếp đến sản xuất, nhiều diện tích sản xuất gần như
mất trắng, đời sống nhân dân khó khăn, nhưng Đảng ủy xã đã
quyết tâm lãnh đạo nhân dân trên tinh thần tự lực, tự cường,
cần cù lao động, phát huy tinh thần tương thân, tương ái, giúp
đỡ lẫn nhau, cùng với sự hỗ trợ của cấp trên tập trung ổn định
và phát triển sản xuất nông nghiệp, nhằm ổn định kinh tế và
đời sống. Đến năm 1994, sản lượng lương thực đạt 1.300 tấn,
bình quân lương thực đạt 284 kg/người/năm, tăng 53 kg/người
so với năm 1993. Năm 1995, sản lượng lương thực đạt 1.495
tấn, bình quân lương thực đạt 300 kg/người/năm. Đời sống
nhân dân được cải thiện và nâng lên rõ rệt.
Đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, nhất là đàn trâu, bò bảo đảm
sức cày kéo và cung cấp cho thị trường. Đặc biệt, chăn nuôi theo
hộ gia đình phát triển mạnh. Tổng đàn bò có 10.500 con; đàn
heo có 9.500 con, gia cầm có 19.560 con. Đồng thời, triển khai
thực hiện cải tạo, nâng cao chất lượng đàn gia súc, gia cầm
nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế hàng hóa, bước đầu có kết
quả.

128
Phong trào trồng cây gây rừng theo dự án PAM và 327 tiếp
tục phát triển. Toàn xã đã trồng được 142 ha rừng trên vùng núi
trọc. Thực hiện trải dân (20 hộ) theo dự án nhằm bảo vệ tốt
rừng trồng. Bên cạnh đó, nhân dân trồng được 8 ha đào lộn hột.
Tuy nhiên, công tác quản lý rừng tự nhiên chưa tốt, còn bị khai
thác bừa bãi.
Hoạt động trên lĩnh vực văn hóa - xã hội tiếp tục được duy
trì nền nếp, có mặt tiến bộ hơn trước. Tháng 01/1993, Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ban
hành một số nghị quyết chiến lược về con người, như: Tiếp tục
đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo; một số nhiệm vụ về văn
hóa, văn nghệ những năm trước mắt; những vấn đề cấp bách
của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân; về chính
sách dân số - kế hoạch hóa gia đình và công tác thanh niên
trong tình hình mới. Đảng ủy xã xác định đây là những vấn đề
cần thiết, là nhiệm vụ quan trọng, lâu dài nên tăng cường công
tác tuyên truyền gắn với triển khai một số luật như: Luật Đất
đai, Luật Nghĩa vụ quân sự,... và các chủ trương của địa phương
nên đã tạo được nhận thức trong nhân dân, nâng cao ý thức và
trách nhiệm công dân trong thực hiện các nhiệm vụ tại địa
phương. Đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao, văn hóa, văn
nghệ quần chúng; giữ vững môi trường văn hóa lành mạnh gắn
với thực hiện cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia
đình văn hóa mới. Đặc biệt, ngày 25/10/1993, Ủy ban nhân dân

129
tỉnh Quảng Ngãi đã có quyết định công nhận và bảo vệ Di tích
thắng cảnh núi và chùa Thình Thình thuộc thôn Diên Lộc, xã
Bình Tân42. Đây là niềm tự hào của Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân địa phương, trên cơ sở đó nâng cao nhận thức và trách
nhiệm của các tổ chức và nhân dân trong công tác bảo vệ danh
thắng núi Thình Thình, tạo vẻ đẹp cảnh quan cũng như phục vụ
mục đích phát triển du lịch trong tương lai.
Giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng được
nâng lên. Năm học 1993-1994, Trường Phổ thông cấp I và II
Bình Tân chính thức tách ra để thành lập mới 2 trường gồm
Trường Tiểu học và Trường Trung học cơ sở. Trường Trung
học cơ sở do đồng chí Nguyễn Hòa làm Hiệu trưởng; Trường
Tiểu học do đồng chí Đoàn Nhân Hòa làm Hiệu trưởng 43. Việc

42
. Quyết định số 1881/QĐ-UB ngày 25/10/1993 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi về việc bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa và danh lam
thắng cảnh.

43
. Quyết định số 112/QĐ-UB ngày 19/10/1993 của Ủy ban nhân dân
huyện Bình Sơn về tách trường, thành lập trường; Quyết định số 113/QĐ-

130
thành lập các trường Tiểu học và Trung học cơ sở này đã tạo
thuận lợi cho việc học tập của con em cũng như công tác quản
lý giáo dục, công tác chuyên môn ở mỗi cấp tại địa phương.
Đến năm học 1994-1995, toàn xã có 952 học sinh, tăng 126
học sinh so với năm học trước. Năm 1994, xã được công nhận
xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
Công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân được thực hiện
tốt hơn. Triển khai có hiệu quả các chương trình y tế quốc gia,
tiêm chủng mở rộng; thực hiện chương trình chăm sóc bà mẹ
và trẻ em, dân số - kế hoạch hóa gia đình. Đẩy mạnh công tác
phòng, chống suy dinh dưỡng cho trẻ em từ 1 đến 5 tuổi.
Công tác chính sách đối với người có công được thực hiện
đầy đủ, kịp thời. Đến năm 1995, xã Bình Tân có 215 gia đình
liệt sĩ, 77 thương binh, 18 bệnh binh và 115 gia đình có công
với cách mạng được hưởng chế độ hằng tháng. Tiếp tục lập hồ
sơ đề nghị Nhà nước thực hiện chế độ, chính sách cho các đối
tượng theo quy định, gồm: 35 thương binh, 12 Bà mẹ Việt

UB ngày 21/10/1993 của Ủy ban nhân dân huyện Bình Sơn về bổ nhiệm
lãnh đạo, quản lý.

131
Nam Anh hùng và 45 gia đình có công với cách mạng. Thực
hiện tốt phong trào đền ơn đáp nghĩa; xây dựng được 3 nhà tình
nghĩa tặng cho đối tượng chính sách khó khăn. Phong trào
tương thân, tương ái, hoạt động nhân đạo, từ thiện được cán bộ,
đảng viên và nhân dân hưởng ứng thực hiện với tinh thần tự
giác cao, tạo được nét đẹp văn hóa trong cộng đồng dân cư.
Lĩnh vực an ninh, quốc phòng luôn được Đảng ủy xã xác
định là một nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Từ cuối năm
1991, với sự tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu và Liên Xô đã tác động không nhỏ đến tâm tư, tình
cảm, tư tưởng của nhân dân và đặt nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh trước nhiều vấn đề mới. Trước tình hình đó, tại Hội nghị
lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ban
hành Nghị quyết số 03-NQ/HNTW ngày 29/6/1992 về nhiệm
vụ quốc phòng và bảo vệ an ninh quốc gia, chống “diễn biến
hòa bình” của địch. Trong đó, xác định nhiệm vụ chống “diễn
biến hòa bình”, gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch là
nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân đồng thời sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống khác.
Trước yêu cầu nhiệm vụ trên, thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TU
ngày 13/3/1992 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và chỉ đạo của
Huyện ủy, Đảng ủy xã đã thành lập Chi bộ Lực lượng vũ trang.

132
Nhiệm vụ của chi bộ là tập trung phối hợp quán triệt, nâng cao
nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu “diễn
biến hoà bình” của các thế lực thù địch; vấn đề lợi dụng “dân
chủ, nhân quyền”; tranh chấp đất đai; tham nhũng, lãng phí...
để xuyên tạc, lôi kéo, nói xấu Đảng, chính quyền; chia rẽ khối
đại đoàn kết trong nhân dân. Thành lập được 3 tổ vũ trang ở
các thôn. Các tổ vũ trang đã thường xuyên theo dõi, giám sát,
xử lý kịp thời các vụ vi phạm pháp luật và các vụ gây rối ngay
từ cơ sở, không để phức tạp xảy ra. Trong giai đoạn này,
Trưởng Công an xã là đồng chí Trương Công Đáng - Phó Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã kiêm nhiệm.
Lãnh đạo thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên về
công tác quân sự địa phương; bảo vệ an toàn các công trình
phòng thủ. Lực lượng dân quân du kích có 36 đồng chí, bảo
đảm về số lượng và chất lượng; từ tháng 4/1991, Xã đội trưởng
là đồng chí Nguyễn Thanh Tùng. Hằng năm, tổ chức huấn
luyện chiến thuật, kỹ thuật nhằm nâng cao trình độ chiến đấu
cho lực lượng; vận động thanh niên tham gia nhập ngũ vượt chỉ
tiêu.
Công tác chính trị, tư tưởng được tăng cường; nâng cao
nhận thức chính trị, củng cố được niềm tin, nêu cao tinh thần
cảnh giác phòng, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch. Đặc biệt, qua diễn biến tình hình các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô nhưng đảng viên của

133
Đảng bộ đều tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; vào
thành tựu của công cuộc đổi mới. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân
dân lao động làm chủ thông qua các đoàn thể quần chúng, Nhà
nước quản lý và điều hành có nhiều tiến bộ. Tổ chức bộ máy
thường xuyên được củng cố, kiện toàn; phát huy vai trò lãnh
đạo toàn diện, tuyệt đối và trực tiếp của tổ chức đảng và đảng
viên; tăng cường công tác kiểm tra; đoàn kết trong Đảng và
nhân dân được giữ vững. Đồng thời, Đảng ủy xã đã trang bị
Tạp chí Cộng sản; thường xuyên nói chuyện thời sự, về thành
tựu trong công cuộc đổi mới đất nước, về chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đến cán bộ, đảng viên và nhân
dân... Tổ chức học tập Nghị quyết giữa nhiệm kỳ khóa VII của
Đảng; Thông báo số 100-TB/TW ngày 25/01/1995 của Ban Bí
thư về kiểm điểm sự lãnh đạo về nhân sự trong cuộc bầu cử
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân vừa qua; Nghị quyết số
09-NQ/TW ngày 18/02/1995 của Bộ Chính trị về một số định
hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay; bài nói của Tổng
Bí thư Đỗ Mười về giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng, pháp luật
Nhà nước, kiên quyết ngăn chặn tệ vô tổ chức, vô kỷ luật... nên
đã hình thành nhận thức mới và đúng đắn; ổn định tình hình tư
tưởng trong Đảng và toàn xã hội.
Công tác tổ chức, cán bộ được quan tâm đúng mức hơn.
Phát triển được 12 đảng viên mới. Đến cuối năm 1995, Đảng bộ
xã có 13 chi bộ, gồm 11 chi bộ đội sản xuất, 1 chi bộ trường

134
học và 1 chi bộ lực lượng vũ trang. Tập trung củng cố, kiện
toàn, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng theo tinh thần Nghị
quyết số 03-NQ/TW ngày 26/6/1992 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa VII về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
Chất lượng sinh hoạt chi bộ được nâng lên; đảng viên đều được
phân công nhiệm vụ phù hợp nên phát huy được tinh thần và
trách nhiệm cao hơn. Đánh giá, phân loại tổ chức đảng và đảng
viên hằng năm đều có trên 80% đảng viên đủ tư cách, hoàn
thành nhiệm vụ.
Ngày 20/11/1994, cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
ba cấp, nhiệm kỳ 1994-1999 được tổ chức. Theo đó, Hội đồng
nhân dân xã Bình Tân đã bầu đồng chí Đoàn Công Phụng giữ
chức Chủ tịch và đồng chí Thới Hoàng giữ chức Phó Chủ tịch
Hội đồng nhân dân xã44; đồng thời bầu đồng chí Bùi Thanh
Sơn giữ chức Chủ tịch và đồng chí Trương Công Đáng giữ
chức Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Hoàn thành việc củng
cố chính quyền thôn theo quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh.
Hoạt động của chính quyền ngày càng đồng bộ hơn trong việc

44
. Nghị quyết số 13-NQ/TTHĐ ngày 26/01/1995 phê chuẩn kết quả
bầu cử Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Bình Tân.

135
lãnh đạo, điều hành các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, an ninh và quốc phòng tại địa phương.
Công tác vận động quần chúng có sự đổi mới, phù hợp với
cơ chế mới; gắn bó với quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của hội viên. Quán triệt sâu sắc các quan điểm, nội dung Nghị
quyết số 8B-NQ/TW ngày 27/3/1990 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa VI về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; Nghị quyết số 04-
NQ/HNTW ngày 14/01/1993 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng về công tác thanh niên trong tình hình mới; Nghị quyết số
04-NQ/TW ngày 12/9/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng
cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Nghị
quyết số 07-NQ/TW ngày 17/11/1993 của Bộ Chính trị về đại
đoàn kết toàn dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống
nhất đến các tổ chức và đoàn viên, hội viên, nhân dân. Thông
qua đó, tăng cường sự đồng thuận xã hội, góp phần thực hiện
tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ của địa phương. Tổ chức Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội luôn được củng cố, kiện
toàn. Theo đó, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã do đồng chí Thới
Hoàng đảm nhiệm; Hội Phụ nữ xã do đồng chí Nguyễn Thị
Biên làm Chủ tịch; Hội Nông dân xã do đồng chí Phan Văn Mùi
làm Chủ tịch, đến năm 1992 đồng chí Trần Tiến Mai thay thế;
Hội Cựu chiến binh xã do đồng chí Nguyễn Văn Kiện làm Chủ
tịch; Đoàn Thanh niên xã do đồng chí Nguyễn Xuân Phu làm Bí

136
thư, đã phối hợp thực hiện tốt các phong trào, các cuộc vận
động, nhất là: Ủng hộ nhân dân Cuba, phụng dưỡng Mẹ Việt
Nam Anh hùng, cứu trợ thiên tai, xây dựng quỹ đền ơn đáp
nghĩa; thực hiện hiệu quả 2 cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau
làm kinh tế gia đình” và “Nuôi dạy con tốt góp phần hạn chế trẻ
em suy dinh dưỡng và bỏ học”; phong trào “Thanh niên lập
nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước”; phong trào “Nông dân thi đua
sản xuất - kinh doanh giỏi”... Những phong trào trên đã động
viên được đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực tham gia
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất; làm giàu cho bản
thân và tăng cường tiềm lực kinh tế địa phương.
Trong các năm 1991-1995, mặc dù có nhiều khó khăn, thách
thức nhưng với tinh thần năng động, sáng tạo, Đảng ủy xã Bình
Tân đã tập trung nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng
bộ, của cán bộ, đảng viên, đề ra nhiều biện pháp sát đúng với tình
hình nên tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy lãnh đạo
phát triển kinh tế - xã hội, đem lại đời sống ấm no cho nhân dân,
được nhân dân thêm tin tưởng. Những kết quả đó đã cổ vũ cán
bộ, đảng viên và nhân dân tiếp tục hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ
của địa phương trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.

137
Chương VI
LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN ĐẨY
MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA (1996-2000)

Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng,
kinh tế - xã hội của đất nước ta đã có nhiều biến đổi quan
trọng. Nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội
nghiêm trọng, kéo dài hơn 15 năm. Tuy còn một số mặt chưa
thực sự vững chắc nhưng đã tạo được những tiền đề cần thiết
để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu công nghiệp hóa
như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác định:
Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật
chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất
tiến bộ, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, đời sống
vật chất và tinh thần phong phú, quốc phòng - an ninh vững
chắc.
Trong khoảng thời gian trên, thực hiện đường lối đổi mới,
Đảng bộ xã Bình Tân đã lãnh đạo nhân dân vượt qua nhiều khó
khăn, thách thức và đạt được nhiều kết quả quan trọng, toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, kết
138
quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương
và nhu cầu của nhân dân; kết cấu hạ tầng chưa thoát khỏi tình
trạng yếu kém; việc làm, đời sống của một bộ phận nhân dân
còn nhiều khó khăn; tính thống nhất trong Đảng bộ và sự đồng
thuận trong nhân dân có lúc chưa cao.
Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, ngày 18/01/1996, Đảng
bộ xã Bình Tân tổ chức Đại hội lần thứ XV, nhiệm kỳ 1996-
2000. Đại hội đã khẳng định những kết quả thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XIV là toàn diện: Đã lãnh
đạo thực hiện trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc
phòng và công tác xây dựng Đảng. Từng bước phát triển tạo ra
ổn định về chính trị, phát huy được sức mạnh của toàn Đảng
bộ, toàn dân; tổ chức thực hiện có kết quả các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, Đại
hội cũng thẳng thắn chỉ rõ các khuyết điểm cần tập trung khắc
phục, đó là: Cơ cấu kinh tế phát triển chưa đồng bộ, mất cân
đối về thu - chi ngân sách; văn hóa - xã hội chưa đáp ứng được
nhu cầu của nhân dân, mức độ tăng dân số còn cao. Thực hiện
pháp luật chưa nghiêm, trật tự, an toàn xã hội còn tiềm ẩn
nhiều phức tạp; đội ngũ cán bộ chưa thật sự đáp ứng được yêu
cầu, cán bộ kế cận còn mỏng.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, Đại hội đã đề ra
mục tiêu chung cho đến hết nhiệm kỳ XV là chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, cơ cấu mùa vụ sát đúng với từng đội sản xuất; tăng
cường công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Sản

139
lượng lương thực đến cuối nhiệm kỳ đạt 2.000 tấn. Tập trung
hoàn thành kênh mương B10-1; tiếp tục xây dựng hệ thống
lưới điện, nâng cấp hệ thống giao thông phục vụ sản xuất và
sinh hoạt trong nhân dân. Xây dựng Trường Trung học cơ sở.
Tận thu các nguồn, tiết kiệm chi để bảo đảm chi cho các hoạt
động thường xuyên. Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo,
tăng hộ khá và giàu, ổn định và tạo việc làm cho nhân dân.
Chăm lo đời sống cho đối tượng chính sách. Hạ tỷ lệ tăng dân
số xuống dưới 2,1%. Xây dựng lực lượng công an, dân quân, tự
vệ bảo đảm về số lượng và chất lượng, giữ vững an ninh chính
trị và trật tự, an toàn xã hội. Tăng cường công tác vận động
quần chúng, phát huy dân chủ của nhân dân; nâng cao hiệu lực
quản lý của chính quyền. Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững
mạnh về mọi mặt, thực hiện tốt công tác lãnh đạo hệ thống
chính trị.
Đại hội đã tiếp tục tín nhiệm bầu đồng chí Đoàn Công
Phụng giữ chức Bí thư Đảng ủy xã, đồng chí Bùi Thanh Sơn
giữ chức Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí
Trần Văn Ngọc giữ chức Ủy viên Thường vụ thường trực Đảng
ủy xã.
Từ ngày 15 đến ngày 17/3/1996, Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện Bình Sơn lần thứ XXII được tổ chức. Đại hội xác định
phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ cho nhiệm kỳ 1996-
2000: Nắm vững và vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội

140
Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, tranh thủ mọi thời cơ, điều kiện
thuận lợi, khắc phục khó khăn, đẩy mạnh khai thác và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực để phát triển mạnh mẽ sản xuất kinh
doanh theo cơ cấu kinh tế: nông - lâm - ngư nghiệp; công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ. Coi
trọng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế
hàng hóa. Tích cực bồi dưỡng, đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản
lý, cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ và công nhân kỹ thuật lành
nghề; đoàn kết toàn dân, thực hiện tốt các chính sách về văn
hóa - xã hội mà trọng tâm là xóa xong nạn đói, giảm nghèo;
tăng cường công tác an ninh - quốc phòng, đẩy lùi tiêu cực và
các tệ nạn xã hội. Củng cố và xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh45.
Từ ngày 06 đến ngày 10/5/1996, Đại hội Đảng bộ tỉnh
Quảng Ngãi lần thứ XV được tổ chức. Đại hội đã đánh giá kết
quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, 10
năm thực hiện công cuộc đổi mới và nghiêm túc chỉ rõ những
khuyết điểm, hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành làm
cản trở đến quá trình phát triển của tỉnh. Trên cơ sở đó, Đại hội

45
. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bình Sơn lần thứ
XVII, tháng 3/1996.

141
đã đề ra phương hướng phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm
1996-2000 và những định hướng lớn đến năm 2010 là “Tiếp
tục giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đưa tốc độ tăng trưởng
kinh tế tăng cao hơn mức bình quân chung của cả nước, bảo
đảm tính vững chắc, phấn đấu thoát ra khỏi tỉnh nghèo, tránh
nguy cơ tụt hậu so với các tỉnh miền Trung, từng bước tiến lên
công nghiệp hóa, hiện đại hoá”46.
Tiếp đó, từ ngày 28/6/1996 đến ngày 01/7/1996, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng được tổ chức tại Thủ đô
Hà Nội. Đại hội đã tổng kết 10 năm đổi mới, 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng; bàn
phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 1996-2000. Đồng thời, đánh giá tình hình trong nước và
quốc tế, nhận định tình hình và xu thế triển vọng của thế giới,
làm rõ thời cơ và thách thức của cách mạng Việt Nam; nêu rõ
mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 là: Tiếp tục nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phấn đấu đến

46
. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XV,
tháng 5/1996, tr 44.

142
năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp”47.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Đại hội
Đảng bộ xã lần thứ XV trong bối cảnh quốc tế diễn biến hết
sức phức tạp; mặc dù có nhiều cải thiện hơn trước nhưng tình
hình đất nước có nhiều khó khăn, giá cả một số mặt hàng tăng
cao; đời sống của đa số cán bộ, công chức, người về hưu,
người hưởng chế độ, chính sách gặp nhiều khó khăn; các thế
lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”
nhằm phá hoại công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Đa số
nhân dân địa phương sống dựa vào nông nghiệp; chịu tác động
xấu của thiên tai, giá cả một số mặt hàng vật tư phục vụ sản
xuất tăng cao; sản phẩm đầu ra của nông dân thiếu ổn định.
Tình trạng trên đòi hỏi Đảng bộ xã phải quan tâm hơn, tập
trung khắc phục các hạn chế, không ngừng nâng cao đời sống

47
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.80.

143
nhân dân, thực hiện xóa đói, giảm nghèo, tăng dần diện hộ
giàu, xây dựng nông thôn mới văn minh, giàu đẹp... là những
nhiệm vụ chung, chủ yếu và thường xuyên của Đảng bộ xã.
Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ và thực trạng nêu trên,
trong nhiệm kỳ Đảng bộ xã đã cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội
thành các kế hoạch, chương trình công tác cụ thể để lãnh đạo,
tổ chức thực hiện và đạt kết quả toàn diện trên các lĩnh vực.
Đảng bộ xã khẳng định thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
xã lần thứ XV, nhiệm kỳ 1996-2000, trong điều kiện có những
thuận lợi cơ bản, đó là: có đường lối, chủ trương đúng đắn của
Đảng, hợp với lòng dân, nhân dân phấn khởi và ngày càng tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Hệ thống pháp luật ngày càng
hoàn chỉnh. Trong quá trình thực hiện có sự chỉ đạo kịp thời
của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện; sự hỗ trợ của các
ngành cấp trên. Đặc biệt, Đảng bộ và nhân dân trong xã đoàn
kết, nhất trí cao; phát huy tốt tinh thần tự lực, tự cường, linh
động, sáng tạo. Bên cạnh đó, cũng có một số khó khăn, đó là:
thiên tai thường xuyên xảy ra; sản phẩm nông nghiệp khó tiêu
thụ; năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ
chưa thật sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; kết cấu hạ tầng còn
thấp kém, lực lượng sản xuất chưa phát triển kịp với thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặc dù vậy, trong
nhiệm kỳ, Đảng ủy xã đã lãnh đạo nhân dân hoàn thành cơ bản
các mục tiêu, chỉ tiêu do Đại hội đề ra.

144
Kinh tế nông nghiệp tiếp tục phát triển, bảo đảm sản xuất
hết diện tích, gắn với ứng dụng giống mới, khoa học kỹ thuật;
thực hiện thủy lợi hóa kết hợp với thủy lợi Thạch Nham; đầu tư
đường giao thông phục vụ sản xuất... nên mặc dù thời tiết nắng
hạn kéo dài nhưng sản xuất lương thực vẫn đạt năng suất cao;
không để xảy ra tình trạng thiếu đói. Thực hiện nghiêm chủ
trương, Nghị quyết của Huyện ủy về chuyển đổi cây trồng trên
đất lúa kém hiệu quả hoặc 3 vụ không ăn chắc nhằm đa dạng
hóa cây trồng, tạo hàng hóa. Năm 1997, địa phương triển khai
tập trung trồng cây dưa hấu, sử dụng các giống lúa, mì và mía
mới, có năng suất và chất lượng hơn hẳn giống cũ, được nhân
dân đồng tình cao. Sản lượng lương thực năm sau cao hơn năm
trước. Đến năm 2000, sản lượng lương thực đạt 1.530 tấn, tăng
246 tấn so với năm 1996; bình quân lương thực đạt 334
kg/người/năm, tăng 63 kg/người so với năm 1996 là và tăng so
với Nghị quyết Đại hội đề ra là 33 kg/người/năm. Đời sống nhân
dân đã được nâng cao và có tích lũy.
Chăn nuôi được duy trì và phát triển. Tổng đàn gia súc, gia
cầm tăng mạnh và chuyển theo hướng sản xuất hàng hóa; từng
bước cải tạo đàn bò theo hướng lai sind, đàn heo theo hướng
nạc và gia cầm theo hướng siêu trứng, siêu thịt... đem lại giá trị
kinh tế cao, góp phần gia tăng giá trị sản xuất. Đến năm 2000,
tổng đàn gia súc có trên 7.600 con (trâu, bò, heo), đàn gia cầm
có trên 13.000 con. Chăn nuôi gà công nghiệp đang trở thành
xu hướng chính trong một số hộ gia đình, đã đem lại thu nhập

145
cao hơn hẳn trước đây, nên đời sống nhân dân được cải thiện rõ
rệt.
Lâm nghiệp phát triển mạnh. Trong 5 năm 1996-2000, xã
đã trồng được 390 ha rừng tập trung và phân tán; trong đó, năm
1997 và năm 2000, mỗi năm trồng được 90 ha theo các chương
trình PAM 4304 và 327. Một số hộ trồng từ 15.000 đến 20.000
cây phân tán; bảo đảm độ che phủ theo kế hoạch.
Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy về chuyển đổi hợp tác xã
nông nghiệp, tháng 02/1997 Hợp tác xã nông nghiệp Bình Tân
đã thực hiện chuyển đổi và hoạt động theo Luật Hợp tác xã
năm 1996. Theo đó, Hợp tác xã đã hoạt động tự chủ, tự chịu
trách nhiệm như một doanh nghiệp. Sau chuyển đổi, Hợp tác
xã đã thực hiện dịch vụ về các loại giống mới có năng suất cao
(lúa, ngô, mì, mía); làm dịch vụ đầu tư và phát triển vùng mía;
mở các lớp khuyến nông giúp nông dân tiếp cận khoa học kỹ
thuật và các giống mới. Từ tháng 4/1995, Chủ nhiệm Hợp tác
xã là đồng chí Phạm Đức Phú, Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã là
đồng chí Nguyễn Tấn Minh. Tiếp tục rà soát, lập hồ sơ và cấp
được 2.294 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân.
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã tạo sự yên tâm
cho nông dân đầu tư, chuyển đổi cây trồng có giá trị kinh tế
cao, cải thiện đời sống.
Là xã thuần nông, nguồn thu nhập không cao, không đa
dạng nhưng với quyết tâm chính trị cao, Đảng ủy xã đã chỉ đạo
tập trung phát triển giao thông, tạo thuận lợi cho sản xuất và

146
sinh hoạt của nhân dân. Trong 5 năm 1996-2000, ngân sách địa
phương đã đầu tư làm 3 cầu kiên cố, với tổng giá trị thực hiện
đạt 21 triệu đồng; tu sửa 51 km đường liên xã, liên thôn với
tổng giá trị thực hiện đạt 50 triệu đồng và 5.000 ngày công. Đặc
biệt năm 1997, Ủy ban nhân dân xã đã tổ chức thực hiện nâng
cấp, mở rộng 35 km đường giao thông thôn, xóm, xây dựng 18
cầu cống các loại, với kinh phí thực hiện là 35 triệu đồng hoàn
toàn do nhân dân đóng góp. Việc làm trên đã tạo điều kiện
thuận lợi để nhân dân đi lại và các phương tiện vận tải đến tận
các thôn, xóm trao đổi, thu mua hàng hóa nông sản trong nhân
dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của nhân dân
nhờ vậy được cải thiện rõ rệt. Năm 1998, do ảnh hưởng của lũ
lụt, giao thông hư hỏng nặng, xã đã huy động trên 1.600 ngày
công và 3 triệu đồng để tu sửa. Năm 1999, xã khởi công và
hoàn thành công trình điện, đưa vào sử dụng, với tổng giá trị
thực hiện trên 5 tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp trên 2 tỷ
đồng và có 97% hộ gia đình được dùng điện. Bình Tân là xã
đầu tiên ở vùng đông huyện Bình Sơn xây dựng được hệ thống
điện lưới phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, góp phần
đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Đây là sự kiện
mang tính đột phá, thể hiện sự năng động, sáng tạo của Đảng
bộ, chính quyền xã trong quá trình lãnh đạo, điều hành quản lý
thực hiện nhiệm vụ. Nhờ đó, bộ mặt nông thôn, nông nghiệp địa
phương thay đổi. Trong sản xuất nông nghiệp đã hình thành các
trạm bơm điện, thay các máy bơm dầu để bơm nước chống hạn,

147
đưa nước về các vùng xa, khó khăn trong phát triển sản xuất,
tăng thêm giá trị kinh tế. Bên cạnh đó, các hộ gia đình đã mua
sắm được các phương tiện nghe nhìn, tiếp cận nhanh hơn các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; cập nhật thông
tin tình hình thời sự, tình hình kinh tế - xã hội và nhất là khoa
học kỹ thuật, qua đó nhanh chóng thay đổi cung cách sản xuất,
tạo ra nhiều sản phẩm giá trị cao hơn, thu hẹp khoảng cách giàu
- nghèo, đưa kinh tế địa phương đi lên.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ. Phong trào văn
hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao phát triển mạnh. Công tác
thông tin, tuyên truyền đáp ứng cơ bản các nhiệm vụ chính trị
của địa phương. Đặc biệt, tăng cường nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác thông tin và truyền thanh xuống các thôn,
xóm. Đẩy mạnh phong trào văn hóa, văn nghệ và thể thao quần
chúng. Phong trào xây dựng nếp sống văn minh ngày càng đi
vào chiều sâu, được nhân dân đồng tình hưởng ứng, thực hiện.
Được huyện hỗ trợ ngân sách, xã đã hoàn thành xây dựng
Nghĩa trang liệt sĩ, với tổng giá trị thực hiện là 170 triệu đồng
và hoàn thành việc di dời 170 mộ liệt sĩ vào Nghĩa trang. Là
địa phương có nhiều đối tượng chính sách (gồm 324 liệt sĩ, 5
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 95 thương binh, 18 bệnh binh, 455
người có công, 165 người đang hưởng chế độ) nhưng xã luôn
thực hiện tốt các chế độ, chính sách, thường xuyên thăm hỏi,
động viên kịp thời. Đẩy mạnh xây dựng quỹ tình nghĩa, xây
dựng 6 nhà tình nghĩa tặng cho đối tượng chính sách có hoàn

148
cảnh khó khăn, từng bước giải quyết những bức xúc về nhà ở.
Thực hiện tốt chế độ bảo trợ xã hội cho các đối tượng khó khăn
theo quy định của Nhà nước. Công tác xóa đói, giảm nghèo
bước đầu thực hiện có kết quả. Cuối năm 1998, toàn xã còn
378 hộ nghèo, hộ khá tăng lên 72 hộ.
Bằng sự đóng góp của nhân dân cùng với nguồn đầu tư của
Nhà nước, cơ sở vật chất giáo dục được tăng cường. Với mục
tiêu “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”,
trong lĩnh vực giáo dục tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII về đổi mới sự
nghiệp giáo dục - đào tạo, đến năm học 1999-2000, toàn xã có
1.171 học sinh từ mẫu giáo đến trung học phổ thông. Chất
lượng dạy và học ngày càng cao, tỷ lệ giáo viên và học sinh
giỏi các cấp tăng nhanh; tỷ lệ học sinh lên lớp và đậu tốt
nghiệp đạt cao, từ 85% đến 90%.
Xây dựng hoàn thành trạm y tế, tạo thuận lợi và nâng cao
chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Chỉ đạo
tăng cường nâng cao sức khỏe nhân dân theo hướng dự phòng.
Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, giảm tỷ lệ sinh để xây
dựng gia đình ít con, hạnh phúc đạt kết quả tốt.
Công tác quân sự - quốc phòng địa phương luôn được chú
trọng, nhất là công tác giáo dục ý thức quốc phòng và xây dựng
nền quốc phòng toàn dân. Xây dựng dân quân tự vệ, dân quân
tại chỗ và dân quân cơ động bảo đảm đạt 2,5-3% so với dân số.
Đồng thời, các chiến sĩ lực lượng dân quân luôn xác định được

149
nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu; sẵn sàng tham gia công tác huấn
luyện, diễn tập theo chủ trương của cấp trên. Thực hiện tốt các
phương án tác chiến phòng thủ; bảo vệ an toàn các mục tiêu
trọng điểm. Tổ chức đưa 56 thanh niên lên đường làm nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc, vượt chỉ tiêu giao. Chú trọng và thực hiện
tốt công tác hậu phương quân đội; xây dựng quỹ quốc phòng.
Bảo đảm an ninh chính trị và và trật tự, an toàn xã hội; đấu
tranh có hiệu quả âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch. Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội triển khai và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số
09/1998/NQ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ về tăng cường
công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và Quyết
định số 138/1998/QĐ-CP ngày 31/7/1998 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Chương trình quốc gia phòng chống
tội phạm; bảo đảm ổn định tình hình địa phương. Tham mưu
cho chính quyền thực hiện tốt công tác quản lý nhân khẩu (toàn
xã có 1.117 hộ gia đình với 4.800 nhân khẩu, trong đó nữ là
2.540 người) và quản lý xã hội. Trưởng Công an xã là đồng chí
Trương Công Đáng - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân kiêm
nhiệm, đến năm 1997 là đồng chí Hồ Đức Trang.
Tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội được kiện toàn. Trong giai đoạn này, Chủ tịch
Mặt trận Tổ quốc xã là đồng chí Thới Hoàng, đến tháng 8/1999
là đồng chí Phạm Kính; Bí thư Đoàn Thanh niên xã lần lượt do

150
các đồng chí Nguyễn Xuân Phu và Trương Quang Minh 48,
đồng chí Nguyễn Thái Học là Phó Bí thư; Chủ tịch Hội Cựu
chiến binh xã là đồng chí Phan Văn Nam; Chủ tịch Hội Phụ nữ
xã là đồng chí Nguyễn Thị Biên và Chủ tịch Hội Nông dân xã
là đồng chí Trần Tiến Mai. Đảng ủy xã thường xuyên chỉ đạo
và cử cán bộ tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ cơ
sở để bảo đảm hoạt động, nâng cao chất lượng công tác dân
vận.
Trong công tác vận động quần chúng, Đảng ủy xã tiếp tục
chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về công tác dân vận, trọng tâm là Nghị quyết Trung ương
8B khóa VI về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; Nghị quyết số 07-
NQ/TW ngày 17/11/1993 của Bộ Chính trị khóa VII về đại
đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất;
thành lập khối dân vận xã. Tăng cường công tác tập hợp, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia xây dựng
Đảng; thực hiện các chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Đẩy mạnh và tăng cường đổi mới nội dung và phương thức

48
. Đồng chí Nguyễn Xuân Phu làm Bí thư Đoàn Thanh niên xã đến
năm 1998; đồng chí Trương Quang Minh làm Bí thư Đoàn Thanh niên
xã từ năm 1998 đến năm 2004.

151
hoạt động, hình thức vận động hội viên, đoàn viên và nhân dân;
gắn bó các hoạt động của hội với quyền lợi hội viên, đoàn viên;
động viên đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực tham gia
công tác hội, đoàn thể và các hoạt động phong trào hành động
cách mạng của địa phương, nhất là phát triển kinh tế, xóa đói,
giảm nghèo.
Đặc biệt, năm 1998, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Mặt
trận Tổ quốc xã đã chủ trì phối hợp với các tổ chức thành viên
tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân học tập và tham
gia thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư”. Qua đó đã có 13/15 khu dân cư
đăng ký thực hiện, bước đầu đã tạo ra một cuộc cách mạng toàn
diện tại địa phương; nhân dân đã tự giác thực hiện các chủ
trương về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; xóa đói, giảm
nghèo và vươn lên làm giàu chính đáng; xây dựng, phát huy
tinh thần tự quản, bảo vệ môi trường, xây dựng tình làng nghĩa
xóm đoàn kết, thân ái, tương trợ nhau trong cuộc sống, nhất là
các gia đình khó khăn, người neo đơn... để xây dựng một cộng
đồng dân cư hài hòa và phát triển. Trong năm 1999, thiên tai
gây thiệt hại nặng nề về vật chất và tinh thần trong nhân dân,
nhưng với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, “thương người như
thể thương thân”, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -
xã hội đã vận động nhân dân “nhường cơm sẻ áo”, đóng góp
giúp đỡ các gia đình bị thiệt hại nặng vượt qua khó khăn, ổn
định sản xuất và đời sống; vận động nhân dân ủng đồng bào

152
miền Trung được trên 1,2 triệu đồng. Tích cực tham gia xây
dựng chính quyền, thực hiện hiệp thương giới thiệu người ra
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 1999-2004 và
vận động cử tri tham gia bầu cử đạt 100%.
Các đoàn thể quần chúng hoạt động đồng bộ, hiệu quả hơn.
Tổ chức bộ máy được củng cố đến tận phân, chi hội; tỷ lệ đoàn
viên, hội viên tham gia sinh hoạt luôn đạt trên 80%. Nhờ vậy
các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và
địa phương đã đến với người dân, tạo sự đồng thuận xã hội
cao, góp phần hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị của Đảng
bộ xã đề ra hằng năm. Đồng thời, các đoàn thể tiếp tục vận
động đoàn viên, hội viên thực hiện tốt các phong trào, các cuộc
vận động do hội phát động như: phong trào “Nông dân sản xuất
- kinh doanh giỏi”, phong trào “Thanh niên lập nghiệp” và
“Tuổi trẻ giữ nước”; 3 phong trào lớn “Phụ nữ giúp nhau làm
kinh tế gia đình”, “Nuôi con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy
dinh dưỡng và bỏ học”, “Phụ nữ Quảng Ngãi năng động, sáng
tạo, trung hậu, đảm đang”, 5 chương trình công tác trọng tâm
và quỹ “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo”; cuộc vận động “Xây
dựng cơ sở vững mạnh, hội viên cựu chiến binh gương mẫu,
gia đình cựu chiến binh tiến bộ” và phong trào thi đua cựu
chiến binh giúp nhau làm kinh tế gia đình, xóa đói, giảm
nghèo, làm giàu chính đáng; thực hiện công tác nhân đạo, từ
thiện... đạt kết quả thiết thực.

153
Công tác xây dựng chính quyền luôn được chú trọng. Việc
tiếp xúc cử tri được duy trì nền nếp, đã giải quyết cơ bản các
kiến nghị của cử tri; giám sát việc tổ chức các hoạt động của
Ủy ban nhân dân xã. Chính quyền xã tập trung triển khai và
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII về phát huy quyền dân chủ của nhân
dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh cải cách hành
chính, trọng tâm là thủ tục hành chính, cải tiến lề lối làm việc,
thực hành dân chủ, giảm phiền hà cho nhân dân, nâng cao tinh
thần và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với nhiệm vụ
được giao. Thường xuyên phối hợp với các đoàn thể phát huy
dân chủ trong nhân dân, thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với công tác xóa đói, giảm
nghèo; các phong trào hành động cách mạng tại địa phương
được đẩy mạnh, đạt kết quả cao và được Ủy ban nhân dân
huyện đánh giá là một trong những xã khá nhất huyện.
Tăng cường công tác tổ chức, kiện toàn tổ chức bộ máy ở
thôn theo Quyết định số 86-QĐ/UBND ngày 26/4/1999 của
Ủy ban nhân dân tỉnh quy định về “Quy chế tổ chức thôn,
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của trưởng thôn”; bảo đảm
hoạt động nhịp nhàng, hiệu quả. Cùng với Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể vận động nhân dân tham gia bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa X, nhiệm kỳ 1997-2002 vào ngày 20/7/1997
và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp, nhiệm kỳ 1999-

154
2004 vào ngày 19/11/1999, đạt 100%. Trong nhiệm kỳ 1999-
2004, Hội đồng nhân dân xã bầu được 20 đại biểu, đồng chí
Đoàn Công Phụng tiếp tục được bầu giữ chức Chủ tịch và
đồng chí Thới Hoàng giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng nhân
dân xã49; Ủy ban nhân dân xã do đồng chí Bùi Thanh Sơn
được bầu làm Chủ tịch, đồng chí Trương Công Đáng làm Phó
Chủ tịch và các Ủy viên là: Nguyễn Thanh Tùng, Hồ Đức
Trang, Bùi Văn Huân, Đỗ Văn Dũng, Đỗ Tấn Đồng 50.
Công tác xây dựng Đảng về mọi mặt được tăng cường.
Đảng ủy xã tập trung chỉ đạo và triển khai trong cán bộ, đảng
viên và nhân dân về Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, các chủ trương,
nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Trọng tâm là triển khai các nghị quyết của Hội nghị Trung ương

49
. Quyết định số 34/1999/QĐ-TTHĐND phê chuẩn kết quả bầu
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Bình Tân, nhiệm kỳ 1999-
2004.

50
. Quyết định số 584/QĐ-UB ngày 28/12/1999 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện Bình Sơn về phê chuẩn kết quả bầu các thành viên
Ủy ban nhân dân xã, thị trấn.

155
khóa VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, Đảng
bộ huyện lần thứ XXII. Số lượng đảng viên tham gia học tập
nghị quyết đạt trên 85%. Đặc biệt, triển khai học tập Nghị quyết
Trung ương 6 (lần 2) về xây dựng và chỉnh đốn Đảng; mở rộng
tự phê bình và phê bình; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3
khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; quy định của Bộ Chính trị về những
điều đảng viên không được làm;... tạo sự chuyển biến tích cực
trong nhận thức của đảng viên và thống nhất cao trong lãnh đạo,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện.
Công tác cán bộ luôn được chú trọng, Đảng ủy xã giới
thiệu những đảng viên ưu tú ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân. Thực hiện việc sắp xếp, bố trí cán bộ
đúng chức danh, phù hợp với chuyên môn nên phát huy hiệu
quả tốt. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm
đúng mức. Đảng ủy xã đã cử 26 cán bộ tham gia các lớp đào
tạo về lý luận chính trị, chuyên môn và bồi dưỡng nghiệp vụ;
tạo điều kiện cho 2 cán bộ học bổ túc văn hóa cấp III. Qua
công tác này, đã góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước tại địa phương.
Chú trọng phát triển đảng viên trong chi bộ trường học,
dân quân và cơ quan; đã kết nạp 17 đảng viên mới. Đến năm
2000, toàn Đảng bộ xã có 92 đảng viên. Kết quả đánh giá tổ
chức đảng hằng năm đều có 13/13 (100%) chi bộ đạt từ khá trở
lên, trong đó đạt trong sạch, vững mạnh từ 55-65%. Liên tục

156
trong các năm 1996-2000, Đảng bộ xã Bình Tân luôn giữ vững
danh hiệu Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, được Huyện ủy
khen thưởng. Tuy nhiên, công tác nắm bắt diễn biến tình hình
tư tưởng trong Đảng và nhân dân có lúc thiếu kịp thời; công tác
kiểm tra, giám sát chưa thực sự chủ động; công tác cán bộ chưa
có sự đổi mới căn bản, vẫn còn tình trạng chắp vá, bị động.
Có thể khẳng định trong nhiệm kỳ 1996-2000, thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện hết sức khó khăn nhưng Đảng bộ và
nhân dân xã Bình Tân đã nỗ lực cùng với toàn Đảng, toàn quân
và toàn dân trong huyện vượt qua những khó khăn, thách thức
và đạt được những kết quả có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp
phần tăng thêm tiềm lực về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh; giữ vững ổn định về chính trị; tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân, phát huy dân chủ trong Đảng và ngoài xã hội, tạo
được sự thống nhất trong lãnh đạo và đồng thuận xã hội đối với
các chủ trương, nhiệm vụ của Đảng bộ. Đây cũng chính là
động lực để Đảng bộ và nhân dân xã Bình Tân vững bước
trong chặng đường tiếp theo.

157
Chương VII
LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẨY MẠNH THỰC
HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA (2000-2005)

Ngày 22/8/2000, Đảng bộ xã Bình Tân tổ chức Đại hội lần


thứ XVI, nhiệm kỳ 2000-2005. Với tinh thần dân chủ, trí tuệ,
trách nhiệm, kỷ cương, đoàn kết, đổi mới, Đại hội đã đánh giá
đúng thực chất sự lãnh đạo của Đảng bộ trong nhiệm kỳ 1996-
2000, tìm ra những nguyên nhân đạt được và những hạn chế,
yếu kém, đồng thời đề ra phương hướng cơ bản trong nhiệm kỳ
2000-2005 đó là: Giữ vững ổn định chính trị - xã hội và an
ninh - quốc phòng. Phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao. Thực
hiện tốt các hoạt động văn hóa - xã hội, xóa hết hộ đói, giảm hộ
nghèo; góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu tổng quát: Tập
trung sức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành quản lý, phát huy sức
mạnh tổng hợp, linh động, sáng tạo, thực hiện hoàn thành Nghị
quyết Đại hội XVI đề ra. Cơ cấu kinh tế là: nông nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp - lâm nghiệp - dịch vụ. Đồng thời, Đại hội đã

158
đề ra một số chỉ tiêu cụ thể để thực hiện trên các lĩnh vực của
đời sống chính trị - xã hội địa phương. Trọng tâm là sản xuất
kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần trong nhân dân;
xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Đến cuối nhiệm kỳ,
tổng sản lượng lương thực đạt 1.667 tấn, bình quân lương thực
đạt 350 kg/người/năm. Giữ vững đàn gia súc từ 9.500 đến
10.000 con; phát triển đàn gia cầm. Mở rộng vùng trồng cây
nguyên liệu khoảng 200 ha. Xóa hết hộ đói, giảm 130 hộ nghèo
(còn 58 hộ). Hạ tỷ lệ tăng dân số còn 1,5%. Tỷ lệ học sinh lên
lớp và tốt nghiệp đạt 95-97%. Hoàn thành nghĩa vụ thuế đối
với Nhà nước. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa XVI gồm
11 đồng chí; đồng chí Đoàn Công Phụng tiếp tục được bầu giữ
chức Bí thư Đảng ủy xã, đồng chí Trần Văn Ngọc giữ chức
Phó Bí thư thường trực Đảng ủy xã, đồng chí Bùi Thanh Sơn
giữ chức Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; Đảng ủy
viên gồm các đồng chí: Hồ Đức Trang, Võ Duy Đối, Nguyễn
Thanh Tùng, Trương Công Đáng, Trương Quang Minh, Đỗ
Tấn Đồng, Trần Thị Liễu và Phạm Đức Phú.
Từ ngày 15 đến ngày 17/11/2000, Đại hội Đảng bộ huyện
Bình Sơn lần thứ XXIII, nhiệm kỳ 2000-2005 được tổ chức.
Đại hội xác định 9 nhiệm vụ chủ yếu, trong đó nhấn mạnh:
“Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp
toàn diện; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - xây

159
dựng, thương mại, dịch vụ theo hướng hàng hóa và xuất khẩu...
Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và các hoạt động văn
hóa - xã hội, nhằm bảo đảm nâng cao dân trí, chất lượng nguồn
nhân lực gắn với giải quyết việc làm... Giữ vững ổn định chính
trị và trật tự, an toàn xã hội; tập trung công tác tuyên truyền,
giáo dục pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa...
Tập trung xây dựng hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở vững
mạnh, nâng cao chất lượng lãnh đạo, vai trò quản lý, điều hành
và tổ chức thực hiện”51.
Từ ngày 19 đến ngày 22/4/2001, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Đại
hội đánh giá những thành tựu to lớn mà Đảng và nhân dân ta đã
giành được trong hơn 70 năm kể từ ngày Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời, lãnh đạo cách mạng Việt Nam; tổng kết 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng; 15 năm
thực hiện đường lối đổi mới và 10 năm thực hiện Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000. Trên cơ sở đánh giá tình
hình, Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm 2001-2010: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém

51
. Lịch sử Đảng bộ huyện Bình Sơn (1975-2005), Sđd, tr.303-304.

160
phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần
của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con
người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm
lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về
cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng
cao”52. Thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và
Đại hội Đảng bộ các cấp trong tỉnh là sự kiện có ý nghĩa chính
trị và lịch sử, mở ra cho địa phương một quyết tâm chính trị
mới nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã
lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2000-2005.
Trên cơ sở kế thừa, phát huy các thành quả của nhiệm kỳ
XV, Đảng bộ xã Bình Tân khẳng định việc thực hiện Nghị
quyết Đại hội lần thứ XVI trong điều kiện có nhiều thuận lợi,
đó là: Tình hình kinh tế - xã hội đất nước luôn giữ mức tăng
trưởng khá, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, phù hợp
với thực tiễn đời sống nhân dân, an ninh chính trị và và trật tự,
an toàn xã hội ổn định; nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của

52
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.159.

161
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;... các Nghị quyết
của Tỉnh ủy, Huyện ủy thông thoáng, phù hợp, mang tính đột
phá, góp phần làm chuyển biến nền kinh tế của xã; Nghị quyết
Đảng bộ xã lần thứ XV đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm
vụ và giải pháp phù hợp đã làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động. Tuy nhiên, cũng có một số khó khăn: kết cấu hạ
tầng, kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu; cơ cấu kinh tế chuyển
dịch còn chậm; chưa bảo đảm cân đối thu - chi ngân sách; huy
động nguồn lực để đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng kết cấu
hạ tầng còn khó khăn; giá cả vật tư nông nghiệp tăng cao, thời
tiết khắc nghiệt; trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý chưa đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ đổi mới. Song, với
quyết tâm cao của Đảng bộ, quân và dân xã Bình Tân đã thực
hiện đạt cơ bản các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XVI, nhiệm kỳ
2000-2005 đề ra.
Kinh tế phát triển đúng hướng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tăng tỷ trọng ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Tốc độ tăng trưởng bình
quân đạt 15,34%/năm (vượt 6,2% so với Nghị quyết Đại hội đề
ra); trong đó nông nghiệp tăng 10,5%/năm, tiểu thủ công nghiệp
- xây dựng cơ bản tăng 15%/năm, thương mại - dịch vụ tăng
10%/năm. Đến cuối năm 2005, tỷ trọng ngành nông nghiệp
chiếm 80% (đầu nhiệm kỳ là 97%), tiểu thủ công nghiệp chiếm
10% và dịch vụ chiếm 10%. Thu nhập bình quân đạt 4,3 triệu

162
đồng/người/năm, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra 1,1
triệu đồng/người/năm.
Nông nghiệp phát triển toàn diện. Sản lượng lương thực đạt
2.458 tấn, tăng 791 tấn so với năm 2000; bình quân lương thực
đạt 425 kg/người/năm, vượt 150 kg/người/năm so với Nghị
quyết Đại hội đề ra. Thực hiện chuyển đổi 135 ha lúa 3 vụ sang
2 vụ ăn chắc; 10 ha lúa năng suất thấp, hiệu quả không cao sang
trồng mía. Diện tích các loại cây hoa màu, cây họ đậu không
tăng về diện tích nhưng nhờ áp dụng giống mới có năng suất cao
và khoa học kỹ thuật nên sản lượng tăng cao so với trước đây.
Diện tích cây mía đạt 185 ha, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội
đề ra, sản lượng hằng năm đạt khoảng 12.000 tấn. Đặc biệt, triển
khai thực hiện trồng cây dưa hấu đã đem lại hiệu quả kinh tế
cao, thu hút đông đảo nhân dân thực hiện. Trong 5 năm trồng
được 90 ha rừng tập trung, 25.000 cây phân tán; tổng giá trị thu
nhập từ trồng rừng đạt khoảng 150 triệu đồng/năm.
Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi theo quy mô hộ gia đình.
Công tác cải tạo đàn gia súc, gia cầm được đẩy mạnh; tỷ lệ sind
hóa đàn bò, nạc hóa đàn heo tăng; đàn gia cầm tăng bình quân
10%/năm. Tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu ngành nông nghiệp
là 38%.
Chỉ đạo và tạo điều kiện để Hợp tác xã nông nghiệp hoạt
động theo Luật, đúng chủ trương của Đảng về đổi mới và nâng
cao hiệu quả hợp tác xã; phát huy vai trò “bà đỡ” của nông dân,

163
nhất là hỗ trợ nông dân về phân bón, thuốc bảo vệ thực vật,
giống các loại, thủy lợi, điện sản xuất và sinh hoạt cho nhân
dân.
Tiếp thu tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, Nghị
quyết của Ban Chấp hành Trung ương ngày 18/3/2002 về: Đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
thời kỳ 2001-2010; về tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao
hiệu quả kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân; đổi mới, nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn; các Nghị quyết
chuyên đề của Tỉnh ủy ngày 14/01/2002 về kiên cố hóa kênh
mương, giao thông, chuyển đổi sản xuất lúa từ 3 vụ sang 2
vụ/năm, Đảng ủy xã tập trung chỉ đạo đầu tư kết cấu hạ tầng
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các công trình thiết
yếu như: giao thông, thủy lợi, trường học, trụ sở Ủy ban nhân
dân và nhà họp ở các khu dân cư. Trong nhiệm kỳ 2000-2005,
cùng nguồn đóng góp của nhân dân, xã đã đầu tư hơn 15 tỷ
đồng, tăng gấp 2 lần so với nhiệm kỳ 1996-2000. Trong đó, về
giao thông: xã đã làm được 9 km đường nhựa, bê tông xi măng
3,2 km, nâng cấp 5 km đường đất và xây dựng 3 cầu với tổng
giá trị thực hiện đạt hơn 9 tỷ đồng; về thủy lợi: đã bê tông hóa
2 km kênh mương và xây dựng, nâng cấp, sửa chữa các hồ đập
với tổng giá trị thực hiện đạt 3,5 tỷ đồng; về các cơ sở văn hóa
- xã hội: đã xây dựng hệ thống trường tiểu học tại 3 thôn, 2 nhà
văn hóa thôn, trạm y tế, trụ sở Ủy ban nhân dân xã và Hợp tác

164
xã nông nghiệp với tổng giá trị thực hiện đạt 3 tỷ đồng. Đặc
biệt, năm 2003 xã đã huy động được 9.114 ngày công của nhân
dân và đóng góp 40% tổng giá trị công trình (cơ chế 6/4) để bê
tông hóa tuyến kênh mương Lương Nông - Hòa Tân, với chiều
dài 720 m.
Trong giai đoạn 2001-2005, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện cho công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển, như Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 3 khóa IX và Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5 khóa IX và Luật Doanh nghiệp nên đã tạo điều kiện để
các hộ dân trong và ngoài địa phương đầu tư phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đến cuối năm 2005, toàn xã có
17 cơ sở, tăng 11 cơ sở so với đầu nhiệm kỳ. Với các ngành
sản xuất như: vật liệu xây dựng, đá dăm, đá chẻ. Tốc độ tăng
trưởng bình quân đạt 12%/năm.
Dịch vụ thương mại phát triển khá. Lĩnh vực kinh doanh
chủ yếu là vận tải với 20 ôtô (trong đó có 9 ôtô tải) và 01 điểm
kinh doanh xăng dầu. Hoàn thành việc xây dựng chợ trung tâm,
tạo điều kiện cho việc giao thương hàng hóa. Các dịch vụ buôn
bán nhỏ phát triển nhanh. Dịch vụ bưu chính, viễn thông phát
triển mạnh, bảo đảm thông tin liên lạc trong nhân dân và công
tác lãnh đạo, điều hành của địa phương.
Thu ngân sách hằng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu huyện
giao. Là một xã nông nghiệp thuần túy với khoảng 95% dân số

165
sống bằng nông nghiệp nên khó khăn trong nguồn thu. Tuy
nhiên, bằng nỗ lực và quyết tâm cao trong phát triển kinh tế đa
dạng, nhất là công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại
và dịch vụ nên nguồn thu tăng nhanh. Trong nhiệm kỳ 2000-
2005, đã thu được 2.450 triệu đồng, đạt 156% so với Nghị
quyết Đại hội đề ra, cơ bản cân đối nguồn chi và có tích lũy
đầu tư cho phát triển.
Tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo.
Thực hiện việc giới thiệu việc làm cho những người trong độ
tuổi; tranh thủ các nguồn vốn vay từ các kênh hơn 1,5 tỷ đồng,
tạo điều kiện cho các hộ gia đình có nhu cầu về vốn để sản
xuất. Đến cuối nhiệm kỳ, số hộ nghèo giảm còn 8,4%.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư”. Môi trường văn hóa, các thiết chế văn hóa
được đầu tư xây dựng. Đến cuối năm 2005, toàn xã có 80% hộ
gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa; 5 cơ quan, 2/3 số thôn đạt
chuẩn văn hóa. Hoạt động thông tin, tuyên truyền, văn hóa, văn
nghệ, thể dục, thể thao được triển khai đồng bộ, sâu rộng trong
nhân dân.
Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện trở
thành phong trào sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Xã đã vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa được trên 30 triệu

166
đồng. Vận động nhân dân, gia đình đóng góp cùng sự hỗ trợ
của Nhà nước đã xây dựng được 7 nhà và sửa chữa 5 nhà tình
nghĩa, tổng giá trị thực hiện đạt 130 triệu đồng. Thực hiện cấp
thẻ bảo hiểm y tế cho đối tượng chính sách và người nghèo.
Hoàn thành thủ tục 489 hồ sơ liệt sĩ, 220 thương binh, 140 gia
đình có công. Tổng số người hưởng chế độ chính sách trên địa
bàn xã là 724 người, gồm: 310 thương binh, 18 bệnh binh, 366
liệt sĩ, 30 người bị bắt tù đày.
Công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho nhân
dân ngày càng tốt. Công tác phòng, chống suy dinh dưỡng cho
trẻ em; dân số - kế hoạch gia đình được quan tâm chỉ đạo đúng
mức. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm xuống còn 0,9%, vượt
chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
giảm mạnh.
Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục được tăng cường, ngoài 3
điểm trường tiểu học ở 3 thôn, đã xây dựng thêm trường tiểu
học tại trung tâm xã. Chỉ đạo thực hiện tốt chủ trương xã hội
hóa giáo dục; 100% trẻ em được đến trường đúng độ tuổi. Tiếp
tục đẩy mạnh phong trào dạy tốt, học tốt; tỷ lệ học sinh khá
giỏi tăng đều qua các năm; tỷ lệ học sinh đậu tốt nghiệp các
cấp đạt trên 90%. Hoàn thành công tác xóa mù chữ, phổ cập
giáo dục tiểu học và chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Năm 2005, Trường Tiểu học Bình Tân được công nhận đạt
trường chuẩn quốc gia. Cũng trong năm 2005, bậc mẫu giáo

167
tách ra khỏi Trường Tiểu học và thành lập Trường Mẫu giáo
bán công.
Về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, Đảng ủy xã xác định
đây là giai đoạn trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói chung và
huyện Bình Sơn nói riêng có những diễn biến phức tạp, nhất là
liên quan đến tôn giáo; tranh chấp đất đai; khiếu kiện đông
người; công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng; tệ nạn xã hội
(ma tuý, mại dâm, cờ bạc)... tăng nhanh tiềm ẩn phức tạp, ảnh
hưởng đến an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Trước tình hình
trên, Đảng ủy xã tập trung chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo
dục, nâng cao nhận thức và cảnh giác cho nhân dân về âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; phát động phong trào
quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc; củng cố và xây dựng lực
lượng công an, dân quân đủ số lượng và chất lượng; đẩy mạnh
công tác phối hợp tuần tra, canh gác, kiểm soát địa bàn. Đồng
thời chỉ đạo, triển khai và tổ chức thực hiện tốt các Nghị quyết
của Trung ương khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới; Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia và Nghị
quyết của Chính phủ về chương trình phối hợp với lực lượng
dân quân, tổ bảo vệ dân phố bảo đảm tình hình an ninh chính
trị và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Trưởng Công an xã là
đồng chí Hồ Đức Trang.
Quán triệt các nghị quyết của Đảng và Chính phủ về quốc
phòng; Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 31/12/2001 của Tỉnh ủy về

168
xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ cơ bản liên hoàn vững
chắc; thực hành diễn tập vận hành cơ chế theo Nghị quyết số 02-
NQ/TW của Bộ Chính trị. Xã đã xây dựng, củng cố lực lượng
dân quân đạt 2% so với dân số và bảo đảm chất lượng. Phối hợp
với công an tuần tra, kiểm tra các mục tiêu trọng điểm, phương
án sẵn sàng chiến đấu chống bạo loạn lật đổ, giữ vững an ninh
trên địa bàn. Chính sách hậu phương quân đội được duy trì
thường xuyên; động viên được quân nhân tham gia chiến đấu và
phục vụ chiến đấu; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai.
Nhiều năm liền xã Bình Tân đạt tiêu chuẩn vững mạnh toàn
diện, vững mạnh về an ninh, quốc phòng.
Thường xuyên chỉ đạo thực hiện tốt các chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về
nhiệm vụ an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Chú trọng công tác
tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân bằng nhiều hình
thức phong phú. Phát động phong trào quần chúng bảo vệ an
ninh Tổ quốc; có biện pháp mạnh để trấn áp các loại tội phạm,
xử lý kịp thời các vụ việc xảy ra. Giải quyết tốt các đơn, thư
khiếu nại, tố cáo của công dân nên tình hình luôn ổn định.
Triển khai, thực hiện quyết liệt Nghị quyết Trung ương 5
khóa IX về đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị. Trọng tâm là phân định rõ chức năng, nhiệm vụ;
xây dựng mối quan hệ đoàn kết; thực hành dân chủ trong hệ
thống chính trị theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy

169
quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng đội ngũ cán bộ thực sự
trong sạch, vững mạnh. Chính quyền chủ động thực hiện đầy đủ
chức năng quản lý nhà nước; Quy chế dân chủ ở cơ sở; khuyến
khích, động viên nhân dân tích cực tham gia xây dựng cơ sở vật
chất, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống. Đặc
biệt, liên tiếp trong các năm 2001-2004, thiên tai gây thiệt hại
lớn về tài sản, tính mạng con người, ảnh hưởng rất lớn đến thực
hiện các chỉ tiêu về phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Trong đó, nghiêm trọng nhất là cơn bão số 8 (năm 2001) làm hư
hỏng nhiều công trình giao thông, thủy lợi, trường học, nhà ở
dân cư; hàng trăm hécta lúa, hoa màu bị thất thu, thiệt hại hàng
trăm triệu đồng. Đặc biệt, sự cố vỡ đập Phụng Hoàng - một
công trình thủy lợi lớn của địa phương, có công suất tưới cho
80 ha đất sản xuất, cung cấp nước sinh hoạt cho 268 hộ gia
đình với 1.632 nhân khẩu, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản
xuất và sinh hoạt trong nhân dân. Tiếp theo, năm 2003 hạn hán
gay gắt, kéo dài, nhiều khu dân cư (Mỹ Lộc, xóm Nhất, Nhì và
Ba) thiếu nước sinh hoạt, không có nước để sản xuất, đời sống
của nhân dân lâm vào cảnh khó khăn. Địa phương đã huy động
ngày công trong nhân dân nạo vét, đắp 7 đập bổi, 45 giếng
nước, đào thêm 4 giếng mới để giải quyết khó khăn trước mắt.
Bằng tất cả quyết tâm, với tinh thần tất cả vì sản xuất và đời
sống nhân dân, xã đã tập trung các nguồn lực cùng với Nhà
nước khắc phục các hậu quả do thiên tai gây ra, đưa sản xuất

170
và đời sống vào ổn định, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu kinh
tế - xã hội hằng năm và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã đề ra
cho cả nhiệm kỳ.
Lãnh đạo thành công cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009, kéo dài đến năm 2011. Hội
đồng nhân dân xã đã bầu 25 đại biểu; đồng chí Bùi Thanh Sơn
được bầu giữ chức Chủ tịch và đồng chí Hồ Đức Trang giữ
chức Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã. Ủy ban nhân dân xã
do đồng chí Đoàn Công Phụng giữ chức Chủ tịch, đồng chí Bùi
Văn Huân giữ chức Phó Chủ tịch. Công tác quản lý, điều hành
có nhiều đổi mới, đặc biệt là thực hiện cơ chế “một cửa”; chấn
chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính; thực hiện nghiêm công tác
đánh giá cán bộ, công chức; thực hiện kịp thời chế độ, chính
sách cho cán bộ xã theo các nghị định của Chính phủ nên hoạt
động của chính quyền có nhiều tiến bộ; hiệu quả cao hơn.
Hoạt động nổi bật của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể là
vận động hội viên, đoàn viên và các tầng lớp nhân dân thực
hiện tốt hai cuộc vận động lớn: “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa ở khu dân cư” và “Ngày vì người nghèo”; thi
đua phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh. Tiếp tục đổi mới về nội dung và phương thức hoạt
động; hướng mạnh về địa bàn thôn, xóm, khu dân cư, tạo được
phong trào sôi nổi, rộng khắp, thu hút đông đảo đoàn viên, hội
viên và nhân dân tham gia. Lãnh đạo công tác xây dựng, củng

171
cố tổ chức với thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX về
công tác dân tộc, công tác tôn giáo và Nghị quyết số
04-NQ/HU của Huyện ủy khóa XXIII về công tác vận động
quần chúng và xây dựng lực lượng nòng cốt, cốt cán trong tổ
chức hội đoàn thể, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã do đồng chí Phạm Kính làm
Chủ tịch tiếp tục cùng các thành viên phát huy vai trò, chức
năng trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; tích cực tham
gia xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng tổ chức hội vững
mạnh; tham gia các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, quản
lý xã hội. Vận động nhân dân hưởng ứng thực hiện chủ trương
của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về đẩy mạnh thực
hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư”, “Ngày vì người nghèo”; qua đó huy động
trên 15,6 triệu đồng thực hiện xây dựng 5 nhà đại đoàn kết;
tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động
các nguồn lực trong nhân dân để phát triển kinh tế, thực hiện
chính sách an sinh xã hội; tham gia xây dựng Đảng, chính
quyền trong sạch, vững mạnh.
Công tác hội và phong trào phụ nữ tiếp tục phát triển. Các
hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế bằng nhiều hình thức
phong phú như: khai thác các nguồn vốn; phối hợp hướng dẫn
hội viên phát triển kinh tế gia đình. Triển khai và thực hiện tốt
việc xây dựng gia đình 4 chuẩn mực “No ấm, bình đẳng, tiến

172
bộ, hạnh phúc”; phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập,
lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Thường
xuyên giám sát thực hiện các chính sách và pháp luật liên quan
đến phụ nữ và trẻ em; kịp thời giải quyết các mâu thuẫn, bức
xúc trong hội viên phụ nữ.
Công tác đoàn, hội và phong trào thanh thiếu niên ngày
càng phát triển. Các phong trào “Thanh niên tình nguyện, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc” và “Tuổi trẻ giữ nước” tiếp tục được
đẩy mạnh. Lúc này, Đoàn Thanh niên xã do các đồng chí
Trương Quang Minh, Nguyễn Thái Học 53 lần lượt làm Bí thư
và đồng chí Phan Văn Sinh làm Phó Bí thư trực tiếp dẫn dắt
các phong trào, đã thu hút hàng trăm đoàn viên, thanh niên
tham gia. Xuất hiện nhiều gương đoàn viên và thanh niên tiêu
biểu trong thực hiện các phong trào “Thanh niên lập thân, lập
nghiệp và giữ nước”; hiến máu nhân đạo, tham gia bảo đảm an
toàn giao thông. Hưởng ứng cuộc vận động “Nghĩa tình miền
núi - hải đảo”, đoàn viên và thanh niên đã đóng góp hàng triệu

53
. Đồng chí Trương Quang Minh làm Bí thư Đoàn Thanh niên xã
đến năm 2004; từ năm 2005 đến năm 2011, Bí thư Đoàn Thanh niên xã
là đồng chí Nguyễn Thái Học.

173
đồng cùng nhiều quần áo, sách vở để giúp đỡ các trường hợp
học sinh, thanh niên khó khăn.
Hội Nông dân xã do đồng chí Trần Tiến Mai làm Chủ tịch,
đồng chí Võ Tấn Bạn làm Phó Chủ tịch. Hội Nông dân xã tiếp
tục phát huy vai trò trung tâm, nòng cốt trong phát triển kinh tế
- xã hội, nhất là phong trào “Nông dân sản xuất - kinh doanh
giỏi”, xây dựng nông thôn mới; thực hiện mô hình mỗi hội viên
nhận giúp 1-3 hộ nông dân phát triển sản xuất nên có nhiều hộ
thoát nghèo. Cùng các đoàn thể đẩy mạnh phong trào xây dựng
gia đình văn hoá; thực hiện nếp sống văn hóa, văn minh trong
việc cưới, việc tang, lễ hội; tổ chức và tham gia các phong trào
văn hóa, văn nghệ, thể thao;...
Hội Cựu chiến binh xã do đồng chí Bùi Thanh Long làm
Chủ tịch và đồng chí Quảng Tiến Sinh làm Phó Chủ tịch đã
lãnh đạo Hội thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày
08/01/2002 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác cựu chiến binh Việt Nam trong tình hình
mới”; khuyến khích Hội Cựu chiến binh và hội viên phát huy
bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”; xung kích trong giáo
dục truyền thống cho thế hệ trẻ; các phong trào hành động cách
mạng; phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo; tham gia xây
dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh; làm tròn nhiệm
vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và nhân
dân. Phối hợp thành lập Câu lạc bộ Cựu quân nhân.

174
Đảng ủy xã chủ trương thành lập Công đoàn cơ sở, Ban
thanh tra nhân dân để thực hiện các nhiệm vụ của địa phương;
đặc biệt là giám sát hoạt động của chính quyền.
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, nhiệm vụ cách mạng
đặt ra nặng nề, đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng tự đổi mới,
tự chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo. Thực hiện chỉ đạo
của Huyện ủy về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6
(lần 2) khóa VIII đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí; Nghị quyết
Trung ương 3 khóa VII và Kết luận Hội nghị Trung ương 4
khóa IX, Đảng ủy xã đã triển khai và thực hiện nghiêm túc, tạo
được sự chuyển biến mạnh mẽ, đồng bộ về nhận thức và hành
động trong Đảng bộ; phát huy dân chủ, đoàn kết trong nội bộ
Đảng và nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục phát huy
vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị;
vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp, tuyệt đối của Đảng bộ đối
với chính quyền và toàn xã hội.
Về chính trị, tư tưởng, quán triệt sâu sắc Nghị quyết Trung
ương 5 khóa IX về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý
luận trong tình hình mới; triển khai học tập các nghị quyết của
Trung ương, tỉnh, huyện và 10 Chuyên đề tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh đã thu hút 95% đảng viên tham gia học tập. Qua đó,
nâng cao được nhận thức, ý thức, trách nhiệm; kiên định, tin

175
tưởng vào chủ trương của Đảng; chính sách và pháp luật của
Nhà nước; giữ vững khối đoàn kết trong Đảng và nhân dân.
Quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ xã lần thứ XVI gắn với Nghị quyết Trung ương 6 (lần
2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về đổi mới và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn và Nghị quyết số 05-NQ/HU ngày 25/6/2001 của Huyện ủy
Bình Sơn khóa XXIII về nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến
đấu của chi bộ đảng ở địa bàn nông thôn và các khu dân cư trực
thuộc Đảng ủy xã. Đầu năm 2001, Đảng ủy xã đã thành lập các
chi bộ theo thôn, thay cho chi bộ theo đội sản xuất trước đây;
củng cố lại chi bộ dân quân; tách chi bộ nhà trường thành 2 chi
bộ: Chi bộ Trường Trung học cơ sở và Chi bộ Trường Tiểu học;
củng cố 13 tổ đảng hoạt động có hiệu quả. Sau củng cố, kiện
toàn, sinh hoạt chi bộ đi vào nền nếp hơn, chất lượng được nâng
lên. Nội dung sinh hoạt sát nhiệm vụ chính trị của địa phương và
từng địa bàn, từng lĩnh vực; đảng viên thực hiện tốt quy định
những điều đảng viên không được làm. Đoàn kết nội bộ được
tăng cường; củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo
của Đảng. Phát triển 29 đảng viên mới, đến kỳ Đại hội toàn
Đảng bộ có 108 đảng viên. Hoàn thành việc đổi thẻ cho đảng
viên trong Đảng bộ theo Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 17/10/2003
của Ban Bí thư. Đảng bộ xã Bình Tân liên tục được Huyện ủy
Bình Sơn xếp loại trong sạch, vững mạnh.

176
Tiếp tục thực hiện chương trình hành động của Huyện ủy
thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán
bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TU
khóa XVI của Tỉnh ủy về xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh,
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa54;
Đảng ủy xã tiến hành rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ; thực hiện
bổ sung quy hoạch cấp ủy nhiệm kỳ 2000-2005; quy hoạch Ban
Chấp hành Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2005-2010. Cử 19 lượt cán bộ
trong quy hoạch học các lớp đào tạo về lý luận chính trị và
chuyên môn. Lãnh đạo nhân sự bầu cử Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân xã, nhiệm kỳ 2004-2009 và kéo dài đến năm
2011 đúng quy định và đúng định hướng.
Công tác kiểm tra được tiến hành thường xuyên theo quy
định của Điều lệ Đảng; góp phần giữ vững nguyên tắc tập
trung dân chủ, nguyên tắc sinh hoạt đảng, tự phê bình và phê
bình trong Đảng; đã kịp thời giáo dục, uốn nắn không để xảy ra
vi phạm. Thực hiện đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo

54
. Xem Lịch sử Đảng bộ huyện Bình Sơn (1975-2005), Sđd, tr.340-
341 và 288.

177
của Đảng bộ; thực hiện nghiêm quy chế, chỉ đạo giải quyết kịp
thời các vấn đề nổi cộm và bức xúc của nhân dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Đảng bộ xã cũng nhận
thấy một số khuyết điểm cần tập trung khắc phục trong nhiệm
kỳ tiếp theo, đó là: Phát triển kinh tế nông nghiệp chưa bền
vững, đầu ra sản phẩm còn khó khăn. Giải quyết việc làm cho
nhân dân chưa tốt, còn thất thoát nguồn lao động. Đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân so với mặt bằng chung chưa
cao. Năng lực quản lý, điều hành của chính quyền có mặt chưa
tốt; công tác quy hoạch và sử dụng đất chưa tuân thủ đầy đủ
quy định của pháp luật, để lại hậu quả kéo dài, ảnh hưởng đến
niềm tin trong nhân dân; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các tổ
chức chính trị - xã hội còn chậm. Công tác cán bộ chưa thật sự
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, còn thiếu tính
chiến lược.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nói
chung và Đảng bộ xã nói riêng, tình hình mọi mặt của địa
phương có nhiều khởi sắc, tạo được thế và lực cho những năm
tiếp theo. Nhân dân phấn khởi và tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, điều hành của chính quyền; mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân thêm gắn bó. Đồng thời, Đảng bộ xã đã rút ra 5 bài
học kinh nghiệm sau trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện:

178
Một là, Đảng bộ và nhân dân phải giữ vững truyền thống
đoàn kết; cùng một ý chí và thống nhất trong hành động.
Hai là, thực hiện tốt chủ trương của Đảng “phát triển kinh
tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt”; khuyến
khích mọi thành phần tham gia phát triển kinh tế; lựa chọn
khâu đột phá gắn với giải quyết các vấn đề xã hội.
Ba là, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh,
xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo quần chúng, được quần chúng
tín nhiệm; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ về mọi mặt.
Bốn là, giữ vững mối quan hệ đồng thuận giữa Đảng với
nhân dân; phát huy tối đa dân chủ ở cơ sở. Phát huy vai trò và
năng lực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
và cả hệ thống chính trị, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp,
thu hút mọi nguồn lực tham gia phát triển các lĩnh vực.
Năm là, lãnh đạo thực hiện phải “tập trung” và đồng bộ
trong cả hệ thống chính trị; phải kiên quyết, triệt để gắn với
công tác kiểm tra, đôn đốc thực hiện; sơ kết, tổng kết rút kinh
nghiệm; biểu dương, khen thưởng, nhân rộng các điển hình tiên
tiến.

179
Chương VIII
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG BỘ, XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ VỮNG MẠNH; ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
(2005-2010)

Thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 06/12/2004 của Bộ


Chính trị về Đại hội Đảng các cấp, ngày 10/8/2005, Đảng bộ xã
Bình Tân tổ chức Đại hội lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2005-2010.
Đại hội đã tập trung đánh giá sự lãnh đạo của Đảng bộ trong
nhiệm kỳ 2000-2005, chỉ ra những nguyên nhân, hạn chế, yếu
kém. Trên cơ sở định hướng phát triển chung của tỉnh, huyện
và tình hình thực tế của địa phương, Đại hội đề ra mục tiêu
tổng quát cho nhiệm kỳ 2005-2010 là: Xây dựng Đảng bộ thật
sự trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh của toàn dân,
khai thác mọi tiềm năng, nguồn lực tại địa phương. Duy trì tốc
độ phát triển kinh tế cao và bền vững theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; phát triển kinh tế đi đôi với ổn định chính trị,
củng cố quốc phòng - an ninh và giải quyết tốt các vấn đề xã

180
hội nảy sinh; cải thiện môi trường xanh - sạch - đẹp, bảo vệ sức
khỏe con người. Đồng thời, Đại hội đã đề ra các chỉ tiêu chủ
yếu trong 5 năm 2005-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân đạt 12-15%/năm. Tỷ trọng các ngành kinh tế đến cuối
nhiệm kỳ: nông nghiệp chiếm 65%, thương mại - dịch vụ
chiếm 15%, tiểu thủ công nghiệp chiếm 20%. Thu nhập bình
quân đầu người đạt khoảng 8 triệu đồng/năm trở lên. Sản lượng
lương thực đạt 3.425 tấn. Thu ngân sách đạt 180-200 triệu
đồng/năm. Kiên cố hóa 5 km giao thông và 5 km kênh mương.
Hộ nghèo giảm dưới 10% theo chuẩn mới. Công tác tuyển
quân hằng năm đạt 100% chỉ tiêu. Xây dựng lực lượng dân
quân đạt 2% so với dân số. Xây dựng xã vững mạnh toàn diện
về quốc phòng, an ninh. Trong công tác xây dựng Đảng có
90% chi bộ đạt trong sạch, vững mạnh; Đảng bộ đạt trong sạch,
vững mạnh tiêu biểu. Phát triển 30-35 đảng viên.
Đại hội đã xác định 7 giải pháp chủ yếu, có tính chất
quyết định thắng lợi đến việc thực hiện Nghị quyết: Một là,
quán triệt quan điểm “phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng
Đảng là then chốt”. Tập trung mọi nguồn lực nhằm phát triển
kinh tế, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội là
cơ bản. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo
đức, lối sống tốt và giỏi nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hai là, tiếp tục
đẩy mạnh phong trào “sản xuất - kinh doanh giỏi”, ứng dụng

181
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Ba là, tập trung chỉ
đạo thực hiện nhiệm vụ có trọng tâm, trọng điểm, quá trình chỉ
đạo luôn coi trọng công tác kiểm tra. Bốn là, thực hiện chuyển
đổi mùa vụ, đưa cây trồng và vật nuôi có năng suất cao vào
sản xuất theo hướng hàng hóa, nhân rộng các mô hình tiên tiến
đưa vào sản xuất đại trà. Năm là, chú trọng phát triển lĩnh vực
văn hóa - xã hội, chăm lo sức khỏe nhân dân, đẩy lùi các tệ
nạn xã hội. Sáu là, cải cách hành chính, quản lý điều hành;
tăng cường kỷ luật kỷ cương; phát huy trách nhiệm cá nhân,
thực hiện tốt cơ chế một cửa. Bảy là, phát động mạnh mẽ
phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh của toàn dân,
của hệ thống chính trị, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2005-2010 vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa XVII gồm
13 đồng chí; 3 đồng chí vào Ban Thường vụ Đảng ủy xã. Đồng
chí Bùi Thanh Sơn được bầu giữ chức Bí thư Đảng ủy xã; đồng
chí Trần Văn Ngọc giữ chức Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy
xã; đồng chí Đoàn Công Phụng giữ chức Phó Bí thư - Chủ tịch
Ủy ban nhân dân xã.
Từ ngày 06 đến ngày 08/10/2005, Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện Bình Sơn lần thứ XXIV được tổ chức. Đại hội đã đánh
giá kết quả thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong nhiệm
kỳ XXIII; chỉ rõ những hạn chế, yếu kém trên các lĩnh vực và

182
đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn 2005-
2010, với mục tiêu tổng quát: Xây dựng Đảng bộ trong sạch,
vững mạnh, đủ sức lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện thắng
lợi các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Phát triển kinh tế
nhanh, toàn diện, bền vững và chất lượng. Phát huy tối đa và sử
dụng có hiệu quả mọi nguồn lực phục vụ chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng thương mại - dịch vụ,
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, phát triển nông nghiệp,
nông thôn toàn diện và vững chắc... Giải quyết được nhiều việc
làm cho người lao động, khuyến khích làm giàu hợp pháp, giảm
nhanh tỷ lệ hộ nghèo; phát triển văn hoá - xã hội. Nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Kết hợp chặt chẽ phát
triển kinh tế - xã hội với tiến bộ và công bằng xã hội, tăng
cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội,
tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2010”. Mục tiêu cụ thể về kinh tế: phấn đấu hằng năm giá
trị sản xuất tăng 16-17%/năm, đưa thu nhập bình quân đầu
người đạt trên 10 triệu đồng, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn
dưới 15%55.

55
. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Bình Sơn
khóa XXIII tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXIV, tr.21.

183
Từ ngày 14 đến ngày 16/12/2005, Đại hội đại biểu Đảng
bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2005-2010 được tổ
chức. Đại hội đề ra mục tiêu về kinh tế đến năm 2010: tốc độ
tăng trưởng kinh tế đạt 17-18%/năm; thu nhập bình quân đầu
người đạt 950-1.000 USD/năm; hạ tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới
20%.
Từ ngày 18 đến ngày 25/4/2006, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Đại
hội đã thảo luận và thông qua các văn kiện quan trọng. Quyết
tâm lớn của Đảng trong nhiệm kỳ là: “Nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại”56.
Sau Đại hội Đảng các cấp, Đảng ủy xã Bình Tân tập trung
xây dựng chương trình, kế hoạch để tổ chức thực hiện. Việc
triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã
lần thứ XVII trong điều kiện khá thuận lợi: Thành công tại Đại

184
hội lần thứ X của Đảng và Đại hội Đảng bộ các cấp trong tỉnh
đã mở ra cho Đảng bộ và nhân dân Bình Tân một quyết tâm
chính trị mới; kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển ổn định; hệ
thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn;
an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội ổn định; nhân dân tin
tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước; các chủ trương, nghị quyết chuyên đề của
Tỉnh ủy, Huyện ủy sát với thực tế địa phương, tạo các điều kiện
thuận lợi để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động tại địa
phương. Tuy nhiên, địa phương cũng còn một số khó khăn nhất
định, do ảnh hưởng của cơ chế thị trường, thiên tai thường
xuyên xảy ra, đặc biệt là trình độ và năng lực đội ngũ cán bộ
quản lý chưa đồng đều. Nhưng, với quyết tâm chính trị cao, sự
đoàn kết nhất trí trong Đảng, đồng thuận ngoài xã hội nên việc
triển khai và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ
XVII đã đạt những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực. Các
chỉ tiêu cơ bản do Nghị quyết Đại hội đề ra được thực hiện đều
đạt và vượt. Kinh tế có tốc độ tăng trưởng khá. Kết cấu hạ tầng
tiếp tục được đầu tư. Văn hóa - xã hội ngày càng phát triển; đời

56
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.370.

185
sống nhân dân được cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Chính
sách xã hội được thực hiện có hiệu quả. Quốc phòng - an ninh
tiếp tục được giữ vững. Công tác dân vận của Đảng, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có nhiều đổi mới.
Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, lòng
tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được nâng lên. Năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ ngày càng hiệu quả.
Giữ vững định hướng phát triển kinh tế toàn diện. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 16,4%/năm, vượt hơn 4,4%
so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra (12-15%). Cơ cấu kinh
tế chuyển dịch đúng hướng, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp,
tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp. Tỷ trọng các ngành
kinh tế đến năm 2010 cơ bản đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề
ra: công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng chiếm
20,5%, thương mại - dịch vụ chiếm 18% và nông nghiệp chiếm
61,5%. Thu nhập bình quân đạt 8,4 triệu đồng/người/năm. Đây
là thành tựu có ý nghĩa rất lớn, tạo đà phát triển kinh tế địa
phương trong giai đoạn tiếp theo.
Đối với nông nghiệp, tập trung phát triển kinh tế nông
nghiệp một cách toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi, lâm
nghiệp; ổn định diện tích lúa 2 vụ; tăng cường thâm canh giống
mới, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm tăng sản lượng
và giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích. Diện tích cây lúa
đạt 430 ha, sản lượng đạt 2.840 tấn; bình quân lương thực đạt

186
534 kg/người/năm. Một số cây lương thực khác như: ngô, mì
cũng tăng về diện tích, năng suất và sản lượng. Diện tích cây
mía thực hiện đạt 250 ha, tăng hơn 50 ha so với chỉ tiêu Nghị
quyết Đại hội đề ra, với sản lượng đạt 15.000-16.000 tấn; đặc
biệt, địa phương đã thực hiện “dồn điền đổi thửa” đối với cây
mía được 18,5 ha. Lĩnh vực nông nghiệp bước đầu thực hiện
được cơ giới hóa trong sản xuất. Nhiều hộ nông dân đã chuyển
đổi trồng một số cây trồng mới (chuối lùn, dưa hấu, cây công
nghiệp ngắn ngày), đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Chăn nuôi phát triển mạnh, bình quân tăng 5%/năm. Thực
hiện một số mô hình chăn nuôi gia súc mới (bò lai sind, bò vỗ
béo) đem lại giá trị kinh tế cao hơn trước. Mặc dù giá cả không
ổn định, dịch bệnh xảy ra nhưng tổng đàn gia súc, gia cầm vẫn
đạt trên 23.600 con. Tỷ lệ sind hóa đàn bò đạt 50%. Triển khai
thực hiện nuôi 20 ha cá nước ngọt.
Phong trào trồng cây lâm nghiệp tiếp tục phát triển. Trong
5 năm trồng được 200 ha rừng tập trung và hàng trăm nghìn
cây phân tán. Nâng tổng số rừng trồng lên 788 ha; độ che phủ
đạt 34%. Công tác quản lý đất đai, tài nguyên, môi trường có
chuyển biến tích cực. Để nhân dân yên tâm đầu tư sản xuất,
làm chủ trên mảnh đất của mình, xã đã lập hồ sơ cấp 5.055
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 969 hộ gia đình với
tổng diện tích là 702,5 ha (trong đó đất nông nghiệp là 3.395
giấy chứng nhận cho 308 hộ, với diện tích 202,3 ha; đất lâm

187
nghiệp là 1.660 giấy chứng nhận cho 661 hộ, với diện tích
500,2 ha). Công tác quản lý đất đai, tài nguyên gắn với quy
hoạch ngày càng chặt chẽ, đúng luật.
Kinh tế hộ gia đình phát triển về quy mô, tính chất và
hiệu quả. Đặc biệt, đã thành lập được 1 công ty trách nhiệm
hữu hạn, 1 doanh nghiệp và 1 trang trại; nhiều hộ gia đình đạt
danh hiệu “Sản xuất - kinh doanh giỏi”, có thu nhập cao. Các
mô hình kinh tế chủ yếu là sản xuất nông - lâm - chăn nuôi
kết hợp với sản xuất vật liệu xây dựng.
Kinh tế hợp tác xã tiếp tục phát triển. Hợp tác xã tạo các
nguồn thu và vốn tái sản xuất kinh doanh các dịch vụ về giống,
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật phục vụ sản xuất; thực hiện ký
kết với Công ty đường Quảng Ngãi tiêu thụ sản lượng mía cây
cho nông dân. Bên cạnh Hợp tác xã nông nghiệp, Bình Tân
cũng thành lập Hợp tác xã chuyên canh mía kết hợp chăn nuôi
bò. Theo đó, có 732 hộ trồng mía đều là xã viên của Hợp tác xã
với quy mô ban đầu 240 ha. Hợp tác xã huy động ngày công
của xã viên để làm một số công trình giao thông và thủy lợi
nhỏ trong vùng nguyên liệu. Hợp tác xã cung cấp vốn, nguyên
liệu dưới nhiều hình thức (tiền mặt; vật tư; phân bón; dịch vụ
làm đất, tưới tiêu, thu hoạch); khoa học kỹ thuật; theo dõi sản
xuất và hợp đồng bán mía; thu hồi vốn; thanh toán tiền bán mía
cho hộ xã viên. Từ tháng 5/2005, Chủ nhiệm Hợp tác xã là

188
đồng chí Đồng Thanh Tấn, Phó Chủ nhiệm là đồng chí Nguyễn
Tấn Minh và Trưởng Ban kiểm soát là đồng chí Đỗ Tấn Đồng.
Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phát triển
mạnh. Tổng giá trị sản xuất đến năm 2010 đạt trên 9,2 tỷ đồng;
tốc độ tăng bình quân đạt 22%/năm. Một số ngành phát triển
mạnh là: khai thác vật liệu xây dựng, gò hàn, sản xuất đá lạnh.
Tuy nhiên, khó khăn nhất của địa phương là xa các trung tâm
kinh tế, các khu công nghiệp và dân cư ít tập trung nên thiếu
tính bền vững.
Thương mại - dịch vụ tiếp tục phát triển, tốc độ tăng bình
quân đạt 17,5%/năm. Địa phương chủ trương khuyến khích huy
động các nguồn lực trong nhân dân để mạnh dạn đầu tư sản xuất
kinh doanh theo hướng đa ngành nghề, đa lĩnh vực gắn với việc
mở rộng thị trường tiêu thụ; tăng cường quản lý nhà nước và vận
dụng các cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý cho các hộ
kinh doanh, tăng sức cạnh tranh hàng hóa, sản phẩm phục vụ
nhu cầu đời sống xã hội. Toàn xã có 57 cơ sở kinh doanh, với hệ
thống chợ trung tâm, các đại lý, dịch vụ, vật tư hàng hóa hình
thành và phát triển trên khắp địa bàn; góp phần phục vụ sản xuất
và tiêu dùng trong nhân dân; giải quyết việc làm và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động tại địa phương. Tổng doanh thu
trong 5 năm đạt 37,67 tỷ đồng, doanh thu bình quân đạt 7,5 tỷ
đồng/năm. Dịch vụ bưu chính - viễn thông phát triển mạnh, có
hơn 80% hộ gia đình sử dụng điện thoại cố định và di động.

189
Thực hiện chủ trương xây dựng kết cấu hạ tầng gắn với
thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa phương; với
phương châm “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ”, trong nhiệm
kỳ 2005-2010, xã đã đầu tư hơn 3,4 tỷ đồng từ các nguồn vốn
(trong đó vốn đầu tư cơ sở dựa vào cộng đồng là 2,4 tỷ đồng)
để xây dựng một số công trình, như: Trường Trung học cơ sở
với kinh phí thực hiện là 800 triệu đồng, tường rào trụ sở Ủy
ban nhân dân xã với kinh phí thực hiện là 200 triệu đồng; tu
sửa, nâng cấp Nghĩa trang liệt sĩ với kinh phí thực hiện là 230
triệu đồng và tuyến đường Mỹ Lộc - Thuận Yên, Đại Lộc - Đại
Huệ, dài 2.000 m...
Trong nhiệm kỳ 2005-2010, mặc dù không được cấp trên
phân bổ kinh phí thực hiện bê tông hóa trong giao thông và
thủy lợi, nhưng Bình Tân đã vận dụng các nguồn vốn để thực
hiện trải bê tông các tuyến đường xóm Nhất - xóm Nhì, Hóc
Sai - Tam Phụ đáp ứng nhu cầu đi lại và sản xuất; thực hiện bê
tông tuyến kênh Hòa Tân - Đồng Soi - Bình An dài 1.200 m,
sửa chữa nâng cấp đập Mỹ Lộc, đập bổi xóm Đại Huệ và một
số đập bổi khác... Kinh phí thực hiện đạt trên 500 triệu đồng.
Hoàn thành hệ thống điện đến tận thôn, xóm, có 100% hộ được
sử dụng điện.
Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên - môi trường
được chú trọng, với nhiều hình thức phong phú. Tập trung
tuyên truyền và giáo dục pháp luật về đất đai, môi trường cho

190
nhân dân; nâng cao ý thức chấp hành và bảo vệ tài nguyên -
môi trường. Tiến hành quy hoạch sử dụng đất chi tiết đến năm
2010; quy hoạch đất ở tại 9 khu dân cư. Thực hiện quy hoạch
và lập đề án “dồn điền đổi thửa” ở 3 khu dân cư, với diện tích
21 ha; chỉnh lý 500 ha đất lâm nghiệp.
Lãnh đạo thu ngân sách đạt và vượt chỉ tiêu Nghị quyết
Đại hội và huyện giao. Tổng thu ngân sách trong 5 năm 2005-
2010 đạt trên 8,1 tỷ đồng, bình quân mỗi năm vượt thu 10% so
với Nghị quyết Đại hội đề ra. Bảo đảm cân đối thu - chi; thực
hiện nghiêm chính sách ưu tiên cho đầu tư phát triển; thực hiện
tiết kiệm, chống lãng phí.
Hoạt động xóa đói, giảm nghèo được chú trọng hơn.
Thường xuyên chỉ đạo các tổ chức chính trị - xã hội phối hợp
với các tổ chức tín dụng thực hiện tín chấp, tạo điều kiện cho
các hộ gia đình được tiếp cận các dịch vụ tín dụng, vay vốn để
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống, giải
quyết việc làm, với tổng nguồn vốn vay trên 8,9 tỷ đồng. Bình
quân mỗi năm giảm 2% hộ nghèo, đến cuối nhiệm kỳ tỷ lệ hộ
nghèo giảm còn 15,1% (vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề
ra).
Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao được triển
khai liên tục, toàn diện, có hiệu quả. Nội dung tuyên truyền
bám sát các nhiệm vụ chính trị, rõ chủ đề, góp phần nâng cao
trách nhiệm cộng đồng; hướng dẫn xây dựng đời sống văn hóa

191
trong mỗi gia đình và cộng đồng. Nhiều hoạt động như: hội thi,
hội diễn, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao được tổ
chức thường xuyên, thu hút đông đảo nhân dân tham gia.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”...
với nhiều hình thức phong phú. Cuối năm 2010, có 965 hộ gia
đình đạt chuẩn văn hóa, chiếm trên 79%; 75% thôn, 83% cơ
quan đạt chuẩn văn hóa. Các thiết chế văn hóa được tăng
cường và khá đồng bộ. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở,
tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân, góp phần ổn định
chính trị và trật tự, an toàn xã hội, phát triển kinh tế - xã hội.
Hoạt động nhân đạo, từ thiện được nhân dân đồng tình cao.
Đặc biệt, năm 2009 cơn bão số 9 đã gây thiệt hại lớn về tính
mạng, tài sản của Nhà nước và nhân dân. Toàn xã có 1 người
chết, 4 người bị thương, 9 ngôi nhà bị hư hỏng hoàn toàn, 557
ngôi nhà bị hư hỏng trên 60%, có 511 ngôi nhà bị hư hỏng 45-
55% và 40 ngôi nhà bị hư hỏng dưới 40%; trụ sở Ủy ban nhân
dân xã, thôn, xóm, nhà họp khu dân cư, trường học bị hư hỏng
nặng; hàng trăm hécta lúa, hoa màu, mía bị ngã đổ, mất hoàn
toàn sản lượng. Thiệt hại chung khoảng 15 tỷ đồng. Để khắc
phục thiệt hại do thiên tai, Đảng ủy xã đã chỉ đạo nhân dân với
tinh thần tự lực cánh sinh, phát huy tinh thần lá lành đùm lá
rách, tương thân tương ái, chia sẻ nhau trong khó khăn hoạn
nạn; cùng với nguồn hỗ trợ từ Nhà nước, các tổ chức và cá
nhân đã đóng góp được 11 tấn gạo, trên 107 triệu đồng và một

192
số mặt hàng thiết yếu khác, tổ chức thăm hỏi, giúp đỡ các gia
đình có người bị chết, bị thương, hư hỏng nặng về tài sản sớm
khắc phục, tạo dựng chỗ ở, dần ổn định sinh hoạt, sản xuất.
Tăng cường và chú trọng công tác tôn tạo và phát huy giá
trị các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh tại địa
phương. Các chính sách - xã hội ngày càng được quan tâm và
thực hiện đầy đủ, kịp thời. Tiếp tục hoàn thành 181 hồ sơ liệt
sĩ, thương binh và người có công với cách mạng, đề nghị cấp
trên giải quyết theo quy định. Vận động các “Quỹ tình nghĩa”,
“Quỹ vì người nghèo” đạt kết quả. Sửa chữa và xây dựng 5 nhà
tình nghĩa cho người có công, với trị giá là 75 triệu đồng và 59
nhà đại đoàn kết cho người nghèo, trị giá là 413 triệu đồng.
Thực hiện điều tra hộ nghèo giai đoạn 2006-2010. Chính sách
an sinh xã hội được quan tâm, động viên, giúp đỡ kịp thời các
đối tượng bảo trợ xã hội. Vận động các nguồn thực hiện nhân
đạo từ thiện gần 35 triệu đồng, giúp đỡ kịp thời các trường hợp
đau ốm, hoạn nạn, khó khăn và tăng cường tính cố kết cộng
đồng.
Hoàn thành các chương trình y tế có mục tiêu, nâng cao
chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân.
Phối hợp tuyên truyền về vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn
thực phẩm, phòng, chống HIV/AIDS và phòng chống dịch
trong nhân dân được chú trọng; không để xảy ra dịch bệnh. Đội
ngũ cán bộ, bác sĩ, y sĩ được tăng cường, đến năm 2010 có 1
bác sĩ, 1 y sĩ, 1 điều dưỡng và 2 hộ sinh. Công tác bảo vệ sức

193
khỏe sinh sản, chăm sóc trẻ em được quan tâm; tỷ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng là 18,1%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,0%.
Chỉ đạo thực hiện cuộc vận động 2 không: “Nói không với
tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục; không
vi phạm đạo đức nhà giáo và không có tình trạng học sinh ngồi
nhầm lớp” và phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”. Nhờ đó, chất lượng học tập ở các bậc
học được nâng lên rõ rệt, tăng dần tỷ lệ học sinh khá, giỏi (tiểu
học 43,6% và trung học cơ sở 42,5%). Duy trì và nâng cao kết
quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, hoàn thành phổ
cập giáo dục trung học cơ sở. Năm 2009, Trường Trung học cơ
sở được công nhận trường đạt chuẩn quốc gia; Trường Tiểu
học giữ vững danh hiệu trường chuẩn quốc gia. Số lượng con
em địa phương theo học tại các trường đại học, cao đẳng và
ngành nghề ngày càng nhiều.
Giữ vững quốc phòng và an ninh là một nhiệm vụ hết sức
quan trọng, là cơ sở để phát triển kinh tế - xã hội nên Đảng ủy
xã đã tập trung triển khai và thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ
thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm
vụ quân sự, an ninh; nhất là Chiến lược bảo vệ an ninh quốc
gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thực hành
diễn tập vận hành cơ chế theo kế hoạch của Ủy ban nhân dân
huyện; ban hành chỉ thị để lãnh đạo thực hiện; xây dựng các kế
hoạch phòng thủ, phòng, chống thiên tai, phòng, chống cháy

194
nổ... Tăng cường công tác tuyên truyền và chủ động đấu tranh
có hiệu quả chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ
của các thế lực thù địch; kịp thời ngăn chặn, xử lý các tình
huống xảy ra không để bị động, bất ngờ. Thường xuyên củng
cố xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân tại cơ sở; kiện toàn lực lượng dân quân, đạt tỷ lệ
1,5% so với dân số; đăng ký và quản lý chặt chẽ lực lượng dự
bị động viên. Qua 2 đợt kiểm tra sẵn sàng chiến đấu năm 2006
và 2009 đều đạt 100% chỉ tiêu; duy trì tốt công tác trực sẵn
sàng chiến đấu. Công tác gọi công dân nhập ngũ, công tác tập
huấn và huấn luyện hằng năm đều đạt 100% chỉ tiêu giao. Thực
hiện tốt việc đăng ký cho nam công dân tuổi 17 và đăng ký cho
công dân trong độ tuổi dân quân theo Pháp lệnh Dân quân, tự
vệ. Lập 738 hồ sơ đề nghị thực hiện chế độ cho các đối tượng
tham gia kháng chiến tại các chiến trường B, C, K theo quyết
định của Chính phủ. Trong giai đoạn này, Xã đội trưởng là
đồng chí Nguyễn Thanh Tùng.
An ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội luôn được giữ
vững, ổn định, không xảy ra vụ việc phức tạp nghiêm trọng.
Thường xuyên phối hợp với các ngành và lực lượng tổ chức tốt
các đợt phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Chỉ đạo công tác nắm tình hình hoạt động truyền đạo trái phép,
mê tín, dị đoan... gắn với triển khai thực hiện có hiệu quả công
tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm. Thế trận quốc

195
phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được củng cố
vững chắc. Công tác phối hợp tuyên truyền pháp luật; giải
quyết khiếu nại, tố cáo, công tác tiếp công dân, cải cách thủ tục
hành chính đạt kết quả tốt. Trong giai đoạn này, Trưởng Công
an xã là đồng chí Phan Thanh Hùng.
Công tác chính trị, tư tưởng được tăng cường; đổi mới về
phương pháp và hình thức tổ chức học tập, quán triệt các nghị
quyết của Đảng. Tỷ lệ đảng viên tham gia học tập các nghị
quyết của Đảng đạt trung bình trên 90%. Gắn triển khai học tập
các nghị quyết của Đảng với thực hiện cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; các chuyên đề
về tư tưởng Hồ Chí Minh;... với đẩy mạnh phong trào thi đua
yêu nước. Thực hiện tốt các cuộc thi viết tìm hiểu về Đảng, về
pháp luật trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo ý thức tự
giác và nâng cao nhận thức. Đặc biệt, việc thực hiện cuộc vận
động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã
tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động
của cán bộ, đảng viên. Đa số cán bộ, đảng viên, đoàn viên,
thanh niên, học sinh và nhân dân nhận thức sâu sắc về nội dung
cơ bản và các giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tạo sự
giác ngộ và giữ vững lập trường chính trị, đoàn kết nội bộ, rèn
luyện phẩm chất đạo đức, lối sống; đấu tranh chống các biểu
hiện sai trái, âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch, củng cố thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào

196
công cuộc đổi mới đất nước; nhất là cấp ủy, chính quyền địa
phương; góp phần hoàn thành các nhiệm vụ chính trị của địa
phương.
Thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Thường xuyên kiện toàn tổ
chức bộ máy trong hệ thống chính trị, cơ bản đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ. Thông qua thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW
ngày 02/02/2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng gắn
với thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 30/3/2007 của Ban Bí
thư về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, các chi bộ đã giữ
vững và phát huy được vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị đối
với toàn bộ hệ thống chính trị; ý thức chấp hành, nguyên tắc
sinh hoạt đảng, chấp hành Điều lệ Đảng của tổ chức và đảng
viên được nâng lên. Tổ chức cơ sở đảng trực thuộc đạt trong
sạch, vững mạnh hằng năm đạt 90%; đảng viên đủ tư cách
hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt trên 85%, trong đó đảng viên đủ tư
cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm 15%. Phát triển được
35 đảng viên mới, đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra.
Thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 07/5/2007 của
Tỉnh ủy về phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2007-2010 và
định hướng đến năm 2015 và Đề án công tác cán bộ của Huyện
ủy, Đảng ủy xã đã rà soát đội ngũ cán bộ, bổ sung quy hoạch,
bảo đảm theo hướng dẫn của Huyện ủy. Trong nhiệm kỳ, Đảng

197
ủy xã đã cử 15 lượt cán bộ đào tạo về chính trị và chuyên môn
để đạt chuẩn cán bộ, công chức; cử cán bộ trong nguồn quy
hoạch tham gia các lớp bồi dưỡng về chuyên môn do tỉnh và
huyện tổ chức. Công tác đánh giá cán bộ hằng năm bảo đảm
công khai, dân chủ, khách quan, trung thực. Công tác bảo vệ
chính trị nội bộ được chú trọng, góp phần phục vụ công tác
phát triển đảng viên mới và quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ. Công
tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng được thực hiện
nghiêm túc, góp phần hạn chế các sai phạm của tổ chức đảng
và đảng viên.
Thực hiện đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị bằng các chủ trương, định
hướng lớn; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; coi trọng
công tác kiểm tra, giám sát; phân công trách nhiệm cho từng cá
nhân trong Ban Thường vụ và Ban Chấp hành; sơ kết, tổng kết
thường xuyên.
Hội đồng nhân dân xã từng bước đổi mới được nội dung và
phương pháp tổ chức thực hiện. Phát huy được vai trò và vị trí
của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất tại địa phương. Hoạt
động quản lý, điều hành của chính quyền khá tốt; các chỉ tiêu
kinh tế - xã hội đều đạt và vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề
ra. Thực hiện cơ chế “một cửa”; giải quyết nhanh các thủ tục
hành chính cho các tổ chức và công dân; xây dựng đội ngũ cán
bộ vì nhân dân phục vụ; siết chặt kỷ cương, kỷ luật hành chính,

198
giữ vững sự nghiêm minh của pháp luật. Đặc biệt, phát huy dân
chủ trong nhân dân với phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” trong công tác quản lý kinh tế và xã hội; do
vậy các chủ trương, nhiệm vụ của địa phương được nhân dân
đồng tình hưởng ứng và thực hiện hiệu quả.
Công tác dân vận của hệ thống chính trị và hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có chuyển biến tích cực.
Đảng ủy xã đã chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tổ
chức Đại hội hết nhiệm kỳ; củng cố, kiện toàn tổ chức bảo đảm
hoạt động có hiệu quả, đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới.
Trong nhiệm kỳ này, tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và
các hội đoàn thể cơ bản giữ ổn định so với nhiệm kỳ trước;
riêng Hội Phụ nữ xã do đồng chí Nguyễn Thị Phước làm Chủ
tịch.
Nhiệm vụ trọng tâm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
là: Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng về đại
đoàn kết toàn dân; xây dựng và phát huy vai trò, trách nhiệm
của lực lượng nòng cốt; giám sát và phản biện xã hội; tham gia
xây dựng Đảng, chính quyền. Đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động theo hướng sát thực tế, gắn với hiệu quả và
trách nhiệm; khắc phục cơ bản bệnh “hành chính hóa” công
việc và “công chức hóa” cán bộ. Cụ thể hóa các chương trình,
nhiệm vụ của cấp trên và của Đảng ủy xã thành kế hoạch thực
hiện sát với tôn chỉ, mục đích hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội; sát với lợi ích của cộng đồng

199
xã hội; động viên các tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống
yêu nước, thi đua phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã Bình
Tân vững mạnh về mọi mặt. Nhiều phong trào đã đi vào cuộc
sống, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia và đạt kết quả
cao; tiêu biểu là các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, trọng tâm là xây dựng
“khu dân cư 6 không” và “họ tộc 3 không”; “Ngày vì người
nghèo”; “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”. Thông qua đó, biểu dương
sức mạnh của toàn dân trong phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận an
ninh nhân dân vững chắc; tham gia xây dựng Đảng, chính
quyền trong sạch, vững mạnh. Phối hợp cùng chính quyền thực
hiện chính sách an sinh xã hội, động viên kịp thời nhân dân,
nhất là các gia đình chính sách, khó khăn. Các phong trào
“Nông dân sản xuất - kinh doanh giỏi”; “Phụ nữ tích cực học
tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”; “4 đồng
hành cùng thanh niên lập thân, lập nghiệp; “5 xung kích phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc”; “Thi đua xóa đói
giảm nghèo, hội viên gương mẫu, gia đình hội viên tiêu biểu”
cùng hoạt động thiết thực của Công đoàn cơ sở, Hội chữ thập
đỏ, Hội khuyến học, Hội Cựu thanh niên xung phong, Hội Tù
yêu nước... đã góp phần tích cực hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm
vụ chính trị do Đại hội Đảng bộ xã đề ra.
Tuy nhiên, Đảng ủy xã Bình Tân cũng nhận thấy rằng,
trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại

200
hội vẫn còn một số hạn chế: kinh tế phát triển nhưng chưa bền
vững; đời sống của một bộ phận nhân dân so với mặt bằng
chung còn thấp; công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể có mặt chưa đáp ứng yêu cầu.
Từ kết quả và hạn chế nêu trên, Đảng bộ xã Bình Tân rút
ra một số bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo và tổ chức thực
hiện Nghị quyết Đại hội XVII, nhiệm kỳ 2005-2010, như sau:
Một là, giữ vững và phát huy truyền thống đoàn kết, nhất
trí cao trong Đảng và nhân dân, trước hết là trong Ban Chấp
hành, Ban Thường vụ. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng, trong hệ thống chính trị; chống chủ nghĩa cá nhân;
đề cao kỷ luật, kỷ cương gắn với tinh thần và trách nhiệm dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng
viên.
Hai là, bám sát đường lối, chủ trương của Đảng và vận
dụng sáng tạo vào thực tiễn địa phương. Trong lãnh đạo, chỉ
đạo phát triển kinh tế phải bám sát quy hoạch, kế hoạch, có
biện pháp và giải pháp cụ thể; coi trọng ứng dụng khoa học kỹ
thuật trong sản xuất.
Ba là, chính quyền phải cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội
thành chương trình, kế hoạch cụ thể; trong thực hiện phải xác
định trọng tâm, trọng điểm; thường xuyên đôn đốc, kiểm tra
thực hiện; coi trọng công tác sơ kết, tổng kết để rút kinh

201
nghiệm, bổ sung giải pháp khắc phục thiếu sót và tổ chức thực
hiện bảo đảm Nghị quyết Đại hội đi vào cuộc sống.
Bốn là, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ, năng
lực và phẩm chất chính trị, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Phát huy
vai trò cá nhân, cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu trong
thực hiện nhiệm vụ được giao. Xây dựng Đảng thật sự trong
sạch, vững mạnh, là hạt nhân lãnh đạo quần chúng, được quần
chúng tín nhiệm.
Năm là, thực hiện tốt dân chủ, tạo sự đồng thuận và nhất trí
cao trong nội bộ Đảng và quần chúng nhân dân. Phát huy dân
chủ trong nhân dân. Nâng cao vai trò và năng lực của hệ thống
chính trị từ xã đến tận thôn, xóm.
Những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ 2005-2010 là sự
cổ vũ, động viên để Đảng bộ và nhân dân xã Bình Tân vững
vàng tiến bước vào thời kỳ xây dựng, phát triển mới, chung sức
cùng cả huyện phấn đấu đến năm 2015 thành huyện khá nhất
tỉnh về kinh tế - xã hội.

202
Chương IX
TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ, XÂY DỰNG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VỮNG MẠNH; THỰC
HIỆN ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI (2010-
2015)

Thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 04/8/2009 của Bộ


Chính trị về Đại hội Đảng các cấp, ngày 24/6/2010, Đảng bộ xã
Bình Tân tổ chức Đại hội lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2010-2015.
Đại hội đã tập trung đánh giá sự lãnh đạo của Đảng bộ xã trong
nhiệm kỳ 2005-2010, chỉ ra những nguyên nhân, hạn chế, yếu
kém và đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp
nhằm lãnh đạo phát triển địa phương trên các mặt đến năm
2015 với mục tiêu tổng quát: Xây dựng Đảng thật sự trong
sạch, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng; phát huy
sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; khai thác mọi tiềm
năng, nguồn lực ở địa phương; duy trì tốc độ phát triển kinh tế
cao và bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

203
nước; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân;
giữ vững ổn định chính trị - xã hội; bảo đảm quốc phòng - an
ninh. Đại hội đã đề ra các chỉ tiêu chủ yếu trong 5 năm 2010-
2015:
- Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 17-
17,5%/năm. Trong đó: nông nghiệp tăng 5-6%, công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp tăng 24,5-25% và thương mại - dịch vụ
tăng 21%. Tỷ trọng ngành kinh tế: thương mại - dịch vụ chiếm
20-21%, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm 23-24%,
nông nghiệp chiếm 50-55%. Độ che phủ rừng đạt 45-50%. Thu
nhập bình quân đầu người đạt 14,5-15 triệu đồng/năm. Tổng
đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đạt khoảng 25 tỷ đồng.
- Về văn hóa - xã hội: Trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia.
Xây dựng 1 trường mẫu giáo đạt chuẩn quốc gia. Giảm tỷ lệ hộ
nghèo bình quân 1%/năm (theo chuẩn mới). Tốc độ tăng dân số
tự nhiên không quá 1%. Giải quyết việc làm cho 500 lao động.
Có 90% thôn, 80-85% hộ gia đình đạt danh hiệu văn hóa.
- Về quốc phòng - an ninh: Phấn đấu đơn vị mạnh về quốc
phòng - an ninh. Tỷ lệ dân quân đạt 1,5-2% so với dân số. Giao
quân đạt 100% chỉ tiêu hằng năm.
- Về xây dựng Đảng: Xây dựng Đảng bộ xã đạt trong sạch,
vững mạnh. Tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên

204
đạt trên 70-85%. Phát triển được 40 đảng viên mới. Hoàn thành
biên soạn “Lịch sử Đảng bộ xã, giai đoạn 1975-2015” 57.
Đại hội cũng xác định hai đột phá là: Xây dựng kết cấu hạ
tầng và đào tạo nguồn nhân lực, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản
lý. Đồng thời, xác định các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để
lãnh đạo thực hiện trong cả nhiệm kỳ:
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế toàn diện và bền vững theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó, phát triển
nông nghiệp theo hướng hàng hóa gắn với thị trường; sử dụng
hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai; ứng dụng khoa học kỹ
thuật; thâm canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và con vật nuôi
nhằm tăng năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế. Tập trung
phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phục vụ nông
nghiệp, mở rộng các hình thức sản xuất, quy mô và các ngành
nghề thu hút nhiều lao động và sử dụng nguồn nguyên liệu tại
địa phương.
- Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội là nhiệm vụ chủ yếu,
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Tranh thủ nguồn

57
. Xem “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Bình
Tân tại Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2010-2015”, tháng
6/2010.

205
lực đầu tư của Nhà nước để hoàn thiện hạ tầng, nhất là hạ tầng
trọng điểm về giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, chợ...
- Phát triển thương mại - dịch vụ làm đòn bẩy phát triển
kinh tế. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, tổ
chức và cá nhân đầu tư mở rộng, đa dạng hóa các loại hình
dịch vụ, phục vụ nhu cầu xã hội.
- Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về đất đai, tài
nguyên, môi trường; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho nhân dân.
- Thu ngân sách đạt và vượt chỉ tiêu giao. Phấn đấu cuối
nhiệm kỳ tăng 1,5 lần so với nhiệm kỳ trước.
- Chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo; tăng cường ứng
dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ; chăm lo phát triển văn
hóa, con người, thực hiện công bằng xã hội và an sinh xã hội.
- Tăng cường quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội và trật tự, an toàn xã hội.
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh.
Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng
Đảng bộ xã đạt trong sạch, vững mạnh.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa XVIII
gồm 17 đồng chí. Đồng chí Trương Quang Minh được bầu giữ
chức Bí thư Đảng ủy xã; đồng chí Võ Duy Đối giữ chức Phó Bí

206
thư thường trực Đảng ủy xã; đồng chí Bùi Văn Huân giữ chức
Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.
Từ ngày 20 đến ngày 22/8/2010, Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện Bình Sơn lần thứ XXV được tổ chức. Đại hội đánh giá
những kết quả đạt được trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính
trị; chỉ rõ những hạn chế, yếu kém trên các lĩnh vực và đề ra
phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn 2010-2015
với mục tiêu tổng quát: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền
vững, phấn đấu xây dựng huyện Bình Sơn đến năm 2015 trở
thành huyện khá nhất trong tỉnh về kinh tế - xã hội. Đại hội đã
đề ra mục tiêu cụ thể: Tốc độ phát triển kinh tế bình quân đạt
16-17%/năm. Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2015 đạt
khoảng 28-30 triệu đồng; tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 8% 58.
Tiếp đến, từ ngày 20 đến ngày 23/10/2010, Đại hội đại
biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2010-

58
. Xem “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Bình
Sơn khóa XXIV tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXV”,
tháng 8/2010, tr.19-20.

207
2015 được tổ chức. Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện
Nghị quyết Đại hội lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2005-2010, Đại hội
đề ra mục tiêu chung đến năm 2015: Tiếp tục nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng các tổ
chức trong hệ thống chính trị các cấp vững mạnh, phát huy sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; huy động và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; chăm lo phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục và đào tạo,
thực hiện tốt chính sách xã hội nhằm nâng cao đời sống nhân
dân; bảo vệ tài nguyên, môi trường, tăng cường quốc phòng -
an ninh, giữ vững ổn định chính trị, xã hội; tạo nền tảng để đến
năm 2020 Quảng Ngãi trở thành tỉnh công nghiệp. Đại hội đề
ra chỉ tiêu cụ thể về kinh tế đến năm 2015: tốc độ tăng trưởng
kinh tế bình quân đạt 14-15%/năm, thu nhập bình quân đầu
người đạt 2.100-2.200 USD; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân
mỗi năm 3 - 4%...59.
Từ ngày 12 đến ngày 19/01/2011, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Đại

59
. Xem “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng
Ngãi lần thứ XVII trình tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII”,
tháng 10/2010.

208
hội đã thảo luận và thông qua các văn kiện quan trọng không
chỉ có ý nghĩa trước mắt mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài
đối với sự phát triển của đất nước ta, như: Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2011-2020, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI và Điều
lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội này có ý nghĩa trọng đại
định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại60.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và
Nghị quyết Đại hội lần thứ XVIII, Đảng bộ và nhân dân xã
Bình Tân đạt những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực:
Kinh tế phát triển đúng định hướng, theo cơ cấu nông nghiệp,
thương mại - dịch vụ và công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Tốc
độ tăng trưởng bình quân đạt 10,14%/năm; trong đó, nông nghiệp

60
. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.149.

209
tăng bình quân 24,1%, thương mại - dịch vụ tăng 18,7% và công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng trên 13%. Đến cuối năm 2015,
tổng giá trị các ngành kinh tế đạt trên 367,7 tỷ đồng, trong đó:
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 53 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng
14,4%; thương mại - dịch vụ đạt 57,7 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng
15,7% và nông nghiệp đạt 257 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 69,9%.
Thu nhập bình quân đầu người đạt trên 16,2 triệu đồng/năm, tăng
gấp 2 lần so với đầu nhiệm kỳ và tăng 1,2 triệu đồng/người/năm
so với Nghị quyết Đại hội đề ra.
Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp mặc dù bị thiên tai
liên tiếp xảy ra, giá cả mặt hàng nông sản thấp nhưng Đảng ủy
xã vẫn nắm vững phương châm trong lãnh đạo phát triển kinh
tế nông nghiệp, đó là: phát triển kinh tế nông nghiệp một cách
toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi; thực hiện quy hoạch lại
vùng sản xuất, xác định cây trồng chủ lực, ổn định diện tích lúa
hằng năm là 536 ha; tăng cường thâm canh giống mới, đưa
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng sản lượng và giá trị thu
nhập trên một đơn vị diện tích nên tổng sản lượng lương thực
đạt 16.591 tấn, năng suất bình quân đạt 60 tạ/ha, bình quân
lương thực đạt 608 kg/người/năm.
Chăn nuôi phát triển mạnh theo hướng tập trung, mô hình
kiểu trang trại. Chỉ đạo cải tạo đàn gia súc, gia cầm theo hướng
lai sind, nạc và siêu thịt, siêu trứng nhằm đáp ứng nhu cầu thị
trường. Đến năm 2015, tổng đàn gia súc có 7.389 con, trong đó

210
đàn bò có 3.776 con, với tỷ lệ bò lai sind chiếm trên 50% tổng
đàn; đàn gia cầm có 17.000-18.000 con. Tổng giá trị đàn gia súc,
gia cầm xuất chuồng đạt khoảng 65 tỷ đồng, góp phần đưa
ngành chăn nuôi phát triển thành ngành sản xuất chính.
Công tác trồng và chăm sóc rừng được quan tâm đúng mức.
Trong 5 năm 2010-2015, xã đã trồng được 433 ha rừng, nâng
tổng diện tích rừng sản xuất lên 1.032 ha. Đặc biệt, nhân dân đã
thực hiện trồng một số loại cây có giá trị kinh tế cao như: keo lai,
xà cừ, sao đen. Độ che phủ rừng đạt 45%. Sản lượng gỗ khai thác
đạt 20.405 tấn, với tổng giá trị thực hiện đạt trên 17 tỷ đồng.
Công tác quản lý nhà nước về quy hoạch, sử dụng đất đai
đều tuân thủ đúng quy định pháp luật. Để thực hiện phát triển
kinh tế nhanh và bền vững, thực hiện các quyền lợi cho nhân
dân, năm 2011 Đảng ủy xã đã ban hành Nghị quyết chuyên đề
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý
đất đai trên địa bàn xã giai đoạn 2011-2015, nhằm đáp ứng các
yêu cầu về mở rộng khu kinh tế Dung Quất và chủ trương xây
dựng nông thôn mới; bảo đảm lợi ích thiết thực của tổ chức, cá
nhân. Trên cơ sở nghị quyết được ban hành, xã Bình Tân đã
xây dựng quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử
dụng đất chi tiết giai đoạn 2011-2015; tập trung tuyên truyền
và hướng dẫn nhân dân lập thủ tục, đăng ký để được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Trong nhiệm kỳ
2010-2015, xã đã cấp được 1.873 giấy chứng nhận quyền sử

211
dụng đất cho nhân dân; đồng thời, chú trọng cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giải quyết các quyền lợi cho nhân dân
trong vùng dồn điền đổi thửa để nhân dân yên tâm sản xuất.
Kinh tế tập thể luôn được Đảng ủy, chính quyền xã quan
tâm chỉ đạo, tạo mọi điều kiện để hợp tác xã nông nghiệp hoạt
động có hiệu quả. Các lĩnh vực hoạt động của hợp tác xã là
cung ứng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, quản lý và phục vụ
thủy lợi. Hợp tác xã chuyên canh mía tập trung hỗ trợ các dịch
vụ phát triển vùng nguyên liệu và tiếp tục ký kết với Công ty
Đường Quảng Ngãi mua nguyên liệu cho nông dân, bảo đảm
tiêu thụ hết sản phẩm. Nhìn chung, hợp tác xã đã thực hiện khá
tốt vai trò trong hỗ trợ nông dân sản xuất.
Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phát triển ổn
định với một số lĩnh vực: khai thác đá đen, đá chẻ, gỗ dăm; gò
hàn sắt, mộc, xây dựng. Đến cuối năm 2015, tổng doanh thu
bình quân đạt 9-9,5 tỷ đồng/năm. Thương mại - dịch vụ tiếp tục
phát triển; đã vận động nhân dân mạnh dạn đầu tư vào kinh
doanh theo hướng đa ngành nghề, phù hợp với xu hướng phát
triển và mở rộng thị trường tiêu thụ, tạo cơ chế thông thoáng,
tăng sức cạnh tranh các loại hàng hóa, sản phẩm, góp phần bình
ổn giá thị trường. Tập trung chủ yếu là kinh doanh xăng dầu, vận
tải, vật liệu xây dựng, cây lâm nghiệp, vật tư nông nghiệp và ăn
uống, giải khát. Cuối năm 2015, có 134 cơ sở kinh doanh, với
doanh thu đạt 48,2 tỷ đồng và chiếm 18,7% tổng giá trị kinh tế.

212
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tiếp tục được tăng cường.
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, cùng với nguồn vốn do Nhà nước
hỗ trợ và nhân dân đóng góp, xã đã xây dựng 7 công trình lớn
với tổng số vốn là 22,6 tỷ đồng, trong đó: xây cầu, đường Đại
Huệ với kinh phí là 1,8 tỷ đồng, cầu xóm Vườn với kinh phí là
1,5 tỷ đồng, đường Tịnh Phong đi Tịnh Hòa với kinh phí là 7 tỷ
đồng, đường trạm bơm 1 đi kinh tế mới Bình Phú với kinh phí
là 5,7 tỷ đồng, nhà Văn hóa xã với kinh phí là 1 tỷ đồng, nhà
Văn hóa thôn Nhơn Hòa 2 với kinh phí là 1,1 tỷ đồng và Trạm
Y tế với kinh phí là 4,5 tỷ đồng. Ngoài ra, nhân dân còn đóng
góp 2 tỷ đồng để làm kênh mương và giao thông nội đồng, làm
đường trong thôn, xóm.
Hệ thống điện tiếp tục được đầu tư, nâng cấp, bảo đảm
cung cấp điện sinh hoạt an toàn cho 100% hộ gia đình. Hạ tầng
bưu chính - viễn thông được nâng cấp, mở rộng và phủ sóng
cáp quang, internet đến tận thôn, xóm.
Đặc biệt, từ năm 2013 Đảng ủy xã thành lập ban chỉ đạo,
ban quản lý, chỉ đạo rà soát, đánh giá thực trạng làm cơ sở xây
dựng đồ án xây dựng nông thôn mới, giai đoạn 2011-2015 và
định hướng đến năm 2020. Năm 2014, xã Bình Tân triển khai
thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới, giai đoạn 2011-2015 theo đề án đã được Ủy ban nhân dân
huyện Bình Sơn phê duyệt; phát động phong trào “Bình Tân
chung sức xây dựng nông thôn mới”. Trong nhiệm kỳ, đã hoàn

213
thành được 9/19 tiêu chí, gồm: quy hoạch, điện nông thôn, bưu
điện, nhà ở dân cư, tỷ lệ lao động thường xuyên, hình thức tổ
chức sản xuất, giáo dục, y tế, an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
Thu ngân sách đều đạt và vượt chỉ tiêu giao. Xã đã thực
hiện tốt việc quản lý và sử dụng ngân sách bảo đảm theo quy
định của pháp luật; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, cân đối
được ngân sách, bảo đảm chi thường xuyên và tiết kiệm một
phần đầu tư cho phát triển, nhất là các công trình trong thực
hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Hoạt động văn hóa, thông tin, tuyên truyền đáp ứng được
các nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Nhiều hoạt động như:
hội thi, hội diễn, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao
được thực hiện thường xuyên, thu hút đông đảo nhân dân tham
gia. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” ngày càng đi vào chiều sâu, chất lượng ngày càng cao.
Đến cuối năm 2015, toàn xã có 85% khu dân cư; 83% cơ quan
đạt tiêu chuẩn văn hóa. Năm 2013, xã tổ chức thành công đại
hội thể dục thể thao lần thứ nhất, với nhiều bộ môn thi đấu, thu
hút đông đảo nhân dân tham gia, tạo được phong trào sôi nổi.
Công tác bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử tiếp tục được
quan tâm. Ngày 13/6/2011, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
đã ban hành Quyết định số 839/QĐ-UBND về việc xếp hạng di
tích lịch sử: Căn cứ huyện Đông Sơn (Cấm Ông An Tráng) tại
thôn Nhơn Hòa 1. Đây là căn cứ cách mạng của huyện Đông

214
Sơn từ năm 1970-1975, gồm cơ quan Huyện ủy và các cơ quan
huyện Đông Sơn để lãnh đạo lực lượng vũ trang và nhân dân
Đông Sơn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho đến ngày giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; Quyết định số
842/QĐ-UBND công nhận di tích mộ và nhà thờ bà Võ Thị Đệ,
một chí sĩ yêu nước tiêu biểu trong phong trào chống thực dân
Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (Hộ quốc mẫu nghi) tại
thôn Nhơn Hòa.
Các chính sách xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời.
Năm 2013, xã tổ chức giỗ liệt sĩ quy mô lớn, đây là một hình
thức mới, thể hiện sự tri ân của các thế hệ sau với các liệt sĩ đã
hy sinh vì Tổ quốc. Vận động nguồn đóng góp của nhân dân
cùng hỗ trợ của Nhà nước xây dựng được 40 nhà ở cho đối
tượng chính sách, trị giá 1.310 triệu đồng; sửa chữa 17 nhà,
tổng giá trị thực hiện 184 triệu đồng. Vận động quỹ tình nghĩa
được 100 triệu đồng. Thực hiện đầy đủ chế độ cho 576 đối
tượng chính sách, tăng 117 đối tượng so với đầu nhiệm kỳ.
Chính sách đối với các đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội
theo quy định của Nhà nước cũng được quan tâm thực hiện chu
đáo. Chương trình giảm nghèo thực hiện có hiệu quả: vận động
quỹ vì người nghèo được 60 triệu đồng; xây dựng được 28 nhà,
với trị giá 702 triệu đồng. Tiếp tục chỉ đạo các đoàn thể tín
chấp, tạo điều kiện cho 576 hộ gia đình vay trên 11,5 tỷ đồng

215
để phát triển sản xuất. Nhờ vậy, hộ nghèo giảm từ 16,83% (211
hộ) vào cuối năm 2010 xuống còn 7,56% (99 hộ); trung bình
mỗi năm giảm 2,32%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra
(1%/năm).
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được tăng
cường. Các chương trình mục tiêu y tế quốc gia, y tế cộng đồng
thực hiện hiệu quả. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi quy định được
tiêm chủng đạt 100%. Công tác phòng, chống dịch, các bệnh xã
hội, bệnh truyền nhiễm được phòng ngừa và quản lý chặt chẽ.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường được
quan tâm đúng mức. Đặc biệt, từ khi xây dựng mới Trạm Y tế
xã và trang bị thêm một số thiết bị y tế thì công tác chăm sóc
sức khỏe cho nhân dân ngày càng tốt hơn, trung bình mỗi năm
khám và chữa bệnh cho 3.500 lượt người. Năm 2015, Trạm Y
tế xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế. Thực hiện tốt mục tiêu giảm
sinh, tỷ lệ tăng dân số còn 1%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em
dưới 5 tuổi giảm còn dưới 15%.
Tiếp tục được nâng cao chất lượng giáo dục. Chỉ đạo thực
hiện cuộc vận động 2 không: “Nói không với tiêu cực trong thi
cử và bệnh thành tích trong giáo dục; không vi phạm đạo đức
nhà giáo và không có tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp” và
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực”. Duy trì và nâng cao chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học;
chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; hoàn

216
thành chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Triển khai thực
hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Hằng năm huy động trẻ
em đủ tuổi ra lớp đạt 100%; tỷ lệ trẻ em hoàn thành chương
trình tiểu học đạt 100%, trung học cơ sở đạt 97% trở lên. Ở các
bậc học, tỷ lệ học sinh khá, giỏi năm học sau tăng hơn năm học
trước; nhiều em đạt giải học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. Đội
ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn.
Trường mẫu giáo chuyển từ hệ bán công sang hệ công lập vào
năm 2011. Trường tiểu học và trung học cơ sở giữ vững danh
hiệu trường chuẩn quốc gia mức độ 1. Công tác khuyến học,
khuyến tài được quan tâm, qua đó đã hỗ trợ và động viên được
nhiều học sinh có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong học tập.
An ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội cơ bản được giữ
vững, ổn định. Thường xuyên chỉ đạo xây dựng nền quốc
phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; luôn chủ
động đề cao cảnh giác cách mạng, nhận thức rõ âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Thường
xuyên chỉ đạo củng cố, kiện toàn lực lượng công an và quân sự
bảo đảm đủ về số lượng và chất lượng. Đồng thời thực hiện tốt
cơ chế vận hành của hệ thống chính trị: Đảng lãnh đạo, Nhà

217
nước quản lý, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội, lực lượng công an và quân sự làm tham
mưu nên phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển mạnh.
Tập trung củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và lực lượng
công an xã đến các thôn và tổ an ninh ở khu dân cư. Tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 17/12/1998 của Bộ
Chính trị khóa VIII về chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia; Nghị
quyết Trung ương 8 khóa IX về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc
gia; Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 28/10/2012 của Bộ Chính trị về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống
tội phạm trong tình hình mới; Chỉ thị số 09-CT/TW ngày
01/12/2011 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình
hình mới; các chủ trương, nghị quyết về thực hiện chính sách đại
đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo; phòng, chống tội phạm
trong thanh thiếu niên, các biện pháp kiềm chế tai nạn giao
thông... Qua đó, lực lượng công an đã đấu tranh có hiệu quả và
chủ động phòng ngừa, kiềm chế sự gia tăng đối với một số loại
tội phạm nguy hiểm, tội phạm ma túy, tai nạn giao thông và các
loại tội phạm khác.
Thực hiện có hiệu quả các nghị quyết liên tịch giữa công an
với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong công
tác phòng, chống tội phạm. Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc, củng cố và nâng cao chất lượng các tổ chức

218
quần chúng làm công tác bảo đảm an ninh và trật tự, an toàn xã
hội tại từng khu dân cư. Phát động và tổ chức đăng ký thực hiện
thôn, khu dân cư và gia đình bảo đảm an ninh trật tự. Qua đó,
có 1.444 hộ gia đình với 5.576 khẩu đăng ký thực hiện, tạo
phong trào mạnh mẽ trong nhân dân. Thực hiện giải quyết cơ
bản các yêu cầu, khiếu nại của công dân, góp phần ổn định tình
hình mọi mặt của địa phương. Từ năm 2011, Trưởng Công an
xã là đồng chí Bùi Viết Trung.
Công tác quân sự - quốc phòng địa phương luôn được chú
trọng. Ban chỉ huy quân sự thường xuyên phối hợp với Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tuyên truyền trong nhân
dân, đoàn viên và thanh niên về Luật Nghĩa vụ quân sự, Pháp
lệnh Dân quân, tự vệ, về truyền thống vẻ vang của Quân đội
nhân dân Việt Nam. Qua đó, giáo dục cho nhân dân, nhất là
đoàn viên, thanh niên về trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ Tổ
quốc, từ đó tạo ý thức tự giác trong đoàn viên và thanh niên. Tổ
chức chăm lo, kiện toàn lực lượng dân quân, tự vệ về mọi mặt.
Xây dựng lực lượng dân quân đạt 1,12% so với dân số; quản lý
và vận động lực lượng dự bị động viên, dân quân tại chỗ, dân
quân cơ động tham gia huấn luyện, diễn tập đạt 100% chỉ tiêu;
được huyện đánh giá cao. Công tác gọi công dân nhập ngũ luôn
hoàn thành và vượt chỉ tiêu giao. Các năm 2012, 2014 và 2015,
xã Bình Tân được Ủy ban nhân dân huyện Bình Sơn khen

219
thưởng về thành tích tuyển quân. Xã đội trưởng là đồng chí
Nguyễn Quốc Vương.
Xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới. Công tác chính trị,
tư tưởng được tăng cường. Đảng ủy xã đã phát huy đầy đủ
trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị địa
phương làm công tác tư tưởng; thực hiện công tác tuyên truyền
đúng định hướng với nhiều nội dung phong phú, đa dạng, phục
vụ hiệu quả nhiệm vụ chính trị của địa phương. Trọng tâm là
triển khai thực hiện có kết quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Quy
định số 47-QĐ/TW ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành
Trung ương về những điều đảng viên không được làm. Qua đó,
hầu hết cán bộ, đảng viên đều nâng cao ý thức rèn luyện, giữ
gìn phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh; tích
cực học tập, nâng cao năng lực công tác và chấp hành nghiêm
túc các nghị quyết, chủ trương, quy định của Đảng và pháp luật
của Nhà nước. Thường xuyên nêu cao ý thức tự phê bình và
phê bình để giúp nhau tiến bộ, đồng thời kiên quyết đấu tranh
chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, từ đó tạo được lòng tin của quần chúng đối với Đảng,
Nhà nước.
Hoàn thành biên soạn và xuất bản cuốn sách “Lịch sử đấu
tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Bình Tân, giai

220
đoạn 1930-1975”, ghi nhận những thành quả mà Đảng bộ và
nhân dân xã Bình Tân đã đạt được từ khi thành lập Đảng đến
ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; giáo dục cho
nhân dân và đặc biệt là các thế hệ trẻ ý thức tự hào về truyền
thống quê hương, giữ gìn và phát huy những thành quả của thế
hệ ông cha trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chỉ đạo tổ chức nhiều hoạt động phong phú, đa dạng để
tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về các chủ
trương, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước; về lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng, bảo vệ quê
hương của nhân dân và Đảng bộ địa phương...; tạo được sự
thống nhất, đoàn kết trong Đảng và ngoài xã hội; đấu tranh
chống các biểu hiện sai trái, âm mưu “diễn biến hòa bình” của
các thế lực thù địch, củng cố thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng, vào công cuộc đổi mới đất nước.
Thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ
Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh đã mang lại hiệu quả thiết thực.
Qua học tập, các chi bộ trực thuộc, Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội và mỗi cán bộ, đảng viên đều đăng ký
thực hiện chuẩn mực, đạo đức, lối sống phù hợp với tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh bằng các việc làm cụ thể, thiết thực,
không phô trương hình thức. Sau 4 năm thực hiện, đã có 15
gương điển hình trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức

221
Hồ Chí Minh; được các cấp biểu dương, khen thưởng. Tiêu
biểu nhất là việc hiến đất làm đường giao thông của xóm Nhì;
vận động đóng góp làm đường bê tông và thắp sáng đường quê
của Đại Huệ. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh đã thực sự trở thành phong trào cách mạng sâu rộng,
mang lại hiệu quả to lớn, tạo nên sự chuyển biến lớn về nhận
thức và hành động cho mỗi cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp
nhân dân.
Công tác tổ chức và cán bộ cơ bản đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ. Tập trung củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng
hệ thống chính trị vững mạnh trên cơ sở giữ vững nguyên tắc
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ. Thực hiện phân công, bố trí cán bộ tham gia lãnh đạo
toàn diện các lĩnh vực trọng yếu của hệ thống chính trị; giải thể
Chi bộ Cơ quan, chuyển đảng viên về sinh hoạt tại 4 chi bộ
thôn. Đến cuối năm 2015, Đảng bộ xã Bình Tân có 7 chi bộ
trực thuộc. Tiếp tục chỉ đạo nâng cao chất lượng chi bộ theo
Nghị quyết số 22-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
khóa X, Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư và Hướng dẫn số
09-HD/BTCTW ngày 02/3/2012 của Ban Tổ chức Trung ương
về nội dung sinh hoạt chi bộ. Số chi bộ đạt trong sạch, vững
mạnh hằng năm là 70% trở lên; đảng viên đủ tư cách, hoàn
thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt 100%, trong đó đảng viên đủ tư
cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm 15%. Đảng bộ xã

222
hoàn thành tốt nhiệm vụ và đã phát triển được 42 đảng viên
mới, nâng tổng số đảng viên của Đảng bộ xã lên 166 đồng chí.
Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới; 17 đồng chí được cử đi đào tạo đại học
và trình độ lý luận chính trị trung, cao cấp. Đến cuối năm 2015,
75% cán bộ, công chức của xã có trình độ đại học; 100% cán
bộ, công chức có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên.
Đồng thời, Đảng ủy xã đã cử nhiều lượt cán bộ tham gia tập
huấn nghiệp vụ về công tác đảng, chính quyền, Mặt trận và các
đoàn thể theo chủ trương của cấp trên. Công tác bảo vệ chính trị
nội bộ được chú trọng, phục vụ tốt công tác phát triển đảng viên
mới và quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ. Công tác kiểm tra đảng
được tăng cường, góp phần xây dựng Đảng bộ xã trong sạch,
vững mạnh.
Thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, ngoài
việc ban hành chương trình hành động, nghị quyết chuyên đề
thực hiện Nghị quyết Đại hội, Đảng ủy xã luôn coi trọng
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, tăng cường trách nhiệm cá nhân trong lĩnh vực được
phân công; phát huy trí tuệ tập thể; thường xuyên tổ chức tiếp
xúc, đối thoại với nhân dân, giải quyết các bức xúc trong nhân
dân kịp thời. Đảng ủy duy trì định kỳ nghe và cho ý kiến chỉ
đạo về một số định hướng lớn trong nội dung kỳ họp Hội đồng
nhân dân; chủ trương triển khai thực hiện những vấn đề quan

223
trọng thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; về
hoạt động của các ngành, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội. Tăng cường chỉ đạo sự phối hợp giữa cấp
chính quyền với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội. Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ
chức trong hệ thống chính trị địa phương về thực hiện chức
trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, phát huy vai trò của
người đứng đầu; phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể theo quy định của Đảng.
Hội đồng nhân dân xã từng bước đổi mới được nội dung và
phương pháp tổ chức thực hiện. Phát huy được vai trò cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất tại địa phương; thực hiện chức
năng quyết định các vấn đề quan trọng tại địa phương. Tháng
5/2011, Hội đồng nhân dân xã, nhiệm kỳ 2011-2016 đã bầu 23
đại biểu; đồng chí Trương Quang Minh được bầu giục chức
Chủ tịch và đồng chí Hồ Đức Trang giữ chức Phó Chủ tịch Hội
đồng nhân dân xã. Đồng chí Bùi Văn Huân được bầu giữ chức
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã và đồng chí Đào Duy Dương làm
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Công tác quản lý và điều
hành có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, an ninh - quốc phòng hằng năm. Trong nhiệm kỳ đã xây
dựng đề án và triển khai xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2011-2015 và định hướng đến năm 2020. Tổ chức bộ máy Ủy
ban nhân dân tiếp tục được kiện toàn, bố trí phù hợp với từng

224
chức danh chuyên môn; thực hiện nghiêm quy chế, nguyên tắc
tập trung dân chủ trong quản lý, điều hành; đẩy mạnh cải cách
hành chính, giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một
cửa”... góp phần giải quyết nhanh công việc và giảm bớt phiền
hà cho nhân dân.
Thực hiện tốt Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI về tăng cường và đổi mới công tác
dân vận của Đảng trong tình hình mới. Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, vận động nhân dân; xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Thường xuyên đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động; thực hiện tốt công tác phát triển hội viên; nội dung
hoạt động gắn với chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của hội viên, đoàn viên, nhân dân. Tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 04-NQ/HU của Huyện ủy khóa XXIII về
xây dựng lực lượng nòng cốt trong các tổ chức hội và tôn giáo;
phát huy vai trò của nhân dân trong giám sát, thực hành dân
chủ, tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Thực hiện
tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn
mới, đô thị văn minh” và các phong trào, cuộc vận động do các
đoàn thể quần chúng phát động. Gắn thực hiện phong trào thi
đua dân vận khéo với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong Đảng và ngoài xã hội. Qua
thực hiện phong trào thi đua dân vận khéo đã có nhiều mô hình
đem lại hiệu quả, thu hút sự quan tâm, tham gia của đông đảo

225
nhân dân và các tổ chức của hệ thống chính trị. Tiêu biểu là:
Làm bê tông giao thông của nhân dân Đại Huệ; bố trí những
điểm thu gom rác thải bảo vệ thực vật của nhân dân Lương
Nông; chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô trang trại của ông
Phạm Trung Việt và ông Quảng Thu ở xóm Tam Phụ; mô hình
“Hũ gạo tình thương”, “Con heo đất”, vận động tiền giúp trẻ
em nghèo... Những mô hình dân vận khéo trên đã góp phần
tăng cường đoàn kết cộng đồng; phát huy dân chủ và tạo sự
đồng thuận trong nhân dân để phát triển kinh tế, bảo đảm môi
trường xã hội; xây dựng nông thôn mới.
Chỉ đạo củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể. Tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ
làm công tác dân vận; phân công các đồng chí có năng lực và
uy tín đảm nhiệm vị trí lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể. Theo đó, Mặt trận Tổ quốc xã do đồng chí Nguyễn
Thanh Tùng làm Chủ tịch, Phó Chủ tịch gồm các đồng chí
Phan Văn Sinh và Phạm Vũ Lý; Hội Phụ nữ xã do đồng chí
Đào Thị Liễu làm Chủ tịch, Phó Chủ tịch là đồng chí Lâm Thị
Liễu; Hội Nông dân xã do đồng chí Phạm Văn Thanh làm Chủ
tịch, Phó Chủ tịch là đồng chí Trần Tiến Thu; Hội Cựu chiến
binh xã do đồng chí Phạm Kính làm Chủ tịch, Phó Chủ tịch là
đồng chí Nguyễn Xuân Phu; Đoàn Thanh niên xã do đồng chí
Huỳnh Tấn Ánh làm Bí thư, Phó Bí thư gồm các đồng chí Phan
Văn Sinh, Nguyễn Hùng Cường.

226
Chú trọng công tác phát triển đoàn viên, hội viên, xây
dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể ngày càng
vững mạnh, tạo sự đoàn kết rộng rãi trong các tầng lớp nhân
dân. Nhiệm vụ trọng tâm của công tác Mặt trận và đoàn thể là
tuyên truyền và vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân thực
hiện các đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước; nhiệm vụ của địa phương và các nhiệm vụ
của tổ chức Mặt trận, đoàn thể cấp trên. Tăng cường hoạt động
hướng về cơ sở, nắm bắt và giải quyết kịp thời các bức xúc
trong nhân dân. Vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân
tham gia có hiệu quả các phong trào thi đua, các cuộc vận động
đến tận địa bàn khu dân cư, nhất là cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Ngày vì
người nghèo”, các phong trào như: nông dân sản xuất kinh
doanh giỏi, cựu chiến binh gương mẫu, phụ nữ tích cực học
tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc; lao động
giỏi, lao động sáng tạo, đoàn kết giúp nhau xóa đói giảm
nghèo... Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội trong giám sát thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở; giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng,
chính quyền, đội ngũ cán bộ, đảng viên; tăng cường đồng thuận
xã hội; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chính
quyền địa phương.

227
Những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ 2010-2015 của
Đảng bộ xã Bình Tân là cơ bản và toàn diện. Tuy nhiên, vẫn
còn một số hạn chế cần tập trung khắc phục: kinh tế tăng
trưởng chưa bền vững; tỷ trọng các ngành kinh tế chưa đạt yêu
cầu đề ra; tình trạng sử dụng đất đai, khai thác khoáng sản
chưa đúng quy hoạch. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho nhân dân còn chậm. An ninh nông thôn còn tiềm ẩn yếu tố
gây mất ổn định. Công tác phối hợp giữa chính quyền và các
ngành liên quan chưa thật sự chặt chẽ. Cải cách hành chính
còn chậm; kỷ luật, kỷ cương chuyển biến chậm. Nội dung,
hình thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội chậm đổi mới. Năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của một số cấp ủy và chi bộ chưa ngang tầm yêu cầu
của tình hình mới.
Qua thực tế lãnh đạo cán bộ, nhân dân thực hiện Nghị quyết
Đại hội lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ xã rút ra
một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, phát
huy tính năng động, nhạy bén, sáng tạo, chủ động, kiên quyết
trong quản lý, điều hành của chính quyền. Xác định rõ nhiệm
vụ trọng tâm, cấp bách để tập trung chỉ đạo, phân công trách
nhiệm rõ ràng; đi đôi với thường xuyên kiểm tra, đôn đốc,
giám sát, tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm;

228
kịp thời phát hiện, chỉ đạo giải quyết những yếu kém, tháo gỡ
khó khăn và những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn.
Hai là, tập trung thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng, tạo
nền tảng vững chắc trong việc chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ;
làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao phẩm
chất, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên gắn với thực
hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”; coi trọng công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trong sạch, vững mạnh; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát;
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; bố trí và sử dụng
cán bộ đúng năng lực, sở trường; đặc biệt là phát huy sức mạnh
tập thể và đề cao trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Ba là, vận dụng sáng tạo, linh hoạt các cơ chế, chính sách
của Nhà nước phù hợp với tình hình thực tế của địa phương,
huy động và khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư
phát triển, nhất là xây dựng hạ tầng gắn với các lĩnh vực bảo
đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân.
Bốn là, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng và cả
hệ thống chính trị; làm tốt công tác vận động quần chúng; thực
hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sở; tạo sự đồng thuận cao
trong xã hội và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị tại địa
phương, nhất là trong vấn đề nhạy cảm có liên quan đến đời

229
sống và sinh hoạt của nhân dân. Chú trọng giải quyết kịp thời
những kiến nghị hợp pháp, chính đáng của nhân dân và xử lý
kiên quyết, dứt điểm các khiếu kiện phức tạp, tạo sự ổn định về
an ninh, chính trị để phát triển.
Có thể khẳng định từ nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ và
nhân dân xã Bình Tân đã tích cực khai thác và phát huy có hiệu
quả tiềm năng, lợi thế của địa phương, năng động, sáng tạo
vượt qua khó khăn, tập trung được mọi nguồn lực để phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững ổn định an ninh chính trị và
trật tự, an toàn xã hội; tạo được sự thống nhất trong nội bộ
Đảng, chính quyền và đồng thuận trong nhân dân. Kết quả đó
là sự cổ vũ, động viên để Đảng bộ và nhân dân xã vững vàng
tiến bước vào thời kỳ xây dựng, phát triển mới, chung sức cùng
cả huyện phấn đấu hoàn thành mục tiêu về xây dựng nông thôn
mới, đô thị văn minh theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.

230
Chương X
LÃNH ĐẠO HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TẬP
TRUNG XÂY DỰNG BÌNH TÂN TRỞ
THÀNH XÃ NÔNG THÔN MỚI (2015-
2020)

Trong hai ngày 25 và 26/5/2015, Đảng bộ xã Bình Tân tổ


chức Đại hội lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2015-2020. Bên cạnh việc
đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XVIII,
nhiệm kỳ 2010-2015, Đại hội đã xác định mục tiêu cho 5 năm
(2015-2020) là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng bộ; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc;
huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực; bảo đảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân; giữ vững an ninh chính trị và

231
trật tự, an toàn xã hội; tạo nền tảng đến năm 2020, xã Bình Tân
cơ bản trở thành xã nông thôn mới”61.
Đồng thời, Đại hội đề ra các chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể đến
cuối nhiệm kỳ:
- Tổng giá trị sản xuất đạt 654 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế bình quân đạt 15-17%/năm. Trong đó: nông nghiệp
tăng 12%/năm, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng
22%/năm và thương mại - dịch vụ tăng 18%/năm.
- Cơ cấu kinh tế đến năm 2020: nông nghiệp chiếm 66%,
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm 16,6% và thương mại
- dịch vụ chiếm 17,4%.
- Thu nhập bình quân đạt 30 triệu đồng/người/năm; bình
quân lương thực đạt 550 kg/người/năm.
- Độ che phủ rừng đạt 65%.
- Tổng vốn đầu tư xây dựng 5 năm là 60 tỷ đồng.
- Thu ngân sách tăng 15%/năm.
- Cơ bản hoàn thành xây dựng xã đạt chuẩn nông thôn
mới.

61
. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Bình Tân khóa
XVIII trình Đại hội Đảng bộ xã khóa XIX, nhiệm kỳ 2015-2020.

232
- Có 85-90% hộ gia đình và 100% thôn đạt thôn văn hóa,
phấn đấu đạt xã văn hóa.
- Tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5%.
- Giữ vững trường chuẩn quốc gia. Năm 2016, Trường
Mẫu giáo đạt chuẩn quốc gia.
- Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 10%; tốc độ tăng dân số
dưới 1%.
- Xây dựng xã vững mạnh toàn diện về quốc phòng - an
ninh.
- Xây dựng Đảng bộ xã trong sạch, vững mạnh, hằng năm
có từ 80% trở lên chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ; 100% đảng
viên đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ.
- Phát triển đảng viên mới từ 5 đến 7 đảng viên/năm.
Đại hội đề ra các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể để thực
hiện. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa XIX
gồm 13 đồng chí; đồng chí Trương Quang Minh được bầu giữ
chức Bí thư Đảng ủy xã; các đồng chí Võ Duy Đối và Bùi Văn
Huân được bầu giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy xã.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Bình Tân lần
thứ XIX trong điều kiện có nhiều thuận lợi cơ bản: kinh tế thế
giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển; những thành
tựu có ý nghĩa lịch sử sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới
của Đảng, nhiều Nghị quyết, Chỉ thị ban hành phù hợp với thực
tiễn; một số công trình trọng điểm được xây dựng trên địa bàn

233
huyện; được sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy, Ủy ban nhân
dân huyện và sự phối hợp của các ngành, đoàn thể trong
huyện... Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX,
Đảng bộ và nhân dân xã Bình Tân đã vượt qua khó khăn, phát
huy tinh thần tự lực, tự chủ và quyền làm chủ của nhân dân, đạt
được nhiều kết quả quan trọng. Về cơ bản, các chỉ tiêu chung
và chỉ tiêu cụ thể đều đạt và vượt, đáp ứng được kỳ vọng của
các tầng lớp nhân dân, cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ xã.
Về kinh tế: Tiếp tục tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế
toàn diện, phát huy lợi thế của một xã nông nghiệp, thực hiện
mạnh mẽ việc chuyển đổi cơ cấu nội bộ ngành kinh tế. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế tăng bình quân 24,3%/năm, vượt 7,3% so
với Nghị quyết Đại hội đề ra. Trong đó, nông nghiệp tăng
21,8%, vượt 9,8%; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng
28,95%, vượt 6,95%; thương mại - dịch vụ tăng 24,05%, vượt
6,05%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm
tỷ trọng trong nông nghiệp và tăng các ngành, nghề phi nông
nghiệp. Đến cuối nhiệm kỳ, tổng giá trị kinh tế đạt 904,3 tỷ
đồng, vượt 38,3% so với Nghị quyết Đại hội đề ra. Trong đó,

234
nông nghiệp đạt 587,5 tỷ đồng62, chiếm 65%; công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp đạt 159,42 tỷ đồng, chiếm 17,6%; thương
mại - dịch vụ đạt 157,38 tỷ đồng, chiếm 17,4% tổng giá trị kinh
tế63. Thu nhập bình quân đầu người đạt trên 41,59 triệu
đồng/năm, vượt 11,59% so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề
ra. Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế cũng chuyển dịch
tích cực: nông nghiệp chiếm 55%; công nghiệp - xây dựng
chiếm 14,6%; thương mại - dịch vụ chiếm 35,4%.
Trong sản xuất nông nghiệp, Bình Tân đã thực hiện việc
dồn điền đổi thửa theo quy hoạch đến năm 2020; ổn định diện
tích lúa và các loại cây hoa màu; nâng cao chất lượng cây
trồng, tăng giá trị kinh tế. Trong đó, diện tích cây lúa ổn định
trên 523 ha, năng suất bình quân đạt 65 tạ/ha, bình quân lương

62
. Trồng trọt đạt 270,45 tỷ đồng; chăn nuôi đạt 181,35 tỷ đồng và
lâm nghiệp đạt 134,89 tỷ đồng.

63
. Tỷ trọng này đầu nhiệm kỳ là: nông nghiệp chiếm 69,9%, công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm 14,4% và thương mại - dịch vụ chiếm
15,7%.

235
thực đầu người đạt 623 kg/năm, vượt so với chỉ tiêu Nghị
quyết Đại hội đề ra. Đặc biệt, công tác dồn điền đổi thửa là một
việc khó, vì đa số nhân dân cho rằng đã quen với việc sản xuất
trên đất giao cho hộ gia đình ổn định, lâu dài; phù hợp với tâm
lý và tập quán sản xuất của mỗi gia đình. Nhưng với quyết tâm
cao của Đảng bộ xã, công tác tuyên truyền sâu rộng nên đã tác
động đến suy nghĩ và nhận thức của nhân dân; nhất là việc quy
hoạch lại ruộng đất, giao thông nội đồng, hệ thống thủy lợi, tạo
thuận lợi để nhân dân đầu tư thâm canh, sản xuất tập trung,
chuyên canh; giảm bớt các chi phí không cần thiết, tiết kiệm
thời gian nên đã được nhân dân đồng tình, hưởng ứng thực
hiện. Sau một thời gian thực hiện, xã Bình Tân đã hoàn thành
việc dồn điền đổi thửa với diện tích được 86,2/90 ha, đạt 95,7%
và đến năm 2020 thực hiện được 148,2 ha. Đây là một thành
công lớn của địa phương trong công tác chính trị, tư tưởng và
lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, tạo được niềm tin và
phấn khởi trong nhân dân. Bên cạnh đó, Bình Tân đã tập trung
chỉ đạo, định hướng giúp nhân dân trong sản xuất các loại cây
trồng phù hợp với điều kiện lao động của từng hộ gia đình;
thực hiện một số mô hình trồng hoa màu, rau đậu, dưa các loại
(dưa lưới, dưa hấu, dưa chuột)... đem lại giá trị kinh tế cao.
Chuyển đổi trên 23 ha đất lúa, cây trồng khác bị thiếu nước
sang trồng các loại cây chịu hạn như: rau màu, đậu phộng, cây
dưa lưới,... Diện tích cây mía còn 155 ha, giảm 60 ha so với

236
năm 2016. Nguyên nhân chính là do giá cả giảm mạnh, hiệu
quả trên diện tích canh tác không cao nên nhân dân đã chuyển
đổi sang cây trồng khác.
Phong trào trồng rừng sản xuất tiếp tục được nhân dân
hưởng ứng, bình quân mỗi năm trồng khoảng 200 ha, đưa diện
tích rừng đến năm 2019 là 1.066 ha; độ che phủ rừng đạt 55%.
Khai thác được 101.700 tấn gỗ.
Chăn nuôi được xác định là ngành sản xuất chính trong
nông nghiệp. Đảng bộ xã đã tập trung chỉ đạo công tác phòng,
chống dịch, không để xảy ra dịch bệnh trên diện rộng. Nhờ đó,
tổng đàn gia súc và gia cầm đều vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại
hội đề ra. Trong đó đàn gia súc có trên 15.900 con, đàn gia cầm
có 49.100 con (Nghị quyết Đại hội đề ra lần lượt là 12.000 và
24.000 con). Đặc biệt, xã đã quan tâm cải tạo, nâng cao chất
lượng đàn gia súc, đem lại giá trị kinh tế cao. Đến năm 2019,
bò lai sind chiếm 78%, tăng 18% và heo nạc chiếm 77,7% so
với tổng đàn. Mô hình phát triển chăn nuôi theo hướng liên kết
nông hộ được quan tâm triển khai thực hiện một cách hiệu quả,
tạo nguồn thu nhập cao hơn so với trước đây nên động viên hộ
gia đình yên tâm trong đầu tư, chăn nuôi; góp phần làm cho
kinh tế nông nghiệp phát triển một cách toàn diện hơn và dần
trở thành một ngành sản xuất chính, đúng định hướng.
Cùng với sự phát triển của kinh tế hộ gia đình, kinh tế tập
thể (hợp tác xã nông nghiệp) cũng được chú trọng. Đầu tháng

237
11/2015, Đảng ủy xã đã chủ trương sáp nhập Hợp tác xã nông
nghiệp và Hợp tác xã chuyên canh mía, chăn nuôi bò thành
Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp và hoạt động theo Luật Hợp
tác xã năm 2012. Lúc này, Chủ nhiệm Hợp tác xã là đồng chí
Đồng Thanh Tấn, Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã là đồng chí
Nguyễn Tấn Minh; đến tháng 5/2016, Chủ nhiệm Hợp tác xã là
đồng chí Nguyễn Tấn Minh, Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã là
đồng chí Võ Ngọc Vũ. Đảng ủy xã tập trung chỉ đạo chính
quyền tạo điều kiện thuận lợi để Hợp tác xã Dịch vụ nông
nghiệp phát triển và hoạt động theo Luật Hợp tác xã, phát huy
vai trò “Bà đỡ” cho kinh tế hộ tiếp tục phát triển, ổn định sản
xuất, nâng cao đời sống, giảm hộ nghèo; góp phần thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Sau
chuyển đổi, Hợp tác xã đã phát huy được tính năng động, sáng
tạo; bộ máy gọn, hoạt động hiệu quả, đem lại lợi ích nhiều hơn
cho các thành viên. Đặc biệt, Hợp tác xã đã thực hiện chủ
trương cung ứng giống mới hằng năm khoảng 6-8 tấn; phục vụ
bảo đảm nước tưới cho sản xuất, chuyển giao khoa học kỹ
thuật cho nông dân, thực hiện dồn điền đổi thửa để nhân dân
thuận lợi trong sản xuất, tập trung thâm canh, chuyên canh,
tăng vụ và năng suất cây trồng, tăng giá trị sản xuất trên một
đơn vị diện tích. Triển khai và hướng dẫn nhân dân thực hiện
một số mô hình sản phẩm nông nghiệp sạch, nâng cao chất
lượng an toàn thực phẩm, chất lượng cuộc sống người dân và

238
đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường... Đây chính là thế mạnh
của kinh tế tập thể tại địa phương. Doanh thu bình quân hằng
năm đạt 386 triệu đồng, tăng 13,7% so với trước khi chuyển
đổi.
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp được Đảng ủy xã quan
tâm chỉ đạo, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các hộ gia đình tự
đầu tư nguồn vốn, phát triển ngành, nghề phù hợp với điều kiện
nguồn lực của cá nhân; giải quyết việc làm cho lao động. Bình
Tân vẫn tập trung chỉ đạo phát triển các ngành, nghề mà địa
phương có lợi thế như: khai thác đá đen, đá chẻ, mộc, gò hàn,
xây dựng, làm bún tươi, may gia công, xẻ gỗ. Đến cuối năm
2019, xã có 52 cơ sở hoạt động với quy mô sản xuất kinh
doanh hộ gia đình, tổ hợp tác, nhóm hợp tác. Tổng giá trị sản
xuất đạt 159,42 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
28,95%, tăng 6,95% so với Nghị quyết Đại hội đề ra; chiếm tỷ
trọng 17,6% trong ngành kinh tế. Tuy tỷ trọng không lớn,
nhưng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đã góp phần làm cho
bộ mặt kinh tế địa phương thêm phong phú, tạo tiền đề để tiếp
tục phát huy tiềm năng và sáng tạo, mạnh dạn đầu tư sản xuất
trong nhân dân; trước mắt và lâu dài giải quyết lao động dôi
thừa trong nông nghiệp và đóng góp một phần cho ngân sách
địa phương.
Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội được đầu tư mạnh mẽ hơn. Trong nhiệm kỳ đã đầu tư xây

239
dựng, sửa chữa, nâng cấp 38 công trình trọng điểm với tổng
kinh phí thực hiện đạt 110,738 tỷ đồng. Trong đó, nguồn kinh
phí nhà nước đầu tư là 68,738 tỷ đồng, huy động nguồn lực
trong dân là 42 tỷ đồng. Cụ thể, xã đã thực hiện đầu tư xây
dựng các công trình, như:
- Công trình về văn hóa - xã hội: Xây dựng Trường Mầm
non với kinh phí 1,4 tỷ đồng, Nhà Văn hóa xã với kinh phí 1 tỷ
đồng, Nhà Văn hóa thôn Liêm Quang với kinh phí 470 triệu
đồng; nâng cấp Nghĩa trang liệt sĩ với kinh phí 1,7 tỷ đồng, Đài
truyền thanh với kinh phí 200 triệu đồng, nhà làm việc của
công an xã với kinh phí 700 triệu đồng, Nhà văn hóa thôn
Nhơn Hòa 1 với kinh phí 800 triệu đồng; xây dựng hệ thống
nước sạch của Trường Mầm non với kinh phí 80 triệu đồng.
Sửa chữa trụ sở Ủy ban nhân dân xã với kinh phí 250 triệu
đồng, Nhà Văn hóa thôn Diên Lộc với kinh phí 200 triệu đồng,
chợ trung tâm xã với kinh phí 355 triệu đồng, Nhà Văn hóa xã
với kinh phí 490 triệu đồng; nâng cấp phần mộ cụ Võ Thị Đệ
với kinh phí 150 triệu đồng và công trình chỉnh trang môi
trường trung tâm xã với kinh phí 500 triệu đồng...
- Về giao thông: Đã bê tông hóa các tuyến đường Xóm
Nhất đi xóm Nhì với kinh phí 2,2 tỷ đồng, tuyến Tam Phụ - Bà
Thìn với kinh phí 1,2 tỷ đồng, tuyến Mỹ Lộc đi Thuận Yên với
kinh phí 2,2 tỷ đồng, tuyến ngã tư Bình An đi Tịnh Phong với
kinh phí 2,4 tỷ đồng, đường vào mộ đồng chí Trần Vỹ (Văn) -

240
nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi với kinh phí 200 triệu
đồng. Sửa chữa, nâng cấp các tuyến đường: Bình Tân đi Tịnh
Phong với kinh phí 200 triệu đồng, Bình Tân đi Tịnh Thiện với
kinh phí 1 tỷ đồng,...
- Về thủy lợi: Thực hiện bê tông hóa 8 tuyến kênh mương,
dài 1.834 mét và sửa chữa kênh Cây Da, tuyến kênh Hòa Tân -
Bình An, với kinh phí trên 1,6 tỷ đồng; nạo vét, sửa chữa lòng
hồ Hóc Bứa 7 tỷ đồng; xây dựng trạm bơm Đại Huệ 5,5 tỷ
đồng; đắp đập dâng Đại Huệ 100 triệu đồng, đập Bầu Sát 50
triệu đồng,...
Hoạt động dịch vụ cũng được quan tâm chỉ đạo thường
xuyên, nhất là tạo điều kiện để các hộ gia đình có nhu cầu mở
rộng hoạt động dịch vụ được hoạt động theo quy định pháp
luật. Tập trung vào các dịch vụ vận tải, phục vụ sản xuất nông
nghiệp, ăn uống, giải khát và kinh doanh buôn bán tổng hợp
nhỏ. Đến năm 2020, toàn xã có 182 cơ sởdịch vụ, tổng giá trị
thực hiện đạt 157,38 tỷ đồng; tốc độ tăng bình quân đạt
18,7%/năm, tăng 48% so với đầu nhiệm kỳ, chiếm tỷ trọng
17,4% trong ngành kinh tế. Hoạt động dịch vụ đã giải quyết lao
động nông nhàn, tăng thu nhập cho một số hộ gia đình; góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phá vỡ thế độc canh trong
kinh tế của địa phương, nhất là kinh tế nông nghiệp với cây lúa.
Cùng với phát triển kinh tế, xã đã lập thủ tục và đề nghị
cấp 2.849 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân

241
(đất ở, nông nghiệp và lâm nghiệp). Đồng thời, phối hợp với
huyện giải quyết một số tồn tại trong lĩnh vực quản lý nhà nước
về đất đai, tạo được niềm tin trong nhân dân. Các hoạt động
hưởng ứng ngày môi trường, tuần lễ quốc gia về nước sạch, thu
gom rác thải... đã được nhân dân đồng tình thực hiện. Đây cũng
là một tiêu chí trong chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới.
Nổi bật của xã Bình Tân trong nhiệm kỳ này là đã tập
trung công tác tuyên truyền, vận động nhân dân đóng góp các
nguồn lực, nhất là kinh phí cùng với Nhà nước hoàn thành các
tiêu chí về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong bộ tiêu chí
quốc gia xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch. Đây là một
chương trình có mục tiêu toàn diện nhằm xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội nông thôn từng bước hiện đại; xây dựng
nông thôn mới có cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản
xuất hợp lý, gắn công nghiệp với phát triển dịch vụ, gắn phát
triển nông thôn với phát triển đô thị theo quy hoạch. Đồng thời,
xây dựng xã hội nông thôn mới dân chủ, ổn định, giàu bản sắc
văn hóa dân tộc, môi trường sinh thái được quản lý, bảo vệ; giữ
vững an ninh trật tự; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Mục tiêu cuối cùng là nâng cao về thực chất đời sống nhân dân.
Do vậy, xây dựng nông thôn mới là một nhiệm vụ trọng tâm,
mang tính nhân văn sâu sắc, vừa là mục tiêu, yêu cầu phát triển

242
bền vững, vừa mang tính cấp bách vừa mang tính lâu dài, đòi
hỏi cả hệ thống chính trị phải đồng tâm hiệp lực thực hiện.
Là một xã có điểm xuất phát thấp về kinh tế nên đã, đang
và sẽ đặt ra cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương
nhiều thách thức. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng
của việc xây dựng nông thôn mới, Đảng ủy xã đã thành lập Ban
chỉ đạo xây dựng nông thôn mới; Ủy ban nhân dân xã thành lập
ban quản lý với các thành viên thuộc các ban, ngành của địa
phương. Đặc biệt, sau Đại hội, Đảng ủy xã đã tập trung cụ thể
hóa chủ trương và chỉ đạo chính quyền, các tổ chức trong hệ
thống chính trị tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để
nhân dân nhận thức được mục đích, ý nghĩa của chương trình,
từ đó tích cực tham gia các phần nội dung công việc thuộc
trách nhiệm của mình, cùng địa phương sớm hoàn thành việc
nâng cấp các công trình như: Trường Mẫu giáo, nhà sinh hoạt
thôn, các tuyến đường giao thông, thủy lợi; phát triển kinh tế
nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo;
bảo đảm vệ sinh môi trường, an ninh và trật tự, an toàn xã hội;
xây dựng đội ngũ cán bộ đúng tiêu chuẩn cán bộ, công chức
theo quy định... Qua công tác tuyên truyền, với sự tham gia tích
cực của nhân dân, đã tạo được đồng thuận của cán bộ, đảng
viên và nhân dân trong quá trình thực hiện. Từ năm 2014, sau
khi tổ chức lễ phát động thực hiện phong trào “Bình Tân chung
tay xây dựng nông thôn mới”, nhân dân ở 4 thôn và 15 xóm

243
trong xã đã tham gia rất tích cực. Trong điều kiện khó khăn
nhưng nhân dân đã chung tay đóng góp kinh phí để cùng với
nguồn hỗ trợ của ngân sách nhà nước thực hiện bê tông hóa
đường giao thông nông thôn, kiên cố hóa kênh mương nội
đồng; xây dựng nhà ở bảo đảm các quy chuẩn, xây dựng tường
rào, cổng ngõ khang trang; đầu tư xây chuồng trại chăn nuôi
bảo đảm vệ sinh môi trường và tạo cảnh quan nông thôn mới,
xây dựng các công trình thiết yếu của mỗi khu dân cư, phục vụ
nhu cầu sinh hoạt của nhân dân tại cộng đồng, thiết thực góp
phần xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch.
Nhân dân đã hiến trên 3.000 m2 đất để làm đường đi và sản
xuất cùng nhiều tài sản có giá trị khác. Tiêu biểu nhất là nhân
dân xóm Tây đã hiến đất để làm đường sản xuất và bê tông hóa
tuyến kênh dài trên 400 m, tạo thuận lợi cho sản xuất trên diện
tích 13,2 ha mía. Trong 4 năm 2016-2019, ngân sách nhà nước
các cấp đã đầu tư (nhiều hình thức: tiền, xi măng) 68,738 tỷ
đồng và nhân dân đóng góp trên 42 tỷ đồng để thực hiện hoàn
thành các công trình về: quy hoạch, điện, thông tin truyền
thông, nhà ở dân cư; đang thực hiện các tiêu chí về: trường
học, cơ sở vật chất văn hóa, kết cấu hạ tầng thương mại nông
thôn, giao thông, thủy lợi. Thực hiện dồn điền, đổi thửa được
trên 86 ha/90 ha, tổng kinh phí thực hiện 3,635 tỷ đồng; (đến
đầu năm 2020 thực hiện được 148 ha, đạt 162,2% chỉ tiêu Nghị

244
quyết Đại hội đề ra); bê tông 27,29 km/41,02 km đường (trong
đó: 13,19 km/17,13 km đường trục thôn, đạt gần 77%; 14,1
km/23,89 km đường ngõ xóm, đạt 59%). Phấn đấu đến cuối
năm 2020 bê tông được 33,09 km/41,02 km, đạt 80,67% kế
hoạch. Kiên cố hóa được 1.984 m kênh mương nội đồng. Với
nỗ lực này, đến cuối năm 2019, xã đã hoàn thành 14/19 tiêu
chí, tăng 6 tiêu chí so với đầu nhiệm kỳ.
Trong năm 2020, xã tiếp tục thực hiện bê tông hóa 5 tuyến
đường, 1 tuyến kênh mương; xây dựng 8 phòng học các cấp
cùng một số công trình phụ trợ, 3 nhà văn hóa thôn, nhà thi đấu
đa năng và sân vận động xã với kinh phí thực hiện là 23,4 tỷ
đồng. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện các tiêu chí về môi trường
và vệ sinh an toàn thực phẩm, xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh. Đây là một trong những thành tích nổi trội của
Đảng bộ, chính quyền địa phương trong quá trình lãnh đạo, chỉ
đạo, quản lý, điều hành phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng
chăm lo và nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần của nhân
dân; đồng thời ghi nhận sự nỗ lực, cố gắng đầy trách nhiệm của
cán bộ, đảng viên và nhân dân trong thực hiện chủ trương xây
dựng nông thôn mới, thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” trên quê hương
giàu truyền thống yêu nước và cách mạng hôm nay.

245
Hoạt động thu ngân sách hằng năm đạt trên 7 tỷ đồng, tốc
độ tăng bình quân 19,2%/năm, vượt 4,2% so với chỉ tiêu Nghị
quyết Đại hội đề ra và bảo đảm các nguồn chi theo kế hoạch.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao được tổ
chức thường xuyên, nhất là trong các dịp kỷ niệm các ngày lễ
lớn của dân tộc, nhân các sự kiện chính trị của đất nước, ngày
truyền thống của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và sự kiện
trọng đại của địa phương. Tổ chức thành công Đại hội Thể dục,
Thể thao cấp xã lần thứ II và tham gia Đại hội Thể dục, Thể
thao cấp huyện lần thứ VI. Sôi nổi nhất là thi đấu bóng đá,
bóng chuyền, chạy việt dã và hàng chục bộ môn thi khác; tạo
không khí phấn khởi trong nhân dân.
Công tác thông tin tuyên truyền qua hệ thống đài truyền
thanh đã đến 15/15 khu dân cư. Thông qua các hoạt động này
đã tập trung tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước, tạo được không khí vui tươi, phấn
khởi trong nhân dân. Đặc biệt, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
33-NQ/TW ngày 09-6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Bình
Tân đã triển khai và thực hiện tốt nhiều mô hình liên quan đến
nâng cao chất lượng cuộc sống, xây dựng nhân tố con người;
nhất là mô hình bảo vệ môi trường được nhân rộng trong toàn
xã với 100% khu dân cư, hộ gia đình thực hiện. Qua đó vừa

246
xây dựng và nâng cao ý thức bảo vệ và xây dựng môi trường
sống xanh, sạch, đẹp; nâng cao thể chất nguồn nhân lực và tạo
được nét đẹp mới trong đời sống tinh thần của nhân dân, vừa
góp phần quan trọng trong thực hiện cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” và phong
trào “Bình Tân chung tay xây dựng nông thôn mới”. Tỷ lệ hộ
gia đình sử dụng nước sạch hợp vệ sinh đạt trên 95%.
Tiếp tục chỉ đạo và thực hiện phong trào “Toàn dân xây
dựng đời sống văn hóa” gắn với đẩy mạnh thực hiện việc học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
bằng việc làm cụ thể, thiết thực, phục vụ trực tiếp cho chính
cuộc sống của cộng đồng dân cư. Qua phong trào đã tạo được ý
thức tự giác trong đa số nhân dân; nâng cao trách nhiệm công
dân, xây dựng cơ quan, đơn vị, địa phương vững mạnh. Hằng
năm tỷ lệ cơ quan, đơn vị và gia đình đạt chuẩn văn hóa khá
cao. Đến cuối nhiệm kỳ, có 80% cơ quan, 100% thôn, 80% khu
dân cư và 94,5% (1.214/1.284 hộ gia đình) hộ gia đình đạt
chuẩn văn hóa.
Chỉ đạo đẩy mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động
giáo dục, y tế. Việc đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất trường lớp,
trạm y tế đạt chuẩn quốc gia đã tạo nhiều thuận lợi cho công
tác giảng dạy, học tập và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Huy động 100% trẻ em 6 tuổi ra lớp theo quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo; tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình giáo

247
dục tiểu học và trung học cơ sở đạt 100%; trong đó 84% tiếp
tục học lên cấp trên, đạt 91,47% Nghị quyết Đại hội đề ra. Tiếp
tục nâng cao chất lượng phong trào dạy tốt, học tốt và nói
không với tiêu cực trong trường học; nhiều giáo viên và học
sinh đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi và học sinh giỏi cấp
huyện, cấp tỉnh. Trường tiểu học và trung học cơ sở liên tục
giữ vững trường đạt chuẩn quốc gia. Tháng 10/2018, Trường
Trung học cơ sở đạt trường chuẩn quốc gia lần thứ II. Ngày
01/7/2019, do yêu cầu phải sắp xếp lại hệ thống trường học các
cấp nên Trường Tiểu học và Trường Trung học cơ sở của xã đã
sáp nhập lại thành Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Bình
Tân do đồng chí Nguyễn Tấn Được làm Hiệu trưởng, các đồng
chí Đặng Sinh, Hà Trung Tâm làm Phó Hiệu trưởng.
Các hoạt động y tế được đẩy mạnh. Thực hiện đầy đủ các
chương trình y tế quốc gia về tiêm chủng mở rộng, về phòng,
chống bệnh trong trẻ em, chương trình bảo vệ bà mẹ và trẻ em;
công tác phòng, chống dịch, bệnh xã hội, bệnh truyền nhiễm
trong nhân dân; công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm;
phòng, chống suy dinh dưỡng trong trẻ em, thực hiện dân số -
kế hoạch hóa gia đình... đều đạt kết quả cao. Tỷ lệ trẻ em dưới
5 tuổi suy dinh dưỡng (cân nặng) giảm còn 10,3% (Nghị quyết
Đại hội đề ra là 10%). Tốc độ tăng dân số tự nhiên là 0,71%,
giảm 0,29% so với đầu nhiệm kỳ (Nghị quyết Đại hội đề ra là
dưới 1%). Đạt được những kết quả trên, xã Bình Tân được cấp

248
trên công nhận là xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Tỷ lệ người
tham gia bảo hiểm y tế toàn dân đạt 95,2%.
Là địa phương có đông đối tượng được hưởng chế độ,
chính sách nên việc thực hiện tốt chế độ chính sách cho các đối
tượng là việc làm có ý nghĩa chính trị rất lớn. Đến nay, số đối
tượng được hưởng chế độ, chính sách trên địa bàn xã gồm: 466
liệt sĩ, 89 người hưởng tuất liệt sĩ, 232 thương binh, 16 bệnh
binh, 138 người có công, 50 người bị địch bắt bị tù. Xã đã thực
hiện chi trả kịp thời chế độ cho 574 đối tượng chính sách. Do
vậy, các đối tượng chính sách đã yên tâm và phát huy trách
nhiệm trong công tác vận động nhân dân thực hiện các chủ
trương, nhiệm vụ của địa phương, nhất là chung tay cùng nhân
dân đưa Bình Tân về đích nông thôn mới theo kế hoạch. Hằng
năm, nhân các dịp lễ, Tết đều tổ chức đoàn đến thăm, động
viên về vật chất và tinh thần. Thực hiện xã hội hóa các nguồn
lực từ các tổ chức và cá nhân để duy trì việc tổ chức giỗ liệt sĩ
2 năm/lần, ngoài ra đã di dời 24 phần mộ liệt sĩ vào Nghĩa
trang liệt sĩ xã, góp phần động viên các gia đình liệt sĩ, đặc biệt
thể hiện lòng biết ơn các liệt sĩ trong đó có nhiều liệt sĩ vô danh
đã hy sinh cho độc lập, tự do của dân tộc và hạnh phúc của
nhân dân. Bên cạnh đó, trong nhiệm kỳ đã giải quyết được 800
hồ sơ chính sách các loại theo chỉ đạo của cấp trên. Vận động
xây dựng các nguồn quỹ (tình nghĩa, vì người nghèo) trên
276,7 triệu đồng. Bằng các nguồn, đã sửa chữa và xây dựng 63

249
nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, trị giá trên 1 tỷ đồng; đồng
thời thực hiện vận động xây dựng được 7 nhà cấp ủy với tổng
giá trị thực hiện là 280 triệu đồng từ cán bộ, đảng viên, các tổ
chức và cá nhân.
Phong trào tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau luôn
được cấp ủy, chính quyền và nhân dân thực hiện hiệu quả; coi
đây là trách nhiệm của mỗi tổ chức và cá nhân. Vận động quỹ
vì người nghèo trên 49 triệu đồng, giúp đỡ kịp thời cho các hộ
gia đình đặc biệt khó khăn. Nhờ vậy, các hộ khó khăn có điều
kiện vươn lên, phát triển kinh tế, xây dựng đời sống ngày càng
ổn định và ấm no.
Thực hiện phong trào “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”, các ngành, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể bằng các hình thức phù hợp giúp đỡ trực tiếp
cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, hộ già, neo đơn, trẻ em
mồ côi, khó khăn để ổn định đời sống và tiếp tục học tập, thể
hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Thương người như thể
thương thân” trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội đã có nhiều mô hình học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được
nhân dân, cán bộ đồng tình hưởng ứng thực hiện. Không những
vậy, cuộc vận động đã khơi dậy tình người, chia sẻ khó khăn
lúc ốm đau, hoạn nạn. Tiêu biểu đã đóng góp được trên 40,6
triệu đồng hỗ trợ ông Trần Thành bị tai nạn lao động; 140 triệu

250
đồng cho 2 người bị bệnh hiểm nghèo; 613 suất quà, trị giá 220
triệu đồng cho người nghèo. Đề nghị cấp trên thực hiện chế độ
bảo trợ xã hội cho 168 người; cấp phát kịp thời thẻ bảo hiểm xã
hội cho các đối tượng nghèo, trẻ em theo quy định, bảo đảm
các quyền lợi về khám chữa bệnh. Làm 10 nhà ở cho người
nghèo theo Nghị định số 67/CP của Chính phủ.
Công tác xóa đói, giảm nghèo tiếp tục được đẩy mạnh. Bên
cạnh việc vận động nhân dân phát huy tinh thần tự lực, tự
cường vươn lên. Đảng ủy xã chỉ đạo tạo việc làm cho người lao
động, bình quân hằng năm đã tạo việc làm cho 120 lao động.
Chỉ đạo các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tín chấp, bảo
lãnh cho đoàn viên, nhất là đoàn viên nghèo được tiếp cận
nguồn vốn ưu đãi, hoặc nguồn vốn tự có của tổ chức hội để
phát triển kinh tế. Qua 5 năm đã phối hợp với các tổ chức tín
dụng cho nhân dân vay trên 28,5 tỷ đồng. Từ nguồn vốn và
nhiều biện pháp thiết thực khác, đến cuối nhiệm kỳ đã giảm
147 hộ nghèo, xuống còn 64 hộ, chiếm tỷ lệ 4,15% (giảm
1,83% so với đầu nhiệm kỳ).
Trong những năm 2015-2020, tình hình đất nước nói
chung, tỉnh Quảng Ngãi và huyện Bình Sơn nói riêng có những
khó khăn nhất định; đặc biệt tác động của tình hình trên Biển
Đông và chủ quyền trên các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa đã
làm dấy lên làn sóng dư luận xã hội, có thời điểm diễn biến
phức tạp, ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã

251
hội. Đảng ủy xã đã chỉ đạo, nắm tình hình và sử dụng các biện
pháp phù hợp, định hướng ngăn chặn kịp thời nên đã ổn định
được tình hình. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc
được phát động thường xuyên, với 13 đợt và trên 2.100 lượt
người tham gia. Qua đó, tuyên truyền pháp luật cho nhân dân và
phổ biến phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm để
quần chúng nhân dân biết và chủ động phòng ngừa, phát hiện,
giáo dục, cảm hóa; giúp cơ quan chức năng xử lý nhiều trường
hợp vi phạm, trong đó có một số trường hợp đánh bạc, phá hoại
tài sản của công dân, 1 vụ có lệnh truy nã, 1 vụ giết người, làm
trong sạch địa bàn.
Với mục đích bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn
xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, một số mô hình
trong công tác phòng, chống tội phạm, bảo đảm trật tự, an toàn
xã hội tại các khu dân cư đã được công an phối hợp với Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phát động, đi vào
hoạt động có hiệu quả, như: “2 phòng, 4 giữ” tại khu dân cư
Hòa Tân, thôn Nhơn Hòa 2; mô hình “5 không, 2 giữ” ở đội 12
thôn Diên Lộc; có 100% hộ gia đình (1.444 hộ gia đình với
5.576 nhân khẩu) đăng ký thực hiện “Gia đình an toàn về an
ninh trật tự”. Các mô hình trên gắn với việc tổ chức diễn đàn
“Công an lắng nghe ý kiến nhân dân” đã tác động sâu sắc đến
nhận thức và trách nhiệm của nhân dân đối với thực hiện nhiệm
vụ về an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trách nhiệm của lực lượng

252
công an trong công tác bảo đảm tình hình địa phương. Lực
lượng công an còn phối hợp với các ngành, đoàn thể vận động
nhân dân thực hiện việc giao nộp vũ khí, vật liệu cháy nổ theo
chủ trương của cấp trên. Với các việc làm thiết thực trên nên
tình hình an ninh và trật tự, an toàn xã hội ở địa phương luôn
được giữ vững ổn định; tác động tích cực, trực tiếp đến các
hoạt động khác của địa phương. Từ tháng 7/2019, Trưởng
Công an xã là đồng chí Nguyễn Tấn Khoa; từ tháng 11/2019
đến tháng 3/2020 là đồng chí Phan Minh Ca.
Công tác quân sự - quốc phòng địa phương là một trong
những nhiệm vụ hết sức quan trọng bên cạnh nhiệm vụ về phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Hằng năm, Đảng ủy xã đều ban
hành chỉ thị, nghị quyết về công tác quốc phòng - quân sự địa
phương. Trên cơ sở đó, tập trung xây dựng lực lượng dân quân
cơ động, dân quân tại chỗ, dân quân binh chủng bảo đảm về số
lượng và chất lượng theo kế hoạch giao. Vận động lực lượng
dân quân tham gia huấn luyện đạt 100% chỉ tiêu. Bên cạnh đó,
thường xuyên chú trọng công tác giáo dục về Luật Quốc phòng,
Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Dân quân, tự vệ, về xây dựng nền
quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; gắn với
phát triển kinh tế - xã hội nên ý thức về nhiệm vụ quân sự -
quốc phòng địa phương luôn được nhân dân thực hiện, đạt kết
quả. Công tác vận động thanh niên tham gia khám tuyển, phục
vụ công tác gọi công dân nhập ngũ tuy có khó khăn, do đa số

253
thanh niên không có mặt tại địa phương vì đi làm ăn xa, đi học
các trường nghề, đại học và cao đẳng, nhưng trong 5 năm xã
Bình Tân đã có 97 thanh niên nhập ngũ làm nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc, đạt 100% kế hoạch giao, liên tục được Ủy ban nhân
dân huyện tặng Giấy khen. Hoàn thành diễn tập chiến đấu
phòng thủ theo chủ trương của huyện. Xã đội trưởng là đồng chí
Nguyễn Quốc Vương.
Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 2016-2021 đã bầu 23 đại
biểu, đến tháng 3/2020 còn 18 đại biểu; đồng chí Trương
Quang Minh được bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng nhân dân
xã, đồng chí Đào Thị Liễu giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng
nhân dân xã. Hội đồng nhân dân xã từng bước phát huy vai trò
là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất tại địa phương, quyết
định các vấn đề quan trọng. Trong nhiệm kỳ đã cụ thể hóa chủ
trương của Đảng ủy thành các nghị quyết sát với tình hình thực
tế của địa phương, nhất là Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã
hội, quốc phòng - an ninh. Thực hiện tốt chức năng giám sát
nhằm bảo đảm việc thực thi pháp luật tại địa phương; phát huy
vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước và vai trò của nhân
dân trong tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Thực hiện
tốt hơn vai trò đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân. Duy trì các hoạt động tiếp xúc cử tri theo
luật định; giải quyết cơ bản các yêu cầu của cử tri, được đông
đảo cử tri đồng tình.

254
Về Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã là đồng
chí Bùi Văn Huân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã là đồng chí
Đào Duy Dương. Tháng 6/2018, đồng chí Bùi Văn Huân chuyển
sang làm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã; đồng
chí Nguyễn Chí Cường được Huyện ủy Bình Sơn điều động về
làm Phó Bí thư Đảng ủy xã và đến tháng 7/2018 được bầu giữ
chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Bộ máy tổ chức và cán bộ
được bố trí theo hướng tinh, gọn, hiệu quả, đúng quy hoạch và
năng lực, hiệu quả công tác của cán bộ. Hoạt động của bộ máy
chính quyền có nhiều đổi mới, đặc biệt tiếp tục thực hiện cải
cách hành chính, mở rộng dân chủ, tăng cường mối quan hệ với
nhân dân theo hướng phục vụ; tôn trọng và giải quyết kịp thời
các yêu cầu, vướng mắc trong nhân dân, từ đó có sự đồng thuận
cao với các chủ trương, nhiệm vụ của địa phương, thể hiện rõ
nhất là kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới. Trong chỉ đạo điều hành luôn tuân thủ
pháp luật và quy chế; phân công nhiệm vụ cụ thể; đề cao trách
nhiệm của tập thể và cá nhân phụ trách; hiệu quả điều hành các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội; xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện
các tiêu chí trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới ngày càng cao; đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được cải thiện rõ rệt. Công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật luôn được chú trọng, có gần 3.000 lượt nhân dân tham

255
dự. Giải quyết được cơ bản các đơn, thư khiếu nại của nhân dân,
đặc biệt liên quan đến đất đai theo thẩm quyền.
Tiếp tục chỉ đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị địa
phương thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày
03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về tăng
cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng trong tình hình
mới. Thông qua đó, công tác dân vận của hệ thống chính trị ở
địa phương được phát huy; đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
vận động nhân dân đồng thuận với các chủ trương của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; nhất là tích cực tham
gia vào quá trình hoàn thành các tiêu chí về xây dựng nông
thôn mới; phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng và an
ninh.
Tập trung chỉ đạo Đại hội hết nhiệm kỳ của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng dẫn của trên,
đồng thời bố trí cán bộ có năng lực, uy tín vào các chức danh
chủ chốt của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Theo đó, Chủ
tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã là đồng chí Nguyễn
Thanh Tùng, tiếp đến từ tháng 6/2018 là đồng chí Bùi Văn
Huân và đến tháng 4/2019 là đồng chí Bùi Viết Trung; Chủ
tịch Hội Nông dân xã là đồng chí Phạm Văn Thanh; Chủ tịch
Hội Phụ nữ xã lần lượt là đồng chí Đào Thị Liễu và đồng chí
Đoàn Thị Quỳnh Trâm; Bí thư Đoàn Thanh niên xã là đồng chí
Huỳnh Tấn Ánh, đến năm 2017 là đồng chí Nguyễn Hùng

256
Cường; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã là đồng chí Phan Văn
Sinh.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã bám
sát các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước và sự chỉ đạo của Đảng ủy xã và cấp trên để
triển khai, thực hiện nhiệm vụ công tác và các phong trào, các
cuộc vận động. Chú trọng đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động, nâng cao chất lượng các mặt công tác, hướng mạnh về
địa bàn thôn, xóm, khu dân cư và hộ gia đình. Thường xuyên
kiện toàn, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ
chức từ xã đến ban, chi, tổ hội. Coi trọng công tác xây dựng và
phát huy vai trò của lực lượng nòng cốt, cốt cán trong các tổ
chức chính trị - xã hội và tôn giáo. Nhiều cuộc vận động,
phong trào do Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội phát động có ý nghĩa thiết thực, đã thực sự thu hút đông
đảo quần chúng nhân dân tham gia. Đặc biệt, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể đã phối hợp vận động nhân dân thực hiện có
hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông
thôn mới, đô thị văn minh”. Phát huy vai trò trong công tác tập
hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân; chăm lo công tác phát

257
triển hội viên, đoàn viên 64, xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể vững mạnh, đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới.
Phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng Đảng,
chính quyền và đội ngũ cán bộ theo Quyết định số 217 và
Quyết định số 218 của Bộ Chính trị 65 nhằm góp phần xây dựng
Đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

64
. Đoàn Thanh niên xã kết nạp được 162 đoàn viên; Hội Cựu chiến
binh xã kết nạp 13 hội viên; Hội Nông dân xã kết nạp 310 hội viên và
Hội Phụ nữ xã kết nạp 112 hội viên.

65
. Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về
ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quyết định số 218-QĐ/TW ngày
12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

258
Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc xã tiếp tục phối hợp với
các tổ chức thành viên nâng cao chất lượng các cuộc vận động
“Ngày vì người nghèo”66, “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng
Việt Nam”; triển khai và nhân rộng các mô hình khu dân cư hài
hòa, xóa đói giảm nghèo, khu dân cư bảo vệ môi trường, khu
dân cư bảo đảm an toàn giao thông. Đẩy mạnh việc vận động
ra mắt và phát huy vai trò của họ tộc trong các hoạt động của
Mặt trận. Tích cực tham gia xây dựng chính quyền nhân dân.
Phối hợp giới thiệu và tổ chức hiệp thương giới thiệu người ra
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo luật định và
giám sát việc thực hành quyền dân chủ trong nhân dân.
Các phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng
tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”; “5 không, 3 sạch” luôn
được Hội Phụ nữ xã quan tâm chỉ đạo, vận động hội viên và
phụ nữ tích cực thực hiện. Gắn việc thực hiện các phong trào
với nhân rộng các mô hình học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng nhiều việc làm thiết thực,
ý nghĩa đã giúp nhiều trường hợp phụ nữ và trẻ em khó khăn

66
. Vận động được 90.461.363 đồng quỹ “Vì người nghèo”.

259
có nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Thực hiện kết nối tư vấn
pháp luật, bảo vệ phụ nữ và trẻ em thông qua “Địa chỉ tin cậy”.
Phong trào thi đua “Nông dân sản xuất - kinh doanh giỏi”,
“Giúp nhau xóa đói giảm nghèo” được xác định là một trong
những trọng tâm hoạt động của Hội Nông dân xã. Bằng nhiều
biện pháp thiết thực, Hội đã động viên hội viên và nông dân
hưởng ứng mạnh mẽ phong trào, tạo được khí thế phấn khởi ở
nông thôn. Đặc biệt, xác định vai trò chủ thể của giai cấp nông
dân trong quá trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông
thôn mới, Hội đã phối hợp với các tổ chức liên quan tổ chức
các đợt tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, đào
tạo nghề ngắn hạn; tiếp nhận và ứng dụng các biện pháp kỹ
thuật, công nghệ, tạo điều kiện cho nông dân chuyển đổi cơ cấu
sản xuất, chuyển đổi ngành nghề phù hợp, tạo nên diện mạo
mới ở nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc
xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu ở nông thôn.
Đoàn Thanh niên xã tiếp tục đẩy mạnh nội dung và phương
thức giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng, truyền thống, xây
dựng đạo đức, lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và chấp hành
Hiến pháp, pháp luật cho tuổi trẻ. Khuyến khích thanh niên xung
kích, sáng tạo, làm chủ khoa học. Phát huy vai trò của tuổi trẻ
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là thực hiện
có hiệu quả các phong trào: Bốn đồng hành cùng thanh niên lập
thân, lập nghiệp; Năm xung kích phát triển kinh tế - xã hội và

260
bảo vệ Tổ quốc; phong trào thanh niên tình nguyện vì cuộc sống
cộng đồng; đi đầu trong phong trào xây dựng nông thôn mới.
Tăng cường các hoạt động phù hợp với tâm lý của thanh, thiếu
niên, nhi đồng nhằm thu hút đông đảo thanh, thiếu niên và nhi
đồng vào trong các tổ chức do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh làm nòng cốt và phụ trách.
Hội Cựu chiến binh xã tiếp tục động viên hội viên và cựu
quân nhân tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giúp nhau phát triển kinh tế gia
đình, cải thiện cuộc sống. Phối hợp chặt chẽ với Đoàn Thanh
niên xã giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ. Tích cực tham gia
đấu tranh chống tham nhũng, các tiêu cực trong xã hội, góp
phần xây dựng và củng cố hệ thống chính trị, xây dựng Đảng,
chính quyền trong sạch, vững mạnh. Đẩy mạnh thực hiện có
hiệu quả phong trào “Cựu chiến binh gương mẫu, gia đình cựu
chiến binh tiêu biểu”,...
Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng trong công tác
giáo dục, vận động nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, nêu
gương người tốt, việc tốt, tham gia công tác xã hội, công tác từ
thiện... Tiêu biểu là vai trò của Hội Người cao tuổi, Hội
Khuyến học, Hội Chữ thập đỏ.
Cùng với nhiệm vụ lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng ủy xã
đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực

261
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên. Tập
trung xây dựng Đảng vững mạnh trên cả ba mặt: chính trị, tư
tưởng và tổ chức, gắn với đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 05-
CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cuộc
vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí.
Xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Ngay từ
đầu nhiệm kỳ, Đảng ủy xã đã tập trung cụ thể hóa Nghị quyết
Đại hội thành chương trình, kế hoạch và phân công nhiệm vụ
cho từng cấp ủy viên để tổ chức thực hiện. Đồng thời thực hiện
tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, cấp dưới phục tùng cấp trên... Đảng bộ xã luôn nêu cao
tinh thần tự phê bình và phê bình, giữ vững được tinh thần
đoàn kết, thống nhất từ nhận thức đến ý chí và hành động.
Trên mặt trận tư tưởng, tập trung quán triệt đầy đủ các
nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng các cấp đến đảng viên,
cán bộ, công chức, người lao động; xác định trách nhiệm cụ thể
của mỗi ngành, cá nhân trong thực hiện, bảo đảm đưa chủ
trương, nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống. Tăng cường
công tác thông tin, tuyên truyền bằng nhiều hình thức khác
nhau, phù hợp với đặc điểm và tình hình của nhân dân, hội
viên, đoàn viên. Đẩy mạnh công tác chính trị, tư tưởng với việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí

262
Minh; phát động phong trào thi đua yêu nước trong mọi ngành,
lĩnh vực, trong toàn Đảng bộ và nhân dân. Coi trọng công tác
nắm tình hình dư luận xã hội, kịp thời định hướng chỉ đạo,
nâng cao nhận thức, ý thức và tinh thần cảnh giác cách mạng
nhằm đấu tranh có hiệu quả các luận điệu xuyên tạc và âm mưu
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp
cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Duy trì nền nếp việc tiếp
xúc, đối thoại với nhân dân; nắm bắt tâm tư, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân; chỉ đạo giải quyết kịp thời các yêu
cầu chính đáng của nhân dân. Từ đó, củng cố, tăng cường niềm
tin trong nhân dân; gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân
ngày càng sâu sắc. Đặc biệt là đã làm tốt công tác tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân về việc sắp xếp lại các đơn vị
hành chính, sự nghiệp, tinh giản bộ máy, nâng cao chất lượng
hoạt động của hệ thống chính trị theo chủ trương của Đảng và
Nhà nước. Ngày 21/10/2019, nhân dân, cán bộ, đảng viên trong
xã đã thống nhất cao với chủ trương của Huyện ủy và Ủy ban
nhân dân huyện về việc sáp nhập xã Bình Tân với xã Bình Phú.
Ngày 10/01/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành
Nghị quyết số 867/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị
hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Quảng Ngãi; trong đó
có việc sáp nhập hai xã Bình Tân và Bình Phú thành xã Bình
Tân Phú.

263
Đặc biệt, tập trung xây dựng chương trình hành động thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tăng cường công tác lãnh
đạo, chỉ đạo và phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác xây dựng
Đảng. Qua thực hiện, cán bộ, đảng viên đã nêu cao tinh thần,
trách nhiệm, tự rèn luyện bản thân, nâng cao bản lĩnh chính trị,
khắc phục các yếu kém trong quá trình thực hiện nhiệm vụ,
củng cố niềm tin trong nhân dân. Đồng thời, Đảng ủy xã đã đặt
hòm thư góp ý tại trụ sở làm việc và các chi bộ trực thuộc
nhằm tiếp thu ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và nhân
dân trong công tác xây dựng Đảng.
Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ
Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” được xem là một
biện pháp tích cực để rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống; nâng cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Sự kiện
Đảng ủy xã tổ chức lễ phát động và vận động được 280 triệu
đồng, xây dựng được 7 “Ngôi nhà cấp ủy”, đã tác động mạnh
đến suy nghĩ và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân,
góp phần cải thiện nhà ở cho một số gia đình chính sách, gia
đình đảng viên khó khăn về nhà ở. Vận động cán bộ, công chức

264
xã đóng góp trên 49,3 triệu đồng để nhận phụng dưỡng 1 Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng. Tổ chức lễ phát động phong trào
“Chung sức xây dựng kênh mương nội đồng”, kết quả đã thực
hiện được 2 km kênh mương nội đồng. Trồng hơn 3.000 cây
cảnh quan và 6 tuyến đường hoa, huy động xây dựng 04 cổng
chào ở khu dân cư; 180 triệu đồng thực hiện mô hình “Thắp
sáng đường quê”, dài trên 9 km; mô hình “Người bạn đồng
hành” nhận và giúp đỡ các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn; một số mô hình khác, như: “Hũ gạo tình thương”, “Tiếp
sức đến trường” đem lại hiệu quả thiết thực, tạo sự lan tỏa
trong cộng đồng. 100% chi bộ trực thuộc đều đăng ký thực
hiện mô hình “Tiết kiệm” để giúp đỡ hộ nghèo, hộ khó khăn.
Đảng ủy xã duy trì việc chào cờ và sinh hoạt tư tưởng dưới cờ
vào sáng thứ 2 của tuần đầu tháng, có phát thanh trực tiếp trên
hệ thống đài truyền thanh xã. Chính quyền tổ chức lễ ký cam
kết thực hiện phong trào thi đua “Cán bộ, công chức, viên chức
thi đua thực hiện văn hóa công sở” giai đoạn 2019-2025. Qua
đó nhận thức và hành động của cán bộ, công chức đã có nhiều
chuyển biến tích cực, tinh thần ý thức tự rèn luyện, học tập, tu
dưỡng đạo đức, lối sống; hiệu quả trong thực thi công vụ ngày
càng được nâng cao.
Công tác tổ chức và cán bộ được quan tâm đúng mức. Đã
kịp thời thực hiện các quy trình về công tác cán bộ bảo đảm yêu
cầu. Từ tháng 6/2018, Huyện ủy đã luân chuyển đồng chí Ung

265
Đình Hiền - Huyện ủy viên về làm Bí thư Đảng ủy xã; đồng chí
Nguyễn Chí Cường về làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã. Thực hiện tốt nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Trong nhiệm kỳ đã
củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị đến tận
thôn, xóm. Xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan trong
hệ thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của
Đảng; phát huy vai trò quản lý, điều hành của chính quyền; hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Phân công cán bộ lãnh đạo phụ trách các lĩnh vực trọng yếu.
Thực hiện chủ trương nhất thể hóa Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng
ban công tác Mặt trận tại 4 thôn theo chỉ đạo của Ban Thường
vụ Huyện ủy. Kiện toàn ban thôn, bầu trưởng thôn nhiệm kỳ
2016-2018 và 2018-2020. Công tác cán bộ được coi trọng, là
khâu quan trọng trong công tác xây dựng Đảng; có tính chất
quyết định đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa
phương. Do vậy, trong nhiệm kỳ Đảng ủy xã đã thực hiện tốt
công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo cán bộ nhằm chuẩn hóa
và trẻ hóa đội ngũ cán bộ. Cử đi đào tạo trung cấp lý luận chính
trị - hành chính 5 cán bộ và sơ cấp chính trị 6 đồng chí. Cử
nhiều lượt cán bộ tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng ngắn
ngày do huyện triệu tập. Đề nghị cấp có thẩm quyền tặng Huy
hiệu Đảng cho 35 đảng viên của Đảng bộ xã đủ điều kiện.

266
Giải thể 2 chi bộ Trường Trung học cơ sở và Tiểu học;
thành lập mới 2 chi bộ: Chi bộ Trường Mẫu giáo, Chi bộ
Trường Tiểu học và Trung học cơ sở. Đến cuối năm 2019, toàn
Đảng bộ xã có 7 chi bộ trực thuộc (không tăng so với đầu
nhiệm kỳ) với 192 đảng viên, trong đó có 31 đảng viên mới
được kết nạp, tăng so với đầu nhiệm kỳ 25 đảng viên, chiếm
3,94% dân số (4.868 người). Nhìn chung, năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức đảng được nâng lên. Tất cả các tổ
chức đảng trực thuộc và đảng viên đều chấp hành tốt nguyên
tắc, Điều lệ Đảng; giữ vững bản lĩnh chính trị, đạo đức cách
mạng, nêu cao tinh thần tiên phong gương mẫu, xây dựng đoàn
kết, nhất trí trong Đảng bộ; lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính
trị của địa phương đạt kết quả cao. Qua đánh giá tổ chức đảng
cơ sở, có 87% hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, vượt 8,75% so
với Nghị quyết Đại hội đề ra. Đảng bộ xã đã vươn lên từ đơn vị
yếu năm 2017 (do liên quan đến công tác quản lý nhà nước về
ngân sách của cán bộ) đã trở thành tổ chức cơ sở đảng hoàn
thành tốt nhiệm vụ trong các năm 2018 và 2019.
Công tác kiểm tra được chú ý, xác định đây là biện pháp
tốt nhất để nâng cao chất lượng tổ chức đảng và đảng viên.
Thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra, giám sát tổ chức
đảng trực thuộc và đảng viên trong việc thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước theo Điều lệ Đảng. Đã kịp thời chấn chỉnh, khắc phục

267
những mặt hạn chế, thiếu sót; kỷ cương, kỷ luật được đẩy
mạnh. Qua đó, nâng cao ý thức chấp hành, tính nêu gương, tinh
thần và trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong thực hiện
chức trách, nhiệm vụ được giao; tu dưỡng, rèn luyện đạo đức,
phẩm chất của người đảng viên; xây dựng Đảng ngày càng
trong sạch, vững mạnh. Đồng thời đề nghị Ban Thường vụ
Huyện ủy xóa tên 4 đảng viên do vi phạm các nguyên tắc trong
sinh hoạt đảng; thi hành kỷ luật đảng đối với 12 đảng viên bảo
đảm đúng quy định.
Công tác dân vận của hệ thống chính trị ngày càng đồng
bộ, phát huy vai trò của các tổ chức trong công tác dân vận trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đã khắc phục dần tình trạng
coi công tác dân vận là của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội. Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện công tác
dân vận trong hệ thống chính trị theo Quyết định số 713 của
Huyện ủy. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số
25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về
tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng trong tình
hình mới theo phương châm “trọng dân, gần dân, hiểu dân, có
trách nhiệm với dân” gắn với phát động và thực hiện nhiều mô
hình trong phong trào thi đua dân vận khéo, tạo được sự đồng
thuận cao trong nhân dân và thực hiện tốt mục tiêu, chỉ tiêu do
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Bình Tân đề ra trong nhiệm kỳ
2015-2020.

268
Trong công tác lãnh đạo, Đảng ủy xã đã ban hành nhiều
nghị quyết, chương trình, kế hoạch cụ thể, sát thực tiễn nhằm
xây dựng, củng cố tổ chức đảng và nâng cao chất lượng đảng
viên, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Coi trọng công tác
phổ biến, học tập, quán triệt các nghị quyết, chủ trương của
Đảng, Nhà nước đến với nhân dân và đảng viên, tạo sự thống
nhất cao về ý chí và hành động trong Đảng bộ xã, sự đồng
thuận trong nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát,
đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện. Thực hiện tốt Quy chế
dân chủ ở cơ sở, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối
với hệ thống chính trị và toàn xã hội; khắc phục tình trạng cấp
ủy bao biện làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo đối với hệ
thống chính trị; có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, đề cao
vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, phát huy tính tiền
phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ 2015-2020, trước
hết là do có đường lối đổi mới của Đảng; có sự chỉ đạo kịp thời
của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện và
sự phối hợp thực hiện của các cơ quan, ban, ngành của huyện
Bình Sơn. Đảng bộ xã đã kế thừa những thành tựu và kinh
nghiệm thực tiễn trong thực hiện đường lối đổi mới; Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XIX đã xác định hướng đi
đúng, bước đi thích hợp, đề ra mục tiêu cụ thể bảo đảm tính

269
khả thi, sát thực tiễn; xác định được các nhiệm vụ đột phá và
giải pháp để phát triển lực lượng sản xuất, tạo môi trường
thuận lợi thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đặc biệt
là sự nỗ lực, quyết tâm cao của hệ thống chính trị, của nhân
dân và đảng viên, cán bộ xã Bình Tân. Đảng bộ xã luôn chú
trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức đảng; đã xây dựng được sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng bộ, trước hết là trong Ban Chấp hành,
Ban Thường vụ, Thường trực Đảng ủy trên cơ sở nguyên tắc
của Điều lệ Đảng; phát huy dân chủ trong Đảng, trong xã hội,
tạo sự đồng thuận trong nhân dân, động viên nhân dân tích cực
thi đua lao động sản xuất, phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm
vụ chính trị của địa phương trên tất cả mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội; nhất là trong xây dựng nông thôn mới.
Tuy nhiên, trong công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ tại
địa phương, Đảng bộ xã Bình Tân nhận thấy còn một số hạn
chế, cần tập trung khắc phục, đó là: tăng trưởng kinh tế chưa
cao, chưa tạo ra sự đột phá, nhất là trong nông nghiệp. Quản lý
nhà nước về ngân sách còn để xảy ra sai sót. Quản lý quy
hoạch, đất đai, tài nguyên, môi trường còn một số bất cập
nhưng chậm được giải quyết, có việc kéo dài, để lại hậu quả
xấu, gây ảnh hưởng đến uy tín của cán bộ, đảng viên. Trật tự
an toàn xã hội tiềm ẩn một số phức tạp, tình trạng cờ bạc, số đề
dưới mọi hình thức chưa được ngăn chặn triệt để. Công tác

270
giáo dục chính trị, tư tưởng trong nhân dân có lúc chưa kịp
thời. Chưa phát huy hết vai trò và trách nhiệm của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong giám sát, phản
biện xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nguyên
nhân chủ yếu là do: công tác lãnh đạo của cấp ủy có lúc chưa
kịp thời; đội ngũ cán bộ tuy có nhiều tiến bộ nhưng chưa thật
sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; một số tồn tại, hạn chế của
nhiệm kỳ trước để lại nhưng chưa có cơ chế, chính sách và chủ
trương tháo gỡ, giải quyết kịp thời, hiệu quả. Trong điều kiện
kinh tế thị trường có tác động mạnh mẽ nhất là giá cả nông sản,
đầu ra sản phẩm, tác động xấu của thiên tai... làm ảnh hưởng
đến kết quả lãnh đạo của Đảng bộ xã.
Từ thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm kỳ qua, tuy
còn một số hạn chế nhất định nhưng Đảng bộ xã khẳng định
rằng: Kết quả đạt được trên các mặt của đời sống xã hội là cơ
bản, làm thay đổi lớn trong nhận thức, suy nghĩ, hành động của
cán bộ, đảng viên và nhân dân; là sự nối tiếp những truyền
thống yêu lao động, cần cù, sáng tạo, tạo nên diện mạo mới và
động lực mới để Đảng bộ và nhân dân xã vươn lên đạt nhiều
kết quả quan trọng hơn. Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ xã đã rút ra
một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm phát triển
toàn diện từ trong lãnh đạo, chỉ đạo đến khâu tổ chức thực
hiện; trong tất cả các ngành, các lĩnh vực; trong mỗi tổ chức

271
của hệ thống chính trị địa phương. Phát triển kinh tế phải đi đôi
với phát triển văn hóa, thực hiện các mục tiêu xã hội; bảo vệ
môi trường; bảo đảm quốc phòng - an ninh; không ngừng nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo sự công bằng
xã hội, bảo đảm phát triển bền vững.
Hai là, phải biết vận dụng sáng tạo, linh hoạt đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào
điều kiện cụ thể của địa phương. Huy động và khai thác có hiệu
quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là xây dựng kết
cấu hạ tầng gắn với xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh
xã hội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Ba là, tập trung làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, triển khai đầy đủ, kịp thời các các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến đảng viên, cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động và nhân dân. Nâng cao
phẩm chất, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên gắn với
tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh.
Bốn là, trong chỉ đạo phát triển kinh tế, phải xác định được
hướng đi đúng, bước đi thích hợp, đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ
cụ thể cho từng giai đoạn và có các giải pháp đột phá để thực
hiện. Kết hợp và giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước,
doanh nghiệp, cộng đồng dân cư, đặc biệt là lợi ích của người
dân. Phải biết dựa vào dân, phát huy dân chủ, tính chủ động,

272
sáng tạo của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân
dân và có quyết sách đúng đắn khi thực hiện.
Năm là, thường xuyên quan tâm xây dựng Đảng cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Phải xây dựng sự đoàn kết,
thống nhất cao trong toàn Đảng bộ. Phát huy dân chủ, trí tuệ
trong Đảng, làm hạt nhân thúc đẩy phát huy dân chủ trong xã
hội, gắn với xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân
dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị, phẩm chất,
năng lực, phát huy vai trò, trách nhiệm, năng động, sáng tạo,
sâu sát cơ sở, có tính quyết đoán cao, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân. Thường xuyên
coi trọng công tác kiểm tra, tổng kết thực tiễn để kịp thời kiến
nghị cấp trên bổ sung, điều chỉnh phù hợp, đúng pháp luật, bảo
đảm lợi ích của nhân dân, tạo động lực phát triển.

273
KẾT LUẬN

Bốn mươi lăm năm (1975-2020) là một khoảng thời gian


không dài trong lịch sử nhưng đây là thời kỳ liên tục diễn ra
những sự kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử quan trọng, làm biến
đổi lớn và sâu sắc trong hoạt động của Đảng bộ và nhân dân xã
Bình Tân. Đây là thời kỳ Đảng bộ xã Bình Tân tập trung lãnh
đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo chủ trương của
Đảng.
Trong hơn 10 năm (1975-1986), dưới ánh sáng Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, được sự chỉ
đạo của Huyện ủy, trải qua 5 kỳ đại hội, từ Đại hội lần thứ VII
đến Đại hội lần thứ XI, Đảng bộ xã Bình Tân đã tích cực lãnh
đạo nhân dân tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, từng
bước khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng
các tiềm lực về quốc phòng, bảo đảm an ninh chính trị và trật
tự, an toàn xã hội. Xã Bình Tân là một địa phương bị chiến
tranh tàn phá nặng nề, đa số nhân dân sống bằng nông nghiệp,
đất đai bị hoang hóa, thiếu nước nên sản xuất và đời sống của
nhân dân vô vàn khó khăn; nguồn lực phục vụ cho phát triển
kinh tế nông nghiệp thiếu thốn, năng suất thấp, tình trạng thiếu

274
đói trong một bộ phận nhân dân chưa khắc phục được. Bên
cạnh đó, thực hiện chủ trương về cải tạo công, thương nghiệp,
xã đã vận động nhiều hộ dân ủng hộ chủ trương của Đảng,
chuyển đổi ngành nghề từ buôn bán, dịch vụ sang sản xuất
nông nghiệp, hoặc tham gia vào các hợp tác xã ngành nghề.
Đến năm 1982, thực hiện Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư khóa
V, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng bộ xã Bình Tân tập
trung tháo gỡ dần những ách tắc trong cơ chế quản lý kinh tế,
thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong
hợp tác xã. Việc thực hiện Chỉ thị số 100 đã làm thay đổi tư
duy về cách thức tổ chức sản xuất, quản lý và phân phối sản
phẩm, tạo động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển
mạnh mẽ; động viên được nguồn lực vật chất và tinh thần của
nhân dân trong sản xuất, năng suất và chất lượng cây trồng
tăng lên, hạn chế dần tình trạng khan hiếm và thiếu lương thực
trong nhân dân. Lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng được củng cố, tăng cường. Cùng với lãnh đạo phát triển
kinh tế nông nghiệp, Bình Tân cũng đã thực hiện tốt công tác
tuyên truyền, vận động các hộ dân phát huy lợi thế, đầu tư và
mở rộng sang các ngành, nghề sản xuất phi nông nghiệp, sớm
tham gia vào hợp tác xã mua bán... vừa góp phần giải quyết đời
sống, sản xuất, vừa góp phần lớn vào thực hiện chủ trương cải
tạo công thương nghiệp của Đảng và Nhà nước. Sự nghiệp văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng các tổ chức trong
hệ thống chính trị cũng được Đảng ủy xã quan tâm chỉ đạo và
đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tạo nên diện mạo

275
nông thôn mới văn minh. Đặc biệt, tháng 12/1986, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới,
đánh dấu sự chuyển biến căn bản tư duy lãnh đạo của Đảng
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1986 đến năm 2020, thực hiện đường lối đổi mới
của Đảng, Đảng bộ xã Bình Tân đã trải qua 8 kỳ Đại hội, từ
Đại hội lần thứ XII đến Đại hội lần thứ XIX. Mỗi kỳ Đại hội
đều thể hiện sự chuyển biến nhận thức và quyết tâm cao của
Đảng bộ xã trong lãnh đạo nhân dân thực hiện mục tiêu phát
triển toàn diện mọi mặt đời sống xã hội. Bằng các chủ trương
và biện pháp cụ thể, Đảng bộ xã Bình Tân đã nhanh chóng
tiếp cận được cơ chế quản lý mới, hoàn thiện và nâng cao vai
trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý và điều hành của chính
quyền; vai trò vận động, tập hợp, hướng dẫn nhân dân hiểu rõ
và thực hiện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần
chúng. Với việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ xã qua các nhiệm kỳ đã góp phần nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân địa phương.
Đặc biệt, từ những năm cuối thế kỷ XX, khi Chính phủ quyết
định chọn huyện Bình Sơn để xây dựng một số công trình
trọng điểm về công nghiệp, nhằm vực dậy kinh tế miền Trung
- Tây Nguyên nói chung, kinh tế tỉnh Quảng Ngãi và huyện
Bình Sơn nói riêng, đã mở ra nhiều cơ hội cho địa phương
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhất là trong nông nghiệp và các
ngành nghề một cách toàn diện, thúc đẩy nhanh quá trình xây

276
dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại. Cùng với quá trình
đó, hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư phát triển
nhanh, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển. Các lĩnh vực văn
hóa, xã hội tiếp tục được duy trì và có nhiều tiến bộ; giải quyết
việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận nhân dân, nhất là
thanh niên được tốt hơn; đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được cải thiện. Quốc phòng, an ninh được tăng
cường, chính trị - xã hội ổn định, trật tự, an toàn xã hội được
giữ vững. Chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị tiếp
tục được nâng lên, lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng ủy, điều hành của chính quyền, vào công cuộc đổi mới
do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo được củng cố vững chắc.
Bốn mươi lăm năm lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa đạt được rất nhiều thành tựu, tuy nhiên, Đảng bộ xã
Bình Tân vẫn còn một số hạn chế, yếu kém nhất định, ảnh
hưởng đến thành tựu chung của phong trào cách mạng địa
phương. Đó là: trong công tác lãnh đạo thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đôi khi vẫn còn
chủ quan, thiếu tính sáng tạo, chưa thực sự phát huy hết tiềm
năng, thế mạnh và phù hợp với điều kiện của địa phương. Kinh
tế phát triển nhưng thiếu tính bền vững; công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp, thương mại - dịch vụ phát triển, nhưng so với yêu
cầu chung thì quy mô sản xuất còn nhỏ, khả năng cạnh tranh
chưa cao. Công tác quản lý nhà nước về đất đai, môi trường có
lúc chưa tốt; ý thức, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, nhân

277
dân chưa cao; hoạt động của cơ chế “một cửa” chưa thật sự đáp
ứng yêu cầu của nhân dân. Công tác cán bộ chưa thực sự đáp
ứng yêu cầu phát triển. Mặc dù có những khuyết điểm, yếu
kém song những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân xã Bình
Tân đạt được từ năm 1975 đến năm 2020 là vô cùng to lớn và
đáng trân trọng, kế tục xứng đáng truyền thống vẻ vang của
Đảng bộ, nhân dân qua các thời kỳ lịch sử. Những thành tựu to
lớn này bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của
Đảng, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện; từ sự
chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của Huyện ủy Bình Sơn; sự nỗ
lực phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể quần chúng và toàn thể nhân dân; là sự kế thừa và
phát huy tinh thần yêu nước, tinh thần tự lực, tự cường, năng
động, sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân địa phương.
Từ thực tiễn lãnh đạo phong trào hành động cách mạng
giai đoạn 1975-2020, Đảng bộ xã Bình Tân rút ra một số bài
học kinh nghiệm như sau:
Một là, nắm vững và chủ động vận dụng đầy đủ, sáng tạo
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước vào tình hình thực tế của địa phương. Bình Tân là
một địa phương có bề dày lịch sử và có truyền thống cách
mạng kiên cường, nhân dân cần cù, yêu lao động. Đó chính là
lợi thế cho địa phương trong việc phát huy những giá trị tốt đẹp
để đầu tư các nguồn lực về vật chất và tinh thần phát triển kinh
tế - xã hội. Do vậy, trong suốt 45 năm qua, Đảng bộ xã Bình
Tân đã thường xuyên chủ động trong công tác lãnh đạo, cụ thể

278
hóa đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước vào tình hình thực tế của địa phương. Những
khó khăn trong lãnh đạo phát triển kinh tế, đời sống từng bước
được tháo gỡ; ổn định và nâng cao đời sống nhân dân; hạ tầng
kinh tế - xã hội được Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng cùng
với đóng góp của nhân dân theo phương châm “Nhà nước và
nhân dân cùng làm” đã góp phần tạo ra những bước ngoặt quan
trọng để phát triển kinh tế toàn diện. Trên thực tế và đặc biệt từ
năm 1997 đến tháng 3/2020, Đảng bộ xã đã lãnh đạo thực hiện
đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh, xây dựng hệ thống chính trị hoạt động hiệu lực, hiệu
quả; tạo dựng thêm uy tín ngày càng cao đối với nhân dân.
Hai là, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ,
thường xuyên tự phê bình và phê bình trong Đảng, nâng cao
sức chiến đấu của Đảng bộ xã. Đoàn kết là truyền thống quý
báu của Đảng và nhân dân ta. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về đoàn kết, Đảng bộ Bình Tân luôn coi trọng và
xây dựng đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng. Truyền thống
này đã tạo nên sức mạnh giúp Đảng bộ xã vượt qua muôn vàn
khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Vượt qua bao khó khăn của thời kỳ kế hoạch hóa tập
trung quan liêu, bao cấp và trong thời kỳ đổi mới, Đảng bộ xã
Bình Tân vẫn luôn quan tâm xây dựng khối đoàn kết trong
Đảng và trong toàn hệ thống chính trị; chú trọng bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ; phát huy dân chủ, tăng cường vai trò và trách

279
nhiệm cá nhân của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý; thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình
trong Đảng trên tinh thần xây dựng, yêu thương giúp đỡ lẫn
nhau; biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân.
Do vậy, Đảng bộ xã Bình Tân đã huy động tối đa nguồn lực
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân để hàn gắn vết thương
chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân; động viên nhân dân hy sinh
lợi ích riêng vì lợi ích chung, chung tay góp sức hoàn thành
việc xây dựng nông thôn mới, đưa đời sống nhân dân ngày một
tốt hơn, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ba là, thường xuyên củng cố và tăng cường mối quan hệ
mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Xuất phát từ quan điểm
“Dân là gốc” và từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của Đảng bộ
và nhân dân Bình Tân qua các thời kỳ lịch sử, đã luôn khẳng
định sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của
nhân dân. Do vậy, Đảng bộ xã luôn quan tâm chăm lo lợi ích
thiết thực của các tầng lớp nhân dân, của các gia đình chính
sách, người có công với cách mạng, kể các gia đình có người
thân tham gia chế độ cũ, các đảng phái chính trị; tạo sự bình
đẳng, không định kiến xã hội. Trong thời kỳ thực hiện cơ chế
kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp cũng như trong thời
kỳ đổi mới, Đảng bộ xã Bình Tân luôn quan tâm giải quyết các
vấn đề thiết thực có liên quan đến lợi ích của các tầng lớp nhân
dân; giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế với thực hiện
chính sách xã hội.

280
Những thành tựu và kinh nghiệm tích lũy trong 45 năm
(1975-2020) thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quê hương mới là những hành trang
vô cùng quý báu để Đảng bộ và nhân dân Bình Tân tự tin hòa
nhập, vững bước trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, góp phần đưa xã Bình Tân Phú (sáp nhập 2 xã
Bình Tân và Bình Phú thành xã Bình Tân Phú theo Nghị quyết
số 867/NQ-UBTVQH14 ngày 10/01/2020, của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội) trong tương lai trở thành một xã mạnh về kinh tế,
chính trị, văn hóa - xã hội của huyện; cùng với Đảng bộ và
nhân dân huyện Bình Sơn thực hiện thắng lợi cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”.

281
PHỤ LỤC

I. DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ BÌNH TÂN


(1975-3/2020)

TT Họ và tên Nhiệm kỳ Ghi chú


I 1975-1976 Lâm thời
1 Đào Ngọc Thìn Bí thư
2 Bùi Văn Cẩn Phó Bí thư
3 Võ Thanh Tùng
4 Đỗ Thị Tiến
5 Cù Văn Đến
Quyết định
II 1977-1978 số 17/TV-QĐ,
ngày 08/01/1977
1 Đào Ngọc Thìn Bí thư
Nguyễn Hữu
2 Phó Bí thư
Phước
3 Bùi Văn Cẩn Phó Bí thư
4 Phan Văn Mùi Ủy viên Thường vụ
5 Võ Thanh Tùng
6 Đồng Tấn Thắng
7 Phạm Thị Thoa
282
TT Họ và tên Nhiệm kỳ Ghi chú
8 Nguyễn Văn Kiện
9 Đồng Huyễn
10 Phạm Văn Nên
11 Trần Hạng
12 Phạm Kính
Quyết định
III 1979-1981 số 167/TV-QĐ,
ngày 22/11/1978
12/1978-
Nguyễn Hữu Bí thư;
1 7/1979;
Phước Phó Bí thư
10/1980-1981
2 Bùi Văn Cẩn Phó Bí thư
3 Nguyễn Văn Kiện 7/1979-1981 Bí thư
4 Phan Văn Mân Ủy viên Thường vụ
5 Phạm Văn Nên
6 Đồng Huyễn
7 Phạm Thị Ân
8 Phạm Đào
9 Phạm Kính
Quyết định
10 Phạm Thị Hưng số 29/TV-QĐ,
ngày 01/02/1979
Quyết định
11 Trương Công Đáng
số 29/TV-QĐ,

283
TT Họ và tên Nhiệm kỳ Ghi chú
ngày 01/02/1979
Danh sách lưu tại
IV 1982-1984
Huyện ủy
Nguyễn Hữu
1 Bí thư
Phước
2 Đồng Huyễn Phó Bí thư
3 Bùi Thanh Sơn
4 Phan Văn Môn
5 Trương Công Đáng
6 Đoàn Công Phụng
7 Thới Hoàng
8 Phạm Kính
9 Hồ Tấn Hinh
10 Phạm Nhơn
11 Phạm Đào
12 Trần Tiến Mai
13 Hồ Thị Huề
Danh sách lưu tại
V 1984-1986
Huyện ủy
1 Phan Văn Mân Bí thư
2 Đồng Huyễn Phó Bí thư
3 Phan Văn Môn
4 Phạm Kính

284
TT Họ và tên Nhiệm kỳ Ghi chú
5 Trương Công Đáng
6 Hồ Tấn Hinh
7 Hồ Thị Huề
8 Bùi Thanh Sơn
9 Thới Hoàng
10 Võ Thanh Phiên
11 Phạm Nhơn
12 Đoàn Công Phụng 1985-1986 Phó Bí thư
13 Nguyễn Toàn
Danh sách lưu tại
VI 1986-1988
Huyện ủy
1 Phan Văn Mân Bí thư
1986-9/1987; Phó Bí thư;
2 Đoàn Công Phụng
9/1987-1988 Bí thư
Thường vụ trực
3 Bùi Thanh Sơn
Đảng
4 Phan Văn Môn Ủy viên Thường vụ
5 Trương Công Đáng Ủy viên Thường vụ
6 Võ Duy Đối
7 Thới Hoàng
8 Phạm Kính
9 Hồ Tấn Hinh
10 Phạm Nhơn

285
TT Họ và tên Nhiệm kỳ Ghi chú
11 Quảng Tiến Sinh
12 Trần Tiến Mai
13 Hồ Thị Huề
VII 1989-1991
1 Đoàn Công Phụng Bí thư
2 Bùi Thanh Sơn Phó Bí thư
Thường vụ trực
3 Trần Văn Ngọc
Đảng
4 Hồ Tấn Mai
5 Trương Công Đáng
6 Võ Duy Đối
7 Thới Hoàng
8 Hồ Thị Huề
9 Quảng Tiến Sinh
10 Phan Văn Môn
11 Trần Tiến Mai
Biên bản
VII
1991-1994 Đại hội (vòng 2),
I
ngày 05/10/1991
1 Đoàn Công Phụng Bí thư
2 Bùi Thanh Sơn Phó Bí thư
3 Trần Văn Ngọc Ủy viên Thường vụ
4 Nguyễn Thanh

286
TT Họ và tên Nhiệm kỳ Ghi chú
Tùng
5 Trần Thị Thúy Liễu
6 Đỗ Văn Dũng
7 Võ Duy Đối
8 Đỗ Tấn Đồng
9 Thới Hoàng
Quyết định
IX 1994-1996 Số 20-QĐ/TV,
ngày 09/6/1994
1 Đoàn Công Phụng Bí thư
2 Bùi Thanh Sơn Phó Bí thư
3 Trần Văn Ngọc Ủy viên Thường vụ
Nguyễn Thanh
4
Tùng
5 Đỗ Văn Dũng
6 Võ Duy Đối
7 Đỗ Tấn Đồng
8 Trương Công Đáng
9 Thới Hoàng
Quyết định
X 1996-2000 Số 17-QĐ/TV,
ngày 28/01/1996
1 Đoàn Công Phụng Bí thư

287
TT Họ và tên Nhiệm kỳ Ghi chú
2 Bùi Thanh Sơn Phó Bí thư
3 Trần Văn Ngọc Ủy viên Thường vụ
Nguyễn Thanh
4
Tùng
5 Trương Công Đáng
6 Đỗ Văn Dũng
7 Đỗ Tấn Đồng
8 Võ Duy Đối
9 Trần Thị Thúy Liễu
10 Trần Tiến Mai
11 Phạm Đức Phú
Quyết định
XI 2000-2005 Số 140-QĐ/TV,
ngày 06/9/2000
1 Đoàn Công Phụng Bí thư
2 Bùi Thanh Sơn Phó Bí thư
3 Trần Văn Ngọc Phó Bí thư
4 Hồ Đức Trang
5 Võ Duy Đối
Nguyễn Thanh
6
Tùng

288
TT Họ và tên Nhiệm kỳ Ghi chú
7 Trương Công Đáng
Trương Quang
8
Minh
9 Đỗ Tấn Đồng
10 Trần Thị Thúy Liễu
11 Phạm Đức Phú
Quyết định
XII 2005-2010 Số 4638-QĐ/HU,
ngày 25/8/2005
1 Bùi Thanh Sơn Bí thư
2 Đoàn Công Phụng Phó Bí thư
3 Trần Văn Ngọc Phó Bí thư
4 Hồ Đức Trang
5 Võ Duy Đối
Nguyễn Thanh
6
Tùng
Trương Quang
7
Minh
8 Bùi Văn Huân
9 Phan Thanh Hùng
Nguyễn Thanh
10
Hùng
11 Nguyễn Thị Phước
12 Quảng Tiến Sinh

289
TT Họ và tên Nhiệm kỳ Ghi chú
Tống Thị Thanh
13
Bình
Quyết định
XII
2010-2015 số 5939-QĐ/HU,
I
ngày 01/7/2010
Trương Quang
1 Bí thư
Minh
2 Bùi Văn Huân Phó Bí thư
3 Võ Duy Đối Phó Bí thư
4 Bùi Viết Trung Ủy viên Thường vụ
Nguyễn Thanh Ủy viên Thường vụ
5
Tùng
6 Phạm Văn Thanh
Nguyễn Quốc
7
Vương
8 Trần Thị Xuân Hòa
9 Hồ Đức Trang
10 Thới Mãi
11 Huỳnh Tấn Lâm
12 Quảng Thanh Lâm
13 Huỳnh Tấn Ánh
14 Bùi Thị Hạnh
15 Nguyễn Thị Thanh

290
TT Họ và tên Nhiệm kỳ Ghi chú
Thúy
16 Võ Hải
17 Đoàn Anh Tuấn
Quyết định
XIV 2015-2020 Số 3627-QĐ/HU,
ngày 05/6/2015
Trương Quang 6/2015-5/2018; Bí thư;
1
Minh 6/2018-3/2020 Phó Bí thư
2 Bùi Văn Huân 6/2015-6/2018 Phó Bí thư
3 Võ Duy Đối Phó Bí thư
Bí thư
(Quyết định số
2869-QĐ/HU, ngày
4 Ung Đình Hiền 6/2018-3/2020
12/6/2018 của Ban
Thường vụ Huyện
ủy)
Phó Bí thư
(Quyết định số
2870-QĐ/HU, ngày
5 Nguyễn Chí Cường 7/2018-3/2020
12/6/2018 của Ban
Thường vụ Huyện
ủy)

291
TT Họ và tên Nhiệm kỳ Ghi chú
Nguyễn Thanh
6 6/2015-5/2018 Ủy viên Thường vụ
Tùng
7 Phạm Văn Thanh
Nguyễn Quốc
8
Vương
9 Bùi Viết Trung
10 Đào Duy Dương
11 Hồ Đức Trang
12 Đào Thị Liễu
13 Huỳnh Tấn Ánh
14 Thới Mãi
15 Huỳnh Tấn Lâm

II. DANH SÁCH BÍ THƯ ĐẢNG ỦY XÃ (1975-3/2020)

T
Họ và tên Thời gian Ghi chú
T
Đại hội VII (1977-
1 Đào Ngọc Thìn 1975-1978
1978)
Đại hội VIII (1979-
Nguyễn Hữu 1978-7/1979;
2 1981);
Phước 1982-1984
Đại hội IX (1982-1984)

292
T
Họ và tên Thời gian Ghi chú
T
Đại hội VIII (1979-
3 Nguyễn Văn Kiện 7/1979-1981
1981)
Đại hội X (1984-1986);
4 Phan Văn Mân 1984-9/1987
Đại hội XI (1986-1988)
Đại hội XI (1986-
1988);
Đại hội XII (1989-
1991);
Đại hội XIII (1991-
9/1987- 1994);
5 Đoàn Công Phụng
8/2005 Đại hội XIV (1994-
1996);
Đại hội XV (1996-
2000);
Đại hội XVI (2000-
2005)
8/2005- Đại hội XVII (2005-
6 Bùi Thanh Sơn
6/2010 2010)
Đại hội XVIII (2010-
Trương Quang 6/2010-
7 2015);
Minh 6/2018
Đại hội XIX (2015-

293
T
Họ và tên Thời gian Ghi chú
T
2020)
6/2018- Đại hội XIX (2015-
8 Ung Đình Hiền
3/2020 2020)

III. DANH SÁCH PHÓ BÍ THƯ ĐẢNG ỦY XÃ (1975-


3/2020)

T
Họ và tên Thời gian Ghi chú
T
Đại hội VII (1977-
1978);
1 Bùi Văn Cẩn 1975-1981
Đại hội VIII (1979-
1981)
Đại hội VII (1977-
1977-
Nguyễn Hữu 1978);
2 11/1978;
Phước Đại hội VIII (1979-
10/1980-1981
1981)
Đại hội IX (1982-
1982-1984;
3 Đồng Huyễn 1984);
1984-1986
Đại hội X (1984-1986)
4 Đoàn Công Phụng 1985-1987; Đại hội X (1984-1986);

294
T
Họ và tên Thời gian Ghi chú
T
Đại hội XI (1986-
1988);
2005-2010
Đại hội XVII (2005-
2010)
Đại hội XII (1989-
1991);
Đại hội XIII (1991-
1994);
Đại hội XIV (1994-
5 Bùi Thanh Sơn 1989-2005
1996);
Đại hội XV (1996-
2000);
Đại hội XVI (2000-
2005)
Đại hội XVI (2000-
2005);
6 Trần Văn Ngọc 2000-2010
Đại hội XVII (2005-
2010)
Đại hội XVIIII (2010-
2015);
7 Bùi Văn Huân 2010-6/201867
Đại hội XIX (2015-
2020)
8 Võ Duy Đối 2010-6/2018 Đại hội XVIIII (2010-

295
T
Họ và tên Thời gian Ghi chú
T
2015);
Đại hội XIX (2015-
2020)
Trương Quang Đại hội XIX (2015-
9 6/2018-3/2020
Minh 2020)
Nguyễn Chí Đại hội XIX (2015-
10 6/2018-3/2020
Cường 2020)

IV. DANH SÁCH CHỦ TỊCH VÀ PHÓ CHỦ TỊCH HỘI


ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ (1989-3/2020)

Họ và tên
ST
Phó Chủ Thời gian
T Chủ tịch
tịch
1 Phan Văn Mân Phạm Đào Nhiệm kỳ 1989-1994

67
. Tháng 6/2019, đồng chí Bùi Văn Huân đã nghỉ công tác và là đảng
viên sinh hoạt tại Chi bộ thôn Liêm Quang, xã Bình Tân. Đồng chí bị thi
hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ Đảng vì những sai phạm trong công tác
quản lý tài chính giai đoạn 2014-2017 (theo Quyết định số
73-QĐ/UBKTHU, ngày 26/6/2019 của Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy Bình
Sơn).

296
Nhiệm kỳ 1994-1999;
2 Đoàn Công Phụng Thới Hoàng
Nhiệm kỳ 1999-2004
Hồ Đức
3 Bùi Thanh Sơn Nhiệm kỳ 2004-2011
Trang
Hồ Đức
Trương Quang Nhiệm kỳ 2011-2016
4 Trang
Minh
Đào Thị Liễu Nhiệm kỳ 2016-2021

V. DANH SÁCH CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ (1975-


3/2020)

ST
Họ và tên Thời gian Ghi chú
T
1 Bùi Văn Cẩn 1975-1981
2 Nguyễn Văn Kiện 1982-1983
3 Đồng Huyễn 1984-10/1986
Trương Công Quyền Chủ tịch
4 11/1986-4/1987
Đáng
5 Bùi Thanh Sơn 4/1987-6/2004
6 Đoàn Công Phụng 6/2004-5/2011
7 Bùi Văn Huân 5/2011-7/2018
Quyết định số
1208/QĐ-UBND
Nguyễn Chí
8 7/2018-3/2020 ngày 02/7/2018 của
Cường
Ủy ban nhân dân
huyện Bình Sơn

297
VI. DANH SÁCH PHÓ CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ
(1975-3/2020)

ST Họ và tên Thời gian Ghi chú


T
1 Võ Thanh Tùng 1975
2 Cù Văn Đến Cuối 1975-1978
3 Phan Văn Môn 1979-1983
4 Đỗ Văn Dũng 1984-1986
1984-10/1986;
5 Trương Công Đáng
4/1987-2004
6 Bùi Văn Huân 2004-2011
7 Đào Duy Dương 2011-3/2020

VII. DANH SÁCH XÃ ĐỘI TRƯỞNG (1975-3/2020)

ST
Họ và tên Thời gian Ghi chú
T
1 Đồng Văn Trí 1975
2 Phạm Kính 10/1975-1976
3 Trương Công Đáng 1977-1979
4 Đồng Tấn Trị 1979-1981
5 Phạm Đặng 1982-1983
6 Phạm Nhơn 1984-1988
7 Hồ Tấn Mai 1989
8 Trần Nguyệt 12/1989-1991 Quyết định số

298
ST
Họ và tên Thời gian Ghi chú
T
221/QĐ-UBND
ngày 20/12/1989
của Ủy ban nhân
dân huyện Bình Sơn
Nguyễn Thanh
9 4/1991-5/2012
Tùng
Nguyễn Quốc
10 5/2012-3/2020
Vương

VIII. DANH SÁCH TRƯỞNG CÔNG AN XÃ (1975-3/2020)

ST
Họ và tên Thời gian Ghi chú
T
1 Cù Văn Đến 1975-1976
2 Nguyễn Văn Kiện 1977-7/1979
3 Phan Văn Môn 7/1979-1983
4 Trương Công Đáng 1984-1997
5 Hồ Đức Trang 1997-2004
6 Phan Thanh Hùng 2004-2011
7 Bùi Viết Trung 2011-6/2019
8 Nguyễn Tấn Khoa 7/2019-10/2019
9 Phan Minh Ca 11/2019-3/2020

IX. DANH SÁCH TRƯỞNG TRẠM Y TẾ XÃ (1975-3/2020)

299
ST
Họ và tên Thời gian Ghi chú
T
1975-1976;
1 Đoàn Công Phụng
1979-1980
2 Phạm Thị Hưng 1977-1978
3 Trần Văn Đôn 1980-1997
4 Bùi Văn Triều 1997-3/2020

X. DANH SÁCH CHỦ NHIỆM, PHÓ CHỦ NHIỆM HỢP


TÁC XÃ (5/1979-2020)

ST Họ và tên
Thời gian
T Chủ nhiệm Phó Chủ nhiệm
Phạm Đào
1 Phan Văn Mân 5/1979-5/1982
Đào Hợi
Phạm Đào
2 Đỗ Tấn Đồng 6/1982-8/1982
Đào Hợi
Đào Hợi
3 Phạm Đào Đỗ Ngọc Lang 9/1982-10/1983
Phạm Kính
Đỗ Ngọc Lang
4 Võ Duy Đối Phan Minh Hương 11/1983-02/1987
Quảng Thanh Lâm
Nguyễn Thanh
5 Trần Tiến Mai Tùng 02/1987-10/1989
Phạm Kính

300
ST Họ và tên
Thời gian
T Chủ nhiệm Phó Chủ nhiệm
6 Võ Duy Đối Phạm Ngọc Cảnh 11/1989-3/1995
7 Phạm Đức Phú Nguyễn Tấn Minh 4/1995-4/2005
8 Đồng Thanh Tấn Nguyễn Tấn Minh 5/2005-4/2016
9 Nguyễn Tấn Minh Võ Ngọc Vũ 5/2016-2020

XI. DANH SÁCH CHỦ TỊCH, PHÓ CHỦ TỊCH ỦY BAN MẶT
TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ (1975-3/2020)

ST Họ và tên
Thời gian
T Chủ tịch Phó Chủ tịch
1 Võ Thanh Tùng 1975-1978
2 Phan Văn Môn Đỗ Ngọc Lan 1979-1990
3 Thới Hoàng 1991-1999
Nguyễn Thanh
4 Phạm Kính 1999-2012
Hùng
Phan Văn Sinh
5 Nguyễn Thanh Tùng 4/2012-6/2017
Phạm Vũ Lý
6 Bùi Văn Huân Phạm Vũ Lý 6/2017-4/2019
Phạm Vũ Lý
7 Bùi Viết Trung 4/2019-3/2020
Đào Thị Liễu

XII. DANH SÁCH CHỦ TỊCH, PHÓ CHỦ TỊCH HỘI NÔNG
DÂN XÃ (1975-3/2020)

301
ST Họ và tên
Thời gian
T Chủ tịch Phó Chủ tịch
1975-1978;
1 Phan Văn Mùi
1983-1991
2 Nguyễn Toàn 1979-1981
3 Đồng Huyễn 1981-1983
Đặng Kiệu 1992-1998
4 Trần Tiến Mai
Võ Tấn Bạn 1999-9/2012
Trần Tiến Thu 9/2012-2015
5 Phạm Văn Thanh
Bùi Văn Khả 2016-3/2020

XIII. DANH SÁCH CHỦ TỊCH, PHÓ CHỦ TỊCH HỘI


PHỤ NỮ XÃ (1975-3/2020)

Họ và tên
STT Thời gian
Chủ tịch Phó Chủ tịch
1 Đỗ Thị Tiến Bùi Thị Hùng 1975
Nửa cuối 1976-
2 Phạm Thị Thoa Bùi Thị Hùng
1978
3 Hồ Thị Huề Bùi Thị Hùng 1979-1990
4 Nguyễn Thị Biên Đoàn Thị Châu 1991-2006
5 Nguyễn Thị Phước Bùi Thị Hoa 2006-4/2011
6 Đào Thị Liễu Lâm Thị Liễu 5/2011-7/2016
Lâm Thị Hạnh 7/2016-9/2017
Đoàn Thị Quỳnh
7 Võ Thị Lâm
Trâm 10/2017-3/2020
Thanh

302
XIV. DANH SÁCH CHỦ TỊCH, PHÓ CHỦ TỊCH HỘI CỰU
CHIẾN BINH XÃ (02/1991-3/2020)

T Họ và tên
Thời gian
T Chủ tịch Phó Chủ tịch
10/02/1991 (Lâm
Nguyễn Văn
1 Võ Tấn Đây thời);
Kiện
1991-1995
2 Phan Văn Nam Hồ Tấn Mai 1995-2000
3 Bùi Thanh Long Quảng Tiến Sinh 2000-2012
Nguyễn Xuân
4 Phạm Kính 2012-01/2015
Phu
Nguyễn Xuân
5 Phan Văn Sinh 4/2015-11/2016
Phu
6 Phan Văn Sinh Đỗ Duy Thông 11/2016-3/2020

XV. DANH SÁCH BÍ THƯ VÀ PHÓ BÍ THƯ ĐOÀN


THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH XÃ (1975-
3/2020)

ST Họ và tên
Thời gian
T Bí thư Phó Bí thư
1 Lê Thị Quy Đồng Tấn Thắng 1975
2 Phạm Thị Thoa Đồng Tấn Thắng Nửa đầu 1976
Nửa cuối
3 Đồng Tấn Thắng Phạm Xuân Hoàng
1976-6/1977

303
ST Họ và tên
Thời gian
T Bí thư Phó Bí thư
4 Phạm Kính Phạm Xuân Hoàng 7/1977-1978
Nguyễn Thanh
5 Võ Thanh Phiên 1978-1980
Hùng
6 Đoàn Công Phụng Võ Thanh Phiên 1981-1983
7 Võ Thanh Phiên Nguyễn Kỳ 1984-1986
8 Quảng Tiến Sinh Nguyễn Xuân Phu 1987-1992
9 Nguyễn Xuân Phu Nguyễn Thái Học 1992-1998
10 Trương Quang Minh Nguyễn Thái Học 1998-2004
11 Nguyễn Thái Học Phan Văn Sinh 2005-2011
Nguyễn Hùng
12 Huỳnh Tấn Ánh Cường 2012-2017
Phan Văn Sinh
Nguyễn Hùng Nguyễn Thị Hồng
13 2017-3/2020
Cường Sen

304
MỤC LỤC

Trang

Lời Nhà xuất bản 5

Lời nói đầu 7

Phần thứ nhất


ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
THỰC HIỆN HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC XÂY
DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI
13
CHỦ NGHĨA (1975-1985)

Chương I: Lãnh đạo nhân dân bước đầu ổn định tình


hình, khắc phục hậu quả chiến tranh (3/1975-
12/1976) 15
Chương II: Lãnh đạo nhân dân tiếp tục khắc hậu quả
chiến tranh, tiến hành cải tạo, xây dựng và phát triển
kinh tế - xã hội, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
(1977-1980) 41
Chương III: Lãnh đạo nhân dân tiếp tục tháo gỡ khó
khăn, từng bước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cải
305
thiện đời sống nhân dân (1980-1985) 75

Phần thứ hai


ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI, ĐẨY
MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
91
HÓA (1986-2020)

Chương IV: Lãnh đạo nhân dân thực hiện ba chương


trình kinh tế lớn của Đảng trong những năm đầu đổi
mới (1986-1990) 93
Chương V: Lãnh đạo nhân dân tiếp tục thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng (1991-1995) 115
Chương VI: Lãnh đạo nhân dân thực hiện đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996-2000) 133
Chương VII: Lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (2000-2005) 153
Chương VIII: Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng
bộ, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới (2005-2010)
175
Chương IX: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng bộ, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; thực
hiện đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới (2010-
2015) 198
Chương X: Lãnh đạo hệ thống chính trị tập trung xây

306
dựng Bình Tân trở thành xã nông thôn mới (2015-
2020) 226
Kết luận 267
Phụ lục 276

307
308

You might also like