You are on page 1of 388

LỊCH SỬ

DÂN VẬN ĐẢNG BỘ


TỈNH BÌNH DƯƠNG
(1930 - 2020)

1
2
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH DƯƠNG
BAN DÂN VẬN

LỊCH SỬ
DÂN VẬN ĐẢNG BỘ
TỈNH BÌNH DƯƠNG
(1930-2020)

BÌNH DƯƠNG - 2021


3
BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN

1. Đồng chí Nguyễn Văn Lộc, Ủy viên Thường vụ,


Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy - Trưởng ban
2. Đồng chí Lâm Văn Hòa, Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng
ban Thường trực Ban Dân vận Tỉnh ủy - Phó ban
3. Đồng chí Nguyễn Thị Tuyết Minh, Phó Trưởng
Ban Dân vận Tỉnh ủy - Phó ban
4. Đồng chí Huỳnh Ngọc Đáng, Chủ tịch Hội Khoa
học Lịch sử tỉnh Bình Dương - Thành viên
5. Đồng chí Nguyễn Kim Loan, Phó Trưởng ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy Bình Dương - Thành viên
Theo Quyết định số 708-QĐ/TU ngày 08/5/2018 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Bình Dương về việc thành lập Ban Chỉ đạo biên
soạn công trình Lịch sử Dân vận Đảng bộ tỉnh Bình Dương (1930-
2020)
BAN BIÊN SOẠN

1. PGS.TS. Trần Thị Mai - Chủ biên


2. TS. Hồ Sơn Diệp
BAN THƯ KÝ

1. ThS. Phan Công Vinh


2. CN. Nguyễn Thị Thúy Vinh
Theo Quyết định số 55-QĐ/BDVTU ngày 22/5/2018 của Ban
Dân vận Tỉnh ủy Bình Dương về việc thành lập Ban Biên soạn công
trình Lịch sử Dân vận Đảng bộ tỉnh Bình Dương (1930-2020)

4
LỜI NÓI ĐẦU

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đoàn kết, tập hợp lực
lượng toàn dân tộc là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược của cách mạng
Việt Nam. Từ khi thành lập (năm 1930), Đảng Cộng sản Việt Nam
đã luôn coi trọng xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khái quát: Mục
đích của Đảng có thể nêu trong tám chữ “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN,
PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”1. 90 năm qua (1930-2020), Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, động
viên được lòng yêu nước của toàn dân, phát huy được mọi nguồn
lực, mọi tiềm năng, sức sáng tạo của Nhân dân, đưa sự nghiệp cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Bình
Dương luôn phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, anh dũng,
sáng tạo, góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của toàn dân
tộc. Trong chặng đường 90 năm cùng cả nước đấu tranh giành độc
lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ tỉnh Thủ Dầu Một
- Bình Dương luôn quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh to lớn của quần chúng, xác
định công tác vận động quần chúng là nhiệm vụ chiến lược quan
trọng hàng đầu: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan
trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì
cũng thành công”2. Công tác dân vận của Đảng bộ qua mỗi thời kỳ
lịch sử đều bám sát đặc điểm, tình hình của địa phương, đi sâu vào
từng giới đồng bào, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp
tuyên truyền, động viên, tập hợp sức mạnh của quần chúng. Trải
qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011 t.7, tr.49.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.234.

5
xâm lược, công tác vận động quần chúng dù trong hoàn cảnh hoạt
động bí mật, bán công khai hay công khai cũng luôn lấy phương
châm:
“Dễ mười lần không dân cũng chịu,
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”1
để xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất và các đoàn thể cách
mạng, không ngừng phát huy các lực lượng làm công tác dân vận
như Công vận, Nông vận, Thanh vận, Phụ vận, Hoa vận, Địch vận,
Mỹ vận... phối hợp, gắn kết, tạo nên các phong trào cách mạng sâu
rộng ở cả ba vùng chiến lược, phát huy được thế trận ba mũi giáp
công, góp phần đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước đến thắng lợi hoàn toàn vào mùa Xuân năm 1975.
Chuyển sang thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ sau đại
thắng mùa Xuân 1975, công tác dân vận được xác định là nhiệm
vụ có ý nghĩa chiến lược đối với mục tiêu xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, công tác dân vận có mối quan hệ chặt chẽ với công tác
xây dựng Đảng. Quán triệt tinh thần này, Tỉnh ủy luôn quan tâm
lãnh đạo và chỉ đạo sát sao công tác dân vận. Ban Dân vận tỉnh ủy,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước được
kiện toàn về tổ chức, đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động,
bám sát yêu cầu, nhiệm vụ công tác dân vận thời kỳ mới để mở rộng
và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân thực hiện thành công những
mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh đề ra qua các kỳ đại hội Đảng bộ.
35 năm triển khai thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, 24 năm
kể từ ngày tách tỉnh, kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đã và đang
có nhiều chuyển biến tích cực. Kinh tế duy trì mức tăng trưởng cao
với tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng bình quân 9,35%/năm.
An sinh, phúc lợi và các lĩnh vực xã hội khác được bảo đảm, đời sống
người dân được ổn định và nâng cao với thu nhập bình quân dự
kiến đạt 155,7 triệu đồng vào năm 2020, giải quyết việc làm trung
bình hằng năm cho hơn 46.500 lao động, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn
nghèo đa chiều giảm xuống còn dưới 1%. Bình Dương đang ở trong

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.280.

6
nhóm tỉnh dẫn đầu trong sự nghiệp đổi mới. Đóng góp vào thành
quả chung đó của tỉnh có công sức của hệ thống cơ quan, đơn vị và
cá nhân làm công tác dân vận ở tỉnh qua các thời kỳ.
Nhằm ghi nhận chặng đường 90 năm (1930 - 2020) thực hiện
công tác dân vận dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ tỉnh Bình
Dương xin trân trọng giới thiệu cuốn Lịch sử Dân vận Đảng bộ
tỉnh Bình Dương (1930 - 2020). Cuốn sách ra đời nhân dịp kỷ
niệm 90 năm ngày Truyền thống công tác dân vận của Đảng và
chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ XI, nhiệm kỳ
2020-2025, như một tổng kết những thành tựu và những bài học
kinh nghiệm thực tiễn của hệ thống chính trị làm công tác dân vận
tỉnh Bình Dương 90 năm qua. Để thực hiện cuốn sách, Ban Dân vận
Tỉnh ủy đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện thuận
lợi của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, các cơ quan của Đảng và chính
quyền trong tỉnh, nhận được sự giúp đỡ về tư liệu và góp ý nội dung
từ các đồng chí đã và đang tham gia làm công tác dân vận của Thủ
Dầu Một - Bình Dương qua các thời kỳ và các nhà khoa học thuộc
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại
học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Xin ghi nhận và trân trọng
cảm ơn công sức đóng góp của Quý cơ quan, đơn vị và cá nhân cho
sự ra đời của cuốn sách.
Trong quá trình biên soạn cuốn sách, Ban Dân vận tỉnh ủy, Ban
Chỉ đạo biên soạn và Ban Biên soạn đã rất nỗ lực sưu tầm, khai
thác, xử lý tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau, với mong muốn phản
ánh trung thực, khách quan nhất chặng đường 90 năm triển khai
thực hiện công tác dân vận của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình
Dương. Song, cuốn sách khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót,
Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Biên soạn mong nhận được ý kiến
đóng góp của đông đảo bạn đọc để cuốn sách đạt được chất lượng cao
hơn trong lần xuất bản sau.

BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY BÌNH DƯƠNG

7
8
Chương I
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH THỦ DẦU MỘT TRONG THỜI KỲ ĐẤU TRANH
GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930- 1945)

I. TỔNG QUAN VỀ VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI BÌNH


DƯƠNG TRƯỚC NĂM 1930

1. Lịch sử vùng đất - con người

Bình Dương là một tỉnh thuộc khu vực Đông Nam Bộ. Tỉnh
có diện tích tự nhiên là 2.695.54km2, chiếm 0,83% diện tích cả
nước, tọa độ địa lý được xác định từ 10052’00’’ đến 11030’00’’ vĩ
độ Bắc và từ 106020’00’’ đến 106057’00’’ kinh độ Đông. Ranh giới
của tỉnh về phía bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía đông giáp tỉnh
Đồng Nai, phía nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh và phía tây
giáp tỉnh Tây Ninh.
Địa hình tự nhiên của tỉnh Bình Dương chủ yếu là đồng
bằng và đồi núi thấp với mức chênh lệch độ cao giữa các vùng
không vượt quá 300m, phân bố thành ba khu vực bao quanh
đồng bằng rộng lớn ở trung tâm. Phía tây bắc là khu vực có
vài dãy núi thấp (tha La, núi Chùa, núi Đất) và được sông Sài
Gòn bao bọc. Phía đông là những dải đồi thoai thoải trải dọc
theo hữu ngạn sông Đồng Nai và một vài ngọn núi thấp như
núi Giồng Xoài, núi Kỳ Lân, núi Bà Cẩm, núi Lồ Ồ. Phía nam
là vùng đồng bằng rộng lớn, nổi lên một ngọn núi thấp là núi
Châu Thới. Phần trung tâm được hình thành bởi lưu vực của
hai con sông Thị Tính và Sông Bé.
Trải qua quá trình kiến tạo lâu dài, phức tạp, thiên nhiên
đã ưu đãi cho Bình Dương một diện mạo địa hình, địa mạo, địa
9
chất khá ổn định, đa dạng, phong phú, thuận lợi cho sự phát
triển hệ sinh thái thực vật và động vật, đặc biệt là cho cuộc
sống của con người.
Các nhà khảo cổ đã phát hiện dấu vết của cư dân cổ trên
đất Bình Dương cách ngày nay từ khoảng 2 đến 3 vạn năm.
Đó là những dấu tích tại khu vực Vườn Dũ, thuộc xã Tân Hòa,
huyện Tân Uyên1 gồm hàng chục công cụ được chế tác thô sơ
từ đá cuội để phục vụ cho cuộc sống thuộc giai đoạn hậu kỳ đá
cũ. Muộn hơn vào khoảng cách ngày nay từ 3 đến 4 ngàn năm,
trên dải đất cao phía bờ bên phải sông Đồng Nai, lớp cư dân
Gò Đá sinh tụ đông đúc trên một phạm vi rộng hơn 10.000m2.
Khác với cư dân Vườn Dũ còn sử dụng công cụ rất thô sơ, cư
dân Gò Đá đã chế tác được những công cụ lao động có hình
dáng cân đối, được mài nhẵn, đẹp và có tính hữu dụng theo
từng chức năng chặt, cuốc, đào hay xẻ thịt hoặc làm sạch vỏ
của các loại củ, rễ cây rừng. Đặc biệt, cư dân Gò Đá đã biết chế
tạo đồ gốm với nhiều chủng loại như bát, chén, mâm, bồng,
nồi, đĩa và các chuỗi hạt, vòng tay để trang sức. Sự xuất hiện
của các lớp cư dân cổ đã góp phần quan trọng vào quá trình
kiến tạo và phát triển nền văn hóa tiền sử trên vùng đất Bình
Dương.
Khoảng 3.000 năm đến 3.500 năm trước đây, trên địa phận
Cù lao Rùa thuộc xã Thạnh Hội, huyện Tân Uyên, các lớp cư
dân cổ tiếp tục tụ cư, sinh sống với số lượng đông đảo. Đời sống
của cư dân ở Cù lao Rùa rất phong phú nhờ hoạt động trồng
trọt, chăn nuôi, đánh bắt thủy sản và làm một số nghề thủ
công như chế tác đá, làm gốm, đúc đồng và dệt vải. Cư dân
Cù lao Rùa đóng vai trò quan trọng trong bước chuyển từ nền
văn hóa thời kỳ đồ đá sang nền văn hóa thời kỳ đồng thau của
Bình Dương và của toàn vùng Đông Nam Bộ.
Bên cạnh, các lớp cư dân Vườn Dũ, Gò Đá, Cù lao Rùa,

1. Nay là xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên.

10
các nhà khảo cổ đã phát hiện trên địa bàn Bình Dương lớp
người cổ Dốc Chùa, cũng thuộc địa bàn xã Tân Hòa, huyện
Tân Uyên. Người Dốc Chùa sống bằng kinh tế nông nghiệp và
săn bắn. Các nghề thủ công truyền thống của tổ tiên được cư
dân Dốc Chùa tiếp tục phát triển với những thành tựu tiến bộ
hơn như nghề chế tác đá bằng khuôn đúc, các loại công cụ sản
xuất được tra cán, đồ trang sức làm từ cát mịn hoặc sa thạch;
nghề gốm với tư duy mỹ thuật và tính thẩm mỹ cao; nghề đúc
đồng với kỹ thuật tinh xảo. Đặc biệt, cư dân Dốc Chùa đã mở
rộng giao lưu với các cộng đồng cư dân thuộc lưu vực sông
Đồng Nai, cư dân thuộc văn hóa Sa Huỳnh, Đông Sơn và cả
cộng đồng cư dân thuộc lưu vực sông Sê Mun, đông bắc Thái
Lan hiện nay. Từ Dốc Chùa, vào khoảng 500 năm trước Công
nguyên, các cộng đồng cư dân cổ mở rộng địa bàn cư trú và
khai thác ra khắp vùng lưu vực sông Đồng Nai và sông Vàm
Cỏ. Tại di tích khảo cổ học Phú Chánh (xã Phú Chánh, huyện
Tân Uyên), các nhà khảo cổ đã phát hiện dấu vết về một đời
sống ổn định và phát triển khá cao của lớp cư dân mới. Họ
phát triển nghề đúc đồng, tiếp thu mạnh mẽ những tiến bộ
của nền văn hóa Đông Sơn, Sa Huỳnh. Cùng với các cộng đồng
cư dân thuộc văn hóa Đồng Nai, cư dân Phú Chánh góp phần
quan trọng vào việc tạo dựng nền nhà nước đầu tiên trên vùng
đất Nam Bộ ngày nay: Nhà nước Phù Nam.
Trong các thế kỷ I đến thế kỷ VII, Bình Dương là một trong
những vùng dân cư đông đúc, nơi cung cấp nhân lực và vật
lực tích cực trong sự phát triển của vương quốc Phù Nam.
Tại Bình Dương, các nhà khoa học đã tìm thấy các dấu tích
thuộc nền văn hóa Phù Nam như tượng thần Visnu, “bồn nước
thánh”, tấm mi cửa và bàn nghiền Pesani. Chủ nhân của văn
hóa Phù Nam trên đất Bình Dương là những nhóm cư dân
thuộc hai thành phần chính Môn-Khmer và Nam Đảo, mà
hậu duệ còn lại cho đến ngày nay là các nhóm Khmer, Xtiêng,
Mạ, Chơro...
11
Từ cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, vùng đất Bình Dương
tiếp nhận những nhóm cư dân người Việt từ vùng Thuận
Quảng chạy trốn chiến tranh, áp bức và bóc lột của các thế
lực phong kiến vào tìm đất sống. Buổi đầu, những toán di dân
người Việt lẻ tẻ, tự phát tìm đến vùng đất còn nhiều hoang
hóa để mưu sinh bên cạnh những nhóm cư dân bản địa. Thế
nhưng từ sau sự kiện chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả công nữ
Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp Chaychetha II vào năm 1620,
đặc biệt là từ sau năm 1658, Chân Lạp xin thần phục và triều
cống chúa Nguyễn, làn sóng di dân của người Việt ngày càng
trở nên mạnh mẽ. Các nhóm di dân Việt đã tìm đến khai thác
các vùng Bàn Lân, Bến Gỗ, Bến Cá, Cù lao Rùa, Cù lao Tân
Chánh, Tân Triều, Tân Uyên, Rạch Lá Buông... để định cư và
khai khẩn đất đai. Dần dần, các vùng đất ven sông Thị Tính,
sông Đồng Nai và sông Sài Gòn đều được di dân khẩn hoang,
phát triển kinh tế nông nghiệp lúa nước. Bên cạnh kinh tế
trồng lúa, người dân còn phát triển kinh tế trồng vườn, các
nghề thủ công và trao đổi sản phẩm qua hệ thống chợ, cảng
sông. Các thôn, ấp hình thành cùng với sự định hình những
mô thức, quy cách quản lý và sinh hoạt cộng đồng. Diện mạo
Bình Dương thay đổi nhanh chóng cùng với quá trình khai
khẩn của lớp cư dân người Việt.
Sau cuộc kinh lược đất Đồng Nai của Thống suất Nguyễn
Hữu Cảnh, năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu chính thức xác
lập nền hành chính trên toàn vùng Đồng Nai - Gia Định. Vùng
đất Bình Dương khi ấy thuộc về địa hạt quản lý của tổng Bình
An, huyện Phước Long, dinh Trấn Biên, phủ Gia Định. Tổng
Bình An gồm nhiều xã, thôn, thuộc, đặt dưới sự quản lý của
một viên cai tổng, dưới tổng là xã, đứng đầu xã có xã trưởng
và một tướng thần. Theo sách Gia Định thành thông chí của
Trịnh Hoài Đức, phần Cương vực chí, để bổ sung thêm nguồn
nhân lực cho công cuộc khai khẩn, chúa Nguyễn cho “Chiêu
12
mộ lưu dân từ Bố Chánh châu trở vô Nam đến ở khắp nơi”1;
đồng thời khuyến khích người dân “ra sức chặt phá cây cối,
cắt cỏ rậm và mở mang đất đai thành những vùng đất bằng
phẳng, thổ địa phì nhiêu”. Đến cuối thế kỷ XVIII, Nguyễn Ánh
lại đẩy mạnh khẩn hoang, lập đồn điền với quy định dễ dãi
“Mỗi năm một người trong đồn điền nộp 6 hộc lúa, ai mộ được
10 người trở lên cho làm quản trại, trừ tên trong sổ làng”. Nhờ
đó, chỉ sau một thời gian, tổng Bình An đã quản lý 119 xã,
thôn, phường, ấp, điếm. Trong đó có các thôn tập trung đông
dân cư như Tân An Hòa, Tân An Lợi, Tân An Nhị, Tân An
Trung, Tân An Đông, Tân An Thạnh, Bình Nhan Thạnh, Bình
Nhan Nhứt, Bình Nhan Thượng, Phú Lợi, Phú Lợi Tây, Phú
Lợi Đông, Bình Kính,...
Do sự gia tăng dân số nhanh, năm 1808, triều Nguyễn
nâng tổng Bình An thành huyện, kiêm quản hai tổng là Bình
Chánh và An Thủy. Năm 1837, triều Nguyễn lại tiếp tục chia
huyện Bình An thành hai huyện Bình An và Ngãi An. Đến
giữa thế kỷ XIX, huyện Bình An đã là một trong những huyện
có diện tích đất canh tác cao nhất của tỉnh Biên Hòa, kinh
tế phát triển đa dạng cả nông nghiệp, chăn nuôi và thủ công
nghiệp. Đặc biệt, các nghề thủ công có tiếng như mộc, gốm,
sơn mài, điêu khắc đã cung cấp sản phẩm và kỹ thuật cho toàn
vùng Nam Kỳ lục tỉnh.
Dưới thời Pháp thuộc, năm 1867, thực dân Pháp đổi huyện
Bình An thành hạt Bình An và đến năm 1869 đổi thành hạt
Thủ Dầu Một. Hạt Thủ Dầu Một quản lý 10 tổng với 91 làng
(village). Ngày 25/12/1889, thực dân Pháp ra nghị định đổi
hạt thành tỉnh (province) ngày 01/01/1900, hạt Thủ Dầu Một
đổi thành tỉnh Thủ Dầu Một, quản lý 6 tổng người Việt (Bình
Chánh, Bình Điền, Bình Hưng, Bình Thiện, Bình Thạnh

1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí (bản dịch của Nguyễn Tạo), Nha
văn hóa Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, 1972, tập trung - quyển III, tr.12.

13
Thượng và Bình Phú) và 6 tổng người Thượng (Cửu An, Lộc
Ninh, Minh Ngãi, Phước Lễ, Quản Lợi và Thành An). Năm
1936, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định thành lập thêm quận
Châu Thành (gồm các tổng Bình Điền, Bình Phú, Bình Hưng,
Bình Thạnh Thượng) và quận Lái Thiêu (gồm 2 tổng Bình
Chánh và Bình Thiện). Tình trạng hành chính tỉnh Thủ Dầu
Một ổn định cho đến ngày Cách mạng Tháng Tám thành công,
chính quyền về tay Nhân dân.
Ngày 25/8/1945, cùng với thành phố Sài Gòn và 15 tỉnh
thành phía Nam, Nhân dân tỉnh Thủ Dầu Một đã giành được
chính quyền. Tuy nhiên, chính quyền cách mạng non trẻ được
thành lập chưa bao lâu thì ngày 23/10/1945, thực dân Pháp
đã quay trở lại tái chiếm Thủ Dầu Một. Vùng đất Bình Dương
khi ấy tạm thời bị chia làm hai vùng: Vùng do chính quyền
cách mạng quản lý và vùng bị Pháp tạm chiếm. Trong vùng do
chính quyền cách mạng quản lý, chỉ trong một thời gian ngắn,
chính quyền cách mạng các cấp đã được xây dựng, triển khai
nhiệm vụ “Kháng chiến kiến quốc” của Trung ương Đảng và
Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Nhân dân kiên trì
bám đất, tăng gia sản xuất nuôi mình, nuôi bộ đội và các cơ
quan kháng chiến. Ở vùng bị địch tạm chiếm, thực dân Pháp
ra sức giành thế chủ động chiến lược, xây dựng hệ thống đồn
bót, tiến hành chiến tranh tổng lực nhằm bình định vùng tạm
chiếm, vơ vét sức người, sức của phục vụ cuộc chiến tranh xâm
lược của chúng. Năm 1946, trên địa bàn Thủ Dầu Một, thực
dân Pháp lập thêm 3 quận mới: quận Châu Thành, quận Bến
Súc và quận Dầu Tiếng. Ngày 02/3/1949, Pháp hủy quyết định
thành lập quận Châu Thành và quận Bến Súc để thành lập 4
quận mới, gồm: quận Lái Thiêu, quận Châu Thành, quận Bến
Cát và quận Dầu Tiếng.
Giai đoạn 1954-1975, địa giới hành chính tỉnh Thủ Dầu
Một có nhiều thay đổi. Ngày 15/02/1955, Thủ hiến Nam Việt
ban hành nghị định tổ chức lại hành chính tỉnh Thủ Dầu Một.
14
Theo đó, tỉnh Thủ Dầu Một được chia làm 6 quận, 18 tổng, 100
thôn, trong đó có 49 thôn người Kinh, 5 thôn người Khmer và
46 thôn người dân tộc thiểu số. 6 quận gồm: Lái Thiêu, Châu
Thành, Dầu Tiếng, Bến Cát, Hớn Quản và Bù Đốp. Ngày
22/10/1956, chính quyền Sài Gòn tách vùng sơn cước của tỉnh
Thủ Dầu Một thành lập tỉnh Phước Long và tỉnh Bình Long.
Phần đồng bằng trung tâm lập tỉnh Bình Dương. Tỉnh Bình
Dương lúc này gồm 5 quận: Châu Thành, Lái Thiêu, Bến Cát,
Dầu Tiếng và Củ Chi.
Về phía chính quyền cách mạng, từ năm 1951, với chủ
trương tổ chức lại chiến trường Nam Bộ thật gọn nhẹ và mạnh,
đáp ứng tình thế cách mạng mới, Nam Bộ từ 3 phân khu 7, 8,
9 được chia lại thành 2 phân liên khu: Đông Nam Bộ và Tây
Nam Bộ. Theo đó, tỉnh Thủ Biên được hình thành và đi vào
hoạt động từ tháng 5/1951. Tỉnh Thủ Biên gồm các huyện, thị
xã của Thủ Dầu Một cũ, trừ xã Định Thành giao về tỉnh Gia
Định; các huyện, thị xã của tỉnh Biên Hòa cũ, trừ huyện Long
Thành giao về tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; huyện Thủ Đức được
giao về Thủ Biên từ tỉnh Gia Định. Sau Hiệp định Giơnevơ,
tỉnh Thủ Biên mặc nhiên giải thể, trở lại tên cũ là Thủ Dầu
Một và Biên Hòa.
Tháng 02/1976, sau ngày thống nhất đất nước, toàn miền
Nam có 21 tỉnh, trong đó có tỉnh Sông Bé được thành lập trên
cơ sở sáp nhập hai tỉnh Bình Phước và Thủ Dầu Một. Tỉnh
Sông Bé có 6 huyện và 1 thị xã, gồm: Bình Long, Phước Long,
Đồng Phú, Bến Cát, Tân Uyên, Thuận An và thị xã Thủ Dầu
Một.
Ngày 06/11/1996, nghị quyết chia và điều chỉnh địa giới
các tỉnh của Quốc hội được thông qua, tỉnh Sông Bé tách làm 2
tỉnh: Bình Phước và Bình Dương. Ngày 01/01/1997, tỉnh Bình
Dương mới được thành lập, có 1 thị xã và 3 huyện: thị xã Thủ
Dầu Một, các huyện Thuận An, Tân Uyên và Bến Cát. Đến
15
năm 2005, địa giới hành chính tỉnh Bình Dương được sắp xếp
lại. Tháng 7/1999, tỉnh Bình Dương có 1 thị xã (thủ Dầu Một),
6 huyện (Dầu Tiếng, Bến Cát, Phú Giáo, Tân Uyên, Thuận
An và Dĩ An), với 79 xã, phường, thị trấn. Đến đầu năm 2020,
Bình Dương gồm 3 thành phố1 (thủ Dầu Một, Dĩ An và Thuận
An), 2 thị xã (Bến Cát, Tân Uyên), 4 huyện (Bắc Tân Uyên,
Bàu Bàng, Dầu Tiếng, Phú Giáo), với 41 phường, 46 xã và 4
thị trấn.

2. Chuyển biến xã hội Bình Dương trước năm 1930

Dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp, từ năm 1862 đến
năm 1930, Thủ Dầu Một trở thành điểm nóng của chính sách
chia cắt, xáo trộn địa lý hành chính, dân cư. Chính sách chính
trị xuyên suốt của thực dân Pháp là “chia để trị”. Chính quyền
thực dân chia tách địa lý hành chính tỉnh Thủ Dầu Một thành
các tổng của người Kinh và các tổng của người Thượng riêng rẽ,
nhằm làm suy yếu sức mạnh đoàn kết của Nhân dân, gây chia
rẽ, hận thù giữa các cộng đồng tộc người, giữa các tôn giáo và
giữa các địa phương. Một mặt, thực dân Pháp thiết lập bộ máy
chính quyền thực dân để cai trị Nhân dân. Mặt khác, chúng lợi
dụng bộ phận địa chủ địa phương, dung dưỡng để địa chủ làm
tay sai cho chính quyền thực dân cai trị và bóc lột Nhân dân.
Về kinh tế, Thủ Dầu Một là địa bàn trọng điểm trong chiến
lược khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Tại Thủ Dầu Một,
năm 1905, Pháp lập công ty cao su An Lộc và Xa Trạch. Tiếp
đó công ty cao su Dầu Tiếng ra đời. Nếu như năm 1910, diện
tích trồng cao su ở Thủ Dầu Một chỉ mới có 550ha, đứng sau
Gia Định (2.090ha) và Biên Hòa (1.027ha), thì đến năm 1929,
diện tích trồng cao su đã tăng vọt lên 35.000ha, đứng đầu Nam
Kỳ (Biên Hòa 27.000ha và Gia Định 8.000ha). Hầu hết các đồn

1. Ngày 10/01/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết số 857/
NQ-UBTVQH14, thành lập thành phố Dĩ An và thành phố Thuận An thuộc tỉnh Bình
Dương, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/02/2020.

16
điền đều nằm sâu trong vùng rừng rậm, xa khu dân cư, khí hậu,
chướng khí rất độc, lại thiếu thốn các điều kiện về giao thông,
kinh tế, y tế, vệ sinh. Để có nhân công làm trong các đồn điền,
thực dân Pháp tiến hành mộ phu “Công tra” (Contract) từ Bắc
Kỳ, Trung Kỳ, Lào và Campuchia đưa đến Thủ Dầu Một. Số
phu trong các đồn điền ở Thủ Dầu Một vào các năm 1905-1910
đã lên đến một vạn người. Sự gia tăng dân số cơ học đã nhanh
chóng đưa Thủ Dầu Một thành một tỉnh đông dân. Năm 1915,
Thủ Dầu Một đã có 13 tổng, 86 làng với 89.318 cư dân người
Việt sinh sống. Đến năm 1925, cư dân người Việt đã lên đến
105.968 người gốc Nam Kỳ; 4.122 người gốc Bắc Kỳ, Trung Kỳ
và Campuchia; 1.097 người Minh Hương. Chỉ riêng nguồn mộ
phu cho các đồn điền cao su đã đưa đến Thủ Dầu Một hằng năm
khoảng 3.000 đến 5.000 người1. Chính sách khai thác đồn điền
song hành với chính sách cướp đoạt ruộng đất của Nhân dân
đã đẩy người dân Thủ Dầu Một vào cảnh cơ cực, lầm than. Bên
cạnh đó, chính sách độc quyền kinh tế, tăng cường bóc lột thông
qua các sắc thuế, khai thác, vơ vét nguyên vật liệu, nhân công
được thực dân Pháp tiến hành ráo riết. Chính sách khai thác
thuộc địa tận vét đã làm cho kinh tế Thủ Dầu Một kiệt quệ, đời
sống nhân dân, nhất là công nhân đồn điền và nông dân ngày
càng bần cùng. Bị bóc lột dã man, tàn bạo, điều kiện sống khắc
nghiệt, nhiều công nhân đồn điền phải bỏ mạng. Năm 1927, cứ
1.000 phu Dầu Tiếng thì có 474 người chết.
Năm 1912, thực dân Pháp thành lập Depot xe lửa Dĩ An.
Depot xe lửa Dĩ An là một trung tâm kho bãi và bảo trì máy
móc thiết bị đường sắt lớn nhất Nam Kỳ. Công nhân được
tuyển vào nhà máy hầu hết đều thuộc thành phần lao động
nghèo khổ. Ngay từ những năm đầu mới thành lập, số công

1. Theo Ban Thường vụ Tỉnh ủy Sông Bé: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sông Bé, 1995,
tập 1, tr.45, vào khoảng những năm 20 của thế kỷ XX, trên địa bàn Sông Bé (nay gồm
cả Bình Phước và Bình Dương) đã hình thành đội ngũ công nhân đông đảo lên đến
khoảng gần 4 vạn người.

17
nhân lao động trong nhà máy đã lên đến 300 người. Qua quá
trình làm quen với máy móc, kỹ thuật, họ dần nắm bắt công
việc, nâng cao tay nghề để trở thành những công nhân lành
nghề. Đây chính là bộ phận công nhân công nghiệp hiện đại
đầu tiên của Thủ Dầu Một. Công nhân làm việc trong Depot xe
lửa Dĩ An bị ép làm việc 12 tiếng một ngày nhưng đồng lương
được nhận rất thấp, lại thường xuyên bị đánh đập, cúp phạt
lương. Chính vì thế, họ cũng là lực lượng sớm giác ngộ cách
mạng và thường đi đầu trong các phong trào đấu tranh cách
mạng ở Thủ Dầu Một.
Về văn hóa, thực dân Pháp thi hành chính sách “ngu dân”
để dễ bề thống trị. Đồng thời, Pháp tuyên truyền “khai hóa
văn minh”, thực chất là triển khai một nền văn hóa nô dịch,
gây tâm lý vong bản, tự ti trong Nhân dân. Tại Thủ Dầu Một,
bên cạnh hệ thống trường học các cấp, thực dân Pháp thành
lập 2 trường dạy nghề gồm Trường Mỹ nghệ bản xứ Thủ Dầu
Một và Trường thực hành nông lâm nghiệp Bến Cát. Mục
đích nhằm khai thác các thế mạnh nghề truyền thống của địa
phương phục vụ cho mục tiêu khai thác kinh tế của thực dân
Pháp. Hiểu rõ bản chất và mục tiêu giáo dục của thực dân
Pháp, nhiều giáo viên trong hệ thống các trường đã sớm giác
ngộ cách mạng, vừa dạy học, vừa xây dựng cơ sở cách mạng,
tham gia tích cực vào phong trào giải phóng dân tộc.
Quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Thủ
Dầu Một cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã tác động sâu sắc
đến xã hội Bình Dương. Kết cấu giai cấp ở Bình Dương thay
đổi căn bản. Hai bộ phận giai cấp cơ bản của xã hội cũ là địa
chủ và nông dân đều có sự phân hóa. Một bộ phận nhỏ địa chủ
vì mưu lợi đã cấu kết chặt chẽ với thực dân Pháp để thống trị
và bóc lột nông dân. Còn nông dân thì bị chính sách cướp đoạt
ruộng đất của thực dân Pháp, cộng với ách áp bức bóc lột nặng
nề của hai tầng áp bức thực dân và phong kiến trở nên bần
cùng, không lối thoát. Không ít nông dân phải bán thân vào
18
làm trong các đồn điền cao su của thực dân Pháp. Mâu thuẫn
giữa nông dân và thực dân Pháp ngày càng trở nên sâu sắc.
Đồng bào các dân tộc ít người ở Bình Dương cũng là đối tượng
bóc lột của thực dân Pháp. Do điều kiện khí hậu, phong thổ
khắc nghiệt, phần đông phu được mộ từ các vùng khác đến
đều ngã bệnh, khó bám trụ lâu dài. Một mặt thực dân Pháp
tiếp tục ráo riết triển khai mộ phu để bổ sung vào các đồn
điền, mặt khác, thực dân Pháp cũng hướng đến các cộng đồng
dân tộc ít người như một giải pháp gia tăng phu thợ, bởi đồng
bào sống tại chỗ, có khả năng thích nghi cao với điều kiện tự
nhiên, nhất là khí hậu khắc nghiệt.
Chính sách khai thác đồn điền cao su của thực dân Pháp
đã làm xuất hiện ở Bình Dương một đội ngũ đông đảo công
nhân làm việc trong các đồn điền cao su và trong Depot xe lửa
Dĩ An1. Chỉ trong một thời gian ngắn, bộ phận giai cấp công
nhân, gồm công nhân đồn điền và công nhân Depot xe lửa Dĩ
An đã trưởng thành cả về số lượng và ý thức giai cấp. “Vào
khoảng những năm 20 của thế kỷ XX, trên địa bàn Sông Bé
(nay gồm 2 tỉnh Bình Dương và Bình Phước) đã hình thành
đội ngũ công nhân đông đảo khoảng 4 vạn người bao gồm công
nhân cao su, công nhân xe lửa và thợ thủ công các nghề như
lò chén, lò đường, trại cưa, v.v.. Lực lượng mới này sẽ đem
lại những luồng sinh khí mới cho phong trào yêu nước chống
Pháp của Nhân dân trong tỉnh”2.

3. Quá trình vận động quần chúng trong giai đoạn


tiến tới thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam

Sự kiện Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (trung Quốc)


tháng 11/1924 có ý nghĩa vô cùng lớn lao không chỉ đối với sự

1. Vào thời kỳ này, Depot xe lửa Dĩ An thuộc địa bàn quận Thủ Đức, tỉnh Gia
Định.
2. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Sông Bé: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sông Bé, Thường vụ
Tỉnh ủy Sông Bé, 1995, tập 1, tr.45.

19
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn mở ra một con
đường cách mạng mới cho Nhân dân Việt Nam đứng lên giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Tháng 6/1925, Nguyễn
Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên,
đồng thời sáng lập báo Thanh niên. Sự ra đời của một tổ chức
yêu nước cách mạng được trang bị lý luận cách mạng vô sản
đã đặt nền tảng đầu tiên cho việc giải quyết vấn đề khủng
hoảng đường lối lãnh đạo của cách mạng Việt Nam từ cuối
thế kỷ XIX. Thông qua báo Thanh niên, Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên dưới sự dẫn dắt của Nguyễn Ái Quốc tiến
hành giáo dục, tập hợp và thống nhất tư tưởng, hành động của
những người yêu nước Việt Nam; trang bị những kiến thức
và phương pháp cách mạng cho hội viên để đi sâu vào quần
chúng, vận động quần chúng tham gia cách mạng. Báo Thanh
niên từ năm 1925 đến năm 1930 đã góp phần rất quan trọng,
thúc đẩy việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận cách
mạng vào Việt Nam, cung cấp những tài liệu quý giá cho công
cuộc vận động cách mạng trong quần chúng.
Năm 1927, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên xuất bản
tác phẩm Đường cách mệnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Nội
dung cơ bản của tác phẩm ngoài việc khẳng định “công nông là
gốc cách mệnh”, còn chỉ rõ đối tượng vận động của cách mạng
còn bao hàm các tầng lớp, giai cấp khác như trí thức, tiểu tư
sản, dân nghèo thành thị, những điền chủ nhỏ... nhằm tăng
cường lực lượng cách mạng. Tác phẩm chỉ rõ phương pháp vận
động cách mạng trong quần chúng là phải gieo niềm tin cách
mạng, tuyên truyền, giảng giải lý luận của chủ nghĩa Mác
cho quần chúng hiểu, để mọi người đồng chí, đồng đích, đồng
lòng. Tác phẩm cũng nhấn mạnh vai trò và cách thức tổ chức
công hội, Nông hội, dân cày... muốn thành công trong cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc không thể không tổ chức và phát
huy vai trò của các tổ chức đó.
Được trang bị lý luận và phương pháp cách mạng, từ tháng
20
9/1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chủ trương phát
động phong trào “vô sản hóa”. Các đồng chí Ngô Gia Tự, Lê
Văn Lương, Lê Quang Sung được cử vào Nam Kỳ để vận động
và xây dựng cơ sở cho Hội.
Tại Nam Kỳ, phong trào đấu tranh của công nhân chống
tư bản Pháp đã diễn ra quyết liệt kể từ đầu thập niên 20 của
thế kỷ XX. Chịu ảnh hưởng của Công hội bí mật Sài Gòn - Chợ
Lớn (do Tôn Đức Thắng sáng lập từ năm 1920), phong trào
bãi công, biểu tình của công nhân trong các nhà máy ở Sài
Gòn-Chợ Lớn diễn ra sôi nổi với các mục tiêu kinh tế như tăng
lương, giảm giờ làm, chống đánh đập, cúp phạt...
Phong trào nhanh chóng lan đến Thủ Dầu Một, nơi tập
trung bộ phận công nhân đông đảo trong các đồn điền và các
lò thủ công.
Hai năm 1925-1926, không khí đấu tranh chống Pháp sục
sôi khắp cả nước. Tại Sài Gòn, cuộc đấu tranh đòi trả tự do
cho Phan Bội Châu, đám tang Phan Châu Trinh, phong trào
Nguyễn An Ninh... của các tầng lớp nhân dân diễn ra với quy
mô lớn và vô cùng quyết liệt. Không khí đấu tranh đã tác động
mạnh mẽ đến địa bàn Thủ Dầu Một, thúc đẩy phong trào đấu
tranh của công nhân và các tầng lớp nhân dân tại đây chuyển
biến mạnh mẽ. Nhân dân các quận thuộc Thủ Dầu Một như
Châu Thành, Bến Cát, Tân Uyên, Lái Thiêu,... đã kéo về Sài
Gòn dự lễ tang Phan Châu Trinh, bất chấp sự ngăn cản của
chính quyền. Một số giáo viên, học sinh Thủ Dầu Một còn tổ
chức bãi khóa và làm lễ truy điệu cho Phan Châu Trinh ngay
tại trường, tiêu biểu nhất là lễ truy điệu tổ chức tại trường
Nam quận Châu Thành (nay là trường Tiểu học Phú Cường 2,
thành phố Thủ Dầu Một).
Ở Lái Thiêu, chịu ảnh hưởng từ tư tưởng yêu nước của
Nguyễn An Ninh, từ năm 1926 đã hình thành nhiều cơ sở Hội
21
kín Nguyễn An Ninh1. Các Hội kín thu hút nhiều thành phần
gồm thầy giáo, thầy ký, học sinh, thợ làm trong các lò chén,
xưởng mộc... tham gia. Họ bí mật chuyền tay nhau đọc sách
báo tiến bộ, cách mạng và hăng hái tham dự các buổi diễn
thuyết công khai của các trí thức nổi tiếng như Nguyễn An
Ninh, Trần Huy Liệu..., từ đó nâng cao thêm một bước lý luận
và phương thức đấu tranh chống bất công, áp bức. Năm 1929,
Nguyễn An Ninh bị Pháp bắt giam cùng với Nguyễn Đình
Kiên - một trong những thủ lĩnh của Tân Việt Cách mạng
Đảng. Qua trao đổi, bàn bạc, Tân Việt Cách mạng Đảng đã
tiếp nhận các hội viên Hội kín Nguyễn An Ninh (trong đó
có Hội kín ở Lái Thiêu) vào tổ chức của mình. Từ đó, quần
chúng yêu nước ở Lái Thiêu được sự tuyên truyền, vận động
trực tiếp của các đảng viên Tân Việt Cách mạng Đảng như
Lê Trọng Khôi, Nguyễn Chí Diều... Đến khi Tân Việt Cách
mạng Đảng chuyển thành Đông Dương Cộng sản liên đoàn
(tháng 9/1929), các cơ sở Hội kín Nguyễn An Ninh trước đây
đã trở thành tổ chức quần chúng của Đảng Cộng sản ở Lái
Thiêu - Thủ Dầu Một2.
Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp không chỉ diễn
ra ở các vùng trung tâm, mà còn ở vùng dân tộc ít người ở sát
biên giới với Campuchia. Năm 1924, Pháp đưa Đại úy Gatille
lên làm quản đạo khu vực Bù Đốp và vùng tiếp giáp biên giới
Campuchia thuộc Lộc Ninh ngày nay. Đây là một tên độc tài

1. Ảnh hưởng của Nguyễn An Ninh từ Sài Gòn đã lan đến Lái Thiêu từ năm
1923. Năm 1926, Hội kín của Nguyễn An Ninh ra đời với các hội viên nòng cốt là Võ
Văn Phèn, Nguyễn Văn Tiết, Nguyễn Văn Lộng, Hồ Văn Cống, Đinh Văn Sáng... Đây
là những thanh niên yêu nước xuất thân từ những nghề nghiệp khác nhau như thầy
giáo, thầy ký, học sinh, thợ mộc, thợ lò chén, lò đường... Dần dần, Hội thu hút đến
hàng chục hội viên. Hội kín là tổ chức hoạt động ôn hòa, bất bạo động. Với nhiệt tình
yêu nước, cách mạng, nhiều hội viên Hội kín Lái Thiêu đã sớm giác ngộ chủ nghĩa
Mác-Lênin và tiếp nhận tư tưởng mới này qua tuyên truyền của các đảng viên Tân
Việt Cách mạng Đảng kể từ năm 1929.
2. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương: Địa chí Bình Dương, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2010, tập 2, tr.101.

22
và tàn bạo. Căm phẫn chính sách cai trị của Gatille, thủ lĩnh
R’Đing đã đứng lên tập hợp lực lượng nhân dân người Xtiêng,
M’nông chống lại. Năm 1925, nghĩa quân R’Đing phục kích
giết chết Đại úy Gatille.
Phong trào đấu tranh của công nhân cao su bắt đầu lên
cao khi chủ trương “vô sản hóa” của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên được phát động. Phong trào đặc biệt nổ ra mạnh
mẽ ở đồn điền cao su. Chế độ đối xử tàn nhẫn và hà khắc của
chủ đồn điền và quản đốc ở các đồn điền cao su, nhất là đồn
điền cao su Phú Riềng1 đã làm bùng lên sự phản kháng của
công nhân, nổi bật là cuộc đấu tranh do Nguyễn Đình Tứ khởi
xướng, đã giết chết 6 quản đốc người Pháp.  Cuộc đấu tranh
của những người công nhân cao su tại Phú Riềng đã gây tiếng
vang trong dư luận lúc bấy giờ, lan cả sang nước Pháp. Năm
1927, đồng chí Ngô Gia Tự vào Nam để gây cơ sở cho cách
mạng, đã cử Nguyễn Xuân Cừ (tức Vĩnh) lên đồn điền cao su
Phú Riềng để tuyên truyền tư tưởng cách mạng vô sản. Ông
Trần Tử Bình là một trong những công nhân cao su được giác
ngộ cách mạng sớm tại đây. Đầu năm 1928, theo chỉ thị của
Ngô Gia Tự, các ông Nguyễn Xuân Cừ và Trần Tử Bình đã
đi sâu vào tổ chức quần chúng, thành lập Nghiệp đoàn Cao
su Phú Riềng với số lượng thành viên tham gia chiếm đến
1/3 tổng số công nhân cao su tại Phú Riềng. Nghiệp đoàn đã
lãnh đạo công nhân đấu tranh với chủ đồn điền, chống đánh
đập, chống cúp lương vô lý, đòi cải thiện sinh hoạt cho công
nhân. Cuối năm 1929, tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin
được truyền bá sâu rộng vào công nhân. Nhiều cán bộ của Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên thâm nhập sâu vào các đồn
điền để gây dựng cơ sở làm nòng cốt cho nhiều hoạt động đấu

1. Vào thời kỳ này, đồn điền cao su Phú Riềng thuộc địa giới hành chính Biên
Hòa, song mối liên hệ và ảnh hưởng từ phong trào đấu tranh của công nhân đồn điền
cao su Phú Riềng đến phong trào đấu tranh của công nhân cao su nói riêng, quần
chúng Nhân dân ở khu vực miền Đông Nam Bộ rất lớn.

23
tranh. Tháng 10/1929, Chi bộ Đảng đầu tiên được thành lập
tại Phú Riềng, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Ngô Gia Tự - cán
bộ gây dựng cơ sở của Đông Dương Cộng sản Đảng ở Nam Kỳ,
gọi tắt là Chi bộ Phú Riềng. Đây là Chi bộ đầu tiên của Biên
Hòa, cũng là Chi bộ đầu tiên của ngành cao su Việt Nam. Sau
khi Chi bộ Đảng ra đời, một số tổ chức quần chúng khác như
Hội Tương tế, Hội cứu tế, Hội thể thao, văn nghệ... cũng được
thành lập, thu hút được nhiều sự quan tâm, tham gia của công
nhân và Nhân dân khu vực đồn điền. Trên cơ sở đó, cuối năm
1929, tổ chức Tổng Công hội đỏ Phú Riềng cũng được thành
lập. Từ đây, phong trào đấu tranh của công nhân cao su nói
riêng, phong trào đấu tranh của Nhân dân Đông Nam Bộ nói
chung đã có bước chuyển biến mới, từ tự phát thành tự giác.
Họ đã đấu tranh có tổ chức, có mục tiêu, đòi các quyền lợi kinh
tế với những yêu sách cụ thể.

II. CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG CỦA CHI BỘ


ĐẢNG TRÊN ĐỊA BÀN BÌNH DƯƠNG THỜI KỲ 1930 - 1935

1. Quá trình hình thành từ các hội yêu nước đến


thành lập các Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Thủ
Dầu Một

Đến cuối năm 1929, phong trào đấu tranh cách mạng đã
phát triển mạnh mẽ, rộng khắp trong mọi tầng lớp nhân dân
Bình Dương. Các Chi bộ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên, của Công hội và các Hội Tương tế được thành lập trong
nhiều ngành nghề khác nhau. Phong trào “vô sản hóa” đã thu
được những kết quả quan trọng, chứng minh tính đúng đắn,
sáng tạo của chủ trương thâm nhập sâu rộng vào quần chúng.
Lập trường cách mạng vô sản đã bén rễ vào quần chúng, thúc
đẩy sự ra đời của một chính đảng của giai cấp vô sản, đáp ứng
yêu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam.
Tình hình hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
24
niên cũng biến chuyển mau lẹ. Tháng 6/1929, nhóm tiên tiến
trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Chi bộ cộng
sản đầu tiên ở Bắc Kỳ tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng
sản Đảng, nêu mục đích đại diện cho giai cấp vô sản, dân cày
nghèo và tất cả những người bị bóc lột; thực hành công nông
liên hiệp, tổ chức Tổng Công hội đỏ, Nông hội, Hội Phụ nữ, Hội
Học sinh... đứng lên giải phóng công nông, thực hành xã hội
bình đẳng, tự do, bác ái. Đến tháng 4/1930, tổ chức Tổng Công
hội đỏ của Đông Dương Cộng sản Đảng đã phát triển rộng ra
cả Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, có sức ảnh hưởng đến phong
trào cách mạng cả nước.
Tháng 11/1929, một số cán bộ trong Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên ở Nam Kỳ đứng ra thành lập An Nam Cộng
sản Đảng. An Nam Cộng sản Đảng hướng đến tuyên truyền và
cổ động ở công nông quần chúng; làm cho quần chúng tin và
đi theo; tổ chức quần chúng để giành lấy chính quyền, để chỉ
huy công nông vào cuộc vô sản cách mạng. Đảng chủ trương
tổ chức các hội công nông, hội học sinh,... nhằm tập hợp quần
chúng tham gia hoạt động cách mạng.
Ngày 01/01/1930, Tân Việt Cách mạng Đảng cũng cải tổ
thành Đông Dương Cộng sản liên đoàn, tuyên bố lấy chủ nghĩa
cộng sản làm nền móng, lấy công nông liên hiệp làm đối tượng
vận động cách mạng, để thực hành cách mạng trong xứ Đông
Dương.
Như thế, trong một thời gian ngắn, lần lượt ba tổ chức
cộng sản đã được thành lập ở Việt Nam, tích cực vận động
quần chúng đứng lên làm cách mạng. Sự ra đời của ba tổ chức
cộng sản phản ánh khí thế cách mạng đang sôi sục trên khắp
cả nước. Tuy nhiên, sự thiếu thống nhất và tình trạng tranh
giành quần chúng giữa ba tổ chức cộng sản không có lợi cho
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Vấn đề thống nhất
về mặt tổ chức giữa ba tổ chức cộng sản là vấn đề cấp bách đặt
25
ra khi ấy.
Tại Thủ Dầu Một, từ những năm 1928-1929, chủ nghĩa
Mác - Lênin đã thâm nhập ngày càng sâu rộng vào Nhân
dân, nhất là khu vực Thuận An, địa bàn tiếp giáp với tỉnh Gia
Định. Đầu năm 1929, Kỳ bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên cử Nguyễn Văn Lợi vào Depot xe lửa Dĩ An
vận động cách mạng. Thông qua các tài liệu tuyên truyền như
báo Thanh niên của Hội, tác phẩm Bản án chế độ thực dân
Pháp của Nguyễn Ái Quốc... ông Nguyễn Văn Lợi đã tập hợp
được một số công nhân yêu nước tham gia vào tổ chức Công
hội đỏ. Tháng 12/1929, đồng chí Châu Văn Liêm - Bí thư lâm
thời cấp ủy An Nam Cộng sản Đảng - cử đồng chí Nguyễn
Đức Thiệu đến Dĩ An làm nhiệm vụ phát triển Công hội đỏ
và xây dựng Chi bộ cộng sản tại Depot xe lửa Dĩ An. Nguyễn
Đức Thiệu đã xin vào làm công nhân nhà máy, thực hiện “vô
sản hóa” để có điều kiện thuận lợi vận động công nhân. Được
Nguyễn Đức Thiệu tuyên truyền, vận động, một số công nhân
Depot xe lửa Dĩ An đã tham gia vào các Hội Tương tế, Hội ca
cổ, Nhóm hốt hụi... là những tổ chức quần chúng có khuynh
hướng cách mạng. Cùng thời gian này, đồng chí Phạm Hữu
Lầu cũng đến Dĩ An, mở tiệm hớt tóc để che mắt địch và phối
hợp cùng Nguyễn Đức Thiệu vận động công nhân đấu tranh,
phát hiện và bồi dưỡng các công nhân tích cực tiến tới thành
lập Chi bộ Đảng. Sau quá trình chuẩn bị, tháng 01/1930, Chi
bộ Đảng đã được thành lập, đồng chí Nguyễn Đức Thiệu được
cấp trên chỉ định làm Bí thư1.
Tháng 3/1930, Chi bộ Depot xe lửa Dĩ An lập ra Công hội
đỏ, cử Ban Chấp hành gồm 5 người, trong đó có hai đảng viên
(thiệu, Hùng) và 3 công nhân, do đồng chí Hùng làm Thư

1. Dưới thời Pháp thuộc, thực dân Pháp phân chia địa giới Dĩ An một phần thuộc
tỉnh Biên Hòa, một phần thuộc Thủ Đức, tỉnh Gia Định, Depot xe lửa Dĩ An (nhà máy
xe lửa Dĩ An) thuộc địa bàn quận Thủ Đức. Do vậy, chi bộ Đảng Depot xe lửa Dĩ An
trực thuộc Tỉnh ủy tỉnh Gia Định.

26
ký. Sau sự kiện này, các tổ công hội được tích cực gây dựng
trong các phân xưởng. Phần đông hội viên đã tham gia các Hội
Tương tế, Hội ca cổ, Nhóm hốt hụi... trước đây đều tham gia
vào các tổ công hội.
Phong trào cộng sản và sự ra đời của Chi bộ Đảng ở Depot
xe lửa Dĩ An có ảnh hưởng và tác động sâu sắc đến Nhân dân
các vùng phụ cận, nhất là Thuận An, nơi tập trung đội ngũ
công nhân trong các lò gốm, lò đường.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở thống
nhất ba tổ chức cộng sản (03/02/1930) là một sự kiện vô cùng
trọng đại, đánh dấu việc chấm dứt tình trạng chia rẽ về tư
tưởng, tổ chức, thống nhất sự chỉ đạo, tập hợp và xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc trong quá trình giải phóng dân tộc,
giành chính quyền. Ngay trong Hội nghị thành lập Đảng, chủ
trương xây dựng các tổ chức Công hội, Nông hội, Hội phản
đế đã được thông qua. Theo đó, Công hội và Nông hội sẽ làm
nhiệm vụ thu hút, tập hợp quần chúng công nông không thể
kết nạp vào Đảng. Các tầng lớp trí thức, tiểu tư sản sẽ được
thu hút, tập hợp vào Hội phản đế. Đảng sẽ cử cán bộ vào Nam
Kỳ để vận động thanh niên tham gia vào Hội phản đế, cũng
như tranh thủ lực lượng của Quốc dân Đảng, thu nạp những
đảng viên của Đảng này vào các hoạt động của Hội phản đế.
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đoàn kết các tổ chức cách
mạng đang hoạt động tại Việt Nam lúc bấy giờ như: Tân Việt,
Thanh niên, Quốc dân Đảng, Thanh niên cao vọng Đảng (do
Nguyễn An Ninh thành lập)... để thành lập Mặt trận phản
đế, nhằm thu hút mọi cá nhân và tổ chức đều có thể gia nhập.
Cũng tại Hội nghị thành lập Đảng, các đại biểu đã nhất trí sẽ
thành lập Hội Cứu tế do các đảng viên của Đảng được cử ra
phụ trách và tuyên truyền phát triển hội viên. Hội Cứu tế sẽ
làm nhiệm vụ đấu tranh chính trị bảo vệ những chiến sĩ cách
mạng, giúp đỡ họ và gia đình họ về vật chất trong trường hợp
họ bị chính quyền thực dân bắt bớ, kết án, tù đày.
27
Ngay sau Hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã
ra lời kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học
sinh và toàn thể đồng bào bị áp bức, bóc lột. Trong Lời kêu gọi,
Nguyễn Ái quốc vạch rõ ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp;
kêu gọi Nhân dân cả nước đi theo Đảng, đấu tranh đòi quyền
lợi của giai cấp và dân tộc.
Công tác vận động Nhân dân tham gia đấu tranh chống
thực dân Pháp được Chi bộ và Công hội đỏ ở Depot xe lửa Dĩ
An tiếp tục triển khai mạnh và rộng ra không chỉ ở Thủ Đức
mà còn ở các địa phương thuộc Biên Hòa và Thủ Dầu Một. Tại
làng Bình Nhâm (Lái Thiêu), nhóm thanh niên tham gia Hội
kín Nguyễn An Ninh và Tân Việt Cách mạng Đảng trước đây
được vận động xúc tiến thành lập Chi bộ Đảng. Tỉnh ủy Gia
Định cũng cử người đến Lái Thiêu gây dựng phong trào và cơ
sở, phát động quần chúng đấu tranh. Từ tháng 3 đến tháng
5/1930, mặc dù vẫn chưa lập được Chi bộ đảng, nhưng tinh
thần cách mạng của thợ thủ công và dân nghèo ở Lái Thiêu đã
được nâng cao.
Công tác vận động quần chúng đòi hỏi các đảng viên của
Đảng phải luôn sâu sát, nắm rõ tình hình, tâm tư, nguyện
vọng của Nhân dân, hướng dẫn quần chúng tham gia vào
các cuộc vận động tranh đấu. Nhờ trực tiếp “ba cùng” và liên
hệ tốt với cơ sở cốt cán ngày 01/5/1930, Nhân dân làng Bình
Nhâm, An Sơn, An Thạnh (Lái Thiêu) đã tổ chức đấu tranh,
đòi giảm tô, miễn thuế ruộng. Tháng 6/1930, hàng chục gia
đình của các làng Bình Nhâm, An Sơn, An Thạnh, Tân Thới
tiếp tục cùng với Nhân dân tỉnh Gia Định tham gia biểu tình,
chống khủng bố, chống bắt lính, đòi giảm thuế... Đến tháng
8/1930, Nhân dân nhiều làng thuộc quận Lái Thiêu lại nổi dậy
suốt một ngày đêm khua trống, mõ, thổi tù và, rải truyền đơn,
treo cờ Đảng, đòi giảm thuế, chống khủng bố. Trước khí thế
đấu tranh sôi sục của Nhân dân Lái Thiêu, một số chủ lò phải
nhượng bộ, tăng lương và giảm giờ làm việc cho thợ thủ công,
28
còn giới hội tề trong các làng hoang mang, lo lắng không dám
thị uy như trước.
Từ bước phát triển của cuộc đấu tranh, tháng 8/1930, Chi
bộ cộng sản làng Bình Nhâm đã được thành lập, trực thuộc sự
lãnh đạo của Tỉnh ủy Gia Định (Do số lượng đảng viên còn ít,
nên đến thời điểm này Tỉnh ủy Thủ Dầu Một chưa thể thành
lập). Chi bộ làng Bình Nhâm gồm các đảng viên: Võ Văn Phèn,
Hồ Văn Công, Nguyễn Văn Tiết, Nguyễn Văn Lộng, Đinh Văn
Sáng... do Võ Văn Phèn làm Bí thư. Như vậy, Chi bộ đảng làng
Bình Nhâm là Chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở Thủ
Dầu Một. Ngay sau khi thành lập, Chi bộ Bình Nhâm đã xúc
tiến tổ chức Nông hội đỏ, thu hút nông dân ở Bình Nhâm và
các làng lân cận tham gia. Đồng thời, Chi bộ vận động thợ thủ
công đang làm việc trong các lò chén, lò lu, trại mộc... thành lập
Hội Tương tế để giúp đỡ nhau và ủng hộ các cuộc đấu tranh của
Nhân dân địa phương. Đến cuối năm 1930, Chi bộ Bình Nhâm
đã vận động quần chúng nhân dân tổ chức được 4 cuộc biểu tình,
mít tinh, đưa các bản kiến nghị đòi chủ lò, chủ xưởng giải quyết
các quyền lợi chính đáng của dân. Tháng 11/1930, Chi bộ còn
vận động Nhân dân ở Lái Thiêu và các làng quanh Thuận Giao
tổ chức một cuộc mít tinh ở Miễu Cây Đào (làng Thuận Giao),
quy mô lên đến hơn 200 người, kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười
Nga và ủng hộ Liên bang Xô viết1.
Như vậy, trong năm 1930, trên địa bàn Bình Dương đã
thành lập được Chi bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng
10/1930, đổi tên là Đảng Cộng sản Đông Dương). Sự ra đời các
Chi bộ Đảng chứng minh bước phát triển của phong trào đấu
tranh cách mạng của Nhân dân Bình Dương, đồng thời, với sự
ra đời của Chi bộ cộng sản, mục tiêu vận động, tập hợp quần
chúng vào cuộc vận động giải phóng dân tộc ở Bình Dương
càng thêm thuận lợi.

1. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương: Địa chí Bình Dương, Sđd, tập 2, tr.108.

29
2. Công tác vận động cách mạng trong giai đoạn
1931-1935

Trong hai năm 1930-1931, phong trào đấu tranh cách


mạng của Nhân dân cả nước bùng lên mạnh mẽ dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ
Tĩnh. Hoảng sợ trước sức mạnh của Nhân dân, thực dân Pháp
tập trung lực lượng tiến hành khủng bố gắt gao. Tại Bình
Dương, ngay sau cuộc mít tinh của hơn 200 người dân ở Thuận
Giao, thực dân Pháp triển khai lực lượng mật thám, mã tà
lùng sục, khủng bố những người cộng sản và quần chúng yêu
nước. Làn sóng khủng bố của thực dân Pháp lan rộng ra các
địa bàn Lái Thiêu, đồn điền cao su và các quận phía nam của
tỉnh. Hàng loạt các biện pháp siết chặt an ninh được chính
quyền thực dân Pháp triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh.
Do vậy, các hoạt động đấu tranh của Nhân dân Bình Dương
tạm thời lắng xuống.
Trong hoàn cảnh khó khăn, Chi bộ đảng chủ trương thông
qua các Công hội đỏ, Nông hội đỏ và Hội Tương tế vận động
quần chúng vững tin vào sự nghiệp cách mạng, nuôi dưỡng
tinh thần, lực lượng, chờ thời cơ vùng lên đấu tranh. Thực tiễn
cách mạng đặt ra yêu cầu phải xây dựng mục tiêu, phương
pháp vận động cách mạng đúng đắn, sát với hoàn cảnh thực
tế. Khi chưa có tình thế cách mạng, khẩu hiệu và phương pháp
đấu tranh phải đi từ quyền lợi hằng ngày để dẫn dắt, vận
động quần chúng nhân dân. Từ tháng 10/1930, Chi bộ được
quán triệt tinh thần lãnh đạo cách mạng phải dựa vào các ban
chuyên môn: Công vận, Nông vận, Thanh vận, Phụ vận, Mặt
trận phản đế.
Nhằm nâng cao hiệu quả của công tác vận động quần
chúng tham gia cách mạng, đoàn kết rộng rãi các dân tộc, các
giới, các tôn giáo, các đảng phái... ngày 18/11/1930, Thường vụ
Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản
30
đế Đồng minh”. Chỉ thị hướng dẫn cách thức tổ chức mặt trận
cụ thể: Thuyết phục các tầng lớp trên, chú trọng sử dụng các
đoàn thể tương trợ của Nhân dân như phường hội làm ăn,
hiếu hỉ..., lấy quần chúng tổ chức quần chúng, lấy quần chúng
tuyên truyền quần chúng, đưa dần đức tin của quần chúng
vào cách mạng, đưa lý luận cách mạng giáo hóa quần chúng
dần dần1.
Chính sách khủng bố của thực dân Pháp tuy có gây tổn
thất, khó khăn cho phong trào cách mạng của quần chúng,
nhưng không thể dập tắt được ý chí và tinh thần cách mạng
của Nhân dân. Tháng 4/1932, nắm bắt được tâm lý bất bình
của Nhân dân, Chi bộ Bình Nhâm đã cùng Nông hội và Hội
Tương tế vận động Nhân dân các làng Bình Nhâm, An Sơn,
An Thạnh, Tân Thới, Hưng Định, tập hợp lực lượng, kéo đến
gặp bọn hội tề đòi giảm thuế thân từ 5 đồng xuống 4,5 đồng;
đòi hoãn đi làm xâu ở núi Bà Rá vì đang bận công việc đồng
áng; đòi các chủ lò chén tăng tiền công cho thợ (thợ nam từ 15
lên 20 xu/ngày, thợ nữ từ 12 xu lên 15 xu/ngày). Lúc đầu, bọn
hội tề áp dụng biện pháp cứng rắn, huy động lính đàn áp, bắt
giam một số người tham gia, dọa dùng vũ lực trấn áp. Nhưng,
trước tinh thần kiên quyết và thái độ ôn hòa của quần chúng,
bọn hội tề phải ghi nhận yêu sách của quần chúng và hứa gửi
yêu sách của dân lên Quận trưởng giải quyết. Kết quả của
cuộc đấu tranh đã khích lệ Nhân dân tích cực đứng lên đòi
quyền lợi, khẳng định vai trò lãnh đạo của các đảng viên và
cho thấy tác dụng của Nông hội, Hội Tương tế trong vận động
quần chúng. Qua thắng lợi của cuộc đấu tranh này, phong
trào cách mạng ở Bình Dương dần phục hồi để vượt qua giai
đoạn thoái trào. Cuối năm 1932, Chi bộ Lái Thiêu được thành
lập. Vừa ra đời, Chi bộ Lái Thiêu đã xúc tiến mở rộng các tổ
chức quần chúng, kết nạp thêm nhiều hội viên vào các hội

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1998, t.2, tr.227-231.

31
tương tế, ái hữu. Nhờ đó, số lượng hội viên của các Hội Ái hữu
trong các lò chén, lò đường, trại cưa, trại mộc đã lên đến vài
chục người và công khai hoạt động. Hội Ái hữu ở trại mộc Tân
Thới, Phú Long còn phối hợp hoạt động rất thường xuyên,
chặt chẽ với Nông hội đỏ bí mật.
Ở khu vực đồn điền cao su, các đảng viên kiên trì bám
trụ, vượt qua khủng bố trắng của thực dân Pháp để xây dựng
cơ sở, phát triển Công hội đỏ. Dựa vào những công nhân ưu
tú, Công hội đỏ vận động xây dựng nhóm công nhân nòng
cốt, đại diện cho công nhân để đấu tranh với các chủ đồn
điền, đòi các quyền lợi cho công nhân. Đến cuối năm 1932,
phong trào đấu tranh của công nhân đồn điền dần khôi phục.
Ngày 15/12/1932, từ khoảng 22 giờ, tại công ty cao su Dầu
Tiếng, khoảng 1.000 công nhân đã tập hợp lực lượng, bao vây
văn phòng của chánh chủ sở, đưa yêu sách đòi chủ đồn điền
không được hạ lương, đánh đập, cúp phạt công nhân. Sáng
ngày 16/12/1932, công nhân tiến hành bãi công và cử nhóm
đại biểu khoảng 100 người lên tỉnh lỵ gửi yêu sách. Đối phó
với đoàn người không vũ trang, thực dân Pháp đã điều hàng
trăm lính khố xanh phục kích tại một đoạn đường vắng gần
chợ Bến Cát ngăn chặn và nổ súng khiến 3 công nhân thiệt
mạng, 4 người bị thương nặng và nhiều người bị bắt giam. Vụ
đàn áp đẫm máu của thực dân Pháp làm rúng động không
chỉ dư luận Nam Kỳ mà còn sang tận nước Pháp. Nhằm kịp
thời củng cố và phát triển phong trào đấu tranh của công
nhân Dầu Tiếng, đầu năm 1933, Thành ủy Sài Gòn cử ông
Văn Công Khai, đã từng làm công nhân ở Dầu Tiếng trước
năm 1927, về lại đồn điền, tổ chức Công hội đỏ, dẫn dắt cuộc
đấu tranh của công nhân. Được tuyên truyền, vận động và có
sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tháng 02/1933, một cuộc đấu tranh lớn
với quy mô lên đến gần 2.000 công nhân tham gia tiếp tục nổ
ra ở đồn điền Dầu Tiếng. Lực lượng tự vệ công nhân được tổ
chức, trang bị gậy gộc, dao, búa để bảo vệ cuộc đấu tranh của
32
công nhân. Công nhân đã đưa các yêu sách đòi chủ đồn điền
phải trả đủ lương và khẩu phần gạo hằng ngày.
Giữa năm 1932, nhận thấy phong trào cách mạng đang
dần hồi phục, Đảng Cộng sản Đông Dương đã công bố Chương
trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương. Chương
trình hành động tiếp tục khẳng định những mục tiêu, đường
lối của cách mạng Việt Nam, phân tích tình hình thực tiễn
cách mạng lúc bấy giờ, từ đó vạch rõ nhiệm vụ trước mắt của
Đảng là phải lãnh đạo quần chúng đòi quyền dân sinh, dân
chủ, chống khủng bố trắng, chuẩn bị đưa quần chúng tiến lên
những cuộc đấu tranh cao hơn khi có điều kiện. Chương trình
hành động cũng đề ra những yêu sách cụ thể riêng cho mỗi bộ
phận quần chúng nhân dân lao động (công nhân, nông dân,
binh lính, thợ thủ công, tiểu thương, viên chức, phụ nữ, thanh
niên, dân tộc thiểu số...), đồng thời vạch rõ tính cấp thiết phải
củng cố phát triển các đoàn thể cách mạng của quần chúng,
nhất là Công hội và Nông hội1.
Vận dụng tư tưởng chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh ủy Gia
Định2 chủ trương không tổ chức các cuộc biểu tình, biểu
dương lực lượng rầm rộ, mà rút vào củng cố cơ sở, tập trung
đẩy mạnh công tác tuyên truyền và rút kinh nghiệm về
phương thức hoạt động. Vì thế, từ giữa năm 1933 đến cuối
năm 1934, phong trào đấu tranh của Nhân dân Thủ Dầu
Một hầu như không diễn ra các hoạt động có tiếng vang như
trước đó.
Bước sang năm 1935, giới chủ lò ở Lái Thiêu đồng loạt
giảm lương của thợ. Thợ gốm chỉ còn được nhận mức lương

1. Ban Chấp hành Trung ương - Ban Dân vận: Lịch sử công tác dân vận của
Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2010), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.59.
2. Đến thời điểm này, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một vẫn chưa thành lập được do số lượng
đảng viên chưa nhiều. Các chi bộ đảng đã thành lập chịu sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Gia
Định.

33
0,8 đồng cho 18 tháng1, thợ giỏi cũng chỉ làm được khoảng
10 đồng tiền công/1 tháng (thời kỳ trước năm 1935, tiền công
là 1 đồng cho 15 tháng). Trong khi đó, mức thuế thân phải
đóng lên đến 30 đồng/người/năm. Bất bình trước chính sách
tiền lương rẻ mạt của giới chủ, hơn 2.000 thợ làm việc trong
khoảng 6.012 lò gốm ở Lái Thiêu đã tổ chức tổng bãi công.
Chi bộ Đảng Lái Thiêu lãnh đạo các Hội Ái hữu tổ chức tuyên
truyền vận động thợ lò đoàn kết đấu tranh với giới chủ lò.
Ngày 27/9/1935, theo kế hoạch hành động đã được chuẩn bị,
ban đại diện thợ lò đã gặp các chủ lò, đưa yêu sách đòi trả
tiền lương đúng theo mức cũ cho tất cả các đối tượng gồm thợ
người Việt và người Hoa, thợ nam cũng như thợ nữ và trẻ em.
Hai ngàn thợ lò đồng loạt bãi công để gây sức ép với giới chủ
lò, khiến hoạt động sản xuất đình trệ trong mấy ngày liền.
Ban đại diện thợ còn gửi đơn kiến nghị lên Quận trưởng và
cấp tỉnh, vận động thợ dán khẩu hiệu tố cáo các chủ lò và
tổ chức lực lượng tự vệ canh gác, không cho lính lệ tháo gỡ
các khẩu hiệu thợ đã dán. Ngày 02/10/1935, Thanh tra lao
động tỉnh buộc phải xuống xem xét tình hình. Ban đại diện
tổ chức thợ tiếp tục đấu tranh bằng lý lẽ với thanh tra, kiên
quyết yêu cầu thanh tra phải kiểm tra sổ sách của các chủ lò
và đời sống thợ thuyền. Cuộc đấu tranh có tổ chức chặt chẽ,
kiên quyết, có mục tiêu với lý lẽ xác đáng đã khiến giới chủ
lò đuối lý, buộc phải chấp nhận yêu cầu của ban đại diện đưa
ra. Sau một tuần bãi công, cuộc đấu tranh của công nhân các
lò gốm đã giành thắng lợi. Tờ báo La Dépêche của Pháp đã
nhận xét về cuộc đấu tranh “Đây là lần thứ nhất mà cuộc bãi
công quan trọng như thế này đã xảy ra. Đó là dấu hiệu của
thời buổi. E rằng, nhiều chức nghiệp khác sẽ noi gương của
công nhân lò gốm”2.

1. Váng là đơn vị chỉ số lượng sản phẩm gốm. 1 váng tương đương 30 bát to hoặc
40 bát nhỏ.
2. Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962,
tập 1, tr.174.

34
III. CUỘC VẬN ĐỘNG MẶT TRẬN DÂN CHỦ ĐÔNG
DƯƠNG TRÊN ĐỊA BÀN BÌNH DƯƠNG (1936 - 1939)

1. Chủ trương của Đảng trong công tác vận động


quần chúng thời kỳ 1936 -1939

Tháng 3/1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng Cộng
sản Đông Dương tổ chức tại Ma Cao (trung Quốc) đã phân tích
tình hình thế giới, trong nước, tổng kết cuộc đấu tranh của
Nhân dân giai đoạn 1930-1935 và đề ra nhiệm vụ trước mắt
của Đảng trong tình hình mới. Đảng đã đánh giá cao vai trò
của quần chúng trong hoạt động cách mạng, xác định nguồn
gốc sức mạnh của Đảng “Đảng mạnh là căn cứ vào ảnh hưởng
và thế lực của Đảng trong quần chúng. Nếu Đảng không mật
thiết liên lạc với quần chúng, không được họ tán thành và
ủng hộ những khẩu hiệu của Đảng thì những nghị quyết cách
mạng của Đảng chỉ là lời nói không”1. Đại hội xác định trong
thời gian tới công tác tranh thủ vận động quần chúng là nhiệm
vụ trung tâm, căn bản, cần kíp của Đảng. Muốn vận động
được quần chúng, Đảng phải đứng về phía quần chúng, bênh
vực quyền lợi của quần chúng, tuyên truyền, giáo dục để quần
chúng hiểu rõ bản chất xâm lược, bóc lột của thực dân Pháp
và tay sai của Pháp, phải tổ chức quần chúng tham gia vào
Công hội đỏ, Nông hội và Đoàn Thanh niên Cộng sản. Ngoài
ra, Đảng còn phải lợi dụng các hình thức bí mật, công khai và
bán công khai mà phát triển các tổ chức của quần chúng khác
như Cứu tế đỏ, Phản đế liên minh... hễ nơi nào có quần chúng
thì Đảng phải nhanh chóng đưa người vào hoạt động. Đại hội
chủ trương mở rộng Mặt trận Phản đế liên minh không phân
biệt thành phần giai cấp, xu hướng chính trị, đảng phái, nam
nữ, tôn giáo, hễ ai có tinh thần phản đế đều phải lôi kéo vào
Mặt trận.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5, tr.26.

35
Sự chuyển biến trong nhận thức và phương thức vận động
quần chúng từ Đại hội lần thứ nhất đã được Đảng vận dụng
linh hoạt vào cuộc vận động cách mạng thời kỳ 1936-1939.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và
trong nước: chủ nghĩa phát xít ra đời ở một số nước tư bản,
nhất là ở Đức, Ý, Nhật; phong trào chống chủ nghĩa phát xít
và chiến tranh lan rộng ở nhiều nước; Quốc tế Cộng sản tiến
hành Đại hội lần thứ VII, đề ra chủ trương thành lập Mặt
trận Nhân dân rộng rãi trên thế giới; đầu năm 1936 Mặt trận
Nhân dân Pháp được thành lập, triển khai một số chính sách
nới lỏng cai trị cho các thuộc địa; chính quyền thuộc địa Pháp
ở Đông Dương buộc phải hạn chế chính sách khủng bố... Đảng
Cộng sản Đông Dương đã bám sát tình hình và chủ trương của
Quốc tế cộng sản để vận động cách mạng. Ngày 27/02/1936,
Phân bộ Đông Dương Đồng minh phản đế đã gửi thư đến các
đảng phái chính trị, các phần tử cách mạng ở Đông Dương
và hải ngoại kêu gọi thống nhất lực lượng, gia nhập Phân bộ
Đông Dương Đồng minh phản đế. Trên cơ sở đó, Đảng Cộng
sản Đông Dương đã triển khai cử cán bộ tiếp xúc với các đại
diện của Việt Nam Quốc dân Đảng nhằm thống nhất quan
điểm và nhất trí thành lập mặt trận thống nhất giữa các đảng
phái chính trị ở Việt Nam. Đồng thời, Đảng cũng quán triệt
tinh thần chung trong toàn Đảng yêu cầu phải liên lạc mật
thiết với quần chúng, dựa vào sự ủng hộ của quần chúng thông
qua các tổ chức hội Cứu tế đỏ, Phản đế, Học sinh, Thể thao.
Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Nhân dân phản đế Đông
Dương và thay đổi phương thức hoạt động sang tổ chức đấu
tranh công khai hợp pháp, nửa hợp pháp là chính. Tên gọi của
các tổ chức quần chúng cũng được thay đổi cho phù hợp với
tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới: Công hội đỏ đổi thành
Công hội, Nông hội đỏ thành Nông hội, Cứu tế đỏ thành Hội
cứu tế bình dân,... và thành lập thêm các tổ chức quần chúng
công khai và bán công khai như Ái hữu, Tương tế, Hợp tác xã,
36
Văn hóa, Âm nhạc, Thể thao...
Tại Thủ Dầu Một, một số đảng viên bị bắt hoặc phải chuyển
vùng hoạt động trong giai đoạn trước đã lần lượt trở về bám
địa bàn, tuyên truyền và vận động quần chúng. Nhờ đó, sang
năm 1936, một số Chi bộ được thành lập ở các làng An Thạnh,
An Sơn, Tân Khánh, nâng số lượng đảng viên ở Lái Thiêu lên
khoảng 20 người. Trên cơ sở đó, Tỉnh ủy lâm thời Thủ Dầu Một
đã được thành lập, đảm nhiệm công tác lãnh đạo cách mạng
của Nhân dân trong tỉnh. Thực hiện chỉ thị của Trung ương
và Xứ ủy Nam Kỳ, Tỉnh ủy lâm thời Thủ Dầu Một triệt để lợi
dụng những khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để tuyên
truyền, vận động và tổ chức quần chúng vào các hội Tương tế,
Ái hữu, đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh.

2. Các hình thức vận động quần chúng

Trong năm 1936, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy lâm thời,
quần chúng nhân dân đã được tổ chức lại và bước vào một cao
trào đấu tranh cách mạng mới. Mở đầu là cuộc đấu tranh của
nông dân trồng thuốc lá ở các làng Tân Khánh, Tân Hòa, Tân
Long, Bình Chuẩn. Tiếp đó, nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao
động 01/5, công nhân Depot xe lửa Dĩ An bãi công, đưa kiến
nghị. Mùa thu năm 1936, 182 công nhân đồn điền cao su Dầu
Tiếng đồng loạt gửi đơn đòi về quê do đã hết hạn hợp đồng...
Hưởng ứng chủ trương của Trung ương Đảng về cuộc vận
động thành lập Ủy ban trù bị Đông Dương đại hội nhằm thu
thập nguyện vọng của quần chúng tiến tới triệu tập Đông
Dương đại hội, Tỉnh ủy lâm thời đã vận động các tầng lớp nhân
dân trong tỉnh tham gia các Ủy ban hành động, ký vào các bản
kiến nghị và dân nguyện đòi Chính phủ Pháp thi hành cải
cách dân chủ, cải thiện đời sống cho Nhân dân. Đến cuối năm
1936, các Ủy ban hành động nối tiếp nhau ra đời và triển khai
các hoạt động mạnh mẽ ở 8 làng, 2 thị trấn, 1 đồn điền cao su
37
trên địa bàn tỉnh và các vùng lân cận nay thuộc Bình Dương.
Hình thành sớm nhất là Ủy ban hành động của làng Uyên
Hưng và thị trấn Tân Uyên, tiếp đó là các làng Mỹ Lộc, Tân
Hòa, Tân Tịch, Mỹ Quới và các làng thuộc các quận Bến Cát,
Châu Thành, Lái Thiêu và đồn điền cao su Dầu Tiếng. Các
Ủy ban hành động tổ chức đặt thùng thư dân nguyện, phát
truyền đơn kêu gọi các giới đồng bào bày tỏ nguyện vọng về
dân sinh, dân chủ, thu thập chữ ký trong các bản dân nguyện.
Khẩu hiệu đấu tranh cũng bám sát các vấn đề thiết thực của
đời sống như: Giảm thuế thân, thuế nhà ngói, thuế lò heo,
thuế lò đường, thuế thợ hớt tóc, yêu cầu không đấu giá đất
công điền, cho dân tự do hội họp, bỏ việc quản thúc người tình
nghi... Tháng 9/1936, Ban trị sự hành động Thủ Dầu Một phát
truyền đơn kêu gọi các giới đồng bào đoàn kết đấu tranh chống
áp bức, bóc lột, đòi cải thiện dân sinh, dân chủ.
Như vậy, trong năm 1936, phong trào cách mạng dưới hình
thức công khai hợp pháp và nửa công khai hợp pháp đã diễn
ra một cách rầm rộ, sôi nổi ở nhiều quận, đồn điền, ngay cả tại
tỉnh lỵ với nhiều hình thức phong phú. Qua thực tế đấu tranh,
Chi bộ Đảng tại các địa phương đã tập hợp được rộng rãi quần
chúng, nâng cao lòng yêu nước và ý thức chính trị cho đồng
bào lao động; đội ngũ cán bộ, đảng viên thêm dày dạn, trưởng
thành về kinh nghiệm tổ chức lãnh đạo phong trào, nhiều
quần chúng tích cực được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng.
Ngày 15/9/1936, lo lắng trước sự phát triển mạnh mẽ của
các Ủy ban hành động được tổ chức ở khắp các địa phương,
Tổng thống Pháp Moutet gửi cho Toàn quyền Đông Dương một
bức điện, yêu cầu “Ngăn chặn những sự bạo động hoặc xúi giục
bạo động, phải dùng nhiều biện pháp mà luật pháp đã đề ra
để giữ gìn trật tự”. Ngày 18/9/1936, Toàn quyền Đông Dương
ra lệnh giải tán các Ủy ban hành động. Tại Thủ Dầu Một, Chủ
tỉnh Larivière gửi báo cáo lên Thống đốc Nam Kỳ khẳng định
38
sẽ giải tán hết các Ủy ban hành động trong tỉnh1. Hành động
quyết liệt của chính quyền thực dân khiến hoạt động của các
Ủy ban hành động ở Thủ Dầu Một bị kiểm soát và đánh phá ác
liệt. Cuối năm 1936, các Ủy ban hành động buộc phải ngừng
hoạt động.
Mặc dù các Ủy ban hành động phải ngừng hoạt động vào
cuối năm 1936, nhưng cuộc vận động dân chủ do Tỉnh ủy lâm
thời lãnh đạo đã giành được những thắng lợi bước đầu, buộc
chính quyền thực dân phải thực hiện một số cải cách trên lĩnh
vực kinh tế - xã hội như: Các chủ đồn điền cao su Dầu Tiếng,
Thuận Lợi và chủ Depot xe lửa Dĩ An phải làm thêm nhà y tế,
cất nhà ở cho gia đình công nhân, mở các cửa hàng bán thực
phẩm và tạp hóa cho công nhân, giảm đánh đập, thực hiện
ngày làm việc 10 giờ đối với công nhân, nữ công nhân nghỉ đẻ
được hưởng lương. Ban hội tề ở các làng bớt hống hách, thúc
thuế nhân dân. Ở An Thạnh, Tân Thới, ban hội tề còn mời
Ban trị sự hành động đứng ra hòa giải các vụ tranh chấp giữa
bà con trong làng với nhau. Những thắng lợi nêu trên càng
củng cố uy tín của Tỉnh ủy lâm thời, chứng minh chủ trương
và những thực tế hoạt động vận động Nhân dân của Đảng là
đúng đắn. Cuối năm 1936, Hội nghị Tỉnh ủy lâm thời Thủ Dầu
Một đã nhất trí đề nghị Xứ ủy Nam Kỳ công nhận Tỉnh ủy
chính thức. Tháng 01/1937, Xứ ủy Nam Kỳ đã thông qua đề
nghị, công nhận Tỉnh ủy Thủ Dầu Một. Chi bộ Thuận Giao đã
ra đời sau sự kiện này. Ngay sau khi được công nhận, Tỉnh ủy
đã xúc tiến vận động Nhân dân tham gia vào các hội Tương tế,
Ái hữu, Nhà vàng (đưa ma) để tập hợp và giác ngộ quần chúng
đường lối cách mạng của Đảng.
Đầu năm 1937, Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp
cử phái viên Justin Godart sang Đông Dương điều tra tình
hình xã hội ở một số thành thị và nông thôn. Đảng Cộng sản

1. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương: Địa chí Bình Dương, Sđd, t.2, tr.114.

39
Đông Dương nhân cơ hội này phát động Nhân dân tổ chức
một phong trào rầm rộ đón Godart, mục đích biểu dương lực
lượng quần chúng và đòi các quyền dân sinh, dân chủ cho
Nhân dân.
Ngày 01/01/1937, tàu chở Godart cập bến Sài Gòn. Ngày
14/01/1937, hàng trăm công nhân Depot xe lửa Dĩ An và Nhân
dân Thuận An có mặt trong đội ngũ 20.000 đồng bào Sài Gòn
tổ chức đón và đưa bản dân nguyện cho Godart. Ngay tại Châu
Thành (Thủ Dầu Một), khi phái đoàn Godart đến, hơn 200 thợ
lò chén, thợ hớt tóc, thợ may, tiểu chủ, tiểu thương, viên chức,
nhà giáo... đã tập trung tại nhà làng Phú Cường, cử đại biểu
các Hội Ái hữu, Hội Tương tế, Ủy ban hành động đưa bản dân
nguyện để nhà chức trách chuyển đến Godart. Tại trụ sở ban
hội tề làng Tân Khánh, hàng trăm nông dân trồng thuốc lá
cũng tập trung lực lượng, đưa đơn thỉnh nguyện cho Hương
cả để chuyển đến Godart, thỉnh cầu nguyện vọng được tự do
trồng thuốc lá trên đất của mình mà không phải xin phép
và chỉ nộp thuế một lần mà không phải nộp thuế vựa, thuế
đoan. Tại đồn điền cao su Dầu Tiếng, công nhân không chịu
làm theo sự sắp đặt của chủ đồn điền, mà cử đại biểu Hội Ái
hữu trực tiếp gửi đơn kiến nghị lên Godart, yêu cầu giải quyết
các vấn đề thiết thực về điều kiện ăn ở, khám chữa bệnh và
làm việc đúng luật lao động, lập nghiệp đoàn, hội họp, khi
công nhân hết hợp đồng được tự do về quê cũ1. Cuộc “đón tiếp”
Godart thực chất là cuộc biểu dương lực lượng quần chúng, tập
dượt phương thức đấu tranh công khai, hợp pháp, qua đó nâng
cao thêm trình độ giác ngộ chính trị cho quần chúng. Công tác
tuyên truyền, vận động quần chúng đã thu được kết quả rất
khả quan và để lại những kinh nghiệm sâu sắc cho Tỉnh ủy
Thủ Dầu Một về phương thức vận động quần chúng, làm sao
để quần chúng thống nhất tập trung lại.

1. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương: Địa chí Bình Dương, Sđd, t.2, tr.115-116.

40
Nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần
chúng, tháng 4/1937, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một phát hành bản
tin “Tranh đấu”. Bản tin được viết tay, in bột, mỗi tháng ra
một kỳ, 4 trang, khổ 12x15cm, với nhiều tin, bài về các cuộc
đấu tranh của quần chúng nhân dân các địa phương trong cả
nước, phổ biến kinh nghiệm vận động quần chúng, giải thích
các chủ trương mới của Đảng, sáng tác thơ ca vạch trần tội ác
của đế quốc và phong kiến, kêu gọi Nhân dân đứng lên đấu
tranh bằng các hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp. Nhân dân
các quận, nhất là quận Lái Thiêu đã góp tiền để in bản tin.
Cuối năm 1937, do bị thực dân Pháp theo dõi gắt gao, bản
tin phải dừng hoạt động1. Tuy chỉ tồn tại trong một thời gian
ngắn, nhưng bản tin “Tranh đấu” cùng với các tài liệu cách
mạng khác đã góp phần quan trọng vào công tác vận động
quần chúng, thức tỉnh quần chúng đấu tranh vì quyền lợi dân
sinh, dân chủ của chính họ.
Hình thức tập hợp quần chúng qua các Hội Ái hữu, Hội
Tương tế được các Chi bộ đảng ở Thủ Dầu Một đặc biệt quan
tâm, củng cố và mở rộng. Tháng 4/1937, đồng chí Nguyễn Văn
Tiết cùng với các đảng viên Chi bộ lò chén Phú Cường đã đứng
ra vận động thành lập thêm Hội Ái hữu Thủ Dầu Một với 36
hội viên có nghề nghiệp khác nhau, đặt trụ sở tại tiệm đóng
giày đường Đoàn Trần Nghiệp, chợ Thủ Dầu Một. Hội Ái hữu
thường xuyên thăm hỏi, giúp đỡ hội viên khi ốm đau, hoạn
nạn, thay mặt hội viên gửi đơn kiện chủ lò, chủ sở vi phạm
thỏa ước lao động. Thông qua các hoạt động thiết thực, hiệu
quả và công khai, Hội đã thu hút số hội viên tham gia lên đến
cả trăm người. Thực dân Pháp nhiều lần đến trụ sở gây khó
dễ, nhưng các hội viên nắm vững nguyên tắc hoạt động công
khai đã đấu tranh lý lẽ thành công, duy trì bình thường hoạt
động của Hội.

1. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương: Địa chí Bình Dương, Sđd, t.2, tr.117.

41
Kinh nghiệm hoạt động của Hội Ái hữu ở chợ Thủ Dầu
Một, quận Châu Thành được các Hội Ái hữu, Hội Tương tế
ở Lái Thiêu, Châu Thành, Dầu Tiếng, Dĩ An vận dụng, giúp
các hội chuyển dần hoạt động ra công khai và nửa công khai.
Nhờ đó, các hội đã thu hút số hội viên tham gia lên đến hàng
ngàn người. Đặc biệt, ở Lái Thiêu công tác vận động quần
chúng rất hiệu quả. Tháng 10/1937, Hội Ái hữu thợ mộc được
thành lập. Trong buổi ra mắt, Hội đã vận động 250 hội viên
làm đơn gửi đến các chủ trại mộc đòi tăng lương 20%, đòi cứu
trợ khi bị tai nạn lao động. Điều này cho thấy công tác vận
động quần chúng của Chi bộ đã đi đúng nguyện vọng của
quần chúng, được quần chúng ủng hộ mạnh mẽ. Công tác
vận động quần chúng vào các hình thức hội là bước tập dượt,
chuẩn bị về lực lượng và phương pháp đấu tranh cho các giai
đoạn tiếp theo.
Sang năm 1938, tình hình chính trị nước Pháp diễn biến
xấu, phái hữu Đảng cấp tiến lên cầm quyền thi hành những
chính sách cực đoan. Ở Đông Dương, bọn phản động thuộc địa
nhân đó thẳng tay đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng.
Nhiều luật lệ hà khắc được thi hành.
Để đối phó với những thay đổi bất lợi, tháng 3/1938, Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích tình hình,
quyết định đổi tên Mặt trận Nhân dân phản đế Đông Dương
thành Mặt trận Thống nhất dân chủ Đông Dương, đồng thời đề
ra nguyên tắc giải quyết mối quan hệ giữa công tác bí mật và
công khai. Đảng kịp thời chỉ thị việc đình chỉ việc lấy nguyện
vọng và biểu tình của quần chúng, nhấn mạnh không thể đưa
lực lượng của Đảng, của quần chúng cho bọn thống trị biết,
phải củng cố lực lượng, lùi một bước để dự bị tiến lên năm bảy
bước sau này.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng, tháng
5/1938, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đã họp Hội nghị mở rộng. Hội
42
nghị nhận định tình hình, biểu dương những thành quả đã
đạt được và đề ra chủ trương thành lập thêm các tổ chức
Nông hội, Hội Phụ nữ, Hội Thanh niên, kết hợp phương thức
đấu tranh công khai, bán công khai với phương thức bí mật,
nửa bí mật.
Sau Hội nghị, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đã cử các đảng viên
bám sát địa bàn, tích cực tuyên truyền vận động Nhân dân
tham gia với các hình thức mới. Cuối năm 1938, Hội truyền bá
Quốc ngữ, một tổ chức tiến bộ công khai, được một số trí thức
thành lập với tôn chỉ “Dạy người Việt Nam biết tiếng nước
mình”. Các chi nhánh của Hội nhanh chóng được lập ở trung
tâm Thủ Dầu Một, Lái Thiêu, Bến Cát, Bến Súc, Tân Uyên.
Những người tham gia đứng lớp không chỉ dạy chữ, mà còn tổ
chức các nhóm thanh niên đọc sách báo tiến bộ, khuyên thanh
niên không sa vào các tệ nạn xã hội.
Công tác vận động quần chúng của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một
từ cuối năm 1938 càng gặp nhiều khó khăn do chính sách
tăng cường đàn áp, tăng cường bắt lính, tăng thuế... của chính
quyền thực dân Pháp. Đến đầu năm 1939, nguy cơ của cuộc
Chiến tranh thế giới thứ hai do phe phát xít phát động đã gần
kề. Thực dân Pháp ở Đông Dương càng ra sức bóp nghẹt dân
chủ. Tháng 4/1939, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một họp Hội nghị mở
rộng, bàn các biện pháp khẩn cấp đối phó với tình hình mới.
Công tác vận động quần chúng được xác định tiếp tục dựa vào
các tổ chức quần chúng là Hội Ái hữu, Hội Tương tế để thu hút
Nhân dân tham gia vào các hoạt động cách mạng.
Cuộc vận động dân chủ, dân sinh những năm 1936-1939
đã trang bị những kinh nghiệm quý báu cho Tỉnh ủy Thủ Dầu
Một. Sự lớn mạnh và trưởng thành của phong trào quần chúng
dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy là một sự chuẩn bị lực lượng và
trận địa quan trọng cho cao trào giải phóng dân tộc những
năm 1939-1945.
43
IV. TỈNH ỦY THỦ DẦU MỘT VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
THAM GIA KHỞI NGHĨA NAM KỲ, TIẾN TỚI TỔNG KHỞI
NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1939 - 1945)

1. Công tác vận động quần chúng trong bối cảnh


chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng

Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Thực
dân Pháp ở Đông Dương thi hành chính sách phát xít, truy
lùng, bắt bớ, đàn áp những người tham gia cách mạng. Thực
dân Pháp ra lệnh giải tán Đảng Cộng sản, giải tán Hội Ái hữu,
Nghiệp đoàn, Hội Tương tế. Đồng thời, Pháp ra lệnh tổng động
viên, ra sức bắt lính đưa sang chiến trường châu Âu, thi hành
chính sách kinh tế thời chiến nhằm vơ vét sức người, sức của
phục vụ cho chiến tranh.
Ngày 29/9/1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi
Thông cáo cho các đồng chí các cấp bộ, nêu rõ “Tình hình đã
thay đổi nhiều. Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn
đề dân tộc giải phóng”1. Ban Chấp hành chỉ thị đối với công
tác vận động quần chúng, thực hiện theo phương thức: “chọn
người nào trung thành hăng hái có giác ngộ chính trị thì tổ
chức vào hội bí mật. Từ ba người đến năm người lập thành
một tiểu tổ, trong tiểu tổ có tổ trưởng chỉ huy. Từ ba tiểu tổ trở
lên lập thành một phân hội, trong một làng có nhiều phân hội
phải thành lập ban cán sự, ban này do các tổ trưởng hay các
phân hội bầu lên, ban cán sự chịu quyền chỉ huy của Đảng,
tức của các đồng chí trong Chi bộ ấy. Những hội này phải hoàn
toàn bí mật”2.
Tháng 11/1939, Ban Chấp hành Trung ương họp hội nghị
nhằm thống nhất chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, giương
cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ chống đế

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.756.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.757.

44
quốc, giải phóng dân tộc cao hơn nhiệm vụ chống phong kiến,
giành ruộng đất cho Nhân dân. Nhiệm vụ trung tâm của cách
mạng là chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Để tập trung
lực lượng thực hiện nhiệm vụ trung tâm, Hội nghị chủ trương
thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
Công tác tập hợp, tổ chức quần chúng được xác định “Tổ chức
quần chúng tuỳ theo điều kiện, càng có thể có tính chất rộng
rãi và giản đơn bao nhiêu càng hay, để thâu phục được quảng
đại quần chúng... Nếu không biết lợi dụng những tổ chức tương
tế ái hữu, phường, hội, hiếu hỷ, văn hoá, thể thao, v.v., để thâu
phục quảng đại quần chúng hậu tiến tức là khuynh hướng cô
độc... Nhưng trong tình hình nghiêm trọng và khủng bố này,
trong lúc hiệu triệu quần chúng ra làm cách mệnh giải phóng
dân tộc, nhiệm vụ chính của Đảng trong sự tổ chức quần chúng
là thành lập những hội bí mật như: Công hội, Nông hội, Phản
đế hội, v.v., và nếu không chú ý củng cố và khoách trương các
tổ chức ấy tức là thủ tiêu cách mệnh”1. Ban Chấp hành Trung
ương yêu cầu các cấp bộ đảng phải có các ban chuyên môn
về tuyên truyền, vận động quần chúng như: Ban Công vận,
Ban Nông vận, Ban vận động dân tộc thiểu số... Như vậy, Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939 đã đề
ra nhiều vấn đề quan trọng cho chuyển hướng chỉ đạo cách
mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề về công tác dân vận.
Tháng 3/1940, Xứ ủy Nam Kỳ phát hành “Đề cương chuẩn
bị bạo động” mục đích chuẩn bị “bước tới làm cách mạng giải
phóng dân tộc”.
Thực hiện chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng và Xứ ủy Nam Kỳ, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đã tiến hành
rút các cấp ủy đảng vào hoạt động bí mật, nhưng vẫn bám sát
quần chúng, dùng sách báo, truyền đơn lưu hành trong quần
chúng để tuyên truyền, giải thích chủ trương mới của Đảng.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.547.

45
Tháng 8/1940, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một xúc tiến thành lập Ủy
ban khởi nghĩa, đồng thời đẩy mạnh công tác tổ chức các đội
vũ trang, rèn đúc, mua sắm vũ khí, luyện tập quân sự, đẩy
mạnh công tác binh vận. Công tác vận động quần chúng được
xác định kết hợp giữa tuyên truyền vận động chính trị với
tuyên truyền vận động xây dựng lực lượng vũ trang.
Phong trào đấu tranh của sinh viên do Tổng Hội Sinh viên
phát động từ đầu năm 1940 cũng tác động đến Thủ Dầu Một,
có tác động kích thích, bồi dưỡng tinh thần dân tộc, lòng yêu
nước và tập hợp giới trẻ. Hành khúc “Tiếng gọi thanh niên”
của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước cùng hàng loạt bài ca yêu nước đã
thức tỉnh mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân, giác ngộ họ đứng
lên tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

2. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một vận động và lãnh đạo quần


chúng trong Khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11/1940

Ngày 22/9/1940, quân đội Nhật vượt biên giới Việt - Trung
tràn vào xâm lược Việt Nam. Quân đội Pháp kháng cự yếu
ớt và nhanh chóng đầu hàng Nhật. Nhân dân Việt Nam rơi
vào cảnh bị thống trị bởi hai đế quốc Nhật - Pháp. Các cuộc
khởi nghĩa của Nhân dân Việt Nam đã bùng lên mạnh mẽ,
vì độc lập, tự do của dân tộc và giai cấp. Tiêu biểu là các cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940), Nam Kỳ (22, 23/11/1940), Đô
Lương (13/01/1941).
Tháng 10/1940, Ban Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ quyết định
lãnh đạo Nhân dân Nam Kỳ khởi nghĩa. Ngày 20/11/1940,
lệnh khởi nghĩa được gửi đi các địa phương, thống nhất khởi
nghĩa trên toàn xứ Nam Kỳ vào nửa đêm 22/11/1940.
Nhận lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một chỉ
đạo các Chi bộ tập hợp lực lượng quần chúng nhất tề đứng lên
cùng Nhân dân Nam Kỳ tham gia khởi nghĩa.
Tại đồn điền cao su Dầu Tiếng, Chi bộ đảng đã vận động
46
và tổ chức công nhân cao su và thợ cơ khí bãi công 3 ngày với
các khẩu hiệu giảm giờ làm, tăng tiền lương, chống khủng bố.
Nhân dân làng Định Thành sát cạnh đồn điền đã được tổ chức
hưởng ứng cuộc bãi công của công nhân, đấu tranh chống hội
tề, đòi giảm thuế, chống bắt lính.
Ở Dĩ An, Chi bộ vận động công nhân treo cờ búa liềm trên
ngọn cây gần nhà máy và dọc đường sắt.
Ở Bến Cát, Chi bộ vận động và tổ chức Nhân dân ấp Kiến
Điền và chợ Bến Súc cắt đứt đường dây điện thoại của địch.
Ở làng Tân Khánh, quận Châu Thành (nay là tân Phước
Khánh, Tân Uyên), nông dân chặt cây làm chướng ngại vật
ngăn địch kéo đến đàn áp và tổ chức kéo đến nhà làng đấu
tranh đòi giảm thuế, ban đêm bà con còn thổi tù và, khua mõ,
lùng bắt hội tề gian ác.
Ở Lái Thiêu, tối ngày 23/11/1940, các Chi bộ phối hợp vận
động Nhân dân tổ chức mít tinh lớn tại chùa Cây Me, thu hút
hàng ngàn người tham gia. Các hội viên Hội phản đế trang bị
vũ khí thô sơ bảo vệ cuộc mít tinh. Sau cuộc mít tinh, Nhân
dân còn tổ chức treo cờ, dán truyền đơn, khẩu hiệu nhiều ngày
ở những nơi đông người qua lại.
Ở Tân Uyên, Chi bộ cùng tiểu đội vũ trang tổ chức Nhân
dân biểu tình thị uy tại trụ sở quận.
Trong ngày nổ ra khởi nghĩa, hơn 100 binh lính người Việt
đóng tại thành Săng Đá (Ấp Chánh, Phú Cường) được vận
động từ trước đã dùng nhiều cách hủy hoại thân thể (bỏ mạt
cưa vào lỗ tai làm cho thối tai, ăn cá ươn gây đau bụng, đuổi
đánh nhau gây tai nạn...) để không phải chấp hành lệnh của
cấp trên điều đến biên giới Thái Lan-Campuchia làm bia đỡ
đạn cho lính Pháp hoặc điều đi đàn áp đồng bào.
Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ được chuẩn bị gấp rút, trong
bối cảnh địch đang rất mạnh, song quần chúng nhân dân
47
vẫn đồng lòng đứng lên hưởng ứng. Điều này chứng minh sức
mạnh của lòng yêu nước, ý chí độc lập, tự do của Nhân dân khi
được khơi dậy và phát huy sẽ đạp bằng tất cả mọi trở ngại, khó
khăn. Cuộc khởi nghĩa không giành được thắng lợi, thực dân
Pháp sau đó đã thẳng tay đàn áp lực lượng cách mạng, nhưng
ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm về khởi nghĩa, về vận
động Nhân dân đối với Tỉnh ủy Thủ Dầu Một là vô cùng quý
giá trong vận động cách mạng giai đoạn kế tiếp.

3. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một vận động quần chúng tham


gia các phong trào cứu quốc và xây dựng Mặt trận Việt
Minh

Tháng 01/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước, trực tiếp lãnh


đạo cách mạng Việt Nam, thực hiện mục tiêu “Trở về nước, đi
vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn
luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”1. Tại Cao
Bằng, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo thí điểm xây dựng
Mặt trận Việt Minh và triệu tập hội nghị Trung ương bàn về
chủ trương giải phóng dân tộc (tháng 5/1941). Chiến lược cách
mạng được Nguyễn Ái Quốc và Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đề ra cho giai đoạn này là “Trong lúc này quyền lợi của
bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của
quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho
toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc
còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”2. Hội nghị cũng chủ
trương giải quyết vấn đề dân tộc của Đông Dương trong khuôn
khổ từng nước. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Mặt trận
Việt Nam độc lập đồng minh (Mặt trận Việt Minh) được thành
lập, phụ trách các đoàn thể gọi chung là Hội cứu quốc: Công

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.209.


2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, Sđd, t. 7, tr.113.

48
nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Việt
Nam quân nhân cứu quốc, Nhi đồng cứu vong, Văn nhân cứu
quốc... Hội nghị cũng xác định xúc tiến công tác chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và Nhân dân.
Nguyễn Ái Quốc cũng thay mặt Trung ương Đảng ra lời
kêu gọi “Kính cáo đồng bào” kêu gọi toàn dân đoàn kết dưới
ngọn cờ Việt Minh để đánh Tây, đuổi Nhật, khôi phục độc lập,
tự do.
Tháng 10/1941, Mặt trận Việt Minh công bố Tuyên ngôn,
Chương trình, Điều lệ của Mặt trận. Mười chính sách trong
Chương trình Việt Minh đã đáp ứng đúng nguyện vọng của
Nhân dân, chỉ rõ những nội dung rất cụ thể về chính sách đối
với từng bộ phận nhân dân sau khi giành được độc lập.
Nghị quyết của Hội nghị, Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc
và Chương trình mười điểm của Việt Minh là những tài liệu
thiết thực phục vụ công tác vận động quần chúng của các cấp
Đảng bộ trong giai đoạn cách mạng này.
Tình hình Nam Kỳ nói chung, Thủ Dầu Một nói riêng sau
Khởi nghĩa Nam Kỳ gặp nhiều khó khăn do bị thực dân đàn
áp, khủng bố. Lực lượng cách mạng chịu nhiều tổn thất. Mặc
dù vậy, Xứ ủy, Tỉnh ủy và các đảng viên vẫn kiên trì bám trụ
vào dân, gây dựng lực lượng và phát triển phong trào. Công
tác vận động quần chúng của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một vẫn dựa
vào các tổ chức quần chúng để tuyên truyền, phổ biến chủ
trương, chính sách của Đảng và Mặt trận Việt Minh. Cuối
năm 1940, thực dân Pháp càng gia tăng khủng bố, Tỉnh ủy
Thủ Dầu Một tan vỡ, Bí thư Hồ Văn Cống bị bắt, bị đày ra Côn
Đảo và đã hy sinh.
Cuối năm 1941, tình hình trong nước và tại Thủ Dầu Một
càng chuyển biến bất lợi cho phong trào cách mạng. Bên cạnh
quân đội Pháp đã xuất hiện thêm 1 trung đoàn quân Nhật.
Lực lượng này rải ra đóng đồn ở thị xã, các thị trấn và cả ở
49
đồn điền cao su. Sự kiểm soát của Pháp - Nhật càng tăng
cường, hoạt động của đảng viên và quần chúng càng trở nên
khó khăn.
Để bám trụ địa bàn, bám dân và gây dựng phong trào, các
đảng viên đã kiên trì làm công tác dân vận và binh vận. Ở đồn
điền cao su Dầu Tiếng, Chi bộ mật xưởng cơ khí và nhóm quần
chúng nòng cốt được thành lập, hoạt động bí mật bằng cách
gây quỹ tương tế, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn; vận động nhóm
tài tử cải lương thường xuyên biểu diễn những bài ca khích lệ
tinh thần dân tộc, lòng yêu nước cho quần chúng và sáng tác
những bài ca có nội dung yêu nước, chống xâm lăng, đem lại
hiệu quả tuyên truyền, vận động thiết thực.
Ở khu vực các quận Lái Thiêu, Bến Cát, Châu Thành, Tân
Uyên... đến năm 1942, số đảng viên chỉ còn khoảng 20 người.
Mặc dù vậy, dựa vào quần chúng, các đảng viên đã cố gắng
vận động khôi phục lại các hội đá banh, hội nhà vàng, hội vần
đổi công... qua đó mà vận động quần chúng, hướng dẫn quần
chúng các hình thức đấu tranh với Pháp - Nhật. Riêng ở Tân
Uyên, đội vũ trang khoảng 10 người, đã tham gia Khởi nghĩa
Nam Kỳ, nay rút về vùng rừng núi tiếp tục hoạt động du kích,
chờ thời cơ. Dù phải thay đổi địa điểm trú chân nhiều lần do
địch truy lùng, nhưng đội du kích vẫn tích cực xây dựng lực
lượng và vận động Nhân dân tham gia lực lượng, đấu tranh
chống địch. Đội còn nhiều lần gửi thư cảnh cáo bọn cường hào,
ác bá, kể cả Quận trưởng Đỗ Hữu Công và buộc chúng phải
nộp tiền, gạo cho đội nuôi quân.
Đầu năm 1943, đồng chí Nguyễn Oanh truyền đạt các tài
liệu của Mặt trận Việt Minh cho các đảng viên và đề nghị đồng
chí Văn Công Khai đứng ra thành lập cấp ủy mới để lãnh đạo
phong trào cách mạng trong tỉnh, thực hiện những nhiệm vụ
mới do Trung ương đề ra. Ngày 27/3/1943, Hội nghị tái lập
Tỉnh ủy Thủ Dầu Một được tổ chức thành công, đồng chí Văn
50
Công Khai được bầu làm Bí thư. Các Chi bộ lần lượt được tổ
chức lại và xây dựng cơ sở trong quần chúng, tuyên truyền về
Mặt trận Việt Minh. Đồng thời, các đảng viên chủ chốt tìm
cách bắt liên lạc với Xứ ủy, Thành ủy Sài Gòn, Tỉnh ủy Gia
Định để nắm tình hình chung và nhận các tài liệu của Trung
ương. Những quần chúng tốt được lựa chọn, làm nòng cốt để
thành lập các hội cứu quốc.
Từ năm 1944, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một phân công các đảng
viên hoạt động trên hai địa bàn chính là vùng rừng núi phía
bắc (vùng có đông công nhân cao su, các cộng đồng dân tộc thiểu
số) và vùng đồng bằng phía nam (vùng tập trung đông các bộ
phận nông dân, trí thức, thợ thuyền). Dựa vào đặc điểm của
từng vùng, Tỉnh ủy có các hình thức tuyên truyền, vận động
phù hợp. Nhờ đó, các nhóm quần chúng có cảm tình với cách
mạng đã tổ chức được các hoạt động rất hiệu quả như: Nhóm
của nhà giáo Vũ Văn Dương tích cực thông qua Hội truyền bá
Quốc ngữ để vận động thanh niên chống tuyên truyền văn hóa
nô dịch của địch; nhóm thanh niên yêu nước của Trịnh Kim
Ảnh thường xuyên tổ chức ca hát, diễn kịch về đề tài ái quốc,
chống văn hóa lai căng, nô dịch của địch...
Từ giữa năm 1944, không khí cách mạng trở nên sôi sục.
Tháng 8/1944, Tổng bộ Việt Minh phát động phong trào “Sắm
vũ khí, đuổi kẻ thù chung”.
Đầu năm 1945, các hội cứu quốc lần lượt ra đời ở Thủ
Dầu Một. Tại các làng Phú Cường, Hiệp Thành, Bình Nhâm,
Thuận Giao, An Thạnh, Tân Thới, Chánh Phú Hòa, Bình
Thành, Mỹ Phước,... các hội cứu quốc hoạt động bí mật, vận
động được nhiều quần chúng tham gia. Ở sở cao su Dầu Tiếng,
sở cao su Phước Hòa, các hội cứu quốc thu hút công nhân, thợ
thuyền tham gia đông đảo. Đây là bước vận động quan trọng,
chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ đứng lên khởi nghĩa giành
chính quyền.
51
4. Toàn dân tham gia khởi nghĩa giành chính quyền
ở Thủ Dầu Một

Đêm 09/3/1945, phát xít Nhật làm đảo chính Pháp trên
toàn Đông Dương. Ngày 12/3/1945, Thường vụ Trung ương
Đảng thông qua Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta”. Trên cơ sở đánh giá tình hình, bản Chỉ
thị khẳng định những điều kiện của cuộc khởi nghĩa ở Đông
Dương đang đi tới chín muồi. Chỉ thị quyết định thay khẩu
hiệu “Đánh đuổi Nhật-Pháp” bằng khẩu hiệu mới “Đánh đuổi
phát xít Nhật” và phát động cao trào kháng Nhật cứu nước.
Tại Thủ Dầu Một, từ cuối tháng 3/1945, phát xít Nhật ra
sức xây dựng bộ máy cai trị mới, tìm mọi cách tấn công nhằm
xóa bỏ các tổ chức cộng sản và tổ chức hội cứu quốc của quần
chúng. Trung đoàn bộ binh Nhật được bố trí chiếm giữ các vị
trí quan trọng về kinh tế, chính trị, như trung tâm Thủ Dầu
Một, các thị trấn, các đồn điền cao su, nhà ga xe lửa và các đồn
biên phòng dọc biên giới Việt Nam - Campuchia. Tại Phú Hòa,
nơi có một phi đội máy bay chiến đấu loại nhỏ đóng, Nhật bố
trí một đại đội pháo binh chốt giữ. Cùng với lực lượng quân
đội Nhật là lực lượng quân Pháp, các đơn vị lính tập người
Việt, lực lượng lính “hay hô” và các nhóm thanh niên Bảo vệ
đoàn mới được chính quyền Nhật lập thêm. Ngoài ra, Nhật còn
dung túng cho các tổ chức cơ hội và phản động ngóc đầu hoạt
động tại Thủ Dầu Một như Đảng Hắc Long do Nguyễn Hòa
Hiệp cầm đầu, các tín đồ quá khích Cao Đài...
Về kinh tế, phát xít Nhật tiến hành vơ vét lương thực,
thực phẩm, dược liệu, nguyên vật liệu... phục vụ chiến tranh.
Chúng thi hành chính sách thuế hà khắc và cưỡng bức hàng
ngàn nhân công đi xây dựng hệ thống hầm trú ẩn, sân bay
và đồn bót ở Phú Hòa, thành Săng Đá, Tân Thới, thị trấn Lái
Thiêu, Uyên Hưng, Tân Uyên, Sở Ông Yệm.
Làn sóng căm phẫn giặc Nhật sục sôi trong các tầng lớp
52
nhân dân Thủ Dầu Một. Chỉ một ngày sau ngày Nhật đảo
chính Pháp, lợi dụng sự hoang mang của lính Pháp, còn lính
Nhật chưa kịp thay chân Pháp kiểm soát tình hình, khoảng
200 tù chính trị đã tự giải thoát khỏi nhà tù Bà Rá. Rời khỏi
nhà tù, các đảng viên cộng sản tổ chức ngay một cuộc mít tinh
tại bờ sông Bé, đọc Tuyên ngôn của Mặt trận Việt Minh, nhắc
nhở mọi người khi trở về địa phương hãy bắt tay cùng Đảng
bộ địa phương và Nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa giành chính
quyền. Tại Phước Hòa và Phú Hưng, công nhân và nông dân
cũng nổi dậy cướp các kho lương thực, vải, cá khô của bọn
Pháp để lại, đem chia cho dân. Noi gương Phú Hưng, Phước
Hòa, Nhân dân ở nhiều làng khác trong tỉnh cũng nổi dậy phá
kho gạo của địch.
Trước khí thế đấu tranh lên cao của Nhân dân, Tỉnh ủy đã
triệu tập họp tại làng Mỹ Phước (Bến Cát), có sự tham dự của
đồng chí Nguyễn Văn Trấn, phái viên Xứ ủy Tiền phong, phụ
trách Liên Tỉnh ủy miền Đông. Cuộc họp quán triệt quan điểm
đẩy mạnh công tác phát triển đảng và các hội cứu quốc, thành
lập đội tự vệ và sắm sửa vũ khí để chuẩn bị khởi nghĩa giành
chính quyền khi thời cơ tới.
Từ tháng 5/1945, Tỉnh ủy nhận được nhiều tài liệu và
chỉ thị của Trung ương và Mặt trận Việt Minh do Xứ ủy Tiền
phong1 phổ biến đến. Các tài liệu và chỉ thị đã làm rõ thêm
về cách thức tổ chức và hoạt động của các hội cứu quốc, về tổ
chức lực lượng tự vệ và huấn luyện chiến đấu. Nhờ đó, các cấp
Đảng bộ được kiện toàn, phát triển, các đoàn thể quần chúng
được củng cố và đẩy mạnh hoạt động. Hội công nhân cứu quốc

1. Sau Khởi nghĩa Nam Kỳ, các tổ chức đảng thuộc Xứ ủy Nam Kỳ và bản thân
Xứ ủy Nam Kỳ tạm thời tan rã. Tháng 10/1943, những đảng viên còn lại đã tổ chức hội
nghị ở Chợ Gạo, Mỹ Tho để thành lập lại Xứ ủy lâm thời. Trong quá trình hồi phục tổ
chức và phong trào cách mạng, các đảng viên cộng sản ở Nam Kỳ đã hình thành nên
hai tổ chức Tiền phong và Giải phóng, còn được gọi là Xứ ủy Tiền phong và Xứ ủy
Giải phóng. Đến tháng 8 và tháng 9/1945, cả hai tổ chức Tiền phong và Giải phóng đã
thống nhất lại trong Xứ ủy Nam Kỳ.

53
chuyển sang hoạt động công khai ở các đồn điền cao su Dầu
Tiếng, Phước Hòa, Phú Hưng. Hội Nông dân cứu quốc được
thành lập ở các làng Định Thành, Thanh Tuyền, Thanh An...
Tại Dĩ An, do phát xít Nhật kiểm soát gắt gao nên hoạt động
của Chi bộ và các hội cứu quốc gặp nhiều khó khăn. Trước
tình hình đó, Xứ ủy Tiền phong và Thành ủy Sài Gòn đã cử
phái viên Nguyễn Văn Lộng đến Depot xe lửa Dĩ An phối hợp
với các đảng viên kỳ cựu ở đây (Đào Sơn Tây, Dương Văn Sửu)
tìm biện pháp đối phó với Nhật và thúc đẩy tuyên truyền, vận
động công nhân và nông dân quanh vùng. Chỉ sau một thời
gian ngắn, nhiều tổ công hội đã được thành lập ở bốn phân
xưởng lớn, từ đó Hội công nhân cứu quốc của Depot đã ra đời
và hoạt động. Phong trào lập hội phát triển nhanh, rầm rộ
ở các làng thuộc khu vực phía nam của tỉnh, nhất là ở Châu
Thành và Lái Thiêu. Đáng chú ý là công nhân và thợ người
Hoa trong các lò chén, lò đường cũng tích cực tham gia vào các
hội cứu quốc.
Công tác vận động quần chúng tham gia vào các hội cứu
quốc hướng đến mọi tầng lớp nhân dân, nhưng nòng cốt là
thanh niên. Bất chấp các thủ đoạn lôi kéo của Nhật, thanh
niên Thủ Dầu Một đã sớm nhận thức được dã tâm của phát xít
Nhật nên họ tích cực tham gia các hội cứu quốc. Ở khu trung
tâm Thủ Dầu Một, Chi bộ đã vận động được thanh niên học
sinh các trường Thanh Trước và Tân Ánh Mai, trường nam
sinh và nữ sinh quận Châu Thành, trường Bá Nghệ tham gia
nhiều hoạt động thể dục - thể thao, văn nghệ lồng ghép tuyên
truyền lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Vì thế, ngay sau khi
lực lượng Thanh niên Tiền phong do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch
đứng đầu được thành lập (đầu tháng 5/1945) thì tại Thủ Dầu
Một, đoàn Thanh niên Tiền phong cũng ra đời và công khai
hoạt động (giữa tháng 5/1945). Đến tháng 8/1945, đã có 148 cơ
sở của Thanh niên Tiền phong ra đời ở thị xã, 5 thị trấn, 118
làng người Việt, 22 đồn điền cao su và ở Depot xe lửa Dĩ An.
54
Lo ngại trước sự lớn mạnh của lực lượng Thanh niên Tiền
phong, phát xít Nhật cũng cho thành lập một tổ chức lấy tên
là Thanh niên Tiền phong nhằm lôi kéo bộ phận thanh niên
còn mơ hồ về chính trị, tạo sự phân hóa trong lực lượng thanh
niên. Ở Thủ Dầu Một, lực lượng Thanh niên Tiền phong thân
Nhật do Phân Quốc Quân cầm đầu ra sức tranh giành quần
chúng với phía cách mạng. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy đã
chỉ đạo đồng chí Nguyễn Văn Đối, phụ trách công tác thanh
niên, tổ chức cuộc họp bàn hợp nhất hai tổ chức thanh niên và
bầu một thủ lĩnh chung. Tuy việc hợp nhất hai tổ chức không
thành, nhưng qua cuộc họp, bộ mặt thân Nhật của nhóm người
Phân Quốc Quân đã bị vạch trần và bị tẩy chay.
Sau ngày thành lập, Thanh niên Tiền phong tích cực tuyên
truyền, vận động quần chúng, tổ chức canh gác, luyện tập quân
sự, diễn thuyết chính trị, nói chuyện về chiến thắng của hồng
quân Liên Xô trước phát xít Đức,... Từ tháng 8/1945, Thanh
niên Tiền phong công khai diễn thuyết trước đồng bào, tạo nên
khí thế sôi sục cách mạng ở khắp các địa phương trong tỉnh.
Tại thị xã, thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong Trịnh Kim
Ảnh tổ chức nhiều buổi diễn thuyết công khai về trách nhiệm
của thanh niên đối với thời cuộc. Thanh niên Tiền phong còn
tổ chức diễu hành, làm lễ tuyên thệ với các khẩu hiệu “Thanh
niên, Tiến!”, “Thanh niên quyết hy sinh giành độc lập, tự do!”,
“Thanh niên thà chết không phản bội Tổ quốc!”.
Hoạt động tuyên truyền, diễn thuyết của Thanh niên Tiền
phong cũng được diễn ra ở Lái Thiêu, Tân Uyên, Bến Cát, Dĩ
An, thu hút rất đông người tham dự.
Bên cạnh công tác tuyên truyền, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một
phát động Nhân dân sắm sửa vũ khí, tích cực chuẩn bị cho
cuộc khởi nghĩa, tổ chức các đội tự vệ thanh niên, chú trọng
công tác huấn luyện quân sự. Lực lượng Thanh niên Tiền
phong được trang bị tầm vông, gậy gộc, gươm, súng sẵn sàng
55
chờ lệnh khởi nghĩa.
Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh. Ngay
lập tức, Hội nghị toàn quốc của Đảng được triệu tập (ngày 14,
15/8/1945), kịp thời nhận định tình hình, phát động và lãnh
đạo toàn dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Chủ
tịch Hồ Chí Minh ra lời hiệu triệu đồng bào cả nước “Giờ quyết
định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy
đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”1.
Không khí khởi nghĩa lan nhanh trong cả nước. Lực lượng
Nhật đóng tại Thủ Dầu Một tê liệt, các lực lượng thân Nhật
rệu rã hoàn toàn. Bọn chỉ huy Nhật hạ lệnh cho binh lính đào
nhiều hầm bí mật chôn dấu vũ khí trong rừng Bến Cát, Tân
Uyên, đồng thời bố trí một số gián điệp giả làm thương nhân,
thầy thuốc để tìm cách chui vào hàng ngũ của ta. Nhật còn tổ
chức “trao trả độc lập” cho cái gọi là “Chính quyền Việt Nam”
do chúng lập ra, đưa Lương Sơ Khai làm tỉnh trưởng.
Ngày 19/8/1945, Nhân dân Hà Nội khởi nghĩa giành chính
quyền.
Ngày 23/8/1945, Nhân dân thành phố Sài Gòn giành chính
quyền.
Từ ngày 19 đến ngày 23/8/1945, nhiều cuộc mít tinh, biểu
tình đã diễn ra trước dinh Tỉnh trưởng Thủ Dầu Một và trụ
sở các quận. Quần chúng nhân dân hô to khẩu hiệu “Đả đảo
Tỉnh trưởng Lương Sơ Khai!”, “Đả đảo Quận trưởng Đỗ Văn
Công!”. Trước khí thế cách mạng của quần chúng, bọn Lương
Sơ Khai, Đỗ Văn Công bỏ nhiệm sở thoát thân. Một bộ phận
quan chức chính quyền Lương Sơ Khai, trong đó có Phó tỉnh
trưởng quay sang ủng hộ Nhân dân. Các lực lượng vũ trang
(Cảnh sát, Đội Cộng hòa vệ binh...) của chính quyền địch tan
rã. Ngày 21 và 23/8/1945, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một mở liên tiếp

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.596.

56
hai cuộc họp, nhận định tình hình, lập Ủy ban khởi nghĩa và
ra quyết định khởi nghĩa. Ngày 24/8/1945, Tỉnh ủy và Ủy ban
khởi nghĩa lãnh đạo toàn thể Nhân dân trong tỉnh nhất tề nổi
dậy giành chính quyền. Nhân dân đã đồng loạt nổi dậy giành
chính quyền tại các thị trấn Bến Cát, Tân Uyên và Lái Thiêu.
Lực lượng Thanh niên Tiền phong bán vũ trang phối hợp cùng
Nhân dân tiến chiếm các trụ sở hành chính, các đồn cảnh sát ở
các quận. Sau đó, quần chúng được tổ chức kéo về giành chính
quyền ở tỉnh. Một bộ phận lực lượng quần chúng ở Tân Uyên
còn kéo sang thị xã Biên Hòa tham gia khởi nghĩa cùng Nhân
dân Biên Hòa. Khí thế khởi nghĩa cũng hừng hực tại quận
Hớn Quản. Sau khi chiếm trụ sở quận, Ủy ban khởi nghĩa còn
cử 2 đoàn gồm 100 công nhân đồn điền Lộc Ninh - Quản Lợi
và 50 đồng bào các dân tộc thiểu số, trang bị súng ống kéo về
thị xã tham gia giành chính quyền ở tỉnh.
Rạng sáng ngày 25/8/1945, hơn 5 vạn quần chúng nhân
dân từ các quận trong tỉnh đổ về trung tâm thị xã Thủ Dầu
Một. 7 giờ sáng, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức trước tòa
thị chính (làng Phú Cường, Thủ Dầu Một). Sau lễ chào cờ,
đồng chí Văn Công Khai, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Ban khởi
nghĩa đọc diễn văn tuyên bố xóa bỏ chính quyền của phát xít
Nhật và tay sai, thiết lập chính quyền của Nhân dân. Tiếp đó,
đại diện Hội Phụ nữ Cứu quốc tỉnh lên phát biểu, kêu gọi nữ
giới đoàn kết cùng Nhân dân bảo vệ chính quyền cách mạng,
thực hiện Chương trình Việt Minh. Trong suốt buổi mít tinh,
quần chúng nhân dân tham gia khởi nghĩa hô vang các khẩu
hiệu:
Việt Nam độc lập muôn năm!
Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!
Chính quyền về tay Việt Minh!
Sau cuộc mít tinh, quần chúng nhân dân trên tay vẫn cầm
súng, gươm, gậy tầm vông, tiến hành cuộc diễu binh kéo dài
57
mấy giờ liền trên các đường phố của thị xã Thủ Dầu Một. Đoàn
người tiếp tục hô to các khẩu hiệu và tỏa ra tiếp quản các cơ
quan hành chính, tòa án, trụ sở cảnh sát, trụ sở Cộng hòa vệ
binh, khám đường, kho bạc, bưu điện, nhà máy điện, nhà máy
nước...
Ngày 25/8/1945, cùng với Sài Gòn và 15 tỉnh Nam Kỳ, quần
chúng nhân dân Thủ Dầu Một dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Mặt trận Việt Minh đã giành chính quyền về tay Nhân dân.
*
* *
Quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử. Dưới ách
thống trị của thực dân Pháp, Nhân dân Thủ Dầu Một đã sớm
hòa vào cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của Nhân dân
Nam Kỳ và cả nước. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời với đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và quan
điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, mọi thắng lợi
của cách mạng phải dựa trên cái nền của Nhân dân, Đảng đã
coi công tác vận động quần chúng là nhiệm vụ quan trọng của
tổ chức đảng và mọi đảng viên.
Quán triệt tư tưởng và quan điểm chỉ đạo của Trung ương
Đảng, Tỉnh ủy, từng đảng viên của tỉnh Thủ Dầu Một (nay
là Bình Dương) luôn vận dụng một cách linh hoạt công tác
vận động quần chúng. Qua đó mà trực tiếp đưa đường lối, chủ
trương của Đảng vào phong trào quần chúng, tập hợp, vận
động và giác ngộ quần chúng, tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa
đến mọi thắng lợi của cách mạng.
Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), công
tác vận động quần chúng được tổ chức và hoạt động trong điều
kiện bí mật, trình độ giác ngộ của quần chúng nhân dân còn
thấp, kẻ thù lại mạnh và nhiều thủ đoạn tinh vi, song, tinh
thần độc lập, ý chí tự do đã thôi thúc Tỉnh ủy, các Chi bộ và
58
từng đảng viên kiên trì bám dân, tổ chức quần chúng trưởng
thành từng bước qua các cao trào đấu tranh cách mạng. Nhiệm
vụ của công tác vận động quần chúng thời kỳ này là khơi dậy,
phát huy và tổ chức quần chúng yêu nước vào mục tiêu lớn
nhất giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Thực tiễn vận
động quần chúng trong thời kỳ 1930-1945 ở tỉnh Thủ Dầu
Một (nay là Bình Dương) rất khó khăn, phức tạp do địa bàn
rộng, thành phần nhân dân rất đa dạng về ngành nghề (công
nhân, nông dân, giới chủ lò, chủ xưởng,...) và đa dạng tộc người
(Việt, Hoa, Xơ Đăng, Xtiêng,...), trong khi đó số lượng đảng
viên không đông, Tỉnh ủy và các Chi bộ phải tái lập nhiều lần
do chính sách khủng bố thẳng tay của Pháp, Nhật. Đặc điểm
của công tác dân vận trong thời kỳ này là tiến hành vận động
quần chúng trong điều kiện chưa có chính quyền, phải trực
tiếp vận động đến từng đối tượng khác nhau. Vì thế, công tác
vận động quần chúng không chỉ hướng vào mục tiêu tập hợp,
tổ chức quần chúng tham gia vào các hoạt động cách mạng,
mà còn góp phần tổ chức xây dựng cơ sở đảng. Bằng các hình
thức, phương pháp vận động quần chúng phù hợp với diễn
biến tình hình qua từng giai đoạn, công tác dân vận đã hiện
thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chứng minh tính
đúng đắn, mục tiêu kiên định của cách mạng. Công tác dân
vận đã giúp quần chúng nhân dân yêu nước được tập hợp,
giác ngộ và đi theo Đảng làm cách mạng giải phóng dân tộc.
Đồng thời, qua thực tiễn triển khai công tác dân vận, các cấp
bộ đảng đã nhận thức rõ hơn về vai trò, khả năng sáng tạo của
quần chúng, qua đó mà bổ sung, phát triển phù hợp hơn chủ
trương, phương pháp và nội dung vận động quần chúng. Đây
chính là mối quan hệ biện chứng gắn bó mật thiết giữa Đảng
và quần chúng trong tiến trình cách mạng ở tỉnh Thủ Dầu Một
thời kỳ 1930-1945 và để lại những bài học kinh nghiệm quý
báu cho các thời kỳ vận động cách mạng tiếp theo.

59
Chương II
CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỈNH ỦY THỦ DẦU MỘT
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954)

I. CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỈNH ỦY THỦ DẦU MỘT


NHỮNG NĂM ĐẦU KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945-
1946)

1. Công tác vận động Nhân dân khắc phục khó khăn,
giải quyết những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng

Cách mạng Tháng Tám thành công đã thiết lập nên chính
quyền dân chủ nhân dân. Người dân Việt Nam nói chung,
người dân Thủ Dầu Một nói riêng đã trở thành người tự do,
làm chủ quê hương đất nước. Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Tỉnh ủy và chính quyền. Mặt trận Việt Minh và các
đoàn thể quần chúng triển khai các hoạt động tập hợp và tổ
chức Nhân dân đoàn kết xung quanh chính quyền, bảo vệ
thành quả của cách mạng.

Tuy nhiên, sau Cách mạng Tháng Tám, tình hình chính
trị, kinh tế, tài chính, quân sự, văn hóa, giáo dục... đứng trước
những khó khăn chồng chất. Về chính trị, thực dân Pháp vẫn
chưa từ bỏ tham vọng tái lập chế độ thuộc địa. Núp bóng quân
Anh, thực dân Pháp gấp rút chuẩn bị cho kế hoạch trở lại xâm
lược Việt Nam. Các lực lượng phản động thuộc các giáo phái
Cao Đài, Hòa Hảo, bọn Việt gian, cường hào... đang rắp tâm
chống phá Ủy ban nhân dân Cách mạng và Kỳ bộ Việt Minh.
Về quân sự, lực lượng vũ trang cách mạng chưa đủ mạnh để
đối phó với thù trong, giặc ngoài. Kinh nghiệm chiến đấu của
60
quần chúng còn non nớt; vũ khí, trang thiết bị quân sự thì quá
thô sơ (chỉ với giáo mác, gậy gộc và một số ít súng ống thu được
của Pháp). Về kinh tế, từ sau Cách mạng Tháng Tám, các cơ
sở kinh tế hầu như ngưng hoạt động. Hệ thống nhà xưởng, kho
tàng, nguyên liệu, hóa chất... bị bọn Nhật cướp phá, hư hỏng.
Đội ngũ công nhân cao su, công nhân Depot xe lửa Dĩ An nằm
trong tình trạng thất nghiệp; thợ thủ công và hoạt động của
các ngành nghề truyền thống bị ngưng trệ, đình đốn. Ruộng
đất của nông dân phần lớn bị hoang hóa; lương thực, thực
phẩm thiếu thốn. Những hậu quả của chính sách văn hóa thực
dân để lại vô cùng nặng nề với hơn 95% Nhân dân mù chữ, văn
hóa thực dân phản động đồi trụy đang lôi kéo thanh thiếu niên
vào con đường ăn chơi sa đọa. Hệ thống phúc lợi xã hội, y tế,
giáo dục hầu như chỉ là con số không; bệnh nghề nghiệp, bệnh
mãn tính và nạn nghiện hút đang tràn lan khắp nơi...

Những khó khăn nêu trên đặt chính quyền và Nhân dân
trước những thách thức rất lớn, đòi hỏi phải có sự đoàn kết,
thống nhất cao độ giữa chính quyền và Nhân dân để giải quyết
khó khăn, bảo vệ thành quả cách mạng.

Tình hình trên đặt ra nhiệm vụ lịch sử cần phải thực hiện
gấp trong lúc này là: Xây dựng tổ chức Đảng; củng cố chính
quyền cách mạng; thống nhất, xây dựng, phát triển lực lượng
vũ trang; xây dựng cơ sở cách mạng; chuẩn bị về mọi mặt cả
tinh thần lẫn vật chất để sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến
thần thánh bảo vệ nền độc lập dân tộc. Để thực hiện nhiệm vụ
lịch sử ấy, công tác vận động quần chúng đoàn kết quanh cơ
sở Đảng và chính quyền có tính cấp bách và tầm quan trọng
đặc biệt.

2. Công tác vận động quần chúng xây dựng lực lượng
chuẩn bị kháng chiến

Đến tháng 11/1945, tình hình quốc tế và trong nước


61
chuyển biến nhanh chóng, không có lợi cho cách mạng. Ngày
11/11/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương buộc phải tuyên bố
tự “giải tán”, thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Tỉnh ủy
lâm thời Thủ Dầu Một rút vào bí mật với tên gọi là Tổ chức
Việt Minh.
Thực hiện chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng trong Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc ngày 25/11/1945:
“Phải củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược,
bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân”1, Tỉnh ủy lâm
thời tỉnh Thủ Dầu Một tập trung cho công tác xây dựng Đảng,
chính quyền, quân đội và các tổ chức quần chúng. Về công tác
xây dựng Đảng, đồng chí Văn Công Khai được cử giữ chức vụ
Bí thư, đồng chí Vũ Văn Hiển là ủy viên phụ trách khối công
nhân đồn điền. Ngoài ra, còn có các ủy viên Kiều Đắc Thắng,
Nguyễn Văn Trung...
Xứ ủy Nam Bộ sát sao tình hình, đã cử đồng chí Nguyễn
Oanh đến Thủ Dầu Một mở các lớp tập huấn chính trị và bồi
dưỡng nghiệp vụ chính trị cho đảng viên, cán bộ các đoàn thể
quần chúng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tháng 3/1946, đồng chí Nguyễn Đức Thuận, đặc phái viên
của Xứ ủy Nam Bộ được cử đến Thủ Dầu Một chủ trì Hội nghị
của Đảng bộ tỉnh. Thành phần tham gia Hội nghị gồm toàn
thể cán bộ chủ chốt của Tỉnh ủy lâm thời, các cơ quan, ban
ngành trong tỉnh. Hội nghị đã kiện toàn Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh gồm 7 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Văn Tiết làm Bí
thư, đồng chí Văn Công Khai làm Phó Bí thư.
Về chính quyền và các tổ chức cách mạng, sau ngày
25/8/1945, Ủy ban nhân dân các cấp từ tỉnh, huyện, xã được
thành lập và củng cố. Bác sĩ Trần Công Vị được cử giữ chức
vụ Chủ tịch tỉnh, ông Nguyễn Minh Chương giữ Phó Chủ tịch

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.27.

62
tỉnh, ông Văn Công Khai là Ủy viên tuyên truyền và tổ chức,
ông Nguyễn Văn Trung ủy viên phụ trách đồn điền cao su, ông
Hồ Văn Nâu phụ trách Quốc gia tự vệ Cuộc, ông Trịnh Kim
Ảnh phụ trách thanh niên, bà Cao Thị Lình phụ trách phụ
nữ,...
Nhằm tập hợp sức mạnh của quần chúng bảo vệ chính
quyền cách mạng, Tỉnh ủy chủ trương thành lập các tổ chức
Việt Minh và các đoàn thể quần chúng. Chỉ sau một thời gian
ngắn, Tổng bộ Việt Minh đã được thành lập do ông Nguyễn
Đức Nhàn làm Chủ nhiệm. Liền sau đó, tổ chức Việt Minh lần
lượt ra đời ở các tổng, xã. Trên cơ sở đó, các đoàn thể cứu quốc
gồm Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Công đoàn Cứu
quốc được thành lập ở hầu khắp các địa phương, nhất là ở khu
vực thị xã Thủ Dầu Một, Thuận An và đồn điền cao su, lôi
cuốn đông đảo quần chúng tham gia. Cuối tháng 9, đầu tháng
10/1945, Tổng bộ Việt Minh triển khai mở các lớp huấn luyện,
bồi dưỡng nghiệp vụ tuyên truyền cho các cán bộ Việt Minh
để nâng cao năng lực hoạt động của Việt Minh. Nội dung tập
huấn gồm: Điều lệ của các đoàn thể cứu quốc, liên minh công
nông, cách thức tiến hành chiến tranh du kích, năm bước công
tác vận động quần chúng...
Đối với công tác dân vận, tháng 10/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết Thư gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, kỳ, huyện và
làng. Người nhấn mạnh: “Các cơ quan của Chính phủ từ toàn
quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để
gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân...
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính
ta” .
1

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.64-65.

63
Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành
định hướng cơ bản cho cán bộ cách mạng trong thực hiện công
tác dân vận trong xây dựng và bảo vệ chế độ mới.
Tháng 10/1945, thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm đến
Thủ Dầu Một. Quân Pháp được quân Anh yểm trợ bắt đầu
thực hiện kế hoạch phá vỡ vòng vây Sài Gòn và tiến chiếm các
tỉnh Nam Bộ. Ngày 25/10/1945, quân Pháp triển khai đánh
chiếm Thủ Dầu Một từ ba phía. Cánh thứ nhất, Pháp kéo từ
Biên Hòa theo đường quản hạt tiến đánh Tân Khánh và thị xã
Thủ Dầu Một; cánh thứ hai từ Thủ Đức kéo qua Gò Dưa tiến
chiếm Lái Thiêu; cánh thứ ba từ Gò Vấp tiến đánh Bến Phân
rồi hợp với cánh thứ hai tại Lái Thiêu. Sau khi chiếm được tỉnh
lỵ, Pháp mở rộng đánh chiếm thành Săng Đá, Thành Quan,
Tòa hành chính tỉnh... Nhân dân Thủ Dầu Một cùng Nhân
dân Nam Bộ nêu cao quyết tâm “thà chết tự do còn hơn sống
làm nô lệ”, đã bước vào cuộc chiến đấu ngoan cường, dũng cảm
chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong hoàn cảnh khó khăn, vừa chiến đấu chống thực dân
Pháp, vừa bảo vệ chính quyền cách mạng, công tác vận động
quần chúng của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đòi hỏi phải có sự dũng
cảm và sáng tạo. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một chủ trương đẩy mạnh
công tác tuyên truyền và giải thích trong quần chúng, giúp
quần chúng nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp và
các thế lực tay sai của chúng, ủng hộ Việt Minh.
Công việc cấp bách sau Cách mạng Tháng Tám là phải gấp
rút kiện toàn bộ máy chính quyền của dân. Cuối năm 1945,
thực hiện chủ trương của Trung ương cho phép một số tỉnh ở
Nam Bộ tổ chức bầu cử Quốc hội sớm hơn dự kiến 10 ngày1,
Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Thủ Dầu Một đã

1. Cuối năm 1945, Trung ương Đảng chủ trương tiến hành bầu cử Quốc hội khóa
I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dự kiến ngày bầu cử vào 06/01/1946. Tuy
nhiên, do tình hình chiến sự lan rộng ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ nên Trung ương
cho phép một số tỉnh ở Nam Bộ tiến hành bầu cử Quốc hội sớm hơn dự kiến 10 ngày.

64
triển khai tuyên truyền, vận động sâu rộng trong quần chúng,
giúp Nhân dân hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người dân
một nước độc lập, từ đó tích cực tham gia bầu cử. Các buổi sinh
hoạt chính trị của các đoàn thể quần chúng được tổ chức, vận
động Nhân dân lựa chọn ứng viên xứng đáng bầu làm đại biểu
Quốc hội, đồng thời vận động quần chúng nhân dân tích cực
tham gia bầu cử, bỏ phiếu cho các ứng viên đã được lựa chọn.
Ngày 25/12/1945, Nhân dân các địa phương trong tỉnh đã
sôi nổi, hào hứng đi bầu cử đại biểu Quốc hội khóa I. Tại huyện
Châu Thành, dù nằm trong vùng bị Pháp tạm chiếm, Ủy ban
hành chính tỉnh vẫn tổ chức được hai điểm bỏ phiếu tại Bà
Lụa và Phú Văn. 3 ứng viên gồm Nguyễn Văn Tiết, Nguyễn
Đức Nhàn và Nguyễn Văn Lộng đã được Nhân dân bầu làm
đại biểu Quốc hội khóa I với số phiếu rất cao.
Từ tháng 02/1946, thực dân Pháp càng bộc lộ rõ dã tâm
chiếm nước ta một lần nữa. Chính phủ Pháp đã ký với Chính
phủ Trung Hoa dân quốc bản Hiệp ước Pháp-Hoa (28/02/1946),
để có quyền thay thế quân đội Trung Hoa dân quốc, tạo tính
hợp pháp cho sự có mặt của quân đội Pháp ở Việt Nam. Trước
chuyển biến tình hình, Trung ương Đảng phải chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược, chủ trương tạm hòa hoãn với quân Pháp để
có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng, đồng thời loại bớt một
kẻ thù nguy hiểm. Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946 đã được ký
giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại
diện Chính phủ Pháp trong hoàn cảnh đó. Ngày 09/3/1946,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hòa để tiến, nêu
rõ hòa với Pháp là nhằm tránh tình trạng bất lợi; phải cô lập
chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực lượng phản động, duy trì
và phát triển thực lực, ráo riết và kín đáo chuẩn bị lực lượng
kháng chiến lâu dài.
Đối phó với tình trạng khó khăn về tài chính, nạn đói đe
dọa Nhân dân, Ủy ban nhân dân đã nhanh chóng ban hành
65
một số chính sách kinh tế thiết thực nhằm ổn định đời sống
cho Nhân dân trong tỉnh, cụ thể: Xóa bỏ thuế thân, giảm 25%
tô, tịch thu ruộng đất của thực dân, địa chủ chia cho dân
nghèo, phát động Nhân dân tích cực khai hoang, tăng gia sản
xuất, phát động quyên góp tiền, gạo giúp đỡ người thiếu đói...
Những chính sách kinh tế thiết thực có tác dụng rất lớn trong
ổn định xã hội và động viên sức dân. Nhân dân càng thêm tin
tưởng và tự nguyện tham gia vào các phong trào. Ở các địa
phương trong tỉnh, người dân thực hiện khẩu hiệu “tấc đất,
tấc vàng”, hăng hái hưởng ứng chủ trương của Ủy ban Hành
chính huyện, xã, sát cánh cùng chính quyền giải quyết những
khó khăn, cải thiện đời sống.
Phong trào xóa mù chữ cũng được Nhân dân hưởng ứng
tích cực. Được sự tuyên truyền, vận động của chính quyền,
những nhân sĩ, trí thức đã chung tay dạy chữ Quốc ngữ cho
Nhân dân. Với phương châm “Người biết chữ dạy cho người
chưa biết chữ, người biết nhiều dạy cho người biết ít”, “đi học
là yêu nước”, chỉ trong một thời gian ngắn, các lớp dạy chữ, bổ
túc, bình dân học vụ được mở ở từng xã, thôn. Nông dân, thợ
thuyền, thanh niên, phụ nữ đều đến lớp tham gia học tập. Cuộc
vận động chống giặc dốt, xóa mù chữ đã góp phần mở mang
dân trí, giáo dục chính trị hiệu quả cho Nhân dân. Có thể nói
đây là một thắng lợi to lớn của công tác vận động quần chúng
nhân dân của Đảng và chính quyền cách mạng, phát huy lòng
yêu nước và củng cố niềm tin của Nhân dân vào chính quyền
cách mạng.
Cùng với phong trào xóa mù chữ, cuộc vận động bài trừ
mê tín dị đoan, phê phán các hủ tục, tệ nạn cũng được cán bộ
chính quyền và đoàn thể triển khai rộng rãi trong Nhân dân.
Song song với bài trừ tệ nạn là hoạt động tuyên truyền văn
hóa - văn nghệ cách mạng, tạo bầu không khí lạc quan, tin
tưởng vào sự tất thắng của cách mạng, của sự tiến bộ và dân
chủ.
66
Nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công tác vận động quần chúng
nhân dân, Tỉnh ủy đã cho xuất bản tờ Thông tin thời sự. Tờ
báo phát hành mỗi tháng một kỳ, khoảng 50-60 bản, đánh
máy trên giấy pơluya. Đây là vũ khí tuyên tryền, vận động rất
đắc dụng, giúp Nhân dân kịp thời hiểu rõ tình hình, những
chủ trương, hoạt động của chính quyền cách mạng.
Từ tháng 4/1946, Tỉnh ủy và Ủy ban hành chính tỉnh đã
thành lập Ban tuyên truyền, xuất bản tờ báo Tiến lên để đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân
tham gia kháng chiến, kiến quốc. Tờ Tiến lên trực thuộc Tỉnh
ủy, nhưng trên danh nghĩa là cơ quan ngôn luận của Tỉnh bộ
Việt Minh, thực hiện chức năng tuyên truyền, vận động những
chủ trương, nhiệm vụ của cách mạng trong tỉnh Thủ Dầu Một.

3. Công tác vận động quần chúng trong kháng chiến


chống Pháp (1945-1946)

Sau khi Pháp đánh chiếm Thủ Dầu Một, Tỉnh ủy và Ủy


ban nhân dân cách mạng đã kịp thời chuyển các cơ quan quân,
dân, chính, đảng về vùng nông thôn. Ban tuyên truyền và Ban
kinh tế trực thuộc Ủy ban dời lên đóng cứ tại Bến Súc (xã
Thanh Tuyền), sau đó dời về đóng ở Phú Thứ (xã Phú An, Bến
Cát). Một số bộ phận cơ quan tỉnh chuyển đến đóng tại Bến
Thế (xã Tân An). Một trạm liên lạc cũng được lập tại lò đường
nhà ông Năm Phụ ở thị xã Thủ Dầu Một, nhằm bảo đảm thông
suốt hoạt động quyên góp, thu mua lương thực, thực phẩm,
đưa đón cán bộ.
Ngay từ trước khi quân Pháp triển khai kế hoạch đánh
chiếm Thủ Dầu Một, Tỉnh ủy và Ủy ban đã vận động Nhân
dân trong tỉnh thực hiện “vườn không, nhà trống” và thực
hiện khẩu hiệu bốn không: Không hợp tác với Pháp, không đi
lính cho Pháp, không chỉ đường cho Pháp, không mua bán với
Pháp. Hưởng ứng chủ trương của Tỉnh ủy và Ủy ban, đường
67
phố Thủ Dầu Một vắng lặng, chợ búa không họp, trường học,
chùa chiền đóng cửa. Các lực lượng vũ trang và tự vệ của tỉnh
được Nhân dân ủng hộ, phối hợp chia ra bám trụ ở vùng ven
thị xã, tiến hành chiến tranh du kích, giết giặc, trừ gian, lập
chướng ngại vật, phục kích chặn đánh quân Pháp trên các ngả
đường dẫn vào thị xã. Tinh thần chiến đấu dũng cảm của các
lực lượng vũ trang và Nhân dân trong tỉnh đã ngăn cản bước
tiến của quân Pháp. Các cánh quân Pháp tiến vào tỉnh từ
hướng Thủ Đức và Gò Vấp đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt
của lực lượng vũ trang tỉnh. Các trận đánh ác liệt đã diễn ra
tại Gò Dưa, cầu Bến Phân, khiến hai cánh quân Pháp bị chặn
đứng, không thể tiến vào được Lái Thiêu, buộc phải rút về vị
trí xuất phát. Tuy nhiên, với thực lực, vũ khí áp đảo, quân
Pháp đã tổ chức lại lực lượng và mở rộng tấn công, chiếm đóng
rộng ra toàn tỉnh ngay sau đó.
Trước tình hình đó, Xứ ủy Nam Bộ chỉ đạo cho các tỉnh
khẩn trương chấn chỉnh tổ chức, củng cố lực lượng, kịp thời
nắm bắt thời cơ nổi dậy phá tề, trừ gian, khôi phục chính
quyền nhân dân, tiến hành chiến tranh du kích rộng khắp.
Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ, Tỉnh ủy Thủ
Dầu Một chủ trương đưa lực lượng quân sự trở lại bám đất,
bám dân, xây dựng cơ sở quần chúng ở những vùng bị Pháp
tạm chiếm, vận động Nhân dân đưa con em ra bưng biền, gửi
tiền, gạo, thuốc men cho lực lượng kháng chiến. Tỉnh ủy thông
qua các đoàn thể quần chúng, vận động Nhân dân tham gia
các hoạt động phá tề, trừ gian, trừng trị những tên đầu sỏ
phản động lợi dụng, kích động bộ phận tín đồ Cao Đài chống
lại chính quyền cách mạng. Qua đó, khối đoàn kết toàn dân
được củng cố.
Tháng 6/1946, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một mở Hội nghị thành
lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam tỉnh Thủ Dầu Một. Mục
đích là mở rộng khối đoàn kết toàn dân, mở rộng mặt trận
kháng chiến chống Pháp. Tham dự Hội nghị có đại diện của
68
Mặt trận Việt Minh, đại diện giới nhân sĩ, trí thức, đại diện
các tôn giáo: Phật giáo, Thiên Chúa giáo và Cao Đài. Tính chất
và mục tiêu của Hội nghị đã đáp ứng đúng nguyện vọng của
các giới và khơi dậy được lòng yêu nước của họ. Hội nghị đã
thông qua được Chương trình hành động và bầu ra được Ban
Chấp hành do ông Nguyễn Khắc Hiếu làm Hội trưởng, ông
Nguyễn Văn Tiết làm Tổng thư ký.
Tháng 9/1946, giới nhân sĩ, trí thức và một số sinh viên,
học sinh trong tỉnh đã tổ chức Hội nghị tại xã Thuận Giao,
thành lập Tỉnh ủy lâm thời của Đảng Dân chủ Việt Nam tại
Thủ Dầu Một, do ông Nguyễn Khắc Cần làm Bí thư.
Nhờ khéo léo tuyên truyền, vận động quần chúng, lực
lượng vũ trang cách mạng đã được củng cố. Các đơn vị Cộng
hòa vệ binh, Quốc gia tự vệ Cuộc, Tự vệ chiến đấu trên địa
bàn tỉnh Thủ Dầu Một đều được củng cố và phát triển. Bên
cạnh đó, trên địa bàn tỉnh còn có Đại đội xung phong Đề Thám
và lực lượng dân quân cách mạng; lực lượng Bảo an binh do
Bùi Khánh Ngươn, Nguyễn Sơn Xuyên phụ trách và lực lượng
bảo vệ được thành lập từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã. Ngoài
ra, còn có lực lượng tự vệ chiến đấu, Thanh niên Cứu quốc,
Thanh niên Tiền phong, lực lượng công chức yêu nước, lực
lượng du kích xã thôn... được thành lập trên cơ sở Thanh niên
Tiền phong trước Cách mạng Tháng Tám và từ nông dân, tiểu
thương, công chức, học sinh. Đặc biệt tại các đồn điền cao su và
các nhà máy còn thành lập được các đội cảm tử, thu hút đông
đảo thanh niên yêu nước tham gia. Tuy nhiên, trong giai đoạn
này, lực lượng vũ trang trong tỉnh chưa thống nhất, mỗi địa
phương đều thành lập đơn vị vũ trang và có tên gọi riêng, như:
Bộ đội Hắc Hải, bộ đội Bến Cát, bộ đội Cao su, bộ đội Thiểu
số... Đến cuối năm 1945, các lực lượng Vệ quốc đoàn (Chi đội
1), Vệ quốc đội (lực lượng công an) và lực lượng dân quân cách
mạng mới hợp nhất thành lực lượng Vệ quốc quân. Tính thống
nhất, tính tổ chức và khả năng chiến đấu của Vệ quốc quân
69
được nâng cao rõ rệt.
Từ cuối năm 1945, thực dân Pháp triển khai mở rộng đánh
chiếm ra Bắc Bộ, vì thế chúng rút bớt một bộ phận lực lượng
ở Nam Bộ, trong đó có Thủ Dầu Một để chi viện cho chiến
trường Bắc Bộ. Do vậy, các cuộc hành quân càn quét, bình
định của thực dân Pháp ở Thủ Dầu Một có phần thưa hơn.
Lợi dụng tình hình này, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành
chánh tỉnh chủ trương đẩy mạnh xây dựng, phát triển lực
lượng quân sự, tích cực xúc tiến việc xây dựng, kiện toàn bộ
máy kháng chiến, đồng thời chú trọng các mảng công tác địch
vận, hạn chế hoạt động của địch, lôi kéo binh lính người Việt
về với hàng ngũ kháng chiến.
Để tiến hành kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp,
Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh Thủ Dầu
Một bắt tay xây dựng chiến khu kháng chiến. Nhận thức về
điều kiện thuận lợi của địa hình tỉnh có nhiều rừng rậm, sông
suối, lại nằm ở vị trí có tính chiến lược nằm sát Sài Gòn, là
hành lang nối liền các tỉnh miền Trung, Nam Tây Nguyên
với Tây Nam Bộ, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một chủ trương thành lập
các trạm tiếp tế dọc theo các xã vùng ven sông Sài Gòn, nhằm
cung cấp kịp thời tài lực, vật lực và nhân lực cho cuộc kháng
chiến. Xã An Sơn được xác định là một hậu phương lớn trực
tiếp chi viện cho các mặt trận.
Xã An Sơn có địa hình kéo dài từ cầu Ngang đến cầu Móng,
cầu Bà Lụa, phía tây là sông Sài Gòn, tiếp giáp các xã Hưng
Định, An Thạnh. Do đó, tại An Sơn, Tỉnh ủy cho đặt Ban tiếp
tế của tỉnh. Ban có nhiệm vụ tổ chức các đoàn ghe thuyền đi
các tỉnh miền Trung, miền Tây Nam Bộ mua gạo, muối, lương
thực, thực phẩm chở về bến Bình Nhâm để phục vụ cho các
lực lượng đứng chân tại đây và chi viện cho các đơn vị trong
tỉnh. Xã An Sơn là căn cứ của nhiều đơn vị vũ trang, đồng thời
là nơi nghỉ ngơi, điều dưỡng của bộ đội và du kích từ các mặt
70
trận chiến đấu trở về. An Sơn cũng được Báo Cảm Tử - cơ quan
ngôn luận của Tổng Công đoàn Nam Bộ và Trường Quân chính
Quân khu 7 chọn làm nơi đứng chân, hoạt động. Công tác dân
vận của Tỉnh ủy tại An Sơn gặp nhiều thuận lợi. Thanh niên
nam nữ ở An Sơn hăng hái tình nguyện gia nhập vào các đội
tự vệ chiến đấu hoặc làm giao liên liên lạc. Đặc biệt, chị em
phụ nữ ở An Sơn được vận động và giác ngộ đã thành lập ra
Đội nữ dân quân tự vệ An Sơn, quân số lên đến một trung đội.
Đây cũng là đơn vị nữ dân quân tự vệ đầu tiên của tỉnh Thủ
Dầu Một. Các mẹ, các chị lớn tuổi được vận động tham gia vào
các hoạt động quyên góp lương thực, thực phẩm, tiền bạc cho
kháng chiến. Nhiều gia đình trong xã An Sơn nhận làm các
bếp ăn tập thể để nuôi quân và nuôi cán bộ. Nhà nhà ở An Sơn
đều tham gia chuẩn bị cơm nắm, muối tiêu, khạp nước để phục
vụ lực lượng kháng chiến. An Sơn đã trở thành căn cứ địa cách
mạng đầu tiên của tỉnh Thủ Dầu Một.
Khi thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm các tỉnh Nam Bộ,
nhiều đơn vị lực lượng vũ trang và những thanh niên muốn
tham gia kháng chiến đã tập trung về đứng chân tại các xã
Tân Hòa, Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Lan, Lạc An thuộc Tân
Uyên để xây dựng căn cứ địa kháng chiến. Từ đó, Chiến khu Đ
đã hình thành. Ban đầu, địa bàn hoạt động của Chiến khu Đ
chủ yếu là thị trấn Tân Uyên, nhưng từ cuối năm 1945, Chiến
khu Đ được nhanh chóng mở rộng. Về phía tây, Chiến khu kéo
dài đến đường 16, phía nam kéo đến bờ sông Đồng Nai, phía
bắc đến địa bàn xã Phước Hòa và phía đông đến sông Bé. Phần
lớn địa hình Chiến khu Đ là rừng rậm, có nhiều sông suối, gắn
kết với Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ nên hội tụ được các
điều kiện thuận lợi về quân sự để xây dựng thành căn cứ địa
lâu dài. Tướng Nguyễn Bình đã chọn Chiến khu Đ làm Tổng
hành dinh của Bộ Tư lệnh Giải phóng quân Nam Bộ ngay từ
những ngày đầu của cuộc kháng chiến. Chiến khu Đ trở thành
căn cứ địa của cả Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Quân khu 7 trong
71
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhân dân Thủ Dầu
Một, đặc biệt Nhân dân Tân Uyên đã đóng góp rất lớn vào xây
dựng và bảo vệ căn cứ địa kháng chiến Chiến khu Đ.
Đến cuối năm 1946, thực dân Pháp đẩy mạnh cuộc chiến
tranh xâm lược ở Bắc Bộ, nhất là tại các thành phố lớn như Hà
Nội, Hải Phòng, âm mưu mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Việt
Nam và Đông Dương.
Tại Thủ Dầu Một, thực dân Pháp ra sức chiêu tập tay sai
người Việt nhằm củng cố chính quyền do Pháp dựng lên, tăng
cường bắt lính người Việt, xây dựng hệ thống đồn bót, mở rộng
hệ thống giao thông phục vụ mục đích quân sự. Đồng thời,
thực dân Pháp mở nhiều cuộc tấn công càn quét lớn vào các
vùng nông thôn để tiêu diệt lực lượng kháng chiến, bao vây,
chia cắt lực lượng kháng chiến với dân, cắt đứt mọi liên lạc
giữa Việt Minh với Nhân dân. Để đối phó với âm mưu và thủ
đoạn mới của thực dân Pháp, xốc lại phong trào kháng chiến
trong tỉnh, Tỉnh ủy tỉnh Thủ Dầu Một đã cử cán bộ xuống các
địa bàn, bám trụ vào dân để giữ mối liên hệ giữa Nhân dân với
lực lượng kháng chiến. Công tác vận động quần chúng nhân
dân được đặt làm trọng tâm. Tỉnh ủy đã kiện toàn lại các ban
công tác, cụ thể: Vũ Văn Hiển được phân công phụ trách Công
vận, Nguyễn Đức Diệu phụ trách Nông vận, Dương Danh
Thắng phụ trách Thanh vận, Lưu Hồng Thoại phụ trách Phụ
vận, Nguyễn Văn Bá phụ trách mảng Công giáo vận và Cao
Đài vận.
Tháng 12/1946, thực dân Pháp liên tiếp có các hành động
xâm phạm chủ quyền của Việt Nam. Sáng ngày 19/12/1946,
đại diện Chính phủ Pháp tại Hà Nội trao cho Chính phủ Việt
Nam “Tối hậu thư” đòi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa phải triệt thoái quân đội, giải giáp tự vệ và công an ở Hà
Nội trong vòng 24 giờ. Không thể tiếp tục nhân nhượng với
Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp, nhận định
72
tình hình và khẳng định cuộc kháng chiến của Nhân dân ta là
cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng nhất định thắng
lợi. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến. Tiếp đó, Trung ương Đảng ra Chỉ thị
toàn dân kháng chiến (25/12/1946).
Thực hiện đường lối kháng chiến được Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đề ra, công tác dân vận cũng xác định những
thay đổi cho phù hợp với đường lối kháng chiến Toàn dân, toàn
diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.

II. CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỈNH ỦY THỦ DẦU MỘT
TRONG GIAI ĐOẠN ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH NHÂN
DÂN, CHỐNG CHÍNH SÁCH BÌNH ĐỊNH CỦA THỰC DÂN
PHÁP (1947-1950)

1. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một vận động quần chúng tích


cực thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng

Thực hiện đường lối kháng chiến do Đảng đề ra, công tác
dân vận được gắn với hoạt động của Mặt trận Việt Minh, tập
trung phát triển cơ sở Mặt trận Việt Minh, chấn chỉnh Tổng
bộ Việt Minh và khắc phục tư tưởng xem nhẹ vai trò của Hội
Liên - Việt. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một chủ trương khơi dậy truyền
thống yêu nước trong Nhân dân, phát huy vai trò của các đoàn
thể trong vận động quần chúng. Ban Thanh vận động viên
thanh niên tòng quân; Ban Phụ vận vận động phụ nữ tham
gia các hoạt động quyên góp ủng hộ kháng chiến, nuôi quân
và động viên chồng con tham gia kháng chiến; Ban Nông vận
động viên nông dân tham gia dân quân tự vệ, xây dựng làng
chiến đấu; Ban tuyên truyền vận động trí thức, văn nghệ sĩ
tham gia vào các hoạt động phục vụ kháng chiến... Bên cạnh
đó, Tỉnh ủy tiếp tục vận động Nhân dân đấu tranh chống càn
quét, phá đường giao thông, kho tàng, các cơ sở kinh tế của
giặc Pháp, đồng thời đẩy mạnh công tác diệt tề, trừ gian, xây
73
dựng củng cố căn cứ địa kháng chiến. Các hoạt động tuyên
truyền văn hóa mới, xóa mù chữ, khám chữa bệnh cho cán bộ,
chiến sĩ và Nhân dân được triển khai thực hiện cả ở vùng căn
cứ và vùng địch tạm chiếm. Công tác dân vận cũng hướng vào
mục tiêu vận động giáo dân, khắc phục những thành kiến lệch
lạc với Công giáo, Cao Đài để mở rộng khối đoàn kết dân tộc.
Công tác vận động đồng bào các dân tộc thiểu số, chống âm
mưu chia rẽ của kẻ thù được gắn với công tác chăm lo, giúp
đỡ đồng bào về vật chất và tinh thần, tôn trọng phong tục, tập
quán của đồng bào. Nhờ đó, khối đoàn kết giữa người Kinh với
các cộng đồng dân tộc thiểu số được thắt chặt.
Đối với mảng công tác địch vận, Tỉnh ủy coi đây là công
tác quan trọng, tổ chức đảng các cấp, các đoàn thể đều phải
sử dụng mọi biện pháp tuyên truyền, vận động nhằm làm tan
rã tinh thần của binh lính địch, cổ vũ tinh thần phản chiến cả
trong bộ phận lính Pháp cũng như lính Việt, đối xử nhân đạo
với những người lầm đường, lạc lối và với tù binh.
Trên mặt trận quân sự, Tỉnh ủy chủ trương vận động Nhân
dân toàn tỉnh ra sức kháng chiến, toàn thể bộ đội và dân quân
tự vệ kiên quyết chiến đấu, xung phong tiêu diệt địch. Mỗi
người dân phải là một chiến sĩ, mỗi làng phải là một chiến hào
kháng Pháp.
Trên mặt trận kinh tế, Tỉnh ủy vận động Nhân dân xây
dựng kinh tế tự túc, bảo đảm nhu cầu ăn mặc cho Nhân dân
và lực lượng vũ trang, từng bước xây dựng tiềm lực cho kháng
chiến. Nhân dân được vận động đẩy mạnh sản xuất nông
nghiệp, toàn dân tham gia tăng gia sản xuất với các khẩu hiệu
“Thực túc, binh cường”, “Ăn no, đánh thắng”.
Ngoài ra, Tỉnh ủy còn vận động Nhân dân thực hiện vườn
không nhà trống, tiếp tục bất hợp tác với địch “Không đi lính
cho Pháp, không hợp tác với Pháp, không dẫn đường cho Pháp”.
Nhằm tăng cường công tác dân vận trong tình hình mới
74
ngày 31/8/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ban hành
Nghị quyết về nguyên tắc tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn,
phương pháp làm việc của các tổ chức: Hội đoàn, các cơ quan
chuyên môn của hội. Trong Ban Dân vận ở các khu, tỉnh có các
tiểu ban. Đồng thời, Nghị quyết cũng hướng dẫn cụ thể chức
năng, nhiệm vụ, cách thức tổ chức, lề lối làm việc của Đảng,
đoàn và các ban chuyên môn.
Ngày 01/9/1947, Đảng ban hành Chỉ thị thanh vận của
Trung ương gửi các cấp bộ, chủ trương vận động thanh niên
hướng theo mục đích kháng chiến, kiến quốc. Động viên thanh
niên theo tính chất, năng lực của từng giới, thanh niên trong
các công xưởng tăng gia sản xuất để kháng chiến; thanh niên
trí thức học tập sáng tác; thanh niên nông dân tham gia du
kích. Ban Thanh vận các cấp với danh nghĩa là Ban Thanh
vận của Việt Minh, chú trọng công tác tuyên truyền, huấn
luyện qua các hình thức nêu gương, phát động phong trào thi
đua.
Trung ương Đảng cũng ra Chỉ thị Về công tác dân vận ở
các cấp khu, tỉnh, phủ, huyện, trong đó nhấn mạnh chủ trương
chung về vận động các giới cũng như kế hoạch chấn chỉnh các
Ban Dân vận.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, nhiệm vụ của công tác
dân vận là phải nắm vững phong trào quần chúng, củng cố và
phát triển cơ sở quần chúng trong vùng tạm chiếm cũng như
vùng tự do.
Tháng 10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc”, nhằm tuyên truyên, giáo dục đội ngũ
cán bộ nâng cao hiệu quả công tác. Tác phẩm có ý nghĩa cực
kỳ to lớn đối với công tác dân vận. Trong tác phẩm, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh mối quan hệ giữa Đảng với
Nhân dân: “Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không
làm được việc gì hết. Vì vậy ta cần phải hợp tác với những
75
người ngoài Đảng... phải liên lạc mật thiết với dân chúng”...
“chúng ta phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu
dân chúng”1.
Quán triệt tinh thần các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
Tỉnh ủy Thủ Dầu Một tập trung củng cố công tác xây dựng
Đảng, chủ trương nơi nào có cơ sở quần chúng, có phong trào
kháng chiến là phải xây dựng cho được đảng viên, Chi bộ để
làm nòng cốt và lãnh đạo vững chắc phong trào kháng chiến
ở địa phương2. Đến cuối năm 1947, tỉnh Thủ Dầu Một đã có 4
huyện ủy, 45 xã có cơ sở đảng, mỗi cơ sở đảng có 1 đến 2 đảng
viên. Nhờ đó, công tác dân vận của Tỉnh ủy được triển khai
thuận lợi, biến chỉ thị, nghị quyết của Đảng thành các hoạt
động thực tiễn trong quần chúng, giáo dục và động viên được
quần chúng tích cực tham gia vào các hoạt động cụ thể của
cuộc kháng chiến. Giữa năm 1947, nhiều đoàn thể cứu quốc tổ
chức đại hội và bầu ra Ban Chấp hành các cấp từ tỉnh xuống
huyện, xã. Đặc biệt, Hội Liên - Việt đã thu hút được đông đảo
trí thức, nhân sĩ yêu nước trong tỉnh tham gia. Hội đã vận
động hội viên đẩy mạnh đấu tranh chính trị chống thực dân
Pháp, tổ chức quyên góp tiền bạc, thuốc men, lương thực ủng
hộ kháng chiến. Các tổ chức Công đoàn, Hội Nông dân, Hội
Thanh niên, Hội Phụ nữ... cũng kiện toàn tổ chức hội và vận
động hội viên tích cực tham gia vào cuộc kháng chiến. Ngày
02/9/1947, Hội nghị đại biểu Công giáo của tỉnh cũng đã được
tổ chức. Hội nghị đã thành lập Liên đoàn Công giáo lâm thời
để đảm nhiệm nhiệm vụ tổ chức, tập hợp sức mạnh của giáo
dân trong tỉnh tham gia kháng chiến. Hội thánh Cao Đài cứu
quốc 12 phái tỉnh Thủ Dầu Một cũng được thành lập, tích cực
tuyên truyền đường lối, chính sách đại đoàn kết và quyền tự
do tín ngưỡng của Đảng và Chính phủ trong giáo dân, giúp

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.278, 333.


2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương
(1930-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.163.

76
giáo dân hiểu và tham gia vào các hoạt động thiết thực ủng hộ
kháng chiến.

2. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một vận động quần chúng tham


gia phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh chiến tranh
du kích

Từ ngày 15 đến ngày 17/01/1948, Ban Chấp hành Trung


ương Đảng họp Hội nghị mở rộng, đánh giá chuyển biến tình
hình sau chiến thắng Việt Bắc Thu Đông năm 1947 và đề ra
nhiệm vụ mới của cách mạng, trong đó có nhiệm vụ của công
tác dân vận. Cụ thể, công tác dân vận trong giai đoạn này tập
trung mạnh vào vận động quần chúng ở vùng sau lưng địch,
nhất là tập trung vào công tác vận động công nhân và nông
dân.
Ngày 27/3/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ
thị phát động phong trào thi đua ái quốc. Nội dung của phong
trào thi đua nhằm phát huy mọi năng lực, mọi cố gắng của
Nhân dân vào mục tiêu đưa cuộc kháng chiến chuyển sang
giai đoạn mới. Cụ thể: Bộ đội, dân quân, du kích thi đua giết
giặc, phá tề, trừ gian; công nhân, nông dân thi đua sản xuất;
các cơ quan thi đua công tác, nhà trường thi đua học tập; gia
đình, cá nhân thi đua tăng gia sản xuất, thực hành đời sống
mới.
Ở Thủ Dầu Một, Nhân dân hăng hái tham gia phong trào
thi đua ái quốc. Các khẩu hiệu “Người người thi đua/Ngành
ngành thi đua/Ngày ngày thi đua/Ta nhất định thắng, địch
nhất định thua”, “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi
đua”, “Thi đua phải đoàn kết, đoàn kết để thi đua”... được phát
động, nhanh chóng lan tỏa và thấm sâu vào ý thức của quần
chúng, đã góp phần nhân lên sức mạnh và phát huy tác dụng
trên các hoạt động đấu tranh.
Tháng 5/1948, theo tinh thần chỉ đạo chung của Đảng về
77
công tác dân vận, ở cấp tỉnh tổ chức thành 7 ban công tác, gồm:
Ban Tuyên huấn, Ban Dân vận, Ban Tổ chức, Ban Kinh tế
tài chính, Ban Kiểm soát, Ban Địch vận, Ban Giao thông liên
lạc. Ban Địch vận chỉ tổ chức đến cấp tỉnh. Cấp huyện tổ chức
thành 4 ban, gồm: Ban Tuyên huấn, Ban Dân vận, Ban Tổ
chức kiêm kiểm soát, Ban Kinh tế tài chính. Riêng Ban Dân
vận không thành lập tiểu ban trực thuộc. Nhiệm vụ của Ban
Dân vận là điều tra, nghiên cứu và đặt kế hoạch giúp cấp ủy
về vận động quần chúng các giới. Ở cấp xã, mỗi ngành tuyên
huấn, dân vận, tổ chức tài chính do một đồng chí phụ trách.
Việc hình thành các bộ phận chuyên trách đánh dấu cột mốc
phát triển quan trọng cả về lý luận và thực tiễn chỉ đạo cách
mạng của Đảng. Từ đây công tác dân vận của Đảng đã có đơn
vị tổ chức chuyên trách, với chức năng, nhiệm vụ được xác
định rõ ràng theo từng cấp.
Tháng 8/1948, Hội nghị cán bộ lần thứ V của Trung ương
đã ra Nghị quyết chuyên đề Công tác dân vận và công tác Mặt
trận dân tộc thống nhất, nêu 10 nguyên tắc làm cơ sở cho việc
hoạch định chính sách và phương châm vận động các giới. Căn
cứ vào Nghị quyết của Trung ương, công tác dân vận ở các
địa phương được hướng dẫn cụ thể, bài bản hơn. Cụ thể, về
chính sách và phương châm vận động, căn cứ vào quyền lợi
và nguyện vọng của mỗi giới mà tuyên truyền, vận động, làm
cho họ nhận thức được bên cạnh quyền lợi riêng còn có quyền
lợi chung đối với tổ quốc, dân tộc. Mọi quyền lợi riêng rẽ đều
phải phụ thuộc vào quyền lợi chung của dân tộc. Về nội dung
và hình thức vận động thì chủ yếu dùng khẩu hiệu để lôi kéo
mọi người vào phong trào, có hình thức vận động phù hợp với
trình độ của quần chúng, tìm được người đủ uy tín, đứng đầu
để tập hợp quần chúng, nếu chưa có người thì phải đào tạo. Về
phương thức vận động, phải có nghệ thuật vận động thích hợp
với từng đối tượng, phải có chương trình hành động phù hợp
để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ. Phải có
78
thái độ đoàn kết với người ngoài Đảng và thái độ rõ ràng với kẻ
chống Đảng. Đây là những nguyên tắc có tính lý luận và thực
tiễn để đưa công tác dân vận và Mặt trận tiến lên một bước
mới, đáp ứng thực tiễn cách mạng đang ngày càng phát triển.
Vận dụng những nguyên tắc do Trung ương đề ra, Tỉnh ủy
Thủ Dầu Một chủ trương phải tăng cường sự phối hợp chặt chẽ
trong mọi công tác giữa tổ chức đảng, Mặt trận Việt Minh, Hội
Liên - Việt và các đoàn thể thì mới động viên và phát huy được
sức mạnh quần chúng vào các phong trào thi đua ái quốc. Các
đồng chí lãnh đạo Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính1 trong
giai đoạn này gồm: Nguyễn Minh Chương (Chủ tịch), Võ Văn
Đợi (Phó Chủ tịch), Trần Khắc Cần (tổng Thư ký), Nguyễn
Văn Tiết (Ủy viên Chính trị), Trần Minh Phương (Ủy viên
Kinh tế), Huỳnh Văn Hộ (Ủy viên Xã hội)... đã chỉ đạo sát sao
công tác dân vận và Mặt trận, coi đây là mảng công tác quan
trọng hàng đầu của công cuộc kháng chiến, kiến quốc.
Đối với mảng công tác dân vận trong vùng bị địch tạm
chiếm, các cấp Đảng bộ phối hợp với Mặt trận Việt Minh và
các đoàn thể tổ chức các buổi diễn thuyết, rải truyền đơn, bắc
loa kêu gọi, tuyên truyền... nhằm vận động Nhân dân không
đi lính, không đóng thuế cho địch, đồng thời hướng về dân tộc,
ủng hộ kháng chiến.
Cùng với công tác vận động quần chúng tham gia thi đua
ái quốc, Tỉnh ủy và các cấp ủy địa phương vận động Nhân dân
xây dựng làng chiến đấu, thành lập các đội du kích để bảo vệ
Nhân dân; tham gia các cuộc đấu tranh phản đối chính sách
bình định, chính sách kìm kẹp của địch.
Từ đầu năm 1949, Trung ương chủ trương thống nhất Mặt
trận Việt Minh và Hội Liên - Việt, chấn chỉnh các hội quần chúng.

1. Theo Sắc lệnh số 140/SL của Xứ ủy Nam Bộ ngày 25/3/1948, Ủy ban kháng
chiến kiêm hành chính các cấp đổi tên thành Ủy ban kháng chiến hành chính tương
đương.

79
Tháng 02/1949, Hội nghị cán bộ dân vận Trung ương lần
thứ nhất được tổ chức ở Việt Bắc. Hội nghị đã nhấn mạnh yêu
cầu tích cực chấn chỉnh công tác dân vận của Đảng, thống
nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên - Việt, đề ra chính sách
và phương châm vận động công nhân, nông dân, thanh niên,
phụ nữ, trí thức, tư sản, địa chủ, tôn giáo, dân tộc thiểu số,
Hoa kiều và công tác dân vận trong vùng địch tạm chiếm, đáp
ứng yêu cầu và nhiệm vụ của cuộc kháng chiến.
Để củng cố kinh tế tài chính và động viên toàn dân tích
cực tham gia kháng chiến kiến quốc ngày 05/02/1949, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị về việc cổ động “Tham
gia kháng chiến”. Chỉ thị của Đảng nhanh chóng được Nhân
dân ủng hộ. Nhân dân tích cực quyên góp tài chính ủng hộ
kháng chiến. Cán bộ Ban Kinh tế tài chính bám sát dân, giải
thích và động viên sức dân, nhờ đó mà khắc phục được tình
trạng khó khăn về tài chính, có thêm nguồn lực bổ sung để
sắm sửa thêm vũ khí, thuốc men phục vụ bộ đội.
Ngày 10/02/1949, Trung ương Đảng tiếp tục ra Chỉ thị đẩy
mạnh phong trào thi đua ái quốc nhằm mục đích “Tích cực
cầm cự, chuẩn bị tổng phản công”.
Hưởng ứng Chỉ thị của Đảng, bộ đội và dân quân, du kích
phát động phong trào thi đua “Luyện quân lập công”, thanh
niên thi đua tình nguyện đầu quân, Nhân dân tham gia phong
trào đóng quỹ “Tham gia kháng chiến”...
Tháng 10/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mắt tác phẩm
Dân vận. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân vận là vận
động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một
người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành
những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn
thể đã giao cho”1. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ vai trò

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232.

80
của công tác dân vận: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận
kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành
công”1. Dân vận là cái gốc, là điểm xuất phát của mọi phong
trào cách mạng của quần chúng và là sự khởi đầu của mọi
thành công. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người làm công tác
dân vận “cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng
nói, tay làm”2, phải tự làm gương cho dân noi theo.
Việc Đảng phát động các phong trào thi đua ái quốc và
những chỉ thị, nghị quyết cùng tác phẩm Dân vận của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời trang bị những kiến thức, phương
pháp và kỹ năng vô cùng quý giá cho công tác dân vận của cả
nước nói chung, Thủ Dầu Một nói riêng.
Ở Thủ Dầu Một, trong hai năm 1948, 1949, phong trào thi
đua ái quốc đã phát triển mạnh mẽ và thu được nhiều kết quả
quan trọng, tạo đà chuyển biến tình hình có lợi cho cách mạng.
Căn cứ tình hình cụ thể, Tỉnh ủy đề ra chủ trương và khẩu
hiệu thi đua phù hợp. Chính quyền và các ban chuyên môn
phát động và có khen thưởng. Mặt trận vận động, động viên
quần chúng thi đua thực hiện chương trình do chính quyền đề
ra. Các đoàn thể cốt cán như Công đoàn, Nông hội, Hội Thanh
niên, Hội Phụ nữ giữ vai trò quyết định trong vận động tổ chức
thi đua; phối hợp với chính quyền và các ban chuyên môn dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Về đấu tranh vũ trang, phong trào đấu tranh của quân dân
Thủ Dầu Một lan rộng, khiến quân Pháp hoang mang. Tháng
4/1949, lực lượng Bộ đội Bạch Đằng phối hợp với lực lượng du
kích Tân Uyên tổ chức đột kích cứ điểm Dầm Giá trên đường
14. Đến cuối năm 1949, dân quân, du kích trong tỉnh đã cắm
hơn 5.000 cọc chống chiến thuật chiến xa vận và 207.800 cọc
chống lính Pháp nhảy dù, đào 2.000m địa đạo ở xã Định Hòa.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.234.


2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.233-234.

81
Trên 900 lượt người dân tham gia dân công áp tải lương thực
phục vụ chiến đấu. Nhân dân tích cực tham gia chống bình
định của thực dân Pháp, phá hoại các tuyến đường giao thông
huyết mạch như đường sắt Sài Gòn - Lộc Ninh, đường liên
tỉnh lộ 14 nối Thủ Dầu Một với Tây Nguyên, đường 16 nối
Tân Uyên - Phước Hòa, đường số 8 nối Tân Uyên - Lạc An để
ngăn Pháp vận chuyển nguyên liệu khai thác được về Sài Gòn.
Nhân dân cũng tích cực hưởng ứng phong trào thi đua phá
hoại kinh tế của Pháp trên địa bàn toàn tỉnh do Ủy ban kháng
chiến hành chánh tỉnh phát động, tiêu biểu là phong trào của
công nhân cao su phá hoại kho tàng, tài sản, thiết bị và mủ cao
su thành phẩm của Pháp ở các đồn điền cao su.
Hoạt động giáo dục, y tế được Tỉnh ủy, Ủy ban và các đoàn
thể quan tâm, chăm lo phát triển ở cả vùng căn cứ địa, vùng
giải phóng và vùng địch tạm chiếm. Tỉnh ủy cử cán bộ tham
gia các lớp đào tạo do Sở Y tế Nam Bộ, Sở Giáo dục Nam Bộ
mở nhằm bổ sung lực lượng nòng cốt cho toàn tỉnh. Từ tháng
8/1948, Ban Y tế và Ban Giáo dục đã tách khỏi Ban Xã hội,
thành lập Ty Y tế và Ty Giáo dục. Hệ thống y tế, giáo dục được
triển khai tổ chức và hoạt động đến tận cấp xã, bảo đảm mỗi
xã đều có từ 1 đến 2 cán bộ chuyên trách. Nhờ đó, vấn đề sức
khỏe của Nhân dân cũng như vấn đề xóa mù chữ được nâng
cao. Đến năm 1949, Ty Giáo dục Thủ Dầu Một đã thành lập
được 2 trường tiểu học tại An Điền và Tân Hiệp, nhiều xã
thuộc tỉnh được công nhận là địa bàn đã hoàn thành việc diệt
giặc dốt. Đặc biệt, Đoàn Thanh niên Cứu quốc huyện Bến Cát
là đơn vị đi đầu trong phong trào xóa nạn mù chữ và được Xứ
đoàn Thanh niên Cứu quốc Nam Bộ tặng cờ “Tiền phong diệt
giặc dốt toàn Nam Bộ”.
Đầu năm 1950, để tăng cường hơn nữa hiệu quả của công
tác dân vận, Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng đã họp,
đánh giá tình hình công tác Mặt trận và công tác dân vận,
nhấn mạnh một lần nữa vai trò, vị trí của công tác dân vận

82
trong công tác của Đảng. Hội nghị đưa ra chủ trương chiến
lược tích cực tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực của toàn
thể Nhân dân để tiến tới tổng phản công theo tinh thần “Người
có của phải góp của, kẻ có công phải góp công, người có tài trí
phải góp tài trí. Không ai được đứng ngoài cuộc chiến đấu của
dân tộc. Ai nấy đều phải phụng sự Tổ quốc tùy theo khả năng
của mình”1. Hội nghị xác định đặt nhiệm vụ địch vận, ngụy
vận lên hàng đầu, đồng thời vận động Nhân dân tham gia
chuẩn bị chiến trường, sửa cầu đường, phát động phong trào
thi đua sản xuất và chế tạo để cung cấp cho tổng phản công;
đẩy mạnh công tác vùng địch, vùng Công giáo và miền núi.
Khẩu hiệu mới được đưa ra cho giai đoạn kháng chiến này là
“Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” gắn liền với thi
đua ái quốc. Phương thức triển khai dân vận phải dựa trên
nguyên tắc vừa thuyết phục, vừa bắt buộc để gấp rút tăng
cường lực lượng kháng chiến của dân tộc.
Ngày 12/02/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số
20-SL, quyết định tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực của
toàn thể Nhân dân để tiến tới tổng phản công.
Thực hiện chủ trương mới của Đảng, Ủy ban kháng chiến
hành chánh tỉnh Thủ Dầu Một chỉ đạo Ty Thông tin Tuyên
truyền xuất bản tờ tuần báo Chuẩn bị tổng phản công và thành
lập Đoàn Tuyên truyền tổng phản công để tuyên truyền, vận
động mọi tầng lớp nhân dân tham gia chống Pháp. Hàng ngàn
tờ báo được phát hành rộng rãi khắp địa bàn tỉnh cùng hàng
vạn khẩu hiệu “Tất cả để Tổng phản công”, “Tích cực chuẩn bị
Tổng phản công”, được rải ở nhiều địa điểm trong tỉnh.
Phương pháp dân vận phục vụ tiến tới tổng tiến công được
chuyển từ phương pháp động viên, thuyết phục sự tự giác,
tình nguyện của quần chúng là chính sang phương pháp hành
chính là chủ yếu.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.11, tr.63.

83
Từ đầu năm 1950, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành
chánh phát động chiến dịch mùa Xuân tiến công phá vỡ hệ
thống tháp canh của quân Pháp trên địa bàn tỉnh. Đêm 21,
rạng sáng ngày 22/3/1950, trên toàn tuyến giao thông Thủ
Dầu Một - Tân Uyên, 50 tổ vũ trang đã dùng bộc phá tự tạo
FT đồng loạt tấn công tiêu diệt 50 tháp canh của Pháp. Ngày
18/4/1950, lực lượng vũ trang của tỉnh tiếp tục đánh sập tháp
canh mẹ cầu Bà Kiên và một tháp canh nhỏ gần đấy.
Tháng 7/1950, nhằm chia lửa với Chiến dịch Biên giới, Bộ
Tư lệnh Quân khu 7 quyết định mở Chiến dịch Bến Cát nhằm
tiêu hao sinh lực quân Pháp dọc theo đường 7 và đường 14,
mở rộng vùng giải phóng của ta. Chiến dịch được đặt tên là
Chiến dịch Lê Hồng Phong. Tham gia Chiến dịch ngoài lực
lượng chủ lực của Quân khu 7, còn có các liên trung đoàn, bộ
đội và dân quân các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Gia Định,
Tây Ninh, đặc biệt còn có lực lượng dân công hỏa tuyến được
tổ chức từ lực lượng nhân dân tình nguyện thuộc các quận Hóc
Môn (Gia Định), Trảng Bàng (Tây Ninh), Bến Cát, Hớn Quản,
Châu Thành (Thủ Dầu Một). Từ ngày 07/10/1950 đến ngày
15/11/1950, Chiến dịch Lê Hồng Phong “đã huy động 30.000
dân quân, 5.000 chiến sĩ bộ đội và du kích, đánh 300 trận lớn
nhỏ, diệt 509 tên địch, làm bị thương 155 tên, bắt sống 120
tên, đánh sập hàng chục tháp canh, tua, đồn bót, 12 cầu cống,
phá hủy 84 xe quân sự, 5 đầu máy xe lửa, đánh chìm 7 tàu
thuyền chiến đấu, thu nhiều vũ khí đạn dược và đồ dùng quân
sự”1. Với Chiến dịch Lê Hồng Phong, quân dân miền Đông
Nam Bộ, trong đó có quân dân Thủ Dầu Một đã hòa nhập vào
cuộc tổng tiến công trên chiến trường cả nước.
Từ tháng 8/1950, hưởng ứng Tuần lễ thi đua giết giặc lập
công do Ban Thường vụ Trung ương Đảng phát động, tại Thủ

1. Sông Bé: Lịch sử chiến tranh Nhân dân 30 năm (1945-1975), Nxb. Tổng hợp
Sông Bé, 1990, tr.134-135.

84
Dầu Một, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chánh đã chỉ
đạo phát động chiến tranh du kích, tăng cường công tác địch
vận; lãnh đạo Nhân dân vùng tạm chiếm dùng mọi hình thức
và biện pháp đấu tranh thích hợp; đẩy mạnh cuộc tổng động
viên nhân lực, vật lực, tài lực ở vùng giải phóng và vùng căn cứ
địa kháng chiến. Đồng thời, tỉnh tích cực vận động Nhân dân
xây dựng kinh tế kháng chiến, đáp ứng yêu cầu tự lực cánh
sinh là chính trong cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ nhưng
nhất định sẽ thắng lợi.

III. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC DÂN VẬN, GÓP PHẦN VÀO
THẮNG LỢI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
(1951-1954)

1. Vận động quần chúng khắc phục khó khăn, chuẩn


bị nhân lực, vật lực, tài lực phục vụ kháng chiến

Sau Chiến dịch Biên giới năm 1950, cuộc kháng chiến của
Nhân dân ta chuyển sang giai đoạn tiến công và phản công
chiến lược. Tháng 12/1950, Chính phủ Pháp quyết định cử
tướng De Lattre de Tassigny sang làm Tổng chỉ huy quân đội
viễn chinh Pháp kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương. Vừa đến
Hà Nội, De Lattre de Tassigny đã gấp rút xây dựng kế hoạch
tập trung binh lực, xây dựng tuyến phòng thủ cắt ngang miền
Bắc bằng hệ thống boongke cố thủ, ngăn chặn bộ đội Việt Nam
đánh vào vùng đồng bằng và ngăn chặn nhân lực, vật lực của
ta đưa ra vùng tự do. Song song đó, De Lattre de Tassigny đề
ra chiến lược “Bình định gấp rút, phản công quyết liệt” nhằm
mở rộng chiến tranh, tăng cường càn quét, bao vây kinh tế
làm tê liệt Việt Minh. Để thực hiện kế hoạch, De Lattre de
Tassigny đã tăng cường sang Việt Nam 11 tiểu đoàn bộ binh,
3 tiểu đoàn kỵ binh thiết giáp, 4 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu
đoàn công binh và 1 tiểu đoàn truyền tin.
Tại địa bàn Thủ Dầu Một, thực dân Pháp tăng cường xây
85
dựng mới nhiều tháp canh, đồn bót tại Bến Cát, Dầu Tiếng, Tân
Uyên, Lái Thiêu, Châu Thành... nhằm cắt đứt đường 16, đường 7,
quốc lộ 13, đồng thời tổ chức nhiều trận càn quét vào Chiến khu
Đ, căn cứ Long Nguyên nhằm tiêu diệt lực lượng kháng chiến.
Về kinh tế, thực dân Pháp thi hành nhiều biện pháp phá
hoại kinh tế kháng chiến và kinh tế của Nhân dân, như: Thực
hiện chính sách tam quang (đốt sạch, cướp sạch, phá sạch), mở
các chiến dịch cướp lúa và hoa màu của dân, tung bạc giả, hạ
giá đồng bạc Đông Dương, phong tỏa đường giao thông, ngăn
chặn hàng hóa vận chuyển từ miền Tây Nam Bộ lên miền
Đông Nam Bộ, gây khó khăn lớn cho bộ đội và Nhân dân.
Trước tình hình mới phức tạp, khó khăn, tháng 02/1951,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đã được tổ chức,
quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi mới là
Đảng Lao động Việt Nam. Đảng đề ra nhiệm vụ cho giai đoạn
cách mạng mới là: Đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn
toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam. Để hoàn thành
nhiệm vụ đề ra, Đảng đề ra những chính sách và biện pháp
tích cực: Đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang; củng cố và
phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất; phát huy tinh thần
yêu nước và đẩy mạnh thi đua ái quốc; triệt để giảm tô, giảm
tức, tịch thu ruộng đất của thực dân và Việt gian chia cho dân
cày nghèo; đồng thời phải luôn bồi dưỡng lực lượng cách mạng
về mọi mặt; tiếp tục tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực
vào việc kháng chiến theo khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến,
tất cả để chiến thắng”.

Để đối phó hiệu quả với những thủ đoạn mới của thực dân
Pháp, Trung ương Cục miền Nam1 tiến hành tổ chức lại chiến
trường, bố trí lại lực lượng nhằm giữ vững căn cứ địa, phát

1. Ngày 06/7/1951, Trung ương Cục miền Nam được thành lập thay Xứ ủy Nam
Bộ, tiến hành củng cố, tăng cường hệ thống tổ chức đảng trên cơ sở bố trí lại chiến
trường.

86
triển cuộc kháng chiến một cách toàn diện trên các lĩnh vực
quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa để phù hợp với tình hình
cách mạng mới.
Trên cơ sở đó, tỉnh Thủ Dầu Một và tỉnh Biên Hòa được
sáp nhập lại thành tỉnh Thủ Biên. Về địa lý hành chính ở cấp
huyện xã, vùng dân tộc thiểu số ở phía bắc trực thuộc Phòng
Quốc dân thiểu số, huyện Đồng Nai nhập vào huyện Tân Uyên,
huyện Sông Bé nhập vào huyện Hớn Quản, xã Định Thành
thuộc huyện Bến Cát nhập vào huyện Trảng Bàng thuộc tỉnh
Gia Định - Ninh. Huyện Thủ Đức, trong đó có Dĩ An được tách
ra khỏi tỉnh Gia Định, sáp nhập vào tỉnh Thủ Biên. Lực lượng
Việt Minh tại đây được tổ chức, bố trí lại theo phương châm
gọn nhẹ, tạo điều kiện cho việc quản lý và hoạt động
Về chính quyền, sau khi tỉnh Thủ Biên được thành lập,
ông Nguyễn Minh Chương được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy
ban kháng chiến hành chánh tỉnh; Ông Lê Minh Thành (tô
Văn Của) được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch; ông Lê Văn Chì -
nguyên Phó trưởng Ty Công an Thủ Dầu Một được cử làm Ủy
viên Công tố tại Toà án nhân dân tỉnh; riêng chức vụ Chánh
án Toà án nhân dân tỉnh do ông Nguyễn Minh Chương - Chủ
tịch Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh đảm nhiệm. Theo
chỉ đạo của Trung ương Cục, Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến
hành chánh tỉnh Thủ Biên còn tiến hành sắp xếp lại tổ chức
theo phương châm tinh gọn. Cụ thể các cơ quan được sáp nhập
thành bốn nhóm, bao gồm: Nhóm Văn phòng Tỉnh ủy, Văn
phòng Ủy ban; nhóm Dân vận, Kinh tế Tài chính (một bộ
phận Văn phòng Ủy ban, Mặt trận Liên Việt, Ban chấp hành
các đoàn thể quần chúng, Ty Kinh tế, Ty Tài chính, Ty Canh
nông); nhóm tuyên huấn Đảng, Ty Thông tin, Ty Giáo dục, cán
bộ tuyên huấn của Mặt trận, đoàn thể; nhóm Tổ chức Tỉnh ủy.
Đến tháng 5/1951, bộ máy quân, dân, chính, đảng tỉnh Thủ
Biên đã tương đối hoàn thiện về mặt tổ chức và chọn Chiến
87
khu Đ làm căn cứ đóng quân. Các tổ chức quân, dân, chính,
đảng đóng rải rác từ suối Đỉa, suối Cốc, Đất Cuốc, đến tận
Đất Đạo thuộc Tân Hòa và Chánh Bình tạo điều kiện thuận
lợi cho cuộc kháng chiến chống Pháp bước sang đỉnh cao mới.
Chấp hành chủ trương của Tỉnh uỷ Thủ Biên, cuối năm 1951,
các cơ quan bộ đội và Huyện uỷ Thủ Đức đóng tại căn cứ Long
Thành chuyển về Khánh Vân, thuộc huyện Châu Thành (thủ
Dầu Một), sau đó, chuyển về đóng tại Tân Dân, một căn cứ của
huyện Đồng Nai. Nhằm khắc phục tình trạng chiến trường bị
chia cắt và tiếp nhận kịp thời sự chỉ đạo của tỉnh uỷ với chiến
trường các huyện, kịp thời đối phó với thủ đoạn mới của thực
dân Pháp, Trung ương Cục miền Nam tiến hành tổ chức lại
chiến trường, bố trí lại lực lượng nhằm giữ vững căn cứ địa,
phát triển cuộc kháng chiến một cách toàn diện trên các lĩnh
vực quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa để phù hợp với tình
hình cách mạng mới.

Cuối năm 1951, Tỉnh ủy Thủ Biên tổ chức hội nghị bất
thường nhằm đánh giá toàn diện công tác kháng chiến, kiện
toàn tổ chức, giải thể Ban Căn cứ địa, phân công đồng chí Vũ
Duy Hanh, Phó Bí thư Tỉnh ủy làm Trưởng ban Tổ chức, đồng
chí Huỳnh Văn Lũy và đồng chí Phạm Văn Khoai làm Chủ
tịch và Phó Chủ tịch Hội Nông dân Cứu quốc.
Tỉnh ủy quán triệt quan điểm của Đảng bộ Nam Bộ trong
Nghị quyết về nhiệm vụ của Đảng bộ Nam Bộ năm 1951, chú
trọng công tác dân vận, phát triển và củng cố Mặt trận dân
tộc thống nhất, bài trừ tư tưởng coi thường công tác dân vận,
các cấp ủy phải đề cao công tác dân vận và coi là một nhiệm
vụ mấu chốt, quyết định sự thành bại của cuộc kháng chiến1.
Các cơ sở đảng trong tỉnh lãnh đạo Nhân dân đấu tranh
bằng nhiều hình thức bí mật, công khai, hợp pháp, bất hợp

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.664.

88
pháp làm thất bại âm mưu của thực dân Pháp. Ở Chiến khu
Đ, công tác dân vận triển khai thông qua các sinh hoạt đoàn
thể, các phong trào thi đua. Ngoài luyện tập quân sự, sản xuất
vũ khí, vót chông, làm đường... quần chúng nhân dân còn được
vận động trồng bắp, trồng khoai, tăng gia sản xuất để nuôi bộ
đội, du kích. Riêng các nông trường trong Chiến khu Đ ở Sình,
Hàn Dài, Vĩnh An, Bà Hào... đều được căn cứ địa cấp đất phục
vụ công tác tăng gia nên đã nâng diện tích sản xuất cây lương
thực lên gấp ba lần so với năm 1950.
Năm 1952, Tỉnh ủy thành lập Ban Phòng gian và bổ nhiệm
đồng chí Đào Trọng Hằng, Phó trưởng Ty Công an làm Trưởng
ban. Ban Phòng gian có nhiệm vụ theo dõi diễn biến tư tưởng
của cán bộ, chiến sĩ, Nhân dân, trao đổi kinh nghiệm về công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giúp cán bộ, chiến sĩ và Nhân
dân khắc phục tư tưởng ngại khó, ngại khổ, một lòng hướng
về kháng chiến.
Công tác dân vận trong năm 1952 chủ yếu hướng vào
trọng tâm tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, căm thù giặc
Pháp, gây dựng lòng tin tưởng của Nhân dân vào sự tất thắng
của cuộc kháng chiến. Ở vùng địch tạm chiếm, công tác dân
vận chủ yếu dựa vào cơ sở cách mạng để tuyên truyền, cảm
hóa; ở vùng căn cứ và vùng tự do dùng tài liệu, báo chí tuyên
truyền, tổ chức các buổi sinh hoạt để bàn bạc với dân, lấy ý
kiến của Nhân dân, qua đó rút kinh nghiệm, tuyên truyền lại
cho Nhân dân.
Nhờ đẩy mạnh công tác phòng gian và công tác dân vận,
năm 1952, ngành quân báo và công an đã phát hiện được hàng
chục gián điệp chui vào hàng ngũ kháng chiến. Nhân dân được
tuyên truyền, giáo dục tích cực tham gia bảo vệ an ninh, trật
tự, trừ gian.
Tháng 10/1952, một cơn bão lớn chưa từng có đổ bộ vào
miền Đông Nam Bộ, gây ra những thiệt hại, tổn thất rất lớn
89
cho bộ đội và Nhân dân. Mùa màng bị phá hủy nghiêm trọng,
hàng triệu cây cao su bị bật gốc, hàng ngàn nóc nhà, doanh
trại, kho tàng bị lốc đổ, cuốn trôi... nạn đói, dịch bệnh diễn
ra ở nhiều nơi. Theo đánh giá của Trung ương Cục, cơn bão
đã làm thiệt hại đến 80% mùa màng của tỉnh Thủ Biên. Lợi
dụng tình hình, quân Pháp liên tiếp mở các cuộc càn quét lấn
sâu vào vùng căn cứ địa kháng chiến. Đảng bộ miền Đông
Nam Bộ phải lãnh đạo lực lượng vừa chống càn quét, vừa vận
động Nhân dân khắc phục thiệt hại, bám trụ ruộng vườn, tăng
gia sản xuất; đồng thời vận động đồng bào ở các địa phương
không bị bão lụt quyên góp lương thực, thuốc men, tổ chức tiếp
tế nhằm nhanh chóng ổn định đời sống của Nhân dân. Tỉnh
ủy, Ủy ban tổ chức nhiều đoàn đi kênh Ba Thu mua và vận
chuyển lương thực về chiến khu. Tỉnh đoàn Thanh niên Cứu
quốc thành lập Đội Thanh niên xung phong tham gia tải gạo
từ kênh Ba Thu về chiến khu. Tuyến đường tải gạo rất khó đi,
vất vả và nguy hiểm, phải mất 6 ngày đường nếu không gặp
trở ngại. Ban Chỉ huy Thanh niên xung phong đã đề ra một số
chính sách cụ thể để động viên anh em hoàn thành tốt nhiệm
vụ, như mỗi đội viên tham gia đội vận tải được xem là một
chiến sĩ cứu quốc; gia đình của đội viên tham gia được hưởng
¼ số lương thực, thực phẩm mà đội viên đó mang về được; nếu
đội viên nào bị thương trên đường vận tải sẽ được hưởng chế
độ chăm sóc của quân y như một vệ quốc đoàn; đội viên lập
thành tích tốt được biểu dương, khen thưởng... Bằng nhiều
biện pháp giải quyết, đến cuối năm, tình hình thiếu đói lương
thực đã được đẩy lùi.

2. Động viên quần chúng thi đua “tất cả cho tiền


tuyến, tất cả để chiến thắng”, góp phần vào thắng lợi
của Chiến dịch Điện Biên Phủ

Tháng 5/1953, Chính phủ Pháp cử tướng H. Navarre sang


làm Tổng chỉ huy các lực lượng viễn chinh Pháp thay tướng R.
90
Salan. Tháng 7/1953, Hội đồng Chính phủ và Hội đồng Quốc
phòng Pháp thông qua Kế hoạch quân sự Navarre. Nhiệm vụ
trung tâm của Kế hoạch Navarre là tổ chức khối cơ động chiến
lược mạnh gấp ba lần binh lực hiện có, nhằm giành thế chủ
động trên chiến trường, giữ thế phòng ngự ở miền Bắc và mở
các cuộc tấn công chiến lược tại miền Nam. Cả thực dân Pháp
và Hoa Kỳ đều tin tưởng sau 18 tháng sẽ “chuyển bại thành
thắng”. Thực hiện Kế hoạch Navarre, từ Hè-Thu 1953, Pháp
liên tiếp mở những cuộc hành quân càn quét vào các vùng
chiếm đóng ở Bắc Bộ, Bình Trị Thiên và Nam Bộ.
Tại tỉnh Thủ Biên, thực dân Pháp mở nhiều cuộc càn quét
cấp tiểu đoàn vào các xã vùng ven và vào Chiến khu Đ.
Để động viên sức người, sức của ra chiến trường, Trung
ương Đảng ra Chỉ thị phát động quần chúng trong năm 1953
(24/4/1953), nêu rõ muốn kháng chiến thắng lợi, kiến quốc
thành công thì phải dựa vào quần chúng nông dân, phải bồi
dưỡng lực lượng nông dân. Muốn nông dân có lực lượng dồi
dào, phải làm cho nông dân có ruộng cày, có cơm ăn, nhà ở.
Chỉ thị cũng nêu sách lược đối với các tầng lớp nông dân ở
nông thôn là “dựa vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung
nông, trung lập phú nông”.
Tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp Hội nghị quyết định mở
cuộc tiến công Chiến lược Đông - Xuân 1953-1954.
Nhận thức đúng tình hình và nhiệm vụ mới, Tỉnh ủy và
Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh Thủ Biên chỉ đạo Tiểu
đoàn vũ trang 303 cùng các lực lượng bộ đội, dân quân, du kích
địa phương quán triệt phương châm đánh Pháp bằng phương
pháp du kích là chính.
Công tác vận động Nhân dân tham gia dân công, vận tải
cho các chiến trường được đẩy mạnh. Quần chúng nhân dân
được vận động tham gia dân công hỏa tuyến, chuyển lương,
chuyển vũ khí cho chiến trường. Trung ương Cục quyết định
91
“Chuẩn bị đón lấy thời cơ mới”, đẩy mạnh cuộc tiến công về
quân sự, chính trị kết hợp với “chiến dịch ngụy, địch vận”.
Riêng trên địa bàn Đông Nam Bộ, trong năm 1953, các lực
lượng vũ trang phối hợp cùng Nhân dân làm công tác địch
vận, đã vận động được khoảng 4.000 binh lính đào, rã ngũ. Chỉ
riêng tháng 12/1953, Nhân dân đã vận động được 109 thanh
niên chống lại lệnh bắt lính, bắt xâu của Pháp, vận động được
100 lính Cao Đài bỏ ngũ về quê làm ăn sinh sống.
Nhân dân trong tỉnh Thủ Biên ngoài việc tham gia hỗ trợ
lực lượng vũ trang đánh đồn, phá bót, diệt tề, trừ gian, còn tích
cực vận động con em tham gia kháng chiến. Từ tháng 9/1953
đến tháng 3/1954, 32 đội du kích tập trung cấp xã đã được tổ
chức với 513 đội viên, du kích mật từ 219 đội viên tăng lên 527
đội viên, dân quân tự vệ từ 453 tăng lên 1.826 đội viên. Phối
hợp cùng bộ đội chủ lực, du kích và dân quân tự vệ đã tham
gia chống càn quét, tiến đánh các trận nhỏ lẻ, tiêu hao sinh
lực địch. Cuối năm 1953, phong trào chiến tranh du kích phát
triển đều khắp trong tỉnh.
Ngày 13/3/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. Nhằm
phối hợp với chiến trường chính, từ tháng 3/1954, Tỉnh ủy Thủ
Biên chủ trương mở các đợt tiến công quân sự dồn dập vào
các vùng tạm chiếm, tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực
quân Pháp, tạo đà phát triển cho cách mạng giải phóng dân
tộc bước vào một giai đoạn mới. Cuối tháng 4/1954, trên địa
bàn tỉnh, Tỉnh ủy triển khai quán triệt nhiệm vụ phối hợp
chiến trường nhằm phát huy chiến thắng, chủ động tiến công
địch về mọi mặt. Từng Chi bộ bám sát địa bàn, vận động quần
chúng đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ. Bộ đội chủ
lực phối hợp với du kích các xã tiến hành đợt hoạt động tổng
hợp: Vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở, hướng dẫn đồng
bào làm công tác ngụy vận, vận động người thân đi lính trở về
hoặc làm nội ứng. Phong trào đấu tranh chính trị nổ ra mạnh
mẽ trên khắp địa bàn tỉnh Thủ Biên. Nhân dân nô nức nổi dậy
92
cùng với lực lượng vũ trang bức bót, phá tề làm cho hệ thống
đồn bót, tề ngụy tan rã nhanh chóng.
Với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”,
Tỉnh ủy Thủ Biên chỉ đạo các ngành, các cấp động viên Nhân
dân ra sức thi đua đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến.
Các đoàn thể quần chúng vận động tuyên truyền các gia đình
có chồng, con, em đi lính cho Pháp vận động họ quay về; phụ
nữ cam kết giữ chồng con ở nhà, không cho đi lính cho Pháp;
thanh niên ký giao ước không đi lính cho địch. Công tác đấu
tranh đòi địa chủ, phú nông phải triệt để giảm tô, thoái tô cho
nông dân cũng được Nhân dân tích cực ủng hộ.
Phong trào toàn dân đánh giặc và thế tiến công của quân
dân tỉnh Thủ Biên đã góp phần không nhỏ làm thất bại âm
mưu bình định miền Nam của thực dân Pháp, giam chân một
bộ phận quan trọng quân cơ động của Pháp, không cho chúng
điều quân ra tiếp viện cho chiến trường Điện Biên Phủ.
Ngày 07/5/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng
lợi. Quân ta toàn thắng. Ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơnevơ
được ký kết. Thực dân Pháp buộc phải chấm dứt chiến tranh,
tôn trọng chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của ba
nước Đông Dương.
Cuối tháng 7/1954, Phân liên khu ủy miền Đông cử một
đoàn cán bộ về tỉnh Thủ Biên tham dự Hội nghị hướng dẫn
việc thực hiện nội dung Hiệp định Giơnevơ. Sau Hội nghị, các
cán bộ Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh Thủ
Biên về Bến Cát triển khai công tác mới, số còn lại gấp rút
chuẩn bị ra Hàm Tân - Xuyên Mộc kịp ngày ra miền Bắc nhận
nhiệm vụ mới.
*
* *

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chưa bao lâu, quân và
93
dân Thủ Dầu Một đã phải cùng quân dân cả nước bước vào
cuộc kháng chiến lâu dài, anh dũng chống thực dân Pháp tái
xâm lược. Vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, ngay từ
những ngày đầu của cuộc kháng chiến, Tỉnh ủy, Ủy ban kháng
chiến hành chánh đã động viên được sức mạnh tổng hợp của
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân vào sự nghiệp bảo vệ thành
quả cách mạng; chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm;
từng bước giải quyết khó khăn về tài chính, kinh tế. Từ cuối
năm 1946, cùng cả nước, Tỉnh ủy đã lãnh đạo Nhân dân trong
tỉnh tiến hành kháng chiến kiến quốc với tinh thần dựa vào
sức mình là chính.
Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống thực dân
Pháp, quán triệt đường lối lãnh đạo của Trung ương Đảng,
Tỉnh ủy Thủ Dầu Một (sau là tỉnh Thủ Biên) đã thấm nhuần
quan điểm lấy dân làm gốc, dựa vào dân, vận động, tập hợp,
bồi dưỡng Nhân dân đồng lòng đứng lên đánh thực dân Pháp.
Các hình thức và biện pháp vận động quần chúng được vận
dụng linh hoạt qua từng thời kỳ, bám sát nhiệm vụ trung tâm
của các giai đoạn kháng chiến, nhờ đó đã động viên, tập hợp
thành công các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tham gia kháng
chiến.
Một thuận lợi căn bản của công tác dân vận trong thời kỳ
này là Ban Dân vận đã được thành lập với vai trò của một
cơ quan chuyên trách. Ban Dân vận đã thực hiện chức năng
tham mưu cho Tỉnh ủy với nhiệm vụ cụ thể là điều tra, nghiên
cứu nắm tình hình, nắm diễn biến tâm lý, nguyện vọng của
các tầng lớp nhân dân, từ đó đề xuất kế hoạch vận động quần
chúng phù hợp. Đặc biệt, tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ
Chí Minh ra đời ngày 15/10/1949 đã thể hiện một cách đầy đủ,
sâu sắc những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về công tác dân vận. Vận dụng quan điểm và tư tưởng của Hồ
Chí Minh vào thực tiễn dân vận ở địa phương, Tỉnh ủy, Ban
Dân vận các cấp và từng cán bộ, đảng viên ở Thủ Dầu Một đã
94
quán triệt nhuần nhuyễn cách thức, phương pháp làm công
tác dân vận “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói,
tay làm”. Nhờ đó, công tác dân vận đã trở thành công tác của
cả hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng viên.
Dựa vào chính quyền, kết hợp giữa vận động, tuyên truyền
phát huy tinh thần tự giác của quần chúng với các biện pháp
hành chính, đồng thời bám sát 10 nguyên tắc cốt yếu trong
công tác dân vận và công tác Mặt trận Dân tộc thống nhất làm
cơ sở cho hoạch định phương châm, kế hoạch vận động các giới
đồng bào là chủ trương và hành động đúng. Nhờ đó, công tác
dân vận của tỉnh Thủ Dầu Một trong thời kỳ này đã huy động
được sự tham gia đông đảo, tích cực và hiệu quả của mọi bộ
phận quần chúng không chỉ trong đấu tranh chính trị mà còn
tham gia vào hoạt động quân sự ở địa phương và góp phần vào
thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ của toàn dân tộc.

95
Chương III
CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỈNH ỦY BÌNH DƯƠNG
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
(1954-1975)

I. CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG GIAI ĐOẠN ĐẤU


TRANH CHÍNH TRỊ, TIẾN TỚI THỰC HIỆN VŨ TRANG
TUYÊN TRUYỀN, THAM GIA PHONG TRÀO ĐỒNG KHỞI
(1954-1960)

1. Động viên, tập hợp quần chúng tham gia đấu


tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ

Sau Hiệp định Giơnevơ, dân tộc Việt Nam bước vào một
giai đoạn lịch sử mới, vĩ tuyến 17 (cầu Hiền Lương sông Bến
Hải, tỉnh Quảng Trị) được sử dụng làm giới tuyến quân sự tạm
thời chia lãnh thổ đất nước thành hai miền Nam - Bắc. Các
bên tham chiến ngừng bắn, thực hiện chuyển quân, tập kết,
chuyển giao khu vực, trao trả tù binh theo quy định; trong
vòng 2 năm kể từ tháng 7/1954 đến tháng 7/1956, Nhân dân
Việt Nam sẽ tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

Song, với âm mưu chia cắt nước ta, biến miền Nam Việt
Nam thành tiền đồn chống chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam Á,
Mỹ xúc tiến kế hoạch “lập ra một phòng tuyến mà cộng sản
không thể vượt qua, rồi sau đó giữ vững vùng này và chiến
đấu lật đổ (các chính thể cộng sản) trong khu vực với tất cả sức
mạnh mà chúng ta có, đó là thông qua viện trợ kinh tế và xây
dựng một lực lượng quân sự hùng mạnh. Mỹ phải đi đầu trong
việc hình thành một tập đoàn phòng thủ khu vực đủ mạnh để
96
duy trì tự do tại Đông Nam Á”1.
Ngày 07/7/1954, đế quốc Mỹ dựng lên Chính phủ Đệ nhất
cộng hòa; ngày 8 và ngày 12/8/1954, Hội đồng an ninh quốc
gia Mỹ thông qua chính sách “ủng hộ một Chính phủ bản
xứ mạnh”2 và giúp Chính phủ Ngô Đình Diệm “xây dựng lực
lượng quân sự bản xứ có thể bảo đảm an ninh nội địa”3.
Dưới sự bảo trợ của Mỹ, từ năm 1954, loại bỏ các thế lực
thân Pháp, các giáo phái, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến
hành “chiến dịch tố cộng diệt cộng”, “ly khai”, “tuyệt giao với
cộng sản”, thành lập các “trung tâm huấn chính”, “trung tâm
cải huấn”... để giam giữ những người yêu nước.
Trong bối cảnh đó ngày 06/9/1954, Bộ Chính trị ra Chỉ thị
về tình hình mới và nhiệm vụ công tác mới của miền Nam,
đề ra 3 nhiệm vụ cụ thể trước mắt là: Đấu tranh đòi thi hành
đúng Hiệp định Giơnevơ; chuyển hướng công tác cho thích hợp
với tình hình mới; đoàn kết rộng rãi, tập hợp mọi lực lượng
dân tộc, dân chủ, hòa bình, đấu tranh đánh đổ chính quyền
Mỹ-Diệm. Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần
thứ bảy (tháng 3/1955) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ tám (tháng 8/1955) đã đề ra phương hướng cho
cách mạng hai miền Nam, Bắc và phương hướng, nhiệm vụ
của công tác dân vận trong tình hình mới, chú trọng đặc biệt
công tác dân vận giới trí thức, dân vận đối với đồng bào dân tộc
thiểu số và dân vận đối với đồng bào theo đạo.
Trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, từ tháng 5/1955, chính

1. George C. Herring: America’s longest war (Cuộc chiến dài nhất của nước Mỹ),
Nxb. Mc.Graw-Hill, Inc, New York, 1986, tr.41.
2. The Pentagon Papers (tài liệu Lầu Năm Góc), Nxb. Bantam Books, New
York, 1971, tr.1.
3. The Pentagon Papers (tài liệu Lầu Năm Góc), ấn bản của Thượng nghị sĩ
Gravel, Nxb. Beacon Press, Boston, 1971, t.I, tr.204.

97
quyền Sài Gòn bắt đầu mở “Chiến dịch tố cộng, diệt cộng”1;
mở chiến dịch Trương Tấn Bửu (từ tháng 7/1956 đến tháng
02/1957) càn quét, đàn áp Nhân dân 8 tỉnh miền Đông Nam
Bộ cả về quân sự, chính trị, tâm lý, kinh tế...
Đối với cách mạng, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký
kết, Đảng ta chủ trương đưa cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền
Nam tập kết ra miền Bắc, thực hiện đúng các điều khoản của
Hiệp định Giơnevơ; đồng thời chuẩn bị nhân sự, lực lượng cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cho cuộc
đấu tranh giải phóng miền Nam.
Từ tư tưởng chỉ đạo ấy ngày 20/7/1954, Tỉnh ủy Thủ Biên
tổ chức Hội nghị bất thường2 tại căn cứ Nhà Nai (Chiến khu
Đ) nhằm triển khai chủ trương của Trung ương Đảng, của Xứ
ủy Nam Bộ về việc chuyển quân tập kết và hoạch định công
tác trong tình hình mới.
Theo tinh thần Hội nghị bất thường của Tỉnh ủy, quân dân
chính đảng tỉnh Thủ Biên phải gấp rút thực hiện các nhiệm vụ
sau: Tổ chức sắp xếp cán bộ đi tập kết, thực hiện chuyển quân
tập kết ra miền Bắc từ ngày 20/7/1954 đến ngày 25/8/1954;
chọn lựa lực lượng ở lại, bố trí, sắp xếp, tạo bình phong hoạt
động trong tình hình mới, với nhiệm vụ là triển khai cuộc đấu
tranh đòi hòa bình, chính quyền Sài Gòn thi hành Hiệp định
Giơnevơ.
Ngày 04/8/1954, Tỉnh ủy Thủ Biên ban hành Chỉ thị số 33/
CT-TU cụ thể hóa một bước những việc phải làm trong thời
gian trước mắt đối với lực lượng ở lại. Chỉ thị đề ra nhiệm vụ
là ra sức đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất,
độc lập và dân chủ trong toàn quốc. Để thực hiện được điều đó,

1. Chiến dịch tố cộng diệt cộng được chính phủ Ngô Đình Diệm thực hiện trong
2 giai đoạn, giai đoạn 1 từ tháng 5/1955 đến tháng 6/1956; giai đoạn 2 từ tháng 6/1956
đến tháng 4/1958.
2. Gồm 2 cuộc hội nghị được tổ chức vào ngày 20/7/1954 và ngày 15/8/1954.

98
sách lược đấu tranh là đấu tranh chính trị; ta phải dứt khoát
trong tư tưởng, tuyệt đối không đối phó bằng vũ trang, bảo
đảm thực hiện đúng đắn Hiệp định. Chỉ thị cũng chỉ rõ những
vấn đề đặt ra về nhiệm vụ công tác dân vận, địch ngụy vận,
những hình thức và khẩu hiệu đấu tranh trong thời kỳ mới.
Phải xác định giai đoạn đấu tranh chính trị cũng trường kỳ,
gian khổ và không kém phần phức tạp. Chỉ thị nhấn mạnh, dù
trong hoàn cảnh nào cũng nhất định không thủ tiêu tổ chức và
thủ tiêu phong trào. Do đó, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải
giữ gìn cho được tổ chức đảng, giữ gìn lực lượng và phong trào
cách mạng của quần chúng1.
Trong những ngày đầu sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký
kết, diễn biến tư tưởng trong lực lượng quân dân chính đảng ở
tỉnh Thủ Biên nói riêng, trên toàn miền Nam nói chung buồn
vui lẫn lộn. Vui là cả dân tộc đã đánh bại thực dân Pháp xâm
lược, buồn là đất nước chưa thống nhất, phải chờ thêm 2 năm
nữa để tổng tuyển cử, hiệp thương... Hơn nữa, dù biết rằng:
“đi hay ở lại đều là nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ mà
Đảng giao phó”, tuy nhiên, “tại sao được chọn đi tập kết”, “tại
sao phải ở lại”... là những câu hỏi luôn đặt ra trong tâm trí của
một bộ phận không nhỏ cán bộ quân dân chính đảng. Do vậy,
Tỉnh ủy Thủ Biên đã ra Chỉ thị nhấn mạnh đến nhiệm vụ công
tác dân vận, tổ chức học tập chủ trương của Đảng, quán triệt,
làm thông suốt tư tưởng cho mỗi cán bộ, đảng viên2.
Tháng 9/1954, Bộ Chính trị họp, ra Nghị quyết chỉ rõ:
“nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc của Nhân dân ta chưa
phải đã hoàn thành, cuộc đấu tranh ái quốc không vì đình
chiến mà kết thúc, cuộc đấu tranh đó còn đang tiếp tục”3...;

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014, tr.212-
213.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.212.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.308.

99
đồng thời đề ra nhiệm vụ ở miền Nam là: Thi hành triệt để
Hiệp định đình chiến; chuyển hướng công tác cho thích hợp với
điều kiện hòa bình; đoàn kết rộng rãi, tập hợp mọi lực lượng
dân tộc dân chủ và hòa bình, đánh đổ Chính phủ Ngô Đình
Diệm thân Mỹ 1.
Tháng 10/1954, tại căn cứ Suối Linh (Chiến khu Đ), Tỉnh
ủy Thủ Biên tổ chức hội nghị quán triệt Nghị quyết của Bộ
Chính trị và đề ra nhiệm vụ mới:
- Các tổ chức đảng phải rút vào hoạt động bí mật, tổ chức
gọn nhẹ để phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới.
- Các đảng viên xuống bám địa bàn, ngụy trang trong các
tổ chức hợp pháp, nửa hợp pháp, bí mật, hòa mình vào quần
chúng, gần gũi quần chúng, nắm được tâm tư, nguyện vọng
của quần chúng, qua đó tuyên truyền, vận động, xây dựng lực
lượng cách mạng theo hình thức xâu chuỗi2.
Trong công tác tuyên truyền, vận động, xây dựng lực lượng
cách mạng, mỗi đảng viên cần nắm vững năm bước: Điều tra,
tuyên truyền, tổ chức, huấn luyện, đấu tranh trong công tác
dân vận xây dựng cơ sở cách mạng trong quần chúng3.
Cũng tháng 10/1954, Hội nghị thành lập Xứ ủy Nam Bộ
được tổ chức. Tại Hội nghị, Xứ ủy Nam Bộ đề ra nhiệm vụ cụ
thể cho cách mạng miền Nam, đồng thời quyết định tổ chức lại
chiến trường Nam Bộ, trong đó có nội dung giải thể tỉnh Thủ
Biên, thành lập tỉnh Thủ Dầu Một và tỉnh Biên Hòa.
Tỉnh Thủ Dầu Một được tái thành lập, gồm 4 huyện: Lái

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.274.
2. Hệ thống xâu chuỗi bí mật là mỗi đảng viên, cán bộ, tự xây dựng cho mình
3 - 4 quần chúng nòng cốt trung kiên; mỗi nòng cốt trung kiên xây dựng và nắm 3 - 4
quần chúng tích cực; mỗi quần chúng tích cực nắm 3 - 4 quần chúng cảm tình (theo
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh Bình
Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.217).
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.216-217.

100
Thiêu, Châu Thành, Bến Cát, Hớn Quản và 3 đồn điền cao su:
Dầu Tiếng, Quản Lợi, Lộc Ninh.
Giữa tháng 01/1955, tỉnh Thủ Dầu Một tổ chức Hội nghị
cán bộ đảng toàn tỉnh, bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm
9 đồng chí, trong đó đồng chí Võ Văn Đợi (Võ Minh Đức) được
bầu làm Ủy viên Thường vụ, phụ trách công tác dân vận và
công tác tài chính1; đồng chí Đào Trọng Hằng (tám Mỹ) được
bầu làm Tỉnh ủy viên phụ trách công tác binh vận. Ở cấp
huyện, thị trực thuộc tỉnh, các cấp ủy cũng thành lập bộ phận
dân vận, binh vận, mỗi bộ phận khoảng 2 đến 3 đảng viên.
Công tác dân vận, binh vận được xác định là một trong
những công tác quan trọng lúc bấy giờ nhằm vận động Nhân
dân tham gia đấu tranh “giữ gìn củng cố hòa bình, tranh thủ
thực hiện tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, tiến tới thực hiện
thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong toàn quốc”;
“động viên, tập hợp tất cả các giai cấp, các tầng lớp, các tổ chức
quần chúng, các đảng phái, tôn giáo, các dân tộc đa số, thiểu
số, các nhân sĩ yêu chuộng hòa bình, thiết tha thống nhất độc
lập, dân chủ toàn quốc”; “vì vậy phải hết sức lợi dụng mọi khả
năng tổ chức hợp pháp, nửa hợp pháp để kết hợp công tác hoạt
động bí mật của Đảng và công tác công khai và bán công khai
của quần chúng để tuyên truyền, cổ động, giáo dục, tổ chức
quần chúng, để lãnh đạo quần chúng đấu tranh”2.
Như vậy, từ đầu năm 1955, hệ thống tổ chức dân vận của
tỉnh chính thức được thành lập lại và đi vào hoạt động, dù tổ
chức nhân sự được sắp xếp gọn nhẹ để phù hợp với tình hình
mới, nhưng bù lại, dân vận là công tác của Đảng, mỗi cán bộ,
đảng viên đều tham gia công tác dân vận với nhiệm vụ cụ thể:

1. Đầu tháng 10/1956, tại Hội nghị bất thường của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, đồng
chí Võ Văn Đợi (tư Đức), Ủy viên Thường vụ, phụ trách công tác dân vận được Xứ
ủy chỉ định giữ chức Bí thư Tỉnh ủy.
2. Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ họp tại Huyện Sử, Cà Mau, tài liệu số 7781 lưu trữ
tại Phòng Tư liệu - Ban Tổng kết chiến tranh B2.

101
- Vận động Nhân dân thành lập chính quyền tự quản, lập
ban đại diện, đội dân phòng chống trộm cướp tại các đồn điền
cao su, vùng nông thôn, vùng căn cứ cũ, nơi địch chưa quản lý
chặt chẽ;
- Vận động quần chúng xuống đường đấu tranh đòi thi
hành Hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương, tổng tuyển cử thống
nhất đất nước;
- Vận động quần chúng đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân
chủ, chống cướp bóc, chống phạt vạ, chống khủng bố, bắt bớ
những người yêu nước;
- Vận động quần chúng thành lập, tham gia các tổ chức
xã hội nghề nghiệp: Hội Đá banh, Hội Đờn ca, Hội Cúng đình,
Hội Nhà vàng, Hội Cứu tế, Hội Sản xuất;... từng bước tập hợp
quần chúng, xây lực lượng, tuyển chọn người nòng cốt cho
phong trào đấu tranh chính trị;
- Vận động quần chúng xây dựng cơ sở, che chở, bảo tồn
lực lượng cách mạng, cài cắm người của ta vào bộ máy ngụy
quân, ngụy quyền, đặc biệt là tham gia vào các tổ chức Tổng
liên đoàn lao động, Ban Chấp hành Liên hiệp nghiệp đoàn
tỉnh, các nghiệp đoàn lao động nghề nghiệp như xe ngựa, xe
thồ, Depot xe lửa Dĩ An.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, cán bộ, đảng viên làm công
tác dân vận từ tỉnh xuống các huyện, thị, xuống địa bàn, bám
cơ sở, sử dụng các hình thức tuyên truyền miệng, trao phát
tài liệu bí mật, truyền đơn, báo chí... tận tay quần chúng. Đặc
biệt là tờ báo bí mật “Đấu tranh cho hòa bình thống nhất Tổ
quốc” của Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy. Theo tài liệu Lịch sử chiến
tranh nhân dân tỉnh Bình Dương (1945-1975), “Tờ báo được
truyền tay theo hệ thống bí mật, góp phần củng cố niềm tin
cho các cấp ủy, chi bộ, cơ sở quần chúng cách mạng, cung cấp
thêm những thông tin cần thiết giúp cho cán bộ cơ sở vận dụng
102
trong công tác tuyên truyền miệng và hướng dẫn cơ sở cách
mạng đấu tranh với địch”1. Bên cạnh đó, các tài liệu công khai,
“những bài báo có nội dung tiến bộ được đăng công khai trên
các báo ở Sài Gòn và những bản tin, tờ báo cách mạng, truyền
đơn các loại (truyền tay nhau qua hệ thống xâu chuỗi) đã góp
phần củng cố niềm tin, tích lũy thêm kinh nghiệm cho quần
chúng trong đấu tranh chống lại bộ máy kìm kẹp của địch ở
cơ sở”2.
Đến cuối năm 1955, cán bộ, đảng viên làm công tác dân
vận trở nên “bài bản hơn”, học hỏi được kinh nghiệm từ thời
kháng chiến chống Pháp, đồng thời được tham dự các lớp bồi
dưỡng với các tài liệu “5 bước công tác”, “26 câu hỏi về đường
lối cách mạng miền Nam”, “Sống vĩ đại, chết vinh quang”, “Khí
tiết cách mạng của người cộng sản”... nhằm trang bị kiến thức,
hướng dẫn cho cán bộ, đảng viên nguyên tắc xây dựng, củng cố
tổ chức cơ sở đảng, phương pháp vận động xây dựng cơ sở quần
chúng cách mạng trong điều kiện địch đang ráo riết truy lùng,
bắt bớ cán bộ, đảng viên... do Tỉnh ủy tổ chức3.
Dù lực lượng cán bộ đảng làm công tác dân vận ít, lại phải
ngụy trang dưới các hình thức công khai, bán công khai, bí
mật,... nhằm tránh tai mắt của bọn mật vụ, cảnh sát, lực
lượng “công dân vụ”... của địch, nhưng do làm tốt công tác
dân vận, trong những năm 1955, 1956, cùng với các cuộc mít
tinh, biểu diễn văn nghệ, mừng hòa bình là phong trào đấu
tranh chính trị diễn ra sôi nổi trên địa bàn tỉnh Thủ Dầu Một.
Đặc biệt là phong trào đấu tranh của công nhân các đồn điền
cao su Lộc Ninh, Hớn Quản, Dầu Tiếng, Phước Hòa đưa yêu
sách đòi cải thiện chế độ lao động, định lại mức khoán, đòi

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.239.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.232.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd,tr.253.

103
tăng lương, giảm giờ làm, đòi quyền tự do, dân chủ, hòa bình,
chống khủng bố, chống bắt lính, chống chính sách “cải cách
điền địa”;... phong trào quyên góp tiền, gạo giúp đỡ đồng bào
Công giáo miền Bắc đến lập nghiệp trong vùng căn cứ ở Thanh
Tuyền, Kiến An, Long Nguyên, Lai Hưng...

2. Vận động quần chúng kết hợp đấu tranh chính trị
với xây dựng lực lượng tiến tới Đồng khởi

Tháng 8/1956,  chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành


chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” giai đoạn 2.
Ngày 22/10/1956, chính quyền Ngô Đình Diệm ban hành
Sắc lệnh 143-NV giải thể tỉnh  Thủ Dầu Một, thành lập các
tỉnh Bình Dương1, Bình Long, Phước Long.
Trên địa bàn tỉnh Thủ Dầu Một, để tiến hành “tố cộng, diệt
cộng”, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành rầm rộ chiến
dịch “Đồng tâm diệt cộng” với khẩu hiệu “Tố cộng là yêu nước”,
yêu cầu tất cả người yêu nước phải “sám hối”, phải “ly khai
khỏi cộng sản”; quyết tâm “tiêu diệt nội tuyến, diệt trừ nội
tâm, đạp lên oán thù để thực hiện dân chủ nhân vị quốc gia”.
Chúng thực hiện chính sách “ngũ liên gia bảo” buộc người dân
phải “tố cộng”, “ly khai”, “tuyệt giao với cộng sản”, thành lập
các “trung tâm huấn chính”, “trung tâm cải huấn”... để giam
giữ những người yêu nước...
Đồng thời với chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, chính quyền
Ngô Đình Diệm tiến hành cải cách điền địa theo chương trình
cải cách điền địa của tiến sĩ Wolf Ladejinsky2. Ngày 23/4/1957,

1. Theo Sắc lệnh 143-NV ngày 22/10/1956, tỉnh Bình Dương gồm 5 quận: Châu
Thành, Lái Thiêu, Bến Cát, Trị Tâm (Dầu Tiếng), Củ Chi (một phần quận Hóc Môn,
tỉnh Gia Định, đến năm 1963 chuyển sang tỉnh Hậu Nghĩa). Năm 1959, Bình Dương
bị cắt một phần đất, cùng với phần đất của các tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, Phước
Long, để lập tỉnh Phước Thành (tỉnh Phước Thành tồn tại đến năm 1965 thì giải thể).
2. Edward Lansdale: Tôi làm quân sư cho Tổng thống Ngô Đình Diệm (bản dịch),
Nxb. Văn học, Sài Gòn, 1972, tr.246.

104
Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh số 103-T.T.P lập Phủ Tổng
ủy dinh điền, tiến hành xây dựng các khu dinh điền.
Tại Thủ Dầu Một, từ năm 1957, các khu dinh điền lần
lượt được thiết lập, điển hình như khu dinh điền, tiếp theo là
khu trù mật: Thị Tính, Bến Súc, Khánh Vân, An Phú... nhằm
quản lý, thanh lọc dân cư, phát hiện người yêu nước, người
theo cách mạng... theo lối “tát nước, bắt cá”. Trước tình cảnh
đó, một số cán bộ, đảng viên, quần chúng cách mạng và một
bộ phận nhân dân buộc phải bỏ làng mạc, nơi thường trú để
chuyển vào các căn cứ kháng chiến cũ. Do vậy, các “làng thoát
ly”, “làng chiến đấu” ở vùng Chiến khu Đ và các “làng Độc
Lập” ở vùng rừng núi cao thuộc Phước Long, Bình Long lần
lượt ra đời... Đặc biệt, tại các vùng căn cứ, chiến khu, các đơn
vị vũ trang tự lập xuất hiện, đó là các tổ chức vũ trang vừa
sản xuất vừa chiến đấu, chống lại sự áp bức, chuyên chế của
chế độ Sài Gòn. Cụ thể, đầu 1956, xuất hiện đơn vị vũ trang
của Chín Quỳ ở Chiến khu Đ, đơn vị vũ trang Ba Hưng ở Long
Nguyên... Ngoài ra còn có khoảng 2.000 người thuộc lực lượng
Bình Xuyên do Trung tá Bình Xuyên Võ Văn Môn chỉ huy và
toán cướp “rừng xanh” do hai anh em Tám Liễu, Út Bời làm
thủ lĩnh...

Trước chính sách “tố cộng, diệt cộng” của chính quyền Ngô
Đình Diệm và thực trạng cách mạng miền Nam, từ năm 1956,
đồng chí Lê Duẩn - Bí thư Xứ ủy cho ra mắt bản  dự thảo
“Đường lối cách mạng miền Nam”, trong đó có nội dung: “Tình
hình ấy nhất định thúc đẩy nhân dân miền Nam phải đứng
lên đập tan chính sách độc tài phát xít của Mỹ - Diệm để tự
cứu mình. Vì vậy, mục đích cách mạng miền Nam còn phải
đánh đổ chính quyền độc tài, phát xít Mỹ - Diệm, thực hiện
một chính quyền liên hiệp dân chủ có tính chất dân tộc độc
lập, để giải phóng nhân dân miền Nam ra khỏi ách đế quốc
phong kiến độc tài phát xít Mỹ - Diệm để cùng với toàn quốc
105
thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc”1.

Tại tỉnh Thủ Dầu Một, sau khi tiếp thu nội dung bản dự
thảo Đường lối cách mạng miền Nam, nhiệm vụ được đặt ra
là: Vừa phải xây dựng lực lượng phát triển lực lượng vũ trang,
vừa phải xây dựng, củng cố hệ thống căn cứ địa kháng chiến.
Công tác dân vận, binh vận được đặt ra là:
Vận động lực lượng Bình Xuyên ly khai, lực lượng Chín
Quỳ, Tám Liễu, từng bước chuyển hóa xây dựng thành lực
lượng vũ trang cách mạng.
Vận động, cán bộ, đảng viên và Nhân dân ra rừng xây dựng
căn cứ, khai hoang, sản xuất tự túc, tổ chức các ban hậu cần.
Vận động Nhân dân quyên góp tiền, gạo, muối, thuốc men
ủng hộ kháng chiến, trước hết là những gia đình cơ sở cách
mạng.
Vận động Nhân dân, hình thành các đường dây thu mua,
vận chuyển lương thực hợp pháp từ vùng địch đưa về căn cứ.
Đến năm 1958, Ngô Đình Diệm tổ chức chiến dịch “tố cộng,
diệt cộng” với chủ trương “bắt nhầm hơn thả nhầm, giết nhầm
hơn bỏ sót”. Do vậy, ở Thủ Dầu Một, “hàng ngàn cán bộ, đảng
viên và đồng bào yêu nước bị địch bắt bớ, bị cầm tù, tra tấn dã
man. Nhiều người bị địch giết hại. Phần lớn cán bộ, đảng viên
ở cơ sở hoạt động công khai có sơ hở, đều sớm sa vào tay giặc”2.
Tại nhà tù Phú Lợi, số người yêu nước, cán bộ cách mạng
bị địch giam cầm lên đến gần 6.000 người. Theo chính quyền
Ngô Đình Diệm, đó là những người cộng sản cứng đầu, cần
phải tiêu diệt. Ngày 01/12/1958, vụ đầu độc tại nhà tù Phú Lợi
diễn ra làm cho hàng trăm người bị trúng độc.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.787.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.241.

106
Sau khi nhận được tin, Tỉnh ủy đã thành lập Ban Chỉ đạo
đấu tranh trên toàn tỉnh, cán bộ dân vận tỉnh, huyện, xã, tiến
hành vận động quần chúng tham gia xuống đường biểu tình,
đấu tranh vạch rõ tội ác của chính quyền Sài Sòn.
Các cuộc xuống đường biểu tình, tuần hành của quần chúng
diễn ra ở nhiều nơi, kéo dài nhiều ngày. Đặc biệt, Nhân dân tại
các địa phương kéo lên dinh tỉnh trưởng, xuống tận thủ phủ Sài
Gòn đưa kiến nghị đòi được thăm chồng con, đòi cứu chữa các
nạn nhân, đòi xử lý nghiên khắc bọn đầu độc “tù nhân”. Cán
bộ, đảng viên dân vận còn tham gia phát tán tờ “Tin tức đấu
tranh chống vụ thảm sát Phú Lợi” của Ban Tuyên huấn Tỉnh
ủy, vừa tố cáo, vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, vừa khích
lệ phong trào đấu tranh, hun đúc lòng yêu nước và “thổi bùng
lên ngọn lửa căm thù của Nhân dân trong tỉnh, của Nhân dân
miền Nam cũng như đồng bào cả nước, làm thức tỉnh lương tri
và những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới”1.
  Sau vụ thảm sát tại nhà tù Phú Lợi ngày 23/01/1959,
chính quyền Sài Gòn ra Sắc lệnh số 25-NV, thành lập tỉnh
Phước Thành2. Tháng 4/1959, Ngô Đình Diệm tuyên bố “đặt
miền Nam trong tình trạng khẩn cấp”. Tháng 5/1959, ban
hành Luật 10/59, tuyên bố “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp
luật”, thiết lập tòa án quân sự đặc biệt, liên tiếp mở các cuộc
càn quét, khủng bố cả thành thị lẫn nông thôn. Do vậy, phong
trào đấu tranh chính trị của Nhân dân miền Nam nói chung,
của Nhân dân Thủ Dầu Một nói riêng tạm thời lắng xuống.
Trước âm mưu, thủ đoạn mới của địch, tháng 01/1959, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị lần thứ 15 hoạch
định đường lối cách mạng cho cả hai miền Nam - Bắc, đồng thời

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.261.
2. Tỉnh Phước Thành gồm ba quận: Phú Giáo, Tân Uyên, Hiếu Liêm, dân số
khoảng 55.000 người, là địa bàn án ngữ cửa ngõ Chiến khu Đ, có vị thế quan trọng
về chiến lược quân sự.

107
xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: “Giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến,
thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh”1; nhiệm vụ trước mắt là “...Đánh đổ tập đoàn thống
trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập
một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực
hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời
sống của nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất
nước nhà”2; phương hướng là “Khởi nghĩa giành chính quyền
về tay Nhân dân... lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực
lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng
vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến,
dựng nên chính quyền cách mạng của nhân dân”3.
Tháng 11/1959, Xứ ủy họp Hội nghị lần thứ tư (Hội nghị
mở rộng đến Bí thư Tỉnh ủy) để quán triệt Nghị quyết 15
của Trung ương, đồng thời đề ra nhiệm vụ cơ bản trước mắt
là: “Giữ vững và đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần
chúng, lấy đấu tranh chính trị rộng rãi và mạnh mẽ của quần
chúng làm chính, đồng thời kết hợp hoạt động VT3 (võ trang
tuyên truyền) để: chống chính sách khủng bố tàn bạo, chính
sách bóc lột vơ vét, chính sách cướp nước và bán nước nô dịch
dân tộc và gây chiến của Mỹ - Diệm”4... xây dựng, củng cố và
phát triển phong trào quần chúng đấu tranh về chính trị, kinh
tế, văn hóa, tiến từ hình thức thấp đến hình thức cao, từ đẩy
lùi từng bước đến những chuyển biến làm lay chuyển đến tận
gốc chính quyền địch và cuối cùng phát động quần chúng khởi
nghĩa đánh đổ Mỹ - Diệm khi có thời cơ thuận lợi”.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr.81.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr.81-82.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr.81-82.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr.985.

108
Tại căn cứ Giếng Chảo, xã An Điền ngày 30/01/1960, Tỉnh
ủy Thủ Dầu Một triệu tập Hội nghị (mở rộng đến các Bí thư
Huyện, Thị ủy) nhằm quán triệt Nghị quyết 15 của Trung
ương và Nghị quyết lần thứ tư của Xứ ủy, đồng thời đề ra
nhiệm vụ xây dựng, phát triển căn cứ cách mạng, lực lượng vũ
trang, tiềm lực, vật lực, hỗ trợ cho quần chúng đồng loạt nổi
dậy giành chính quyền.
Triển khai nghị quyết của Tỉnh ủy, hệ thống căn cứ ở Dầu
Tiếng, Bến Cát, Châu Thành, Phú Giáo, Tân Uyên,... được
củng cố; tỉnh, huyện, xã tiến hành xây dựng, phát triển lực
lượng vũ trang, tự vệ, du kích.
Công tác dân vận được quán triệt đẩy mạnh, đặc biệt là
việc xây dựng cơ sở cách mạng quần chúng, vận động quần
chúng làm tai mắt, chở che, bảo vệ cơ sở, bảo vệ cán bộ kháng
chiến; vận động Nhân dân quyên góp, cung cấp lương thực,
thực phẩm, thuốc men... vận chuyển ra căn cứ.
Công tác binh vận cũng được đẩy mạnh, thực hiện nghị
quyết về công tác binh vận của Xứ ủy Nam Bộ (tháng 6/1958),
các cán bộ, đảng viên lăn lộn, bám sát địa bàn, vận động, móc
nối, tổ chức, xây dựng các cơ sở nội tuyến, khai thác thông tin
hoạt động của bộ máy ngụy quân, ngụy quyền để chủ động
phòng tránh trong các cuộc càn của địch, bảo vệ căn cứ, bảo vệ
lực lượng cách mạng. Đặc biệt, đến đầu năm 1960, lực lượng
dân vận, binh vận của tỉnh đã xây dựng, tổ chức, kết nối được
hơn 220 cơ sở nội tuyến1, hoạt động liên lạc, kết nối, khai thác
thông tin diễn ra thuận lợi, nhất là ở Tân Bình, Tân Định
(Châu Thành); Thanh Tuyền, Thới Hòa (Bến Cát)...
Ngày 25/02/1960, phong trào Đồng khởi ở Thủ Dầu Một
bùng nổ, quần chúng các huyện Bến Cát, Lái Thiêu, Châu
Thành, Hớn Quản và 3 đồn điền cao su: Dầu Tiếng, Quản Lợi,

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ thị xã Thủ Dầu
Một - Bình Dương, Nxb. Tổng hợp Bình Dương, 2000, tr.117.

109
Lộc Ninh nổi dậy phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ.
Cán bộ, chiến sĩ dân vận, binh vận cùng nhiều cán bộ,
chiến sĩ của các ban trực thuộc Tỉnh ủy, Huyện ủy, Xã ủy và
cơ sở cách mạng quần chúng ở các địa phương... tiến hành rải
truyền đơn, dán khẩu hiệu, căng băng rôn, phát loa, gõ trống,
mõ..., kêu gọi cán bộ, binh lính ngụy quân, ngụy quyền phản
chiến, đầu hàng; vận động gia đình binh sĩ kéo lên trụ sở tề xã,
đồn bót kêu gọi chồng, con, em bỏ ngũ về với gia đình làm ăn.
Ở một số nơi, cán bộ, chiến sĩ dân vận, vận động quần chúng
tiến hành nổi trống mõ, gõ thùng thiếc, reo hò, tung tin đồn về
“lực lượng cách mạng”, “sức mạnh đồng khởi”, “lật đổ chính quyền
Mỹ - ngụy”,... Phong trào vũ trang tuyên truyền được đẩy mạnh,
thanh niên các nơi mang gậy gộc, dao, rựa nổi dậy gây thanh thế,
phá bỏ tề ấp, khí thế cách mạng bùng phát mạnh mẽ...
Trong phong trào Đồng khởi năm 1960, quân và dân tỉnh
Thủ Dầu Một đã “làm chủ trên 40 ấp thuộc 25 xã (trong số
46 xã) trong toàn tỉnh và 10 làng công nhân (trong tổng số 22
làng) của đồn điền cao su Dầu Tiếng. Có làng, có xã ta đã hoàn
toàn làm chủ và xây dựng được chính quyền tự quản. Trong
cao trào Đồng khởi năm 1960, ta đã trừng trị hơn 100 tên ác
ôn, giải tán nhiều ban tề xã, ấp, bức rút, bức hàng và tiêu diệt
nhiều đồn bót, thu trên 300 súng các loại”1.

II. CÔNG TÁC DÂN VẬN GÓP PHẦN LÀM PHÁ SẢN
CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA MỸ
(1961-1964)

1. Công tác dân vận phục vụ củng cố tổ chức cách mạng,


phát triển lực lượng, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân

Chiến lược chiến tranh đơn phương của đế quốc Mỹ và bè

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương
(1930-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, 2003, Hà Nội, tr.tr.344- 345.

110
lũ tay sai bị thất bại. Sau khi lên cầm quyền, F.Kennedy cho
áp dụng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, lấy việc gom dân
lập ấp chiến lược làm quốc sách, mở đầu bằng Kế hoạch Staley
Taylor, chống chiến tranh du kích, bình định miền Nam trong
18 tháng; tiếp theo là Kế hoạch Mc Namara với cố gắng hết
sức nhằm đưa Chiến tranh đặc biệt lên đỉnh cao1.
Trên địa bàn Bình Dương, Ngô Đình Diệm tổ chức thành
tiểu khu quân sự thuộc Vùng III chiến thuật bảo vệ cửa ngõ
hướng bắc Sài Gòn; các quận, huyện tổ chức thành chi khu
quân sự; tăng cường thêm lực lượng tình báo, gián điệp, kiện
toàn lực lượng dân vệ, “Thanh niên cộng hòa”, “Phụ nữ liên
đới”, biến họ thành lực lượng bán vũ trang... đồng thời đẩy
mạnh chương trình gom dân, lập ấp chiến lược, coi ấp chiến
lược là quốc sách.
Tháng 9/1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của
Đảng được tổ chức, đề ra nhiệm vụ cơ bản cho cách mạng miền
Nam là: “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc
và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng,
góp phần xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh”2. Trước mắt “đoàn kết toàn
dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây
chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay
sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân
tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền
tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình,
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ”3.
Tháng 9/1960, Xứ ủy ra nghị quyết tái thành lập tỉnh Thủ
Biên trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa.

1. Theo Nghị quyết Trung ương Cục lần thứ ba tháng 10/1965, gọi là Kế hoạch
Mc Namara, đề cương của Phòng tổng kết về địch (BTKCTB2) gọi kế hoạch này là
kế hoạch “tổng tấn công toàn diện”.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.919.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.919.

111
Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam được thành lập, ra tuyên ngôn: “Đoàn kết tất cả các tầng
lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các
đoàn thể, các tôn giáo và nhân sĩ yêu nước, không phân biệt xu
hướng chính trị, đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc
Mỹ và tập đoàn Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thực
hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình
thống nhất Tổ quốc”1.
Tại Thủ Biên, Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh được tổ
chức do đồng chí Võ Minh Đức, Phó Bí thư Tỉnh ủy làm Chủ
tịch Ủy ban Mặt trận. Tiếp đó, Mặt trận Dân tộc giải phóng
của các huyện, thị, xã cũng lần lượt được thành lập.
Nhiệm vụ của tổ chức dân vận được đặt ra là mở các đợt
tuyên truyền phổ biến nội dung Chương trình 10 điểm (Cương
lĩnh) của Mặt trận Dân tộc giải phóng, vận động thành lập
chính quyền giải phóng tự quản, thành lập đoàn thể giải
phóng như: Nhân sĩ, trí thức, thanh niên, phụ nữ, nông dân,
công hội, dân tộc, tôn giáo... Trong các đợt tuyên truyền này,
tài liệu Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh Bình Dương (1945
- 1975) ghi lại một sự kiện rất đặc biệt: “Tổ công tác đặc biệt
của huyện có sáng kiến táo bạo: chặn bắt đoàn xe lửa (mang
biển số 2486) chở khách từ Nha Trang về Sài Gòn. Khi xe lửa
về ga Dĩ An, hàng chục thanh niên mang sẵn cờ, khẩu hiệu
từ hai bên đường ray tại cổng xe lửa ấp Bình Đường xông ra,
đóng biểu ngữ lên hai bên toa xe. Hàng chục “hành khách”
trong đoàn công tác vũ trang tuyên truyền của huyện lên các
toa xe, phân phát hơn 500 tờ Cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền Nam cho đồng bào đi trên xe lửa. Nhiều đồng
bào còn xin thêm và truyền tay nhau đọc. Khi đoàn tàu chạy
tới ga Thủ Đức, cờ đỏ búa liềm xuất hiện trên đầu tàu và băng

1. Xem Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân
tỉnh Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.288.

112
rôn, khẩu hiệu dán hai bên thân đoàn tàu đã thôi thúc hàng
trăm đồng bào ấp Bình Đường và quần chúng dọc đường tàu
tới ga Thủ Đức đổ ra xem”1.
Ngày 24/01/1961, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ra chỉ thị chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng miền Nam lúc
này là: “ra sức xây dựng mau chóng lực lượng của ta cả về mặt
chính trị và quân sự, tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng
trong Mặt trận dân tộc giải phóng, phát động một phong trào
đấu tranh chính trị mạnh mẽ của quần chúng, tích cực tiêu
diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, làm tan
rã chính quyền và lực lượng địch trên một phạm vi ngày càng
rộng lớn; tiến lên làm chủ rừng núi, giành lại toàn bộ đồng
bằng, ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở
đô thị; tạo mọi điều kiện và nắm mọi thời cơ thuận lợi để đánh
đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải phóng miền Nam”2.
Đầu tháng 10/1961, Trung ương Cục tổ chức Hội nghị lần
thứ nhất (mở rộng) tại Chiến khu Đ, quán triệt chỉ thị của
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và đề ra “con
đường phát triển có lợi nhất của cách mạng Việt Nam ở miền
Nam là dùng đấu tranh chính trị và vũ trang song song kết
hợp, coi đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều là cơ
bản để tạo điều kiện và tranh thủ thời cơ tiến tới tổng khởi
nghĩa...”3. Hội nghị nhấn mạnh: “Nắm vững phương châm ba
vùng và ba mặt đấu tranh, tùy tình hình cụ thể ở từng nơi mà
vận dụng cho linh hoạt, kết hợp chặt chẽ công tác ba vùng và
đấu tranh ba mặt”4.
Tháng 6/1961, Trung ương Cục quyết định chia tách tỉnh
Thủ Biên, tái lập hai tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa và thành

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.290.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.22, tr.159.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.22, tr.673.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.22, tr.689.

113
lập tỉnh Phước Thành, tương ứng với địa giới hành chính ba
tỉnh của địch1. Lúc bấy giờ, tỉnh Thủ Dầu Một gồm thị xã Thủ
Dầu Một và 4 huyện: Bến Cát, Dầu Tiếng, Châu Thành, Lái
Thiêu; tỉnh Phước Thành có 2 huyện: Phú Giáo, Tân Uyên.
Ban Chấp hành Đảng bộ hai tỉnh được kiện toàn, đồng
chí Nguyễn Thị Liên (Nguyễn Thị Xưởng, Tám Liên) được
bổ nhiệm là Tỉnh ủy viên tỉnh Thủ Dầu Một phụ trách công
tác dân vận, đặc biệt các ban vận động các giới lần lượt được
thành lập:
Ban Thanh vận: Đồng chí Trần Bình làm Trưởng ban; các
đồng chí Út Thu, Tư Nha làm ủy viên.
Ban Phụ vận: Đồng chí Trần Thị Hữu (Sáu Hữu) làm
Trưởng ban; các đồng chí Nguyễn Thị Phương (Mười Phương),
Nguyễn Thị Trung (Bảy Trung), Nguyễn Thị Ngọc làm ủy viên.
Ban Nông vận: Đồng chí Năm Quang làm Trưởng ban.
Sau khi thành lập, ban vận động các giới được điều động
xuống cơ sở huyện, xã, ấp bám địa bàn, tuyên truyền, vận
động, chuẩn bị các điều kiện để tiến tới thành lập các đoàn thể
giải phóng;... đồng thời tiến hành vận động quân dân chính
đẩy mạnh phong trào sản xuất tự túc; ủng hộ tài chính, lương
thực, thuốc men phương tiện sản xuất cho kháng chiến; tiến
hành xây dựng ấp, xã chiến đấu; đẩy mạnh phong trào đấu
tranh chính trị, binh vận, chống địch lấn chiếm; xây dựng cơ
sở cách mạng, phát triển lực lượng chính trị; vận động thanh
niên tham gia lực lượng vũ trang, hỗ trợ các ấp, xã đẩy mạnh
phong trào du kích chiến tranh...
Kết quả hoạt động của công tác dân vận đạt được rất khả
quan, cụ thể:
Trong những năm 1961, 1962, các tổ chức, đoàn thể giải

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.292.

114
phóng lần lượt được thành lập, điển hình như: Hội Phụ nữ
giải phóng, Đoàn Thanh niên giải phóng, Hội Liên hiệp Thanh
niên giải phóng, Công đoàn giải phóng, Hội Nông dân giải
phóng. Hội Phụ nữ giải phóng tỉnh do Phạm Thị Anh (Bảy
Anh) làm Hội trưởng; Nguyễn Thị Ty (Sáu Ty) làm Hội phó;
Nguyễn Thị Ngọc làm Ủy viên Thường vụ kiêm Thư ký; Lê Thị
Thao, Bùi Thị Hiệp, Nguyễn Thị Ánh, Nguyễn Thị Giòn (Sáu
Giòn), Tám Nguyệt, Trần Thị Hữu làm Ủy viên. Sau khi Trần
Thị Hữu được Tỉnh ủy điều chuyển về làm Bí thư Ban Cán sự
huyện Dầu Tiếng, Hội Phụ nữ giải phóng tỉnh bầu bổ sung
Huỳnh Thị Kim Oanh làm Ủy viên và Hà Thúy Phượng làm
Ủy viên - đại biểu cho đồng bào Công giáo di cư. Đoàn Thanh
niên giải phóng do đồng chí Đoàn Văn Quý (tư Quý) làm Bí
thư (kế nhiệm là đồng chí Trần Bình). Hội Liên hiệp Thanh
niên giải phóng tỉnh do đồng chí Trần Bình, Bí thư Tỉnh đoàn
kiêm Chủ tịch Hội.
Thanh niên ở các ấp, xã, huyện tình nguyện tham gia lực
lượng vũ trang kháng chiến ngày một đông.
Phong trào tăng gia sản xuất tự túc phát triển mạnh mẽ;
các hình thức làm ăn tập thể, đổi công, vần đổi công ra đời và
phát triển. Các tổ vần công, đổi công đã tổ chức cảnh giới để
cày cấy, thu hoạch, giúp nhau làm công sự chống bom, pháo,
cất giấu trâu bò, dụng cụ, lương thực mỗi lần địch càn quét...
Ngoài ra, các tổ viên còn động viên và giúp đỡ nhau trong cuộc
sống hằng ngày...1. Nhân dân phấn khởi, tích cực tham gia
phong trào “lạc quyên tự nguyện”, “lạc quyên có định mức”,
thực hiện chính sách “đảm phụ nông nghiệp” (quỹ giải phóng)
đóng góp cho kháng chiến.
Phong trào xây dựng ấp, xã chiến đấu phát triển mạnh ở

1. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Hậu phương chiến tranh
Nhân dân Việt Nam (1945-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1977, tr.211-
212.

115
nhiều địa phương, đặc biệt, tại ba xã Tây Nam (An Điền, An
Tây, Phú An) huyện Bến Cát, quân dân chính đã tham gia
tích cực vào việc xây dựng hệ thống địa đạo. Huyện đội, các
đoàn thể (thanh niên, phụ nữ, nông dân) của huyện cùng cấp
ủy ba xã trực tiếp theo dõi, chỉ đạo việc tổ chức đào địa đạo ở
từng ấp theo kế hoạch chung của huyện. Ban ngày, nông dân
ra đồng sản xuất, tối về lại tham gia đội quân xây dựng địa
đạo. Những người già nhận nhiệm vụ đan ki, làm đèn, lo trà
nước; Hội Phụ nữ các xã tổ chức vận động đồng bào ủng hộ quà
bánh, nấu cháo, luộc khoai... tiếp tế cho các tổ, các nhóm đào
địa đạo. Các cháu thiếu nhi tham gia trồng cỏ ngụy trang...1.
Tổng kết tình hình cách mạng của hai tỉnh Thủ Dầu Một
và tỉnh Phước Thành đến khi Mỹ - Diệm chuyển sang chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt”, tài liệu Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình
Dương (1930 - 1975) đã đánh giá: “Thế và lực mọi mặt của ta
trên đà phát triển tương đối rộng và đều khắp; quần chúng
nhân dân từ sau Đồng khởi rất tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng; khí thế cách mạng của quần chúng đang lên, hăng hái
tham gia đóng góp sức người, sức của cho cách mạng. Đó là
những điều kiện rất thuận lợi cho Đảng bộ, quân và dân hai
tỉnh cùng quân và dân toàn miền đánh bại mọi âm mưu thủ
đoạn mới của kẻ thù, đưa cách mạng tiếp tục tiến lên giành
những thắng lợi mới”2.
Từ cuối tháng 8/1961, để phục vụ cho trận đánh tỉnh lỵ
Phước Thành, cán bộ, chiến sĩ dân vận bám sát các địa phương,
vận động Nhân dân đóng góp, bán lúa gạo, lương thực cho cách
mạng, bảo đảm cho lực lượng vũ trang tham gia hoạt động
chiến đấu. Bên cạnh đó, cán bộ, chiến sĩ binh vận trà trộn, bắt
liên lạc với cơ sở nội tuyến, khai thác thông tin tình hình địch

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.301.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương
(1930 - 1975), Sđd, tr.359.

116
phục vụ cho tác chiến.
Chiến thắng Phước Thành không chỉ chứng minh sự lớn
mạnh của lực lượng vũ trang cách mạng, mà còn chứng minh
sự lớn mạnh và hoạt động có hiệu quả của công tác dân vận,
binh vận của của tỉnh.

2. Vận động quần chúng đẩy mạnh phong trào phá


ấp chiến lược, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt”của Mỹ ở Thủ Dầu Một

Ngày 03/02/1962, Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh thành
lập “Ủy ban liên bộ về ấp chiến lược”. Ngày 17/4/1962, chương
trình “ấp chiến lược” được thông qua và nâng lên thành “quốc
sách”.
Để thực hiện chương trình “quốc sách ấp chiến lược”, tại
Bình Dương (thủ Dầu Một), Phước Thành, Mỹ - ngụy mở
nhiều cuộc hành quân lớn nhằm tiêu diệt lực lượng kháng
chiến, “bình định nông thôn”, gom dân, lập ấp chiến lược, lấy
Bến Tượng, xã Lai Hưng, huyện Bến Cát làm “ấp chiến lược
kiểu mẫu” để rút kinh nghiệm.
Trước âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù, tháng 4/1962,
Thường vụ Trung ương Cục tổ chức Hội nghị quán triệt Nghị
quyết tháng 02/1962 của Bộ Chính trị và đề ra công tác cụ thể:
“Tích cực đẩy mạnh phong trào đấu tranh toàn diện, đều khắp
ở nông thôn, đô thị, kiên quyết chống lại và làm thất bại kế
hoạch gom dân lập ấp chiến lược của địch. Đây là nhiệm vụ
quan trọng nhất trong ba nhiệm vụ trọng tâm”1.
Tháng 7/1962, Bộ Chính trị điện gửi Trung ương Cục chỉ
đạo phương hướng đấu tranh: “vận động quần chúng đồng tâm,
nhất tề đứng lên phá tan âm mưu lập ấp chiến lược của địch,

1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên
niên Xứ ủy Nam bộ và Trung ương Cục miền Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002, tr.313.

117
cần tập trung tuyên truyền, giáo dục và xây dựng những nhân
tố, những người trung kiên trong tất cả mọi tầng lớp nhân dân
thành những nhân tố ngầm sát với quần chúng, làm tê liệt tai
mắt của địch trong ấp chiến lược, ra sức tranh thủ binh lính,
dân vệ của địch... không để cho địch được ổn định tình hình,
mặt khác trong đấu tranh ta phải biết che giấu lực lượng, biết
phối hợp hoạt động bên trong ấp chiến lược với bên ngoài. Việc
phá ấp chiến lược phải tạo được thế hợp pháp cho quần chúng,
phải bảo vệ được tài sản và tính mạng của Nhân dân”1.
Để phong trào đấu tranh phá ấp chiến lược có hiệu quả
ngày 08/8/1962, Trung ương Cục đề ra một số biện pháp thực
hiện, trong đó có một số biện pháp liên quan đến công tác dân
vận, cụ thể:
- Phải chuẩn bị tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, đảng viên,
tất cả phải nhất trí và hành động kiên quyết.
- Có thể kết hợp hai bộ phận, một bộ phận hoạt động từ
bên ngoài vào, một bộ phận đi sâu vào bên trong và có sự phối
hợp chặt chẽ của hai bộ phận cùng phá ấp chiến lược, tùy theo
mức độ và tương quan lực lượng.
- Có kế hoạch vận động, đi sát quần chúng, tìm ra những
khẩu hiệu và hình thức đấu tranh cho thích hợp, xây dựng
tinh thần đoàn kết, tương trợ, chống âm mưu chia rẽ, ly gián
của địch2...
Quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, của
Trung ương Cục, của Khu ủy, của Tỉnh ủy hai tỉnh Thủ Dầu
Một và Phước Thành, cán bộ, chiến sĩ dân vận, binh vận xuống
địa bàn, lấy ấp làm đơn vị tổ chức, xây dựng cơ sở, tuyên
truyền, vận động Nhân dân đấu tranh chống gom dân, lập ấp

1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên
niên Xứ ủy Nam bộ và Trung ương Cục miền Nam, Sđd, tr.321.
2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên
niên Xứ ủy Nam bộ và Trung ương Cục miền Nam, Sđd, tr.327.

118
chiến lược, chống bắt lính.
Ở xã, ấp vùng giải phóng, vùng tranh chấp, vùng tạm bị
chiếm, khi địch đang gom dân, hoặc trong ấp chiến lược, “cán
bộ, đảng viên, cơ sở mật kiên trì vận động, tuyên truyền chính
sách, chủ trương của Mặt trận, khơi gợi lòng yêu nước, làm cho
đồng bào hiểu rõ đế quốc Mỹ là kẻ xâm lược và bè lũ tay sai
bán nước của chúng giết hại đồng bào, gây đau thương tang
tóc cho Nhân dân miền Nam... làm cho quần chúng hiểu “cộng
sản” là những người đấu tranh bênh vực cho quyền lợi của
Nhân dân, chiến đấu giải phóng đất nước”1.
Cán bộ, đảng viên, cơ sở mật ở cơ sở kiên trì vận động thanh
niên tham gia thành lập các “tổ kết nghĩa”, “tổ tâm giao”, “tổ
chức chống bắt lính”, vận động thanh niên ở những vùng yếu,
vùng tranh chấp tham gia hoạt động yêu nước, xây dựng xã,
ấp chiến đấu, tham gia các đội du kích, đội tự vệ; bồi dưỡng
lý tưởng cách mạng, tinh thần sẵn sàng hy sinh, chịu đựng
gian khổ, hướng dẫn thanh niên yêu nước phấn đấu vào Đảng,
đoàn, xây dựng chi bộ, chi đoàn... Cấp ủy đã kịp thời uốn nắn
những nhận thức lệch lạc, khắc phục những hạn chế trước đây,
đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng.
Hầu hết các xã móc nối lại được cơ sở cũ, xây dựng được cơ sở
nòng cốt mới trong các ấp chiến lược; tổ chức đưa người hoặc
giáo dục, vận động xây dựng được một số cơ sở nội tuyến trong
hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền ở cơ sở. Nhờ liên hệ chặt chẽ,
thường xuyên với lực lượng bên trong và bên ngoài, ta nắm
được và tổ chức viết thư cảnh cáo những tên tay sai ác ôn, diệt
những tên tề điệp có nhiều nợ máu với Nhân dân, hỗ trợ cho
quần chúng nổi dậy đấu tranh chống phá ấp chiến lược, giành
quyền làm chủ2.

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.325.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.328, 329.

119
Công tác binh vận cũng hoạt động tốt, tổ chức được nhiều
cơ sở nội tuyến trong bộ máy dân sự, quân sự của chính quyền
Sài Gòn, cung cấp nhiều thông tin quan trọng về kế hoạch
gom dân, lập ấp chiến lược, kế hoạch hành quân càn quét của
địch. Xét thành tích phong trào binh vận, tinh thần quyết tâm
và sáng tạo của Đảng bộ địa phương và ngành binh vận ngày
10/9/1962, Thường vụ Trung ương Cục đã quyết định khen
thưởng tỉnh Thủ Dầu Một đạt danh hiệu loại II1. Tiếp đó, nhà
in Tiến Đạt được vận động đưa cơ sở in ấn vào đặt tại ấp Nhà
Mát, xã Long Nguyên thuộc vùng giải phóng Bắc Bến Cát2, đã
tạo điều kiện thuận lợi cho việc in ấn tài liệu phục vụ công tác
tuyên truyền, dân vận.
Tháng 5/1963, tại Hội nghị dân quân, du kích toàn Nam
Bộ lần thứ nhất tổ chức tại căn cứ Dương Minh Châu, trong
số các báo cáo chuyên đề của tỉnh Thủ Dầu Một, tỉnh Phước
Thành có “báo cáo kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng,
xây dựng cơ sở cách mạng ở vùng yếu của xã Bình Nhâm,
huyện Lái Thiêu”, “Báo cáo kinh nghiệm phong trào du kích
chiến tranh của xã Lai Uyên và công tác vận động quần chúng
xây dựng cơ sở kết hợp đánh phá dinh điền 3 của xã An Linh”3.
Dù chưa phải là những tham luận khoa học, tuy nhiên, những
báo cáo trên đã cung cấp những cứ liệu khoa học giúp Trung
ương Cục, các khu ủy, Tỉnh ủy... nghiên cứu, đề ra các phương
pháp, biện pháp chỉ đạo thực tiễn phù hợp hơn.
Đến cuối năm 1963, Khu ủy điều động bổ sung cho tỉnh
Thủ Dầu Một một số cán bộ quân sự, chính trị, trong đó đồng
chí Nguyễn Trọng Tâm, Phó ban Binh vận Khu ủy được điều
về làm Trưởng ban Binh vận tỉnh.

1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên
niên Xứ ủy Nam bộ và Trung ương Cục miền Nam, Sđd, tr.332.
2. Đầu năm 1963, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một chủ trương chia Bến Cát thành hai
huyện: Nam Bến Cát và Bắc Bến Cát.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd. tr.332.

120
Lực lượng dân vận, binh vận ở Thủ Dầu Một, Phước Thành
hoạt động mạnh, “vận động quần chúng đẩy mạnh việc móc
nối xây dựng cơ sở nội tuyến, hướng dẫn thanh niên trốn lính,
trốn quân dịch, vận động binh lính đào bỏ ngũ”... bằng nhiều
hình thức như viết thư, rải truyền đơn, dán khẩu hiệu... kêu
gọi con em “Từ bỏ chính quyền bù nhìn về với cách mạng”,
“Làm tay sai cho Mỹ - ngụy là đắc tội với đất nước”, “Nghỉ việc
thì được tha, ngoan cố sẽ bị cách mạng trừng trị”...
Bên ngoài, lực lượng vũ trang ba thứ quân của tỉnh, huyện,
xã làm nòng cốt cho Nhân dân các xã, ấp tấn công uy hiếp ấp
chiến lược.
Bên trong, lực lượng dân vận cùng các cơ sở bí mật vận
động quần chúng nổi lên đấu tranh đòi trở về làng xóm cũ làm
ăn; đòi quyền được đi sớm, về tối; đòi được cấp gạo cứu tế, cấp
thuốc chữa bệnh;...
Lực lượng binh vận vận động gia đình, người thân, dùng
loa, viết thư, rải truyền đơn, dán khẩu hiệu, căng băng rôn...
kêu gọi chồng con, anh em binh sĩ... trong bộ máy ngụy quân,
ngụy quyền bỏ súng, bỏ nhiệm sở trở về với gia đình.

Kết quả thu được rất khả quan, đơn cử như, “trong hai
năm 1963 - 1964, cơ sở binh vận xã An Sơn đã vận động được 3
lính Sư đoàn 5 bỏ ngũ, 20 thanh niên trốn lính, 30 thanh niên
khác trốn quân dịch, vận động nội tuyến đưa ra được 7 súng,
27 lựu đạn và hàng trăm viên đạn...”1. Ngoài ra, hoạt động của
lực lượng nông vận, phụ vận, thanh vận, binh vận... đã thúc
đẩy hội viên các hội nông dân, phụ nữ, thanh niên... phát triển
nhanh về số lượng, đồng thời thúc đẩy các hoạt động xây dựng
các đội tự vệ, du kích, cơ sở mật; xây dựng làng xã ấp chiến
đấu, xây dựng lõm chính trị, lõm căn cứ, tạo địa bàn đứng

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.340.

121
chân cho quân dân chính đảng các cấp tỉnh, huyện, đẩy mạnh
hoạt động cách mạng...

Đặc biệt là kết quả công tác vận động quần chúng đóng
đảm phụ kháng chiến, ủng hộ tài lực, vật lực, cho mượn tiền,
vàng, tham gia thu mua, xay xát, cho mượn xe trâu bò, ghe
thuyền, tổ chức vận chuyển lương thực, thực phẩm, nhu yếu
phẩm, thuốc men, dụng cụ y tế... cho kháng chiến. Ngoài ra,
nhiều gia đình còn ủng hộ, đóng góp cho cách mạng từ vài chục
đến cả trăm giạ lúa. “Trong năm 1965, chỉ riêng ngành hậu
cần của tỉnh Thủ Dầu Một đã thu mua được 163.398kg gạo,
26.028kg thực phẩm, 43.380kg các loại thuốc men và nhiều
hàng hóa nhu yếu phẩm khác như pin đèn, giấy đánh máy...”1.
Trong những năm 1963, 1964, bằng ba mũi giáp công kết
hợp: Quân sự, chính trị, binh vận, quân và dân Thủ Dầu Một,
Phước Thành đã lần lượt bóc, phá hệ thống ấp chiến lược của địch
trên địa bàn 2 tỉnh, trong đó có những ấp chiến lược nổi tiếng
vững chắc như Bà Đã, Dáng Hương, Phú Bình, Bến Tượng,...
cùng với chiến thắng Đường Long, Bến Cát, Dầu Tiếng, Đồng
Sổ, Đồng Chèo, Quý Hiệp... quân dân hai tỉnh Thủ Dầu Một,
Phước Thành đã lần lượt “phá banh, phá rã phần lớn hệ thống
ấp chiến lược của địch trên địa bàn của tỉnh, giải phóng gần
80% vùng nông thôn rộng lớn với trên 50.000 dân”2.

III. CÔNG TÁC DÂN VẬN GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN
LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ”CỦA MỸ (1965-1968)

1. Công tác dân vận góp phần đánh bại cuộc phản
công chiến lược lần thứ nhất của Mỹ (1965-1966)

Đến cuối năm 1964, lực lượng kháng chiến đã lớn mạnh,

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.379.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.372.

122
làm khuynh đảo cả chiến trường miền Nam Việt Nam; “quân
đội Việt Nam Cộng hòa không đủ sức đương đầu với Việt cộng,
tương quan lực lượng ở mức báo động, quyền chủ động đã về
tay cộng sản”1. Đứng trước thực trạng đó, trong thông điệp liên
bang đầu năm 1965, Tổng thống Johnson buộc phải tuyên bố:
“Mỹ phải có mặt ở Nam Việt Nam vì nước bạn yêu cầu, vì phải
giữ cam kết mười năm trước đây, vì an ninh của bản thân nước
Mỹ và hòa bình ở châu Á”2.
Ngày 17/7/1965, Tổng thống Johnson chính thức cho phép
quân đội Mỹ áp dụng Chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa
lực lượng quân viễn chinh Mỹ và quân đồng minh của Mỹ vào
chiến trường miền Nam Việt Nam với bản kế hoạch “ba giai
đoạn”. Giai đoạn 1 (từ tháng 7 đến tháng 12/1965): Đưa nhanh
lực lượng quân Mỹ, quân chư hầu hành quân phản công chiến
lược. Giai đoạn 2 (từ tháng 01/1966 đến tháng 6/1966): Hành
quân “Tìm diệt” quân Giải phóng, phá chiến tranh du kích,
giành quyền chủ động trên chiến trường, hỗ trợ cho chương
trình “bình định”. Giai đoạn 3 (từ tháng 7/1966 đến cuối năm
1967): Tiến công tiêu diệt những đơn vị quân Giải phóng và
những căn cứ du kích còn lại, tiêu diệt cơ quan lãnh đạo cuộc
kháng chiến ở miền Nam, hoàn tất chương trình “bình định”.
Tại Thủ Dầu Một và Phước Thành, Mỹ - ngụy bố trí dày
đặc hệ thống đồn bót, lực lượng chủ lực, bảo an, dân vệ,... thực
hiện các chiến dịch ném bom rải thảm, phát quang, càn quét,
tìm diệt quân Giải phóng, đẩy mạnh công tác gom dân, củng
cố ấp chiến lược, lập ấp tân sinh, xây dựng phòng tuyến quân
sự bảo vệ các căn cứ, kho tàng, sân bay và thủ phủ Sài Gòn.
Trước sự leo thang chiến tranh của Mỹ, Trung ương Đảng
tổ chức Hội nghị lần thứ 11 (tháng 3/1965) và lần thứ 12

1. Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ -
ngụy trên chiến trường B2, tlđd, tr.131.
2. Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ -
ngụy trên chiến trường B2, tlđd, tr.133.

123
(tháng 12/1965) nhận định tình hình và bàn phương hướng,
chiến lược, sách lược cách mạng, “kiên quyết đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống
nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới
thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”1...
Trước đó, tháng 01/1965, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ
ba quán triệt nhiệm vụ: “Tận dụng thời cơ chiến lược, phát
động mạnh mẽ cao trào kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bao
gồm ba nội dung: Quân sự, chính trị, binh vận, kiên quyết
đánh tan âm mưu chiến lược mới của đế quốc Mỹ, đánh tiêu
diệt, làm tan rã lớn lực lượng và hậu phương của ngụy quân,
ngụy quyền, tích cực bao vây, kiềm chế, tiêu hao, tiêu diệt
quân Mỹ và chư hầu, làm thay đổi và tạo ra bước ngoặt trong
so sánh lực lượng giữa ta và địch”2.
Ngày 15/01/1965, cán bộ dân vận tỉnh được dự lớp tập huấn
cán bộ toàn miền do Hội nghị Trung ương Cục tổ chức nhằm
quán triệt sâu sắc bốn quan điểm cơ bản của Đảng: Quan điểm
cách mạng không ngừng; quan điểm bạo lực cách mạng; quan
điểm đánh lâu dài; quan điểm cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, phải dựa vào quần chúng nhân dân để tiến hành.
Trung ương Cục nhấn mạnh: “Muốn thắng lợi, Đảng bộ
phải tin tưởng vào tinh thần, khả năng cách mạng vô tận của
quần chúng. Phải thật sự hòa mình với quần chúng, hiểu rõ
tâm tư, nguyện vọng của đồng bào, chiến sĩ; tổ chức họ thành
lực lượng cách mạng liên tục tiến công địch ở cả nông thôn và
thành thị...”3.
Ngày 09/01/1965, tại Thủ Dầu Một, Tỉnh ủy tổ chức Hội

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.634.
2. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 3 tháng 01/1965, tài liệu lưu trữ
lưu tại kho Lưu trữ Viện Lịch sử Đảng.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên
niên Xứ ủy Nam bộ và Trung ương Cục miền Nam, Sđd, tr.477.

124
nghị tổng kết phong trào cách mạng của tỉnh giai đoạn 1961-
1964, trong nội dung có đề cập và đánh giá cao công tác “tuyên
truyền, vận động quần chúng, xây dựng phát triển các đoàn
thể...”1. Hội nghị đồng thời bầu Ban Chấp hành Đảng bộ mới
của tỉnh gồm 17 đồng chí2, trong đó đồng chí Nguyễn Trọng
Tâm (Bảy Tâm) được bầu làm Ủy viên Thường vụ Trưởng ban
Binh vận; Nguyễn Thị Liên (Nguyễn Thị Xưởng, Tám Liên)
được bầu làm Trưởng Ban Dân vận tỉnh.
Ngày 27/02/1965, Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh tổ chức
Đại hội lần thứ nhất đánh giá hoạt động trong giai đoạn 1961-
1964, đồng thời kêu gọi các giới đồng bào công, nông, thanh,
phụ,... trong tỉnh đoàn kết tham gia kháng chiến.
Từ sau Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ và Đại hội Mặt
trận Dân tộc giải phóng tỉnh Thủ Dầu Một, các tổ chức công
vận, nông vận, thanh vận, phụ vận,... được kiện toàn, cụ thể:
Công vận, đồng chí Đoàn Văn Dân (Sáu Dân, Tỉnh ủy viên)
được bầu làm Trưởng ban. Vốn là cán bộ công vận dày dạn
kinh nghiệm hoạt động trong các đồn điền cao su, đồng chí
Đoàn Văn Dân đã tập hợp được nhiều thành viên “như: đồng
chí Trung Hiền phụ trách sở cao su Cà Na (Long Nguyên);
đồng chí Ba Lâm, phụ trách Công đoàn huyện Lái Thiêu;
đồng chí Đặng Văn Phụng, Huỳnh Thị Kim Oanh, phụ trách
Công đoàn đồn điền cao su Dầu Tiếng; Huỳnh Văn Tấn, phụ
trách Công đoàn thị xã Thủ Dầu Một; Nguyễn Văn Minh (Sáu
Minh), phụ trách Công đoàn sở cao su Lai Khê...”3.
Tháng 6/1966, đồng chí Huỳnh Văn Tấn được Tỉnh ủy
phân công làm Phó ban Công vận tỉnh.

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.371.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương
(1930-1975), Sđd, tr.402-403.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.375.

125
Thanh vận, đến đầu năm 1965 đã xây dựng được trên 100
chi đoàn cơ sở, toàn tỉnh với khoảng 3.000 đoàn viên. Đặc biệt
đoàn viên của các chi đoàn cơ sở đều hưởng ứng phong trào
“Năm xung phong”1, gồm: (1) Xung phong tiêu diệt thật nhiều
sinh lực địch; (2) Xung phong tòng quân và tham gia chính trị;
(3) Xung phong đi dân công và thanh niên xung phong phục vụ
tiền tuyến; (4) Xung phong đấu tranh chính trị và chống bắt
lính; (5) Xung phong sản xuất nông nghiệp trong Nông hội.
Phụ vận ngày 06/3/1965, Trung ương Cục ban hành Nghị
quyết về công tác phụ vận, đẩy mạnh phong trào phụ nữ tham
gia chống Mỹ là: “Đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp phụ nữ trong
mặt trận liên hiệp rộng rãi, trên cơ sở phụ nữ công nông, cùng
toàn dân đẩy mạnh kháng chiến tiến lên nhằm thực hiện
nhiệm vụ chính trị và bốn mục tiêu cách mạng năm 1965 do
Đảng đề ra2, quyết tâm thực hiện khẩu hiệu: “Tất cả để đánh
giặc, tất cả để thắng giặc” trước mắt ra sức động viên toàn thể
chị em đẩy mạnh ba phong trào: đấu tranh chính trị, xây dựng
gia đình vẻ vang, làm tốt công tác “Hội mẹ chiến sĩ” để góp
phần giành một bước thắng lợi quyết định, tiến tới hoàn thành
cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và từng
bước giải phóng phụ nữ”3. Tại Thủ Dầu Một, tháng 4-1965,
Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh lần thứ II được tổ chức. Đại hội
đã tổng kết, đánh giá công tác phụ nữ tỉnh giai đoạn 1960-
1964 đồng thời bầu Ban Chấp hành nhiệm kỳ mới gồm 15 ủy
viên, trong đó đồng chí Phạm Thị Anh (Bảy Anh) được bầu lại
làm Hội trưởng; các chị Nguyễn Thị Xưởng (tám Liên), Lê Thị

1. Tại Đại hội Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng lần thứ I họp từ ngày 17
đến ngày 26/3/1965, phong trào “Năm xung phong” do Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
thay mặt Đảng trao nhiệm vụ cho Đại hội phát động.
2. Bốn mục tiêu: Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh; làm tốt công tác
đô thị; đẩy mạnh phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng, tiến lên làm chủ thực
sự nông thôn; xây dựng căn cứ vùng núi lớn mạnh.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.700.

126
Thao (tư Thao) làm Hội phó1.
Binh vận, do đồng chí Trần Quốc Ân (Ba Ân, Phó Bí thư Tỉnh
ủy) làm Trưởng ban, ngoài ra Tỉnh ủy còn được tăng cường cán
bộ binh vận chuyên trách, cùng các đội vũ trang tuyên truyền
cho các huyện, xã. Hoạt động binh vận theo đúng chủ trương:
Kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận nhằm
tiêu diệt, tiêu hao, gây tư tưởng phản chiến, binh biến, khởi
nghĩa trong ngụy quân, ngụy quyền; đồng thời tiến hành xây
dựng cơ sở nội tuyến, đặc biệt là trong các đơn vị quan trọng, các
vị trí chiến lược, sẵn sàng phục vụ cho cách mạng.
Công tác binh vận cụ thể trong năm 1965 là: Tuyên truyền
tư tưởng cách mạng trong binh lính địch; kết hợp chặt chẽ đấu
tranh chính trị, quân sự, binh vận, tạo ra ba mũi giáp công sắc
bén, tiêu diệt và làm tan rã kẻ thù; tích cực xây dựng cơ sở nội
tuyến; đẩy mạnh công tác vận động sĩ quan2.
Nông vận, thực hiện chủ trương của Trung ương Cục phát
động nông dân vùng giải phóng đoàn kết, sản xuất, chống Mỹ,
cứu nước, cuộc vận động đã được tiến hành với nhiều hình
thức phong phú như: “Tổ chức cho nông dân học tập thư của
Đảng, ôn nghèo kể khổ, tính sổ tội ác của địch và liên hệ bản
thân, qua đó động viên nhân dân thực hiện những nhiệm vụ
cách mạng”.
Kết quả khoảng 90-95% nông dân vùng giải phóng đã
tham gia hoạt động học tập chính trị nâng cao trình độ giác
ngộ giai cấp, đoàn kết nội bộ nông dân. Số hội viên của các tổ
chức nông hội tăng nhanh, các hoạt động tương trợ trong sản
xuất và đời sống diễn ra phong phú như phong trào đẩy mạnh
sản xuất tự túc, tòng quân giết giặc, đóng góp sức người, sức

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh Nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr.376.
2. Chỉ thị về công tác binh vận năm 1965 của Trung ương Cục, tài liệu lưu trữ
lưu tại kho Lưu trữ Viện Lịch sử Đảng

127
của cho kháng chiến1. Đặc biệt, ngày 05/8/1965, Trung ương
Cục ra Nghị quyết về công tác nông thôn, đồng thời chủ trương
đẩy mạnh củng cố Ban Nông vận, Thanh vận, Phụ vận... để
đáp ứng yêu cầu to lớn của cách mạng.
Trên khắp địa bàn của tỉnh Thủ Dầu Một, phong trào
chuẩn bị thế và lực để đánh bại cuộc phản công chiến lược
mùa khô 1965-1966 của Mỹ - ngụy diễn ra sôi nổi. Trong năm
1965, hàng trăm nam, nữ thanh niên ở các huyện, thị trong
tỉnh hăng hái tình nguyện tòng quân tham gia chiến đấu,
phục vụ chiến đấu. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1965, tỉnh Thủ
Dầu Một đã có hơn 400 nam, nữ thanh niên tình nguyện thoát
ly tham gia cách mạng2.
Nhân dân vùng giải phóng, vùng tranh chấp không chỉ
tham gia đóng đảm phụ giải phóng mà còn tổ chức giúp Ban
Kinh tài, Hội đồng cung cấp tỉnh, huyện, thị, xã, thu mua, vận
chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men... về căn cứ.

“Tại xã Phú An, trong năm 1965, có nhiều gia đình đóng
góp cho cách mạng từ vài chục đến cả trăm giạ lúa, như gia
đình bà Nguyễn Thị Chừng (ấp Phú Thuận) đã cho cách mạng
mượn 55 giạ lúa; gia đình ông Nguyễn Văn Đoàn (ấp Phú
Thuận) 60 giạ lúa; gia đình bà Nguyễn Thị Ngân 200 giạ lúa...
Trong năm 1965, Nhân dân Thanh Tuyền đã đóng góp, ủng
hộ và bán cho ngành hậu cần của huyện, tỉnh, Đoàn hậu cần
83 của miền hơn 100 tấn lương thực. Một số gia đình cơ sở
cách mạng ở Xóm Lẫm, dốc Lâm Vồ (xã Thanh Tuyền) được
Đoàn hậu cần 83 của miền giúp đỡ để mua máy xay xát lúa
cho cách mạng. Bộ đội, du kích, khi cần ghe xuồng vận chuyển
hàng hóa lúc nào cũng được sự giúp đỡ tận tình của Nhân dân

1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên
niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam, Sđd, tr. 495.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr. 381.

128
các xã dọc phía tây sông Đồng Nai thuộc huyện Tân Uyên,
các xã phía đông sông Sài Gòn thuộc huyện Lái Thiêu, Châu
Thành, Bến Cát, Dầu Tiếng. Tại các xã Hòa Lợi, Chánh Phú
Hòa, Phú Chánh, Tân Hiệp, Vĩnh Tân, Định Hòa... đồng bào
đã bán hết lúa gạo của gia đình làm ra cho các đơn vị hậu cần
của tỉnh, của Quân khu, đồng bào ra vùng địch kiểm soát mua
gạo khác về ăn và bán tiếp cho cách mạng. Trong năm 1965,
chỉ riêng ngành hậu cần của tỉnh Thủ Dầu Một đã thu mua
được 163.398kg gạo, 26.028kg thực phẩm, 43.380kg các loại
thuốc men và nhiều hàng hóa nhu yếu phẩm khác như pin
đèn, giấy đánh máy... Nhiều nơi trong tỉnh, đồng bào bán cả
nữ trang lấy tiền cho ngành hậu cần của tỉnh mượn để mua
lương thực, thực phẩm, thuốc men, cho mượn ghe thuyền để
vận chuyển lương thực. Một số gia đình binh sĩ được ta vận
động đã trở thành cơ sở thu mua, vận chuyển lương thực, thực
phẩm, thuốc men... bán cho cách mạng”1.

Trong công tác binh vận, “nhân dân các xã Khánh Vân,
Tân Hóa, Vĩnh Tân, Tân Bình... đã vận động được 207 binh
lính Trung đoàn 48, Sư đoàn 18 bộ binh ngụy đào rã ngũ”. “Tại
Uyên Hưng, Phước Vĩnh, Dầu Tiếng, cơ sở binh vận rải nhiều
truyền đơn trong các đồn bót địch với nội dung: “Mỹ thua về
nước, anh em binh lính thua về đâu?”. “Tại Bến Cát, cơ sở binh
vận tổ chức rải truyền đơn bằng tiếng Anh vào căn cứ Lai Khê,
tác động tinh thần binh lính Mỹ, một số tên chống lệnh hành
quân (ngày 24/4/1966) không lên máy bay đi càn ở Dầu Tiếng”.
“Tại Phú Giáo, Ban Binh vận tỉnh Phước Thành tổ chức cơ sở,
vận động tranh thủ được cả tên quận trưởng (Nguyễn Mạnh
Cường) và 4 tên tề xã, 3 tên tề ấp, 24 phòng vệ dân sự, chấp
nhận đề nghị của cách mạng nới lỏng việc đi lại, làm ăn của
quần chúng trong vùng địch kiểm soát”. “Ở huyện Dĩ An, cơ sở

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945 - 1975), Sđd, tr. 378, 379.

129
mật xã Tân Đông Hiệp vận động được 11 lính dân vệ bỏ ngũ,
giáo dục và giúp đỡ hơn 20 thanh niên bị bắt lính trốn thoát
và đi theo cách mạng...”.
Quán triệt tư tưởng “luôn luôn giữ được thế tấn công địch
mạnh và tự vệ mình tốt”1, quân, dân, chính, đảng hai tỉnh Thủ
Dầu Một và Phước Thành với tinh thần chủ động, sáng tạo, đã
góp phần bẻ gãy các cuộc hành quân “Hùng Vương 9”, “Hòn đá
lăn” - Rolling Stone, “Con dao lửa”, “Thành phố bạc” - Silver
city, Houston,... trong kế hoạch phản công mùa khô lần thứ
nhất (1965 - 1966) của Mỹ - ngụy. Đặc biệt, Chiến thắng Bàu
Bàng - Dầu Tiếng, Lai Khê, Bông Trang - Nhà Đỏ... không
chỉ làm nức lòng quân và dân cả nước, mà còn là cơ sở mang
tính nền tảng để tạo nên phong trào “Bám thắt lưng địch mà
đánh”, “Tìm Mỹ mà đánh”, “Tìm ngụy mà diệt” và góp phần
làm nên danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”, “Dũng sĩ diệt ngụy”,
“Dũng sĩ diệt cơ giới”, “Dũng sĩ diệt máy bay”,... trên chiến
trường Nam Bộ.
Sau thất bại nặng nề trong cuộc phản công mùa khô lần
thứ nhất, Mỹ tiếp tục mở cuộc phản công chiến lược mùa khô
lần thứ hai (từ tháng 10/1966 đến giữa năm 1967) bằng kế
hoạch “hai gọng kìm” tìm diệt và bình định.
Thực hành phản công mùa khô lần thứ hai, trên địa bàn
miền Đông Nam Bộ, Mỹ -ngụy mở nhiều cuộc hành quân
lớn, điển hình như: “Shehandcach”, “Attelboro”, “Cedar fall”,
“Gardsen”, “Biqsfring, “Tucson”, “Junction City”...

2. Công tác dân vận góp phần đánh bại cuộc phản
công chiến lược mùa khô lần thứ hai (1966-1967) và cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968

Trước sự leo thang chiến tranh của Mỹ, tháng 3/1966, Hội

1. Tài liệu số 1493, lưu tại Phòng Tư liệu - Ban Tổng kết chiến tranh B2.

130
nghị Trung ương Cục lần thứ tư được tổ chức đã xác định:
“Thắng lợi của ta, nhất là việc bẻ gãy đợt đầu chiến dịch phản
công mùa khô của địch, tuy mới chỉ là bước đầu nhưng đã mở
ra triển vọng là chẳng những ta đã có khả năng thắng địch
trong “chiến tranh cục bộ”, vừa qua ta đã đánh với gần 70 vạn
quân Mỹ - ngụy và giành thắng lợi lớn, ta đã mạnh hơn trước
nhiều thì nay ta có đủ cơ sở để tin tưởng rằng ta có thể đánh
từ 80 vạn đến 1 triệu quân Mỹ - ngụy và vẫn giành thắng lợi
lớn. Đó là kết luận quan trọng nhất, cơ bản nhất của tình hình
năm qua”1.
Hội nghị Trung ương Cục lần thứ tư đồng thời cũng chỉ ra
những nhược điểm đã hạn chế thắng lợi của ta, trong đó chỉ rõ
“Công tác dân vận, hiện là khâu kém nhất, không được chú ý
đúng vị trí của nó”2.
Ngày 25/9/1966, Thường vụ Trung ương Cục ra Chỉ thị về
công tác binh vận, chủ trương: coi trọng cả ngụy vận lẫn Mỹ
vận.
Về ngụy vận:
“Ra sức làm tan rã một bộ phận quan trọng quân ngụy,
thực hiện tỷ lệ đánh một ra một, nâng lên một rưỡi, chiếm 50%
chủ lực.
Vận động cách mạng mạnh mẽ trong binh sĩ, thúc đẩy
hành động tiêu cực chiến đấu thật rộng rãi, gây một phong
trào đấu tranh phản chiến từ lẻ tẻ đến tập thể, phát triển hơn
nữa hành động đồng tình ủng hộ phong trào đấu tranh của
quần chúng, lôi kéo rộng rãi binh sĩ cùng liên hiệp với nhân
dân đấu tranh cho quyền lợi dân sinh, dân chủ và quyền dân
tộc, chống lệ thuộc Mỹ, tổ chức lãnh đạo nhiều đơn vị ngụy
đứng lên khởi nghĩa, binh biến

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.27, tr.369.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.27, tr.367.

131
Tranh thủ vận dụng sách lược với những đơn vị đồn bốt
ngụy đang tiêu cực, cầu an hòa hoãn, nhằm cô lập cao độ quân
Mỹ và bọn tay sai gian ác, gây nên một trạng thái tê liệt trong
nhiều đơn vị”1.
Về Mỹ vận:
“Khoét sâu tinh thần bạc nhược trong rộng rãi trong quân
đội Mỹ và chư hầu, làm cho họ hiểu rõ cuộc kháng chiến cứu
nước của nhân dân ta là chính nghĩa, chiến tranh xâm lược
tàn bạo của đế quốc Mỹ là phi nghĩa, kích động tinh thần phản
chiến ngày càng rộng trong binh sĩ Mỹ, tuyên truyền sâu rộng
chính sách khoan hồng nhân đạo của dân tộc ta, tạo cho chúng
tư thế sẵn sàng đầu hàng khi giáp trận, phát triển hình thức
đào ngũ, bỏ ngũ chạy về đô thị.
Sách lược trong công tác tuyên truyền vận động quân Mỹ
là: vận động chủ yếu nhằm vào binh lính, chú ý lính da đen và
quân dịch... Trong số tướng lĩnh, tập trung vào bọn cực đoan
hiếu chiến”2.
Triển khai Chỉ thị về công tác binh vận, Tỉnh ủy Thủ Dầu
Một quán triệt 5 nội dung của Thường vụ Trung ương Cục:
“Nắm chắc ba mũi giáp công, quyết tâm đưa mũi binh vận
lên cân xứng với khả năng và yêu cầu chiến lược của công tác
binh vận.
Nắm vững, kiên trì, quán triệt quan điểm vận động cách
mạng quần chúng binh sĩ cho chi bộ, đảng viên, dân quân du
kích và cho đoàn thể quần chúng.
Công tác binh vận phải quy định thành một trong những
nhiệm vụ cơ bản của đoàn thể quần chúng, từ đó làm nòng cốt

1. Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Cục ra về công tác binh vận năm 1966-
1967, ban hành ngày 25/9/1966, lưu tại Kho lưu trữ Viện Lịch sử Đảng.
2. Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Cục ra về công tác binh vận năm 1966-
1967, ban hành ngày 25/9/1966, lưu tại Kho lưu trữ Viện Lịch sử Đảng.

132
cho phong trào quần chúng và gia đình binh sĩ, tấn công binh
vận và chính trị mạnh mẽ, liên tục.
Để bảo đảm có một phong trào quần chúng làm binh vận
rộng lớn phải giải quyết khâu chi bộ làm binh vận thật tốt.
Kết hợp giữa quân sự và binh vận phải được tăng cường
chặt chẽ hơn, quyết tâm khắc phục các biểu hiện nghi kỵ lẫn
nhau trong kết hợp cơ sở nội tuyến diệt địch”1.
Trong những năm 1966, 1967, cùng với phong trào đấu
tranh quân sự, chính trị diễn ra mạnh mẽ ở các địa phương
Lái Thiêu, Bến Cát, Dầu Tiếng, Phú Giáo Tân Uyên, thị xã
Thủ Dầu Một, Dĩ An... công tác binh vận cũng diễn ra mạnh
mẽ. Điển hình là phong trào đấu tranh chống lệnh tổng động
viên của chính quyền Sài Gòn2; phong trào đấu tranh kêu gọi
chồng con bỏ ngũ trở về của các gia đình binh sĩ; Phong trào
kêu gọi binh sĩ, thanh niên trốn ra vùng giải phóng, gia nhập
các lực lượng vũ trang cách mạng3. Tại Lái Thiêu, “hơn 170
gia đình binh sĩ vận động được 99 binh sĩ rã ngũ, bỏ ngũ. Tại
huyện Bến Cát có hơn 200 gia đình binh sĩ cùng cơ sở binh
vận đã vận động 375 binh sĩ, trong đó có 66 người bỏ ngũ (có 2
binh sĩ mang 2 súng, 6 lựu đạn về với cách mạng). Tại huyện
Châu Thành, quần chúng vận động được 67 binh sĩ đào bỏ
ngũ, mang về cho cách mạng 800 viên đạn... Tại huyện Tân
Uyên - Phú Giáo, có hàng trăm chị em là người thân gia đình
binh sĩ kéo đến quận lỵ đấu tranh đòi con em về nhà làm ăn.
Ngày 19/5/1967, cả trăm lính Mỹ thuộc Lữ đoàn 1 Sư đoàn
1 bộ binh đóng tại căn cứ Lai Khê chống lệnh đi càn, đòi hồi

1. Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Cục ra về công tác binh vận năm 1966-
1967, ban hành ngày 25/9/1966, tài liệu lưu trữ lưu tại kho Lưu trữ Viện Lịch sử
Đảng.
2. Ngày 07/11/1967, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị: “Kiên
quyết chống lệnh bắt lính và lệnh động viên của Mỹ-Thiệu-Kỳ, đẩy mạnh phong trào
đấu tranh ở các đô thị và vùng nông thôn địch kiểm soát”.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên
niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam, Sđd, tr. 600, 601.

133
hương. Đó là kết quả của những tờ truyền đơn bằng tiếng Anh
do cơ sở Ban Binh vận tỉnh, huyện Bến Cát và cán bộ, chiến sĩ
đội chốt Lai Khê thực hiện trong suốt nhiều tháng liền”1.
“Hầu hết các cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng các
địa phương trong tỉnh đều có sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy
chi bộ, hướng dẫn của cán bộ, đảng viên mật, lộ và được tổ
chức chặt chẽ. Mỗi cuộc đấu tranh, nhất là những cuộc đấu
tranh lên quận, tỉnh, đều tổ chức hai bộ phận: bộ phận trực
diện đấu tranh, bộ phận dự phòng tiếp ứng khi địch đàn áp
khủng bố. Nhiều gia đình binh sĩ, nhất là những gia đình binh
sĩ có quyền lợi trực tiếp bị địch xâm hại được cán bộ binh vận
(hoạt động mật) vận động làm ngòi nổ, tăng thêm áp lực với
địch, buộc chúng phải nhượng bộ, vừa hạn chế được tổn thất
cho phong trào, qua đó làm cho quần chúng thêm tin tưởng
vào đấu tranh chính trị”2.
Trên cơ sở thắng lợi của chiến dịch mùa khô 1965-1966,
1966-1967, tháng 12/1967, Bộ Chính trị đã quyết định thực
hiện cuộc Tổng công kích, tổng khởi nghĩa nhằm “chuyển cuộc
đấu tranh cách mạng miền Nam của ta sang một thời kỳ mới,
thời kỳ giành thắng lợi quyết định”3.
Trên chiến trường Đông Nam Bộ, ngày 25/10/1967, Quân
khu miền Đông Nam Bộ (T1) và Quân khu Sài Gòn - Gia Định
(T4) giải thể để thành lập “khu trọng điểm” các phân khu
1,2,3,4,5. Theo đó, tỉnh Thủ Dầu Một được chia tách và phân
bổ cho 2 phân khu: Phân khu 1 và Phân khu 5, trong đó:
Phân khu 1 gồm: Bến Cát, Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một); Củ
Chi, Hóc Môn, Gò Vấp (Sài Gòn - Gia Định); một phần Trảng

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945-1975), Sđd, tr. 471, 472.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945-1975), Sđd, tr. 473.
3. Nghị quyết Bộ Chính trị Trung ương Đảng tháng 12/1967, Cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, Nxb. Hà Nội, 1988, tr.117.

134
Bàng (Tây Ninh).
Phân khu 5 gồm: Dĩ An, Lái Thiêu, thị xã Thủ Dầu Một,
Châu Thành, Phú Giáo, Tân Uyên (Thủ Dầu Một); Thủ Đức
(Sài Gòn - Gia Định).
Ngày 25/12/1967, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam
ra Nghị quyết về tăng cường công tác dân vận, bảo đảm giành
thắng lợi to lớn hơn nữa, quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược
trong mọi tình huống chiến tranh.
“Nghị quyết đề ra nhiệm vụ trước mắt của công tác dân
vận là phát huy cao độ truyền thống đoàn kết, đấu tranh anh
dũng, lao động cần cù của nhân dân, tổ chức động viên quần
chúng đẩy mạnh mọi mặt kháng chiến, tạo nên sức mạnh tổng
hợp của chiến tranh nhân dân, tiến lên đánh bại chiến tranh
xâm lược của đế quốc Mỹ. Để thực hiện quyết tâm chiến lược
của Đảng, phải gấp rút phát triển và củng cố lực lượng cách
mạng trên khắp các vùng nhất là vùng yếu, đô thị. Khẩu hiệu
trung tâm phát động quần chúng là: “Tất cả cho tiền tuyến,
tất cả để chiến thắng, giành chính quyền về tay nhân dân”.
Phấn đấu động viên được 70% thanh niên, 50% nông dân, 30%
phụ nữ cầm súng đánh giặc, từ 60-75% số quần chúng tham
gia đấu tranh chính trị, binh vận, sản xuất tiết kiệm, phục vụ
tiền tuyến (ở vùng giải phóng) và 30-50% số quần chúng tham
gia chiến đấu trong các đoàn thể cách mạng (ở vùng địch kiểm
soát).
Các đoàn thể quần chúng phải được tăng cường cả về chính
trị, tư tưỏng và tổ chức để làm nòng cốt cho phong trào đấu
tranh. Mục tiêu phấn đấu của công tác dân vận toàn Miền từ
ngày 20/12/1967 đến ngày 30/5/1968 là mở đợt vận động mang
tên “Đồng khởi” phấn đấu đưa 60-70% số quần chúng vào các
đoàn thể. Mỗi đoàn thể ra sức đẩy mạnh các phong trào cách
mạng của mình như phong trào thanh niên 5 xung phong, mỗi
đoàn viên là một tay súng giỏi, phụ nữ 5 tốt... Cùng với việc
135
củng cố các đoàn thể, ra sức củng cố và mở rộng Mặt trận dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trên cơ sở khối liên minh
công nông từ Trung ương xuống đến địa phương. Tích cực bồi
dưỡng đào tạo cán bộ dân vận.
Các cấp ủy Đảng cần quán triệt công tác dân vận là gốc,
bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng ở mọi lúc mọi nơi”1.
Về công tác binh vận, “tấn công mạnh vào tư tưởng ngụy
quân, ngụy quyền, tuyên truyền giác ngộ ý thức dân tộc, giai
cấp cho họ với khẩu hiệu “công nông binh liên hiệp khởi nghĩa,
giành chính quyền về tay nhân dân”. Xây dựng các “vành đai
binh vận”, “mạng lưới binh vận”, “đội ngũ nòng cốt binh vận”
trong đó phụ nữ là lực lượng xung kích.
Phát động phong trào “sạch làng, sạch ấp”, đẩy mạnh tấn
công binh vận qua các gia đình binh sĩ ngụy.
Xây dựng lực lượng nòng cốt của ta trong hàng ngũ địch,
vừa phục vụ nhiệm vụ trước mắt, vừa phục vụ yêu cầu lâu dài.
Chú ý vận động hàng ngũ sĩ quan ngụy và nhân viên ngụy
quyền vì vị trí vai trò của tầng lớp này rất lớn.
Vận động quân Mỹ và chư hầu với mục đích trung lập hóa,
án binh bất động các đơn vị này. Khẩu hiệu vận động là “phản
đối chiến tranh...”, “đòi hoà bình, đòi rút quân Mỹ về nước”,
“không can thiệp vào nội bộ Việt Nam”2.
Tính đến cuối năm 1967, trên địa bàn tỉnh Thủ Dầu Một đã
có “vùng giải phóng các xã bắc Châu Thành (Hòa Lợi, Chánh
Phú Hòa, Vĩnh Tân, Tân Hiệp) và một vùng rộng lớn Chiến
khu Đ với khoảng 15.000 dân. Hầu hết các xã có chi bộ, du
kích xã, ấp, tập hợp đông đảo quần chúng tham gia trong các

1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên
niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam, Sđd, tr. 612, 613.
2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên
niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam, Sđd, tr. 619, 620.

136
đoàn thể thanh niên, phụ nữ, nông hội... Ở huyện Châu Thành
có 274 đảng viên; Tân Uyên (bao gồm cả Phú Giáo chưa tách
ra) có 191 đảng viên; Lái Thiêu có 94 đảng viên (có 25 đảng
viên mật). Tại thị xã Thủ Dầu Một, đảng viên mật có 38 đồng
chí, riêng 5 ấp nằm phía tây nam thị xã ta có 1 chi bộ gồm 20
đảng viên (12 lộ, 8 mật), 1 chi đoàn; 8 cán bộ đoàn thể, 1 tổ du
kích và hơn 200 quần chúng tham gia trong tổ chức phụ nữ,
nông hội... Ban Chấp hành Đảng bộ các huyện thị được tăng
cường và củng cố, trung bình từ 9 đến 11 đồng chí, nhiều nhất
là Tân Uyên có 17 đồng chí. Các ban ngành, đoàn thể của tỉnh,
huyện, thị, tương đối hoàn chỉnh về tổ chức và bố trí cán bộ.
Trong toàn Phân khu 5 (không tính huyện Dầu Tiếng, Bến
Cát thuộc Phân khu 1), có hơn 900 đoàn viên tham gia sinh
hoạt ở các chi đoàn cơ sở ở xã, ấp và trên 9.000 hội viên các
đoàn thể phụ nữ, nông hội, công đoàn...”1.
Các tổ chức nông vận, công vận, thanh vận, phụ vận, binh
vận, trí vận, giáo vận... hoạt động mạnh mẽ ở vùng giải phóng,
vùng tranh chấp và cả trong vùng tạm bị chiếm. Các tổ chức
cách mạng ở các huyện thị, xã, ấp, đều khẩn trương kiện toàn
lực lượng. Nhiều cán bộ đảng, đoàn thể được tăng cường cho
các mũi đấu tranh chính trị dân vận, binh vận. Quân - dân -
chính - đảng thực hiện tốt nhiệm vụ hậu cần khắp ba vùng
để bảo đảm đủ lương thực, thực phẩm phục vụ chiến đấu với
phong trào thi đua giành các danh hiệu “dũng sĩ sản xuất”,
“lao động nông nghiệp tiên tiến chống Mỹ”, “chiến sĩ nông
nghiệp chống Mỹ”, với khẩu hiệu “thừa thắng xông lên, sản
xuất vượt bậc, bảo đảm đời sống, tất cả cho tiền tuyến, tất cả
để chiến thắng”2. Công tác dân vận được đặt ra “làm cho các
cấp uỷ Đảng, tất cả đảng viên nhận rõ việc đóng góp, thu tài

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945-1975), Sđd, tr. 490.
2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên
niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam, Sđd, tr. 602.

137
chính lần này là một công tác vận động cách mạng rất khẩn
trương, cấp bách, rộng khắp, có tác dụng to lớn và trực tiếp góp
phần vào việc thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, làm
cho hàng triệu quần chúng ở ba vùng hăng hái tham gia đóng
góp sức người, sức của với tinh thần sôi sục cách mạng... Do đó
phải hết sức coi trọng khâu tuyên truyền, động viên, giáo dục,
kiên trì, phát động tư tưởng để quần chúng tự nguyện đóng
góp, không nên dùng mệnh lệnh, gò ép quần chúng hoặc thu
theo nguyên tắc tài chính một cách đơn thuần. Cán bộ, đảng
viên đi làm công tác này phải đi sát quần chúng, chống hữu
khuynh, co thủ, rụt rè, không dám đi sâu vào vùng yếu, thị xã,
thị trấn”1. Đến tháng 01/1968, “trên địa bàn Phân khu 5, ta đã
có 1.500 tấn lương thực và 750 tấn vũ khí”2.
“Đội văn công (nguyên là đội văn công của tỉnh Thủ Dầu
Một chuyển về Phân khu 5) tổ chức thành 3 đội xung kích, bố
trí hoạt động ở cả căn cứ phía sau, vùng bàn đạp Châu Thành
và một đội thọc sâu xuống thị xã, phối hợp các lực lượng địa
phương đẩy mạnh công tác vận động quần chúng tham gia nổi
dậy khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”3.
Cuộc Tổng công kích, tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân năm
1968 tuy không đạt được kết quả như dự kiến, nhưng lực lượng
dân vận, binh vận của tỉnh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Ở một số nơi đã kết hợp được phong trào nổi dậy của quần
chúng đấu tranh chính trị và binh vận, vận động được một số
binh sĩ đào rã ngũ. Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy năm 1968, Đảng bộ, quân và dân Phân khu 5 cùng huyện
Bến Cát, Dầu Tiếng (Phân khu 1) “đã kết nạp 145 đảng viên,
phát triển 386 du kích xã, ấp, động viên 300 thanh niên tòng

1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên
niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam, Sđd, tr. 606, 607.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945-1975), Sđd, tr. 494.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945-1975), Sđd, tr. 496.

138
quân, kết nạp mới 3.867 hội viên giải phóng các đoàn thể, đào
tạo được một số cán bộ từ cơ sở lên”1.

IV. CÔNG TÁC DÂN VẬN GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN
LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” CỦA MỸ (1969 -
1973)
1. Tăng cường công tác dân vận, làm cơ sở vững chắc
đẩy mạnh phong trào chính trị và binh vận tiến kịp
tình hình mới

Sau khi chiến lược “chiến tranh cục bộ” bị phá sản, Mỹ
chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Trên chiến trường Nam Bộ, Mỹ - ngụy thực hiện các cuộc
hành quân phản kích, truy bắt, tìm diệt, năm 1968 là 7.654
cuộc, năm 1969 là 11.945 cuộc;... tiến hành “bình định cấp tốc”,
“bình định xây dựng”, “bình định phát triển”, “bình định đặc
biệt”, “bình định bổ túc”;... thành lập “Hội đồng bình định”,
“Trung tâm bình định”, “Trung tâm điều phối”, “Cuộc cảnh
sát”;... triển khai chương trình “cộng đồng tự vệ”, “cộng đồng
phát triển”, chương trình “người cày có ruộng”, kế hoạch “đại
bàng”, “vì dân”, “Phượng hoàng”... nhằm kiểm soát, lôi kéo
người dân, giành dân với cách mạng.

Trên địa bàn Thủ Dầu Một, các khu rừng già, căn cứ kháng
chiến, vùng giải phóng thuộc các huyện Dầu Tiếng, Bến Cát,
Châu Thành, Tân Uyên, Dĩ An, Thuận An,... đặc biệt là hai
bờ dọc theo sông Bé, sông Sài Gòn; quốc lộ 14, 13, liên tỉnh lộ
7, 14, 16... liên tục bị địch phi pháo, càn quét, khống chế... .
Các cuộc hành quân “Átlát” (Cái nêm), “Nguyễn Trãi 2” của
Mỹ - ngụy vào các căn cứ của lực lượng kháng chiến đã gây rất
nhiều khó khăn cho bộ đội và du kích, vùng giải phóng bị thu

1. Theo Báo cáo Diễn biến tình hình của tỉnh Thủ Dầu Một từ Mậu Thân năm
1968 đến tháng 12/1973. Tài liệu lưu trữ tại Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bình Dương.

139
hẹp, lực lượng quân sự, chính trị, binh vận của tỉnh hao hụt,
vũ khí, kinh tài thiếu thốn, cục diện và hình thái chiến trường
địch - ta chuyển biến xấu.

Trước âm mưu mới của Mỹ và tình thế cách mạng miền


Nam đang xấu đi, tháng 4/1969, Bộ Chính trị đã họp và đề ra
nhiệm vụ trước mắt là: “phát huy thắng lợi đã đạt được, tiếp
tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh ba
mũi giáp công, kết hợp với tiến công ngoại giao; ra sức xây
dựng lực lượng quân sự và chính trị; phát triển chiến lược
tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, làm thất
bại các mục tiêu và biện pháp chiến lược phòng ngự của địch:
đánh bại âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh và chủ
trương “phi Mỹ hóa” chiến tranh của chúng, đánh cho Mỹ phải
rút quân, đánh cho ngụy phải suy sụp và ta giành được thắng
lợi quyết định, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một miền
Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất
nước nhà”1.
Tháng 7/1969, Trung ương Cục họp hội nghị lần thứ 9 để
quán triệt Nghị quyết Bộ Chính trị và đề ra các chủ trương cụ
thể trong giai đoạn mới:
Một là, đẩy mạnh tấn công quân sự và xây dựng lực lượng
vũ trang, một vấn đề có ý nghĩa quyết định trong thời gian tới.
Hai là, tăng cường công tác dân vận, làm cơ sở vững chắc
đẩy mạnh phong trào chính trị và binh vận tiến kịp tình hình
mới.
Ba là, ra sức phát huy vai trò của chính quyền cách mạng,
tăng cường lãnh đạo công tác an ninh, đẩy mạnh mặt trận
kinh tế tài chính, ra sức mở rộng và xây dựng căn cứ địa.
Bốn là, tăng cường công tác xây dựng Đảng về tư tưởng

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.30, tr.132.

140
và tổ chức để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ trong mỗi tình
huống1.
Để phục vụ trực tiếp cho cuộc chiến tranh cách mạng, ngày
14/3/1969, Trung ương Cục ra Chỉ thị số 77/CTNT về xây dựng
chính quyền các cấp2.

Thực hiện chỉ thị của Trung ương Cục, tại vùng căn cứ
cách mạng của Phân khu 5, ngày 05/6/1969, Hội nghị đại biểu
nhân dân tỉnh Thủ Dầu Một được tổ chức đã bầu ra Ủy ban
nhân dân cách mạng Thủ Dầu Một3 đồng thời đề ra chương
trình hành động: Động viên, tổ chức và lãnh đạo nhân dân,
chiến sĩ trong địa phương, đấu tranh bằng hai chân, ba mũi
đánh đuổi quân Mỹ, tiêu diệt và đánh đổ ngụy quân, ngụy
quyền tay sai phản động, hủy bỏ tất cả những hình thức, luật
lệ kìm kẹp phản động, đánh bại hoàn toàn kế hoạch bình định
của địch, mở rộng và củng cố quyền làm chủ trong địa phương
để góp phần cùng toàn miền Nam đánh đuổi đế quốc Mỹ, đánh
đổ ngụy quân, ngụy quyền giải phóng miền Nam tiến tới thống
nhất đất nước.
Để động viên quân, dân, chính, đảng vượt qua những năm
tháng khó khăn, cương quyết bám trụ, duy trì phương châm
đấu tranh “hai chân, ba mũi”, đánh đuổi quân Mỹ, tiêu diệt
ngụy, công tác dân vận, binh vận được đặt ra vừa quan trọng,
vừa mang tính cấp thiết.

1. Nghị quyết Trung ương Cục lần thứ chín (tháng 7/1969) - Số 2244 lưu tại
Phòng Tư liệu - BTKCT B2.
2. Chỉ thị số 77/CTNT của Trung ương Cục ngày 14/3/1969 về xây dựng chính
quyền các cấp nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của tình hình cách mạng miền Nam,
tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng.
3. Ủy ban nhân dân cách mạng Thủ Dầu Một gồm 9 người, trong đó đồng chí
Nguyễn Văn Trung (Sáu Trung), Bí thư Phân khu ủy giữ chức Chủ tịch; đồng chí Bùi
Khánh Ngươn, Phân khu ủy viên, Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy phân khu giữ chức
vụ Phó Chủ tịch; đồng chí Hoàng Xích Thanh, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc
giải phóng Thủ Dầu Một (Bình Dương) Phó Chủ tịch; đồng chí Nguyễn Thanh Vân
làm Ủy viên Thư ký.

141
Đối với nông vận, nông dân “luôn là lực lượng cơ bản, chủ
yếu trong đấu tranh chống các chiến lược chiến tranh của đế
quốc Mỹ và liên tiếp tạo nên nhiều phong trào rộng khắp với
quy mô lớn và đã giành nhiều thắng lợi trong tiêu diệt sinh lực
địch, phá kìm kẹp, giành quyền làm chủ... là lực lượng đông
đảo hy sinh và đóng góp nhiều nhất về sức người, sức của vào
cuộc kháng chiến, làm cho tiềm lực kháng chiến của ta ngày
càng phát triển mạnh mẽ...”1. Tuy nhiên, tổ chức nông vận
phân tán, công tác nông vận, giáo dục nông dân chưa được tiến
hành thường xuyên, đời sống nông dân vùng giải phóng, vùng
tranh chấp, kể cả vùng tạm bị chiếm còn khó khăn, chưa được
chăm sóc tốt.
Do vậy, Ủy ban nhân dân cách mạng Thủ Dầu Một chỉ
đạo tổ chức nông vận của tỉnh tiến hành kiện toàn tổ chức,
đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền, giương cao khẩu
hiệu “Trung, bần, cố nông như con một cha, như nhà một nóc”.
“Trên cơ sở phát động quần chúng vượt gian khổ hy sinh, bẻ
gãy âm mưu bình định cấp tốc; giải phóng - bộ phận nông
thôn, nỗ lực vượt bậc, đẩy mạnh sản xuất với mức cao nhất,
mở rộng diện tích khai hoang, phục hoá, thu hẹp vùng trắng,
xây dựng kinh tế vùng giải phóng vững chắc, giữ vững sản
xuất ở vùng ven, bảo đảm đời sống nhân dân, bảo đảm cung
cấp cho chiến trường và tạo dự trữ to lớn để tiếp tế cho mặt
trận. Bên cạnh nhiệm vụ tích cực đẩy mạnh sản xuất, cần thực
hành tiết kiệm, sử dụng hợp lý những nguồn nhân tài, vật lực
đã được huy động cho các mặt trận. Xây dựng trong cán bộ và
nhân dân nếp sống lành mạnh, tiết kiệm dành tiền của đóng
góp cho kháng chiến”2. “Các ngành, các cấp, nhất là ở vùng
giải phóng cần chuẩn bị đầy đủ các điều kiện sản xuất như

1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên
niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam, Sđd, tr. 707.
2. Chỉ thị của Trung ương Cục ngày 20/02/1969 về đẩy mạnh sản xuất, thực hành
tiết kiệm phục vụ kháng chiến, tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng.

142
đất đai, thủy lợi, máy móc xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu,
giống lúa, phát triển các hình thức vần, đổi công, tận dụng mọi
khả năng lao động; bảo vệ sức kéo cho sản xuất; gây tạo giống
gia súc, gia cầm và quan trọng nhất là phải nâng cao trình độ
quản lý nông nghiệp, đất đai, phương tiện sản xuất để tăng vụ
tăng diện tích và sản lượng lương thực”1. Để động viên nhân
dân đẩy mạnh sản xuất, đóng góp sức người, sức của vào cuộc
kháng chiến, Ban Nông vận của Trung ương Cục thành lập
các tiểu ban sản xuất ở các tỉnh để chỉ đạo công tác.
Đối với công vận, trong điều kiện bị địch kìm kẹp gắt gao,
các cơ sở mật, đảng viên mật ở thị trấn Dầu Tiếng vẫn phát
huy tốt vai trò, giữ được phong trào, vận động quần chúng
trong thị trấn quyên góp lương thực, thực phẩm ủng hộ cách
mạng. Đặc biệt, chị em công nhân đi lô (công nhân cạo mủ)
tạo thành từng nhóm, ba người ăn hai suất cơm, giành lại một
suất cho bộ đội, du kích, cán bộ bám trụ ngoài căn cứ. Nhờ
sáng kiến độc đáo này mà cán bộ, chiến sĩ bám trụ tại căn cứ
ở Dầu Tiếng đã vượt qua thời kỳ khó khăn nhất trong những
năm 1969-1970.
Đối với phụ vận, đây là lực lượng được xác định có vai trò
chiến lược trong đấu tranh chính trị, binh vận, sản xuất, chiến
đấu cả ở hậu phương lẫn tiền tuyến. Tuy nhiên, “thời gian qua,
việc động viên vai trò đảm đang ở hậu phương, động viên phụ
nữ đấu tranh chống bạo lực và trực diện với kẻ thù chưa đạt
mức cao. Tổ chức phụ nữ chưa thật rộng mạnh và đội ngũ cán
bộ nữ trong Đảng đoàn thể, chính quyền phát triển chậm”2.
Xuất phát từ nhu cầu phát triển của cách mạng trong tình

1. Chỉ thị của Trung ương Cục ngày 06/01/1969 về đẩy mạnh công tác nông vận
trong năm 1969, tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng.
2. Chỉ thị của Trung ương Cục ngày 02/12/1965 về tăng cường công tác vận động
phụ nữ tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung
ương Đảng.

143
hình mới, nhiệm vụ của công tác phụ vận là: Tiếp tục phát huy
truyền thống “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” của
phụ nữ Việt Nam, ra sức khắc phục những khuyết nhược điểm
để đẩy mạnh phong trào phụ nữ tiến công địch bằng mũi giáp
công, liên tục đều khắp với tinh thần khẩn trương, táo bạo và
không ngừng nâng cao; tiếp tục động viên lực lượng phụ nữ
phục vụ tiền tuyến đồng thời chú trọng đẩy mạnh phong trào
phụ nữ đảm đang công tác ở hậu phương. Đẩy mạnh công tác
giáo dục tư tưởng và củng cố tổ chức phụ nữ trong các vùng,
phấn đấu đến tháng 6-1969, vùng giải phóng có 50% phụ nữ
vào Nông hội, 70-80% tham gia Hội Liên hiệp Phụ nữ giải
phóng; vùng yếu vùng tranh chấp có 50% phụ nữ vào hai tổ
chức trên; ở đô thị có 30% phụ nữ tham gia các tổ chức cách
mạng (Hội Phụ nữ giải phóng, Công hội giải phóng,... Đẩy
mạnh phong trào đấu tranh chính trị, binh vận, vũ trang của
phụ nữ; riêng phụ nữ tham gia du kích, phấn đấu đến tháng
6/1969 đạt 1/3 du kích xã là nữ; 1/2 du kích ấp là nữ và 2/3 số
phụ nữ trong dân quân tự vệ. Tiếp tục động viên phụ nữ phục
vụ tiền tuyến và đảm nhiệm công tác hậu phương.
Đối với thanh vận, các cấp ủy Đảng gặp nhiều khó khăn
trong công tác vận động thanh niên do rất khó tiếp cận được
thanh niên. Vì thế số lượng thanh niên vào Đoàn và đoàn viên
vào Đảng còn hạn chế, nhất là đối với nữ thanh niên. Trưóc
tình hình mới, nhiệm vụ của công tác thanh vận là: Giáo dục
cho thanh niên về vai trò, nhiệm vụ của mình vượt qua mọi
khó khăn gian khổ, kiên quyết chiến đấu và chiến thắng giặc
Mỹ xâm lược; củng cố, phát triển cơ sở đoàn, xây dựng “chi
đoàn 4 tốt”, đào tạo bồi dưỡng cán bộ đoàn, cán bộ thanh niên,
tuyên truyền, giáo dục thanh niên về lý tưởng sống và chiến
đấu cho xứng đáng là thế hệ thanh niên thời đại Hồ Chí Minh,
đẩy mạnh phong trào thanh niên làm lực lượng xung kích;
kiện toàn Ban Chấp hành Đoàn các cấp, bảo đảm sự lãnh đạo
của Đoàn đối với thanh niên, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán
144
bộ đoàn, cán bộ thanh niên; tiếp tục đẩy mạnh phong trào “5
xung phong”, “4 nhất thắng Mỹ”, trước hết là phong trào xung
phong tòng quân, đi dân công, tham gia du kích, ở vùng yếu
tập trung thanh niên vào các tổ chức công khai hợp pháp đấu
tranh bằng ba mũi giáp công hướng vào mục tiêu chung chống
Mỹ, cứu nước1.
Đối với binh vận, quán triệt chủ trương tấn công làm tan rã
suy sụp ngụy quân, ngụy quyền của Trung ương Cục, nhiệm
vụ đặt ra là kết hợp 3 cuộc vận động lớn:
- Chống địch bắt lính đôn quân của chính quyền Sài Gòn
- Vận động các gia đình binh sĩ kêu gọi chồng, con, anh, em
bỏ ngũ trở về với cách mạng
Đẩy mạnh phong trào đấu tranh đòi cải thiện đời sống dân
sinh, đẩy mạnh phong trào diệt ác phá kìm.
“Biến cao trào tấn công binh vận của quần chúng thành
cuộc vận động chính trị sâu rộng trong lực lượng phòng vệ dân
sự, binh sĩ ngụy và nhân viên ngụy quyền để họ hiểu rõ hơn về
chính sách khoan hồng của cách mạng, từ đó gây dựng nòng
cốt cơ sở của ta trong binh lính ngụy quân, nhân viên ngụy
quyền, dưới nhiều hình thức để nắm tình hình địch kịp thời,
khoét sâu mâu thuẫn trong nội bộ chúng”2.
Các hình thức binh vận, dân vận sử dụng báo chí giải
phóng, truyền đơn, khẩu hiệu, băng rôn, thư tay, phát loa
phóng thanh, tiếp xúc tuyên truyền miệng, rỉ tai nhằm vạch
trần bộ mặt bán nước của chính quyền Sài Gòn. Mở đầu là
đợt tấn công binh vận đồng loạt vào đầu tháng 8/1969 nhằm

1. Chủ trương của Trung ương Cục ngày 22/12/1968 về tăng cường công tác
phát triển Đoàn Thanh niên cách mạng miền Nam, tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung
ương Đảng.
2. Chủ trương của Trung ương Cục ngày 24/3/1969 về đẩy mạnh đấu tranh chính
trị, tấn công binh vận làm tan rã suy sụp ngụy quân, ngụy quyền, tài liệu lưu tại Kho
lưu trữ Trung ương Đảng.

145
phổ biến giải pháp hòa bình 10 điểm về đấu tranh ngoại giao
của chính quyền cách mạng1 và chính sách 12 điểm của Mặt
trận Dân tộc giải phóng đối với ngụy quân, ngụy quyền. Ta đã
phát động toàn quân tích cực tham gia; kết hợp chặt chẽ. Ba
mũi giáp công, hình thành thế bao vây ba mũi giáp công quân
sự, chính trị, binh vận được khôi phục và hoạt động mạnh mẽ
ở Châu Thành, Dĩ An, Lái Thiêu, Phú Giáo, Tân Uyên... bất
chấp sự hăm dọa của địch.

Tại Châu Thành, cơ sở binh vận ở các xã Định Hòa, Tân


An, Tương Bình Hiệp đã cảm hóa, vận động nhiều bảo an,
dân vệ bỏ ngũ. Nhiều người mang súng trở về tham gia kháng
chiến tại địa phương. Đặc biệt ở ấp chiến lược Tân Hóa, lực
lượng binh vận đã thuyết phục được 40 phòng vệ dân sự bỏ
ngũ. Ở ấp chiến lược Chánh Lưu, phong trào đấu tranh phá
thế kìm kẹp của địch, phong trào đấu tranh đòi được ra đồng
sản xuất, phong trào đấu tranh chống bắt phòng vệ dân sự...
của quần chúng phát triển mạnh mẽ2.
Tại Lái Thiêu, ở một số xã vùng ven như An Sơn, An Thạnh,
Bình Nhâm, Bình Chuẩn... các cơ sở cách mạng dần dần được

1. Nội dung cơ bản của “Giải pháp hòa bình 10 điểm”: (1) Tôn trọng độc lập,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam được quy định trong Hiệp định Giơnevơ
1954; (2) Quân đội Mỹ và quân đội nước ngoài phải rút khỏi miền Nam Việt Nam; (3)
Lượng vũ trang ở miền Nam Việt Nam sẽ do các bên ở Việt Nam giải quyết; (4) Nhân
dân miền Nam Việt Nam tự giải quyết công việc nội bộ của mình, tự quyết định chế
độ chính trị tại miền Nam Việt Nam bằng tổng tuyển cử tự do, bầu quốc hội, lập chính
phủ liên hiệp; (5) miền Nam Việt Nam thực hiện chế độ chính trị hòa bình, trung lập;
(6) Vĩ tuyến 17 chỉ là giới tuyến quân sự tạm thời; (7) Trong khi chờ thống nhất, hai
miền Việt Nam không được thiết lập liên minh quân sự với bất kỳ quốc gia nào; (8)
Hai bên sẽ thương thảo về việc trao trả tù binh; (9) Các bên thỏa thuận về một sự giám
sát quốc tế đối với việc rút quân đội Mỹ và đồng minh; (10) Tất cả các phe phái sẽ
thành lập chính phủ liên hiệp lâm thời với nhiệm vụ: Thi hành các hiệp định liên quan
tới việc rút quân đội Mỹ, thực hiện hòa hợp dân tộc, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp xã
hội và các đường lối chính trị, tổ chức Tổng tuyển cử trên toàn miền Nam Việt Nam,
thực hiện quyền tự quyết của Nhân dân Việt Nam.
2. Báo cáo năm 1969 của Phòng Chính trị Phân khu 5. Tài liệu lưu trữ tại Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương.

146
khôi phục, hoạt động dân vận, binh vận được đẩy mạnh. Trong
mùa mưa năm 1970, huyện Lái Thiêu đã xây dựng thêm 1 tổ
du kích mật gồm 5 du kích, 7 tổ nông hội; xây dựng thêm 29
cán bộ phụ nữ xã, 1 cán bộ binh vận, 1 cơ sở an ninh... làm rã
ngũ 34 phòng vệ dân sự, 26 phòng vệ dân sự trả súng không
canh gác1.

Tại Phú Giáo, đêm 11/8/1969, đội vũ trang tuyên truyền


của huyện đã rải 300 truyền đơn, khẩu hiệu (bằng tiếng
Việt lẫn tiếng Anh), cắm 20 cờ Mặt trận giải phóng (loại cờ
giấy khổ 15-25cm) tại chốt Phước Vĩnh. Lính ngụy và lính
Mỹ lượm được, truyền tay nhau đọc... gây nên tình trạng
phản chiến, 12 binh lính Tiểu đoàn 1 Lữ đoàn 2 Sư đoàn 1
kỵ binh không vận Mỹ đã chống lệnh hành quân tiếp viện
cho Phước Long (14/8/1969)2. Tiếp đó, trong tháng 5/1971, tổ
chức vũ trang tuyên truyền, phát tán hơn 10.000 tờ truyền
đơn kêu gọi binh lính ngụy quyền, phòng vệ dân sự bỏ ngũ
theo cách mạng; kêu gọi quần chúng nhân dân bỏ ấp chiến
lược, ấp dân sinh trở về làng ấp cũ sản xuất. Điển hình là
20 gia đình đã bỏ ấp chiến lược Phước Vĩnh trở về làng cũ
ở xã Phước Hòa sản xuất; nhân dân xã Bình Mỹ hai lần nổi
dậy đánh thùng thiếc, gõ mõ, đấu tranh với tề xã, kêu gọi
12 phòng vệ dân sự bỏ ngũ và vận động được 15 thanh niên
tham gia cách mạng3...

Ở các huyện Dĩ An, Tân Uyên, Dầu Tiếng, Thị Xã Thủ Dầu
Một, các cơ sở cách mạng, cơ sở dân vận, binh vận cũng lần
lược được khôi phục, tổ chức lại.
Ngày 03/9/1969, Đài phát thanh giải phóng đưa tin Chủ

1. Báo cáo năm 1969 của Phòng Chính trị Phân khu 5, tài liệu lưu trữ tại Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương.
2. Báo cáo năm 1969 của Phòng Chính trị Phân khu 5, tài liệu lưu trữ tại Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương.
3. Báo cáo năm 1969 của Phòng Chính trị Phân khu 5, tài liệu lưu trữ tại Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương.

147
tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của của dân tộc ta qua
đời. Biến đau thương thành hành động cách mạng, quân, dân,
chính, đảng Thủ Dầu Một cùng nhau đoàn kết, chiến đấu,
thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người. Do vậy, từ cuối năm
1969 đến đầu năm 1970, phong trào dân vận, binh vận trên
chiến trường Phân khu 5 phát triển mạnh. Trong năm 1969,
địch đào rã ngũ 4.558 tên (có 143 lính Sư đoàn 5, Sư đoàn 18;
4.415 phòng vệ dân sự). Ngoài lực lượng dân vận, binh vận
chuyên trách, trong 6 tháng đầu năm 1970, còn có trên 800
quần chúng tham gia làm công tác dân vận, binh vận; vận
động được 150 dân vệ, bảo an làm nội tuyến; rải dán được
khoảng 5.000 khẩu hiệu, 13.230 truyền đơn; giáo dục hơn 750
gia đình binh sĩ, 225 binh sĩ; làm rã ngũ trên 400 phòng vệ dân
sự, 25 phòng vệ dân sự khác bỏ gác1.

Trung tuần tháng 11/1970, Thường vụ Phân khu ủy


Phân khu 5 họp đề ra nhiệm vụ: “Tập trung mọi lực lượng
chính trị, vũ trang, binh vận phục vụ cho đánh phá bình
định, làm lỏng, rã bộ máy kìm kẹp của địch với diện rộng
lớn hơn, nâng cao và củng cố quyền làm chủ của ta lên một
bước. Khôi phục và phát triển thực lực của thị xã, thị trấn,
giữ vững vùng giải phóng và căn cứ phía sau, nhất là ổn
định sản xuất, ổn định đời sống; làm cho thế và lực trong
phân khu có chuyển biến cụ thể, nhất là vùng trung tuyến
đông dân, làm cho thế lực địch sụt xuống một bước, đánh
bại kế hoạch mùa khô của địch, tạo điều kiện tốt phối hợp
với chiến trường chung đánh bại một bước âm mưu “Việt
Nam hóa chiến tranh” của địch, làm cơ sở để thay đổi cục
diện theo phương châm kiên trì chiến đấu lâu dài, đánh lui
địch từng bước, giành thắng lợi từng phần tiến lên giành

1. Báo cáo Hội nghị đại biểu Đảng bộ Phân khu 5 lần thứ nhất (5/1970), tài liệu
lưu trữ tại Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bình Dương.

148
thắng lợi quyết định”1.

2. Công tác dân vận góp phần làm phá sản chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ ở Thủ Dầu Một

Tháng 3/1971,Trung ương Cục tổ chức Hội nghị bàn về


đẩy mạnh công tác dân vận trong tình hình mới chỉ rõ phương
hướng cho từng mặt công tác dân vận là: Tuyên truyền, giáo
dục phát triển quần chúng liên tục, rộng khắp, sử dụng mọi
hình thức; làm cho quần chúng thấy rõ âm mưu của địch trong
các tổ chức bộ máy tề, công an, cảnh sát, đồn bốt, hiệp Hội
Nông dân, lão ông, lão bà...; đẩy mạnh phong trào đấu tranh
của quần chúng, diệt ác, phá kìm, bám trụ sản xuất, chống
khủng bố, gom dân, phát triển chiến tranh du kích, xã ấp
chiến đấu, phát động phong trào binh vận rộng lớn, chống bắt
lính đôn quân; chăm lo đời sống quần chúng, bồi dưỡng sức
dân; khẩn trương đào tạo đội ngũ cán bộ dân vận để đáp ứng
được yêu cầu cách mạng mới2.

Tháng 5/1971, Trung ương Cục quyết định bố trí lại chiến
trường miền Đông Nam Bộ, Phân khu 5 và tỉnh Biên Hòa được
sáp nhập thành Phân khu Thủ Biên3.
Sau khi thành lập, cùng với việc đẩy mạnh hoạt động trên
mặt trận quân sự, chính trị, Phân khu Thủ Biên triển khai
ngay công tác dân vận trong tình hình mới của Trung ương
Cục, đồng thời chỉ đạo lực lượng nông vận tiến hành điều tra,

1. Cuối tháng 5/1970, Đảng bộ Phân khu 5 tổ chức Hội nghị lần thứ nhất, bầu
ra Ban Chấp hành Đảng bộ gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Luông,
Bùi Xuân Thuận, Nguyễn Văn Hữu, Nguyễn Thị Ty (Sáu Ty), Nguyễn Hồng Lâm, Bảy
Mai, Nguyễn Văn Thành (Ba Dè) (theo Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự mùa khô
1970-1971 của Thường vụ Phân khu ủy Phân khu 5. Tư liệu lưu trữ tại Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy Bình Dương).
2. Nghị quyết Trung ương Cục ngày 20/3/1971 về đẩy mạnh công tác dân vận
trong tình hình mới, tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lược sử ngành Tổ chức Đảng bộ
Bình Dương trong hai cuộc kháng chiến, Bình Dương, 2002, tr.134-135.

149
đánh giá tình hình nông thôn và phong trào đấu tranh của
nông dân1.
- Về nông thôn, điều tra, đánh giá tình hình sở hữu ruộng
đất, tình hình sản xuất, kinh doanh, thu nhập, mức sống, thái
độ chính trị... của người dân dưới tác động của luật “người cày
có ruộng”.

- Phân tích các âm mưu, thủ đoạn của địch trong việc đánh
phá mùa màng, phương tiện sản xuất của nông dân.
- Tìm hiểu, đánh giá đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, đặc
biệt là những ảnh hưởng của văn hoá thực dân, lối sống thực
dụng của Mỹ đến đời sống của nông dân.
- Đẩy mạnh công tác dân vận, binh vận, triển khai Chỉ thị
số 13, Thông tri số 14 và 10 chính sách về binh vận xuống tới
xã, ấp, chi bộ và cơ sở ngụy quân, ngụy quyền.
Đến cuối năm 1971, chiến dịch tấn công quân sự, chính
trị, binh vận trên tuyến biên giới Đông Nam của quân và dân
miền Đông Nam Bộ giành được một số thắng lợi nhất định. Kế
hoạch bình định, lấn chiếm của địch từng bước bị đẩy lùi, tinh
thần binh lính địch ngày càng suy giảm, đào rã ngũ ngày càng
nhiều, đặc biệt là lực lượng bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự.
Phong trào đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận ở Châu
Thành, Dĩ An, Lái Thiêu, Phú Giáo, Tân Uyên, Dầu Tiếng,
Bến Cát2,... lần lượt được phục hồi và phát triển mạnh; lực
lượng dân vận đi sâu vào quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị
trong các vùng yếu, vùng trắng, vùng tạm chiếm, mở ra nhiều
lõm chính trị, lõm du kích. “Mặc dù địch và ta còn giằng co

1. Ngày 20/7/1971, Thường vụ Trung ương Cục điện gửi các khu, phân khu, tỉnh
trực thuộc và Ban Nông vận Trung ương Cục về việc thu thập tài liệu đánh giá tình
hình nông thôn và phong trào đấu tranh của nông dân để phục vụ cho công tác lãnh
đạo chống phá bình định nông thôn.
2. Theo sự thú nhận của Bộ Tham mưu địch thì có 70% số xã vẫn còn có chi bộ
của Việt cộng.

150
quyết liệt nhưng tình hình nông thôn đã vượt qua thời kỳ khó
khăn nghiêm trọng nhất, ta đã chặn địch lại được, đã đánh lùi
chúng ở nhiều nơi và đang tạo ra những điều kiện hết sức cơ
bản, đòi hỏi phải được tiếp tục củng cố một cách khẩn trương,
vững chắc để chuyển sang bước hai đánh phá bình định”1.
Mùa thu năm 1971, Bộ Chính trị họp và quyết định “động
viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, kịp thời nắm lấy thời
cơ lớn trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy
mạnh tấn công quân sự, chính trị và binh vận, phát triển thế
chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và
chiến trường Đông Dương, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa”
chiến tranh của Mỹ”2.
Tháng 10/1971, Trung ương Cục tổ chức Hội nghị lần thứ
11 đề ra kế hoạch Xuân - Hè năm 1972 trên chiến trường miền
Đông Nam Bộ, đồng thời đề ra chỉ tiêu cho các Phân khu, các
tỉnh trong chiến dịch tổng hợp ở địa phương nhằm tiêu diệt,
tiêu hao và làm tan rã một bộ phận quan trọng lực lượng vũ
trang địa phương và một bộ phận chủ lực của Mỹ - ngụy3.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, của Trung ương
Cục, của Phân khu Thủ Biên, trong chiến dịch Xuân - Hè,
Thủ Dầu Một được xác định là một trong những địa bàn trọng
điểm. Để triển khai nhiệm vụ trên, binh vận, dân vận là một
trong những mũi tấn công quan trọng; “thắng địch bằng công

1. Nghị quyết hội nghị Trung ương Cục lần thứ 11 (tháng 10/1971), số 7.758, tài
liệu lưu tại Phòng Tư liệu - Ban Tổng kết chiến tranh B2.
2. Điện của Bộ Chính trị gửi Trung ương Cục và Quân ủy Miền tháng 9/1971.
3. Một số chỉ tiêu của các Phân khu, tỉnh: Tiêu diệt gọn từng trung đội, đại đội
tiến tới tiêu diệt được tiểu đoàn địch, diệt nhiều ác ôn, làm rã và chuyển đại bộ phận
phòng vệ dân sự thành du kích xã, ấp, diệt được đồn bốt ác ôn nhất, làm rã từng bộ
phận lớn bộ máy kìm kẹp của địch.
- Giải phóng và làm chủ khoảng 800.000 dân, khôi phục lại các khu căn cứ bàn
đạp trước Tết Mậu Thân.
- Bổ sung được cho lực lượng Phân khu, phát triển thêm ĐC, trợ chiến, bổ sung
được cho bộ đội huyện, bảo đảm huyện có 1-2 đại đội đầy đủ quân số, xã có 1-2 trung
đội du kíc xã và 1-2 trung đội du kích ấp.

151
tác binh vận cũng quan trọng như thắng địch bằng tác chiến...
coi việc làm tan rã lực lượng quân sự địch, trước hết là làm tan
rã lực lượng nhân dân tự vệ, dân vệ, bảo an, là một nhiệm vụ
mấu chốt”1.

Nhận thức được tầm quân trọng của công tác binh vận, dân
vận, Phân khu Thủ Biên tập trung các nguồn lực xây dựng cơ
sở nội tuyến trong các lực lượng kìm kẹp của địch với hàng
trăm cơ sở trong phòng vệ dân sự, dân vệ, địa phương quân.
Phong trào đấu tranh “đòi hòa bình, chống bắt lính, đôn quân
trở thành cuộc vận động chính trị lớn được gia đình binh sĩ với
nhiều mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp thực hiện”2.
Nông vận hoạt động mạnh mẽ, vận động thành viên trong
các Hội Nông dân đẩy mạnh khai hoang phục hóa, tham gia
sản xuất, đổi công, vần công, tất cả cố gắng “ngày làm không
đủ, tranh thủ làm đêm”; tạo tài lực, vật lực, phấn đấu cung cấp
đủ và vượt mức “đảm phụ quy định”, chuẩn bị lương thực, thực
phẩm dự trữ cho chiến dịch.
Thanh vận đẩy mạnh vận động thanh niên, đoàn viên
tham gia kháng chiến, phục vụ kháng chiến, đặc biệt là phong
trào tình nguyện lên đường nhập ngũ, tham gia lực lượng
quân giải phóng, tham gia vào các đội du kích, đội tự vệ. Trong
năm 1972, nhiều xã có 20-30 thanh niên tình nguyện tham
gia cách mạng.
Công vận vận động công nhân các đồn điền Dầu Tiếng,
Phước Hòa đăng ký tham gia lực lượng mở các tuyến đường,
vận chuyển lương thực, súng đạn về nơi tập kết; phát hàng
vạn truyền đơn, khẩu hiệu, áp phích kêu gọi ngụy quân, ngụy
quyền phản chiến...

1. Ban Chỉ đạo và Ban biên tập truyền thống Tây Nam Bộ: Tây Nam Bộ 30 năm
kháng chiến (1945-1975), 2000, tr. 694.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945-1975), Sđd, tr. 597.

152
Phụ vận vận động chị em ở các huyện thị, xã ấp tham gia
rải truyền đơn, tham gia binh vận, giáo dục kêu gọi chồng,
con, em trong bộ máy ngụy quân, ngụy quyền trở về với gia
đình, với cách mạng; vận động thanh niên chống quân dịch,
không làm lính đánh thuê cho Mỹ.
Binh vận hoạt động mạnh mẽ, triển khai công tác vũ trang
tuyên truyền, dán rải tờ truyền đơn, chính sách 10 điểm của
Chính phủ Cách mạng, vạch trần tội ác của Mỹ - ngụy, vận
động gia đình binh sĩ thuyết phục con em bỏ ngũ, phản chiến
ở tất cả các huyện, thị.
Năm 1972, chiến dịch Nguyễn Huệ nổ ra, quân dân Thủ
Dầu Một đã “diệt 12.046 tên địch (diệt gọn và tiêu hao nặng
2 tiểu đoàn, 5 liên đội, 34 đại đội bảo an; 42 trung đội, 23 tiểu
đội dân vệ), phá hủy 159 xe quân sự các loại, 8 bót, 5 tua...
Các lực lượng của tỉnh đã phát động được 112.380 lượt quần
chúng thực hiện 96.275 cuộc đấu tranh với nhiều hình thức
phong phú; giáo dục được 8.305 gia đình binh sĩ, làm rã ngũ
3.667 tên”1. Vùng giải phóng được mở rộng từ Bưng Còng đến
ấp chiến lược Suối Dứa và 6 xã vùng bắc Bến Cát, mở rộng
bàn đạp nam Tân Uyên, Châu Thành. Bên cạnh đó, “chỉ tính
trong năm 1972, toàn tỉnh đã phát triển 168 đảng viên (có 62
mật), tập hợp tổ chức 33 chi bộ, kết nạp 111 đoàn viên, 1.324
hội viên đoàn thể, 260 du kích (có 85 mật), 1.411 cơ sở quần
chúng (có 64 cơ sở trong lòng địch), vận động được 187 thanh
niên tham gia lực lượng vũ trang huyện, tỉnh, 270 thanh niên
tham gia du kích xã, ấp”2.
Có thể nói, quân dân Thủ Dầu Một đã góp phần quan
trọng vào chiến thắng chung của toàn Miền, trong đó có đóng
góp không nhỏ của công tác dân vận, binh vận. Tuy nhiên, “lực

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945-1975), Sđd, tr. 609, 610.
2. Báo cáo kết quả hoạt động năm 1972 của tỉnh Thủ Dầu Một, tư liệu lưu trữ tại
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bình Dương.

153
lượng cách mạng của ta ở cơ sở chưa nhận rõ tầm quan trọng
có ý nghĩa chiến lược của việc làm tan rã lực lượng địa phương
của địch, chưa đề ra khẩu hiệu, biện pháp thích hợp để thực
hiện nhiệm vụ mấu chốt đó”1.

V. CÔNG TÁC DÂN VẬN GÓP PHẦN CÙNG QUÂN DÂN


CẢ NƯỚC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT
NƯỚC (1973-1975)

1. Công tác vận động quần chúng đấu tranh đòi


chính quyền Sài Gòn thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định
Pari

Ngày 27/01/1973, Hiệp định Pari được ký kết, Mỹ và quân


đồng minh của Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam.
Tuy nhiên, Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh”, sử dụng “lực lượng răn đe” bằng không quân, hải
quân thường trực ở Đông Nam Á và dùng chính quyền Sài Gòn
làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam
Việt Nam.
Được Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế, chính quyền
Sài Gòn tăng cường càn quét, lấn chiếm, bình định, xóa thế
da beo, mở rộng vùng kiểm soát, thực hiện “cộng đồng tự vệ
và phát triển địa phương (1973-1975)”; “hiện đại hóa quân đội
(1974-1975)”, thực hiện kế hoạch “kinh tế hậu chiến (1975-
1980)” để dần dần “tự lực tự cường”.
Đứng trước âm mưu phá hoại Hiệp định Pari của Mỹ và
chính quyền Sài Gòn, thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị
về “con đường tiến lên của cách mạng miền Nam là con đường
bạo lực cách mạng, xây dựng hai lực lượng chính trị và vũ
trang thực hành Tổng công kích, tổng khởi nghĩa) đập tan

1. Ý kiến chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn về đấu tranh binh vận ở miền Nam ngày
13/8/1972, tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng.

154
chính quyền phản động thân Mỹ giành chính quyền về tay
nhân dân”1. Trung ương Cục chỉ đạo: “Phải tăng cường ý chí
chiến đấu, đề cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết chống địch
lấn chiếm, đồng thời nắm vững những biểu hiện lệch lạc xuất
hiện trong lực lượng vũ trang và trong các cấp đảng bộ; quyết
tâm đấu tranh củng cố những thắng lợi đã giành được, tiến tới
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc”2. Quân
ủy Miền đề ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam
là: “Đoàn kết toàn dân, đấu tranh trên ba mặt trận chính trị,
quân sự, ngoại giao một cách hết sức chủ động linh hoạt, tùy
theo từng lúc từng nơi mà kết hợp giữa các mặt trận đó cho
thích hợp để buộc địch phải thi hành nghiêm chỉnh hiệp định
Pari về Việt Nam”3.

Trên địa bàn tỉnh Thủ Dầu Một, sau chiến dịch Nguyễn
Huệ năm 1972, hệ thống căn cứ kháng chiến, vùng giải phóng
được mở rộng từ “Chiến khu Đ lên Phú Giáo qua bắc Bến Cát,
Dầu Tiếng. Vùng tranh chấp bao gồm toàn bộ địa bàn huyện
Châu Thành, các xã nam Bến Cát, một số xã bắc huyện Lái
Thiêu, với hai mức độ: tranh chấp mạnh, là phần lớn các xã bị
gom với 42 ấp khoảng 50.000 dân; tranh chấp yếu, phần lớn
là đồng bào tại chỗ gồm 27 ấp với khoảng 40.000 dân. Vùng
yếu bao gồm khu vực nông thôn có ít cơ sở như nam Tân Uyên,
nam Lái Thiêu, gồm 43 ấp với 97.000 dân. Khu vực thị xã, thị
trấn, khu phố Búng với khoảng 105.000 dân. Trong toàn tỉnh
còn 26 ấp trắng cơ sở khoảng 35.000 dân”4.
Từ ngày 28/4 đến ngày 12/5/1973, Ban Chấp hành Đảng bộ

1. Theo Nghị quyết của Quân ủy Trung ương tháng 3/1973, Tài liệu số 2100 lưu
tại Phòng Tư liệu - Ban Tổng kết chiến tranh B2.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945-1975), Sđd, tr. 620.
3. Nghị quyết Quân ủy Miền, tài liệu số 2102 lưu tại Phòng Tư liệu - Ban Tổng
kết chiến tranh B2.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945-1975), Sđd, tr. 616, 617.

155
tỉnh Thủ Dầu Một mở hội nghị để đánh giá thực tiễn và đề ra
phương hướng, nhiệm vụ trong tình hình mới gồm: “mở rộng
và phát triển phong trào đấu tranh chính trị, binh vận; nắm
chắc, sử dụng đúng mức lực lượng vũ trang kết hợp chặt chẽ
ba mũi, kiên quyết chủ động và đẩy lùi âm mưu bình định, lấn
chiếm của địch; ra sức giữ vững, củng cố và không ngừng mở
rộng, nâng cao quyền làm chủ vùng tranh chấp, tích cực mở
rộng diện nắm dân, gây dựng, phục hồi cơ sở, đưa phong trào
từ thấp lên cao ở vùng yếu, thị xã, thị trấn. Nhanh chóng xây
dựng củng cố vùng căn cứ giải phóng toàn diện, vững chắc.
Tập trung và khẩn trương xây dựng thực lực chính trị, vũ
trang, Đảng, đoàn, lực lượng lộ, mật, ra sức động viên sức
người, sức của cả ba vùng nhằm làm thay đổi tương quan tại
chỗ có lợi cho ta, sẵn sàng đánh trả, từng bước buộc địch thi
hành Hiệp định, sẵn sàng đánh bại những hành động liều lĩnh
gây lại chiến tranh của địch”1.

Thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy, trên mặt trận dân vận,
binh vận, quân - dân -chính đảng Thủ Dầu Một lại bước vào
một cuộc chiến đấu mới.
Đối với công tác nông vận, Hội Nông dân giải phóng là
tổ chức căn bản, nòng cốt thực hiện cuộc vận động, huy động
nông dân, liên kết với phú nông, trung nông tham gia trực
tiếp đánh đổ giới địa chủ phong kiến và đế quốc xâm lược với
khẩu hiệu là: “hòa bình, độc lập, dân chủ, cơm áo và hòa hợp
dân tộc” để đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh của
địch”. Tháng 01/1973, Trung ương Cục tổ chức Hội nghị Tổng
kết công tác nông vận, phụ vận và xác định phương hướng
công tác trong tình hình mới, đề ra phương hướng cho công
tác Nông vận2 là: phát huy những thành quả đấu tranh cách

1. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương, tháng 5/1973,
Tài liệu số 31, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Bình Dương.
2. Tài liệu lưu trữ tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng.

156
mạng của nông dân trong việc giành và giữ quyền làm chủ
ruộng đất; phát triển sản xuất, lưu thông, hậu cần phục vụ
chiến đấu; vạch trần chính sách phản động về kinh tế của
địch.
Đối với công tác phụ vận, căn cứ vào đặc điểm của từng
nhóm người, từng lứa tuổi để vận động, tuyên truyền, tổ chức
rộng rãi phụ nữ tham gia cách mạng; củng cố tổ chức Hội Phụ
nữ ở vùng giải phóng; phát triển hội viên ở vùng yếu, vùng tôn
giáo di cư, vùng dân tộc và ở thị xã, thị trấn. Tuyên truyền,
vận động phụ nữ phát huy truyền thống phụ nữ Việt Nam anh
hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, góp phần đánh bại
chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ, tiến
tới giành độc lập, dân chủ cho đất nước và giải phóng phụ nữ
khỏi ách thống trị của tập đoàn tay sai Nguyễn Văn Thiệu1.
Đối với công tác binh vận, tuyên truyền sâu rộng chính
sách hòa hợp dân tộc, tiếp tục làm rõ lập trường chính nghĩa
của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước thông qua khẩu hiệu: “Hòa bình, độc lập, dân chủ, cơm áo
và hoà hợp dân tộc”, kêu gọi binh lính ngụy thực hiện nghiêm
chỉnh Hiệp định Pari, bỏ ngũ về với gia đình, với cách mạng.
Công tác dân vận, binh vận trên địa bàn Thủ Dầu Một
đạt kết quả rất khả quan. Trong 3 tháng đầu năm 1973, quân
và dân Thủ Dầu Một đã tổ chức tuyên truyền, míttinh, chiếu
phim cách mạng cho 21.975 quần chúng; tổ chức được 148 cuộc
đấu tranh chính trị với 15.925 lượt quần chúng tham gia; vận
động được 521 binh lính ngụy rời bỏ hàng ngũ địch về với gia
đình; vận động được 106 thanh niên tham gia cách mạng. “Từ
tháng 3 đến tháng 7/1973, trên toàn tỉnh có 700 binh sĩ rời bỏ
hàng ngũ về với gia đình, trả súng không đi tuần tra, không

1. Chỉ đạo của đồng chí Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục tại Hội nghị Tổng
kết công tác nông vận, phụ vận (tháng 01/1973), tài liệu lưu trữ tại Kho lưu trữ Trung
ương Đảng.

157
đi càn quét khủng bố nhân dân... Trong 6 tháng cuối năm
1973, quân dân Thủ Dầu Một đã vận động được 166 thanh
niên tham gia cách mạng (Châu Thành 50, Phú Giáo 28, Bến
Cát 47, Dầu Tiếng 30, Lái Thiêu 11)”1.

“Đến cuối năm 1973, tình hình đã được cải thiện, nhiều
nơi nhân dân dựng nhà ở, xây cất trường học, trạm y tế, vừa
lao động sản xuất vừa xây dựng thế trận sẵn sàng chiến đấu
bảo vệ địa bàn. Nhân dân và các cơ quan, đơn vị vũ trang
tích cực tổ chức sản xuất lương thực và rau màu. Ở huyện
Nam Bến Cát, quân và dân thu hoạch được 663 giạ lúa, trồng
được 56.500 gốc mì. Huyện Bắc Bến Cát, nhân dân đã thu
hoạch được 30.595 giạ lúa, trồng hơn 536.500 gốc mì, 27.800m
khoai lang. Các cơ quan dân, chính, đảng của tỉnh sản xuất
tự túc được 1.880 giạ lúa và trên 50.000 gốc mì. Các đơn vị lực
lượng vũ trang của tỉnh thu hoạch được 3.500 giạ lúa và trồng
khoảng 100.000 gốc mì. Do vậy mà các đơn vị, cơ quan trong
tỉnh giải quyết được cơ bản về lương thực cho dân và lương
thực của địa phương. Ngoài ra, các cơ quan, đơn vị, các đoàn
hậu cần, ngành tài chính của tỉnh còn mở các cửa khẩu ở Bình
Mỹ, Tân Bình, Phước Vĩnh, Thanh An... móc nối với chủ tư
nhân khai thác, thu mua gạo, thực phẩm, thuốc men và những
loại hàng thiết yếu phục vụ cho các cơ quan, đơn vị nên đã góp
phần khắc phục dần những khó khăn do địch bao vây kinh tế
tạo nên”2.

Ngày 16/11/1973, trong “Thư vào Nam”, Tổng Bí thư Lê


Duẩn chỉ rõ: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong
năm 1974, trong đó có nội dung nhiệm vụ cơ bản trước mắt của
cách mạng miền Nam trong năm 1974 là “phải coi việc đánh

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945-1975), Sđd, tr. 621, 628, 625.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945-1975), Sđd, tr. 629, 630.

158
phá kế hoạch bình định lấn chiếm của địch là công tác trung
tâm số một... Phải tiến hành một cách toàn diện kết hợp các
mặt đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận, pháp lý, kinh tế,
vừa đẩy mạnh đấu tranh trong vùng địch kiểm soát và vùng
tranh chấp, vừa phát huy thế mạnh của vùng ta để tác động
đến vùng địch”1.
Thực hiện chỉ đạo Tổng Bí thư Lê Duẩn, căn cứ vào tình
hình thực tiễn trên chiến trường Nam Bộ, trên lĩnh vực dân
vận, ngày 26/02/1974, Trung ương Cục chủ trương tăng cường
công tác vận động tôn giáo tập trung chống Mỹ - ngụy.
Trung ương Cục nhận định: “âm mưu thủ đoạn của đế
quốc Mỹ và tay sai đối với tôn giáo là triệt để lợi dụng tôn
giáo, biến tôn giáo thành công cụ tinh thần để mê hoặc tín đồ,
giáo dân, làm cho họ mơ hồ về đấu tranh giai cấp, đấu tranh
dân tộc, nắm và sử dụng các chức sắc tôn giáo phục vụ mưu
đồ xâm lược thống trị và áp bức bóc lột nhân dân”2. Do vậy,
công tác dân vận, vận động quần chúng tôn giáo trong năm
1974 là:
- Đối tượng vận động quần chúng chủ yếu là công nhân và
nhân dân lao động.
- Lấy vận động quần chúng tín đồ bên dưới là chủ yếu, là
chỗ dựa cơ bản nhất.
- Phải gắn chặt phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, và
chủ yếu là vận động quần chúng, vận động dân tộc, phải chăm
lo giải quyết quyền lợi thiết thân, bức xúc của quần chúng
tín đồ. Nâng cao trình độ giác ngộ dân tộc, phân biệt rõ chính
sách phản động của bọn tà giáo cam tâm làm tay sai cho Mỹ

1. Trích thư của Tổng Bí thư Lê Duẩn gửi Trung ương Cục miền Nam ngày
16/11/1973, tài liệu lưu trữ tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng.
2. Chủ trương tăng cường công tác vận động tôn giáo tập trung chống Mỹ - ngụy
của Trung ương Cục ngày 11/01/1974, tài liệu lưu trữ tại Kho lưu trữ Trung ương
Đảng.

159
- Thiệu1.
Tiếp đó, tháng 3/1974, Thường vụ Trung ương Cục họp bàn
về đẩy mạnh công tác dân vận, xây dựng các đề án công tác
nông vận, thanh vận, phụ vận, mặt trận. Kết luận tại Hội
nghị, đồng chí Phạm Hùng nhấn mạnh: Muốn đánh bại chính
sách bình định của địch, tạo điều kiện thuận lợi để tiến lên lật
đổ ngụy quân, ngụy quyền, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền Nam thì phải nắm vững ba quan điểm về công tác
vận động quần chúng:
- Sự nghiệp cách mạng là do quần chúng và việc huy động,
phát động quần chúng là vấn đề gốc rễ trong mọi công tác
- Phải nắm vững vấn đề quần chúng, cơ bản là vấn đề cơ sở
- Trong vận động quần chúng phải xuất phát từ quyền lợi
của quần chúng. Liên minh công nông là nền tảng của Mặt
trận dân tộc thống nhất2.
Thực hiện chỉ đạo của Trung ương Cục, công tác dân vận,
Binh vận trên địa bàn Thủ Dầu Một được đẩy mạnh.

Nông vận: Cán bộ đảng viên bám nông dân, tìm hiểu rõ
tâm tư, nguyện vọng của nông dân về vấn đề ruộng đất, chính
sách ruộng đất được cách mạng chia cấp, vận động 50% nông
dân vùng giải phóng vào nông hội. Ban Chấp hành Nông hội
tỉnh tổ chức lớp đào tạo cán bộ nông hội huyện, xã, ấp, phổ
biến cách thức đẩy mạnh sản xuất, vận động nông dân vùng
yếu, vùng tạm chiếm đấu tranh chống đóng thuế nhà, thuế
ruộng, đòi về xóm cũ làm ăn, bảo vệ mùa màng, chống địch vơ
vét lúa gạo... Trong vụ mùa năm 1974, Nhân dân đã đóng góp

1. Chủ trương tăng cường công tác vận động tôn giáo tập trung chống Mỹ - ngụy
của Trung ương Cục ngày 11/01/1974, tài liệu lưu trữ tại Kho lưu trữ Trung ương
Đảng.
2. Kết luận của đồng chí Phạm Hùng tại cuộc họp của Thường vụ Trung ương
Cục bàn về đẩy mạnh công tác dân vận từ ngày 13 đến ngày 20/3/1974, tài liệu lưu trữ
tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng.

160
cho cách mạng trên 10.000 giạ lúa.

Công vận đẩy mạnh phong trào đình công, lãn công đấu
tranh trực diện với địch đòi hòa bình, đòi tăng lương theo mùa
vụ, tăng phụ cấp, đòi tiền thưởng, đòi được nghỉ lễ ngày 01/5;
chống tăng giá xăng dầu, chống đuổi bến... Ngày 12/5/1973,
hơn 200 công nhân cao su Phước Hòa (Tân Uyên) tổ chức bãi
công đòi chính quyền Sài Gòn thi hành Hiệp định Pari, đòi giới
chủ đồn điền tăng lương. Tiếp đó, công nhân còn phối hợp với
nông dân địa phương nổi dậy đấu tranh với lực lượng dân vệ,
bình định đòi được tự do đi lại, được trở về xóm cũ làm ăn.
Thanh vận tiến hành tuyên truyền vận động thanh niên
hiểu rõ trách nhiệm của thanh niên đối với vận mệnh của dân
tộc, đặc biệt cán bộ dân vận bám sát thanh niên, học sinh ở
thị xã, thị trấn, vùng tạm chiếm. Tuyên truyền, vận động, xây
dựng cơ sở cách mạng, tổ chức Đoàn Thanh niên nhân dân
cách mạng Hồ Chí Minh trong các trường học lớn, các khu vực
tôn giáo; trong các ấp chiến lược, vận động thanh niên vùng
tạm bị chiếm ra vùng giải phóng, gia nhập lực lượng vũ trang.
Thanh niên, đoàn viên ở xã, huyện, tỉnh tích cực chuẩn bị để
nổi dậy khi thời cơ đến nhằm lật đổ chế độ ngụy quân, ngụy
quyền.
Phụ vận: Công tác xây dựng cơ sở được triển khai trên cả
vùng giải phóng, vùng yếu, vùng tạm bị chiếm, đặc biệt là thị
xã, thị trấn thông qua hoạt động giao thương, chợ búa. Các
phong trào đấu tranh trực diện với địch đòi hòa bình, chống vơ
vét lúa gạo, chống bình định lấn chiếm, chống tăng giá xăng
dầu, chống đuổi chợ, đòi được buôn bán, đòi được tự do đi sớm
về tối phát triển mạnh mẽ ở Định Hòa, Tân An, Tân Định,
Tương Bình Hiệp, Chánh Phú Hòa, Mỹ Hảo Ngoài, Chánh
Lộc, Chánh Ngoài, Chánh Trong, Xóm Giếng, Chánh Thành,
Bình Nhâm, An Sơn, An Thạnh, Thuận Giao...
161
Trí giáo vận vận động xây dựng cơ sở trong các trường
học, vận động giáo viên, học sinh các trường trung học, tiểu
học đấu tranh chống bắt lính, chống quân sự hóa học đường,
chống đưa thanh niên, học sinh vào tổ chức “Thanh niên bảo
vệ quốc gia”.
Binh vận đẩy mạnh phong trào tuyên truyền chính sách
của chính phủ cách mạng, kêu gọi phong trào đấu tranh chống
quân dịch, trốn quân dịch, kêu gọi binh lính, phòng vệ dân sự
bỏ ngũ, bỏ súng về nhà. Điển hình ở Phú Thọ, Định Hòa, Tân
An (thị xã Thủ Dầu Một), Phú Mỹ, Tân Phước, Chánh Lưu,
Hòa Lợi (Châu Thành), tuần nào cũng có binh lính, dân vệ
bỏ ngũ, bỏ gác, chống lệnh hành quân hoặc án binh bất động,
tạo điều kiện để quần chúng tự do đi lại. Riêng trong tháng
9/1973, ở các đồn Thới Hòa, Mỹ Phước, Lai Khê, 76 binh sĩ Sài
Gòn đã bỏ ngũ về với cách mạng.

2. Công tác dân vận góp phần vào Tổng tiến công và
nổi dậy giải phóng hoàn toàn tỉnh Thủ Dầu Một

Đến cuối năm 1974, quân và dân miền Nam giành được
nhiều thắng lợi trên mọi mặt trận quân sự, chính trị, binh
vận, thời cơ hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân xuất hiện. Tháng 10/1974, Bộ Chính trị dự thảo Nghị
quyết nêu rõ: “Động viên sự nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ở cả hai miền trong thời gian 2 năm 1975-
1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự chính trị kết hợp với đấu
tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so
sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi
cho ta, tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành mọi công tác
chuẩn bị tạo điều kiện chín muồi tiến hành tổng công kích,
tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân đánh đổ
ngụy quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền
162
về tay nhân dân, giải phóng miền Nam”1.
Trên chiến trường B2, kế hoạch tác chiến năm 1975 dự
kiến chia thành 3 đợt: đợt 1 (từ tháng 12/1974 đến tháng
02/1975), đợt 2 (từ tháng 3/1975 đến tháng 6/1975), đợt 3 (từ
tháng 8/1975 đến tháng 10/1975). Đầu tháng 12/1974, chiến
dịch mùa khô năm 1974-1975 bắt đầu.
Để chiến dịch mùa khô năm 1974-1975 diễn ra thuận lợi,
Thường vụ Trung ương Cục chủ trương: Phát triển sâu rộng
công tác đấu tranh binh vận, phối hợp chặt chẽ với đấu tranh
quân sự, chính trị, tuyên truyền vận động sâu rộng nhằm vào
tất cả các đối tượng ngụy quân, ngụy quyền về chính sách
khoan hồng của chính phủ cách mạng.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, chủ trương của
Trung ương Cục, tháng 10/1974, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một ban
hành Nghị quyết nêu: “Đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định
lấn chiếm của địch, cùng quân dân toàn miền giành thắng lợi
to lớn có ý nghĩa quyết định, sẵn sàng mọi mặt cho những đợt
hoạt động mới tiếp theo trong năm 1975”2.
Ngày 20/01/1975, “Tỉnh ủy quyết định đề bạt, điều động bố
trí tăng cường một số cán bộ cho các ban ngành của tỉnh như
binh vận, dân vận, giao bưu, tăng thêm hai đội công tác cho Dĩ
An, hai đội cho nam Tân Uyên, một đội cho bắc Tân Uyên, mở
nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ sơ cấp cho cơ sở... Cấp ủy
các huyện, thị cũng tăng cường cán bộ cho xã, địa bàn trọng
điểm, tạo điều kiện cho cơ sở xã, ấp hoàn thành nhiệm vụ”3.

1. Nghị quyết tháng 10/1974 của Bộ Chính trị (theo Báo cáo tổng kết kinh ng-
hiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam
Trung Bộ (B2), Ban Tổng kết chiến tranh B2, tháng 02/1979).
2. Nghị quyết của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một tháng 10/1974 về “Đánh bại chính sách
bình định lấn chiếm mới của Mỹ - ngụy, tiến tới hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân”. Tư liệu số 57/NQ, lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945-1975), Sđd, tr. 650.

163
Đồng thời, Tỉnh ủy cũng quán triệt nhiệm vụ cho lực lượng
binh vận, dân vận các cấp, nhân dịp sĩ quan, binh lính, nhân
viên công chức ngụy quân, ngụy quyền nghỉ tết nguyên đán
Ất Mão, “phải đẩy mạnh cuộc vận động và tổ chức lực lượng
quần chúng, nhất là các gia đình binh sĩ đi tuyên truyền lôi
kéo chồng con, vào các hậu cứ tuyên truyền, vận động binh
lính trở về nhà ăn Tết. Trong tuyên truyền, vận động cần đặc
biệt chú ý tới các sĩ quan ngụy ở các tỉnh, huyện, cần nắm lại
số sĩ quan đang chỉ huy chi khu, tiểu khu và những đơn vị ở
địa phương và những người gốc địa phương đang ở nơi khác để
tổ chức tiến công”1.
Trong tháng 3/1975, quân và dân miền Nam giành thắng
lợi lớn trên các chiến trường Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng.
Ngụy quân, ngụy quyền bị đẩy vào tình thế hoang mang, rệu
rã, tình trạng phản chiến, rã ngũ trong hàng ngũ ngụy quân,
ngụy quyền xuất hiện. Ngày 24/3/1975, Trung ương Cục chủ
trương đẩy mạnh đấu tranh chính trị, tấn công binh vận với
quy mô có tính chất toàn dân, toàn diện để góp phần làm tan
rã lực lượng quân sự của địch, với những nội dung cơ bản:

- Tiến hành sâu rộng ở cả nông thôn và thành thị chống


địch bắt lính, vận động chồng, con em trở về với cách mạng,
kết hợp chặt chẽ cuộc đấu tranh đòi cải thiện đời sống với
phong trào diệt ác, phá kìm.
- Biến cao trào tấn công binh vận của quần chúng thành
cuộc vận động chính trị sâu rộng trong lực lượng phòng vệ dân
sự, binh sĩ ngụy và nhân viên ngụy quyền để họ hiểu rõ hơn về
chính sách khoan hồng của cách mạng
- Tổ chức phối hợp tác chiến đánh tan hàng mảng đồn bốt,
thúc đẩy binh biến khởi nghĩa từng đơn vị lớn.

1. Chủ trương phát triển sâu rộng công tác binh vận trong dịp Tết Ất Mão 1975
của Thường vụ Trung ương Cục, tài liệu lưu trữ tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng.

164
- Lấy bản tuyên bố chính sách 7 điểm làm nội dung phát
động bằng mọi hình thức thật phong phú, sáng tạo.
- Huy động khả năng các ngành Đài phát thanh, Thông
tấn xã, báo chí văn nghệ để tổ chức từng đợt tuyên truyền vận
động sôi nổi, liên tục.
- Tổ chức tập hợp lực lượng, nhanh chóng xây dựng hạt
nhân nòng cốt, xây dựng cơ sở cách mạng trong các loại quân
ngụy, từ đó đi sâu giáo dục, phát động đấu tranh du kích, xây
dựng cơ sở gồm hội viên đoàn thể, đoàn viên, đảng viên.

Ngày 02/4/1975, Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số


03/CT-TU chỉ rõ: “Các huyện ủy, thị xã ủy, xã ủy và chi bộ phải
nhạy bén với tình hình mới, phóng tay hết mức, mạnh dạn,
táo bạo phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa bằng tất cả
khả năng hiện có của mình để ấp giải phóng ấp, xã giải phóng
xã, huyện giải phóng huyện với lực lượng của bản thân... Các
huyện, xã cần nắm, chỉ đạo chặt chẽ lực lượng vũ trang của
mình, táo bạo đánh tua bót, kể cả một số mục tiêu then chốt,
các chi khu, thị trấn, thị xã khi có thời cơ và thấy chắc ăn là
phóng tay làm. Đồng thời phải gấp rút xây dựng lực lượng
chính trị, binh vận, chuyên môn và lực lượng lãnh đạo để đủ
sức liên tục tấn công địch nhằm tiếp tục đẩy ngụy quân, ngụy
quyền trong tỉnh vào một tình thế suy sụp mới”1.

Cùng với hoạt động quân sự, chính trị, công tác dân vận,
binh vận được đẩy mạnh trên hầu hết các huyện Châu Thành,
Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu Tiếng, Lái Thiêu, Dĩ An, thị xã Thủ
Dầu Một. “Bằng tất cả khả năng sẵn có của địa phương mà
mạnh dạn, táo bạo phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa,
ấp giải phóng ấp, xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện,
tỉnh giải phóng tỉnh bằng lực lượng của bản thân phối hợp

1. Công văn số 21/CV.X ngày 02/4/1975 của Thường trực Tỉnh ủy Thủ Dầu Một.
Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương.

165
với chiến trường chung”1. Nông dân vượt ấp chiến lược, công
nhân bỏ đồn điền bung về vùng giải phóng, bộ máy kìm kẹp
của địch lần lượt bị đập tan, ngụy quân, ngụy quyền rệu rã,
tan rã, quần chúng nổi dậy đấu tranh, gọi hàng binh lính địch
đầu hàng, vùng giải phóng được mở rộng... “Thời cơ ngàn năm
có một để quân dân ta tiến công, nổi dậy giải phóng hoàn toàn
tỉnh nhà, cùng quân dân toàn miền và cả nước giải phóng hoàn
toàn miền Nam”2.

Ngày 30/4/1975, toàn tỉnh Thủ Dầu Một được giải phóng,
Ủy ban quân quản đã nhanh chóng đưa lực lượng tiếp quản
các công sở của chính quyền địch, kết thúc 21 năm trường kỳ
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Quân và dân Thủ Dầu Một
hân hoan cùng cả dân tộc bước sang một thời kỳ mới.

*
* *

Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, vì mục tiêu độc lập,
thống nhất, tự do, hòa bình cho cả dân tộc, dù phải đương đầu
với một kẻ thù hùng mạnh, thực hiện cuộc chiến tranh không
cân sức, dù mất mát, hy sinh, nhưng cán bộ, chiến sĩ ngành
dân vận đã cùng quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một hiên ngang
bước dưới lá cờ của Đảng, trở thành một mũi tiến công trong 3
mũi tiến công chiến lược trong đường lối chiến tranh nhân dân
của Đảng trên địa bàn tỉnh.
Thời kỳ 1954-1975, chiến tranh ngày một khốc liệt, “sự
sống trở nên mong manh”, “cái chết luôn rình rập”; tổ chức bộ
máy không hoàn thiện; đội ngũ cán bộ thiếu, không chuyên
trách, chắp vá; nhưng cán bộ, chiến sĩ ngành dân vận tỉnh Thủ

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945-1975), Sđd, tr. 654.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh
Bình Dương (1945-1975), Sđd, tr. 657.

166
Dầu Một đã kế thừa kinh nghiệm dân vận từ thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, sẵn sàng hy sinh tất cả
để Tổ quốc quyết sinh, tận tâm, hết mình, khôn khéo, sáng
tạo, linh hoạt, tiến hành thanh vận, phụ vận, công vận, giáo
vận, trí vận, binh vận, ngụy vận, Mỹ vận,... để vận động tất cả
lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân
nào, góp thành lực lượng toàn dân.
Công tác dân vận thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
trên địa bàn tỉnh Thủ Dầu Một: từ chiến khu, vùng giải phóng
đến vùng tạm bị chiếm; từ vùng rừng núi, nông thôn, đồng
bằng, đến cả vùng đô thị,... dù công tác dân vận về hình thức,
phương pháp, cách thức tương tự như thời kỳ kháng chiến
chống Pháp, nhưng khó khăn, ác liệt hơn trong cách thực hiện,
phát triển đa dạng hơn về hình thức, rộng hơn về đối tượng
tiếp cận, sâu sắc hơn về nội dung tuyên truyền,... Tất cả tạo
thành sức mạnh tổng hợp của công tác dân vận thời kỳ chống
Mỹ cứu nước, góp phần cùng cả dân tộc hoàn thành nhiệm vụ
giải phóng, thống nhất đất nước.

167
Chương IV
CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG THỜI KỲ ĐẦU
CÙNG CẢ NƯỚC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
(1975 - 1986)

I. CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU


SAU GIẢI PHÓNG (1975-1976)

1. Công tác dân vận thời kỳ quân quản

Tình hình tỉnh Bình Dương sau ngày giải phóng


30/4/1975 và những yêu cầu mới của công tác dân vận

Ngày 30/4/1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước


toàn thắng. Nhân dân Thủ Dầu Một (Bình Dương ngày nay)
cùng Nhân dân cả nước bước vào thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Trong không khí cờ hoa của ngày chiến
thắng, ngày 15/5/1975, cuộc míttinh lớn được tổ chức trọng
thể tại sân vận động Gò Đậu. Sau đó, dưới sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy, của Ủy ban quân quản tỉnh, Nhân dân Thủ Dầu Một
(Bình Dương ngày nay) bắt tay ngay vào công cuộc hàn gắn
vết thương chiến tranh, ổn định cuộc sống, xây dựng đất nước.
Tuy nhiên, hậu quả của cuộc chiến tranh 30 năm để lại thật
nặng nề với muôn ngàn khó khăn trên tất cả các bình diện
kinh tế - xã hội.

Trên lĩnh vực an ninh chính trị, hàng vạn binh lính, công
chức, lực lượng phòng vệ dân sự của chế độ cũ đã tan rã tại
chỗ, nhưng vẫn còn một bộ phận không nhỏ vẫn ngoan cố tìm
cách chống phá chính quyền cách mạng.
Trên lĩnh vực kinh tế, Thủ Dầu Một (Bình Dương ngày
168
nay) vốn là một tỉnh nghèo, cơ sở vật chất - kỹ thuật lạc hậu,
thiếu thốn; người dân chủ yếu sống bằng kinh tế nông nghiệp,
khai thác tài nguyên rừng, làm đồn điền cao su và phát triển
các nghề thủ công truyền thống như gốm, sứ, sơn mài...
Sau tháng 4/1975, trên địa bàn tỉnh Thủ Dầu Một (Bình
Dương ngày nay), rừng nhiệt đới giàu có trước đây hầu như
đã bị bom đạn, chất độc hóa học tàn phá; đất đai nông nghiệp
phần lớn bị hoang hóa, chứa đầy các loại bom, mìn. Người dân
từ các loại ấp dân sinh, ấp chiến lược, hay người dân chạy loạn
vì chiến tranh, kể cả người dân sống ở chiến khu, vùng căn cứ
kháng chiến trước đây, “nay” trở về quê cũ thì nhà cửa không
còn hoặc rách nát, trâu bò, phương tiện lao động, đồ dùng sinh
hoạt, tất cả đều thiếu thốn.

Đồn điền cao su trên địa bàn tỉnh, số thì già cỗi, hết tuổi
khai thác, số thì bị bom đạn tàn phá. Do các đồn điền cao su
vốn nằm trong vùng chiến sự ác liệt, từ những năm 1972-
1974, các chủ tư bản đồn điền đã không còn đầu tư trồng mới
vì lo sợ chiến tranh, thay vào đó là chính sách khai thác tận
thu, theo lối vắt kiệt, nên, diện tích, sản lượng cao su đều
giảm. Các cơ sở công nghiệp trên địa bàn tỉnh hầu như không
có, chỉ có một số cơ sở tiểu thủ công nghiệp như gốm, sứ, sơn
mài, điêu khắc gỗ... và dịch vụ thương mại nhỏ lẻ... nhưng đều
ngưng hoạt động.

Cũng như các tỉnh khác trên toàn miền Nam, nền kinh
tế Thủ Dầu Một (Bình Dương ngày nay) trong 21 năm (1954-
1975) vốn phụ thuộc vào viện trợ của Mỹ, “nay” không còn,
nên tất cả trở nên “bơ vơ”, hàng chục ngàn người trong độ tuổi
lao động bị thất nghiệp, không có việc làm, nạn thiếu đói đe
dọa. Sau ngày giải phóng, thực hiện chủ trương giãn dân của

169
Đảng và Nhà nước, tỉnh đã đón 70.0001 người dân từ Thành
phố Hồ Chí Minh về xây dựng khu kinh tế mới, trong đó có
một số phần tử xấu, không quen lao động cần phải được cải
tạo để thành người lao động lương thiện. Trên lĩnh vực văn
hóa - xã hội, chính sách nô dịch về văn hóa, tư tưởng của chế
độ thực dân cũ và mới đã để lại những hậu quả nghiêm trọng
trong đời sống dân cư với cách suy nghĩ thực dụng, lối sống
thực dụng, sách báo, tranh, ảnh... đồi trụy tràn ngập, hàng
vạn người mù chữ.

Bên cạnh, tỉnh cũng có những thuận lợi cơ bản. Thủ Dầu
Một (Bình Dương ngày nay) có những ưu thế so sách về điều
kiện tự nhiên. Người dân vốn cần cù, năng động, thông minh,
sáng tạo, lập trường kiên định... được nuôi dưỡng bằng truyền
thống yêu nước và tinh thần cách mạng vô sản và đã được tôi
luyện, thử lửa qua 30 năm chiến tranh giải phóng khốc liệt
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên hầu hết
là những cán bộ cách mạng trung kiên, là những “vị tướng
giỏi” trên mặt trận quân sự.
Nhận thức được những khó khăn, thuận lợi trong những
ngày đầu giải phóng, quán triệt nội dung chỉ đạo của Thường
vụ Trung ương Cục miền Nam về “đẩy nhanh công tác tiếp
quản...” (01/5/1975), phát động phong trào sản xuất vụ mùa
(19/5/1975), tăng cường công tác quản lý nông thôn (13/6/1975),
đẩy mạnh công tác trấn áp bọn phản cách mạng (22/6/1975),
đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Ủy ban quân quản
tỉnh đề ra những nhiệm vụ cần làm ngay trước mắt là :
- Xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền cách mạng,
thực hiện tốt chế độ quân quản, tiến tới thành lập Ủy ban

1. Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé tại Đại hội Đảng bộ lần thứ
I (vòng 2), ngày 27/4/1977, trong hai năm 1975-1976 là 145.000 dân.

170
nhân dân cách mạng, nhưng tuyệt đối không được vì lý do nào
mà buông lơi hoặc coi nhẹ việc lãnh đạo nông thôn.
- Vận động binh lính, công chức chế độ cũ trình diện, động
viên họ tham gia học tập cải tạo theo đúng sự chỉ đạo của
Trung ương, truy quét tàn quân địch và bọn phản động, giữ
vững an ninh và trật tự xã hội
- Vận động tập hợp lực lượng và các đoàn thể quần chúng,
tiến hành khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.
Dưới chế độ mới, nhân dân Thủ Dầu Một (Bình Dương
ngày nay), đặc biệt là những “gia đình công chức chế độ cũ,
giới công, thương gia, các nhân sĩ, chức sắc tôn giáo vẫn trong
tâm trạng nghe ngóng, chờ đợi chủ trương, chính sách cụ thể
của chính quyền cách mạng”1. Do vậy, công tác dân vận trong
những ngày đầu giải phóng có vai trò đặc biệt quan trọng
nhằm vận động nhân dân tin tưởng chế độ mới, thực hiện các
nhiệm vụ cần thiết trước mắt để xây dựng chính quyền cách
mạng, khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định cuộc sống.

Thống nhất các tổ chức Mặt trận và đoàn thể, vận


động nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, xây
dựng và bảo vệ địa phương
Để ổn định tinh thần cho các tầng lớp nhân dân sau ngày
giải phóng, Ủy ban quân quản tỉnh cử cán bộ phối hợp với
dân vận, mặt trận, cùng các đoàn thể quần chúng như Đoàn
Thanh niên giải phóng, Hội Phụ nữ giải phóng,... tiến hành
phổ biến chính sách 10 điểm của Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam; tuyên truyền về thắng lợi và ý nghĩa
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; xóa bỏ hận thù, phổ
biến chính sách tự do tín ngưỡng, tự do không tín ngưỡng của
Đảng và Nhà nước; đồng thời kêu gọi, vận động quần chúng

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương
(1975-2010), Nxb. chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 32.

171
thực hiện các nhiệm vụ cần kíp trước mắt mà Ủy ban quân
quản đã đề ra.
Ngày 25/5/1975, Thường trực Tỉnh ủy Thủ Dầu Một ban
hành Chỉ thị số 04-CT/TU trong đó đánh giá các nhiệm vụ cần
kíp trước mắt chưa được cán bộ, đảng viên các cấp thực hiện
tốt và chưa đề cao cảnh giác cách mạng thường xuyên, liên tục,
“chưa triệt để truy quét, trấn áp bọn phản cách mạng; chưa
giáo dục đầy đủ cho lực lượng vũ trang, cán bộ các ban ngành về
những đặc điểm về địch, về nhân dân ở thành thị bị Mỹ - ngụy
kìm kẹp lâu ngày. Một số đơn vị, cơ quan còn lúng túng chưa
mạnh dạn phát động quần chúng...”1, đồng thời đề ra những
nhiệm vụ cấp bách trong thời gian tới với các nội dung chính:
Đẩy mạnh phong trào tố giác tội phạm lẩn trốn, không ra trình
diện; tiến hành xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng; phát
động phong trào khôi phục sản xuất trong toàn dân.

Tiếp đó, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục
miền Nam lần thứ 16 (tháng 7/1975), tầm quan trọng của công
tác dân vận tiếp tục được nhấn mạnh nhằm đẩy mạnh hơn
nữa việc tuyên truyền về ý nghĩa to lớn và nguyên nhân thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước; về công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội; vận động các tầng lớp nhân dân đề cao cảnh giác, hăng
hái tham gia công tác trấn áp các lực lượng phản cách mạng;
vận động quần chúng nhân dân nâng ý thức làm chủ tập thể
theo nguyên tắc dân làm chủ, Đảng lãnh đạo, tổ chức quần
chúng quản lý thực hiện2.

1. Trích Chỉ thị số 04-CT/TU ngày 25/5/1975 của Thường trực Tỉnh ủy Thủ Dầu
Một. Tư liệu lưu trữ tại Phòng lưu trữ - Văn phòng Tỉnh ủy Bình Dương (theo Ban
chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương (1975-2010),
Sđd, tr. 34).
2. Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Cục ngày 22/6/1975 về những vấn đề trước
mắt trong công tác trấn áp bọn phản cách mạng, tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung
ương Đảng.

172
Thực hiện Chỉ thị số 04-CT/TU của Thường trực Tỉnh ủy
và Nghi quyết Hội nghị lần thứ 16 của Trung ương Cục miền
Nam, dân vận, mặt trận cùng với các đoàn thể quần chúng
tiến hành cuộc vận động sâu rộng trên khắp địa bàn tỉnh.
Trên cơ sở nhận rõ tính chất và nhiệm vụ cách mạng trong
giai đoạn mới, công tác dân vận tiến hành đổi mới phương
thức công tác, vận động cán bộ, đảng viên, khắc phục lối tư
duy giản đơn, một chiều, quan liêu, mệnh lệnh, hống hách,
bàn giấy, sự vụ, giữ vững nguyên tắc dân chủ, có chương trình,
có kế hoạch một cách khoa học, chống lại chủ nghĩa tự do, tùy
tiện, vô kỷ luật, nâng cao ý thức cách mạng, ý chí cách mạng
trong quần chúng nhân dân để làm tốt những nhiệm vụ xây
dựng kinh tế, văn hoá, ổn định xã hội1. Do làm tốt công tác dân
vận, nên trong năm 1975, tỉnh đã đạt được một số thành tựu
đáng khích lệ.
Trên mặt trận an ninh trật tự, “từ tháng 5 đến giữa tháng
8/1975, quần chúng ở Dĩ An, Bến Cát, Châu Thành, Tân
Uyên... truy bắt gần 300 tên ngụy quân, ngụy quyền lẩn trốn
không ra trình diện. Cuối năm 1975, ta đã phát hiện, phá rã
tổ chức phản động Bình Nam phạt Bắc, ngăn chặn kịp thời âm
mưu phá hoại của bọn phản động, giữ vững trật tự an ninh, ổn
định đời sống nhân dân, phục hồi sản xuất”2.
Trên mặt trận củng cố, xây dựng chính quyền cách mạng,
cán bộ dân vận đã phối hợp với các đoàn thể quần chúng tiến
hành cuộc vận động nhân dân ở các địa phương tố cáo, cung
cấp tin tức về những thành phần cơ hội, những phần tử xấu trà
trộn trong bộ máy chính quyền mới được thành lập. Đến cuối
năm 1975, bộ máy chính quyền ba cấp (tỉnh, huyện, phường

1. Theo nội dung Nghị quyết Hội nghị lần thứ 16 của Trung ương Cục miền Nam
bàn về những công tác cấp bách sau giải phóng (tháng 7/1975), tài liệu lưu tại Kho
lưu trữ Trung ương Đảng.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương
(1975-2010), Sđd, tr 35.

173
xã) trên địa bàn tỉnh đã bước đầu hình thành, với “31 ban,
ngành, đoàn thể dân chính đảng” điển hình như:

- Về Đảng: tổ chức, tuyên huấn, dân vận, kiểm tra đảng,


thanh tra.
- Về chính quyền: Công an, giáo dục, y tế, thương binh -
xã hội, thương nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp,
thủy lợi, giao thông vận tải, xây dựng, tài chính.
- Về các đoàn thể chính trị - xã hội: Đoàn Thanh niên, Hội
Phụ nữ, Công đoàn, Nông hội, Mặt trận tổ quốc1.
Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, chính
quyền quân quản, và công tác tuyên truyền của dân vận và
của các đoàn thể quần chúng... các tầng lớp nhân dân phấn
khởi, tin tưởng, yên tâm làm ăn, gây dựng lại cuộc sống dưới
sự bảo vệ, giúp đỡ của chính quyền cách mạng. Số binh sĩ,
công chức của chính quyền cũ sau khi học tập, cải tạo đã trở
về hòa nhập với đời sống cộng đồng, tham gia xây dựng cuộc
sống mới.
Trên mặt trận kinh tế, để khắc phục vết thương chiến
tranh, khôi phục, mở rộng sản xuất, ổn định đời sống nhân
dân, nhiệm vụ của công tác dân vận là dấy lên một phong trào
thi đua lao động sôi nổi “biến nguồn tài nguyên phong phú của
đất nước ta thành nguồn của cải bất tận của nhân dân, thành
nông nghiệp hiện đại, công nghiệp hiện đại và văn hoá, khoa
học tiên tiến”2.
Về nông nghiệp, từ giữa năm 1975, thực hiện Chỉ thị số 07
ngày 19/5/1975 của Thường vụ Trung ương Cục và chỉ đạo của
Đảng bộ, Ủy ban quân quản, cán bộ dân vận cùng các đoàn

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương
(1975-2010), Sđd, tr 38.
2. Thông tư số 320-TT/TW ngày 04/8/1975 của Ban Bí thư về kỷ niệm lần thứ 30
ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (02/9/1945 - 02/9/1975).

174
thể quần chúng như Đoàn thanh niên giải phóng, Hội Phụ nữ
giải phóng, Nông hội... tiến hành vận động nhân dân các địa
phương đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nhanh chóng phục
hồi và mở rộng diện tích trồng trọt và chăn nuôi; vừa phải
tích cực khắc phục khó khăn trước mắt để từng bước cải tiến
kỹ thuật, thâm canh nhằm tăng năng suất và sản lượng cây
trồng, tăng số lượng và chất lượng đàn gia súc1.
Vùng đất phía nam của tỉnh là vùng tiếp giáp với Sài Gòn,
trong chiến tranh đây là vùng vành đai bảo vệ đô thành, do
vậy, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã gom dân lập phòng tuyến,
xây dựng thành hàng rào bảo vệ nghiêm ngặt, cùng với những
vùng xung quanh thị xã, thị trấn, là những vùng đồng ruộng
ít có bom mìn, đồng thời cư dân nông nghiệp đã có sẵn công
cụ sản xuất cơ giới như máy cày, máy xới, máy bơm nước... Do
vậy, nhiệm vụ dân vận là vận động nông dân tham gia canh
tác, chăn nuôi với quyết tâm gieo trồng hết diện tích đã có,
tiến hành phục hóa, khai hoang tăng thêm diện tích trồng
trọt, làm tốt các khâu chọn giống, làm đất, tận dụng các nguồn
phân bón sẵn có và làm tốt các biện pháp kỹ thuật nhằm đạt
năng suất và sản lượng cao nhất, sao cho sản xuất nông nghiệp
bảo đảm đủ lương thực và thực phẩm để ổn định đời sống2.
Vùng đất phía bắc của tỉnh vốn là vùng chiến khu, căn cứ
kháng chiến như Bến Cát, Phú Giáo, Chiến khu Đ, Dầu Tiếng
nơi thường xuyên diễn ra các cuộc hành quân càn quét bắn
phá của đối phương, nên đất đai chứa đầy bom đạn, chất độc
hoá học, ruộng rẫy trở nên xơ xác, đất đai hoang hóa. Do vậy,
để khai hoang phục hóa, tỉnh không chỉ cho các đơn vị công
binh của tỉnh, của huyện và đơn vị công binh Sư đoàn 312
(Quân đoàn 1) tiến hành tổ chức rà soát, tháo gỡ bom mìn, mà

1. Chỉ đạo của Thường vụ Trung ương Cục về phát động phong trào sản xuất vụ
mùa năm 1975 (19/5/1975), tài liệu lưu tại kho Lưu trữ Viện Lịch sử Đảng.
2. Chỉ đạo của Thường vụ Trung ương Cục về phát động phong trào sản xuất vụ
mùa năm 1975 (19-5-1975), tài liệu lưu tại kho Lưu trữ Viện Lịch sử Đảng.

175
còn phải điều chuyển, phân bố lại lực lượng lao động. Vì vậy,
công tác dân vận trở nên nặng nề hơn, phải tiến hành vận
động nhân dân thực hiện chính sách giãn dân, xây dựng vùng
kinh tế mới, bám ruộng rẫy phát triển sản xuất, chăn nuôi.
Trong năm 1975, cùng với việc giúp đỡ khoảng 70.000 dân
thành phố Hồ Chí Minh lên xây dựng vùng kinh tế mới trên
địa bàn tỉnh, công tác dân vận còn tiến hành vận động, thuyết
phục, giúp đỡ khoảng 30.000 dân từ thị xã, thị trấn, các khu cư
xá gia binh trong tỉnh đi xây dựng vùng kinh tế mới.
Thực tế việc vận động, tổ chức đưa dân cư đến xây dựng
các vùng kinh tế mới trên vùng đất hoang hóa bị chiến tranh
tàn phá là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp. Công tác dân
vận vừa phải tiến hành vận động, thuyết phục các thành phần
cư dân, người lao động thực hiện chính sách giãn dân, vừa
phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết từ đường giao thông, nhà
cửa, ruộng vườn, dụng cụ lao động, giống, phân bón, đến lương
thực, thực phẩm, nước uống, thuốc chữa bệnh cho cư dân kinh
tế mới trong thời gian đầu. Vì vậy, ngoài việc thành lập Ban
Chỉ đạo, tỉnh còn bố trí 2 đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh
ủy trực tiếp phụ trách chỉ đạo; điều động một số đảng viên làm
nòng cốt xây dựng bộ khung chi bộ, chính quyền, các đoàn thể
ở vùng kinh tế mới; huy động lực lượng dân vận, mặt trận, các
đoàn thể quần chúng như Đoàn Thanh niên giải phóng, Hội
Phụ nữ giải phóng, Hội Nông dân giải phóng... tham gia tháo
gỡ bom, mìn. Công tác dân vận được thực hiện từ việc tiếp
cận người lao động thất nghiệp, chưa có công ăn việc làm, vận
động, tuyên truyền, giải thích chủ trương giãn dân của Đảng,
Nhà nước để người dân hiểu rõ đây là một chủ trương lớn,
vừa có ý nghĩa giải quyết nạn thất nghiệp, vừa ý nghĩa phân
bố lại lực lượng lao động trong phạm vi cả nước để xây dựng
phát triển kinh tế mang tính chiến lược lâu dài; sau đó, động
viên người dân tích cực tham gia, cùng giúp dân thu ghém đồ
đạc, vận chuyển lên vùng kinh tế mới, tham gia lo cơm, nước,
176
thuốc men, dựng nhà cửa, khai mở ruộng vườn trong những
ngày đầu khó khăn.
Đối với kinh tế đồn điền, sau khi tiếp quản các đồn điền cao
su Phước Hòa, Dầu Tiếng, các nông trường quốc doanh được
thành lập, bộ phận công vận, cùng với công đoàn, Đoàn Thanh
niên giải phóng, Hội Phụ nữ giải phóng được củng cố, đã vận
động công nhân đứng lên làm chủ, khắc phục khó khăn, đẩy
mạnh sản xuất, tiến hành trồng mới, chăm sóc và khai thác số
cao su đang cho mủ.
Về công nghiệp, trong chiến tranh, các ngành công nghiệp
của tỉnh hầu như không có gì, chỉ có một số cơ sở sản xuất
tiểu thủ công nghiệp như gốm sứ, sơn mài, chạm khắc gỗ, làm
đường... nhưng đã ngưng sản xuất do thiếu nguyên vật liệu.
Ngày 04/9/1975, thực hiện chủ trương “đưa tiểu công nghiệp,
thủ công nghiệp vào con đường sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa
bằng cách sắp xếp lại theo ngành và hoạt động dưới sự quản lý
của Nhà nước, theo những hình thức khác nhau”1, dưới sự lãnh
đạo của Tỉnh ủy, chỉ đạo của Ủy ban quân quản, nhiệm vụ của
công tác dân vận là vận động các chủ cơ sở sơn mài, gốm sứ, cơ
khí bước vào con đường làm ăn tập thể. Dù rất khó khăn, tuy
nhiên, bước đầu, các xí nghiệp quốc doanh trên địa bàn tỉnh lần
lượt được thành lập, điển hình như: Xí nghiệp quốc doanh Sơn
mài Thành Lễ, Xí nghiệp quốc doanh Cơ khí 30/4, Xí nghiệp
quốc doanh gốm sứ Thanh Vĩnh. Người công nhân từ thân phận
nô lệ, làm thuê đã trở thành người làm chủ đồn điền, xí nghiệp.
Số cơ sở tiểu thủ công nghiệp tư nhân còn lại trên địa bàn
tỉnh lên đến hàng ngàn, nhưng hầu như không hoạt động do
tác động của chủ trương cải tạo công thương nghiệp. Đứng
trước thực trạng đó, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, nhiệm
vụ của công tác dân vận là vận động các chủ cơ sở tiến hành
khôi phục sản xuất, vừa giải quyết công ăn việc làm cho hàng

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 37, tr. 146.

177
chục ngàn lao động, vừa sản xuất tạo ra sản phẩm hàng hóa
cho thị trường giải quyết một phần khó khăn trước mắt trong
khi chờ đợi chủ trương chính sách mới của Đảng, Nhà nước.
Kết quả, có hơn 450 cơ sở sản xuất gạch, gốm, đường, sơn mài,
điêu khắc gỗ... tự lo nguyên liệu, khôi phục sản suất1.
Về thương nghiệp, dịch vụ, tỉnh thực hiện chủ trương
“chuyển bộ phận lớn sang sản xuất, đồng thời phải ra sức phát
triển hệ thống thương nghiệp quốc doanh rộng khắp đủ sức
nắm và tổ chức phân phối tốt những tư liệu sinh hoạt thiết
yếu đến tận tay người tiêu dùng”2, tiến hành bình ổn giá, bảo
đảm lưu thông phân phối đến người tiêu dùng trong điều kiện
khan hiếm hàng hóa.
Từ tháng 9/1975, nhiệm vụ của công tác dân vận là vận
động tư thương chuyển đổi cung cách làm ăn, thuyết phục họ
trực tiếp tham gia sản xuất, hoặc tổ chức đăng ký kinh doanh,
tham gia vào các loại hình làm ăn tập thể, tham gia xây mô
hình thương nghiệp quốc doanh cấp tỉnh (công ty cấp 2), cấp
huyện (công ty cấp 3), cấp xã (cửa hàng mua bán, hợp tác xã
mua bán). Đến cuối năm 1975, ngành thương nghiệp của tỉnh
đã tổ chức được 223 cửa hàng lương thực, thực phẩm, cửa hàng
mua bán, hợp tác xã mua bán phân bố từ tỉnh, huyện xuống
tới phường, xã, phục vụ cán bộ công nhân viên, nhân dân,
đồng thời góp phần tích cực vào việc bình ổn giá cả thị trường.
Vận động nhân dân xây dựng xã hội mới, nền văn
hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa
Công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc
sống mới còn có một nhiệm vụ quan trọng, đó là thực hiện cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng và văn hoá, xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra cho người dân một

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương
(1975-2010), Sđd, tr 47.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 37, tr. 146.

178
cuộc sống tinh thần, văn hoá phong phú, có tính chất dân tộc,
khoa học và đại chúng, đó là nền văn hóa kết tinh và nâng cao
truyền thống văn hóa 4.000 năm lịch sử của dân tộc Việt Nam
mà cốt lõi là truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường,
sáng tạo, cần cù, lạc quan, yêu đời.
Chủ tịch Hồ Chủ tịch đã nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”1, con
người xã hội chủ nghĩa đó là con người lao động Việt Nam làm
chủ tập thể. Để thực hiện điều đó, dưới sự lãnh đạo của các cấp
ủy, nhiệm vụ của công tác dân vận là tiến hành vận động các
tầng lớp nhân dân xóa bỏ những tàn dư về tư tưởng và văn hoá
của chế độ cũ, xóa bỏ các loại sách báo nô dịch, đồi trụy, phản
động, cùng với các hủ tục, mê tín dị đoan,... đồng thời đẩy mạnh
các hoạt động chuẩn bị kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc
khánh 02/9 lần đầu tiên sau khi đất nước thống nhất. Nhiệm vụ
của công tác dân vận là khơi dậy truyền thống đấu tranh cách
mạng anh dũng, tinh thần tự lực, tự cường, ý chí độc lập, tự do và
thống nhất Tổ quốc: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; “Toàn
Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt
Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”2.
Sau gần 8 tháng vận động xây dựng, xã hội mới, nền văn
hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa bắt đầu định hình;
nhiều phong trào văn hóa, xã hội được phát động rộng rãi khắp
trên địa bàn tỉnh. Điển hình là phong trào quần chúng bài trừ
văn hóa đồi trụy, phản động, xây dựng đời sống văn hóa mới,
con người mới xã hội chủ nghĩa; phong trào thể dục - thể thao
trong thanh niên học sinh; phong trào giữ vệ sinh làng xóm,
thôn ấp; đặc biệt là phong trào “thống kê những số liệu cơ bản
về tình hình thiệt hại do Mỹ - ngụy gây ra về người và của, đối

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 310.


2. Thông tư số 320-TT/TW ngày 04/8/1975 của Ban Bí thư về kỷ niệm lần thứ 30
ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (02/9/1945 - 02/9/1975).

179
với xã hội và thiên nhiên và những hậu quả của những tội ác
đó trong địa phương mình”1.

2. Công tác dân vận trong năm đầu tỉnh Sông Bé


thành lập

Tháng 02/1976, tỉnh Thủ Dầu Một và Bình Phước được sáp
nhập thành tỉnh Sông Bé. Trên cơ sở đó, Tỉnh ủy Sông Bé cũng
được thành lập để thực hiện chức năng lãnh đạo, trong đó,
Đảng ủy khối đảng và dân vận2 gồm nhiều cán bộ, đảng viên
có nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn vận động quần chúng.
Tất cả được bố trí trong các tổ chức cơ sở đảng: Văn phòng
Tỉnh ủy, Ban Tổ chức, Ban Kiểm tra, Mặt trận Tổ quốc, Tỉnh
đoàn, Hội phụ nữ, Công đoàn, Hội Nông dân.
Tỉnh quán triệt Thông báo số 01-TB/TW ngày 23/01/1976
của Ban Bí thư về công tác dân vận và mặt trận; đặc biệt là
Nghị quyết số 249 của Bộ Chính trị ngày 29/3/1976 về chức
năng, nhiệm vụ của công tác dân vận và mặt trận trong thời
kỳ cách mạng mới. Thực hiện thông báo của Ban Bí thư và
Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Dân vận và Mặt trận tỉnh
Sông Bé được thành lập, ông Võ Văn Đợi (Võ Minh Đức - Ủy
viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy) được cử làm Trưởng Ban. Ngoài
ra, Ban Dân vận và Mặt trận còn có Huỳnh Văn Cường (tức
ông Hoàng Xích Thanh), Huỳnh Văn Điển, Trần Khắc Minh,
Đinh Thị Phạn và Hòa thượng Thích Thiện Tràng3.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội của Đảng bộ Sông Bé về
những nhiệm vụ trước mắt, công tác dân vận xác định công
tác trọng tâm là vận động các tầng lớp nhân dân “ra sức phát

1. Công điện số 146 của Ban Bí thư ngày 09/8/1975 về thống kê số liệu bước đầu
về tội ác do địch gây ra trên địa bàn tỉnh, tài liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương
(1975-2010), Sđd, tr. 57.
3. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Dương: Lịch sử Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam tỉnh Bình Dương (1930-2015), Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà
Nội, 2019, tr. 220.

180
triển nông nghiệp, trước mắt bảo đảm đủ lương thực cho các
lực lượng trong tỉnh, sau đó có dư để góp vào kho lương thực
chung của cả nước, phát huy thế mạnh của tỉnh về rừng cao
su, phục hồi và phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp, đẩy
mạnh phát triển giao thông vận tải và xây dựng cơ bản, nâng
cao thu nhập của nhân dân trong tỉnh, cải thiện một bước đời
sống của quần chúng, không ngừng đẩy mạnh việc phát triển
sự nghiệp y tế, văn hoá, giáo dục, thực hiện tốt chủ trương
chính sách của Đảng và Chính phủ”1.
Quán triệt tinh thần các Nghị quyết 22, 23, 24 của Trung
ương Đảng về công tác vận động quần chúng, lực lượng làm
công tác dân vận của tỉnh được huy động rộng rãi gồm các cấp
ủy, Mặt trận tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông
dân, Công đoàn... từ tỉnh đến huyện, xã để thực hiện nhiệm
vụ chính trị mới, đồng thời kiểm tra, thảo luận, lấy ý kiến
quần chúng, tránh thái độ gia trưởng, phong kiến, coi thường
thanh niên, coi thường phụ nữ, cải tiến lề lối làm việc, tránh
tác phong quan liêu, giấy tờ2.
Trên mặt trận nông nghiệp, lực lượng làm công tác dân
vận phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội vận động nông
dân ra sức tập trung sản xuất nông nghiệp, phấn đấu đến năm
1980 đạt 480.000 tấn lương thực (quy ra lúa)3; 300.000 con
trâu bò, 30.000 tấn thịt các loại, 3.800 tấn cá nuôi; khai thác
240.000m3 gỗ tròn, 15.000.000 cây tre, nứa, lồ ô... phục vụ đời
sống dân sinh và xây dựng cơ bản.
Để thực hiện mục tiêu trên, lực lượng làm công tác dân vận,
mặt trận tiến hành động viên từng người lao động, từng xóm,
từng làng, từng huyện, phát động phong trào quần chúng làm

1. Trích Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé tại Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ I (vòng 2) ngày 27/04/1977.
2. Thông báo số 01-TB/TW ngày 23/01/1976 về cuộc họp của Ban Bí thư bàn một
số vấn đề về công tác dân vận và mặt trận, tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng.
3. Mỗi đầu người đạt khoảng 400kg lương thực.

181
thủy lợi, khai thác thế mạnh của tài nguyên nhiên nhiên, tập
trung lực lượng lao động, đẩy mạnh công tác khai hoang, thâm
canh, tăng vụ, sử dụng giống mới, làm phân hữu cơ, cải tạo
đất phèn mặn, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, phát triển
chăn nuôi, trồng cây, gây rừng, bảo vệ, khai thác gỗ, củi, than,
lâm sản,... Ban Dân vận và Mặt trận tỉnh phối hợp với các tổ
chức chính trị - xã hội vận động nông dân kiên quyết phá bỏ
tàn dư của chế độ phong kiến và thực dân kiểu mới về chiếm
hữu ruộng đất, đồng thời vận động, tổ chức nông dân đi vào
làm ăn tập thể bằng các hình thức từ vần công, đổi công trong
từng vụ, trong từng việc; xây dựng thí điểm một số hợp tác xã
nông nghiệp, xây dựng tập đoàn sản xuất, nông trường quốc
doanh, cải tạo quan hệ sản xuất ở nông thôn đưa sản xuất
nông nghiệp đi dần lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Trên mặt trận công, thương nghiệp, lực lượng làm công
tác dân vận phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội như
công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ... trong nhà máy,
xí nghiệp, hợp tác xã, phát động các phong trào thi đua lao
động xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng tiêu
dùng từ nguồn nguyên liệu địa phương như chế biến mủ cao
su, thảm len, gốm sứ, sơn mài, mây tre, đồ gỗ..., đặc biệt là
sản xuất, sửa chữa các công cụ sản xuất nông nghiệp như máy
cày, máy xới, máy bơm nước, bình xịt thuốc trừ sâu, máy xay
xát, cuốc, thuổng, xẻng, dao, rựa... phục vụ nông nghiệp và chế
biến hàng nông sản.
Lực lượng làm công tác dân vận của tỉnh còn phối hợp với
công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ tiến hành cuộc vận
động cải tạo các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tư
nhân như gốm sứ, gạch ngói, sơn mài, đường thủ công, chế
biến thức ăn gia súc...; thuyết phục, vận động giới tư sản, tiểu
chủ, hướng dẫn họ thực hiện đúng chính sách cải tạo xã hội
chủ nghĩa, tham gia làm ăn tập thể, xây dựng hợp tác xã, công
tư hợp doanh hoặc thành lập các cơ sở quốc doanh theo mô
182
hình kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Trên mặt trận thương nghiệp, lưu thông phân phối, mục
tiêu là hướng công tác lưu thông phân phối theo yêu cầu của
việc phân bố lại lao động, chú trọng đến vùng căn cứ cũ, vùng
dân tộc thiểu số, vùng kinh tế mới, bảo đảm phân phối hàng hóa
đến tay người tiêu dùng ngày một đa dạng, bảo đảm các nhu
cầu tối thiểu của Nhân dân về lương thực, thực phẩm, thuốc
men, vải vóc, đồ mộc, gốm sứ, mây tre, than củi, dụng cụ lao
động sản xuất. Để thực hiện mục tiêu trên, lực lượng làm công
tác dân vận của tỉnh phối hợp với các tổ chức đoàn thể tiến hành
cuộc vận động cải tạo tư thương, sử dụng các biện pháp trưng
thu, trưng mua phương tiện của tư thương, biến thành tài sản
quốc doanh; thuyết phục một bộ phận tư thương chuyển sang
lao động sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp; một bộ phận
chọn làm đại lý bán lẻ hàng hoá cho thương nghiệp quốc doanh,
hay công tư hợp doanh; đẩy mạnh công tác xây dựng hợp tác xã
mua bán, thương nghiệp quốc doanh; vận động, hướng dẫn tiểu
thương làm ăn thật thà, ngay thẳng, chống nạn buôn gian, bán
lậu, đầu cơ, tích trữ hàng hóa, phá giá thị trường. Đồng thời kết
hợp các biện pháp giáo dục, phát động quần chúng, kết hợp các
biện pháp kinh tế và hành chính để bảo đảm cho công cuộc cải
tạo công thương nghiệp tư nhân, giành thắng lợi tốt nhất và
nhanh gọn nhất. Đến cuối năm 1976, trên địa bàn tỉnh thương
nghiệp xã hội chủ nghĩa bắt đầu hình thành, một bộ phận tiểu
thương được vận động, thuyết phục chuyển sang lao động sản
xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp.
Trên mặt trận y tế, văn hóa, giáo dục, lực lượng làm công
tác dân vận của tỉnh phối hợp với các đoàn thể tiến hành cuộc
vận động các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện cuộc cách
mạng tư tưởng văn hóa, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống
nhất và xã hội chủ nghĩa; xây dựng một nền văn hoá, văn
nghệ, giáo dục có nội dung xã hội chủ nghĩa, mang tính dân
183
tộc, tính đảng và tính nhân dân rộng rãi, xoá sạch những tàn
dư văn hóa, văn nghệ đồi truỵ, lai căng, ủy mị.
Về giáo dục, lực lượng làm công tác dân vận tiến hành vận
động kết hợp giáo dục giữa nhà trường với các gia đình, với xã
hội; giáo dục kết hợp giữa học tập lý thuyết với lao động thực
tiễn... để phát triển, hoàn thiện nhân cách con người mới xã
hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh phong trào xoá nạn mù chữ; vận
động người biết chữ nhiều chỉ cho người biết chữ ít; phát động
phong trào học bổ túc văn hóa, học tại chức; đồng thời tổ chức
dạy nghề cho thanh niên.
Về văn hóa, văn nghệ, lực lượng làm công tác dân vận đã vận
động các đoàn thể chính trị xã hội và Nhân dân đẩy mạnh phong
trào văn hoá văn nghệ quần chúng với hình thức tự biên, tự diễn;
phổ biến sâu rộng các loại hình ca, múa, nhạc cách mạng, gây
một phong trào vui tươi, lạc quan, yêu đời; xóa bỏ tàn dư văn
nghệ đồi trụy của chế độ cũ còn rơi rớt lại, xây dựng gia đình văn
hoá mới, nếp sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa...
Về y tế, thể dục, thể thao, lực lượng làm công tác dân vận
đã đẩy mạnh phong trào vệ sinh, phòng bệnh hơn chữa bệnh,
ăn sạch, ở sạch, ăn chín, uống sôi, đẩy lùi dịch bệnh, sinh đẻ
có kế hoạch, đồng thời vận động đẩy mạnh phát động phong
trào thể dục thể thao trong lứa tuổi, rèn luyện thân thể cường
tráng, khỏe mạnh, sức khỏe tốt để xây dựng đất nước, xây
dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc vững chắc.

II. CÔNG TÁC DÂN VẬN THỜI KỲ BAN DÂN VẬN -


MẶT TRẬN (1977-1980)

1. Vận động quần chúng tham gia các phong trào thi
đua yêu nước, bước đầu xây dựng mô hình kinh tế xã
hội chủ nghĩa

Tháng 11/1976, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần
184
thứ I (vòng 1) được tổ chức. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh. Tiếp đó Ban Dân vận và Mặt trận của tỉnh được thành
lập do Võ Văn Đợi (Võ Minh Đức) - Ủy viên Ban Thường vụ
Tỉnh ủy được cử làm Trưởng ban.
Quán triệt Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 08/3/1977 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường công tác dân vận và
mặt trận, Tỉnh ủy Sông Bé đã chỉ đạo Ban Dân vận và Mặt
trận thông qua hoạt động của Nhà nước và của các đoàn thể
quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng mà phát huy vai trò
chủ động và óc sáng tạo của nhân dân, dấy lên những phong
trào thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa
xã hội, khiến mọi hoạt động của quần chúng đều trở thành
hoạt động có tổ chức trên quy mô lớn phù hợp với quy luật
khách quan, kết hợp chặt chẽ tính cách mạng với tính khoa
học, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, xóa bỏ cái cũ, sáng tạo
cái mới1.
Dù mới ra đời, lực lượng còn mỏng, thiếu kinh nghiệm thực
tiễn trong giai đoạn cách mạng mới, nhưng Ban Dân vận và
Mặt trận tỉnh Sông Bé đã nhanh chóng phối hợp với các tổ
chức như Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Nông
hội... đi sâu sát quần chúng, phát động, dấy lên các phong trào
thi đua yêu nước, khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh
lao động sản xuất; tiến hành xây dựng các tổ đội lao động xã
hội chủ nghĩa, phát huy tinh thần tiên phong gương mẫu của
người đảng viên, đoàn viên, quyết tâm hoàn thành các mục
tiêu, kế hoạch kinh tế - xã hội theo đúng Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và Nghị quyết Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ I đã đề ra.
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, Ban Dân vận
và Mặt trận tỉnh Sông Bé đã tiến hành tuyên truyền, vận

1. Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 08/3/1977 của Ban Bí thư về tăng cường công tác
dân vận và mặt trận.

185
động, giao trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên, các tổ chức xã
hội từ tỉnh đến các huyện, xã, trong cơ quan, xí nghiệp, trường
học làm nòng cốt trong các phong trào thi đua yêu nước, đặc
biệt là phong trào giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức; tuyên
truyền sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách
của Đảng; đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa; lao động sản
xuất, cần kiệm; xây dựng các tổ, đội lao động giỏi, tổ, đội lao
động tiên tiến; phát huy vai trò xung kích của thanh niên,...
nhằm nâng cao sự đoàn kết, nhất trí trong toàn đảng, toàn
dân.
Trên mặt trận nông nghiệp, Ban Dân vận và Mặt trận
“khẩn trương, tích cực, tập trung tuyên truyền, giáo dục, vận
động đưa đại bộ phận nông dân vào các hình thức tập dượt, nơi
nào còn làm ăn cá thể thì tổ chức nông dân đoàn kết sản xuất
hoặc tập đoàn sản xuất; nơi nào đã có hình thức làm ăn tập thể
chất lượng còn yếu thì tích cực củng cố và nâng cao. Nơi nào
đã có các hình thức tập dượt và đã củng cố vững chắc, có đủ
điều kiện thì đưa lên hợp tác xã; ở những xã kinh tế mới, tạo ra
những điều kiện thuận lợi và vững chắc để mở rộng phong trào
hợp tác xã”1. Đến năm 1978, phần lớn nông dân trên địa bàn
tỉnh đều được vận động, khuyến khích tham gia vào các hình
thức làm ăn tập thể; tiến hành xây dựng các tập đoàn sản xuất
và mở rộng mô hình hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.
Để nâng cao công tác dân vận trong tình hình diễn ra cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam, ngày 05/8/1978, Tỉnh ủy Sông
Bé ban hành Chỉ thị số 13-CT/TU đổi mới công tác dân vận,
đẩy mạnh cuộc vận động nông dân, cụ thể: Nhanh chóng tạo
ra một sự chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng, về tổ chức, về
tác phong, về lề lối làm việc... từ cấp tỉnh xuống đến các cấp
huyện, xã, ấp; trong đó, củng cố xã, ấp và các cơ sở sản xuất

1. Nghị quyết số 01/NQ-TU ngày 29/5/1978 của Tỉnh ủy Sông Bé về công tác cải
tạo nông nghiệp. Tư liệu lưu trữ tại Phòng lưu trữ - Văn phòng Tỉnh ủy Bình Dương,
tr.110.

186
kinh doanh là nhiệm vụ trung tâm, bảo đảm sự vận động quần
chúng thông suốt với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, thực
hiện có hiệu lực nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất và chuẩn bị sẵn
sàng chiến đấu trong mọi tình huống1.
Quán triệt Chỉ thị số 13-CT/TU của Tỉnh ủy, Ban Dân vận
- Mặt trận cùng các đoàn thể quần chúng tiến hành vận động,
thuyết phục nông dân từ bỏ lối làm ăn riêng lẻ, tư nhân, cá
thể, để tham gia làm ăn lớn dưới dạng tập thể, xây dựng hợp
tác xã sản xuất, tập đoàn sản xuất theo phương châm “tự giác,
dân chủ và cùng có lợi”.
Cùng với việc vận động nhân dân trong tỉnh đẩy mạnh,
phát triển sản xuất, Ban Dân vận - Mặt trận còn tham gia
động viên, giúp đỡ khoảng 80.000 người dân Thành phố Hồ
Chí Minh đến tỉnh trong đợt 22 và 25.000 người dân Thái Bình,
Hà Sơn Bình đến tỉnh xây dựng vùng kinh tế mới, vốn họ là
những người dân nghèo, đến tỉnh theo chính sách giãn dân,
cần được hướng dẫn, giúp đỡ trong những ngày đầy khó khăn,
lạ nước, lạ đất...
Trong những năm 1976-1980, do điều kiện kinh tế - xã hội
của tỉnh đang gặp nhiều khó khăn, thù trong, giặc ngoài chống
phá, nên cuộc vận động cải tạo xã hội chủ nghĩa trên mặt trận
nông nghiệp không đạt được mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, đến
cuối năm 1979, toàn tỉnh cũng đã xây dựng được 152/251 hợp
tác xã, 575/2.169 tập đoàn sản xuất, thu hút trên 47% nông
dân và 56,3% diện tích ruộng đất đưa vào làm ăn tập thể,
trong đó, thị xã Thủ Dầu Một đạt 10,3% (13/216 tập đoàn sản
xuất), huyện Thuận An đạt 22,5% (18/80 tập đoàn sản xuất),
huyện Bến Cát đạt 13,6% (38/275 tập đoàn sản xuất), huyện

1. Chỉ thị số 13-CT/UT của Tỉnh ủy Sông Bé ngày 05/8/1978 về tăng cường củng
cố cơ sở bảo đảm làm tốt nhiệm chiến đấu, sản xuất và sẵn sàng chiến đấu.
2. Cùng với 70.000 đợt 1, tổng cộng có160.000 dân Thành phố Hồ Chí Minh.

187
Tân Uyên đạt 22,4% (86/384 tập đoàn sản xuất)1.

Ngành trồng trọt: Tổng diện tích gieo trồng năm 1976 là
95.197ha, năm 1979 là 118.542ha; tổng diện tích gieo trồng
cây lương thực năm 1978 là 49.218ha, năm 1979 là 118.542ha;
tổng sản lượng đạt 215.800 tấn, trong đó có 100.900 tấn màu
quy lúa; bình quân lương thực năm 1979 đạt 330kg/người quy
lúa.

Ngành chăn nuôi: đàn trâu bò năm 1976 là 46.740 con,


năm 1979 là 51.039 con; đàn heo năm 1976 là 40.539 con, năm
1979 là 49.142 con.
Ngành lâm nghiệp: năm 1976 khai thác 155,752m3 gỗ
tròn; năm 1979 đã trồng được 200 ha rừng tập trung, khai
thác được 150.000m3 gỗ tròn, 200.000 ster củi, 5,5 triệu cây
tre, nứa, lồ ô2.
Cuối năm 1979 đầu năm 1980, Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh Sông Bé lần thứ II được tổ chức. Nghị quyết đại hội chỉ rõ:
“động viên toàn Đảng, toàn dân trong toàn tỉnh, tập trung lực
lượng của các cấp, các ngành, tận dụng tốt sức lao động xã hội
và năng lực sẵn có của từng địa phương, từng ngành, từng cơ sở
sản xuất để khai thác đất đai tài nguyên phong phú của Tỉnh,
tạo cho được một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp, lâm
nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi, phát triển công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp nhằm giải quyết vững chắc các nhu cầu về lương
thực, thực phẩm nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng và xuất khẩu từng bước ổn định và bảo đảm đời sống
nhân dân”3.

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương
(1975-2010), Sđd, tr 114.
2. Trích Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé tại Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ II.
3. Trích Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé tại Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ II.

188
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần
thứ II, từ đầu năm 1980, Ban Dân vận - Mặt Trận tiến hành
cuộc vận động nhân dân toàn tỉnh đẩy mạnh phong trào lao
động sản xuất, đặc biệt là trồng trọt và chăn nuôi, thay đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi... để giải quyết nhu cầu về lương thực,
thực phẩm, bảo đảm đời sống cho nhân dân trong tỉnh.
Đến cuối năm 1980, cùng với việc vận động nhân dân tiến
hành làm thủy lợi, khai hoang, đẩy mạnh phong trào làm
phân bón hữu cơ, cải tạo đất, đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ
phát triển chăn nuôi; Ban Dân Vận - Mặt trận còn vận động,
thuyết phục 2.500 dân thị xã Thủ Dầu Một, Thuận An thực
hiện chính sách giãn dân đi xây dựng vùng kinh tế mới; đồng
thời vận động các tổ chức quần chúng tham gia đẩy mạnh
phong trào trồng cây, gây rừng, khai thác lâm sản có kế hoạch
và bảo vệ rừng đầu nguồn, các khu rừng lịch sử cho trước mắt
và các năm tới.
Trên mặt trận công, thương nghiệp, thực hiện Chỉ thị số
14-CT/TU ngày 01/6/1977 của Tỉnh ủy Sông Bé về cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với công, thương nghiệp tư doanh trên địa
bàn tỉnh với phương châm “kết hợp chặt chẽ cải tạo và xây
dựng”; đồng thời, thực hiện Thông tri của Ban dân vận và Mặt
trận Trung ương, Ban Dân vận và Mặt trận tỉnh có vai trò
quan trọng trong công tác cải tạo công thương nghiệp tư doanh
ở địa phương 1.
Về công nghiệp, năm 1977 trên địa bàn tỉnh có 1.424 cơ sở
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã khôi phục sản xuất; tuy
nhiên cuộc vận động cải tạo công nghiệp tư doanh trên địa bàn
tỉnh gặp nhiều khó khăn. Đến năm 1979, tỉnh mới xây dựng
được 18 hợp tác xã và 42 tổ hợp sản xuất công tư hợp doanh.
Đến năm 1980, toàn tỉnh có 2.674 cơ sở khôi phục sản xuất

1. Thông tri của Ban Dân vận và Mặt trận Trung ương ngày 14/02/1978 về nhiệm
vụ cải tạo công thương nghiệp tư doanh ở miền Nam.

189
với nhiều ngành nghề đa dạng cao su, điện nước, cơ khí, vật
liệu xây dựng, sơn mài, gốm sứ, mộc, xẻ..., trong đó có 39 cơ
sở quốc doanh, 5 cơ sở công tư hợp doanh, 17 hợp tác xã, 46
tổ hợp tác xã sản xuất tiểu, thủ công nghiệp. Số lượng lao
động thuộc ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là 18.204
người, trong đó lao động quốc doanh, tập thể chiếm 41%. Giá
trị sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 1976 là
33,1 triệu đồng; năm 1978 là 56,249 triệu đồng; năm 1979
đạt 89,1 triệu đồng, trong đó công nghiệp địa phương đạt 59,1
triệu, tăng 56 triệu đồng so với năm 1976.
Từ năm 1980, quán triệt Nghị quyết 6 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
lần thứ II, Ban Dân vận - Mặt trận kết hợp với công đoàn,
Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ tại 1.500 cơ sở công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, huy động 21.000 lao động hưởng ứng
phong trào thi đua 3 điểm cao, 3 xung kích làm chủ tập thể,
phong trào phát minh, sáng chế, cải tiến kỹ thuật sản xuất,
cải tiến quản lý và thực hiện chặt chẽ các quy trình định mức
kỹ thuật nhằm tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng
sản phẩm, hạ giá thành; đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng
tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu chủ yếu từ
nguồn nguyên liệu khai thác của địa phương. Đặc biệt, tỉnh
chú trọng phát triển các ngành công nghiệp chế biến lương
thực, thực phẩm, công nghiệp chế biến gỗ tại thị xã Thủ Dầu
Một, Thuận An và các ngành nghề thủ công có truyền thống
như sơn mài, điêu khắc, mành trúc, mây tre, chân nhang...
Về thương nghiệp, “công tác dân vận dựa vào các tổ chức
công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ,...để vận động, giáo
dục quần chúng một cách sâu rộng, coi trọng nâng cao giác
ngộ giai cấp, giác ngộ xã hội chủ nghĩa của công nhân và nhân
dân lao động để thực hiện công tác cải tạo những người tư sản
và tiểu chủ, công tác mặt trận phải bảo đảm giáo dục, thuyết
phục, hướng dẫn những người tư sản thực hiện đúng chính

190
sách và tiếp thu tốt cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhưng mặt khác
phải sử dụng các biện pháp hành chính, kinh tế đấu tranh với
những kẻ ngoan cố về quyền lợi ích kỹ làm cản trở công cuộc
cải tạo xã hội chủ nghĩa, kiên quyết trừng trị những phần tử
phản cách mạng phá hoại hiện hành và bọn gian thương đầu
cơ tích trử phá rối thị trường, gây thiệt hại đến đời sống nhân
dân”1.
Cuộc vận động cải tạo thương nghiệp tư doanh ở địa phương
đạt kết quả khá tốt, năm 1977, Ban Dân vận và Mặt trận đã
tham gia cải tạo được 1.268 hộ tư thương với khoảng 6.561 lao
động, gồm 111 (100%) hộ kinh doanh lớn và 1.157 (70%) hộ
kinh doanh nhỏ; vận động được 990 hộ chuyển sang sản xuất
nông nghiệp, 442 hộ chuyển sang sản xuất công nghiệp và
ngành nghề, dịch vụ công ích khác. Đến năm 1978, trên địa
bàn tỉnh đã hình thành hệ thống thương nghiệp xã hội chủ
nghĩa gồm 8 công ty cấp II của tỉnh, 8 cấp III của huyện, thị
và 226 cửa hàng, hợp tác xã mua bán ở xã, ấp. Đến năm 1979,
tỉnh đã cải tạo xong 1.286 hộ kinh doanh thương nghiệp và
chuyển sang sản xuất 713 hộ.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá trong những năm 1977, 1978,
1979 đạt 660 triệu đồng, trong đó thị trường có tổ chức 186
triệu đồng. Năm 1979, xuất khẩu đạt 12 triệu, tăng 2 lần so
với năm 1976; bình quân nhân khẩu sản xuất 79 đồng hàng
tiêu dùng, và mỗi lao động xã hội tham gia sản xuất hàng xuất
khẩu đạt giá trị 40 đồng.
Đến năm 1980, thực hiện chủ trương hướng hoạt động
thương nghiệp, lưu thông phân phối phải phục vụ tốt đời sống
nhân dân lao động, quản lý giá cả thị trường, góp phần cải tạo
quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới, do vậy
công tác dân vận, vận động phát triển thương nghiệp quốc

1. Trích Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé tại Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ I (vòng 2) ngày 27/4/1977.

191
doanh, thương nghiệp, bán các sản phẩm lao động cho Nhà
nước, chống gian thương, đầu cơ, tích trữ các nguồn hàng... là
nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Do làm tốt công tác dân vận, trong năm 1980, ngoài hệ
thống thương nghiệp cấp tỉnh, cấp huyện, trên địa bàn tỉnh
còn có 107 hợp tác xã mua bán. Dù điều kiện kinh tế khó
khăn, hàng hóa khan hiếm, nhưng hoạt động thương nghiệp,
lưu thông phân phối đã cố gắng cung cấp được các định lượng
tối thiểu lương thực, thực phẩm cho nhân dân. Cụ thể, lương
thực, thực phẩm bảo đảm định lượng với giá trị 17 đồng/người/
tháng cho cán bộ, công nhân viên chức, 12-15 đồng/hộ/tháng
cho người dân thành thị, 5-8 đồng/hộ/tháng cho người dân
nông thôn.

2. Vận động quần chúng tham gia các phong trào thi
đua yêu nước, xây dựng xã hội mới, nền văn hóa mới,
con người mới xã hội chủ nghĩa

Về văn hóa, từ năm 1977, cùng với việc tiếp tục truy quét
tàn dư văn hoá phản động đồi trụy, Ban Dân vận - Mặt trận
tiến hành vận động, động viên quần chúng thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, phát động các phong trào đọc sách báo, nghe đài, đẩy
mạnh hoạt động của các đội văn nghệ nghiệp dư, các đội chiếu
phim lưu động để phục vụ yêu cầu của quần chúng, từng bước
xây dựng đời sống văn hoá mới, con người mới xã hội chủ
nghĩa. Bên cạnh đó, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh cùng với
Ban Dân vận - Mặt trận phát động phong trào thu gom các
loại sách báo, văn hóa phẩm có nội dung phản động của chế độ
cũ để lại; tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng kiên
quyết thu gom các đối tượng nghiện hút, mại dâm, trộm cắp,...
tập trung về các trường phục hồi nhân phẩm, cưỡng bức cải
tạo lao động để họ trở thành những công dân tốt. Đồng thời,
Ban Dân vận - Mặt trận tích cực tuyên truyền, vận động nhân
192
dân thực hiện chủ trương xây dựng, phát triển các vùng kinh
tế mới, nhằm giải quyết công ăn việc làm, xây dựng nếp sống
mới, xây dựng người công dân kiểu mẫu, gia đình cách mạng
gương mẫu.
Hoạt động thông tin, tuyên truyền thông qua sách báo,
phim ảnh, nghệ thuật là một kênh quan trọng góp vào thành
công của công tác dân vận. Ty Văn hóa - Thông tin đã xây
dựng các đội thông tin, cổ động từ tỉnh xuống huyện, xã,
thường xuyên tuyên truyền đến mọi người dân chủ trương,
chính sách mới của chính quyền, thiết thực vận động quần
chúng tin tưởng và góp sức vào sự nghiệp xây dựng đời sống
văn hóa mới.
Về giáo dục, ngay sau ngày giải phóng, hệ thống giáo dục
phổ thông đã từng bước được thiết lập ở tỉnh. Chính quyền
phối hợp với các ban, ngành, nhất là Ban Dân vận - Mặt trận
vận động Nhân dân cùng chính quyền xây dựng, hoàn thiện
trường lớp, đặc biệt là xây dựng các nhà trẻ ở các hợp tác xã,
nông, lâm trường, xí nghiệp, công ty. Quần chúng đã tích cực
góp công, góp của xây dựng cơ sở vật chất trường học cho con
em. Nhờ đó, hầu hết các xã trong tỉnh đều có các trường cấp
I, cấp II; mỗi huyện có 1-2 trường cấp III. Ngoài hệ thống
giáo dục phổ thông, tại các huyện, xã đều phát triển hệ thống
trường dạy bổ túc văn hóa, trường mẫu giáo để phục vụ người
dân. Phong trào học bổ túc văn hoá, học hàm thụ, tại chức
được đẩy mạnh.
Công tác xóa mù chữ được tỉnh quan tâm và có nhiều sáng
kiến để vận động quần chúng, nhất là vận động đồng bào các
dân tộc thiểu số. Năm 1977, toàn tỉnh có 13.000 người theo học
xóa mù chữ, trong đó có 4.560 người dân tộc thiểu số. Huyện
Thuận An là đơn vị đầu tiên của tỉnh được công nhận hoàn
thành xóa mù chữ. Đến năm 1978, tình trạng mù chữ cơ bản
được đẩy lùi.
193
Về y tế, sau giải phóng toàn tỉnh chỉ có 1 bệnh viện đa
khoa, 12 bệnh xá ở huyện, xã với tổng số 1.040 giường, không
có xe cứu thương, thuốc men, vật tư y tế thiếu nghiêm trọng.
Để chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, chính quyền đã vận động
người dân đẩy mạnh phong trào trồng dược liệu rộng rãi; tổ
chức sản xuất thuốc chữa bệnh bằng dược liệu địa phương;
tăng cường công tác phòng bệnh, chữa bệnh, phòng dịch. Vì
vậy, dịch bệnh được ngăn chặn kịp thời, bệnh sốt rét giảm dần
qua từng năm. Ban Dân vận - Mặt trận phối hợp với ngành y
tế, Hội phụ nữ sâu sát từng địa bàn, vận động phong trào sinh
đẻ có kế hoạch để bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Về thể dục - thể thao, tỉnh phát động phong trào thể dục -
thể thao trong các cơ quan, xí nghiệp, nông lâm trường, trường
học và ở các địa phương; lấy đoàn viên, thanh niên làm nòng
cốt để nhân rộng các hoạt động thể dục - thể thao, làm cho các
hoạt động thể dục - thể thao như bóng đá, bóng chuyền, bóng
bàn, bóng rổ và các môn điền kinh, bơi lội... trở thành phong
trào rộng rãi, sôi nổi, và là hoạt động không thể thiếu trong đời
sống nhân dân để trên cơ sở đó, từng bước đưa phong trào thể
dục, thể thao phát triển một cách vững chắc, toàn diện.
Về chính sách xã hội, hậu quả chiến tranh để lại đối với tỉnh
là rất nặng nề. Tỉnh có 13.750 liệt sĩ, hàng chục ngàn thương
binh và nhiều nạn nhân chiến tranh khác. Do vậy, Tỉnh ủy,
Ủy ban nhân dân, Ban Dân vận - Mặt trận và các ban ngành,
đoàn thể liên quan đặc biệt quan tâm đến hoạt động chăm sóc,
giúp đỡ gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với cách
mạng, nạn nhân chiến tranh. Bên cạnh các chính sách của
Nhà nước, tỉnh vận động Nhân dân trong tỉnh tham gia cứu
tế, cứu trợ cho các gia đình gặp nhiều khó khăn, các hộ Việt
kiều từ Campuchia về định cư. Ủy ban nhân dân tỉnh cũng
phát động các phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa”, “Uống nước
nhớ nguồn” sâu rộng trong quần chúng và được quần chúng
tích cực hưởng ứng.

194
3. Công tác dân vận phát động quần chúng tham gia
bảo vệ an ninh, củng cố quốc phòng, tham gia chiến
đấu bảo vệ biên giới

Từ sau tháng 4/1975, trong khi Nhân dân Việt Nam nói
chung, Nhân dân Sông Bé nói riêng bắt tay vào công cuộc khôi
phục vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới thì tập
đoàn Pôn Pốt - Iêng Xary lại xâm phạm biên giới Tây Nam
nước ta. Năm 1975, chúng xâm phạm 18 vụ, năm 1976 là 171
vụ, nửa đầu năm 1977 là 60 vụ.
Cùng lúc, ở Sông Bé nói riêng, trên phạm vi cả nước nói
chung, các thế lực thù địch đã cố tình tạo dư luận, xúi giục
đồng bào người Hoa bỏ về nước tạo ra vụ “nạn kiều”. Trước
tình hình đó, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị: “Kiên quyết bảo
vệ chủ quyền lãnh thổ của ta, không dung thứ bất cứ sự xâm
lấn nào của lực lượng khiêu khích phản động... Đập tan âm
mưu chia rẽ các nước anh em trên bán đảo Đông Dương”1...
Theo đó, ngày 04/5/1977, Tỉnh ủy Sông Bé ban hành Chỉ thị số
12-CT/TU về bảo vệ biên giới, chỉ rõ: “Phải hết sức nâng cao
cảnh giác, tăng cường lực lượng, bố phòng nghiêm ngặt, chủ
động đối phó có hiệu quả khi có tình hình xấu xảy ra”2.
Thực hiện chỉ thị của Quân uỷ Trung ương, của Tỉnh ủy
Sông Bé, trên địa bàn tỉnh Sông Bé, Ban Dân vận - Mặt trận
tiến hành cuộc vận động toàn dân tham gia bảo vệ biên giới.
Dù tình hình kinh tế - xã hội trong những năm đầu sau ngày
giải phóng rất căng thẳng, “cái ăn, cái mặc”, lương thực, thực
phẩm, hàng hóa tiêu dùng thiếu thốn, dù thế, khí thế chống
giặc cứu nước trên địa bàn tỉnh trở nên hừng hực, hàng trăm
thanh niên viết đơn tình nguyện tham gia chiến đấu, phục vụ

1. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam thế kỷ XX - Những
sự kiện quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr. 532.
2. Trích Chỉ thị số 12-CT/TU ngày 04/5/1977 của Tỉnh ủy Sông Bé về tăng
cường bảo vệ tuyệt đối an toàn biên giới. Tư liệu lưu trữ tại Phòng lưu trữ - Văn phòng
Tỉnh ủy Bình Dương.

195
chiến đấu, hàng ngàn dân tỉnh Sông Bé tham gia xây dựng
tuyến phòng thủ, chi viện sức người, sức của cho tuyến trước
đánh giặc giữ biên cương.
Ban Dân vận - Mặt trận vận động các tầng lớp nhân dân
hăng hái quyên góp, vận chuyển lương thực, thực phẩm,
hàng hóa, thiết bị máy móc, đồ dùng phục vụ chiến đấu lên
tuyến biên giới, đương đầu với bọn Pôn Pốt - Iêng Xary trên
tuyến biên giới dài 240km; vận động nhân dân tập trung trên
2 triệu ngày công đắp 100km bờ thành, xây dựng hoàn chỉnh
60km tuyến phòng thủ biên giới, đặc biệt là tuyến phòng thủ
ở một số khu vực trọng điểm như khu vực đồn Tà Vát (khoảng
10km), khu vực đồn Tà Nốt (khoảng 14km), khu vực biên giới
tại tọa độ 685-232 đến tọa độ 794-240.139..., đồng thời xây
dựng 11 xã chiến đấu và đưa 14.000 thanh niên đi nghĩa vụ
quân sự.
Đến cuối năm 1978, thực hiện chỉ thị của Đảng, Nhà nước
về nhiệm vụ quốc tế và Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Sông Bé
về giúp tỉnh Kratié (Campuchia), Ban Dân vận - Mặt trận
vận động các tầng lớp nhân dân khắc phục khó khăn, “nhường
cơm, sẻ áo”, hết lòng giúp đỡ nhân dân tỉnh Kratié. Từ đầu
tháng 01/1979, đoàn chuyên gia của tỉnh khoảng hơn 34 người
(Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Ban Dân vận - Mặt trận,
quân sự, công an, tuyên huấn, y tế, văn hóa, giáo dục, nông
nghiệp, thương nghiệp, giao thông, bưu điện, tài chính...) đã
sang giúp tỉnh Kratié, tiến hành cứu đói1, khôi phục kinh tế,
ổn định xã hội, xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể...
Lúc này, người Hoa ở Việt Nam nói chung, ở Sông Bé
nói riêng trở nên mặc cảm, lo âu, hoang mang, dao động,
toan tính trở lại cố hương, một số ít khác di cư sang các nước

1. Sông Bé đã giúp tỉnh Kratié 950 tấn gạo, 337 tấn bột mì và nhiều hàng hóa
thiết yếu khác, ngoài ra còn giúp hàng trăm tấn thóc giống phục vụ kịp thời cho vụ
sản xuất năm 1979.

196
lân cận như Singapore, Malaysia, Myanma, Thái Lan. Trước
tình hình đó, thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước và
chủ trương của Tỉnh ủy Sông Bé đối với Hoa kiều, Ban Dân
vận - Mặt trận đã tiến hành vận động sâu rộng, đi đến từng
khu, từng xóm, từng tổ, từng nhà người Hoa, phân tích, vạch
trần âm mưu của các thế lực phản động, giải thích chính
sách của Đảng, Nhà nước, giúp cho người Hoa nhận rõ thêm
tình hình, phân biệt đúng sai, nhận rõ bạn, thù, không mắc
phải âm mưu chia rẽ khối đoàn kết dân tộc của những phần
tử xấu; động viên bà con ổn định tư tưởng, yên tâm làm ăn,
sản xuất, buôn bán, thực hiện đúng Chỉ thị số 214 của Ban Bí
thư. Phối hợp với các cơ quan, ban ngành, Ban Dân vận - Mặt
trận đã thực hiện tốt chính sách Hoa vận, tuyên truyền giải
thích đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, chủ trương
của Tỉnh ủy Sông Bé, vì vậy đại bộ phận bà con người Hoa
trên địa bàn tỉnh dần dần ổn định tư tưởng, yên tâm ở lại làm
ăn sinh sống.
Ngoài ra, Ban Dân vận - Mặt trận còn đồng thời tiến hành
vận động nhân dân ở các huyện, xã thành lập các đội dân
quân du kích, xây dựng xã, ấp chiến đấu, “tuần tra canh gác
bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ gìn trật tự xã hội” đặc biệt là tại
các địa bàn nhạy cảm, cảnh giác với các phe nhóm chính trị
phản động như “Dân quân phục quốc”, “Hội đồng lãnh đạo
quốc gia”, FULRO...
Trong hai năm 1979-1980, trên cơ sở các cuộc vận động
“xây dựng lực lượng công an trong sạch, vững mạnh”, “phát
huy bản chất và truyền thống tốt đẹp của quân đội nhân dân”,
Ban Dân vận - Mặt trận vận động thanh niên đăng ký nhập
ngũ hàng năm, bảo đảm công tác tuyển quân, hăng hái thực
hiện nghĩa vụ quân sự, sẵn sàng chiến đấu, giúp tỉnh Kratíe
xây dựng thực lực cách mạng, truy quét bọn phản động, từng
bước khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
197
III. CÔNG TÁC DÂN VẬN THỜI KỲ ĐẢNG ĐOÀN, MẶT
TRẬN, CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI KIÊM NHIỆM
(1981-1982)

1. Tình hình và nhiệm vụ mới

Ngày 20/11/1980, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số


32-NQ/TW về việc giải thể Ban Dân vận và Mặt trận. Tiếp đó,
tháng 3/1981, Ban Bí thư Trung ương ra quyết định giải thể
Ban Dân vận và Mặt trận để thành lập Ban Dân vận Trung
ương và Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc từ Trung ương đến các
tỉnh, thành phố. Ngày 17/3/1981, thực hiện Quyết định số 93-
QĐ/TW của Ban Bí thư, Ban Dân vận Trung ương chính thức
được thành lập. Ban Dân vận Trung ương đã tổ chức Hội nghị
Trưởng Ban Dân vận các tỉnh, thành nhằm cụ thể hóa Quyết
định số 93 của Ban Bí thư và một số nội dung của công tác
dân vận trong tình hình mới. Hội nghị thống nhất chủ trương
thành lập Ban Dân vận cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Đến cuối năm 1983, 39/40 địa phương trong cả nước đã
thành lập Ban Dân vận cấp tỉnh.
Ở tỉnh Sông Bé, do điều kiện khách quan và chủ quan chi
phối, Ban Dân vận - Mặt trận tỉnh giải thể, Mặt trận Tổ quốc
tỉnh Sông Bé được thành lập. Trong giai đoạn này, công tác
dân vận của tỉnh do Đảng Đoàn, Mặt trận kiêm nhiệm dưới sự
phụ trách trực tiếp của bà Nguyễn Thị Liên (Tám Liên). Đến
ngày 31/5/1983, Tỉnh ủy Sông Bé đã ban hành Quyết định số
13 về việc thành lập Ban Dân vận của Tỉnh ủy Sông Bé do
đồng chí Phan Văn Hiếu - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy
làm Trưởng ban.
Để thực hiện nhiệm vụ dân vận, lực lượng chính trị trên
địa bàn tỉnh được kiện toàn. Toàn tỉnh có 6.962 đảng viên;
485 công đoàn cơ sở với 23.136 công đoàn viên; 413 ban cán
sự Nông hội, với 45.804 hội viên; 759 chi Đoàn Thanh niên với
198
13.286 đoàn viên; 131 ban cán sự Hội Phụ nữ với 87.222 hội
viên... Tất cả đều được củng cố về tổ chức, nhiệm vụ chính trị,
tăng cường công tác dân vận để tạo được sự đồng thuận nhằm
vận động quần chúng thực hiện thành công Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II. Tỉnh phát động toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân thực hiện bốn cao trào cách mạng:
- Cao trào toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đẩy mạnh sản
xuất lương thực (chủ yếu là màu, mì, cao lương, giống riềng,
lang, bắp) nhằm bảo đảm định lượng cấp phát trong khu vực
tập thể, quốc doanh, có dự trữ và nghĩa vụ với Trung ương.
- Cao trào làm ra nhiều hàng tiêu dùng bằng tận dụng các
nguyên liệu tại chỗ và tận dụng các phế phẩm, tận dụng tất cả
năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế (cá thể, tập thể
và tư sản dân tộc).
- Động viên đông đảo người dân về nghĩa vụ và trách nhiệm
đối với đất nước bằng cách phải sản xuất hàng xuất khẩu với
khả năng hiện có.
- Cao trào cách mạng của quần chúng đấu tranh chống
tiêu cực, xác lập quyền làm chủ tập thể thật sự trong sản xuất,
phân phối đến người tiêu dùng1...
Trong nông nghiệp, Ban Dân vận và Mặt trận vận động
nông dân đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, tiến
hành khai hoang phục hoá, thâm canh tăng vụ, đẩy mạnh
sản xuất nông nghiệp... nhằm thực hiện chỉ thị của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng: “Sông Bé phải đi đầu chế biến màu và làm
cho bữa ăn ngày càng văn minh trong cả nước. Lương thực là
cơ sở để phát huy các thế mạnh kinh tế khác”2.
Trên khắp tỉnh Sông Bé, phong trào khai hoang, phục hoá

1. Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh trước Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông
Bé lần thứ II.
2. Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé
lần thứ III (đợt 2), ngày 10/12/1983.

199
được phát động; nông dân khai hoang được thêm 3.379ha,
trong đó 736ha được đưa vào sản xuất, nâng diện tích gieo
trồng lên 111.621ha.
Các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, tổ sản xuất đều thay đổi
cơ cấu, đa dạng cây trồng, chuyên canh, thâm canh, tăng vụ,
nhằm phát huy thế mạnh của từng vùng đất. Ngày13/01/1981,
Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán,
mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao
động”. Chỉ thị 100 đã được triển khai rộng khắp trong tỉnh.
Cây lúa nước từng bước được gieo trồng ổn định, có nơi đạt
4-5 tấn/vụ/ha. Các loại cây như đậu, mía, tiêu, cà phê, đậu
nành... đều tăng diện tích gieo trồng. Đặc biệt đã hình thành
các nông trường chuyên canh như Nông trường Cây Trường
(trồng mía), Nông trường Nha Bích (trồng sả), Nông trường
Phước Sang (trồng cây lương thực), Nông trường Dầu Tiếng
(trồng cao su). Diện tích mặt hồ, mặt ao nuôi cá tăng từ 120ha
(1979) lên 300ha (1982).
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, đến năm
1982, toàn tỉnh đã có 116 hợp tác xã, 268 tập đoàn sản xuất,
chiếm 24,4% số hộ nông nghiệp và 22,8% diện tích đất canh
tác nông nghiệp. Hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, tổ sản xuất
được xây dựng theo “hình thức tổ chức thích hợp trong bước
đi ban đầu, từng bước thực hiện sản xuất theo quy hoạch, kế
hoạch và hợp đồng kinh tế hai chiều giữa Nhà nước với nông
dân, thuận lợi cho việc thâm canh và chuyên canh cây trồng,
tạo tiền đề phát triển rộng tập đoàn sản xuất và hợp tác xã
nông nghiệp trong những năm sau”1.

2. Một số thành tựu cơ bản

Từ một tỉnh thiếu, đói phải nhờ viện trợ của Trung ương,

1. Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé
lần thứ III (đợt 2), ngày 10/12/1983.

200
đến năm 1982, Sông Bé cơ bản đã bắt đầu tự trang trải được
về lương thực.
Về công nghiệp, Ban Dân vận và Mặt trận vận động cán
bộ, viên chức, công nhân, người lao động... đẩy mạnh phong
trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật, thi đua lao động sản xuất và
thực hành tiết kiệm; đẩy mạnh phong trào thanh niên “3 xung
kích” làm chủ tập thể. Các ngành và cơ sở công nghiệp, thủ công
nghiệp đã chủ động trong sản xuất, bố trí lực lượng lao động,
khai thác tài nguyên, nguyên liệu sẵn có trong tỉnh, trao đổi
với các tỉnh bạn, tạo bước đột phá về các mặt hàng gốm sứ, vật
liệu xây dựng, sơn mài, điêu khắc, hàng mộc, hàng mây tre và
những sản phẩm tạo ra từ nguyên liệu cao su... để hoàn thành
mục tiêu đề ra. Giá trị sản lượng sản xuất công nghiệp, thủ công
nghiệp trong năm 1982 đạt 57,7 triệu đồng, bằng 98% kế hoạch,
trong đó quốc doanh ước đạt 17,7 triệu, tiểu thủ công nghiệp tập
thể và tư nhân ước đạt 40 triệu đồng. Chỉ tính riêng trong năm
1982, toàn tỉnh có 17 cơ sở sản xuất của Trung ương và 33/49 cơ
sở của tỉnh đã đạt và vượt mức kế hoạch1.
Các phong trào thi đua trong công nhân viên chức khu vực
Nhà nước và các ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp, Công
đoàn, Hội phụ nữ, Đoàn Thanh niên... tham gia xây dựng kế
hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; phong trào luyện tay
nghề, thi thợ giỏi; phong trào đăng ký thi đua xây dựng tổ lao
động tiên tiến, tổ lao động xã hội chủ nghĩa; thi đua sản xuất
tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm,
hạ giá thành được đẩy mạnh, bảo đảm hoàn thành tốt các chỉ
tiêu kế hoạch đề ra.
Về thương nghiệp và lưu thông phân phối, Ban Dân vận
và Mặt trận vận động các cấp, các ngành, cán bộ, viên chức,
tiểu thương... đẩy mạnh phong trào xây dựng, hoàn thiện hệ

1. Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé
lần thứ III (đợt 2), ngày 10/12/1983.

201
thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, giám sát việc quản
lý hàng hóa thu mua và quản lý thị trường, sắp xếp lại các
chợ; từng bước kiện toàn các công ty, cửa hàng, điểm bán
hàng, trạm thu mua, hợp tác xã mua bán. Kết quả, “doanh
số mua vào riêng năm 1982 đạt 390 triệu, trong đó thu mua
địa phương đạt 244 triệu, tăng 111 triệu đồng so với năm
1979. Lương thực trong 2 năm liền huy động đạt trên dưới
20.000 tấn, giải quyết được khó khăn lúc giáp hạt. Doanh số
bán ra tăng gấp 4 lần so với năm 1979, chiếm khoảng 30%
tổng mức hàng hoá bán lẻ trên thị trường xã hội”1. Đặc biệt,
Ban Dân vận và Mặt trận vận động các cấp, các ngành xây
dựng thí điểm các hợp tác xã tín dụng ở Chánh Mỹ (Thị xã),
An Lộc (Bình Long) Thái Hoà (Tân Uyên), Lộc Khánh (Lộc
Ninh), Đông Hòa (Thuận An), Sơn Giang (Phước Long), Tân
Hoà (Đồng Phú) để tạo nguồn vốn phát triển sản xuất, chống
nạn cho vay nặng lãi. Thanh niên tỉnh phối hợp với thương
nghiệp xây dựng các cửa hàng, nhà hàng, kho hàng thanh
niên xã hội chủ nghĩa. Tính riêng công ty thương nghiệp cấp
II đã có 10/21 cửa hàng đăng ký phấn đấu trở thành cửa hàng
thanh niên xã hội chủ nghĩa.
Về văn hóa, Ban Dân vận và Mặt trận vận động nhân dân,
nòng cốt là các đoàn thể chính trị xã hội và toàn dân đẩy mạnh
phong trào tuyên truyền, giải thích các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, phổ biến sách báo, phim ảnh cách mạng,
tiếp tục truy quét tàn dư văn hoá phản động, đồi trụy, phát triển
văn hoá văn nghệ cách mạng, văn nghệ quần chúng; từng bước
xây dựng đời sống văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa
Về xã hội, tỉnh vận động, động viên các hộ gia đình cho con
em đến trường, đẩy mạnh phong trào xóa nạn mù chữ, học hàm
thụ, học bổ túc văn hoá, nâng cao trình độ văn hóa; tiến hành

1. Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé
lần thứ III (đợt 2), ngày 10/12/1983

202
phòng trừ dịch bệnh; sinh đẻ có kế hoạch; phát động rộng rãi
phong trào thể dục thể thao, rèn luyện sức khỏe... tham mưu
giải quyết các vấn đề về chính sách thương binh xã hội...
Về an ninh, quốc phòng, tỉnh vận động các địa phương
đẩy mạnh phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh
tổ quốc, “xây dựng lực lượng công an trong sạch, vững mạnh”;
xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân, vận động thanh niên
tham gia nhập ngũ “phát huy bản chất và truyền thống tốt
đẹp của quân đội nhân dân” bảo vệ tổ quốc... Kết quả, các cơ
quan chức năng và quần chúng đã phát hiện và phá rã các tổ
chức FULRO; phát hiện 46 tổ chức nhen nhóm chính trị, bắt
574 tên phản động các loại; kịp thời ngăn chặn nhiều vụ trốn
ra nước ngoài và hoạt động xâm nhập vũ trang, tình báo của
địch. Đã bắt giam hàng ngàn tên tội phạm hình sự, côn đồ, bọn
xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa.
Về công tác xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể, thực
hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ tập thể
và chính quyền quản lý cũng có những tiến bộ. Ban Dân vận
và Mặt trận đi sâu vào từng cơ sở, nhất là những nơi yếu kém,
vận động quần chúng, cán bộ, đảng viên... tham gia các cuộc
học tập chính trị, phát triển đảng, đoàn, tham gia các đoàn
thể quần chúng... phát động phong trào thi đua lập thành tích
chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III.
Trong những năm 1981-1982, tuy tình hình còn nhiều
khó khăn, nhưng do làm tốt công tác dân vận, toàn đảng,
toàn quân, toàn dân tỉnh Sông Bé đã đoàn kết, cùng nhau
chung sức đẩy mạnh các phong trào thi đua lao động sản
xuất, thực hành tiết kiệm, làm chủ tập thể, tham gia xây
dựng và bảo vệ tổ quốc đã thu được những kết quả cụ thể, góp
phần quan trọng vào việc ổn định đời sống xã hội và ổn định
an ninh chính trị và trật tự xã hội.
203
IV. CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU
DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA BAN DÂN VẬN TỈNH UỶ (1983
- 1985)

1. Ban Dân vận Tỉnh ủy thành lập, kiện toàn tổ chức,


cán bộ

Tháng 3/1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của
Đảng được tổ chức thành công. Nghị quyết của Đại hội về công
tác dân vận chỉ rõ: “Ở thời kỳ nào, công tác dân vận và tổ
chức quần chúng làm cách mạng cũng có ý nghĩa chiến lược.
Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa và hiện nay khi
cách mạng nước ta làm hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tầm quan
trọng của công tác vận động quần chúng chẳng những không
giảm bớt mà còn tăng thêm”1.
Tháng 4/1983, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Sông Bé
lần thứ III đã được tổ chức thành công. Đại hội đề ra phương
hướng hoạt động cụ thể cho giai đoạn tiếp theo của tỉnh là: “Ra
sức ổn định và cải thiện một bước các nhu cầu về ăn mặc, ở, trị
bệnh, học hành và đi lại của nhân dân lao động, vừa tiến hành
tổ chức và sắp xếp lại trật tự kinh tế, vừa xây dựng thêm cơ
sở vật chất và kỹ thuật, bảo đảm phát triển thêm một bước cơ
cấu kinh tế nông - lâm - công nghiệp, tiến lên xây dựng thành
tỉnh nông - lâm - công nghiệp trong nhiều năm tới, đồng thời
tăng cường công tác quốc phòng và an ninh chống kiểu chiến
tranh phá hoại nhiều mặt của địch, góp phần bảo vệ vững chắc
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và tiếp tục làm tốt nghĩa vụ quốc tế
đối với tỉnh bạn Kratié”2.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng về vị trí,

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.43, tr.119.
2. Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé
lần thứ III (đợt 2), ngày 10/12/1983.

204
vai trò của công tác dân vận trong việc tập hợp, tổ chức quần
chúng làm cách mạng, thực hiện thành công các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ
III và Quyết định số 93, ngày 31/5/1983, Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ đã ra Quyết định số 13-QĐ/TU thành lập Ban Dân vận
Tỉnh ủy. Ban Dân vận Tỉnh ủy gồm 11 thành viên gồm: ông
Phan Văn Hiếu (Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy) làm Trưởng
ban; ông Điểu Mun (Tỉnh ủy viên), bà Nguyễn Thị Hồng Vân
làm Phó Trưởng ban; ngoài ra còn có 2 cán bộ chuyên trách và
6 nhân viên1. Ở cấp huyện, thị chưa có tổ chức dân vận chuyên
trách, công tác dân vận do đảng, đoàn, mặt trận và cấp uỷ ở
cấp huyện, thị kiêm nhiệm phụ trách.
Ban Dân vận Tỉnh ủy thực hiện chức năng của một ban
Đảng, có nhiệm vụ tham mưu cho Tỉnh ủy ra nghị quyết, chỉ
thị về công tác dân vận, công tác tôn giáo, công tác đối với
người Hoa và phối hợp với các đảng đoàn, ban chấp hành các
đoàn thể nghiên cứu các chỉ thị, nghị quyết về công tác thanh
niên, công tác phụ nữ, công tác mặt trận và công tác dân vận.
Đồng thời, Ban Dân vận Tỉnh ủy còn giúp cấp ủy hướng dẫn,
theo dõi và kiểm tra việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng; khảo sát tình hình quần chúng và phản ánh kịp thời,
thường xuyên tình hình quần chúng với Đảng bộ các cấp; tổ
chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân vận địa phương.

2. Công tác dân vận giai đoạn 1983-1985

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Ban Dân vận
Tỉnh ủy tiến hành đổi mới về hình thức, nội dung vận động,
giáo dục quần chúng. Quán triệt các chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng, kế hoạch của Nhà nước để giáo dục, vận động mọi tầng
lớp quần chúng, thi đua thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh

1. Tháng 8/1983, Ban Dân vận tỉnh được thành lập; tháng 10/1983, Ban Dân vận
tỉnh chính thức bước vào hoạt động.

205
tế - xã hội của tỉnh.
Trên mặt trận chính trị, Ban Dân vận Tỉnh ủy vận động,
tuyên truyền, giáo dục quần chúng về truyền thống cách mạng,
nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, quán triệt Nghị
quyết Đại hội lần thứ V của Trung ương Đảng, Nghị quyết Đại
hội lần thứ III của Đảng bộ tỉnh, làm cho quần chúng nhận
rõ tính chất và nội dung đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh phức tạp, gay gắt,
nhằm chứng minh “ai thắng ai giữa hai con đường xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa”, làm cho quần chúng phân biệt
được giữa ta và địch, giữa bóc lột và bị bóc lột, giữa tập thể
và cá thể, giữa tiến bộ và lạc hậu, qua đó tiếp tục củng cố và
nâng cao lòng tin cho quần chúng, tạo ra những chuyển biến
mới trong nhận thức của quần chúng. Thông qua công tác dân
vận, các tầng lớp nhân dân đã có ý thức, trách nhiệm tham gia
xây dựng xây dựng Đảng, chính quyền và giám sát hoạt động
của các cơ quan Nhà nước với tư cách là người làm chủ tập thể,
làm chủ đất nước.
Ban Dân vận Tỉnh ủy tiến hành đợt khảo sát tình hình
quần chúng về nhận thức, quan điểm, tư tưởng, tâm trạng,
suy nghĩ của các tầng lớp quần chúng về đời sống kinh tế,
văn hoá và hoạt động các phong trào cách mạng; tham gia
góp ý kiến với Ban Dân vận Trung ương, dự thảo các chỉ thị,
nghị quyết về các tổ chức chính trị xã hội: công, nông, thanh,
phụ vận, dân tộc, tôn giáo;... triển khai các chỉ thị, nghị quyết
của Ban Bí thư, của Tỉnh ủy, xây dựng chương trình công tác
cụ thể giúp các cấp ủy, chính quyền huyện, xã và các tổ chức
chính trị xã hội thực hiện công tác dân vận phù hợp với thực tế
từng địa phương, tạo thế cho các phong trào thi đua yêu nước.
Từ năm 1983, công tác dân vận được thực hiện bài bản,
quy củ, các đoàn thể và ủy ban mặt trận tổ quốc đều có bước
tiến mới trong việc củng cố và phát triển bộ máy. Đến cuối
206
năm 1985, các tổ chức chính trị xã hội đã có hơn 500.000 thành
viên, chiếm 70% dân số toàn tỉnh, gấp 1,5 lần so với năm 19811,
nên các phong trào yêu nước phát triển đều khắp.
Mặt trận Tổ quốc đã thành lập tổ chức ở cấp tỉnh, huyện,
xã; tập hợp được 15 tổ chức thành viên và khoảng 12.000 phụ
lão, tăng 200% so với năm 1981. Mặt trận Tổ quốc tỉnh đã tiến
hành hiệp thương, giới thiệu 8 ứng cử viên bầu bổ sung vào
Hội đồng nhân dân tỉnh, huyện; 31 ứng cử viên bầu vào hội
thẩm toà án nhân dân; tham gia góp ý kiến sửa đổi Bộ luật
hình sự; vận động nhân sĩ, trí thức, tôn giáo và các tầng lớp
quần chúng nhân dân thắt chặt tình đoàn kết, chấp hành tốt
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; phát động phong trào “bao”, “can” ủng hộ Hà Tuyên,
phong trào mua công trái xây dựng tổ quốc, lập quỹ bảo thọ
cho người già... Đặc biệt, tính đến 31/12/1985, toàn tỉnh đã có
trên 40.000 người mua phiếu công trái xây dựng Tổ quốc với
giá trị là 7.650.700 đồng vào 9.200kg lúa2.
Hội liên hiệp nông dân tập thể tổ chức đã được xây dựng
hoàn thiện từ cấp tỉnh đến 8 huyện thị và 134 xã 416 ban chấp
hành chi hội, 1.878 tổ với 78.968 hội viên. Từ năm 1983, Hội
liên hiệp nông dân tập thể tiếp tục phát động các phong trào
thi đua yêu nước, tiến hành cải tạo nông nghiệp, vận động
nông dân tham gia làm ăn tập thể, xây dựng hợp tác xã, tập
đoàn sản xuất; đẩy mạnh trồng trọt, chăn nuôi; ký kết họp
đồng trao đổi sản phẩm 2 chiều, bán lương thực, nông sản cho
nhà nước...Đến năm 1985, trên địa bàn tỉnh có 84/131 Hội
Nông dân xã đã tiến hành đại hội, chọn được 1.889 nông dân
tiên tiến.
Liên hiệp công đoàn cũng phát triển mạnh mẽ. Bộ máy

1. Báo cáo số 11/BC-DV ngày 16/3/1986 về tình hình công tác quần chúng giai
đoạn 1981-1985 của Ban Dân vận tỉnh Sông Bé.
2. Báo cáo số 24/BC.DV ngày 01/01/1986 về công tác dân vận tỉnh Sông Bé năm
1985.

207
công đoàn được thiết lập hoàn thiện từ cấp tỉnh, cấp huyện
đến công đoàn ngành, công đoàn cơ sở, công đoàn bộ phận. Đội
ngũ cán bộ phụ trách công đoàn chuyên trách và bán chuyên
trách phát triển hùng hậu. Số công đoàn viên phát triển mạnh,
chiếm tỷ lệ 56,6% tổng số công nhân viên chức (toàn tỉnh có
77.530 công đoàn viên). Từ năm 1983, Liên hiệp công đoàn
tiếp tục đẩy mạnh phong trào giáo dục truyền thống, phong
trào sản xuất tiết kiệm, phong trào phát huy sáng kiến, cải
tiến kỹ thuật, phong trào thi đua luyện tay nghề, thi thợ giỏi,
giành danh hiệu lao động tiên tiến, xây dựng tổ, đội lao động
xã hội chủ nghĩa, xây dựng tấm gương sáng, thi đua về trước
kế hoạch, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã xây dựng hoàn
chỉnh bộ máy tổ chức ba cấp với 38.246 đoàn viên. Bên cạnh
đó, trên địa bàn tỉnh còn có hội Liên hiệp thanh niên với 491
chi hội, 45134 hội viên; Đội thiếu niên Hồ Chí Minh có 200.815
đội viên. Ban Dân vận đã chỉ đạo Đoàn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh của tỉnh phát động các phong trào “Hành quân
theo bước chân những người anh hùng”, “tuổi trẻ sáng tạo”,
“tuổi trẻ bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “tuổi trẻ đảm nhận những
việc khó”. Từ năm 1983 đến năm 1985, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh của tỉnh đã tham gia 25.000 ngày công, thực
hiện 138 công trình thủy lợi, làm lợi cho Nhà nước 31 triệu
đồng và hàng chục ngàn ngày công lao động.
Hội liên hiệp Phụ nữ đã hoàn chỉnh bộ máy tổ chức từ tỉnh,
huyện thị, xã, ngành, cơ quan... với 133 ban chấp hành cơ sở,
8.420 tổ với 125.442 hội viên. Bước vào năm 1983, Hội liên
hiệp Phụ nữ tiếp tục phát triển nhiều phong trào yêu nước,
điển hình như phong trào “người phụ nữ mới xây dựng và bảo
vệ đất nước”, “nuôi con khỏe, dạy con ngoan”, “sinh đẻ có kế
hoạch”, “phụ nữ tài năng”, “phụ nữ phát triển kinh tế phụ
gia đình”, “phụ nữ thi đua sản xuất và tiết kiệm”, phong trào
làm 146.000 tấn phân xanh, phân chuồng, đóng góp 2.178 cổ
208
phần trong 8 họp tác xã tín dụng với số tiền là 180.571 đồng,
gửi gần 4 triệu đồng tiền tiết kiệm;... Đặc biệt là tổ chức triển
lãm “người bạn gái khéo tay hay làm”, đã thu hút trên 10.000
người đến tham dự, học tập, trao đổi kinh nghiệm.
Hội Chữ thập đỏ tính đến năm 1985 có 261 chi hội, phân
hội, 684 tổ hội với 76.308 hội viên. Năm 1983, Hội chữ thập đỏ
tiếp tục phát động phong trào “5 dứt điểm”, “phòng bệnh hơn
chữa bệnh”, “tiêm phòng”, “thực hiện sinh đẻ có kế hoạch”,
“xây dựng nếp sống mới”, “làm sạch đẹp đường phố”, “vệ sinh
làng xóm sạch đẹp”. Ngoài ra, Hội chữ thập đỏ còn phối hợp với
các ngành giáo dục, y tế, hội y học, hội đồng y dân tộc và các
đoàn thể chính trị xã hội khác dấy lên phong trào tương trợ,
cứu tế đồng bào gặp khó khăn, hỏa hoạn, bão lụt, mất mùa...
trong cả nước, trong tỉnh.
Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có các tổ chức quần chúng
khác điển hình như Hội Y học dân tộc, Hội người mù, Hội văn
nghệ, Hội nhà báo, Ủy ban đoàn kết công giáo yêu nước, Hội
Phật giáo thống nhất... đều được Ban Dân vận tỉnh vận động
thành lập và hoạt động sôi nổi. Chính các tổ chức chính trị xã
hội, các tổ chức quần chúng và nhân dân trở thành lực lượng
hạt nhân quan trọng trên các mặt trận kinh tế, văn hóa, xã hội
và quốc phòng an ninh.
Trên mặt trận nông nghiệp, cùng với cuộc vận động nông
dân tham gia làm ăn tập thể, các phong trào khai hoang phục
hóa, làm thủy lợi nội đồng, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, sử dụng giống mới, thâm canh tăng vụ được phát động
sôi nổi. Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên... trở
thành lực lượng nòng cốt trong các phong trào thi đua yêu
nước, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, từ việc chủ động xây
kế hoạch sản xuất, khai thác thế mạnh, tiềm năng sẵn có của
từng địa phương, mở mang ngành nghề, kết hợp trồng trọt với
chăn nuôi, kết hợp nông nghiệp với lâm nghiệp, xây dựng các
209
vùng chuyên canh, thâm canh, vùng lúa cao sản, vùng cây
công nghiệp ngắn ngày, dài ngày, cây ăn trái, làm phân xanh,
phân chuồng, tăng cường chăm sóc, chống sâu bệnh, thực hiện
tốt việc ký kết hợp đồng hai chiều với Nhà nước.
Kết quả năm 1983, tỉnh đã vận động 25.000 thanh niên
tham gia xây dựng 66 công trình thuỷ lợi nội đồng; thanh niên,
phụ nữ làm được 160.890 tấn phân xanh, phân chuồng, định
hình vùng thâm canh lúa nước 3.055ha.
Ngành trồng trọt, diện tích gieo trồng năm 1983 đạt 97,6%
kế hoạch, trong đó: lúa đạt 104%% kế hoạch, màu đạt 79%%
kế hoạch, cây thực phẩm đạt 89%% kế hoạch, cây công nghiệp
ngắn ngày đạt 99,4% kế hoạch; năng suất vùng thâm canh lúa
năm 1983 đạt 32 tạ/ha, vượt 10 tạ/ha so với năng suất lúa toàn
tỉnh, vượt 10 tạ/ha so với cùng kỳ.
Ngành chăn nuôi có tổng đàn trâu 36.007 con, bò 43.693
con, heo có 67.288 con, gia cầm có 855.983 con1.
Ngành lâm nghiệp trồng được 400ha rừng, riêng lâm
trường quốc doanh trồng 200ha, đạt 100% kế hoạch; khai thác
gỗ tròn đạt 88,8%, củi đạt 43%, tre nứa nguyên liệu giấy đạt
100%.
Năm 1983, phong trào làm ăn tập thể trong nông nghiệp
phát triển thêm 19 hợp tác xã, 48 tập đoàn sản xuất, 168 tổ
đoàn kết sản xuất, đưa tổng số các đơn vị làm ăn tập thể lên
135 hợp tác xã, 228 tập đoàn sản xuất và 541 tổ đoàn kết sản
xuất; diện tích đất nông nghiệp tập thể hoá đạt 24,05% với
38,1% số hộ nông dân đã đi vào làm ăn tập thể. Đến năm 1985,
trên địa bàn tỉnh 82% số hộ nông dân và 81% diện tích canh
tác tham gia vào các hợp tác xã nông nghiệp. Giá trị sản lượng

1. Báo cáo số 03/BC.DV về công tác dân vận tỉnh Sông Bé năm 1983, ngày
25/11/1983.

210
nông nghiệp năm 1985 tăng 6,5% so với năm 19841.
Trên mặt trận công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dựa vào
lực lượng Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ làm nòng
cốt trong các phong trào thi đua, Ban Dân vận Tỉnh ủy động
viên toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức khu vực Nhà nước,
khu vực công tư hợp doanh... đẩy mạnh phong trào thi đua
luyện tay nghề, thi thợ giỏi; xây dựng tổ đội lao động tiên tiến,
tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa; giao ước thi đua sản xuất tiết
kiệm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm;
bảo đảm hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra...
Năm 1983, công nghiệp Trung ương trên địa bàn tỉnh ước
đạt 74,6%, công nghiệp địa phương đạt 107,2% giá trị tổng sản
lượng so với kế hoạch. Trong đó Trung ương có 11 đơn vị, tỉnh
có 65 đơn vị hoàn thành kế hoạch (26 đơn vị cấp huyện, 39 đơn
vị tỉnh). Giá trị sản lượng công nghiệp địa phương năm 1983
đạt 107,2% kế hoạch, trong đó có 86/120 cơ sở hoàn thành
vượt mức kế hoạch năm, điển hình là cơ sở sản xuất gốm sứ
dân dụng được 40% kế hoạch, xí nghiệp sản xuất vật liệu xây
dựng tăng từ 18% đến 39% kế hoạch, xí nghiệp 30/4, xí nghiệp
cầu đường vượt 30-72% kế hoạch, xí nghiệp liên hiệp sản xuất
thuốc trị bệnh vượt 13% kế hoạch2. Tính đến cuối năm 1985,
toàn tỉnh có 1.563 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và có 26 đề tài
khoa học làm lợi cho Nhà nước 1.167.581 đồng (tiền mới)3.
Trên mặt trận thương nghiệp, phân phối lưu thông, Ban
Dân vận Tỉnh ủy vận động Nhân dân tham gia tích cực công
tác cải tạo công thương nghiệp, hoàn chỉnh hệ thống thương
nghiệp quốc doanh, hệ thống hợp tác xã mua bán, tham gia

1. Báo cáo số 24/BC.DV về công tác dân vận tỉnh Sông Bé năm 1985, ngày
01/01/1986.
2. Báo cáo số 03/BC.DV về công tác dân vận tỉnh Sông Bé năm 1983, ngày
25/11/1983.
3. Báo cáo số 24/BC.DV về công tác dân vận tỉnh Sông Bé năm 1985, ngày
01/01/1986.

211
quản lý hàng hóa, lập lại trật tự trên mặt trận phân phối lưu
thông, xây dựng hợp tác xã tín dụng, cửa hàng, nhà kho thanh
niên, tổ chức tốt việc thu mua, thu nợ, thu thuế, động viên
quần chúng mua công trái xây dựng Tổ quốc, thực hiện tốt
phong trào tiết kiệm trong sản xuất, trong tiêu dùng và gửi
tiền tiết kiệm và ngân hàng.
Trên mặt trận văn hóa - xã hội, Ban Dân vận Tỉnh ủy vận
động các tầng lớp nhân dân phát động phong trào xây dựng
nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, phong trào
“Nhà nước với nhân dân cùng làm”, tạo cơ sở vật chất cho chủ
nghĩa xã hội.
Ngành giáo dục phát động các phong trào “thi đua dạy tốt,
học tốt”, xây dựng “tấm gương sáng”, “xây dựng trường lớp,
xóa bỏ trình trạng học ca 2, ca 3”. Kết quả, trong những năm
1983-1985, nhân dân đã đóng góp trên 500.000 đồng và hàng
ngàn công lao động, làm mới, tu sửa 126 phòng học, đóng mới
200 bộ bàn ghế, 3 nhà ở cho giáo viên... Đặc biệt, tổng kết các
phong trào thi đua, toàn tỉnh có 79 giáo viên đạt danh hiệu
tấm gương sáng, trường An Thạnh B ba năm liền đạt danh
hiệu tiên tiến.
Ngành y tế kết hợp với hội chữ thập đỏ vận động quần
chúng tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng
20.000 công trình vệ sinh, phun thuốc phòng dịch cho 13.296
hộ, tiêm phòng cho 50.800 lượt người, đồng thời huy động
10.319 đoàn viên thanh niên tham gia khơi thông 23km kênh
mương, quét hốt 14.676 m3 rác thải.
Ngành văn hoá phát động phong trào dọn vệ sinh, làm
“sạch đẹp đường phố”, xây dựng nhà văn hóa, câu lạc bộ văn
hoá thanh niên, thiết kế chương trình phát thanh thiếu niên,
,... Đặc biệt là đẩy mạnh phong trào xây dựng nền văn hóa
mới, con người mới xã hội chủ nghĩa; phong trào văn nghệ
quần chúng tự biên, tự diễn; truy quét tàn dư văn hoá đồi trụy,
212
phản động, thu giữ 1.000 băng nhạc vàng, 76 cuốn sách đồi
trụy; xóa bỏ tệ nạn bói toán, mê tín, dị đoan, mại dâm... Tính
đến năm 1985, ngoài các đơn vị văn nghệ chuyên nghiệp, các
đoàn chiếu bóng lưu động, trên địa bàn tỉnh còn có trên 400
đội văn nghệ quần chúng, mỗi năm phục vụ hàng chục vạn
người xem. Riêng chiếu bóng và văn nghệ chuyên nghiệp năm
1985 đã phục vụ khoảng 1.234 ngàn lượt người xem.
Cùng với các phong trào văn hóa xã hội nói trên, trong
những năm 1983-1985, Ban Dân vận Tỉnh ủy còn vận động
các tầng lớp nhân dân hưởng ứng các cuộc vận động, các phong
trào “lá lành đùm lá rách”, ủng hộ đồng bào Bình Trị Thiên
bị bão lụt 317,480 đồng 1.300kg gạo; giúp đỡ các gia đình neo
đơn, các gia đình bị nạn, trong đó cứu trợ cho 219 đồng bào dân
tộc ở huyện Bình Long bị cháy.
Trên mặt trận đoàn kết dân tộc, dân tộc vận và tôn giáo
vận trở thành một nhiệm vụ quan trọng của Ban Dân vận
Tỉnh ủy trong việc vận động các tín đồ các tôn giáo và đồng
bào dân tộc thiểu số cùng nhau đoàn kết, chung lưng, đấu cật
cùng Nhân dân toàn tỉnh chấp hành tốt các chủ trương, đường
lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước thực hiện
mọi nhiệm vụ ở địa phương như: lao động sản xuất làm nghĩa
vụ lương thực, nghĩa vụ quân sự tham gia phong trào làm ăn
tập thể, đóng góp cho công tác xã hội, mua công trái.
Đối với công tác tôn giáo, Ban Dân vận kết hợp với chính
quyền, các ngành có liên quan tuyên truyền chủ trương, đường
lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng,
tôn giáo; động viên tín đồ các tôn giáo an tâm, tin tưởng vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng
thời vạch trần âm mưu, bản chất của bọn phản động lợi dụng
tôn giáo chống phá cách mạng. Ban Dân vận còn tranh thủ
số linh mục, tu sĩ, tăng ni, phật tử tiêu biểu, có uy tín để vận
213
động họ tham gia truyên truyền, giải thích cho giáo dân, tín đồ
về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo, lôi
kéo những phần tử lưng chừng và cô lập những phần tử xấu,
chống phá cách mạng; đồng thời vận động Tỉnh hội Phật giáo,
Giám mục Thiên chúa giáo kêu gọi giáo dân, mua công trái
xây dựng Tổ quốc.
Đối với công tác dân tộc, Ban Dân vận kết hợp với chính
quyền, các ngành có liên quan tuyên truyền vận động đồng
bào dân tộc, định canh, định cư, ổn định cuộc sống, thâm canh
tăng vụ, đẩy mạnh sản xuất, khắc phục tình trạng du cư, phá
rừng làm rẫy; xóa bỏ các tập tục lạc hậu, xây dựng nếp sống
văn hóa mới. Đặc biệt, đối với người Hoa, Ban Dân vận cùng
với Mặt trận, các đoàn thể vận động theo tinh thần Chỉ thị 10,
giúp đồng bào người Hoa xác định được họ là công dân trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, chấp hành tốt các chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước,
yên tâm làm ăn, sinh sống, đẩy mạnh lao động sản xuất.
Trên mặt trận an ninh quốc phòng, Ban Dân vận chỉ đạo
các tổ chức chính trị xã hội tiến hành vận động quần chúng
thực hiện các phong trào “bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “quốc
phòng toàn dân”, “người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”, “vì điểm tựa tiền tiêu của Tổ quốc”, “hành quân theo
bước chân những người anh hùng”. Ban Dân vận còn vận động
quần chúng nâng cao cảnh giác, phát hiện, ngăn chặn các hoạt
động chống phá chính quyền, tội phạm hình sự, tội phạm tổ
chức vượt biên, ngăn chặn tổ chức FULRO từ Đắk Lắk về móc
nối, chống phá.
Các tổ chức an ninh nhân dân, an ninh xung kích được
thiết lập ở thị xã, các thị trấn và ở các địa bàn đông dân cư.
Quần chúng nhân dân tích cực tham gia công tác trị an, phát
hiện nhiều băng cướp có vũ khí, hưởng ứng phong trào thu
gom vũ khí, chất nổ, thu nộp 2.000 súng đạn các loại. Có thể
214
nói, nhờ có phong trào quần chúng, mà các cơ quan chức năng
trong tỉnh đã phát hiện được hàng trăm vụ tội phạm hình sự,
ngăn chặn được một số vụ móc nối đi nước ngoài, vượt biên trái
phép; ngăn chặn được một số vụ vi phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững1.
Hàng năm, lực lượng dân quân tự vệ, dân quân du kích,
học sinh các trường cấp II, III được học tập chính trị và huấn
luyện quân sự. Do vậy, phong trào thanh niên lên đường nhập
ngũ vượt chỉ tiêu của Trung ương giao; chất lượng nhập ngũ
ngày càng tăng, tỷ lệ đào ngũ giảm, cụ thể đợt 1 năm 1984 đưa
tỷ lệ đoàn viên đạt từ 10% đến 30% và có 176 đoàn viên thanh
niên viết đơn tình nguyện và cơ bản không còn hiện tượng đào
bỏ ngũ.
Cùng với công tác tuyên truyền giáo dục truyền thống, giáo
dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, công tác vận động
quần chúng thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội,
như tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho bộ đội, thương binh, giúp
đỡ gia đình liệt sĩ khi hoạn nạn, khó khăn, trong các dịp lễ,
tết đã thể hiện được tinh thần “quân với dân là một ý chí”. Cụ
thể, Đoàn thanh niên kết nghĩa với công an, quân đội, nhằm
giáo dục đoàn kết quân dân; Hội Phụ nữ trong tỉnh đã tổ chức
2.000 lượt người đi thăm hỏi bộ đội biên phòng, gia đình liệt sĩ,
thương binh và tặng quà trị giá 305.440 đồng, động viên 947
anh em bỏ ngũ trở về đơn vị.
*
* *
Thời gian 10 năm đầu sau ngày giải phóng (1975 - 1985)
chính là giai đoạn tiền đề, đặt nền móng đầy khó khăn phức
tạp mà nhân dân Thủ Dầu Một - Bình Dương phải trải qua

1. Trong những năm 1983-1985, quần chúng đã giúp các cơ quan chức năng phá
trên 345 vụ án, bắt 297 tên, thu hồi tài sản trị giá trên 1 triệu đồng, bằng 1/3 mức thiệt
hại.

215
để tiến hành công cuộc xây dựng cuộc sống mới, chế độ mới,
chế độ xã hội - xã hội chủ nghĩa. Từ chính quyền quân sự đến
chính quyền dân sự với sự thành lập một tỉnh mới với diện tích
lớn hơn, dân số nhiều hơn, quan điểm, tư tưởng, nhận thức,
hành động... đa chiều, phức tạp, do vậy công tác dân vận, vận
động các tầng lớp nhân dân cùng nhìn về một hướng, đoàn kết,
cùng nhau, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục sản
xuất, xây dựng cuộc sống mới trở nên phức tạp, khó khăn hơn.
Để xây dựng và vận hành chế độ mới, mô hình chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội mới trong nhận thức đa chiều của nhiều
thành phần, tầng lớp dân cư, công tác dân vận trở nên đặc biệt
quan trọng. Tuy nhiên, trong 10 năm đầu sau ngày giải phóng,
bộ máy tổ chức dân vận của tỉnh không ổn định, đội ngũ cán
bộ thiếu, yếu. Các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính
trị - xã hội đã tiến hành làm công tác dân vận, tuyên truyền,
giải thích chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, giáo dục, giác ngộ về cách mạng xã hội chủ
nghĩa, về quyền làm chủ tập thể, về tình hình nhiệm vụ mới,
vận động, thuyết phục các tầng lớp nhân dân, không phân biệt
dân tộc, tôn giáo tích cực tham gia, đẩy mạnh các phong trào
yêu nước. Dù vậy, hầu như những bài học, kinh nghiệm về
công tác dân vận đúc kết được từ hai cuộc kháng chiến chống
xâm lược không được phát huy hiệu quả, mà chủ yếu là mệnh
lệnh của chính quyền chuyên chính vô sản. Do vậy, bên cạnh
những thành tựu đạt được về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, đặc biệt là công tác hàn gắn vết thương chiến
tranh, xây dựng cuộc sống mới, vận động người Hoa, đồng bào
dân tộc thiểu số, xây dựng mô hình làm ăn tập thể, tham gia
chiến tranh, bảo vệ vững chắc biên giới, giữ vững trật tự trị
an. Trên địa bàn tỉnh vẫn còn một bộ phận dân cư chưa thật
sự giác ngộ và nhận thức đúng về cách mạng xã hội chủ nghĩa;
phong trào hành động cách mạng của quần chúng chưa phát
triển đồng đều, chưa sâu rộng, chưa liên tục. Đặc biệt do đời
216
sống kinh tế khó khăn, niềm tin của một bộ phận dân cư vào
đường lối cách mạng của Đảng, chính sách của nhà nước bị
giảm sút; hiện tượng chống đối, vượt biên và nhiều biểu hiện
tiêu cực xuất hiện.
Những thành công hạn chế trong 10 năm đầu sau ngày
giải phóng chính là những bài học, kinh nghiệm quý giá để
ngành dân vận của tỉnh bước vào giai đoạn cách mạng mới
thực hiện nhiệm vụ bài bản hơn, vững tin hơn.

217
Chương V
CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU
TIẾN HÀNH ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI
(1986-1996)

I. QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG “LẤY DÂN LÀM GỐC”, XÂY


DỰNG VÀ PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN
LAO ĐỘNG (1986-1991)

1. Vận động nhân dân thi đua lập thành tích chào
mừng Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, Đại
hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ IV

Bước vào thập niên 1980, tình hình chính trị thế giới có
nhiều biến đổi sâu sắc, đặc biệt là cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ và xu thế toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ đến
cuộc chạy đua của các nước nhằm tranh giành sự ảnh hưởng
về chính trị, kinh tế, văn hóa... Trong khi các nước ở khu vực
và thế giới có xu hướng “tạm gác” mâu thuẫn đối đầu để tìm sự
phát triển về kinh tế, thì Việt Nam lại phải “vật lộn” với những
rào cản lớn, như tư tưởng chủ quan, nóng vội trên con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là mô hình kinh tế “kế hoạch hóa
tập trung, bao cấp” ngày càng bộc lộ rõ những hạn chế, làm
cho tình hình kinh tế - xã hội đất nước rơi vào trì trệ, khủng
hoảng. Để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc
hậu, vấn đề có tính sống còn là phải đổi mới mạnh mẽ, cơ bản
về cách nghĩ, cách làm, tìm kiếm một cơ chế quản lý kinh tế
mới, phù hợp hơn.
Tại Sông Bé, tính đến tháng 4/1986, dân số của tỉnh khá
phức tạp, ngoài số dân tăng tự nhiên, dân số của tỉnh phần lớn
là do tuyển dụng làm công nhân từ các tỉnh và số dân đến tỉnh

218
lập nghiệp theo trong và ngoài kế hoạch1. Trong đó có 117.060
công nhân, chiếm tỷ lệ 15% dân số; nông dân chiếm tỷ lệ trên
80%; số còn lại là thợ thủ công và những người làm nghề dịch
vụ buôn bán nhỏ. Trên địa bàn tỉnh có khoảng 60.000 đồng
bào dân tộc, 22.000 người Hoa, 80.000 đồng bào các tôn giáo2.
Cơ cấu dân số tỉnh khá trẻ, tỉnh có 190.000 đoàn viên thanh
niên; 159.000 thiếu niên nhi đồng; 826 người tốt nghiệp đại
học và trên đại học.
Các số liệu trên cho thấy phần lớn dân cư trên địa bàn tỉnh
có nền tảng tri thức thấp, đó là yếu tố làm ảnh hưởng đến việc
quản lý và phát triển xã hội. Tuy nhiên, họ chủ yếu là thành
phần cách mạng, nếu làm tốt công tác dân vận, họ sẽ trở thành
lực lượng lao động chính để xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh.
Như vậy, để vượt qua khó khăn, huy động các nguồn lực
để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, trách nhiệm của
những người làm công tác dân vận là rất lớn, phải làm sao
để quần chúng thấy rõ được con đường phát triển tất yếu của
cách mạng Việt Nam, ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ công
dân về trách nhiệm xây dựng chính quyền, xây dựng Đảng của
quần chúng được nâng lên, cũng như xác định “ai thắng ai”
trong cuộc đấu tranh giữa 2 con đường tư bản và chủ nghĩa xã
hội trong thời kỳ quá độ3, từ đó giúp Nhân dân tin tưởng vào
đường lối lãnh đạo của Đảng và tập trung sức lực, trí tuệ để
hoàn thành tốt các chỉ tiêu cơ bản mà tỉnh đề ra.
Trong giai đoạn cách mạng mới, năm 1986, Ban Dân vận

1. Ban Dân Vận Tỉnh ủy Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác quần chúng năm
1983 - 1986, số 15/BC-TU, tháng 4/1986.
2. Ban Dân Vận Tỉnh ủy Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác quần chúng năm
1983 - 1986, số 15/BC-TU, tháng 4/1986.
3. Ban Dân Vận Tỉnh ủy Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác quần chúng năm
1983 - 1986, số 15/BC-TU, tháng 4/1986.

219
Tỉnh ủy được kiện toàn, ông Phan Văn Hiếu làm Trưởng ban;
bà Nguyễn Thị Hồng Vân, ông Nguyễn Hữu Đệ, ông Huỳnh
Văn Điển và ông Lê Hồng Minh làm Phó ban. Biên chế của
Ban có 16 người, trong đó có 1 cán bộ phụ trách tôn giáo, 1 cán
bộ phụ trách dân tộc, 1 cán bộ theo dõi các đoàn thể, 1 cán bộ
làm Chánh Văn phòng và 6 nhân viên (2 nhân viên tổng hợp,
2 lái xe, 01 kế toán, 1 thủ quỹ văn thư)1.
Từ đầu năm 1986, Ban Dân vận tỉnh đã phối hợp chặt
chẽ với chính quyền, các đoàn thể quần chúng để tiến hành
vận động nhân dân vượt qua những khó khăn về đời sống vật
chất, đặc biệt là vượt qua những tác động xấu của chính sách
“giá, lương, tiền”, cùng nhau đoàn kết, đẩy mạnh sản xuất,
lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần
thứ IV, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, tham
gia bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, biến
ngày bầu cử trở thành ngày hội về quyền làm chủ tập thể của
quần chúng.
Để thực hiện mục tiêu trên, Ban Dân vận Tỉnh ủy đã phối
hợp với chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội như: Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông
dân... vận động, làm tốt công tác quần chúng, phát động các
phong trào cách mạng, giao ước thi đua. Công nhân ở các cơ sở
sản xuất thi đua khắc phục khó khăn về nguyên vật liệu, phụ
tùng thay thế để hoàn thành nhiệm vụ. Nông dân thi đua đẩy
mạnh thâm canh tăng vụ, làm thủy lợi nội đồng, loại bỏ những
loại cây ít tiền như mía..., thay bằng các nông phẩm khác như
đậu, thuốc lá... để thu nhập cao hơn. Trí thức bám cơ sở để làm
việc và có ý thức vươn lên với ước muốn nhà nước có chính sách
cụ thể, tạo điều kiện khuyến khích anh chị em làm việc, sử

1. Năm 1987, biên chế của Ban Dân vận chỉ còn 14 cán bộ do 1 người về hưu,
1 người chuyển công tác, nên bộ phận tôn giáo, bộ phận người Hoa không có cán bộ
phụ trách. Sang năm 1988, Ban đã được bổ sung thêm 2 cán bộ để bảo đảm hoạt động
chuyên trách.

220
dụng có hiệu quả chất xám để góp phần làm giàu cho xã hội.
Đồng bào các dân tộc đoàn kết, định canh, định cư, đẩy
mạnh sản xuất, thực hiện tốt các mặt công tác ở địa phương.
Đồng bào các tôn giáo nỗ lực thực hiện nghĩa vụ công dân,
chấp hành tốt các chính sách pháp luật của Nhà nước và quy
định của chính quyền địa phương. Người Hoa an tâm làm ăn,
lạc quan tin tưởng hơn về mối quan hệ hữu nghị giữa 2 nước
Việt - Trung sẽ được khôi phục, đặc biệt là lạc quan tin tưởng
khi nhà nước cho 5 thành phần kinh tế cùng làm ăn, tồn tại.
Sản xuất nông nghiệp năm 1986 có chiều hướng phát triển,
diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân tăng 5% so với năm trước,
năng suất trung bình đạt 31/45tạ/ha; vụ mùa đạt 96,4%, riêng
lúa rẫy đạt 116,5% kế hoạch, lúa mùa năng suất bình quân
27,08 tạ/ha. Diện tích cây đặc sản cũng phát triển khá như:
tiêu tăng 2 lần, cà phê tăng 1,7 lần, điều tăng 2,2 lần, cao su
tăng 1,3 lần. Chăn nuôi phát triển, đàn trâu tăng 4,1%, đàn bò
tăng 5,9%, đàn gia cầm tăng 1,1%, riêng đàn heo giảm 12% so
với năm 1985. Trồng rừng đạt 74,8% kế hoạch năm. Đặc biệt,
việc trồng cây trong Nhân dân đạt 118% kế hoạch1.
Sản xuất công nghiệp năm 1986 đạt 710 triệu đồng, bằng
85% kế hoạch năm, một số xí nghiệp như vật liệu xây dựng,
sơn mài, mực in, Xí nghiệp ôtô 30/4, cơ khí Phú Lợi đã hoàn
thành vượt kế hoạch, song một số xí nghiệp vẫn còn gặp khó
khăn về vật tư nguyên liệu.
Quần chúng ở các địa phương được vận động thực hiện
công tác 3 thu: Công tác huy động lương thực, tính đến tháng
12/1986 đã đạt 109% kế hoạch, tăng gần 500 tấn so với năm
1985; thu thuế đạt 90% kế hoạch về tiến độ thu nợ hai chiều.
Do làm tốt công tác tuyên truyền vận động nên nhìn chung

1. Năm 1986, toàn tỉnh có 159 hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, trong đó số hợp
tác xã khá và trung bình chiếm 60%.

221
trong năm các địa bàn trong tỉnh đều giữ vững được an ninh
chính trị và trật tự xã hội. Công tác an ninh nhân dân, thanh
tra nhân dân có tiến bộ. Toàn tỉnh đã xây dựng 80/131 xã và
101/135 cơ quan xí nghiệp an toàn. Chính sách hậu phương
quân đội cũng được các địa phương thực hiện tốt hơn bằng các
việc làm như: tổ chức gửi quà tặng bộ đội, giúp đỡ gia đình liệt
sĩ, gia đình có công với cách mạng, một số xã ở Thuận An đã
xây dựng quỹ tiền tuyến có kết quả.
Phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục - thể thao vẫn giữ
vững và phát triển, hơn 400 đội văn nghệ nghiệp dư hoạt động
tốt, phục vụ đông đảo quần chúng trong các dịp lễ, tết, nội
dung và hình thức nghệ thuật có được nâng lên một mức. Các
hoạt động bóng đá, bóng chuyền và hoạt động thể dục được
tăng cường hơn, đã tổ chức phục vụ gây được phong trào ở
nhiều đơn vị kể cả trên địa bàn nông thôn.
Nhiều địa phương đã kết hợp phương châm nhà nước và
nhân dân cùng làm để phát triển giáo dục, y tế; xây dựng thêm
149 phòng học, sửa chữa 126 phòng học; củng cố các trạm xá,
khắc phục khó khăn phục vụ phòng và chữa bệnh cho quần
chúng, nổi bật là hoạt động của ngành y học dân tộc.
Tính đến những tháng cuối năm 1986, dù đời sống kinh
tế vẫn rất khó khăn, nhưng quần chúng trong tỉnh phần nào
ổn định về chính trị, tư tưởng, nhiều phong trào cách mạng
được phát động, đơn cử như: phong trào quần chúng tham gia
đẩy mạnh sản xuất nông, công nghiệp; phong trào bảo vệ tổ
quốc, bảo vệ thành quả của cách mạng. Nhân dân trong tỉnh
luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chống lại kiểu chiến tranh phá
hoại nhiều mặt của địch; khẳng định tình đoàn kết hữu nghị
với Liên Xô với các nước xã hội chủ nghĩa và Nhân dân yêu
chuộng hoà bình trên thế giới, đặc biệt là chăm lo vun đắp tình
đoàn kết giữa nhân dân ba nước Đông Dương.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, Ban Dân vận tỉnh
222
Sông Bé cũng đã nhận ra được các mặt hạn chế, cụ thể như
“phong trào chưa rộng khắp, chưa sâu, chưa liên tục, chất
lượng phong trào ở từng mặt, ở từng nơi còn có nhiều hạn chế,
việc kiểm tra, đôn đốc, nhân điển hình của phong trào chung
và từng phong trào riêng chậm và thiếu nhạy bén, liên tục
nên chưa làm cho phong trào hành động cách mạng của quần
chúng trong tỉnh trở thành rộng mạnh, liên tục, đều khắp và
sôi nổi. Có phong trào do ý thức tự giác của quần chúng, nhưng
có phong trào nếu không có sự tác động mạnh mẽ liên tục của
cả hệ thống chuyên chính vô sản thì không duy trì và phát
triển mạnh được”1.

2. Quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, vận động


nhân dân thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng

Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đã diễn ra và thành công tốt đẹp. Đại hội đã khẳng định
quyết tâm đổi mới toàn diện đất nước, trước mắt giải quyết ba
vấn đề lớn về cơ cấu sản xuất, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ
chế quản lý kinh tế. Trên cơ sở quán triệt quan điểm lấy dân
làm gốc, Nghị quyết đại hội đề ra mục tiêu thực hiện thành
công 3 chương trình kinh tế lớn, đó là: Chương trình lương
thực, thực phẩm; Chương trình sản xuất hàng tiêu dùng; và
Chương trình sản xuất hàng xuất khẩu.
Trước đó, từ cuối tháng 10 đầu tháng 11/1986, Đại hội đại
biểu Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ IV được tổ chức và đã đề
ra phương hướng nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong những năm
1986-1990 với các mục tiêu chủ yếu:
“1. Kiên quyết điều chỉnh, bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu
tư theo hướng thực sự lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng
đầu, gắn sản xuất với chế biến nhằm giải quyết một cách hợp

1. Ban Dân Vận Tỉnh ủy Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác quần chúng năm
1983 - 1986, số 15/BC-TU, tháng 4/1986.

223
lý yêu cầu lương thực, thực phẩm tại chỗ, tăng nhanh nguồn
hàng xuất khẩu đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng phù hợp
nguồn nguyên liệu địa phương. Phấn đấu ổn định và cải thiện
một bước đời sống vật chất và văn hóa của Nhân dân.
2. Tạo sự chuyển biến mạnh về mặt xã hội, tích cực thực
hiện việc phân bổ lao động và dân cư, sắp xếp cho người lao
động có việc làm, thực hiện mức sống công bằng hợp lí, giảm
hẳn sự chênh lệnh quá đáng giữa các nhóm dân cư. Xây dựng
quan hệ xã hội và nếp sống lành mạnh, khắc phục các hiện
tượng tiêu cực, động viên mọi người nhất là thanh niên hăng
hái lao động sáng tạo, sống có văn hoá, có lí tưởng, gắn bó với
tiền đồ của cách mạng và Tổ quốc.
3. Tạo sự tích luỹ từ kinh tế địa phương và sử dụng có
hiệu quả các nguồn vốn, xây dựng thêm cơ sở vật chất của chủ
nghĩa xã hội. Xây dựng có mục tiêu, có trọng điểm bảo đảm,
đầu tư có hiệu quả cao, nhanh chóng thu hồi vốn.
4. Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa và nâng cao chất
lượng quan hệ sản xuất mới làm cho kinh tế xã hội chủ nghĩa
thực sự chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, cải
tạo và sử dụng hết khả năng các thành phần kinh tế khác
trong sự liên kết chặt chẽ với thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa tạo ra sức mạnh tổng hợp lớn, có hiệu quả cao. Hình
thành đồng bộ cơ chế quản lý mới, thiết lập trật tự, kỷ cương
trong quản lý kinh tế, xã hội.
5. Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh, làm
cho cả 2 mặt đều không ngừng lớn mạnh, trên cơ sở phong trào
an ninh quốc phòng toàn dân, tích cực giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, làm tròn nghĩa vụ với cả nước và
quốc tế được giao”1.

1. Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé tại Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ IV, số 64/BC, ngày 29/10/1986.

224
Đối với công tác dân vận, Đại hội đề ra những vấn đề mang
tính chiến lược: “Bảo đảm và phát huy quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động” xem đó “là yêu cầu tạo sức mạnh chủ
yếu để xây dựng và phát triển chế độ mới xã hội chủ nghĩa”.
Yêu cầu cấp bách đặt ra đối với công tác dân vận thời kỳ này
là phải thật sự đổi mới phương thức vận động quần chúng, bảo
đảm cho người lao động tin tưởng và dốc sức thực hiện Nghị
quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng bộ tỉnh, có đầy đủ quyền
hạn và nghĩa vụ thực sự trong việc tham gia quản lý xã hội,
quản lý Nhà nước, kiểm tra và giám sát công tác của chính
quyền”1.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ IV cũng
đồng thời đề ra các giải pháp thực hiện mục tiêu:

- Mỗi cấp ủy đảng cần quán triệt sâu sắc quan điểm của
đảng đối với công tác quần chúng, xác định rõ toàn đảng làm
công tác vận động quần chúng, gắn hoạt động của tổ chức
chính quyền với đoàn thể quần chúng. Thông qua các phong
trào cách mạng của quần chúng mà củng cố, xây dựng và phát
triển tổ chức, chọn lựa đào tạo bố trí cán bộ.
- Tổ chức Công đoàn phải chuyển hướng, đổi mới phương
thức hoạt động, đi sát cơ sở, tăng cường công tác chính trị tư
tưởng, giáo dục ý thức giai cấp và kỷ luật lao động mới, quan
tâm đúng mức đến quyền lợi công nhân, đẩy mạnh phong trào
thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm phát huy sáng kiến,
cải tiến kỹ thuật, luyện tay nghề, thi thợ giỏi, phấn đấu hoàn
thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước.
- Hội Nông dân tập thể có trách nhiệm thực hiện công tác
vận động quần chúng nông dân tham gia phong trào làm ăn
tập thể. Kiểm tra các ban quản trị hợp tác xã, tập đoàn sản

1. Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé tại Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ IV, số 64/BC, ngày 29/10/1986.

225
xuất, bảo vệ quyền lợi chính đáng của xã viên. Hội cần coi
trọng tổ chức và hoạt động của Hội ở cơ sở, xây dựng các tổ hòa
giải trong từng xóm, ấp cải tiến nội dung sinh hoạt thiết thực,
phù hợp với yêu cầu sản xuất và đời sống của nông dân.
- Đối với thế hệ trẻ, cần giáo dục lòng trung thành với lý
tưởng cộng sản, có tinh thần yêu nước nồng nàn, dũng cảm,
sáng tạo, có trí thức và ý thức trách nhiệm. Trong kế hoạch
5 năm lần thứ tư cần tổ chức những đơn vị thanh niên xung
phong làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế và các công trình phục
vụ lợi ích công cộng, hình thành nhiều tập thể thanh niên
nòng cốt giữ vai trò xung kích trong mọi công tác.
- Hội liên hiệp Phụ nữ ra sức động viên các tầng lớp phụ nữ
tham gia quản lý kinh tế-xã hội, nhất là trong lĩnh vực phân
phối lưu thông, chăm sóc giáo dục thiếu niên nhi đồng, xây
dựng gia đình văn hóa mới, xây dựng nếp sống mới, con người
mới, làm nồng cốt thực hiện kế hoạch hóa dân số, chăm lo và
bảo vệ lợi ích chính đáng của phụ nữ và đời sống gia đình làm
nồng cốt mở rộng giáo dục và thực hiện luật hôn nhân. Hội có
trách nhiệm góp phần đào tạo, bồi dưỡng giới thiệu cán bộ nữ
có năng lực vào cơ quan lãnh đạo.
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp cần đi sâu tuyên truyền
vận động các tầng lớp nhân dân, các dân tộc và tôn giáo, các
nhân sĩ, trí thức và người Hoa hăng hái tham gia các phong
trào hành động cách mạng, tăng cường sự nhất trí về chính trị
và tinh thần của nhân dân, giáo dục phong cách sống, hành
động theo pháp luật, Đảng đoàn, mặt trận cần tuyển chọn
những người công tác xuất sắc đủ tiêu chuẩn để đề nghị phát
triển Đảng. Củng cố và tổ chức mặt trận ở cơ sở, nâng cao vai
trò và chất lượng hoạt động của tổ chức mặt trận các cấp, lựa
chọn đại biểu xứng đáng vào Hội đồng nhân dân các cấp.
- Hội chữ thập đỏ, Hội Y học dân tộc, câu lạc bộ châm cứu
và các hội quần chúng khác như hội văn nghệ, hội khoa học kỹ
226
thuật của nghệ nhân, hội những người lao động chuyên ngành
... tiếp tục củng cố và hoạt động thực sự để truyền bá rộng rãi
kiến thức, kinh nghiệm, phục vụ tốt hơn yêu cầu sản xuất đời
sống và sinh hoạt xã hội1.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IV, Ban Dân
vận Tỉnh ủy định rõ phương hướng nhiệm vụ công tác dân vận
trong năm 1986 và trong các năm tiếp theo gồm các nội dung
chính: Quán triệt sâu sắc các quan điểm quần chúng và công
tác quần chúng trong giai đoạn mới; bồi dưỡng sức dân, tổ
chức thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch Nhà
nước; phát huy quyền làm chủ tập thể để sử dụng sức mạnh
tổng hợp đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng
trên mọi lĩnh vực; nâng cao trách nhiệm của các cấp chính
quyền, tăng cường sự phối hợp hành động giữa tổ chức chính
quyền với các tổ chức đoàn thể quần chúng, thực hiện những
biện pháp có hiệu quả xây dựng những tập thể lao động mới,
những con người mới xã hội chủ nghĩa; nâng cao vai trò chức
năng của các đoàn thể và Mặt trận, tích cực củng cố, mở rộng
các hình thức tập hợp rộng rãi các tầng lớp quần chúng; tăng
cường công tác cán bộ chuyên trách làm công tác vận động
quần chúng ở tất cả các cấp, ngành.
Ngày 12/3/1987, Ban Dân vận tiến hành Hội nghị tổng kết
công tác dân vận năm 1986 và bàn phương hướng công tác dân
vận với nội dung: Đánh giá tình hình đời sống quần chúng,
nhất là cán bộ công nhân viên và vùng dân tộc, đồng thời bàn
thảo các biện pháp giảm bớt khó khăn cho các tầng lớp nhân
dân; xác định tầm quan trọng của công tác dân vận trong giai
đoạn cách mạng mới, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng cần quan
tâm nhiều hơn đến công tác dân vận, tăng cường phối hợp với
chính quyền và đoàn thể trong công tác dân vận, đẩy mạnh

1. Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé tại Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ IV, số 64/BC, ngày 29/10/1986.

227
hoạt động nghiên cứu, tìm ra những hình thức dân vận thích
hợp; đề đạt với Tỉnh uỷ và Ban Dân vận Trung ương ban hành
các chính sách bồi dưỡng sức dân (về giá cả hàng hóa, tiền
lương, chế độ chính sách), nhất là Nhân dân vùng căn cứ cũ,
vùng đồng bào dân tộc, đồng thời xin bổ sung cán bộ làm công
tác dân vận và đề nghị có chính sách cụ thể khuyến khích cán
bộ làm công tác dân vận1.
Đối với nông dân, Ban Dân vận dựa vào các tổ chức nông
hội để tiến hành công tác giáo dục nâng cao trình độ hiểu
2

biết về xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa
xã hội; giáo dục ý thức trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ
của người nông dân. Đồng thời, Ban Dân vận cũng tiến hành
nghiên cứu đổi mới phương thức làm việc, chăm lo đời sống các
mặt cho các hội viên, thực hiện công tác kiểm tra, quản trị, các
tập đoàn sản xuất, phân phối sản phẩm, bảo đảm quyền cho
người nông dân và xây dựng nông thôn mới.
Trong những năm 1987-1988, đời sống của nông dân trên
địa bàn tỉnh còn nhiều khó khăn (trừ một số gia đình có kinh
tế vườn), hàng tiêu dùng thiếu thốn, điều kiện vệ sinh sức
khỏe yếu kém. Tuy nhiên, do làm tốt công tác dân vận, người
nông dân đã hình thành ý thức tự lực, tự cường, khắc phục khó
khăn về thời tiết, vật tư, giá cả... để phát triển sản xuất. Đặc
biệt, năm 1988, khi Nghị quyết 10 và Chỉ thị 47 ra đời, người
nông dân trở nên phấn khởi, bước đầu thực hiện quyền dân
chủ xã hội chủ nghĩa; mạnh dạn phát biểu đề đạt ý kiến, phê
bình, góp ý và bày tỏ nguyện vọng của mình với cán bộ công
quyền, với các cơ quan Đảng, nhà nước.
Giai đoạn 1988-1990, Hội Nông dân tập thể của tỉnh phát

1. Ban Dân vận: Báo cáo kết quả Hội nghị Tổng kết công tác Dân vận năm 1986,
Sông Bé ngày 14/3/1987.
2. Hội Nông dân tập thể đã hoàn chỉnh bộ máy ở ba cấp, có 120 Ban Chấp hành
xã, 491 Ban Chấp hành chi hội gồm 3.047 cán bộ với 81.016 hội viên, tăng 1.026 hội
viên so với năm 1986.

228
động 2 phong trào cách mạng lớn, đó là “Phong trào phát triển
kinh tế phụ gia đình” và “Phong trào nông dân sản xuất giỏi”.
Cả 2 phong trào đều thu hút đông đảo nông dân tham gia, mở
rộng diện tích, trồng cây đặc sản, cây công nghiệp, phát triển
chăn nuôi gia súc, gia cầm... Đặc biệt, qua các phong trào,
nhiều tấm gương người nông dân sản xuất giỏi đã xuất hiện,
không những họ hăng hái lao động sản xuất, mà còn tìm tòi
cải tiến kỹ thuật, đưa tiến bộ khoa học vào đồng ruộng. Bên
cạnh đó, Hội còn chú ý phát động phong trào nông dân sản
xuất giỏi, phong trào làm kinh tế gia đình đã được đông đảo
hội viên và nông dân hưởng ứng.
Những năm 1988-1990, Ban Dân Vận cùng Hội Nông dân
coi việc giải quyết tranh chấp ruộng đất là công tác trung tâm,
nhất là ở cơ sở, nhiệt tình và việc giải quyết có lý có tình bảo
đảm được sự đoàn kết trong nông dân.
Đối với công nhân, Ban Dân vận dựa vào các tổ chức công
đoàn, xây dựng, hoàn thiện từ cấp tỉnh xuống tận cơ sở. Ban
Dân vận Tỉnh ủy vận động các tổ chức công đoàn đổi mới
phương thức hoạt động, đi sâu đi sát cán bộ, công nhân, viên
chức. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, rèn luyện
ý thức giai cấp, kỷ luật lao động được tăng cường làm cho
cán bộ, công nhân, viên chức ý thức được trách nhiệm, thực
hiện quyền tự chủ lao động, sản xuất kinh doanh ở các đơn vị.
Phong trào thi đua sản xuất, tiết kiệm, phát huy sáng kiến,
cải tiến kỹ thuật, luyện tay nghề, thi thợ giỏi, phấn đấu hoàn
thành chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước được đẩy mạnh.
Trong những năm 1987-1990, dù đời sống kinh tế hết sức
khó khăn, thu nhập thực tế của cán bộ, công nhân, viên chức
không đủ sống. Nhiều cơ quan, đơn vị, nông trường... chậm
trả lương từ 2 đến 3 tháng; hàng nhu yếu phẩm cung cấp thất
thường; sức khỏe của nhiều cán bộ, công nhân, viên chức giảm
sút, điều kiện chăm sóc thuốc men phòng và chữa bệnh không
229
đủ, nhất là ở các đơn vị xa thị xã, thị trấn1. Tuy vậy, do làm
tốt công tác dân vận, cán bộ, công nhân, viên chức của nhiều
cơ quan, đơn vị, nông trường vẫn ra sức phấn đấu, tin tưởng
vào đường lối cách mạng của Đảng, nhà nước, tìm cách tháo
gỡ khó khăn, đẩy mạnh lao động, sản xuất. Đặc biệt, nhiều cơ
quan, đơn vị, nông trường vẫn hưởng ứng các phong trào thi
đua, đăng ký phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch năm. Ở
các công ty cao su, tốc độ trồng mới đã hoàn thành kế hoạch,
việc khai thác mủ tăng từ 6,3-10% so cùng kỳ. Phong trào
phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trên phạm vi toàn tỉnh
vẫn được phát động, có năm đạt 118 sáng kiến (1988)2.
Đối với đội ngũ trí thức, năm 1987 trên địa bàn tỉnh có
khoảng gần 1.000 người, họ là bộ phận công dân có trình độ
cao, hiểu biết và nhạy cảm với những thay đổi của thời cuộc.
Đặc biệt, họ có quan hệ gần gũi với công nhân, nông dân nên
có thể cống hiến nhiều cho sự phát triển xã hội. Tuy nhiên,
dưới tác động của hoàn cảnh đất nước và những khó khăn về
đời sống kinh tế, vấn đề công bằng xã hội và những hiện tượng
tiêu cực ngày càng gia tăng đã làm cho tầng lớp này dao động,
giảm niềm tin đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách của Nhà nước.
Những năm 1987-1990, dù chủ trương năm thành phần
kinh tế đã được triển khai, tuy nhiên tâm trạng chung của đội
ngũ trí thức vẫn cảm thấy tri thức của họ chưa được xã hội tôn
trọng, chất xám bị coi rẻ, đồng lương được nhà nước trả chưa
hợp lý, công bằng xã hội bị đảo ngược. Tiền lương một năm
của một giáo viên đứng lớp, không bằng một kỹ sư sửa xong

1. Một bộ phận cán bộ, công nhân, viên chức ở nhiều cơ quan, đơn vị, nông
trường phải bỏ việc để tìm kế sinh nhai khác, một số trở nên tiêu cực, biến chất, tìm
mọi cách để kiếm sống kể cả tham ô, trộm cắp.
2. Liên hiệp công đoàn có 8 công đoàn huyện thị, 11 công đoàn ngành, 582 công
đoàn cơ sở, 517 công đoàn bộ phận với 6.902 cán bộ chuyên trách và bán chuyên
trách. Đoàn viên công đoàn có 90.195 công đoàn viên, chiếm 79% công nhân viên,
tăng hơn năm trước 4.635 công đoàn viên.

230
một cỗ máy; một bác sĩ cả năm giành giật bệnh nhân với tử
thần nhưng thu nhập thua xa một nhân viên cửa hàng thương
nghiệp... Làm sao để đội ngũ trí thức yên tâm cống hiến công
sức, trí tuệ, chất xám cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh là nhiệm vụ của những người làm công tác trí vận.
Ban Dân vận đã phối hợp với chính quyền, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị xã hội, vận động, thuyết phục, tạo mọi điều
kiện để đội ngũ trí thức vượt qua khó khăn, yên tâm công tác,
gắn bó với cơ quan đơn vị và cố gắng trong nhiệm vụ của mình
với tinh thần “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” và từng bước
ổn định, cải thiện cuộc sống.
Đối với Đoàn thanh niên, đây là lực lượng hậu bị, là lực
lượng xung kích của Đảng, nhiệm vụ quan trọng là làm sao
nghiên cứu, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động1. Ban
Dân vận vận động các tổ chức Đoàn giáo dục phẩm chất và lý
tưởng cộng sản cho đoàn viên và thế hệ trẻ, thực hiện “sống,
chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”; vận
động, tập hợp rộng rãi thanh niên vào các tổ chức thích hợp về
nghề nghiệp, về nhu cầu cuộc sống, vào Hội liên hiệp Thanh
niên tạo điều kiện để thanh niên cống hiến nhiều nhất cho sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, xây dựng cuộc sống mới.
Ban luôn sáng tạo, làm cho những hình thức hoạt động trở nên
năng động, phù hợp với đặc điểm của tuổi trẻ, phát huy vai trò
xung kích, thật sự là lực lượng sáng tạo và đi đầu trong sáng
chế, cải tiến, thực hiện các tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong
quản lý, sản xuất và đời sống xã hội.
Phối hợp với Ban Dân vận, trong những năm 1988 - 1990,
Đoàn Thanh niên trên địa bàn tỉnh triển khai thực hiện 3

1. Tổ chức bộ máy của Đoàn Thanh niên ở 3 cấp được kiện toàn. Tổng số đoàn
viên là 39.594 đoàn viên, tăng hơn năm 1986 là 3.499 đồng chí, trong số trên đã có
29.293 đoàn viên được phát thẻ, tăng hơn năm 1986 là 2.293 người. Năm 1987 có 597
đoàn viên ưu tú giới thiệu vào Đảng, đã kết nạp 149 đồng chí vào Đảng. Hội liên hiệp
Thanh niên có 57.960 hội viên, tăng 2.057 hội viên so với năm 1986. Đội thiếu niên
nhi đồng có 104.607 em.

231
chương trình kinh tế lớn với các phong trào cụ thể:
- Phong trào đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất
nông nghiệp đã thu hút nhiều đơn vị chi đoàn, phân đoàn tham
gia. Đoàn viên và thanh niên đã thí nghiệm những thửa ruộng
cao sản, đưa giống mới vào sản xuất, áp dụng đúng qui trình
kỹ thuật trong sản xuất đã được hướng dẫn đã góp phần làm
tăng năng suất ở một số địa phương như Tân Uyên, Bến Cát...
- Phong trào những cửa hàng thanh niên xã hội chủ nghĩa
ở trong ngành thương nghiệp đã có tác động tốt đến khâu
phân phối lưu thông và thái độ phục vụ của công nhân viên
trong ngành thương nghiệp. Đồng thời đoàn cũng phát động
xây dựng công trình giảm phí lưu thông trong ngành thương
nghiệp, được đoàn viên thanh niên nhiệt tình tham gia.
- Phong trào cải tiến kỹ thuật luyện tay nghề, thi thợ giỏi
ở đơn vị công nghiệp, thủ công nghiệp, các cơ sở cao su được
đoàn viên và thanh niên tích cực hưởng ứng. Nhiều công trình
thanh niên nhận khoán gọn hoặc từng khâu, từng phần đã
được tổ chức ở cơ sở, tạo thêm điều kiện, góp phần thực hiện
kế hoạch nhà nước trong năm.
- Giải quyết công ăn việc làm cho thanh niên, đã có trên
1.000 thanh niên được sắp xếp việc làm. Tỉnh đã mở thêm
nhiều lớp dạy nghề cho thanh niên, hàng trăm đoàn viên
thanh niên đã theo học. Đồng thời cũng đã góp phần phát động
phong trào thi đua hai tốt trong ngành giáo dục có kết quả1.
Đối với phụ nữ, Ban Dân vận Tỉnh ủy phố hợp với Liên
hiệp hội2 tiến hành vận động phụ nữ tham gia quản lý kinh tế
xã hội, xây dựng gia đình văn hóa mới, nếp sống mới, chống
mê tín dị đoan, bảo vệ lợi ích chính đáng của phụ nữ trong lao

1. Ban Dân vận: Báo cáo công tác dân vận năm 1988.
2. Hội liên hiệp Phụ nữ có 126 Ban Chấp hành cơ sở với 8.420 tổ, số hội viên
là 130.442 hội viên. Số cơ sở hoạt động khá của hội chiếm tỷ lệ 73,1%, Hội đã xoá
được cơ sở trắng.

232
động sản xuất. Hội giáo dục cho lực lượng phụ nữ xác định
rõ trách nhiệm của mình là lực lượng nòng cốt trong công tác
quản lý thị trường, xây dựng mạng lưới thương nghiệp mua
bán trong lĩnh vực phân phối, chăm lo đời sống gia đình. Hội
đã góp phần tích cực vào việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ,
phát hiện giới thiệu cán bộ nữ có năng lực và phẩm chất tham
gia các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Từ năm 1988, Liên hiệp hội Phụ nữ tỉnh phát động phong
trào vận động phụ nữ tham gia ba chương trình kinh tế lớn
của Đảng và phong trào bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Phong trào
ba chương trình kinh tế lớn của Đảng được chị em, hội viên
tích cực hưởng ứng, tham gia cùng gia đình sản xuất hết diện
tích, ủ gần 8.000 tấn phân chuồng, làm hàng chục ngàn tấn
phân xanh, chăn nuôi thêm được 17.328 con heo, 5.200 trâu
bò, 215.000 con gia cầm. Phong trào bảo vệ bà mẹ và trẻ em
cũng đã phát triển rộng khắp và mạnh mẽ. Các cơ sở đã tích
cực vận động chị em thực hiện kế hoạch hoá gia đình, đã có
7.860 chị em hưởng ứng. 8.336 bà mẹ đạt tiêu chuẩn nuôi dạy
con tốt. Phong trào 1 ngày công lao động vì trẻ thơ đã thu được
69 triệu đồng để xây dựng các công trình phúc lợi cho con em.
Đặc biệt, các phong trào thi đua của Hội đã triển khai, kể cả
chiều rộng và chiều sâu đều diễn ra rất sôi nổi. Kết quả bình
bầu 10 năm (1979-1988), có 6.241 chị đạt tiêu chuẩn; bình bầu
9 năm (1980-1988) có 3.887 chị đạt; bình bầu 8 năm (1981-
1988) có 2.940 chị đạt tiêu chuẩn thi đua.
Đối với Mặt trận Tổ quốc, Mặt trận giữ vai trò chính trị
quan trọng trong sự nghiệp củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân, các dân tộc trong tỉnh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Ban Dân vận Tỉnh ủy đã phối hợp thống nhất
với Mặt trận tổ chức các chương trình hành động trong các
đoàn thể và các tổ chức thành viên khác, để thực hiện đường
lối chính sách của Đảng, lựa chọn những người xứng đáng
vào tổ chức dân cử. Đặc biệt là tổ chức các mối quan hệ để

233
thực hiện tốt nghĩa vụ và quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động với các đại biểu dân cử các cấp, tăng cường công
tác Mặt trận ở các địa bàn dân cư, chú trọng tập hợp phụ
lão vào tổ chức, góp phần tuyên truyền giáo dục các tầng lóp
nhân dân, tăng cường đoàn kết hữu nghị với Liên Xô, với nhân
dân ba nước Đông Dương và Nhân dân các nước xã hội chủ
nghĩa, Nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đặc biệt
là củng cố tình hữu nghị và tình đoàn kết chiến đấu với Mặt
trận Đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân Kratié
(Campuchia) anh em.
Năm 1988, Ban Dân vận Tỉnh ủy đã phối hợp thống nhất
với Mặt trận tổ chức, phát động các phong trào chính như:
- Phong trào xây dựng quỹ bảo thọ thu hút 27.670 trong số
123.000 phụ lão tham gia, nâng tổng số quỹ bảo thọ toàn tỉnh
lên 201 quỹ với số tiền gửi trên 10 triệu đồng (tăng hơn năm
trước 12.670 hội viên).
- Phong trào vận động mua công trái xây dựng Tổ quốc đợt
1 đạt 117% kế hoạch và hai đợt đã đạt 74% kế hoạch.
- Phong trào thực hiện chính sách hậu phương quân đội,
Tết Nguyên đán vận động được 2 triệu đồng mua quà thăm
bộ đội, ủng hộ Trường Sa 10 triệu đồng. Bên cạnh đó việc vận
động ủng hộ xây dựng bệnh viện 512 giường của tỉnh, ủng hộ
công trình thuỷ điện Trị An cũng đã đạt kết quả nhất định.
- Một công tác quan trọng mà Mặt trận đã thực hiện trong
năm là tổ chức các cơ sở nghiên cứu đóng góp ý kiến xây dựng
văn kiện Đại hội Mặt trận Tổ quốc lần thứ III và phát huy
quyền dân chủ của quần chúng. Việc triển khai đã tiến hành ở
khắp các cơ sở và thu được kết quả tốt.
Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, là lực lượng dân cư
khá lớn, nhiệm vụ của Ban Dân vận Tỉnh ủy là làm sao vận
động họ tham gia xây dựng quyền bình đẳng dân tộc, ý thức
234
về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, phát huy tình đoàn kết,
tinh thần yêu nước, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng
quan tâm một cách toàn diện và đầy đủ để nâng cao đời sống
kinh tế văn hoá của đồng bào tiến tới từng bước xóa bỏ sự cách
biệt giữa miền ngược và miền xuôi, trước mắt và lâu dài phải
chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc, để đảm đương
các mặt công tác ở địa phương; đồng thời “nghiên cứu xây dựng
cho được một mô hình toàn diện tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các
vùng dân tộc”.
Trong những năm 1987-1990, dù đời sống ở một số địa
phương có phần ổn định, nhưng nhìn chung đời sống vẫn còn
lạc hậu, thấp kém hơn các vùng khác ở trong tỉnh. Những yêu
cầu cơ bản trong cuộc sống của đồng bào như vải, dầu, khô,
mắm... vẫn còn thiếu ở nhiều nơi. Khi giáp hạt, đồng bào vẫn
thiếu ăn nghiêm trọng, đáng chú ý là 500 hộ Tày - Nùng đến
Sông Bé lập nghiệp ngoài kế hoạch. Đặc biệt, các dân tộc thiểu
số trên địa bàn tỉnh còn nhiều hủ tục, mê tín nặng nề, một số
vụ “chém ma lai” vẫn còn xảy ra.
Đối với đồng bào người Hoa, nhiệm vụ của Ban Dân vận
Tỉnh ủy là “tích cực phát triển lực lượng trong người Hoa”1;
“đi sâu vận động cách mạng người Hoa, giáo dục sâu rộng
chính sách của đảng đối với người Hoa, chống những luận điệu
xuyên tạc của địch. Mở rộng đoàn kết, động viên nghĩa vụ công
dân”2; vận động người Hoa thực hiện tốt các đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng
cường công tác chính trị tư tưởng chống lại mọi âm mưu thủ
đoạn của các thế lực thù địch, làm cho đồng bào người Hoa
an tâm, tin tưởng, “khuyến khích đóng góp tay nghề, kinh
nghiệm, vốn liếng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

1. Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé tại Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ IV, số 64/BC, ngày 29/10/1986.
2. Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé tại Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ IV, số 64/BC, ngày 29/10/1986.

235
Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, năm 1988, khi Trung
Quốc xâm chiếm vùng quần đảo Trường Sa, bà con người Hoa
lại băn khoăn, dao động, cầm chừng, nghe ngóng...
Trong những năm 1988-1990, do làm tốt công tác dân vận,
đại bộ phận người Hoa an tâm làm ăn chủ yếu với nghề tiểu
thủ công nghiệp, gắn kết cùng người dân địa phương thực hiện
các nhiệm vụ kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng. Đặc biệt,
khi mối quan hệ Liên Xô- Trung Quốc, Việt Nam - Trung Quốc
có dấu hiệu được cải thiện, và chính sách mới của Đảng, nhà
nước về việc mở rộng sản xuất kinh doanh, cho phép tồn tại
nhiều thành phần kinh tế, đông đảo bà con người Hoa thấy an
tâm, phấn khởi, tin tưởng. Hàng trăm hộ người Hoa đã mạnh
dạn đầu tư, vận động thân nhân gửi vốn về để hùn hạp làm
ăn, đời sống kinh tế do vậy dần dần ổn định và cải thiện hơn.
Đối với đồng bào các tôn giáo, Đảng và Nhà nước chủ
trương thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo và thực
thi chính sách đại đoàn kết dân tộc. Do vậy, nhiệm vụ của Ban
dân vận Tỉnh ủy là tìm phương thức hoạt động thích hợp, “tạo
ra phong trào cách mạng và xây dựng cho được lực lượng cốt
cán trong các tôn giáo”1. Do làm tốt công tác dân vận, trong
những năm 1987-1990, đồng bào các tôn giáo trên địa bàn
tỉnh đã có sự chuyển biến lớn trong nhận thức chính trị, trong
việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, cùng các tầng
lớp nhân dân trong tỉnh, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, xây dựng cuộc sống mới. Do vậy, trên địa bàn tỉnh,
việc gắn bó giữa đạo với đời, xây dựng tình đoàn kết lương -
giáo được thể hiện rõ nét hơn. Tín đồ các tôn giáo ngày càng
phân biệt được rõ việc hoạt động tôn giáo chân chính và lợi
dụng tôn giáo.
Nhìn chung tín đồ các tôn giáo an tâm với cuộc sống “tốt

1. Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé tại Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ IV, số 64/BC, ngày 29/10/1986.

236
đạo, đẹp đời”, đồng bào và các vị tu hành, chức sắc cố gắng
tham gia các phong trào chung, phấn khởi trước bầu không
khí cởi mở của chính quyền trong việc giải quyết các vấn đề
liên quan đến tôn giáo (như việc đi lại của tu sĩ, việc cho sửa
chữa cơ sở tín ngưỡng, việc cho phong thêm linh mục, số tín
đồ của từng tôn giáo phát triển, số giáo hữu tâm tòng của đạo
Thiên chúa, số phật tử đến chùa ở địa phương nhiều hơn năm
trước...). Đặc biệt, Ban Dân vận đã tham mưu cho cấp ủy kịp
thời giải quyết đơn từ của tín đồ Thiên chúa giáo, Phật giáo,
Cao đài, người Hoa trong việc xin hành đạo, xin xây nơi thờ tự,
xin lại cơ sở mà chính quyền đã quản lý.
Trên cơ sở thực hiện tốt công tác vận động, tập hợp quần
chúng, tính đến năm 1987, số quần chúng được tập hợp trong
tổ chức cách mạng là 508.000 người, chiếm tỷ lệ 70% dân số.
Đến năm 1988, số dân toàn tỉnh là 830.860 người, trong đó
490.830 người là Hội viên của các đoàn thể quần chúng, chiếm
tỷ lệ 60% dân số. Đây chính là lực lượng nòng cốt để Ban dân
vận Tỉnh ủy cùng Mặt trận, các đoàn thể quần chúng thực hiện
công tác tuyên truyền vận động, phát huy tinh thần yêu nước,
tinh thần tự lực tự cường, khắc phục khó khăn, vận hành các
phong trào hành động cách mạng, tham gia lao động sản xuất,
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng,
hoàn thành các chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh lần thứ IV và hoàn thành ba chương trình kinh tế lớn
của Đảng, Nhà nước đã đề ra.
Để các phong trào cách mạng có hiệu quả, Ban Dân vận
Tỉnh ủy quán triệt tư tưởng của Đảng là “lấy dân làm gốc”, “sự
nghiệp cách mạng là của dân, do dân, vì dân”, theo phương
thức “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đồng thời
nghiên cứu, thay đổi phương thức hoạt động, bố trí cán bộ bám
sát địa bàn, tập hợp lực lượng, giám sát các phong trào thi đua
lao động sản xuất.
237
Nhìn chung, đại bộ phận quần chúng được tiếp tục xây
dựng củng cố thêm niềm tin vào công cuộc đổi mới, có bước
chuyển biến trong việc phát triển các ngành nghề. Tỉnh và
các huyện thị, các địa phương đã có sự nỗ lực trong việc tháo
gỡ các khó khăn trong sản xuất và đời sống, cái nhìn thấy rõ
nét nhất là kinh tế tư nhân có sự phát triển, nhiều người đã
mạnh dạn bỏ vốn ra đầu tư vào việc sản xuất kinh doanh,
các cơ sở dịch vụ mở ra nhiều hơn trước. Ban Dân Vận, Mặt
trận và các đoàn thể còn xây dựng chương trình công tác cụ
thể của mình để tuyên truyền trong hệ thông cán bộ các cấp
và tới hội viên đoàn viên. Ở cấp tỉnh, huyện, cán bộ được cử
tham gia các đoàn công tác xuống các huyện để triển khai
Nghị quyết 12, thực hiện Nghị quyết 10, Nghị quyết 13, Nghị
quyết 16 của Hội đồng Bộ trưởng... Qua tổ chức học tập ở các
địa phương đều có chuyển biến rõ rệt, người dân tin tưởng hơn
vào sự đổi mới vào các chủ trương chính sách của Đảng, công
tác giải quyết vấn đề tranh chấp ruộng đất có tốt hơn, một số
huyện đã có tiến bộ nhất định trong việc thu thuế thu nợ. Do
vậy, từ đầu 1987, “quần chúng tỏ ra hăng hái phấn đấu thực
hiện nghị quyết đại hội Đảng, ý thức thể hiện tinh thần làm
chủ được nâng lên một mức trong bầu cử Quốc hội và Hội đồng
Nhân dân các cấp”1.
Trên mặt trận sản xuất nông nghiêp: Vụ đông xuân năm
1986-1987 đạt 100,02% diện tích sản xuất vụ hè thu và vụ
mùa. Cây đặc sản xuất khẩu tiếp tục phát triển nhanh, tỉnh
đã phát triển trên 4 triệu gốc tiêu trong năm và trồng thêm
được trên 7.000ha cây điều2. Riêng về lâm nghiệp đã hoàn
thành vượt mức kế hoạch trồng rừng, về khai thác gỗ tròn đạt
xấp xỉ chỉ tiêu kế hoạch, riêng khai thác củi và nguyên liệu

1. Ban Dân Vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo công tác Dân vận năm 1987, ngày
10/12/1987.
2. Ban Dân Vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo công tác Dân vận năm 1987, ngày
10/12/1987.

238
giấy không đạt kế hoạch.
Năm 1989, Ban Dân vận cùng các đoàn thể xã hội đã vận
động hội viên đẩy mạnh việc sản xuất. Sản xuất vụ đông xuân
đạt 77% kế hoạch, năng suất bình quân 30,42 tấn/ha, vụ hè
thu gieo trồng nhanh tính đến tháng 6 đã vượt 33% so với thời
gian cùng năm trước, gieo trồng vụ mùa vượt 2% kế hoạch.
Ngoài ra, Ban Dân vận cùng các đoàn thể còn vận động nông
dân, công chức phát triển kinh tế phụ gia đình. Nhiều bà con,
cán bộ công chức đã đầu tư cho việc trồng cây đặc sản, điều,
bạch đàn... phát triển chăn nuôi. Theo số liệu chưa đầy đủ tính
đến hết tháng 5/1988, đàn heo của tỉnh tăng 10.224 con, đàn
bò tăng 1.124 con so với thời điểm năm trước.
Hai năm 1989-1990, sản xuất nông nghiệp nhìn chung
không ổn định, cây lương thực cây công nghiệp ngắn ngày
giảm; những vùng trồng cây đặc sản như tiêu, điều cũng
khựng lại vì giá cả sản phẩm lên xuống thất thường, giá cả
mì tươi chỉ còn 20-30 đồng/kg, trong khi đó giá vật tư nông
nghiệp và các mặt hàng khác tăng nhanh. Sản phẩm nông
nghiệp được tạo ra không tiêu thụ được, hoặc tiêu thụ với giá
thấp... đã làm niềm tin của một số nông dân đối với Nhà nước
giảm sút, băn khoăn, lo lắng, hoài nghi... Hơn nữa, ở nông
thôn như các huyện Bến Cát, Thuận An, Tân Uyên, thị xã,...
tình trạng tranh chấp ruộng đất bùng phát với hàng trăm đơn
khiếu kiện, khiếu nại nhưng chưa được các cấp chính quyền,
các cơ quan chức năng giải quyết rốt ráo, công minh đã làm
tổn thương đến tình đoàn kết trong nông dân. Tuy không có
biến động lớn song cũng có số vụ căng thẳng xảy ra xô xát, đặc
biệt là sự tranh chấp đất giữa nông dân với các nông trường
Cao su Trung ương, giữa dân địa phương với một số đơn vị bộ
đội tỉnh, huyện.
Trên mặt trận sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp,
trong những năm 1987-1988, do làm tốt công tác dân vận, cán
239
bộ, công nhân viên trong các cơ quan đơn vị, nông trường, xí
nghiệp đã khắc phục khó khăn, đẩy mạnh hoạt động sản xuất,
nên sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp trong tỉnh vẫn
giữ vững và từng bước đi lên. Ban Dân vận cùng các đoàn thể
xã hội đã tuyên truyền vận động công nhân viên chức phấn
đấu thi đua hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch. Tiến bộ rõ nét nhất
là ở các đơn vị cao su đã khai hoang trồng mới được 380ha và
chăm sóc hoàn chỉnh 500ha trồng năm trước. Ở khu vực cao
su, tổ chức đoàn đã đăng ký nhận các công trình thanh niên
mang lại hiệu quả thiết thực. Một số đơn vị kinh doanh, tổ
chức đoàn ở đây hoạt động có kết quả cũng đã xây dựng được
12 cửa hàng và quầy hàng thanh niên tiên tiến.
Trong hai năm 1987-1988, sản xuất công nghiệp, thủ công
nghiệp toàn tỉnh đạt gần 90% kế hoạch năm. Dù vậy, sản xuất
công nghiệp và thủ công nghiệp của tỉnh vẫn gặp nhiều ách
tắc, khó khăn về nguyên liệu, vốn, tiền mặt, nên hầu như chưa
có nhiều đột phá quan trọng. Một số xí nghiệp vẫn còn tình
trạng không đủ việc làm cho công nhân viên chức. Sản xuất
tiểu thủ công nghiệp như gốm sứ, sơn mài chuyển biến chậm,
chất lượng hàng thủ công chưa tốt, giá thành cao. Ở các đơn vị
quốc doanh, sản xuất tiếp tục đình đốn do thiếu vốn, thiếu tiền
mặt, hàng hóa tồn đọng nhiều, nợ ngân sách ngày càng tăng.
Một số cơ sở, xí nghiệp có nguy cơ bị phá sản.
Hai năm 1989-1990, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp gặp nhiều thách thức hơn do thực hiện cơ chế tự do
sản xuất kinh doanh. Hầu hết các xí nghiệp quốc doanh sản
xuất đều bị đình trệ và khó khăn ngày càng trở nên gay gắt
hơn. Các thành phần ngoài quốc doanh hoạt động có khá hơn
nhưng nhìn chung đều lâm vào tình trạng sản phẩm làm ra số
lượng chưa nhiều, chất lượng kém, mẫu mã không đáp ứng thị
hiếu, giá thành cao, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường,
một số đơn vị bị lỗ phải giải thể.
240
Trên mặt trận thương nghiệp, lưu thông phân phối, với cơ
sở mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa được thành lập
trước đó, đến năm 1987, mạng lưới được tăng cường, củng cố
thêm. Các công ty, huyện thị thành lập bộ phận lo thu mua
hàng hoá phục vụ cho nhu cầu địa phương. Nhiều hợp tác
xã mua bán ở Thuận An, Lái Thiêu, thị xã đã vươn lên kinh
doanh các mặt hàng thiết yêu để phục vụ sản xuất và đời sống.
Công tác huy động lương thực có nhiều tiến bộ, đến hết
tháng 10/1987, toàn tỉnh đã huy động được 34.821 tấn lúa.
Bên cạnh đó, việc thu mua các nông phẩm khác cũng rất khả
quan dù gặp nhiều khó khăn về giá cả, tiền mặt, hàng hoá
trao đổi. Đặc biệt, ngay khi có Quyết định số 80/QĐ-HĐBT về
việc giải thể các trạm kiểm soát trên các đường giao thông và
ngày 19/3/1987, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ra Quyết định số 33/
QĐ-UB về việc giải thể các trạm kiểm soát cố định và lưu động
trên các đường giao thông thủy, bộ liên tỉnh và nội tỉnh thuộc
tỉnh Sông Bé, công tác thương nghiệp, lưu thông phân phối trở
nên rộng mở hơn. “Quần chúng tỏ ra phấn khởi trước việc bãi
bỏ các trạm kiểm soát ngăn sông cấm chợ, trước việc thực hiện
“những việc cần làm ngay” với chủ trương chống tiêu cực của
Trung ương và của tỉnh, các tầng lớp nhân dân mặc dù mức độ
có khác nhau nhưng đều tỏ ra hăng hái, phấn khởi, thực hiện
các chính sách mà Nghị quyết 2 Trung ương đã đề ra”1.
Tuy nhiên, trong những năm 1987-1988, vật giá vẫn tiếp
tục leo thang, các mặt hàng thiết yếu như gạo, thịt, cá, rau
đều tăng ít nhất từ 2 đến 6 lần so với đầu năm 1987, các mặt
hàng do nhà nước bán ra cũng tăng theo nhịp điệu của giá cả
thị trường (gạo tăng 6 lần)2. Do vậy, đời sống của các tầng lớp
nhân dân vẫn ở vào thế thiếu ổn định, nhất là đối với những

1. Ban Dân Vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo công tác Dân vận năm 1987, ngày
10/12/1987.
2. Ban Dân Vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo công tác Dân vận năm 1987, ngày
10/12/1987.

241
người ăn lương và đồng bào các dân tộc thiểu số. Báo cáo công
tác Dân vận năm 1987 cho biết: “tình hình thị trường đã làm
cho số đông quần chúng cảm thấy thiếu tin tưởng, bên cạnh
đó sự mất công bằng trong xã hội, việc vi phạm quyền làm
chủ tập thể của quần chúng, việc gò ép trong khâu giới thiệu
ứng cử viên Hội đồng Nhân dân ở các cấp ở một số nơi, tình
trạng tiêu cực vẫn phát triển, các vụ việc tiêu cực chậm được
giải quyết ở nơi này, nơi khác khiến quần chúng thấy tinh
thần “lấy dân làm gốc” chưa được thực hiện một cách nghiêm
túc”1. Hơn nữa, do sự quản lý của nhà nước còn yếu kém, nên
trên 50% đơn vị thương nghiệp quốc doanh hoạt động thua lỗ,
không có khả năng nộp ngân sách. Bên cạnh đó, các cơ sở kinh
doanh lớn nhỏ đủ loại mọc lên nhan nhản, nhất là ở thị xã,
thị trấn. Cửa hàng, dịch vụ ăn uống, quán nhậu, bàn bi da...
mở ra nhiều và từ đó tình trạng rượu chè, say sưa, cờ bạc, mại
dâm, trộm cướp... có phần tăng.
Trong những năm 1988-1990, giá cả hàng hóa tiếp tục biến
động lớn đã tác động không nhỏ đến những người lao động
hưởng lương. Tính đến thời điểm cuối tháng 5/1988, giá trị
tiền lương chỉ còn bằng 54,2% so với tháng 9/1985. Đến năm
1990, giá gạo ngon từ 450 đồng/lít tăng lên 750 đồng /lít; thóc
từ 320 đồng/kg tăng lên 420 đồng/kg; heo hơi từ 3.500 đồng/kg
tăng lên 4.000 đồng/kg; đặc biệt phân urê từ 600 đồng/kg tăng
lên 1.800 đồng/kg.
Bên cạnh đó, do thất thu, bội chi, Ngân hàng nhà nước
không có đủ tiền trả lương cho người lao động hưởng lương,
nhất là ở các huyện. Tình trạng thiếu lương, nợ lương ở khu
vực cao su, trường học kéo dài, có huyện còn nợ lương giáo viên
hàng chục triệu đồng của năm trước, có nơi mới giải quyết được
lương tháng 2, tháng 3. Công nhân cao su ở các nông trường

1. Ban Dân Vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo công tác Dân vận năm 1987, ngày
10/12/1987.

242
cũng ở cảnh tương tự, đời sống công nhân trở nên căng thẳng,
dẫn đến hiện tượng mũ cao su bị mất cắp, có nông trường bị
mất cắp hàng tấn mũ trong một đêm.
Trước thực trạng trên, nguyện vọng chung của quần chúng
là Nhà nước có các biện pháp ổn định giá cả thị trường và có
biện pháp giúp đỡ khuyến khích sản xuất nói chung để đời
sống nhân dân lao động và người ăn lương bớt thiệt thòi.
Trên mặt trận văn hóa, từ năm 1987, dù đời sống kinh tế
khó khăn, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, báo chí, thể
dục, thể thao vẫn khá sôi động. Đặc biệt, phong trào phát triển
cả chiều rộng, chiều sâu và thiết thực hơn, nhất là trong các
dịp lễ tết, ngày kỷ niệm. Công tác tuyên truyền cổ động, văn
nghệ, thể dục thể thao thực sự đã trở thành phong trào sôi nổi
ở các cơ quan đơn vị và địa phương. Tuy nhiên, dưới tác động
của sự chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế, và hội nhập quốc
tế, trong những năm 1987-1990, các loại hình văn hóa phẩm
đồi trụy (sách, phim video, nhiều bản nhạc hải ngoại nhạc tiền
chiến) lại xuất hiện, bên cạnh đó là sự mở rộng, xuất hiện các
loại hình kinh doanh văn hóa phẩm hợp pháp và bất hợp pháp.
Có thể nói những hoạt động này lấn át trận địa chính trị
tư tưởng và thu hút số đông người nhất là lớp trẻ làm cho công
tác giáo dục chính trị tư tưởng của tỉnh vốn đơn điệu, nay lại
càng khó khăn hơn. Bên cạnh đó, đời sống của các tầng lớp
nhân dân, nhất là cán bộ viên chức ngày càng gặp nhiều khó
khăn, các hủ tục mê tín dị đoan, cờ bạc, rượu chè, bê bối, chiến
tranh tâm lý, các lối sống tiêu cực, trộm cướp gia tăng. Việc
đấu tranh chống tiêu cực tuy có thực hiện, nhưng giải quyết
còn chậm, có vụ việc không dứt điểm đã tác động xấu đến nhận
thức và tâm trạng của quần chúng.
Trên mặt trận giáo dục, bước vào năm học 1987-1988, toàn
tỉnh có 244.685 học sinh, tăng 35.595 em so với năm học trước.
Căn cứ vào trường lớp và số học sinh, toàn tỉnh còn thiếu 2.815
243
giáo viên, thiếu 16.000 chỗ ngồi, do vậy có 268 lớp phải học ca
3, cá biệt nhiều nơi ở Bến Cát, Phú Giáo... còn phải học ca 4.
Để khắc phục tình trạng trên, Ban Dân vận vận động nhân
dân thực hiện phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”.
Các địa phương đã tiến hành tu sửa và làm mới 334 phòng
học, đóng mới 15.000 chỗ ngồi cho học sinh, 106 bộ bàn ghế
giáo viên với tổng số huy động hơn 8 triệu đồng, trong đó 60%
do Nhân dân đóng góp. Tuy vậy vấn đề thiếu trường học, thiếu
bàn ghế, thiếu giáo viên, vẫn còn là một vấn đề khó khăn của
ngành giáo dục. Do đó, trong những năm 1988-1990, ở các
địa phương vẫn tiếp tục thực hiện phương châm “nhà nước và
nhân dân cùng làm”, tiến hành sửa chữa trường lớp, bàn ghế,
đồng thời chú ý hơn đến đời sống của giáo viên.
Năm học 1988-1989, riêng học sinh phổ thông đã tăng l
l.000 em, nên tình trạng thiếu giáo viên, thiếu lớp, thiếu bàn
ghế vẫn diễn ra. Toàn tỉnh còn thiếu khoảng 3.000 giáo viên,
395 phòng học, 280 lớp phải học 3 ca. Bên cạnh những khó
khăn trên, do đời sống khó khăn, trong những năm 1987-1989
có 9.290 học sinh bỏ học (có trường giảm 18%, trường phố thông
cơ sở thị xã giảm 12%), hơn 500 thầy cô giáo bỏ nghề. Điều này
đã tác động xấu đến chất lượng giáo dục. Học sinh thi hết cấp
II đủ điểm đạt 50%, thi hết cấp III đạt 28%.
Trên mặt trận y tế, tình trạng thiếu bác sĩ, y sĩ, dược sĩ,
thiếu thuốc men, trang thiết bị y tế...vẫn chưa được khắc phục.
Ban Dân vận đã phối hợp với các cơ quan chức năng vận động
đội ngũ y bác sĩ, vượt qua khó khăn để bám trụ với nghề; vận
động nhân dân trồng và sử dụng thuốc nam.
Trong hai năm 1987-1988, tình hình dịch bệnh, nhất là
bệnh sốt xuất huyết, sốt rét... xuất hiện trên diện rộng. Mạng
lưới y tế ở cơ sở hoạt động còn quá yếu, chưa được củng cố.
Đáng chú ý là việc xây dựng nếp sống mới, con người mới chưa
được chú trọng, thiếu đồng bộ, thiếu kế hoạch đôn đốc, kiểm
244
tra và rút kinh nghiệm.
Ba năm 1988-1990, tỉnh đã phát động các cuộc vận động
lớn như vận động “áo ấm mùa đông”, “ủng hộ xây dựng bệnh
viện 512 giường”... được đông đảo quần chúng hưởng ứng. Đặc
biệt Hội Chữ thâp đỏ tiếp tục phát động phong trào 5 dứt điểm
và chăm sóc sức khỏe ban đầu, mà cụ thể là tiêm chủng mở
rộng, phòng 6 bệnh cho trẻ em. Nhiều cơ sở ở Thuận An, thị xã,
Lộc Ninh, Bến Cát... đã tích cực vận động quần chúng tham
gia thực hiện.
Trên mặt trận an ninh quốc phòng, do làm tốt công tác
dân vận, nên nhìn chung, phong trào hành động cách mạng
của quần chúng trên địa bàn tỉnh diễn ra khá tốt. Những năm
1987-1990, vấn đề an ninh quốc phòng trên địa bàn tỉnh có
nhiều tiến bộ, an ninh chính trị và trật tự xã hội được bảo
đảm. Công tác nghĩa vụ quân sự, việc tổ chức đăng ký được
thực hiện tốt, giao quân đạt 95,7% chỉ tiêu. Tuy vậy, công tác
an ninh quốc phòng vẫn còn hạn chế như chưa dập tắt ngay
được những vụ phao tin đồn nhảm, tình trạng phạm pháp,
xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa tăng, tệ nạn cờ bạc, rượu
chè, đánh lộn gây chết người, mê tín dị đoan vẫn còn xảy ra ở
nhiều nơi.
Tóm lại, giai đoạn 1986-1990, công tác dân vận trên địa
bàn tỉnh có nhiều tiến bộ tác động tích cực đến nhiều chỉ tiêu
về kinh tế xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, so với yêu cầu chức
năng, nhiệm vụ đã đề ra thì còn thấp. Những khó khăn trong
sản xuất và đời sống là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc
chưa hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch của công tác dân vận. Bên
cạnh đó, việc tập trung chỉ đạo thực hiện một số biện pháp
tháo gỡ những khó khăn trong lao động sản xuất và đời sống
tuy có được chú ý nhưng còn gặp nhiều khó khăn trong việc tổ
chức thực hiện, nhiều cơ sở còn lúng túng trong cung cách làm
ăn mới, việc thay đổi tư duy kinh tế ở các cấp các ngành các
245
đoàn thể và mặt trận nhìn chung còn chậm, chưa đồng bộ nên
kết quả của phong trào còn hạn chế.

II. CÔNG TÁC DÂN VẬN THỜI KỲ ĐỔI MỚI, BƯỚC


ĐẦU MỞ CỬA VÀ HỘI NHẬP (1991-1996)

1. Tình hình và nhiệm vụ công tác dân vận trong


thời kỳ mới

Từ năm 1991, tình hình khu vực và thế giới cũng tạo ra
cho nước ta nhiều thách thức mới. Ở châu Âu, Liên Xô tan rã.
Ở châu Á - Thái Bình Dương, bên cạnh sự phát triển với tốc
độ cao và trở thành một trung tâm phát triển nhanh về kinh
tế, thương mại, tài chính của thế giới, Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) ngày càng có tiếng nói trên diễn đàn
quốc tế và khu vực. Những chuyển biến toàn diện của nhiều
nước ASEAN đã tác động và thôi thúc Việt Nam nỗ lực trên
con đường đổi mới.
Sau Đại hội VI của Đảng, tình hình đất nước tuy vẫn còn
nhiều khó khăn, nhưng đã có những chuyển biến rõ rệt và đạt
được những thành tựu bước đầu. Từ chỗ thiếu lương thực (năm
1988 phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo), đến năm 1990, nước ta
không chỉ đáp ứng được nhu cầu lương thực trong nước mà còn
có dự trữ và xuất khẩu. Sản lượng năm 1988 là 19,5 triệu tấn,
năm 1989 tăng lên 21,4 triệu tấn1. Đến năm 1989, xuất khẩu
được 1,5 triệu tấn gạo. Nhập khẩu giảm đáng kể, tiến gần đến
mức cân bằng giữa xuất và nhập2.
Quan hệ quốc tế của Việt Nam ngày càng mở rộng, đã thiết
lập quan hệ kinh tế với nhiều nước, nhất là sau khi Luật đầu
tư nước ngoài được thông qua (12/1987). Luật đầu tư đã cho

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương
(1975-2010), Sđd, tr 315.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương
(1975-2010), Sđd, tr 316.

246
phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư ở Việt Nam dưới các
hình thức: liên doanh, 100% vốn đầu tư nước ngoài, hợp đồng
hợp tác kinh doanh, hình thức xây dựng, khai thác, chuyển
giao (BOT)... Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng góp phần mở
rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa các hoạt động kinh tế đối
ngoại, tạo thuận lợi cho nền kinh tế nước ta hội nhập nhanh
với nền kinh tế thế giới và khu vực. Điều này mở ra những
điều kiện hết sức thuận lợi cho những địa phương có nền kinh
tế phát triển năng động như Sông Bé1.
Tháng 6/1991, Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng được
tổ chức. Đại hội đã tập trung phân tích tình hình trong nước
và quốc tế, hoàn chỉnh, bổ sung và phát triển các chủ trương
đổi mới của Đại hội VI và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho
5 năm 1991 - 1995. Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.
Trong đó mục tiêu cơ bản là đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố
quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển
nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI. Báo cáo chính trị tại Đại hội
nêu rõ nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch nhà nước 5 năm (1991
- 1995) là tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và
phát triển sản xuất, bắt đầu có tích lũy từ nền kinh tế quốc
dân; tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh
nhịp độ tăng dân số, ổn định và từng bước cải thiện đời sống
của nhân dân; tiếp tục phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
đổi mới hoạt động của Nhà nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh
và trật tự an toàn xã hội, củng cố và bảo vệ những thành quả
cách mạng đã đạt được. Đại hội thể hiện quyết tâm tiếp tục
đổi mới, kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương
(1975-2010), Sđd, tr 317.

247
xác định các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Kế thừa những thành công của Đại hội VII, ngày
26/12/1991, tỉnh Sông Bé tiến hành Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ V (vòng 2). Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V được tiến hành
trong điều kiện có nhiều thuận lợi và khó khăn đan xen. Kinh
tế tỉnh Sông Bé nói chung chưa thật sự ổn định, chưa thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tuyến biên giới dài 240km
giữa tỉnh với ba tỉnh của Campuchia còn nhiều diễn biến phức
tạp.
Thực hiện các mục tiêu chung của cả nước được xác định
từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đại hội xác định chủ
trương và các mục tiêu tổng quát trong thời gian 5 năm (1991
- 1995) gồm các nội dung cụ thể như:
Thứ nhất, tích cực xây dựng “nếp sống mới, con người mới,
nông thôn mới”. Chăm lo đời sống vật chất, văn hóa tinh thần
cho người dân. Khuyến khích mọi người dân phát triển kinh
tế... Tạo môi trường thuận lợi cho người dân có điều kiện nâng
dần và cân bằng mức sống ở nông thôn và thành thị.
Thứ hai, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng khối
liên kết công - nông - trí thức. Đổi mới phương thức lãnh đạo
và hoạt động của Đảng, chính quyền, đoàn thể, đổi mới công
tác tổ chức cán bộ, ngăn chặn tệ nạn, hạn chế tiêu cực, tham
nhũng, buôn lậu.
Thứ ba, thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng và an ninh,
bảo đảm an toàn vùng biên giới với Campuchia, giữ vững an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách
mạng1.
Qua các mục tiêu trên, công tác “phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa, xây dựng khối liên kết công - nông - trí” là một

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương
(1975-2010), Sđd, tr 321.

248
trong những nội dung quan trọng mà Ban Dân vận tỉnh phải
tiến hành thực hiện. Do vậy, ngay sau Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng và Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé
lần thứ V, Ban Dân vận Tỉnh ủy, Mặt trận các cấp và các tổ
chức đoàn thể xã hội đã tổ chức các đợt học tập, quán triệt và
triển khai nội dung Nghị quyết đại hội.

2. Công tác dân vận thời kỳ 1991-1996

Bước vào giai đoạn lịch sử mới, tổ chức Ban Dân vận Tỉnh
ủy hầu như không có nhiều thay đổi so với thời gian trước đó.
Theo sự phân công của Tỉnh ủy, ông Lê Quốc Duy và tiếp đó
ông Nguyễn Thanh Phong nhận nhiệm vụ Trưởng ban Dân
vận Tỉnh ủy nhiệm kỳ (1992-1995). Năm 1993, biên chế của
Ban giảm 1 kế toán, số biên chế còn lại là 15 cán bộ.
Đối với cấp huyện thị, đến năm 1993, đã có 9/9 huyện thị
thành lập Ban Dân vận, biên chế từ 1 đến 2 cán bộ chuyên
trách, do vậy hoạt động chuyên môn từng bước đi vào nề nếp.
Dù đội ngũ cán bộ dân vận từ tỉnh, huyện, phường, xã hầu hết
năng lực còn yếu, mối quan hệ làm việc giữa Ban Dân vận cấp
tỉnh, cấp huyện với khối dân vận xã phường còn nhiều lúng
túng, nhưng nhìn chung, hệ thống dân vận các cấp đã vận
hành trôi chảy, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình,
hoàn thành được nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu, triển khai
công tác quần chúng, soạn thảo, xây dựng kế hoạch, hướng
dẫn, tuyên truyền, thảo luận, bàn bạc, tìm nội dung, hình
thức, phương pháp hoạt động phù hợp đối với mặt trận, đoàn
thể. Ban Dân vận còn phối hợp với Mặt trận và các đoàn thể
xã hội, thực hiện các nhiệm vụ vận động quần chúng thực hiện
các chủ trương, chính sách của các cấp ủy. Đánh giá về công
tác dân vận, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V chỉ
rõ: “Công tác vận động quần chúng của Đảng bộ những năm
qua có cố gắng, từ khi có Nghị quyết 8B của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, một số cấp uỷ có quan tâm hơn công tác

249
quần chúng, tăng cường cán bộ cho các đoàn thể, nghe và cho
ý kiến về công tác đoàn thể, tạo thêm phương tiện hoạt động
cho các đoàn thể. Mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với
đoàn thể có tốt hơn qua sự phối hợp thực hiện các chủ trương
đổi mới về kinh tế và thực hiện dân chủ”1.
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, trong giai đoạn
1991 - 1996, công tác dân vận nắm vững những quan điểm
chỉ đạo cơ bản được Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V đề ra gồm:
Nắm chắc tình hình quần chúng để kịp thời chỉ đạo công tác
vận động quần chúng, các cấp có định kỳ hàng tháng, quý làm
việc với các đoàn thể Mặt trận để lắng nghe và cho ý kiến chỉ
đạo về công tác quần chúng, bố trí cán bộ đảng viên có năng
lực, nhiệt tình tham gia công tác mặt trận, đoàn thể, ở cơ sở
cấp uỷ phân công đảng viên làm công tác quần chúng ở từng
tổ, khu, ấp và tổ chức các phong trào hành động cách mạng
của nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, kinh tế
- xã hội, an ninh - quốc phòng2.
Bằng sự nỗ lực hết mình của các ngành, các cấp, Ban Dân
vận, Mặt trận cùng các đoàn thể và các tổ chức xã hội đã tạo
đuợc những chuyển biến tích cực trong công tác dân vận, thực
hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng dần tỷ trọng
công nghiệp, dịch vụ chiếm ưu thế trong phát triển kinh tế
của tỉnh nhà; phát huy thế mạnh về đất đai, lao động, huy
động mọi nguồn lực về vốn, trình độ, tay nghề, năng lực quản
lý ở trong và ngoài tỉnh để tập trung đầu tư cho phát triển
sản xuất. Những chủ trương trên đã đáp ứng được tâm tư,
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Công tác vận động
quần chúng của các cấp Đảng bộ, của Mặt trận và các đoàn thể
đã thật sự đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

1. Nghị quyết Đại hội tỉnh Sông Bé lần thứ V đã đánh giá công tác vận động
quần chúng.
2. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.

250
pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống thông qua việc tổ chức
các phong trào cách mạng, tạo những “cú hích”, tạo nên những
bước phát triển về kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an
ninh.
Mục tiêu của công tác dân vận là nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần và ý thức trách nhiệm của người dân, củng cố
lòng tin vào công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước. Để thực
hiện được mục tiêu trên, việc vận động, tập hợp lực lượng,
phát động các phong trào cách mạng là cần thiết, song ở mức
độ khác nhau trong từng đối tượng, Việc hiểu rõ từng giai cấp,
từng lực lượng, từng đối tượng là cơ sở khoa học để Ban dân
vận tham mưu cho Đảng và Nhà nước đưa ra các chủ trương,
chính sách nhằm chăm lo, giải quyết các nhu cầu về cuộc sống
của nhân dân là việc làm mang tính cấp thiết.
Vận động trong lực lượng công nhân: Công nhân trong tỉnh
chiếm khoảng 10% dân số, 30% lao động xã hội, là lực lượng
quan trọng đóng góp vào sự phát triển kinh tế tỉnh nhà1. Giai
đoạn 1991-1996, lực lượng công nhân trong tỉnh sự biến đổi
nhanh về số lượng và chất lượng: Công nhân trong bộ phận
kinh tế quốc doanh giảm, các cơ sở tư doanh và liên doanh
tăng nhiều do xuất hiện nhiều ngành nghề mới. Đời sống của
công nhân căn bản ổn định, một bộ phận được cải thiện. Song
trước những yêu cầu về phát triển công nghiệp của tỉnh, đòi
hỏi công nhân phải có chất lượng mới về mọi mặt, từ ý thức
giác ngộ giai cấp, tính tổ chức kỷ luật, trình độ tay nghề, trình
độ văn hóa để tiếp thu khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới.
Xây dựng và bảo vệ quyền lợi của công nhân trong các công
ty, xí nghiệp, doanh nghiệp tư nhân, xí nghiệp liên doanh với
nước ngoài là những yêu cầu bức thiết đặt ra.
Nông dân trong tỉnh đã chuyển sang sản xuất hàng hóa,

1. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.

251
nhiều hộ sản xuất kinh doanh nuôi trồng cây con đặc sản có
giá trị kinh tế cao, đã có nhiều hộ khá, hộ giàu bằng phát huy
thế mạnh đất đai, lao động, gắn với việc áp dụng tiến bộ khoa
học - kỹ thuật vào sản xuất, đây là xu thế phát triển kể cả
vùng đồng bào dân tộc. Nhưng tình hình nông dân vùng sâu,
vùng dân tộc trình độ dân trí, trình độ văn hóa còn thấp. Tình
trạng nông dân thiếu đất và không có đất, thiếu vốn sản xuất
đã gây khó khăn về đời sống. Mặt khác tình hình giá cả nông
sản thường không ổn định lại bị tư thương chi phối. Do vậy,
tâm trạng chung của nông dân là muốn Nhà nước có biện pháp
ổn định giá cả, tạo điều kiện cho nông dân được vay vốn với
lãi suất thấp để người nông dân có thể phát triên sản xuất tốt
hơn. Đó là những điều mà đông đảo nông dân mong muốn có
được sự quan tâm hỗ trợ của Đảng và Nhà nước1.
Đội ngũ trí thức trong tỉnh được đào tạo từ nhiều nguồn,
trong những năm qua tiếp tục phát triển đa dạng. Trong quá
trình đổi mới, đội ngũ trí thức trên địa bàn tỉnh đã được tạo
nhiều điều kiện thuận lợi để phát huy tài năng, trí tuệ, góp
phần thúc đẩy kinh tế - văn hóa - xã hội tỉnh nhà phát triển.
So với trước đây, đời sống của đội ngũ trí thức được cải thiện tốt
hơn, có việc làm phù hợp với trình độ chuyên môn của mình.
Tuy nhiên, đội ngũ trí thức của tỉnh vẫn còn ít, chưa có những
chuyên gia đầu đàn, chưa hợp lý về cơ cấu, ngành nghề, đời
sống của trí thức khu vực hành chính sự nghiệp còn khó khăn.
Nguyện vọng chung của trí thức là muốn có điều kiện tốt để
làm việc và học tập nâng cao trình độ, phát triển tài năng,
muốn Nhà nước có những chính sách, chế độ đế khuyến khích
và tạo điều kiện để trí thức cống hiến nhiều cho tỉnh2.
Lực lượng thanh niên chiếm 45% lao động xã hội trong

1. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.
2. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.

252
tỉnh1. Trong công cuộc đổi mới và qua các phong trào ‘tuổi trẻ
giữ nước, tuổi trẻ vượt khó, tiến thân lập nghiệp” đã xuất hiện
ngày càng nhiều tài năng trẻ trên các lĩnh vực, nhiều tấm
gương sáng trong lao động sản xuất, kinh doanh, trong học
tập, trong hoạt động khoa học - kỹ thuật, công tác xã hội và
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tuy vậy, vẫn
còn một số thanh niên ảnh hưởng lối sống thực dụng, không
rèn luyện nhân cách, sống đua đòi... nên dẫn tới hành động vi
phạm pháp luật. Một số thanh niên đến tuổi lao động hoặc ra
trường chưa có việc làm, hoặc việc làm không ổn định. Ngoài
xã hội, nhiều tệ nạn chưa được ngăn chặn hiệu quả.
Lực lượng phụ nữ chiếm tỷ lệ hơn 51% dân số tỉnh, lao động
nữ chiếm số đông trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp
nhẹ, thương nghiệp, dịch vụ, giáo dục, y tế2. Công cuộc đổi mới
cũng tạo điều kiện để phụ nữ phát triển năng lực trên nhiều
lĩnh vực, người phụ nữ mẫu mực xuất hiện ngày càng nhiều
trong xây dựng gia đình, nuôi dạy con, tham gia công tác xã
hội. Song một bộ phận lao động nữ còn chưa có hoặc thiếu việc
làm, đời sống khó khăn. Một số chị em còn phải lao động nặng
nhọc. Một số ít phụ nữ trẻ có lối sống chạy theo đồng tiền, đua
đòi sa ngã. Lực lượng phụ nữ đông đảo nhưng số chị em tham
gia công tác quản lý xã hội, quản lý sản xuất kinh doanh chưa
nhiều, đây cũng là vấn đề lớn đang đặt ra, cần có giải pháp để
phát huy hết vai trò của phụ nữ trong xã hội3.
Người cao tuổi chiếm 7,3% dân số4, trong đó có nhiều cán
bộ hưu trí, nhiều cựu chiến binh, vốn là lực lượng quần chúng

1. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.
2. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.
3. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.
4. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.

253
có uy tín, có vị trí quan trọng trong đời sống gia đình và ngoài
xã hội. Họ sẵn sàng tham gia các hoạt động xã hội, có khả
năng giáo dục thế hệ trẻ, cần được Nhà nước và toàn xã hội
quan tâm chăm sóc về đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều
kiện thuận lợi để phát huy khả năng về nhiều mặt của người
cao tuổi, góp phần xây dựng xã hội mới trên từng địa bàn dân
cư.
Đội ngũ doanh nghiệp tư nhân ngày càng phát triển, kinh
doanh đa dạng trong nhiều lĩnh vực như công nghiệp, thương
nghiệp, nông nghiệp. Nhiều người có trình độ khoa học kỹ
thuật, trình độ quản lý, có vốn và khả năng huy động vốn,
có vai trò tích cực trong phát triển kinh tế và tham gia thực
hiện các chính sách xã hội. Mong muốn của họ là Nhà nước
có chính sách thích hợp khuyến khích tiêu dùng hàng hóa nội
địa, chống buôn lậu có hiệu quả, thực hiện triệt đế việc cải
cách các thủ tục hành chánh và có những chủ trương thích
hợp để động viên được nhiều người mạnh dạn bỏ vốn đầu tư
làm ăn lớn và cạnh tranh được với doanh nghiệp nước ngoài.
Bên cạnh đó, đội nghũ này cũng đòi hỏi Nhà nước phải có biện
pháp tích cực chống lại việc làm hàng giả, việc kê khai không
đúng để trốn thuế trong doanh nghiệp tư nhân, bảo đảm thực
hiện công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ sản xuất kinh doanh.
Đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh chiếm trên 10%
dân số, với 28 dân tộc anh em, trong đó có trên 24.000 đồng
bào người Hoa và một số dân tộc từ miền Bắc mới di dân vào
Sông Bé lập nghiệp1. Đảng, Nhà nước và chính quyền tỉnh đã
có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - văn hóa
miền núi, chú trọng công tác định canh, định cư, cải thiện đời
sống đồng bào dân tộc các mặt phát triển. Một số vùng đồng
bào dân tộc đã biết sản xuất hàng hóa, đời sống vật chất ngày

1. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.

254
càng được cải thiện. Con em đồng bào dân tộc được chăm sóc
y tế, học hành, một số được nuôi dạy trong các trường nội trú.
Tuy nhiên, nhìn chung về mọi mặt đời sống của đồng bào dân
tộc còn nhiều khó khăn, đời sống văn hóa còn nghèo nàn, trình
độ dân trí còn thấp, vệ sinh chưa tốt, bệnh tật còn nhiều, tỷ lệ
sốt rét và suy dinh dưỡng, người mù chữ còn cao, tình trạng
du canh, phá rừng làm rẫy còn xảy ra, nạn đói vẫn còn, cơ sở
hạ tầng và điều kiện sinh hoạt ở vùng đồng bào dân tộc vẫn
còn thiếu thốn. Đạo Tin Lành phát triển nhanh trong dân tộc
thiểu số và đã phát sinh một số mâu thuẫn nhỏ trong cuộc
sống của đồng bào dân tộc tại chỗ và số từ miền Bắc vào đòi
hỏi các cấp, các ngành quan tâm giải quyết.
Đồng bào các tôn giáo được sinh hoạt trong môi trường xã
hội thuận lợi nhờ có chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà
nước, sự quan tâm của tỉnh. Đồng bào tôn giáo được tôn trọng
tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng, trách nhiệm của
người tín đồ đối với tôn giáo được coi trọng, góp phần động viên
đồng bào tôn giáo làm tròn trách nhiệm của một công dân đối
với Tổ quốc. Từ đó, mối quan hệ giữa tôn giáo với chính quyền
được cởi mở hơn. Đồng bào giáo dân và đại bộ phận chức sắc,
nhà tu hành tin tưởng, ủng hộ sự nghiệp đổi mới của Đảng và
Nhà nước, hăng hái góp phần giữ vững sự đoàn kết để ổn định
chính trị, xây dựng và phát triển kinh tế, bảo vệ đất nước. Mặt
khác, hoạt động tín ngưỡng tôn giáo cũng bộc lộ những vấn đề
bất thường ở một số nơi, ở một số thời điểm, đơn cử như: Một
số nhà tu hành, trong đó có phần tử đội lốt tôn giáo, lợi dụng
chính sách tự do tín ngưỡng và sơ hở của chính quyền trong
việc quản lý, đã tổ chức tuyên truyền, lôi kéo quần chúng ở
những vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn về đời sống.
Điều đáng quan tâm là một số đảng viên cũng vào đạo, nhiều
vùng đạo và người theo đạo tự ý xây dựng nơi thờ tự mà không
chấp hành đúng thủ tục quản lý của Nhà nước. Do vậy, công
tác tôn giáo tỉnh đã đặc biệt quan tâm đến công tác tuyên
255
truyền giáo dục quần chúng, không ngừng chăm lo đời sống
vật chất, văn hóa cho đồng bào có đạo, đấu tranh chống lại
sự lợi dụng tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và sự
nghiệp đổi mới của Đảng và Nhân dân.
Việc nắm bắt sát thực tế về các bộ phận người dân, đối
tượng, lực lượng cách mạng, chính là cơ sở để công tác dân vận
của Tỉnh ủy trong giai đoạn 1991-1996 được tiến hành khoa
học, hoàn thành các mục tiêu đề ra có hiệu quả nhất.
Mục tiêu bao trùm của công tác dân vận trong thời kỳ
1991 - 1996 là: “Tăng cường khối đại đoàn kết và phát huy sức
mạnh toàn dân, xây dựng các phong trào cách mạng của quần
chúng để thực hiện công cuộc công nghiêp hóa, hiện đại hóa
đất nước; góp phần ổn định chính trị, tăng cường mối quan hệ
giữa Đảng và dân, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa - Bảo
vệ độc lập và chủ quyền quốc gia”1. Với định hướng chung về
công tác Dân vận nêu trên, trong thời kỳ 1991-1996, Ban Dân
vận Tỉnh ủy phối hợp với các cơ quan chức năng bám chắc các
nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trên cơ sở nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, Nghị
quyết của Hội đồng nhân dân và kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội của Ủy ban nhân dân tỉnh, Ban Dân vận nắm bắt
kịp thời những yêu cầu của quần chúng, đề xuất với Đảng
và chính quyền cụ thể hóa các cơ chế chính sách để phát huy
nhân tố con người; bảo đảm lợi ích các tầng lớp nhân dân, thực
hiện công bằng xã hội. Quán triệt tinh thần “Công tác dân vận
có nhiệm vụ là làm cho mọi người, mọi thành phần kinh tế yên
tâm và thích ứng với cơ chế mới đó”, đồng thời tiếp tục thực
hiện các chủ trương của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân,
Ban Dân vận xây dựng chủ trương thiết thực xây dựng và hỗ
trợ nông dân phát triển sản xuất, phát huy năng lực của lực

1. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.

256
lượng trí thức, khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân đầu tư mở
rộng sản xuất kinh doanh đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt đối với vùng đồng bào dân tộc phải thực sự chăm lo
sự phát triển mọi mặt của các dân tộc thiểu số, thực hiện nhất
quán chính sách tự do tín ngưỡng. Thực hiện tốt chính sách
đào tạo nhân tài, bồi dưỡng thế hệ trẻ có bản lĩnh, có lý tưởng
thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng”1 .
Thứ hai, thiết thực chăm lo đời sống nhân dân, kịp thời
giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc. Triển khai thực hiện quan
điểm chỉ đạo của Tỉnh ủy, trong quá trình phát triển của nền
kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, tất yếu sẽ có
nhiều vấn đề kinh tế xã hội phát sinh, công tác dân vận hướng
vào việc khuyến khích mở rộng ngành nghề, thu hút nhiều lao
động đi đôi với bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động,
thực hiện đúng luật lao động2. Hệ thống làm công tác dân vận
chú trọng mở rộng và nâng cao hiệu quả của chương trình xóa
đói giảm nghèo với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng
làm, khuyến khích mọi người giúp nhau làm kinh tế gia đình,
giúp nhau giải quyết các vấn đề về đời sống xã hội. Động viên
mọi người thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, tiến tới bảo đảm
cho mọi người đều được chăm sóc sức khỏe, giải quyết được
những khó khăn, rủi ro và tai nạn xảy ra.
Đối với người có công với nước, các thương binh, gia đình
liệt sĩ, các cựu chiến binh, người về hưu, người cao tuổi hiện
là lực lượng có số lượng đông đảo và là lực lượng nòng cốt trên
địa bàn dân cư, công tác dân vận tập trung vào việc thực hiện
chính sách ưu tiên để chăm sóc những đối tượng này. Đồng
thời, phát huy đạo lý, truyền thống uống nước nhớ nguồn, đền
ơn đáp nghĩa, vận động các tầng lớp nhân dân, các tổ chức

1. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.
2. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.

257
đoàn thể xã hội cùng chăm lo, phụng dưỡng, giúp đỡ thường
xuyên những người có công với đất nước, bảo đảm cho mọi
người có cuộc sống vật chất ít nhất bằng mức trung bình của
nhân dân ở nơi cư trú.
Thứ ba, xây dựng và thực hiện cơ chế bảo đảm quyền làm
chủ của nhân dân. Để bảo đảm thực hiện được quyền làm chủ
của Nhân dân, trước hết các cấp ủy Đảng, cơ quan Nhà nước
và đoàn thể quần chúng cùng phối hợp và thể chế hóa phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và thực hiện
“tin dân, nghe dân, học dân và trọng dân” trên mọi lĩnh vực.
Bảo đảm quyền bầu cử, ứng cử, lựa chọn những đại biểu của
dân vào các cơ quan dân cử. Tổ chức lấy ý kiến của Nhân dân
về tham gia xây dựng luật, xây dựng chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước; thực hiện lắng nghe ý kiến dân để điều
chỉnh bổ sung cho các chủ trương, chính sách ngày càng đi vào
cuộc sống của dân. Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đảng bộ
tỉnh về “Tổ chức và phát huy vai trò làm chủ trực tiếp ở cơ sở
thông qua các hình thức như Đại hội công nhân viên chức ở các
doanh nghiệp nhà nước, Đại hội xã viên của các đơn vị kinh tế
tập thể, thực hiện cơ chế hòa giải ba bên ở các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh. Phát triển các tổ chức hòa giải, tổ tự quản,
ban thanh tra nhân dân trên các địa bàn dân cư”1.
Thứ tư, tổ chức phong trào quần chúng; xây dựng cơ sở
chính trị của chế độ xã hội chủ nghĩa. Ban Dân vận đã cụ thể
hóa các mục tiêu kinh tế - văn hóa - xã hội vào từng lĩnh vực,
từng ngành nghề, từng giới; tổ chức các phong trào thi đua
phù hợp với đặc điểm các ngành, đoàn thể, các giới; duy trì
phát triển các phong trào lao động sáng tạo trong công nhân,
phong trào lập nghiệp, giữ nước trong thanh niên, phong trào
giúp nhau làm kinh tế gia đình trong phụ nữ. Thông qua các

1. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.

258
phong trào thi đua, phấn đấu đến năm 2000 trên tất cả địa
bàn dân cư ở từng thôn, ấp đều có tổ chức và hoạt động của
Mặt trận và các đoàn thể quần chúng. Đa dạng hóa các hình
thức tập hợp quần chúng theo yêu cầu, sở thích, nghề nghiệp
thích hợp đối với từng đối tượng quần chúng, chú ý tăng cường
xây dựng lực lượng nòng cốt, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc,
vùng có đạo.
Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận phù hợp với
tình hình mới. Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị. Song, vai trò của Tỉnh ủy là phải xây dựng hệ
thống tổ chức cán bộ để làm tham mưu và hướng dẫn thực hiện
các mặt công tác dân vận. Tiêu chuẩn “Đội ngũ cán bộ dân vận
trong tình hình mới cần hình thành: Đội ngũ cán bộ chủ chốt,
cán bộ chuyên trách bao gồm cán bộ nghiên cứu; cán bộ Đảng;
cán bộ Mặt trận; đoàn thể tỉnh và huyện, ngoài những tiêu
chuẩn chung phải có, sự cần thiết phải tuyển chọn những cán
bộ có kinh nghiệm thực tiễn từ phong trào quần chúng, thông
qua rèn luyện, được quần chúng lựa chọn tín nhiệm”1.
Thứ sáu, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác dân vận. Nhằm đáp ứng tình hình và nhiệm vụ
mới, công tác dân vận được tăng cường qua 4 nội dung chính:
- Từng cấp ủy có định kỳ nghe Ủy ban Mặt trận và đoàn
thể quần chúng cấp mình phản ảnh tình hình quần chúng và
công tác quần chúng, thường xuyên kiểm tra thực hiện quy
chế phối hợp giữa Ban Dân vận, chính quyền với Mặt trận và
các đoàn thể.
- Bằng nhiều phương pháp và hình thức dựa vào dân để
đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền thực sự là
của dân, do dân và vì dân, thực hiện cải cách hành chính, bồi
dưỡng năng lực và đạo đức đội ngũ cán bộ công chức.

1. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.

259
- Đề cao vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên để tạo
dựng và giữ vững lòng tin của dân đối với Đảng, cử đảng viên
tham gia hoạt động Mặt trận và các đoàn thể, phân công đảng
viên phụ trách quần chúng trên địa bàn dân cư phối hợp, để
động viên quần chúng thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, đặc biệt quan tâm giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ 1.
- Kiện toàn Ban Dân vận đủ sức làm tham mưu cho cấp
ủy trong công tác vận động quần chúng trong tình hình mới.
Từng cấp uỷ nên phân công đồng chí thường vụ cấp uỷ phụ
trách công tác dân vận.
Thực hiện những nhiệm vụ nêu trên, giai đoạn 1991-1996,
công tác dân vận đã thu được những kết quả trên mọi mặt.
Mặt trận sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở yêu cầu thực
tiễn của nông dân, Ban Dân vận đã đưa chủ trương, chính
sách, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sản xuất, phát triển kinh
tế nông nghiệp của Đảng bộ, chính quyền vào cuộc sống; kết
hợp giải thích, tuyên truyền, vận động, giúp người nông dân
hiểu rõ và thực hiện. Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội
tập hợp lực lượng, phát động các phong trào cách mạng, phong
trào thi đua, khuyến khích người nông dân đầu tư, mở rộng
sản xuất.
Từ năm 1991, phong trào thâm canh, tăng vụ, ứng dụng
các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp được phát động.
Nhiều địa phương, tổ chức khuyến nông, Hội Nông dân và
người nông dân đã đưa thành công nhiều giống cây trồng, vật
nuôi mới vào sản xuất. Ở nông thôn các huyện, người nông
dân bắt đầu đầu tư mở rộng, phát triển diện tích lúa, cao su,
tiêu, điều, cà phê... phong trào làm kinh tế vườn nhen nhúm
và dần dần trở nên phổ biến. Đặc biệt, phong trào “người nông
dân sản xuất giỏi” đã khuyến khích nhân dân làm giàu chính

1. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo tình hình công tác dân vận giai đoạn 1991
- 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 15/4/1996.

260
đáng và giúp đỡ những hộ nghèo khắc phục khó khăn. Hội
Nông dân các cấp thay đổi phương thức làm việc, phối hợp với
ngành nông nghiệp và trung tâm khuyến nông tuyên truyền
về khuyến khích, giúp đỡ người nông dân tiếp cận với các
nguồn vốn, tiếp cận với tiến bộ kỹ thuật, khoa học công nghệ...
lần lượt đưa giống mới, phân bón, cơ giới hóa vào sản xuất
nông nghiệp.
Từ năm 1992, thực hiện Nghị quyết 8B của Trung ương,
Ban Dân vận đã phối hợp với chính quyền, mặt trận và các
đoàn thể xã hội tiến hành phân loại, giúp đỡ nông dân đẩy
mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp bằng nhiều biện pháp:
Cho dân nghèo mượn đất lâu dài, cấp giấy sử dụng đất, trợ
giúp vốn, cho vay vốn phát triển kinh tế nông nghiệp; khuyến
khích nhân dân có vốn, có phương tiện đầu tư cho sản xuất
theo cơ chế của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần.
Bên cạnh đó, Ban Dân vận, chính quyền, mặt trận và các
đoàn thể xã hội đã tuyên truyền, giải thích, vận động, giúp đỡ
người nông dân thực hiện chủ trương của Hội đồng Bộ trưởng
về việc xin vay vốn từ quỹ quốc gia để giải quyết việc làm, xây
dựng dự án nhỏ. Tính đến tháng 11/1992, Hội đồng thẩm định
của tỉnh đã xem xét, thông qua 30 dự án mở rộng sản xuất,
phát triển trồng cây cao su, điều, tiêu, cà phê, mía và chăn
nuôi heo, gà, bò sữa, chim cút... với số tiền gần 2 tỷ đồng, trình
lên Trung ương xét duyệt.
Năm 1993, Ban Dân vận, chính quyền, Mặt trận và các
đoàn thể xã hội triển khai Đề án về chương trình xóa đói, giảm
nghèo của tỉnh, do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đề
xuất đã được các ban ngành, đoàn thể ở tỉnh thảo luận, góp ý
và nhất trí về cơ bản với khoản đầu tư gần 1 tỷ đồng để gây
quỹ tạo công ăn việc làm cho dân nghèo.
Bên cạnh đó, Hội Nông dân cũng tổ chức triển khai hoạt
động quỹ “hỗ trợ nông dân”, thành lập Ban Chỉ đạo tại 7/9
261
huyện, thị. Tính đến ngày 15/9/1996, Hội Nông dân đã vận
động được 160.358.000 đồng (trong đó ủng hộ là 59.153.000
đồng)1; thanh toán nguồn vốn xoá đói giảm nghèo với số tiền
vốn và lãi là 374.782.000 đồng/356 triệu vốn gốc2. Hội Nông
dân tỉnh còn phối hợp với Hội Nông dân các huyện, thị thẩm
định các dự án để giải quyết vốn cho nông dân sản xuất.
Hội liên hiệp Phụ nữ tiếp tục duy trì phong trào “vận động
giúp nhau làm kinh tế gia đình”, vận động giúp vốn, xây dựng
tổ, nhóm tiết kiệm tạo vốn sản xuất, như “tổ tín dụng tiết
kiệm”, “tổ tín chấp”, “tổ xoay vòng vốn”, “tổ đoàn kết tưong
trợ” với trị giá 293.442.000 đồng3. Ngoài ra, các cấp Hội còn
tiếp tục duy trì thực hiện các dự án do nước ngoài đầu tư cho
các chị em nghèo thiếu vốn. Nhìn chung phong trào giúp nhau
làm kinh tế gia đình đã và đang được phát triển tốt ở 100% cơ
sở, hoạt động ngày càng có hiệu quả.
Trong những năm 1993-1996, sản xuất nông nghiệp và
chăn nuôi trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển gắn với việc
đầu tư thâm canh, sử dụng giống lúa mới. Một số huyện phía
Nam như Bến Cát, Tân Uyên, Thuận An, năng suất lúa đạt
33 tạ/ha, tăng 8,7% so vụ đông xuân năm trước. Đặc biệt, cơ
cấu cây trồng của người nông dân từng bước thay đổi, cây công
nghiệp lâu năm (điều, cao su) thay thế cây lương thực (lúa,
bắp, khoai, đậu...). Tỷ trọng cây công nghiệp (điều, cao su)
chiếm trên 50% trong ngành trồng trọt. Các huyện phía bắc
của tỉnh đã hình thành vùng chuyên canh cây công nghiệp
(cao su, điều). Bằng nhiều nguồn vốn (xoá đói giảm nghèo, vốn
ngân hàng phát triển nông nghiệp và nhất là vốn tự giúp nhau
trong nhân dân) đã thúc đẩy sản xuất phát triển. Đặc biệt,

1. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo công tác Dân vận tháng 9/1996, ngày
20/9/1996.
2. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo công tác Dân vận tháng 9/1996, ngày
20/9/1996.
3. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo công tác Dân vận tháng 9/1996, ngày
20/9/1996.

262
trong những năm 1991-1996, kết hợp giữa nguồn đầu tư của
Nhà nước và nguồn xã hội hóa theo phương thức “Nhà nước và
Nhân dân cùng làm”, các địa phương trong tỉnh đã tiến hành
giải quyết trước một bước về thủy lợi tưới tiêu, cơ sở hạ tầng,
đường xá, xây dựng, quy hoạch nông thôn mới, đưa điện về
phục vụ sản xuất và tiêu dùng làm cho bộ mặt nông thôn có
những thay đổi đáng kể.
Bên cạnh những thành công nói trên, nền kinh tế thị
trường cũng nảy sinh những mâu thuẫn mới tác động nhất
định đến nông dân và nông thôn. Sự phân hóa giàu nghèo bắt
đầu xuất hiện, những hộ có vốn, có phương tiện, có nhân lực
và kinh nghiệm sản xuất thì thu nhập và mức sống tăng cao,
nhiều hộ trở nên giàu có; những hộ ít vốn, không có phương
tiện, thiếu nhân lực và kinh nghiệm sản xuất thì cuộc sống
khó khăn, thậm chí phải đi làm thuê kiếm sống.
Nhìn chung sản xuất nông nghiệp giai đoạn 1991-1996
phát triển theo hướng ổn định. Phong trào “nông dân sản xuất
giỏi”, Phong trào “phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”
ngày càng mang dấu ấn đậm nét. Tâm trạng của người nông
dân phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh
đạo.
Trên mặt trận công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, từ năm
1991, công tác dân vận hướng đến tuyên truyền, vận động các
cơ quan, xí nghiệp, nông trường quốc doanh, tập thể, tư nhân,
hộ gia đình... nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước và tỉnh trong quá trình chuyển sang hoạt động theo cơ
chế thị trường, chủ động liên doanh, liên kết kinh tế, đầu tư
vốn, áp dụng kỹ thuật công nghệ, tổ chức sản xuất, từng bước
tháo gỡ khó khăn, ách tắc.
Tính hết năm 1991, toàn tỉnh có 3.729 đơn vị thu hút
19.985 công nhân lao động. Ngoài ra còn có 3 xí nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Số đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh tăng
263
3-4 lần so với năm 1987, tập trung ở huyện Thuận An, Tân
Uyên, thị xã Thủ Dầu Một.
Cùng với sự mở rộng, phát triển các cơ sở, khu công nghiệp
là sự gia tăng lao động nhập cư. Các vấn đề phức tạp liên quan
đến tiền lương, lao động, việc làm, vấn đề quản lý lao động,
quản lý địa bàn. Ban Dân vận phối hợp với Liên đoàn lao động,
chủ doanh nghiệp tuyên truyền, phổ biến đến người lao động
các chủ trương, chính sách, pháp luật; tổ chức các cuộc thi tìm
hiểu pháp luật; tổ chức các phong trào thi đua phát huy sáng
kiến, cải tiến kỹ thuật trong công nhân và người lao động, qua
đó, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ công
nhân và người lao động trong tỉnh đóng góp vào công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội.
Đặc biệt, trong giai đoạn này, Ban Dân vận Tỉnh ủy hướng
trọng tâm công tác dân vận vào việc vận động nhân dân thực
hiện chủ trương giải tỏa, đền bù, chuẩn bị mặt bằng để xây
dựng khu công nghiệp Việt Nam - Singapore (VSIP); đồng thời
thực hiện chủ trương “trải thảm đỏ mời gọi các nhà đầu tư”.
Trên mặt trận thương nghiệp, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần được Ban Dân vận, chính quyền, Mặt trận và
các đoàn thể xã hội đưa vào thực tiễn với sự tuyên truyền,
giải thích, vận động, giúp đỡ cặn kẽ. Nền sản xuất hàng hóa
phát triển, sản phẩm đa dạng, mẫu mã đẹp, chất lượng cạnh
tranh... đã giúp cho mặt trận thương nghiệp trên địa bàn tỉnh
khởi sắc.
Trong những năm 1991-1996, bên cạnh mạng lưới thương
nghiệp quốc doanh, dịch vụ thương nghiệp tư nhân phát triển
nhanh. Đến năm 1996, trên địa bàn tỉnh có 13.966 hộ với
18.769 lao động, tập trung chủ yếu ở thị xã, thị trấn và ven
đường giao thông.
Nhiệm vụ đặt ra đối với Ban Dân vận, chính quyền, Mặt

264
trận và các đoàn thể xã hội là làm sao hoạt động thương nghiệp
theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước, chống buôn
gian, bán lậu, đầu cơ, tích trữ, bán phá giá thị trường, đồng
thời thực thi nghiêm túc quyền lợi và nghĩa vụ của người hành
nghề trên mặt trận thương nghiệp theo đúng pháp luật.
Trên mặt trận văn hóa, xã hội, mục tiêu phát triển kinh tế
là phục vụ đời sống xã hội và phát triển văn hóa. Từ khi vận
hành nền kinh tế thì trường, cùng với đời sống vật chất khá
lên, các tầng lớp nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp
đổi mới do Đảng khởi xướng, lãnh đạo. Tuy nhiên bên cạnh
những thành công, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng có
nhiều tác động tiêu cực, đó là sự phân hoá giàu nghèo, khoảng
cách giữa giàu và nghèo ngày càng lớn. Giữa thành thị và
nông thôn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, tệ tham
nhũng, quan liêu, cửa quyền vẫn còn ở một số địa phương, các
tệ nạn xã hội bùng phát, đạo đức xã hội suy giảm. Cùng với
việc chăm lo đời sống vật chất cho Nhân dân, các cấp ủy đảng,
chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể cũng thường xuyên
quan tâm đến đời sống văn hoá, tinh thần và sức khoẻ cho
nhân dân.
Đối với văn hóa, từ năm 1991, triển khai cương lĩnh chính
trị của Đảng, các đặc trưng của nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc1 đã được Ban Dân vận tỉnh và hệ thống chính
trị tham gia làm công tác dân vận triển khai vào thực tiễn của
tỉnh. Đến năm 1993, chủ trương xây dựng nền văn hóa mới đã
đi vào cuộc sống. “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội”2. Để xây dựng nền văn hóa có các đặc trưng tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, cùng với việc xây dựng đời sống văn
hóa mới, gia đình văn hóa hiện đại, hệ thống di sản văn hoá

1. Cương lĩnh chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng.
2. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) năm 1993.

265
trên địa bàn tỉnh được bảo quản, tôn tạo, giữ gìn nhằm khơi
dậy trong quần chúng những giá trị văn hóa truyền thống.
Năm 1992, Hội Cồng chiêng của đồng bào dân tộc thiểu số
huyện Bình Long được thành lập; các đoàn hát, đoàn cải lương
của tỉnh, của các huyện được củng cố và dàn dựng nhiều tiết
mục phục vụ đồng bào nhất là đồng bào các huyện phía bắc
của tỉnh. Đặc biệt, tỉnh còn tổ chức Hội thi nhiếp ảnh “Sức
sống miền Đông”, lập trại sáng tác “ca ngợi quê hương Sông
Bé”, đồng thời khơi dậy và đẩy mạnh phong trào văn nghệ
quần chúng.
Các nghệ nhân, nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ, cán bộ nghiên
cứu văn hóa được quy tụ, động viên, tạo môi trường hoạt động
thuận lợi để họ sáng tác nghệ thuật, đào tạo nhân tài cho tỉnh.
Đời sống văn hóa tinh thần của đông đảo nhân dân trong tỉnh
được cải thiện nhờ có trạm tiếp sóng truyền hình trên núi Bà
Rá.
Các ngày lễ, tết được tổ chức kỷ niệm khá sôi nổi ở các địa
phương, gắn kết với nhiều hình thức tổ chức phong phú như:
míttinh, họp mặt, tọa đàm, hội thảo, tổ chức các đợt sinh hoạt
chính trị nhằm mục đích tuyên truyền, nâng cao nhận thức
trong quần chúng về văn hóa dân tộc, về Đảng, về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội và những thành tựu mà Đảng, Nhà
nước và Nhân dân ta đã đạt được.
Nhân những ngày lễ tết, chính quyền, Mặt trận, Công
đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, các
cơ quan, đơn vị... thường tổ chức cho cán bộ, viên chức, công
nhân, hội viên, học sinh đi tham quan, du khảo, thăm các khu
di tích lịch sử, tổ chức nói chuyện về truyền thống yêu nước,
cách mạng của cha ông không chỉ nhằm mục đích họp mặt,
ôn lại truyền thống mà còn nhằm giáo dục truyền thống yêu
nước, truyền thống lao động, chiến đấu xây dựng, bảo vệ quê
hương, đất nước cho thế hệ trẻ.
266
Thành công nổi bật trong giai đoạn 1991-1996, trên mặt
trận văn hóa không chỉ là xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, bài trừ các hủ tục như mê tín, dị đoan,
tuyên truyền rộng rãi chủ trương cấm đốt pháo trong các ngày
lễ, tết mà còn chống lại các giá trị văn hóa lai căng, bia ôm, cà
phê đèn mờ, nghề mãi dâm... Cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết, xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”; “xây dựng gia đình
văn hóa mới”, “xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa” được
triển khai tích cực.
Đối với giáo dục, năm học 1991-1992 cùng với chủ trương
phổ cập tiểu học là chương trình xoá mù chữ được phát động1.
Chương trình phát triển sự nghiệp giáo dục và đạo tạo được
quần chúng nhiệt tình hưởng ứng và coi đây là quyền lợi thiết
thực của Nhân dân nhằm nâng cao trình độ dân trí và đào tạo
nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Năm học 1993-1994, ngành giáo dục đào tạo đã phối hợp
với các đoàn thể vận động quần chúng đóng góp xóa trên 130
phòng học tranh tre và 70 lớp học ca 3. Đoàn Thanh niên đã
phối hợp với ngành giáo dục tổ chức các lớp học tình thương
cho trẻ em nghèo thất học, đồng thời tiến hành xây dựng quỹ
học bổng cho học sinh nghèo học giỏi và sinh viên, học sinh
nghèo vượt khó.
Đặc biệt, Đoàn thanh niên tỉnh thực hiện chiến dịch ánh
sáng văn hoá hè, tính đến năm 1996 đã xoá mù chữ cho 113
học viên, dự kiến ra quân đợt 3 sẽ hoàn thành xoá mù chữ cho
777 học viên, trong đó 250 học viên mức II và 527 học viên mức
III. Tiếp đó, Đoàn Thanh niên tỉnh đã tổ chức Đại hội cháu
ngoan Bác Hồ tỉnh Sông Bé lần thứ 10, có 150 cháu ngoan
Bác Hồ đại diện cho 60.000 cháu ngoan Bác Hồ toàn tỉnh về
dự Đại hội. Đại hội đã tổ chức đi tham quan giao lưu với thiếu

1. Tính đến năm 1992, toàn tỉnh phổ cập tiểu học: 4.250/13.100 học sinh, đạt
32,44%; xóa mù chữ huy động được 3.562/7.000 học viên, đạt 50,45%.

267
nhi tỉnh Đồng Tháp. Đồng thời tại Đại hội cháu ngoan Bác Hồ,
Hội đồng đội tỉnh còn tổ chức họp mặt các thế hệ phụ trách Đội
Sông Bé, đã có 60 cán bộ phụ trách đội qua các thời kỳ về dự.
Hội Phụ nữ phát động phong trào vận động trẻ em trong các
độ tuổi đến trường; vận động thành lập quỹ khen thưởng cho
các thầy, cô giáo và học sinh giỏi, tặng quà ngày khai trường.
Đối với y tế, trong quá trình phát triển, người dân luôn
đối mặt với nhiều thách thức về sức khỏe, bao gồm từ sự bùng
phát của các loại dịch bệnh, tác động của ô nhiễm môi trường,
biến đổi khí hậu và các mối đe dọa khác đối với sức khỏe cộng
đồng
Công tác dân vận bám sát các mục tiêu tuyên truyền vận
động tiêm chủng cho các cháu dưới 3 tuổi, phòng ngừa 6 loại
bệnh cho trẻ em, đặc biệt là Chương trình phòng chống sốt
rét. Đến năm 1995, tỉnh Sông Bé đã đạt được mục tiêu 3 giảm
theo chủ trương của Bộ Y tế (giảm bệnh nhân sốt rét so với
năm 1991, tỷ lệ giảm 13%; giảm sốt rét ác tính (giảm 25% so
với năm 1991) giảm tử vong do sốt rét gây ra (giảm 30% so với
năm 1991); giảm dịch sốt rét 3%).
Cùng với Chương trình y tế và chăm sóc sức khoẻ cho Nhân
dân, Hội Chữ thập đỏ, Hội Y học cổ truyền và các đoàn thể phối
hợp với ngành y tế thực hiện công tác tuyên truyền và tổ chức
uống vắcxin phòng ngừa 6 bệnh của trẻ em; thường xuyên tổ
chức nhiều đoàn, nhiều đợt đi khám, cấp thuốc điều trị các
bệnh thông thường cho dân nghèo, đồng bào dân tộc và đồng
bào các vùng sâu, vùng xa, xã biên giới. Đặc biệt, Hội Phụ nữ
phát động phong trào “chăm sóc sức khoẻ phụ nữ”, “thực hiện
dân số - kế hoạch hoá gia đình”, “chăm sóc sức khoẻ trẻ em suy
dinh dưỡng”; Liên đoàn lao động tỉnh mở lớp tập huấn về dân
số - kế hoạch hoá gia đình, phòng chống HIV-AIDS cho cán bộ
nữ và 300 công nhân lao động ngoài quốc doanh.
Uỷ ban Dân số - kế hoạch hoá gia đình phối hợp với các
268
đoàn thể )Hội Nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên...) thực
hiện “Chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình”, mở các
đợt truyền thông dân số vượt chỉ tiêu kế hoạch (Đoàn Thanh
niên vận động 150-200%), vận động chị em, nhất là trong cán
bộ, công nhân viên chức nhà nước và khu dân cư ở thị xã, thị
trấn tham gia thực hiện kế hoạch hoá gia đình.
Hội Y học cổ truyền tổ chức tuyên truyền về tác dụng của
các bài thuốc Nam, phương pháp chữa bệnh cổ truyền như:
châm cứu, bấm huyệt, sử dụng thuốc Nam điều trị các loại
bệnh thông thường, quan tâm chăm sóc sức khoẻ cho người
nghèo và các đối tượng chính sách. Ngoài ra, Hội Y học cổ
truyền còn phối hợp với Trường trung học Y tế chiêu sinh mở
các lớp lương y sơ cấp, thời gian học 1 năm1; tập huấn về công
tác quản lý hội và kỹ năng sơ cấp cứu cho cán bộ hội viên chữ
thập đỏ.
Đối với những vấn đề xã hội, giai đoạn 1991-1996, cùng
với việc đưa chủ trương chính sách phát triển kinh tế vào thực
tiễn, Ban Dân vận còn phối hợp với chính quyền, Mặt trận và
các đoàn thể tích cực vận động Nhân dân thực hiện các phong
trào “Xoá đói giảm nghèo”, “Giải quyết việc làm cho người lao
động”, “Giải quyết các đơn, thư khiếu nại, tố cáo”, “Lấy ý kiến
đóng góp của nhân dân vào các dự luật”, “Củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân”, “Công tác thanh niên”, “Xây dựng giai cấp
công nhân”, “Ủng hộ đồng bào gặp khó khăn, hoạn nạn theo
tinh thần “lá lành đùm lá rách”...

Ở tỉnh Sông Bé, các hoạt động trên trong giai đoạn 1991-
1996 được phát động thành các phong trào cách mạng sôi nổi,
được đông đảo các tổ chức chính trị xã hội và người dân tham
gia. Hội Phụ nữ luôn đi đầu trong phối hợp tham gia vận động
quần chúng với các hình thức vận động thiết thực: “Ngày tiết

1. Ban Dân vận tỉnh Sông Bé: Báo cáo công tác Dân vận tháng 9/1996, ngày
20/9/1996.

269
kiệm vì phụ nữ nghèo”; kêu gọi các nhà hảo tâm, các tổ chức
từ thiện, quyên góp ủng hộ đồng bào dân tộc thiểu số, ủng hộ
đồng bào miền Bắc, miền Trung bị bão lụt; ủng hộ nhân dân
Cu ba; xây dựng nhà tình nghĩa, lập sổ tiết kiệm tình nghĩa;
nuôi dưỡng các Mẹ Việt Nam anh hùng, chăm sóc các gia đình
liệt sĩ khó khăn, giúp đỡ gia đình có công với cách mạng, gia
đình nghèo, trẻ em mồ côi... Các hoạt động này không chỉ góp
phần giải quyết những vấn đề xã hội, mà còn khơi dậy được
lòng nhân ái, tình đồng đội, đồng chí, nghĩa đồng bào thể hiện
tính nhân văn cao cả, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “nhường
cơm xẻ áo” trong khó khăn, hoạn nạn.

Trên mặt trận an ninh quốc phòng, từ năm 1991, phong


trào “bảo vệ an ninh Tổ quốc” tiếp tục được phát động. Ban
Dân vận phối hợp Mặt trận và ngành công an vận động các
tầng lớp nhân dân thực hiện Chỉ thị số 135 của Hội đồng Bộ
trưởng, phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ
quốc, xây dựng các tổ an ninh ở hầu hết ở xã phường, xóm
ấp. Đến năm 1996, toàn tỉnh đã xây dựng được 80 Hội đồng
bảo vệ an ninh trật tự xã, phường và góp được trên 100 triệu
đồng cho quỹ bảo vệ an ninh trật tự. Qua kiểm tra đánh giá:
60% số xã đã thực sự phối hợp hoạt động theo tinh thần Nghị
quyết, chất lượng quần chúng tham gia giữ gìn trật tự xã hội
ngày càng chuyển biến tích cực, 67/80 hội đồng hoạt động có
chất lượng tốt. Tuy nhiên, phong trào quần chúng giữ gìn an
ninh trật tự còn có những mặt hạn chế, phong trào chưa được
triển khai sâu, rộng đến tất cả các cơ sở trong địa phương, mới
có 60% số xã triển khai, do vậy ở một số địa bàn chưa đẩy lên
thành phong trào.
Công tác dân vận của lực lượng vũ trang đã bước đầu được
chú trọng. Bộ Chỉ huy Quân sự và Đảng ủy Quân sự tỉnh đã
ban hành chỉ thị và kế hoạch cho cán bộ, chiến sĩ làm công
tác dân vận phối hợp với địa phương nhằm tuyên truyền chủ
270
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước được Nhân dân đồng tình, ủng hộ. Lực lượng quân sự địa
phương và các đơn vị bộ đội chủ lực đóng quân trên địa bàn
tỉnh đã tham gia tích cực trong công tác vận động quần chúng
bằng những việc làm cụ thể, từng bước đã gây được tình cảm
yêu thương của nhân dân đối với “anh bộ đội cụ Hồ” đi dân
nhớ, ở dân thương.
*

* *

Giai đoạn 1986-1996 là thời kỳ đầu của công cuộc Đổi mới
trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, mục tiêu của công tác dân
vận từ đấu tranh xóa bỏ các giai cấp, tầng lớp bóc lột chuyển
sang mục tiêu vận động các giai tầng xã hội cùng nhau đoàn
kết xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Điểm đáng chú ý là, quá trình đổi mới này diễn
ra trong bối cảnh thế giới nhiều biến động lớn, đặc biệt là sự
sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước
Đông Âu, điều này tác đã động lớn đến hoạt động ngành Dân
vận tỉnh Sông Bé.
Về nhận thức, công tác dân vận được xem là một khâu thiết
yếu có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc vận động toàn
dân thực thi các chủ trương đổi mới toàn diện trong đường lối
cách mạng của Đảng. Nắm vững quan điểm “Quan hệ mật thiết
giữa Đảng và nhân dân đã trở thành nguồn sức mạnh và truyền
thống vô cùng quý báu của cách mạng Việt Nam” để vượt qua
những khó khăn trong thời kỳ bao cấp, vươn lên chuyển mình
trong giai đoạn đổi mới, mở cửa từ sau Đại hội IV.
Về phương thức và hình thức, công tác dân vận đã kế thừa
và phát huy được các kinh nghiệm, bài học trong thời kỳ kháng
chiến, hạn chế được kiểu “dân vận chuyên chính”, “dân vận
mệnh lệnh hành chính thời bao cấp”.
271
Về nội dung, công tác dân vận hướng tới việc vận động,
giáo dục và tuyên truyền đường lối đổi mới của Đảng một cách
đầy đủ, sâu sắc, toàn diện; đặc biệt là huy động các thành
phần kinh tế tập trung giải quyết tốt ba chương trình kinh tế
lớn của đất nước, đó là chương trình lương thực thực phẩm;
chương trình hàng tiêu dùng và chương trình hàng xuất khẩu;
đồng thời hoàn thành các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội và an
ninh quốc phòng của tỉnh đã đề ra trong 10 năm đầu của thời
kỳ đổi mới.
Có thể nói, công tác dân vận trong thời kỳ này đã tạo nên
bước nhảy vọt về chất trong việc vận động quần chúng đoàn
kết, cùng nhau hướng tới sự hài hòa giữa lợi ích quốc gia, lợi
ích tập thể và lợi ích cá nhân; tập hợp vận động mọi nguồn
lực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc
biệt từ khi có Nghị quyết số 08B/NQ-TW ngày 27-3-1990 về
đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan
hệ giữa Đảng và nhân dân, Ban Dân vận tỉnh và đội ngũ làm
công tác dân vận ngày càng phát triển tốt hơn công tác phối
hợp giữa các lực lượng, đẩy mạnh công tác tham mưu cho các
cấp Đảng và chính quyền để kịp thời giải quyết các vấn đề nổi
cộm trên địa bàn tỉnh.
Để đạt được kết quả trên, ngành Dân vận tỉnh Sông Bé
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể đã tiến hành kiện toàn về
bộ máy tổ chức, nhân sự; tăng cường sự phối hợp giữa Đảng,
chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng trong việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trong
giai đoạn 1986-1996, vị trí Trưởng Ban Dân vận và Chủ tịch
Mặt trận Tổ quốc chưa được tách bạch một cách rõ ràng, điều
này có ảnh hưởng nhất định đến công tác chuyên môn của
Ban. Dù vậy, những kết quả đạt được trong thời kỳ 1991-1996
chính là những kinh nghiệm và bài học quý báu để ngành Dân
vận tỉnh bước tiếp trong giai đoạn lịch sử tiếp theo.

272
Chương VI
CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỈNH ỦY BÌNH DƯƠNG
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA (1997-2020)

I. CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỈNH ỦY BÌNH DƯƠNG


TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1997-2001)

1. Quan điểm của Tỉnh ủy Bình Dương về công tác


dân vận trong những năm đầu đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa

Năm 1996 đánh dấu một bước ngoặt phát triển mới trong
công cuộc đổi mới của Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng đã quyết định đưa đất nước chuyển sang
thời kỳ mới: Thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã tổng kết
chặng đường 10 năm đổi mới đất nước (1986-1996) và đúc kết
6 bài học kinh nghiệm cho thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Trong đó, bài học kinh nghiệm thứ tư là: Mở rộng và tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả
dân tộc: “cần thực hiện tốt hơn nữa việc mở rộng, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân, cả ở trong nước và nước ngoài,
phát huy dân chủ, động viên tối đa sức mạnh của toàn thể dân
tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh”1.
Để thực hiện nhiệm vụ nói trên, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng chủ trương xây dựng cơ chế dân chủ

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.55, tr.360.

273
cơ sở để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”. Đối với công tác dân vận, “mọi cán bộ, đảng
viên đều phải làm công tác dân vận theo chức trách của mình.
Mọi cấp bộ đảng chăm lo công tác dân vận, đổi mới phương
thức lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân
dân, các hội quần chúng”1. Đồng thời, Đại hội cũng khẳng định
việc tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Mặt trận
và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, nơi phối hợp, thống nhất hành động của các tầng
lớp nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; là nơi Nhân dân tham gia cùng
Đảng và Nhà nước thực hiện và giám sát việc thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối
ngoại; góp phần tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Nhân
dân với Đảng và Nhà nước.
Kế thừa và phát huy những thành tựu của hơn 10 năm
thực hiện đổi mới, chủ động nắm bắt cơ hội, Đại hội Đảng bộ
tỉnh Sông Bé lần thứ VI (tháng 4/1996) đã đề ra quan điểm
và mục tiêu phát triển tỉnh đến năm 2000 là: Giữ vững sự ổn
định về chính trị; đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế trên
cơ sở thực hiện có kết quả công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hình
thành cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ hợp
lý; lựa chọn đúng đắn các trọng tâm phát triển, khai thác tích
cực mọi tiềm năng trong dân, các doanh nghiệp trong tỉnh,
thu hút nhiều nguồn lực ngoài tỉnh và nước ngoài để tạo ra
thế phát triển vững chắc; giải quyết kịp thời các yêu cầu bức
xúc về tiến bộ và công bằng xã hội; tạo sự chuyển biến quan
trọng về văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục - thể thao, chăm lo
cải thiện đời sống của Nhân dân, phát triển nguồn nhân lực;
tăng cường năng lực quản lý, đổi mới, sắp xếp bộ máy và cán

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 55, tr.407.

274
bộ để sự lãnh đạo, điều hành của bộ máy Đảng, chính quyền,
đoàn thể có sự đồng bộ, có kỷ cương và hiệu lực cao, phục vụ
hữu hiệu cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội; giữ vững
an ninh chính trị, bảo vệ an toàn và xây dựng tuyến biên giới
hòa bình, hữu nghị1.
Về công tác dân vận, Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần
thứ VI khẳng định mục tiêu: “Công tác dân vận từ nay đến
năm 2000 cần tập trung vào việc động viên mọi tiềm năng
cách mạng sáng tạo, phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân
trong việc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc
phòng, ổn định và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của
Nhân dân, thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa”2.
Cụ thể, tăng cường mở rộng khối đại đoàn kết trong tỉnh; đẩy
mạnh các phong trào nhân dân thi đua làm kinh tế, làm giàu
hợp pháp; nâng cao chương trình xóa đói, giảm nghèo; thực
hiện tốt chính sách ưu tiên người có công với cách mạng, vùng
căn cứ, vùng nông thôn xa xôi, vùng dân tộc miền núi.
Năm 1997, một sự kiện lớn có ý nghĩa quan trọng tạo đà
cho Bình Dương tăng tốc phát triển đã diễn ra. Đó là sự kiện
ngày 01/01/1997, tỉnh Bình Dương được tái thành lập trên cơ
sở tách tỉnh Sông Bé làm hai tỉnh mới Bình Dương và Bình
Phước. Tỉnh Bình Dương tái lập có cơ cấu hành chính gồm
1 thị xã, 3 huyện với 77 xã, phường, thị trấn; dân số khoảng
649.000 người. Tháng 7/1999, tỉnh tái lập các huyện: Dầu
Tiếng, Phú Giáo, Dĩ An; thành lập 2 xã: Định An (thuộc huyện
Dầu Tiếng), An Bình (thuộc huyện Dĩ An). Như vậy, tỉnh Bình
Dương có 7 huyện, thị với 79 xã, phường, thị trấn. Các thành
phần dân cư gồm có: Công nhân, nông dân, trí thức, doanh
nhân, phần lớn đều sinh hoạt trong các tổ chức chính trị - xã
hội như Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ,

1. Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ VI, tháng 4/1996, tr.14.
2. Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ VI, tháng 4/1996, tr.14.

275
Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân v.v.. Trên địa bàn tỉnh có
18 dân tộc thiểu số, chủ yếu tập trung ở các huyện Dầu Tiếng,
Tân Uyên, Phú Giáo, Thuận An và thị xã Thủ Dầu Một. Về tôn
giáo, khá đông đồng bào trong tỉnh là tín đồ các tôn giáo Phật
giáo, Công giáo, Cao Đài, Tin Lành, Hồi giáo.
Thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra,
Tỉnh ủy Bình Dương quán triệt mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi
công chức Nhà nước, từng tổ chức Đảng, từng cấp chính quyền,
đoàn thể phải thực sự “gần dân, tin dân, trọng dân, học ở dân,
hiểu dân”.
Trong những năm 1997-1998, ở nhiều tỉnh phía Bắc (thái
Bình, Nam Định, Vĩnh Phúc...) xảy ra tình trạng khiếu kiện
đông người, diễn biến phức tạp trên diện rộng, gây mất ổn
định chính trị - xã hội. Thực tiễn đặt ra vấn đề cấp bách là cần
phải quan tâm đến cơ sở, tăng cường xây dựng hệ thống chính
trị ở cơ sở. Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị
số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở với những quan điểm chỉ đạo cụ thể nhằm phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân ở cơ sở trong hệ thống chính trị.
Triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998
của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã thành lập Ban
Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cấp tỉnh gồm 15 thành
viên do Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy làm Trưởng ban, Ban
Tổ chức chính quyền là cơ quan thường trực. Tỉnh ủy tỉnh
Bình Dương lãnh đạo các huyện thị, đơn vị trong tỉnh thành
lập Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ở tất cả các
đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy. Mỗi Ban Chỉ đạo có từ 15 đến 19
thành viên, do Phó Bí thư Thường trực cấp ủy làm Trưởng
ban, một Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân làm Phó ban, Chủ
tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc làm Phó
ban, cùng lãnh đạo của một số ban ngành, đoàn thể chính trị
276
- xã hội có liên quan là thành viên. Các Ban Chỉ đạo phải xây
dựng quy chế làm việc, chương trình công tác, phân công các
thành viên trong ban Chỉ đạo phụ trách từng lĩnh vực trong
thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Hằng năm, quy chế làm việc,
chương trình công tác đều được bổ sung cho phù hợp với tình
hình mới. Hoạt động của các Ban Chỉ đạo đều được sơ kết, tổng
kết định kỳ, đánh giá rút kinh nghiệm, khen thưởng kịp thời
những tập thể, cá nhân xuất sắc. Nhờ đó, các Ban Chỉ đạo có
đóng góp hiệu quả trong công tác tham mưu cho cấp ủy các cấp
trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.
Tỉnh ủy cũng lãnh đạo triển khai thực hiện quy chế dân
chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp
theo Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ngày 08/9/1998 của Chính
phủ về ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động
của cơ quan nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm phục vụ Nhân
dân gắn với cải cách thủ tục hành chính. Từ năm 2000, việc
thực hiện quy chế dân chủ trong khối cơ quan hành chính sự
nghiệp tiếp tục được đẩy mạnh, gắn với việc thực hiện tốt Chỉ
thị số 18/2000/CT-TTg ngày 21/9/2000 của Thủ tướng Chính
phủ về tăng cường công tác dân vận nhằm xây dựng đội ngũ
cán bộ, viên chức gần dân, tôn trọng dân, lắng nghe ý kiến
của dân. Trong doanh nghiệp nhà nước, Quy chế dân chủ được
triển khai thực hiện theo Nghị định số 07/1999/NĐ-CP ngày
13/02/1999 của Chính phủ thông qua việc tổ chức Đại hội công
nhân viên chức, người lao động, ký kết hợp đồng lao động, xây
dựng thỏa ước lao động...

2. Kiện toàn tổ chức bộ máy, đẩy mạnh công tác dân


vận đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới

Những năm 1997-2001, bộ máy làm công tác dân vận


ở Trung ương và địa phương tiếp tục được kiện toàn. Ngày
25/5/2000, Ban Tổ chức Trung ương và Ban Dân vận Trung
ương đã ban hành Hướng dẫn số 01/HDLB-TC-DV về chức
277
năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ của Ban
Dân vận địa phương nhằm tăng cường tính thống nhất, tập
trung của toàn hệ thống tổ chức bộ máy dân vận từ Trung
ương đến địa phương.
Theo Hướng dẫn số 01/HDLB-TC-DV, Ban Dân vận Tỉnh
ủy Bình Dương cùng với hệ thống các Ban Dân vận Huyện ủy,
Thị ủy ở các địa phương được tổ chức theo mô hình là một ban
thuộc hệ thống các ban xây dựng Đảng, có chức năng tham
mưu cho cấp ủy, mà trực tiếp và thường xuyên là Ban Thường
vụ về công tác dân vận của Đảng, trong đó có công tác tôn
giáo, dân tộc và người Hoa. Nhiệm vụ của Ban Dân vận tỉnh
ủy, Huyện ủy, Thị ủy là nghiên cứu, tham mưu cho cấp ủy
những chủ trương về công tác dân vận trong hệ thống chính
trị; hướng dẫn các cấp ủy, các tổ chức đảng thực hiện các nghị
quyết, chủ trương của cấp trên về công tác dân vận, về chuyên
môn nghiệp vụ; giúp các cấp ủy kiểm tra việc thực hiện các
nghị quyết, chủ trương về công tác dân vận, tổng kết việc thực
hiện các nghị quyết, chủ trương của Trung ương về công tác
vận động quần chúng; đề xuất cho các cấp ủy về những vấn
đề liên quan đến công tác xây dựng Đảng, chính quyền, bố trí,
đề bạt cán bộ trong khối thuộc cấp ủy quản lý, quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân vận.
Bên cạnh đó, Tỉnh ủy Bình Dương đã quan tâm thực hiện
nhiệm vụ đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở
cơ sở xã, phường, thị trấn, tập trung thực hiện việc kiện toàn
tổ chức bộ máy, nâng cao vai trò của cấp ủy trong lãnh đạo
hoạt động của hệ thống chính trị; đồng thời, từng bước chuẩn
hóa đội ngũ cán bộ, tăng cường đào tạo cán bộ, đề ra các chính
sách cán bộ hợp lý, thúc đẩy hoạt động của hệ thống chính trị
ở xã, phường, thị trấn đạt hiệu quả cao hơn.
Theo quy định, tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ của Ban
Dân vận Tỉnh ủy gồm 1 Ủy viên Ban Thường vụ làm Trưởng
278
ban, 2 đến 3 Phó Trưởng ban; các phòng chuyên môn nghiệp
vụ gồm: Văn phòng, đoàn thể và hội quần chúng, Công tác dân
vận trong các cơ quan chính quyền, công tác dân tộc, tôn giáo
và người Hoa. Tổng biên chế Ban Dân vận Tỉnh ủy từ 11 đến
13 cán bộ, chuyên viên. Cụ thể, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy
giai đoạn này bà Nguyễn Thị Ngọc Ánh; các Phó Trưởng ban
thời kỳ này gồm: ông Nguyễn Hữu Đệ (1985-2005), ông Bùi Lê
Hương (1997-1998), ông Võ Xuân Truyện (1997-2001). Cấp
huyện, thị ủy gồm 1 Ủy viên Thường vụ cấp ủy làm Trưởng
ban, 1 Phó Trưởng ban và 3 cán bộ chuyên trách. Cấp xã,
phường gồm 1 Phó Bí thư Thường trực hoặc Ủy viên Thường
vụ làm trưởng khối và các thành viên gồm Chủ tịch Mặt trận,
trưởng các đoàn thể và hội quần chúng, thường trực Hội đồng
nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Trưởng công an.
Như vậy, đến năm 2000, công tác kiện toàn tổ chức bộ máy
và quy định biên chế, chức năng, nhiệm vụ của Ban Dân vận
các cấp ở Bình Dương đã cơ bản thống nhất, tạo thuận lợi cho
hoạt động đổi mới công tác dân vận đáp ứng nhiệm vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công tác dân vận cấp ủy và chính quyền cũng từng bước
đổi mới theo tinh thần của Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW
ngày 27/3/1990 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VI) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng và Nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội cũng từng bước đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động nhằm tập hợp quần chúng, xây dựng
mối quan hệ gắn bó mật thiết với quần chúng. Triển khai công
tác vận động quần chúng, Mặt trận đã định hướng vào địa bàn
dân cư, tập hợp các tầng lớp nhân dân thông qua các phong
trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động mang ý nghĩa thiết
thực, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ở các cộng đồng
dân cư. Mặt trận Tổ quốc các cấp đã trở thành hạt nhân trong
cuộc vận động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
279
sống văn hóa” ở các địa bàn dân cư.

3. Những thành tựu và hạn chế của công tác dân vận
những năm đầu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 1997-2001

Những năm đầu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đã có bước phát triển mạnh
mẽ trên nhiều lĩnh vực. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
gia tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; xuất khẩu hàng hóa
gia tăng; hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư khá đồng bộ, tạo
môi trường thu hút đầu tư; an sinh xã hội được bảo đảm, đời
sống của Nhân dân được cải thiện một bước.
Công tác dân vận của hệ thống chính trị tỉnh Bình Dương
đã góp phần quan trọng vào sự phát triển và ổn định của tỉnh.
Đặc biệt, từ sau khi Bộ Chính trị quyết định lấy ngày 15/10
hằng năm làm ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng1,
công tác dân vận của tỉnh được kiện toàn theo hướng phát huy
sức mạnh phối hợp của toàn hệ thống chính trị, càng phát huy
được sức mạnh to lớn của Nhân dân vào công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh.
Trước hết, về công tác dân vận của Đảng, Ban Dân vận
Tỉnh ủy với sự chỉ đạo sát sao, kịp thời trong toàn hệ thống (từ
tỉnh, huyện đến xã) đã dần thể chế hóa nội dung, phương thức
vận động quần chúng, kiện toàn bộ máy tổ chức và biên chế.
Nhờ đó, các hoạt động tạo được sự thống nhất, gắn kết. Ban
Dân vận các cấp chủ động gần dân, lắng nghe dân và qua đó
phản ánh được nguyện vọng của dân, tham mưu cho các cấp
ủy trong hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội
phù hợp.

1. Ngày 14/10/1999, nhân kỷ niệm 50 năm ngày bài báo “Dân vận” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo Sự thật số ra ngày 15/10/1949 dưới bút danh X.Y.Z,
Bộ Chính trị quyết định lấy ngày 15/10 làm ngày truyền thống công tác dân vận của
Đảng.

280
Công tác dân vận của chính quyền được triển khai theo
tinh thần đổi mới lề lối làm việc được quy định trong Quy chế
thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan. Ủy ban nhân
dân các cấp đã xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động với Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể trên các lĩnh vực tuyên truyền,
giáo dục pháp luật, định kỳ giao ban để lắng nghe ý kiến phản
ánh từ Nhân dân, giải quyết kịp thời các yêu cầu của doanh
nghiệp và Nhân dân, giải quyết các đơn thư khiếu nại, khiếu
tố của Nhân dân. 100% xã, phường, thị xã, thị trấn đã tổ chức
thực hiện các nội dung của quy chế dân chủ ở cơ sở với các mức
độ khác nhau theo đặc thù từng địa bàn. Qua đó, phát huy ý
kiến đóng góp của người dân trong các vấn đề phát triển sản
xuất, quy hoạch đất đai, xây dựng hạ tầng cơ sở, chỉnh trang
đô thị, thực hiện các chính sách xã hội.
Thực hiện Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg ngày 21/9/2000 của
Thủ tướng Chính phủ về Tăng cường công tác dân vận, các
cấp chính quyền ở Bình Dương đã đẩy mạnh cải cách hành
chính, bãi bỏ những quy định không còn phù hợp, những thủ
tục hành chính rườm rà gây phiền nhiễu cho dân; đồng thời
tăng cường công tác thanh tra, giám sát, xử lý nghiêm cán bộ
có hành vi sách nhiễu dân; thực hiện chế độ cán bộ phải đi cơ
sở, bám sát thực tiễn, gặp gỡ, tiếp xúc với dân, lắng nghe ý
kiến của dân.
Ủy ban nhân dân tỉnh chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại
trong nước và quốc tế nhằm thu hút vốn đầu tư cho phát triển
kinh tế của tỉnh. Đồng thời, Ủy ban nhân dân tỉnh phối hợp
chặt chẽ với các ngành chức năng và doanh nghiệp chỉ đạo sát
sao việc thực hiện quy chế dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước.
Phần lớn doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh đều đã xây
dựng được Quy chế dân chủ chung của đơn vị và các quy chế
cụ thể về phân phối tiền lương, tiền thưởng, đề bạt cán bộ, quy
chế tiếp công dân, lịch tiếp dân, quy chế thanh tra nhân dân...
Nội dung các quy chế bám sát phương châm “dân biết, dân

281
bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Công tác dân vận của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và
hội quần chúng đi vào nền nếp và phát huy hiệu quả hoạt động
trên từng hoạt động cụ thể. Trong giai đoạn 1997-2000, Ủy
ban Mặt trận các cấp phối hợp tuyên truyền chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước với số lượng cuộc tiếp xúc
dân lên đến 4.227 cuộc, thu hút 217.337 lượt người dân tham
dự. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phối hợp với các cấp chính quyền
phát động thực hiện các phong trào “Xóa đói, giảm nghèo”,
“Đền ơn đáp nghĩa”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư”, “Toàn dân tham gia phòng ngừa, phát
hiện, tố giác tội phạm, cảm hóa, giáo dục người phạm tội tại
gia đình và khu dân cư ”, xây dựng đời sống văn hóa mới. Đến
năm 2000, Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bình Dương đã có 26 tổ chức
thành viên. Liên minh công - nông - trí luôn phát huy vai trò
là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân.
Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Dương chủ động tham gia
công tác dân vận qua việc tổ chức cho đoàn viên Công đoàn học
tập các nghị quyết của Đảng bộ các cấp, mở các đợt sinh hoạt
theo chủ đề, tìm hiểu Luật Lao động; phát động các phong trào
thi đua lao động giỏi, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật;
phong trào xây dựng cơ quan an toàn; đặc biệt là công tác phối
hợp với các cơ quan chức năng xử lý các vụ đình công, lãn công,
bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người lao động.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh triển khai công
tác dân vận trong thanh niên bằng các hình thức đặc thù, các
hoạt động tổ chức, tập hợp đoàn viên, thanh niên với nhiều
hình thức phong phú: Tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng trình
độ lý luận, nhận thức pháp luật; xây dựng các chủ đề sinh
hoạt phù hợp với lứa tuổi thanh niên như “Năm thanh niên”,
“Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”... tổ chức các hoạt
động tình nguyện của thanh niên như hoạt động Ngày thứ
282
bảy tình nguyện, giúp đỡ, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh
hùng, làm đường giao thông nông thôn, tham gia vệ sinh môi
trường, trồng cây xanh, xây dựng nhà tình thương giúp đỡ các
cán bộ và đoàn viên, thanh niên có hoàn cảnh khó khăn. Đặc
biệt, tổ chức Đoàn Thanh niên các cấp trong tỉnh đã làm tốt
vai trò bồi dưỡng nguồn, giới thiệu những đoàn viên ưu tú cho
Đảng1.
Hội Phụ nữ các cấp làm công tác dân vận qua các hoạt
động phong phú như phối hợp với các cấp chính quyền, các
đoàn thể tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao trình độ hiểu
biết cho phụ nữ thuộc các thành phần khác nhau hiểu biết về
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; hiểu
biết các kiến thức về sức khỏe bà mẹ, trẻ em, giáo dục gia đình,
phòng chống các tệ nạn xã hội; vận động chị em tham gia các
hoạt động xóa đói, giảm nghèo, giúp nhau làm kinh tế, phong
trào thi đua “giỏi việc nước đảm việc nhà”, gắn các hoạt động
mang tính đặc thù của Hội Phụ nữ với việc thực hiện cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư”.
Hội Cựu chiến binh các cấp thông qua các ngày lễ lớn tham
gia tuyên truyền và giáo dục Nhân dân về ý nghĩa của các
ngày lễ, khơi dậy lòng tự hào và truyền thống yêu nước trong
Nhân dân, phòng chống âm mưu diễn biến hòa bình của các
thế lực thù địch; đi sâu đi sát cựu chiến binh để tìm hiểu cuộc
sống và tâm tư, nguyện vọng của cựu chiến binh, động viên họ
giữ vững phẩm chất, giúp đỡ kịp thời những cựu chiến binh có

1. Trong giai đoạn 1997-2000, Đoàn Thanh niên của tỉnh đã mở 126 lớp đối
tượng đoàn cho 6.575 thanh niên học tập, kết nạp 6.500 đoàn viên mới, nâng tổng số
đoàn viên toàn tỉnh lên 36.936 đoàn viên; mở 11 lớp tập huấn cho đoàn viên chủ chốt,
giới thiệu 980 đoàn viên ưu tú cho Đảng, được xem xét kết nạp 113 đảng viên mới
(dẫn từ Báo cáo tình hình công tác dân vận 6 tháng đầu năm 2000 của Ban Dân vận
Tỉnh ủy Bình Dương ngày 26/7/2000).

283
gia cảnh khó khăn1; phối hợp với Sở Lao động - Thương binh
và Xã hội phát động phong trào tìm kiếm đồng đội, quy tập hài
cốt liệt sĩ về các nghĩa trang.
Hội Nông dân các cấp chú trọng phát triển hội viên; vận
động hội viên thực hiện phong trào “Hộ gia đình nông dân
sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xóa đói, giảm
nghèo và làm giàu chính đáng”, “Nông dân xây dựng gia đình
văn hóa, tham gia xây dựng làng, xã văn hóa”. Với mục tiêu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, từ năm
2000, Hội Nông dân đã bám sát Chỉ thị số 59-CT/TW ngày
15/12/2000 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Hội Nông dân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn để tuyên truyền, vận
động nông dân tham gia củng cố Hội, xây dựng nông thôn mới
và xây dựng phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân. Đến đầu
năm 2000, toàn tỉnh đã có 35.515 nông dân trở thành hội viên
Hội Nông dân, chiếm tỷ lệ 68,83% nông dân trong tỉnh.
Hội Chữ Thập đỏ, Hội Y học cổ truyền phát huy lợi thế
nghề nghiệp đã chăm lo sức khỏe cho Nhân dân, vận động
Nhân dân xây dựng đời sống mới, bảo vệ môi trường, phòng
chống các tệ nạn xã hội, dịch bệnh.
Công tác tôn giáo - dân tộc - người Hoa được các cấp ủy và
chính quyền trong tỉnh quan tâm. Cùng với công tác truyên
truyền, vận động, giáo dục, hệ thống cơ quan dân vận và nhất
là đội ngũ cán bộ dân vận chuyên trách đã phối hợp chặt chẽ
với Chi cục định canh định cư, Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn... triển khai
thực hiện Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của
Thủ tướng Chính phủ về Chương trình phát triển kinh tế -

1. Theo số liệu từ Báo cáo của Ban Dân vận Tỉnh ủy: Giai đoạn 1997-2000,
Hội Cựu chiến binh đã vận động xây dựng được 28 căn nhà tình thương cho hội viên
nghèo, cuối năm 1999, Hội còn 400 hộ hội viên nghèo, đến giữa năm 2000, giảm còn
273 hộ.

284
xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng
xa, giai đoạn 1; triển khai thực hiện các chương trình quốc
gia, chương trình xóa đói, giảm nghèo nhằm ổn định đời sống
vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc ở các địa phương;
hướng dẫn và vận động đồng bào xây dựng đời sống mới, thay
đổi dần phong tục tập quán sản xuất, sinh hoạt lạc hậu; lập
dự án định canh định cư cho hơn 100 hộ dân tộc Khmer ở xã
An Bình; vận động bà con người Hoa đoàn kết xây dựng cuộc
sống theo phương châm “bình đẳng, hòa nhập, ổn định, phát
triển”; phát triển đường giao thông, xây trường học, kéo lưới
điện về các địa bàn dân cư vùng sâu, vùng xa, nơi có đông đồng
bào dân tộc thiểu số và đồng bào có đạo để ổn định cuộc sống
sinh hoạt và sản xuất của đồng bào; vận động đồng bào có đạo
“gắn bó đạo với đời”, gắn bó việc thi đua với đức tin tôn giáo;
vận đồng đồng bào tích cực tham gia thực hiện cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”.
Đánh giá thành tựu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình
Dương trong 4 năm (1997-2001), Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Bình Dương lần thứ VII nhận định: “Sau khi được tái lập, tỉnh
có nhiều khó khăn như: Bị ảnh hưởng trực tiếp do cuộc khủng
hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực; điều kiện về cơ sở hạ
tầng kỹ thuật còn thấp kém, thiếu đồng bộ; đội ngũ cán bộ và
công nhân kỹ thuật chưa ngang tầm với yêu cầu phát triển...
Tuy nhiên, với tinh thần năng động sáng tạo, đoàn kết, Đảng
bộ và quân dân tỉnh Bình Dương đã vươn lên, khắc phục khó
khăn, tận dụng và khai thác những thuận lợi về vị trí địa lý, về
tiềm năng lao động, đất đai... của địa phương, tiếp tục kế thừa,
phát huy những thành quả của tỉnh Sông Bé trước đây, từng
bước đưa kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương phát triển liên tục
và toàn diện”. Góp vào thành công chung có vai trò của công
tác dân vận, “Mặt trận và các đoàn thể đã có nhiều cố gắng
trong việc kiện toàn tổ chức, từng bước đổi mới phương thức
285
hoạt động, tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn
định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Trên
nhiều lĩnh vực, Mặt trận và các đoàn thể đã chủ động tổ chức
phát động hoặc tích cực động viên đoàn viên, hội viên tham
gia, làm nòng cốt trong thực hiện các chương trình quốc gia,
các phong trào mà tiêu biểu là tham gia xây dựng chính quyền
các cấp, làm nòng cốt trong phong trào quần chúng bảo vệ an
ninh Tổ quốc, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc
sống mới, phong trào xoá đói giảm nghèo, phong trào đền ơn
đáp nghĩa, phát triển giao thông nông thôn, phong trào tuổi
trẻ giữ nước và lập nghiệp, tham gia thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở và các hoạt động xã hội từ thiện khác... đem lại hiệu
quả thiết thực”1.
Tuy nhiên, công tác dân vận của Tỉnh ủy và mối quan hệ
giữa Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bình Dương trong giai đoạn
này vẫn còn bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm. Về mặt nhận
thức, một số ngành chức năng thuộc khối chính quyền ở cơ sở
vẫn chưa hiểu đúng về công tác vận động quần chúng, xem
đó là công việc của Đảng, của Mặt trận và đoàn thể, dẫn đến
cơ chế và hiệu quả phối hợp chưa hiệu quả. Nhiều chủ trương
của Đảng về công tác dân vận chậm được thể chế hóa, khi thể
chế hóa lại chậm được triển khai ở địa phương. “Hoạt động của
Mặt trận và các đoàn thể vẫn còn những hạn chế như: Lúng
túng về xác lập mô hình và phương thức hoạt động trong điều
kiện nền kinh tế thị trường. Tình trạng hành chính hoá trong
hoạt động của các đoàn thể khắc phục còn chậm. Chất lượng
chính trị của hội viên, đoàn viên còn thấp”2. Thực tế cho thấy
đời sống của Nhân dân còn nhiều khó khăn, mức thu nhập

1. Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VII, tr.11.
2. Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VII, tr.12.

286
bình quân chưa đều, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là ở vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. “Việc thực hiện
chính sách, công bằng xã hội, thiếu dân chủ vẫn còn xảy ra,
việc gửi đơn khiếu nại, tố cáo còn kéo dài, 6 tháng đầu năm
2000 đã tiếp nhận 556 đơn, chủ yếu khiếu nại việc đền bù giải
tỏa, lòng lề đường, tranh chấp trong Nhân dân và những thắc
mắc việc chậm giải quyết về cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và nhà ở”1. Công tác dân vận trong khu vực doanh
nghiệp nước ngoài còn yếu. Một số doanh nghiệp nước ngoài,
tư doanh còn vi phạm Luật Lao động, tình trạng tăng giờ, tăng
ca, giải quyết tiền lương, thưởng chưa hợp lý, dẫn đến các cuộc
đình công, lãn công làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và
an ninh trật tự. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ở một
vài nơi vẫn mang tính hình thức, một số cán bộ, đảng viên ngại
tiếp xúc với dân, chưa thật sự đem lại lòng tin cho Nhân dân.

II. CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỈNH ỦY BÌNH DƯƠNG


GIAI ĐOẠN 2001-2010

1. Bối cảnh và nhiệm vụ dân vận trong giai đoạn


2001-2010

Bước vào thế kỷ XXI, tình hình thế giới và trong nước
đặt ra nhiều thách thức và cơ hội mới: Toàn cầu hóa kinh tế
trở thành xu thế chủ đạo lôi cuốn ngày càng nhiều quốc gia
tham gia; kinh tế tri thức ngày càng đóng vai trò chi phối sự
phát triển của lực lượng sản xuất; khu vực châu Á - Thái bình
Dương và Đông Nam Á bước ra khỏi cuộc khủng hoảng tài
chính, kinh tế, song vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn
định. Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Việt
Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực, chính trị ổn định, kinh
tế tăng trưởng, văn hóa - xã hội tiến bộ, vị thế đất nước trên

1. Ban Dân vận Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo tình hình công tác dân vận 6
tháng đầu năm 2000.

287
trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên, về cơ bản nền kinh
tế đất nước vẫn còn tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực và
quốc tế; tình trạng thoái hóa, biến chất, nạn tham nhũng và
tệ quan liêu, âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch bằng
“diễn biến hòa bình” vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp.
Trong bối cảnh đó, năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc
Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp lần thứ IX tổng kết 15 năm
thực hiện đường lối đổi mới và thông qua Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010). Tiếp đó, năm 2006, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã diễn ra, với chủ
đề “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”.
Quan điểm của Đảng là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Để thực hiện được mục tiêu
này, “Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân,
phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo”1, phải phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc: “Thực hiện đại đoàn kết các
dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi
giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và
người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu,
mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống
ở trong nước hay ở nước ngoài”2. Đây cũng chính là quan điểm
chỉ đạo công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã ban hành 3 nghị quyết: Nghị quyết số 23-NQ/
TW ngày 12/3/2003 về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” với trọng tâm xây dựng phong cách dân vận của

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.129.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.148.

288
cán bộ, công chức là “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và
có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân
tin”1; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 về công tác
dân tộc, nêu rõ quan điểm cơ bản, mục tiêu cụ thể và những
giải pháp chủ yếu, cấp bách về công tác dân tộc trong tình
hình mới; Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 về công
tác tôn giáo khẳng định tính nhất quán trong chính sách đại
đoàn kết dân tộc.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, công
tác dân vận đặc biệt được chú trọng. Trung ương Đảng và Bộ
Chính trị liên tiếp ra các nghị quyết quan trọng về công tác vận
động quần chúng: Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 về
công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/01/2008 về
tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số
25-NQ/TW ngày 25/7/2008 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06/8/2008 về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; Kết luận số 62-KL/TW ngày 08/12/2009
về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Đối với tỉnh Bình Dương, bước sang những năm đầu thế
kỷ XXI, kinh tế - xã hội của tỉnh có những chuyển biến quan
trọng. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tiếp tục tăng trưởng
bình quân 15,5%/năm. Đến cuối năm 2005, cơ cấu kinh tế của
tỉnh là công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp với tỉ trọng tương
ứng là 64,5% - 28% - 7,5%. Thu nhập bình quân đầu người
đạt 15 triệu đồng/năm. Cơ cấu kinh tế của các huyện, thị xã có
những bước chuyển đúng hướng. Thị xã Thủ Dầu Một, huyện

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.62, tr.37.

289
Thuận An và huyện Dĩ An ổn định phát triển công nghiệp, gia
tăng tốc độ phát triển dịch vụ và chú trọng công tác kiến thiết,
phát triển đô thị; các huyện: Bến Cát, Tân Uyên và Dầu Tiếng
đã thu hút được nhiều dự án đầu tư, xây dựng các khu và cụm
công nghiệp, từng bước chuyển thành các huyện công nghiệp
mới1.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VII xác định
mục tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai
đoạn 2001-2005: “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
tận dụng mọi nguồn lực bên ngoài; phát huy công nghệ truyền
thống kết hợp với công nghệ hiện đại trong việc phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh; phát triển công nghiệp - đô thị hoá
gắn liền với phát triển nông nghiệp nông thôn; tăng trưởng
kinh tế đi liền với giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc bảo
vệ môi trường sinh thái, nâng cao hơn nữa đời sống vật chất
và văn hoá tinh thần của Nhân dân, thực hiện dân chủ, tiến
bộ và công bằng xã hội; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh
tế - xã hội với tăng cường và củng cố quốc phòng - an ninh”2.
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, trên cơ sở tổng kết thành
tựu và hạn chế trong thực hiện mục tiêu đã đề ra từ Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ VII, đã xác định mục tiêu tổng quát phát
triển kinh tế của thời kỳ 2006-2010 là “phấn đấu tăng tỉ trọng
GDP của tỉnh trong GDP của toàn vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam. Tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững, tạo
chuyển biến mạnh về chất lượng phát triển. Tạo nền tảng đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri
thức gắn với hội nhập vùng, khu vực và quốc tế. Giữ vững ổn
định quốc phòng, an ninh và an toàn xã hội. Nâng cao vị thế
của tỉnh trong nước và trên thế giới. Cơ cấu kinh tế chuyển

1. Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Báo cáo tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần
thứ VIII.
2. Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VII, tr.17.

290
dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỉ trọng dịch vụ, ổn định tỉ trọng
công nghiệp và giảm tỉ trọng nông nghiệp; chú trọng công nghệ
hiện đại, tiên tiến, trong sản xuất công nghiệp; đa dạng hóa
các loại hình dịch vụ, hình thành các thị trường quan trọng:
tài chính, bất động sản, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất,...;
mở rộng thị trường xuất khẩu đến nhiều quốc gia, vùng lãnh
thổ với nhiều chủng loại hàng hóa đủ sức cạnh tranh quốc tế;
tăng cường ứng dụng công nghệ sinh học và các mô hình nông
nghiệp kỹ thuật cao vào sản xuất nông nghiệp. Phát huy tiềm
năng, lợi thế và những thành quả đã đạt được để vận động thu
hút đầu tư; tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Đẩy mạnh
đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ theo
hướng hiện đại, tiên tiến. Thực hiện tốt việc cải cách hành
chính, đẩy lùi nạn tham nhũng, xây dựng môi trường đầu tư
thông thoáng, linh hoạt và minh bạch tạo thuận lợi thu hút
vốn đầu tư trong và ngoài nước. Nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực kịp thời đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh trong thời kỳ mới”1.
Nhiệm vụ công tác dân vận phục vụ mục tiêu đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của tỉnh
được khẳng định: “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, về công tác
dân tộc, công tác tôn giáo. Nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện chính
sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Tăng cường công tác tuyên
truyền, giải thích đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước phù hợp với từng đối tượng quần chúng, chăm lo
và bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhân dân, thực hiện dân chủ

1. Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Báo cáo tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần
thứ VIII.

291
và công bằng xã hội nhằm tạo sự đồng thuận xã hội, củng cố
và tăng cường khối đại đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong
tỉnh”1.
Ngay từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII, các cấp ủy
đã tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện những quan điểm,
nhiệm vụ về đổi mới công tác vận động quần chúng theo tinh
thần Nghị quyết số 08B-NQ/TW ngày 27/3/1990 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng và Chỉ thị số 69-CT/TW của
Ban Bí thư ngày 20/6/1996. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động
chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày
02/02/1999 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII).
Đồng thời tổ chức sơ kết 3 năm thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở; sơ kết 7 năm thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày
12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác
vận động phụ nữ trong tình hình mới; tổng kết 7 năm thực
hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày
16/10/1990 của Bộ Chính trị (khóa VI) về tăng cường công tác
tôn giáo trong tình hình mới. Kết quả sơ kết, tổng kết nhằm
chỉ ra những thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm cho việc thực
hiện nhiệm vụ dân vận trong giai đoạn mới.
Ngày 21/11/2006, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Chỉ
thị số 37/2006/CT-UBND về tăng cường công tác dân vận trên
địa bàn tỉnh.

2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và đổi mới công tác dân


vận

Việc kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân vận có tầm
quan trọng đặc biệt trong bảo đảm năng lực vận hành, tính

1. Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Báo cáo tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần
thứ VIII.

292
chuyên nghiệp của hệ thống và thái độ trách nhiệm của cán bộ
làm công tác dân vận.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới, Ban Dân
vận Tỉnh ủy được sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn,
chất lượng, hiệu quả. Từ năm 2001, các cấp ủy trong tỉnh tập
trung tổ chức thực hiện Quy định số 357 về kiện toàn bộ máy
dân vận từ tỉnh đến cơ sở theo Hướng dẫn số 01/HDLB-TC-
DV ngày 25/5/2000 của Ban Tổ chức Trung ương Đảng và Ban
Dân vận Trung ương. Cơ cấu tổ chức Ban Dân vận Tỉnh ủy
gồm: Lãnh đạo Ban, Văn phòng và các phòng chuyên môn
(Phòng Đoàn thể, Phòng Dân vận - Chính quyền, Phòng Dân
tộc - Tôn giáo). Cả 7/7 huyện, thị xã đều lập Ban Dân vận với
biên chế 2, 3 cán bộ. 79/79 xã, phường, thị trấn đều có cán bộ
phụ trách khối dân vận với 2 mô hình: Phó Bí thư làm Trưởng
khối hoặc Ủy viên Thường vụ Đảng ủy làm Trưởng khối. Đảm
nhận nhiệm vụ Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy thời kỳ này gồm:
Bà Nguyễn Thị Ngọc Ánh (1996-2004), bà Nguyễn Thị Nhung
(2004-2007), bà Đào Ngọc Nữ (2007-2009) và ông Phạm Văn
Cành (2009-2010). Các Phó Trưởng ban gồm: Bà Nguyễn Thị
Kim Oanh (2002-2012), ông Nguyễn Khải Hoàn (2001-2010),
ông Lê Hoàng Minh (2008-2012).
Khối dân vận trong lực lượng quân đội, công an được củng
cố, có các bộ phận chuyên trách làm công tác dân vận.
Mảng công tác dân vận chính quyền được kiện toàn với
việc phân công cán bộ lãnh đạo phụ trách công tác quần chúng
và đội ngũ cán bộ tiếp dân. Năm 2005, trên cơ sở tổng kết 5
năm thực hiện Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg ngày 21/9/2000 của
Thủ tướng Chính phủ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã thống nhất
thành lập Phòng Dân vận chính quyền thuộc Ban Dân vận
Tỉnh ủy có 2, 3 biên chế.
Hệ thống chính trị cơ sở, nhất là ở vùng nông thôn xa, vùng
đồng bào dân tộc được sắp xếp, kiện toàn theo hướng nâng cao
293
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng nhằm thực hiện
hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở.
Công tác quy hoạch sắp xếp bố trí cán bộ dân vận được
các cấp ủy quan tâm. Các huyện ủy, thị ủy và đảng ủy trực
thuộc đã tiến hành quy hoạch cán bộ theo quy trình, quan
tâm đội ngũ cán bộ Mặt trận, đoàn thể và khối dân vận. Tỉnh
thực hiện luân chuyển cán bộ hợp lý, một số cán bộ lãnh đạo
chính quyền, Mặt trận được điều động, luân chuyển sang làm
Trưởng ban Dân vận. Công tác luân chuyển cán bộ cùng với
công tác đào tạo, bồi dưỡng được triển khai thường xuyên giúp
đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận trưởng thành, hiểu và
giải quyết tốt các nhiệm vụ được phân công.
Thực hiện Kế hoạch số 24-KH/BCĐDV ngày 01/10/2007,
Ban Cán sự Đảng Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Ủy ban nhân
dân tỉnh, các sở, ngành và Ủy ban nhân dân các huyện, thị
phân công các thành viên trong Ban Cán sự Đảng phụ trách
từng địa phương, lĩnh vực, cụ thể: 1 đồng chí Phó Bí thư Ban
Cán sự Đảng - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trực tiếp
phụ trách công tác dân vận khối cơ quan nhà nước, 1 đồng chí
Ủy viên Ban Cán sự Đảng là Giám đốc Sở Nội vụ phụ trách
tham mưu lĩnh vực dân vận chính quyền.
Cơ chế phối hợp giữa các bộ phận chức năng làm công tác
dân vận của Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang, Mặt
trận và các đoàn thể luôn được quan tâm phát huy trong triển
khai các chương trình vận động quần chúng, nhằm tạo sức
mạnh đoàn kết và tính hiệu quả cao. Tỉnh đã thành lập Ban
Chỉ đạo phối hợp các lực lượng trên địa bàn làm công tác dân
vận. Ngày 23/8/2006, Tỉnh ủy Bình Dương ban hành văn bản
chỉ đạo số 201-CV/TU về việc tăng cường sự lãnh đạo đối với
công tác phối hợp các lực lượng làm công tác dân vận trên địa
bàn.
Về phương thức hoạt động, Ban Dân vận các cấp quán triệt
294
tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX): “Đại đoàn kết toàn
dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng...
lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm
điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử
về quá khứ... cùng hướng tới tương lai... bảo đảm công bằng và
bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp
pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân... đại đoàn kết là
sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt
nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng”1. Công tác dân vận của cấp
ủy và chính quyền các cấp tập trung vào các mục tiêu chỉ đạo
phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, tổ chức thực
hiện các quy chế dân chủ; đa dạng hóa các loại hình tập hợp
quần chúng của các đoàn thể. Ủy ban nhân dân các cấp tăng
cường phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân
chỉ đạo cho các ngành, các địa phương giúp dân phát triển sản
xuất và đời sống; thường xuyên công khai cho dân biết các chủ
trương, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, các chính
sách có liên quan đến đời sống của Nhân dân, việc sử dụng
các khoản đóng góp của Nhân dân xây dựng giao thông, điện,
trường học, nhà tình nghĩa, tình thương...
Ngày 26/02/2007, Tỉnh ủy ra Chương trình hành động số
30-CTr/TU thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng về công tác dân vận trong thời kỳ mới.
Tiếp đó, Tỉnh ủy ban hành Quyết định số 571-QĐ/TU ngày
01/10/2007 cụ thể hóa Chương trình hành động về công tác
dân vận của Tỉnh ủy. Theo đó, từ cuối năm 2007, cấp ủy các
huyện, thị, Đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy đã xây dựng chương
trình hành động, kế hoạch thực hiện, tổ chức học tập, quán

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.62, tr.29-30.

295
triệt đến cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và Nhân dân.
Công tác kiểm tra, giám sát hằng năm được lồng ghép với kiểm
tra, giám sát công tác dân vận, đồng thời kiểm tra chuyên đề.
Các địa phương Tân Uyên, Bến Cát, Thuận An đã thành lập
Ban Chỉ đạo theo mô hình đổi mới phương pháp dân vận này.
Các đơn vị còn lại không thành lập Ban Chỉ đạo mà giao cho
cấp ủy trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và thường xuyên kiểm tra,
giám sát theo định kỳ 6 tháng và một năm.
Năm 2009 được Ban Dân vận Trung ương chọn là “Năm
dân vận chính quyền” và phát động phong trào thi đua “Dân
vận khéo” trong cả nước. Ngày 22/3/2010, Ban Dân vận Trung
ương ra Công văn số 96-CV/BDVTW về tiếp tục thực hiện
“Năm dân vận chính quyền”. Thực hiện kế hoạch của Ban
Dân vận Trung ương, Ban Dân vận Tỉnh ủy Bình Dương đã
xây dựng Kế hoạch số 18-KH/DV ngày 16/4/2009 quán triệt
đến các cấp cơ sở, Mặt trận và các đoàn thể triển khai thực
hiện “Năm dân vận chính quyền” trong toàn tỉnh. Đồng thời,
Ban Dân vận Tỉnh ủy tham mưu cho cấp ủy tổ chức kiểm tra
việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
trong một số lĩnh vực công tác của chính quyền có liên quan
trực tiếp đến quyền và lợi ích của Nhân dân; phối hợp với Ủy
ban nhân dân tỉnh tổ chức buổi tọa đàm về “Công tác dân vận
trong thời kỳ mới” để phổ biến kinh nghiệm về công tác dân
vận. Ban Dân vận Tỉnh ủy cũng ký kết chương trình phối hợp
hoạt động dân vận với cơ quan quân sự và công an tỉnh; thông
qua Quy chế phối hợp công tác dân vận giữa chính quyền với
các lực lượng vũ trang trong tỉnh nhằm nâng cao hiệu quả
thiết thực của công tác dân vận.

3. Công tác dân vận trong giai đoạn 2001-2010

- Công tác dân vận của Đảng và chính quyền


Bước sang những năm đầu của của thế kỷ XXI, công tác
296
dân vận của Đảng và chính quyền tỉnh Bình Dương có nhiều
đổi mới về nhận thức, quan điểm và tổ chức thực hiện. Sự đổi
mới này mang tính tất yếu, phù hợp với mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh đã đề ra trong Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ VII và lần thứ VIII.
Là đơn vị đảm nhiệm chức năng tham mưu, Ban Dân vận
Tỉnh ủy và Ban Dân vận các cấp ủy trực thuộc tỉnh bám sát
nội dung của Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ
Chính trị, Nghị quyết 08B-NQ/TW ngày 27/3/1990 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng và Chỉ thị số 69-CT/TW ngày
20/6/1996 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, các nghị quyết
số 23, 24, 25 ngày 12/3/2003 của Trung ương Đảng, Chỉ thị số
37/2006/CT-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh... để tham mưu
cho các cấp ủy đảng chỉ đạo cụ thể hóa chủ trương của Trung
ương và tỉnh về công tác xây dựng chương trình, kế hoạch
hành động, các quy định, quy trình chỉ đạo công tác vận động
quần chúng; quy chế phối hợp thực hiện công tác dân vận giữa
các ban ngành, đoàn thể quần chúng; gắn công tác dân vận với
công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Năm 2007,
Ban Dân vận Tỉnh ủy đã tham mưu cho Tỉnh ủy xây dựng
Chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X về công tác dân vận. Ban
Dân vận Tỉnh ủy tham mưu cho Tỉnh ủy xây dựng các văn bản
về đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội.
Bên cạnh chức năng tham mưu, Ban Dân vận Tỉnh ủy và
hệ thống dân vận đảng các cấp đảm nhiệm thực hiện công tác
hướng dẫn tổ chức các hoạt động dân vận; phối hợp chủ trì
hoặc tham dự các buổi tiếp xúc, đối thoại với các thành phần
nhân dân trong tỉnh như: Sinh viên, chủ doanh nghiệp, công
nhân lao động, các hộ nghèo, người khiếu nại, tố cáo; định kỳ
hằng tháng, hằng quý gặp gỡ, lắng nghe đề xuất, phản ánh
của Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và quần chúng để
297
nâng cao chất lượng tham mưu cho các cấp ủy đảng.
Các cấp ủy đảng quan tâm tập trung chỉ đạo phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, tổ chức thực hiện quy
chế dân chủ; đa dạng hóa các loại hình tập hợp quần chúng
của Mặt trận và các đoàn thể; chỉ đạo nâng cao chất lượng và
hiệu quả phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư; đẩy mạnh hoạt động các phong trào xóa đói,
giảm nghèo, giải quyết việc làm, giúp nhau làm kinh tế gia
đình, công tác từ thiện.
Một trong những nhiệm vụ thường xuyên của công tác dân
vận đảng là hoạt động tuyên truyền, phổ biến và quán triệt
các đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước và Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương
đến với cán bộ, đảng viên và quần chúng. Trong giai đoạn
2001-2010, công tác dân vận đảng đã làm tốt công tác tuyên
truyền, giáo dục truyền thống thông qua các ngày lễ lớn, các
sự kiện quan trọng của đất nước và của tỉnh như Đại hội đảng
các cấp, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, đại hội của các
đoàn thể chính trị - xã hội... tuyên truyền, vận động Nhân dân
phát huy sức mạnh đại đoàn kết, xây dựng cuộc sống mới, xây
dựng khu dân cư văn hóa, xây dựng dân chủ ở cơ sở. Cùng với
quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của đất nước vào nền
kinh tế thế giới, Bình Dương đã trở thành một trong những
tỉnh thành đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế. Chính vì thế, hoạt động dân vận của Đảng ở
Bình Dương thời kỳ này đặc biệt chú trọng hướng về cơ sở để
phát huy tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, đồng thời kịp thời vận
động quần chúng đề cao cảnh giác, xử lý linh hoạt, hiệu quả
những tiêu cực, mặt trái của hội nhập như: Tệ quan liêu, tham
nhũng, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch
lợi dụng dân tộc, tôn giáo, kích động tư tưởng chia rẽ, gây mất
ổn định chính trị - xã hội.
298
Thực hiện Kế hoạch số 106-KH/BDVTW ngày 31/3/2009
của Ban Dân vận Trung ương về tổ chức hoạt động “Năm dân
vận chính quyền”, Ban Dân vận Tỉnh ủy Bình Dương đã ban
hành Kế hoạch số 18-KH/DV ngày 16/4/2009 và tổ chức triển
khai đến các huyện, thị, đảng ủy trực thuộc, Mặt trận và các
đoàn thể. Việc triển khai Kế hoạch số 18-KH/DV được gắn với
việc phát động phong trào thi đua “Dân vận khéo” và cuộc vận
động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Đồng thời, Ban Dân vận phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh
tổ chức Hội thi “Dân vận khéo khối cơ quan nhà nước - năm
2010” và tổ chức các buổi tọa đàm  “Công tác dân vận chính
quyền trong thời kỳ mới”. Các sự kiện này nhằm mục đích trao
đổi kinh nghiệm về công tác dân vận của các cơ quan nhà nước
trên địa bàn tỉnh và là dịp để chính quyền các cấp đẩy mạnh
công tác dân vận, qua đó mỗi cán bộ, đảng viên đã từng bước
nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm phục vụ Nhân dân
góp phần chấn chỉnh lề lối, tác phong làm việc, thái độ, tinh
thần trách nhiệm trong công tác ngày càng sâu sát với dân,
nắm tâm tư, tình cảm của Nhân dân và tôn trọng ý kiến đóng
góp của Nhân dân, góp phần củng cố lòng tin của Nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước.
Công tác dân vận chính quyền được tỉnh Bình Dương triển
khai theo tinh thần Chỉ thị số 18/2000CT-TTg ngày 21/9/2000,
Chỉ thị số 32/2006/CT-TTg ngày 07/9/2006 của Thủ tướng
Chính phủ và bám sát các đạo luật, các chính sách của Nhà
nước. Mục tiêu của dân vận chính quyền là triển khai cụ thể
để Nhân dân nắm, hiểu rõ chủ trương và kế hoạch của tỉnh,
tạo cơ sở để Nhân dân trong tỉnh thực hiện quyền làm chủ của
mình. Hướng đến phục vụ hiệu quả cho dân, Ủy ban nhân dân
tỉnh đã chỉ đạo các ban ngành, huyện, thị trong tỉnh rà soát,
bổ sung, sửa đổi các quy định nội bộ về quy trình, thủ tục hành
chính không còn phù hợp, gây phiền hà cho việc tiếp nhận và
xử lý công việc của người dân và doanh nghiệp, loại bỏ những
299
khâu trung gian, thủ tục rườm rà, chồng chéo. Cùng với việc
duy trì thường xuyên công tác giáo dục, chấn chỉnh nâng cao
tinh thần thái độ, ý thức phục vụ của cán bộ, công chức, viên
chức, tỉnh đã thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên,
độc lập, khách quan trong nội bộ nhằm khắc phục tình trạng
khép kín, thiếu công khai, minh bạch, dễ phát sinh tiêu cực
trong việc giải quyết các thủ tục hành chính với người dân và
doanh nghiệp.
Từ cuối năm 2006, tất cả các điểm tiếp nhận hồ sơ, tài liệu,
những nơi làm việc với người dân và doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh đều đã thực hiện niêm yết công khai quy trình, thủ
tục, thời hạn giải quyết công việc. Ủy ban nhân dân, Hội đồng
nhân dân thường xuyên tổ chức đối thoại trực tiếp với người
dân. Thực hiện chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, 20/23 sở,
ban, ngành cấp tỉnh; 87/89 xã, phường, thị trấn và 7/7 huyện
thị đã triển khai cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế
“một cửa”. Nhờ đó, tỉnh đã thu hút vốn đầu tư được gần 1,5
tỷ USD, gấp hai lần so với kế hoạch đề ra. Tính đến cuối năm
2006, tỉnh đã thu hút được 4.290 dự án đầu tư trong nước với
tổng số vốn đăng ký trên 22.000 tỷ đồng và 1.295 dự án đầu tư
nước ngoài với tổng vốn đầu tư trên 6,5 tỷ USD, giải quyết việc
làm cho gần 50.000 lao động1.
Bên cạnh đó, công tác dân vận chính quyền luôn kết hợp
chặt chẽ với các chương trình hành động thiết thực, thường
xuyên của tỉnh như: Chương trình hành động thực hiện Luật
Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí; tăng cường công tác đấu tranh chống tham nhũng.
Đồng thời, tỉnh chú trọng củng cố tổ chức công tác tiếp dân;
thành lập Ban Chỉ đạo giải quyết các vụ việc khiếu nại kéo
dài, phức tạp, đông người; thành lập Tổ công tác tiếp dân,

1. Tỉnh ủy Bình Dương - Ban Dân vận: Báo cáo tổng kết công tác dân vận năm
2006 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2007.

300
Đoàn thanh tra để xem xét, thẩm tra, giải quyết các khiếu
nại của dân; thành lập Ban Chỉ đạo giải quyết tranh chấp lao
động tập thể và đình công của công nhân. Riêng năm 2006,
Đoàn thanh tra đã giải quyết 45/50 vụ khiếu nại tập thể, tập
trung đông người, nhất là ở các khu, cụm công nghiệp thuộc Dĩ
An, Thuận An; giải quyết 12/24 vụ khiếu nại phức tạp kéo dài.
Nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả của công tác dân vận chính
quyền, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 37/200/
CT-UBND ngày 21/11/2006 về việc tăng cường công tác dân
vận trên địa bàn tỉnh1.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến người dân
luôn là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên trong hoạt
động dân vận chính quyền. Trong các năm 2005, 2006, các
cấp chính quyền trong tỉnh đã tổ chức 10.951 cuộc phổ biến
giáo dục pháp luật, thu hút trên 724.000 lượt người dân tham
dự; tổ chức cuộc thi viết tìm hiểu Luật Đất đai với trên 44.000
bài tham gia; thành lập thêm 11 Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý
nhằm hỗ trợ người dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong giám
sát hoạt động của chính quyền và xây dựng cộng đồng dân cư
tự quản2.
Một điểm sáng tạo nên thế mạnh của công tác dân vận
chính quyền của Bình Dương được thể hiện trong chính sách
giải phóng mặt bằng và đền bù đất cho dân. Trên thực tế,
việc giải phóng mặt bằng và đất đai thường kéo dài so với kế
hoạch và chịu nhiều khiếu kiện của người dân nhận đền bù.
Nguyên nhân chủ yếu là do khung giá đất đền bù của cơ quan
nhà nước phê duyệt thường chênh lệch nhiều so với giá thị
trường và người dân cảm thấy không công bằng khi đất được

1. Tỉnh ủy Bình Dương - Ban Dân vận: Báo cáo tổng kết công tác dân vận năm
2006 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2007.
2. Tỉnh ủy Bình Dương - Ban Dân vận: Báo cáo tổng kết công tác dân vận năm
2006 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2007.

301
đền bù với giá thấp, nhưng ngay sau đó lại tăng lên nhiều lần
khi được chuyển đổi mục đích sử dụng. Việc giải quyết khiếu
kiện mất rất nhiều thời gian và có thể gây ra sự bức xúc trong
dân chúng. Trong thời gian đó, giá đất giao dịch ở thị trường
tiếp tục tăng thêm càng làm cho việc giải phóng mặt bằng
trở nên khó khăn. Để giải quyết vấn đề này, Bình Dương đã
đưa ra chính sách hoán đổi đất cho người dân ở các khu vực
giải tỏa. Khi một mảnh đất được giao cho phía đền bù, ngoài
số tiền nhận được theo đơn giá và mặt bằng đất ở theo diện
tích bị thu hồi, người dân còn nhận thêm quyền chọn hoán đổi
giữa tiền đền bù và nền đất trong dự án đô thị mới. Nhờ chính
sách này, kết hợp với năng lực của đơn vị giải phóng mặt bằng,
đơn giá đất đền bù thường ít bị thay đổi, việc giải phóng mặt
bằng diễn ra nhanh và hiệu quả. Như trường hợp huyện Bến
Cát, khi tiến hành quy hoạch, phải giải tỏa một diện tích trên
10.000ha, di dời hàng ngàn hộ gia đình đang có cuộc sống ổn
định, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Mặt trận Tổ
quốc đã phối hợp tổ chức nhiều cuộc đối thoại trực tiếp với
người dân để vận động, thuyết phục, xem xét giải quyết từng
đơn thư khiếu nại của người dân một cách hợp tình, hợp lý.
Huyện công khai, minh bạch mọi văn bản quy định về chính
sách bồi thường, giải tỏa, hỗ trợ tái định cư. Nhờ thế, công tác
bồi thường, giải tỏa được thực hiện nhanh chóng và đạt kết
quả tốt đẹp, giúp huyện Bến Cát thực sự chuyển mình trên
bước đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Năm 2007, trong hoạt động dân vận chính quyền Bình
Dương, tỉnh tổ chức Hội thi dân vận khéo khối chính quyền,
thu hút 9 đội thi gồm 7 đội của 7 huyện, thị xã và 2 đảng ủy
khối. 63 cán bộ, công chức đã tham gia hội thi tập trung vào
chủ đề dân vận chính quyền.
Từ năm 2008, công tác dân vận chính quyền được củng cố
qua việc Ủy ban nhân dân tỉnh tập trung thực hiện chương
trình “Năm cải cách hành chính” nhằm thực hiện hiệu quả cơ

302
chế “một cửa” và “một cửa liên thông” tại các sở, ngành, địa
phương; đồng thời, đã phê duyệt 4 đề án trong Đề án 02-212/
TTg về xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận
động chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư. Ủy ban
nhân dân các cấp đã tăng cường tiếp xúc, đối thoại với doanh
nghiệp, người lao động, cán bộ cơ sở để lắng nghe ý kiến đóng
góp của Nhân dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của Nhân
dân, lồng ghép các chương trình, dự án phát triển kinh tế -
xã hội với chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của
Nhân dân1. Hoạt động dân vận chính quyền trong hai năm
2009-2010 đã gắn kết giữa việc triển khai thực hiện “Năm
dân vận chính quyền” với phong trào thi đua “Dân vận khéo”
và cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.
Quá trình thực hiện công tác dân vận của Đảng bộ và
chính quyền giai đoạn 2001-2010 đã góp phần thúc đẩy tiến
trình cải cách hành chính, nâng cao năng lực quản lý của các
sở, ngành, địa phương trong tỉnh. Cải cách thủ tục hành chính
với mô hình “một cửa” đã trở thành khâu đột phá của cải cách
hành chính ở tỉnh Bình Dương trên các lĩnh vực: Thu hút đầu
tư, thành lập doanh nghiệp, xuất nhập cảnh, cấp phép xây
dựng và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, nhà ở, giải
quyết đơn thư khiếu nại của Nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bình Dương
Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bình Dương có nhiệm vụ tập hợp,
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí
về chính trị và tinh thần trong Nhân dân; tuyên truyền, động
viên Nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và

1. Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo của đoàn kiểm tra theo Quyết định số 1240-QĐ/
TW ngày 04/6/2010 về việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Chương trình hành
động số 30-CTr/TU ngày 26/02/2007 của Tỉnh ủy.

303
pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu
dân cử và cán bộ, công chức nhà nước; tập hợp ý kiến, kiến
nghị của Nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Tỉnh ủy và
Ủy ban nhân dân; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền
nhân dân; cùng chính quyền chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của Nhân dân trong tỉnh.
Giai đoạn 2001-2010, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bình
Dương phối hợp với Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận Tỉnh ủy và
các cấp chính quyền triển khai công tác vận động quần chúng
với phương thức chủ động, linh hoạt, hướng về cơ sở nhằm xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với phát triển
kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, thực hiện chính sách xã
hội, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội.
Ngay từ năm 2001, Mặt trận đã tổ chức khảo sát cuộc vận
động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư, xây dựng kế hoạch theo dõi, đôn đốc, kiểm tra đối với từng
mục của nội dung cuộc vận động. Đồng thời, Mặt trận phối hợp
chặt chẽ với các ngành, các cấp, các tổ chức của Hội Liên hiệp
Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân... trong triển khai
vận động. Đến năm 2004, toàn tỉnh đã có trên 70% khu dân cư
đạt danh hiệu Khu dân cư văn hóa, Khu dân cư tiên tiến; 80%
hộ gia đình được công nhận Gia đình văn hóa.
Từ năm 2003, Mặt trận Tổ quốc tỉnh làm nòng cốt trong
việc tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết ở các khu phố, ấp, qua đó,
thu hút Nhân dân tham gia vào các hoạt động đền ơn đáp
nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương và các công
trình phúc lợi ở khu dân cư. Các phong trào “Vì người nghèo”,
“Lá lành đùm lá rách”, Quỹ “Vì người nghèo” đã nhận được sự
hưởng ứng nhiệt tình của Nhân dân. Những năm 2001-2004,
hơn 36.000 lượt hộ nghèo được hỗ trợ vay vốn, giống cây trồng,
vật nuôi, bố trí việc làm. Từ năm 2005, các tổ chức thành viên
304
của Mặt trận có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức
hoạt động hướng đến cơ sở. Nhiều mô hình hoạt động hiệu
quả được nhân rộng như: Chi Hội Thanh niên nhà trọ, Câu
lạc bộ nữ chủ nhà trọ, Câu lạc bộ Cựu quân nhân, Đội Thanh
niên xung kích bắt cướp, Đội xe ôm cứu thương, cứu nạn... Đặc
biệt, Câu lạc bộ nữ chủ nhà trọ phát triển mạnh ở các khu
công nghiệp Thuận An, Dĩ An, Bến Cát... với trên 40 câu lạc
bộ, làm nòng cốt trong tuyên truyền, giáo dục kiến thức pháp
luật, sức khỏe sinh sản, hôn nhân gia đình, an ninh trật tự...
trong Nhân dân, nhất là trong bộ phận lao động nhập cư. Thực
hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”, từ năm 2007 đến năm 2009, Mặt trận các cấp
đã tổ chức hơn 3.000 cuộc học tập, nói chuyện chuyên đề, tổ
chức hội thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong
Nhân dân.
- Công tác vận động của Liên đoàn Lao động
Bình Dương là một tỉnh có tốc độ phát triển nhanh về
công nghiệp, đội ngũ công nhân ngày càng vững mạnh, phát
triển về số lượng gắn với nâng cao nhận thức chính trị, giác
ngộ giai cấp, học vấn, tay nghề, ý thức tổ chức, kỷ luật lao
động với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Do đó, Liên
đoàn Lao động tỉnh Bình Dương xác định nhiệm vụ trọng tâm
trong những năm đầu thế kỷ XXI là tập trung phát triển cả về
tổ chức và tập hợp lực lượng công nhân lao động ở các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh vào tổ chức Công đoàn; giải quyết
tốt các mối quan hệ giữa người lao động với chủ doanh nghiệp,
khắc phục tối đa việc xảy ra tranh chấp lao động không đúng
pháp luật.
Khẩu hiệu hành động của Liên đoàn Lao động tỉnh nhiệm
kỳ 2003 - 2008 (khóa VII) là “xây dựng giai cấp công nhân và
tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động, góp
305
phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh
Bình Dương”1.
Phối hợp với chính quyền, Liên đoàn Lao động các cấp
trong tỉnh triển khai công tác vận động công chức, viên chức
và người lao động bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú
như: Tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, pháp
luật, chính sách của Nhà nước qua các buổi sinh hoạt học tập,
truyền miệng, tổ chức hội thi; các cấp Công đoàn tổ chức triển
khai học tập 5 bài học chính trị cơ bản trong công nhân, viên
chức, lao động; thực hiện cuộc vận động Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Liên đoàn Lao động tỉnh
đã phát hành 800 đĩa VCD, tài liệu học tập tuyên truyền đến
các cấp Công đoàn. Đến cuối năm 2007, đã có trên 70.000 cán
bộ, công chức, viên chức, lao động tham gia học tập. Các cấp
Công đoàn tổ chức nhiều hoạt động như thi báo cáo viên về tư
tưởng Hồ Chí Minh, thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, hội thi ban nữ công giỏi, hội thi an toàn vệ sinh viên
giỏi... góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, công nhân,
viên chức về đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và
trách nhiệm của bản thân trong thời kỳ đổi mới của đất nước.
Văn phòng tư vấn pháp luật Liên đoàn Lao động tỉnh được
thành lập từ năm 2004 đã có 19 tổ tư vấn thực hiện tiếp xúc,
tư vấn trực tiếp cho 1.838 trường hợp, nội dung chủ yếu về
việc thực hiện hợp đồng lao động, sa thải, chế độ trợ cấp thôi
việc. Trung tâm giới thiệu việc làm Liên đoàn Lao động tỉnh
được thành lập từ năm 2002 đã giới thiệu 12.282 hồ sơ, 8.871
trường hợp được tuyển và liên kết với các tỉnh cung ứng 1.988
lao động cho các doanh nghiệp và tư vấn việc làm cho hàng
ngàn người lao động.
Ngoài ra, Liên đoàn Lao động còn tổ chức các phong trào

1. Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Dương: Lịch sử phong trào
công nhân, viên chức, lao động và Công đoàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 1975 - 2008,
2010, tr.70.

306
thi đua yêu nước trong công nhân, viên chức, lao động, trọng
tâm là phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo,
phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Các phong trào như:
“Giỏi việc nước, đảm việc nhà”; “Xanh - sạch - đẹp”, “Bảo
đảm an toàn vệ sinh lao động”, “Trung thành, sáng tạo, tận
tụy, gương mẫu”, xây dựng cơ quan, đơn vị an toàn. Phong
trào thi đua “Liên kết phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và phát triển nông thôn”; đặc biệt là Chương
trình hành động của Tỉnh ủy về tiếp tục xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Đến cuối năm 2009, Liên đoàn Lao động tỉnh đã vận động
thành lập được trên 65% Công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh,
với khoảng trên 70% công nhân lao động tham gia.
- Công tác vận động của Hội Nông dân

  Là một tỉnh có tốc độ đô thị hóa nhanh, đến những năm


đầu thế kỷ XXI, Bình Dương chỉ còn 20,13 % dân số sống ở
vùng nông thôn, với 494.347 người. Hội Nông dân tỉnh với
chức năng và nhiệm vụ của mình luôn xác định rõ trách nhiệm
chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nông
dân, từ đó làm công tác vận động nông dân hiệu quả.
Giai đoạn 2001-2010, công tác dân vận của Hội Nông dân
các cấp trong tỉnh hướng vào các trọng tâm: Tuyên truyền,
giáo dục cho cán bộ, hội viên, nông dân hiểu biết đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Nghị
quyết, Chỉ thị của Hội; khơi dậy và phát huy truyền thống
yêu nước, ý chí cách mạng, tinh thần tự lực tự cường, lao động
sáng tạo của nông dân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Hội triển khai vận động, tập hợp và làm nòng cốt trong
tổ chức các phong trào nông dân phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, xây dựng nông thôn mới, xây dựng gia đình nông dân
văn hóa; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của hội viên,
307
nông dân. Ngày 25/3/2008, Hội Nông dân tỉnh đã xây dựng
Kế hoạch số 93/KH-HND nhằm thực hiện Chương trình hành
động của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X về công tác dân vận. Các cấp hội là thành viên
tích cực tham gia hoạch định và thực hiện các chính sách,
pháp luật, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà
nước ở nông thôn; tham gia xây dựng kinh tế hợp tác, hợp tác
xã tổ chức các hoạt động dịch vụ hỗ trợ nông dân và vận động
nông dân thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, tham gia
phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc; tăng cường công tác hòa
giải, gạt bỏ những định kiến, mâu thuẫn; giữ gìn đoàn kết
trong nội bộ nông dân; góp phần giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội; chống quan liêu, tham nhũng, mất dân
chủ và các tệ nạn xã hội.
Thông qua các chương trình hoạt động và các phong trào
thi đua mang tính đặc thù gắn với đời sống sinh hoạt và sản
xuất của nông dân, Hội Nông dân tỉnh tổ chức triển khai thực
hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn; đồng thời triển khai các chương trình vận động
thiết thực, như: Chương trình phát triển đàn trâu bò sinh sản,
phong trào xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, phong trào
xây dựng Quỹ hỗ trợ nông dân, hội thi Nhà nông đua tài, hội
thi Nông dân tìm hiểu pháp luật, phong trào nông dân sản
xuất giỏi, kinh doanh giỏi, Hội thao nông dân,... để vận động
nông dân tham gia xây dựng nông thôn mới.

- Công tác vận động của Hội Liên hiệp Phụ nữ

Lực lượng phụ nữ ở Bình Dương chiếm 51,65% dân số và


trên 52% lực lượng lao động của tỉnh. Công tác dân vận của
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh giai đoạn 2001-2010 gắn liền với
các phong trào thi đua do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát
động: Phong trào thi đua  Phụ nữ tích cực học tập, lao động
308
sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc; Cuộc vận động Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; vận động
các tổ chức, cá nhân ủng hộ xây dựng “Mái ấm tình thương”
cho phụ nữ nghèo.

Nhằm thu hút chị em phụ nữ tham gia làm công tác dân
vận, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh đã hướng dẫn chị em đăng
ký xây dựng các mô hình “Dân vận khéo” gắn với các phong
trào thi đua; triển khai hỗ trợ vốn, đào tạo nghề cho lao động
nữ, nhất là nữ ở nông thôn và các xã nông thôn mới thuộc các
huyện Dầu Tiếng, Phú Giáo, Thuận An. Hội phối hợp với các
cấp chính quyền, các đoàn thể xã hội và các cơ quan truyền
thông tuyên truyền về các mô hình, các cách làm mới, sáng
tạo, các gương điển hình ở các địa phương.
- Công tác vận động của Đoàn Thanh niên

Lực lượng thanh niên của tỉnh Bình Dương chiếm 45,2%
dân số tỉnh, trong đó thanh niên lao động nhập cư chiếm
khoảng 2/3. Cùng với đà phát triển công nghiệp, số lượng
thanh niên tập trung ở khu vực đô thị tăng nhanh trong giai
đoạn 2001-2010, trong khi đó số lượng thanh niên ở khu vực
nông thôn ngày càng giảm. Do đặc điểm của thanh niên là
luôn hăng hái, tiên phong trong các phong trào xung kích xây
dựng kinh tế, xã hội, văn hóa, nên tình trạng thanh niên thất
nghiệp ở Bình Dương rất thấp.
Công tác vận động thanh niên ở tỉnh Bình Dương những
năm đầu thế kỷ XXI được ghi nhận thông qua các phong
trào tiêu biểu. Từ năm 2002, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh phát động phong trào Thi đua, tình nguyện xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ năm 2007, tập trung triển khai
hai phong trào lớn là: Năm xung kích phát triển kinh tế - xã
hội và bảo vệ Tổ quốc và Bốn đồng hành với thanh niên lập
309
thân, lập nghiệp1.

Thông qua các đề án, dự án và các phong trào thi đua yêu
nước, Đoàn Thanh niên tỉnh đã triển khai hiệu quả Chương
trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện các nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
VIII; đồng thời, gắn với việc triển khai thực hiện Nghị quyết
số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 của Ban Chấp hành Trung ương
(khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đoàn Thanh niên tỉnh đã vận động thanh niên tham gia tích
cực cuộc vận động Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời
Bác; tổ chức các hình thức: Viết Nhật ký thanh niên làm theo
lời Bác, Sổ vàng làm theo lời Bác; tổ chức các hội thi thanh niên
với Đảng, Đảng với thanh niên; cuộc thi tìm hiểu Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. Bên cạnh đó,
các hoạt động tuyên truyền, giáo dục cũng luôn được triển khai
nhằm giáo dục truyền thống cho thanh niên như: Thắp nến tri
ân, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Thanh niên sống
đẹp, sống có ích, Thanh niên có nghĩa cử đẹp... Năm 2007,
tỉnh đoàn phát động thanh niên thực hiện đề án Tăng cường
công tác đoàn kết tập hợp thanh niên công nhân khu nhà trọ
giai đoạn 2007-2010, đề án Phổ cập và nâng cao kiến thức tin
học cho thanh niên và cán bộ Đoàn, Hội, Đội tỉnh Bình Dương

1. Năm xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, gồm:
Xung kích lao động sáng tạo, phát triển kinh tế - xã hội
Xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng
Xung kích bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
Xung kích thực hiện cải cách hành chính
Xung kích trong hội nhập kinh tế quốc tế
Bốn đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp:
Đồng hành với thanh niên trong học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn,
nghiệp vụ
Đồng hành với thanh niên trong nghề nghiệp và việc làm
Đồng hành với thanh niên trong nâng cao sức khỏe thể chất và đời sống văn hoá
tinh thần
Đồng hành với thanh niên trong phát triển kỹ năng xã hội.

310
đến năm 2010 và đề án Thanh niên xung phong Bình Dương
tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông. Năm 2008, Tỉnh
đoàn triển khai đề án Hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc
làm cho giai đoạn 2008-2010... Ở khu vực nông thôn, công tác
vận động thanh niên tập trung vào phong trào Tuổi trẻ chung
sức xây dựng nông thôn mới và thắp sáng đường quê với các
hoạt động thiết thực như chỉnh trang hệ thống chiếu sáng các
tuyến đường, dặm vá các tuyến đường nông thôn, trồng cây
xanh...
Với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, Đoàn Thanh
niên tỉnh Bình Dương đã làm tốt vai trò nòng cốt trong phong
trào thanh niên, đoàn kết tập hợp thanh niên, nhất là thanh
niên công nhân trong các khu, cụm công nghiệp, hình thành
các tổ chức quần chúng của thanh niên như Hội Sinh viên, Hội
Doanh nhân trẻ, Câu lạc bộ Thầy thuốc trẻ. Qua đó, phối hợp
với chính quyền, các ban ngành, đoàn thể làm tốt công tác dân
vận trong thanh niên.
- Công tác dân vận của Hội Cựu chiến binh

Trên địa bàn tỉnh Bình Dương có gần 12.000 cựu chiến
binh. Hằng năm con số này đều tăng nhẹ do đón nhận thêm
các cựu chiến binh xuất ngũ, về hưu và chọn Bình Dương làm
nơi sinh sống và các cán bộ, chiến sĩ sau khi hoàn thành nhiệm
vụ, xuất ngũ trở về địa phương. 95% cựu chiến binh trong tỉnh
tham gia sinh hoạt trong tổ chức Hội Cựu chiến binh hoặc các
Câu lạc bộ Cựu quân nhân ở cơ sở (211 câu lạc bộ với khoảng
trên 5.000 hội viên).

Phát huy truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, Hội Cựu chiến binh
luôn chủ động tích cực đi đầu trong các hoạt động vận động
quần chúng, góp ý kiến xây dựng Đảng bộ, chính quyền; thu
thập ý kiến, nguyện vọng của quần chúng ở địa bàn dân cư để
kịp thời phản ánh lên Đảng bộ và chính quyền các cấp. Trong
311
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Hội luôn đóng vai trò tích
cực trong đóng góp xây dựng các quy chế, quy ước, ký kết liên
tịch với cơ quan công an, quân sự để giữ vững an ninh, trật
tự ở cơ sở. Công tác vận động thanh niên nhập ngũ làm nghĩa
vụ quân sự; công tác tuần tra, canh gác giữ gìn trật tự ở địa
phương; công tác tuyên truyền chống diễn biến hòa bình... là
các hoạt động thường xuyên của Hội.
Hội còn tích cực vận động hội viên tham gia phong trào
Xóa đói, giảm nghèo, phong trào toàn Hội tích cực làm kinh tế,
phát triển sản xuất kinh doanh, quyết tâm tự lực vươn lên xóa
đói, giảm nghèo; giúp đỡ những gia đình hội viên có hoàn cảnh
khó khăn; quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
cho hội viên. Qua các hoạt động thiết thực, công tác dân vận
được triển khai một cách hiệu quả đến hội viên cùng gia đình
họ cũng như đến quần chúng.
- Công tác dân vận của lực lượng vũ trang
Quán triệt Nghị quyết số 152-NQ/ĐUQSTW ngày 01/8/2003
của Đảng ủy Quân sự Trung ương về tiếp tục đổi mới và tăng
cường công tác dân vận của lực lượng vũ trang trong thời kỳ
mới, Nghị quyết số 02-NQ/ĐU của Đảng ủy Quân khu 7 về
tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác dân vận của lực lượng
vũ trang trong thời kỳ mới và Nghị quyết số 20-NQ/ĐU của
Đảng ủy Quân sự tỉnh về tiếp tục đổi mới và tăng cường công
tác dân vận của Lực lượng vũ trang tỉnh trong thời kỳ mới, Bộ
Chỉ huy Quân sự tỉnh Bình Dương đã đưa công tác dân vận
vào nghị quyết lãnh đạo hằng tháng, hằng quý và hằng năm
của hệ thống đảng bộ, Chi bộ cơ sở trong lực lượng.
Tham gia công tác dân vận không chỉ có lực lượng thường
trực mà còn mở rộng đến lực lượng dự bị động viên trong thời
gian tập trung huấn luyện và lực lượng dân quân tự vệ. Ban
Chỉ huy Quân sự tỉnh đã khéo léo gắn hoạt động dân vận của
lực lượng vào với phong trào thi đua “Dân vận khéo”, “Năm
312
dân vận chính quyền” và cuộc vận động Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn thể cán bộ, chiến
sĩ thuộc lực lượng vũ trang của tỉnh. Đồng thời, Ban Chỉ huy
Quân sự tỉnh phối hợp với Ban Dân vận Tỉnh ủy và các đoàn
thể quần chúng tổ chức các hoạt động vận động quần chúng
theo chủ đề như phổ biến kiến thức quốc phòng - an ninh;
tuyên truyền, phổ biến đường lối quốc phòng toàn dân.
Các hoạt động dân vận có ý nghĩa thiết thực như: Công tác
tuyên truyền (tổ chức tuyên truyền trong Nhân dân những
chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước; tuyên truyền Luật Nghĩa vụ quân sự; tuyên truyền
về truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam); công tác
hội trại giao quân hằng năm; công tác giúp dân, đền ơn đáp
nghĩa (các đơn vị quân sự, Trường Sĩ quan Công binh đóng
góp ngày công lao động, làm đường giao thông nông thôn, xây
dựng nhà đại đoàn kết, đào kênh mương; tổ chức khám chữa
bệnh, thăm hỏi các gia đình chính sách, Mẹ Việt Nam anh
hùng, sửa chữa nhà cửa cho dân...) đã góp phần củng cố mối
quan hệ quân dân.
Hằng năm, Đảng ủy công an tỉnh đều triển khai xây dựng
nghị quyết về thực hiện công tác xây dựng lực lượng gắn với
các nội dung của Chương trình hành động số 30-CTr/TU, quán
triệt quan điểm, đường lối theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X về công tác dân vận, xây dựng khối đại đoàn
kết, phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Đồng thời, nội dung
của Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg ngày 21/9/2000 của Thủ tướng
Chính phủ; Chỉ thị số 13/2001/CT-BCA ngày 11/10/2001 của
Bộ trưởng Bộ Công an; Chỉ thị số 37/2006/CT-UBND ngày
21/11/2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương về công
tác dân vận cho cán bộ, chiến sĩ các phòng, ban, trại và các
đơn vị ở các huyện, thị đều được Đảng ủy công an tỉnh triển
khai, cụ thể hóa để hướng dẫn cán bộ, chiến sĩ công an tham
gia công tác dân vận. Phối hợp với Ban Dân vận tỉnh ủy, các
313
cấp đảng bộ công an trong tỉnh đã xây dựng kế hoạch triển
khai công tác dân vận, như: Kế hoạch số 20-KH/BDV-CATBD
ngày 11/5/2009 về phối hợp thực hiện công tác dân vận từ năm
2009-2010.

Đảng ủy công an tỉnh Bình Dương phối hợp với Mặt trận
Tổ quốc, các thành viên và Hội đồng bảo vệ an ninh trật tự
củng cố các tổ nhân dân tự quản, tổ dân phố để tuyên truyền,
vận động các tầng lớp nhân dân trong tỉnh thực hiện chương
trình quốc gia phòng, chống tội phạm, phòng chống ma túy;
gắn công tác dân vận của ngành vào các hoạt động cụ thể ở
địa bàn dân cư như: Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc
và phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
ở khu dân cư. Đặc biệt, lực lượng công an tỉnh làm nòng cốt
trong triển khai thực hiện Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg ngày
02/02/2004 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác
bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới; tham
mưu cho Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các ngành,
các cấp giải quyết các vụ tranh chấp khiếu kiện phức tạp, đông
người; các vụ đình công, lãn công. Công tác phối hợp giữa công
an tỉnh với các địa bàn dân cư luôn được coi trọng, nhằm bảo
vệ tốt trật tự xã hội, an toàn cho người dân, như: Phối hợp với
huyện Dầu Tiếng xây dựng mô hình “Tổ xe ôm tự quản về an
ninh trật tự”, phối hợp với huyện Thuận An xây dựng đề án
Vai trò chủ nhà trọ trong công tác bảo đảm an ninh trật tự;
triển khai các đợt truy quét các loại tội phạm, giữ vững an
ninh chính trị. Đến cuối năm 2009, lực lượng công an tỉnh đã
phối hợp với chính quyền các cấp và Nhân dân địa phương xây
dựng được 89 câu lạc bộ phòng, chống tội phạm; 152 chi Hội
Phụ nữ nhà trọ; 91 chi Hội Thanh niên nhà trọ; 30 câu lạc bộ
quản lý chồng, con, em không phạm tội và mắc tệ nạn xã hội;
43 tổ xe ôm tự quản bảo vệ an ninh trật tự với hàng chục ngàn
314
hội viên tham gia1.
Ngoài ra, lực lượng công an tỉnh còn tham gia tích cực
trong công tác vận động giáo dân chấp hành đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; là lực
lượng nòng cốt tham gia cùng các cấp chính quyền, Mặt trận
và các đoàn thể giải quyết, ngăn chặn các thế lực thù địch kích
động người dân, nhất là công nhân trong các doanh nghiệp
nước ngoài tham gia khiếu kiện đông người, gây rối trật tự,
góp phần tạo tâm lý an tâm, tin tưởng của các doanh nghiệp
vào môi trường đầu tư của tỉnh.
- Công tác tôn giáo, dân tộc và người Hoa
Trên địa bàn tỉnh Bình Dương có 1,729 hộ với 7.621 nhân
khẩu thuộc 16 dân tộc thiểu số phân bố ở 82/89 xã, phường,
thị trấn; người Hoa trong tỉnh có 2.239 hộ với 10.747 nhân
khẩu. Ngoài ra, ở xã Minh Tân, huyện Dầu Tiếng còn 432 hộ
với 1.661 nhân khẩu là Hoa kiều (quốc tịch Campuchia) sang
tỵ nạn từ năm 19792.
Công tác dân vận đối với đồng bào dân tộc thiểu số được
Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân và Ban Dân vận Tỉnh ủy quán triệt
theo tinh thần Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của
Ban Chấp hành Trung ương về công tác dân tộc với phương
châm: “Chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững
chắc; sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù của từng
dân tộc, từng địa phương”3.
Ngay từ năm 2001, tỉnh đã đầu tư 6,6 tỷ đồng để thực hiện

1. Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo kết quả kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo triển
khai thực hiện Chương trình hành động số 30-CTr/TU ngày 26/02/2007 của Tỉnh ủy
thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X về công tác dân vận ngày
04/6/2010.
2. Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo về đổi mới phương thức hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh Bình Dương ngày
14/8/2007.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.62, tr.55.

315
các dự án thuộc Chương trình 135, xây dựng trung tâm cụm
xã, dự án kinh tế mới, xây dựng phòng khám đa khoa, sửa
chữa đường giao thông nông thôn; hỗ trợ lương thực, tấm lợp,
phân bón cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở các huyện. Đồng
thời, các cấp ủy và chính quyền ở địa phương quan tâm chỉ
đạo các ngành chức năng phối hợp với Mặt trận và các đoàn
thể tổ chức tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước đến đồng bào; vận động đồng bào tham gia các
phong trào thi đua yêu nước, hưởng ứng cuộc vận động Toàn
dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới.
Trong giai đoạn 2001-2010, các chương trình, dự án phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số
luôn được đặt làm trọng tâm trong công tác dân vận. Năm
2004, Chương trình 134 chính thức được triển khai, mục đích
là hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ
đồng bào thiểu số. Bà con người Khmer ở xã An Bình, huyện
Phú Giáo đã được chính quyền hỗ trợ định canh định cư ổn
định. Bà con người Chăm định cư tại xã Minh Hòa, huyện
Dầu Tiếng được hỗ trợ khuyến nông, xóa đói, giảm nghèo, hỗ
trợ con giống, cây giống. Bà con các dân tộc Tày, Nùng, Mán,
Mường... ở vùng sâu, vùng xa được hỗ trợ từ Chương trình 135
để phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng
các mô hình sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi gia
súc, gia cầm hiệu quả. Tỉnh cũng đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng thiết yếu cho các xã vùng sâu, vùng xa, làm đường dân
sinh, làm hệ thống điện hạ thế, xây dựng hệ thống cấp nước
sạch cho đồng bào; xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng phù hợp
với phong tục tập quán của người dân; cung cấp dịch vụ y tế,
giáo dục để chăm lo sức khỏe và nâng cao dân trí cho đồng bào;
miễn giảm học phí cho con em đồng bào dân tộc, xét cử tuyển
con em đồng bào dân tộc vào các trường đại học,... Kết quả là
trong các cộng đồng đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh không
còn hộ đói, số hộ nghèo giảm còn 5,05% (riêng đối với đồng bào
316
Chăm không còn hộ nghèo). Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội
ở khu vực đồng bào thiểu số được nâng cao. 100% thôn, ấp có
đường giao thông và điện lưới quốc gia. 92% trẻ em đến tuổi
đi học được đến trường và được miễn học phí; học sinh khá
giỏi được cấp học bổng; sinh viên ra trường được giải quyết
việc làm. Bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc được
khuyến khích bảo tồn và phát huy1.
Cộng đồng người Hoa ở Bình Dương có đặc điểm là số lượng
tương đối đông, sống tập trung ở các thị xã, thị trấn nơi có hoạt
động kinh tế phát triển, an cư sinh sống, ổn định lâu đời. Lĩnh
vực hoạt động sản xuất chủ yếu của người Hoa ở Bình Dương
là thủ công nghiệp (gốm, sứ), thương nghiệp và dịch vụ. Người
Hoa ở Bình Dương không có hộ nghèo. Bà con có truyền thống
đoàn kết với các cộng đồng dân cư trong tỉnh, tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng và chính quyền, luôn chấp hành tốt các chủ
trương, chính sách, pháp luật và có đóng góp tích cực vào công
cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Từ năm 2006, khi tỉnh thực hiện chủ trương di dời các lò gốm
sứ, lò gạch gây ô nhiễm môi trường ở thị xã Thủ Dầu Một và
một số khu vực thuộc huyện Thuận An, thị trấn Tân Phước
Khánh (Tân Uyên) đến khu quy hoạch mới ở phía bắc huyện
Tân Uyên, công tác vận động bà con người Hoa đã được tỉnh
triển khai thận trọng, hợp tình hợp lý. Tuy nhiên, có những
khó khăn nhất định trong quá trình vận động di dời như giá
đất trong khu quy hoạch cao, giao thông đi lại không thuận
lợi, thiếu vốn sản xuất... nên ảnh hưởng không ít đến tiến độ.
Vì thế, đa số bà con đã chuyển đổi ngành nghề kinh doanh để
ổn định cuộc sống.
Nhằm đáp ứng nguyện vọng của bà con người Hoa, Thường
trực Tỉnh ủy, Ban Dân vận Tỉnh ủy đã thống nhất với Ủy ban

1. Ban Dân vận Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo tổng kết công tác dân vận năm
2005, phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2006 ngày 14/02/2006.

317
Mặt trận Tổ quốc tỉnh và phối hợp với Sở Nội vụ hướng dẫn bà
con người Hoa thành lập Ban Liên lạc người Hoa trong tỉnh1.
Hoạt động sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Hoa luôn
được các cấp chính quyền và Ban Dân vận các cấp quan tâm,
tạo điều kiện để bà con phát huy những giá trị văn hóa cộng
đồng tốt đẹp như tổ chức các lễ hội cộng đồng, đặc biệt là lễ hội
Chùa Bà Thiên Hậu, tham gia lễ hội văn hóa người Hoa tại
Thành phố Hồ Chí Minh...
Về tình hình tôn giáo, trên địa bàn tỉnh có 6 tôn giáo hoạt
động với trên 130.000 tín đồ, chiếm 13% dân số toàn tỉnh,
gồm: Phật giáo (63.023 tín đồ), Công giáo (61.610 tín đồ), Tin
lành (3.548 tín đồ), Cao Đài (3.818 tín đồ), Phật giáo Hòa Hảo
(1.085 tín đồ) và Hồi giáo (350 tín đồ). Số lượng cơ sở thờ tự là
trên 240 cơ sở, với gần 800 chức sắc, tu sĩ. Từ năm 2006, Ủy
ban nhân dân tỉnh đã cho phép hệ phái Tịnh độ Cư sĩ Phật hội
và hệ phái Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi được phép
hoạt động trên địa bàn tỉnh.
Đối với công tác dân vận tôn giáo, tỉnh Bình Dương bám
sát 5 quan điểm về công tác tôn giáo đã được đề ra từ Nghị
quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo, thực hiện nhất quán
chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, đại đoàn kết đồng bào
theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; nghiêm cấm
phân biệt đối xử với người có đạo; đồng thời nghiêm cấm việc
lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín, dị
đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Nhìn chung, các tôn giáo hoạt động trên địa bàn tỉnh Bình
Dương đều tuân thủ luật pháp và những quy định của Đảng
và Nhà nước cũng như của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh.
Thông qua các tổ chức tôn giáo như Ủy ban đoàn kết Công

1. Ban Dân vận Tỉnh ủy: Báo cáo tổng kết công tác dân vận năm 2006, phương
hướng, nhiệm vụ công tác năm 2007 ngày 09/01/2007.

318
giáo, Ban trị sự Tỉnh Hội Phật giáo và đội ngũ chức sắc tôn
giáo, công tác dân vận được triển khai đến đồng bào theo đạo
trên tinh thần “tốt đạo, đẹp đời”, “sống phúc âm giữa lòng
dân tộc”. Ban Dân vận phối hợp với Mặt trận Tổ quốc giữ mối
liên hệ thường xuyên với các vị chức sắc tôn giáo để kịp thời
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đồng bào theo các tôn giáo
trong tỉnh. Qua đó, đồng bào có đạo đã tích cực tham gia vào
các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh; hưởng ứng và
tham gia tích cực vào các phong trào xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư, phong trào bảo vệ an ninh trật tự xã hội,
phong trào giúp nhau làm kinh tế, xóa đói, giảm nghèo và các
phong trào từ thiện.
Ban Dân vận Tỉnh ủy phối hợp với các ngành, các cấp
trong tỉnh chăm lo, tạo điều kiện cho các tôn giáo được hoạt
động thuận lợi, đúng quy định, như: Hướng dẫn, triển khai các
văn bản quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo; hỗ trợ
các công tác bổ nhiệm, phong chức, xây dựng, sửa chữa cơ sở
thờ tự đúng pháp luật. Năm 2006, tỉnh hỗ trợ hệ phái Tịnh độ
Cư sĩ Phật hội Việt Nam thành lập Ban Đại diện và xây dựng
chương trình hành động; hỗ trợ bà con theo đạo Tin lành ở xã
Bạch Đằng, huyện Tân Uyên được sinh hoạt tôn giáo tại nhà
riêng của ông Lê Văn Cườm; hỗ trợ các họ đạo thuộc các hệ
phái Cao Đài tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2006-2010, bầu ra các
Ban cai quản họ đạo; theo dõi sát sao, giải thích và ngăn chặn
kịp thời những vướng mắc trong tranh chấp đất đai của một
số cơ sở thờ tự như chùa Bùi Bửu, chùa Thiên Ân Thiền viện
(thuận An), Cao Đài Phú Chánh (Tân Uyên) và trong hoạt
động truyền đạo của một số hệ phái Tin lành chưa có tư cách
pháp nhân...
*
* *
Giai đoạn 2001-2010, được sự chỉ đạo sâu sát của Thường
319
vụ Tỉnh ủy, Ban Dân vận Tỉnh ủy Bình Dương đã được kiện
toàn, củng cố thêm về cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ. Hệ thống
Ban Dân vận các cấp phát huy vai trò của mình, đã tập trung
triển khai các hoạt động vận động quần chúng bám sát tinh
thần của các nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII và
lần thứ VIII; nội dung Chỉ thị số 37/2006/CT-UBND về tăng
cường công tác dân vận trên địa bàn tỉnh và Chương trình
hành động số 30-Ctr/TU. Sau các kỳ Đại hội Đảng bộ các cấp,
Ban Dân vận, khối dân vận, các Ban Chỉ đạo (công tác tôn
giáo, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở), khối dân vận lực lượng
vũ trang đều xây dựng quy chế làm việc, quy chế phối hợp giữa
các đơn vị và phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhằm phát huy hiệu quả công tác vận động quần chúng tham
gia tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng - an ninh và quá trình hội nhập quốc tế của tỉnh.
Một trong những trọng tâm của công tác dân vận trong
giai đoạn 2001-2010 là công tác dân vận của chính quyền theo
chủ đề “Năm dân vận chính quyền” nhằm nâng cao hiệu quả
công tác dân vận chính quyền trong các cơ quan nhà nước, xác
lập và tăng cường mối quan hệ hoạt động giữa Ủy ban nhân
dân tỉnh và Ban Dân vận Tỉnh ủy trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ chính trị ở địa phương; bảo đảm thực hiện tốt các
chủ trương, chính sách liên quan đến công tác dân vận, góp
phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Công tác dân
vận chính quyền được kết hợp với phong trào thi đua “Dân
vận khéo” và gắn với cuộc vận động Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh đã phát huy được vai trò của công
tác dân vận, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong
việc tổ chức thực hiện chính sách phát triển xã hội; đẩy mạnh
cải cách hành chính nhằm tăng cường công khai dân chủ với
Nhân dân, giảm bớt phiền hà cho dân; đồng thời, qua đó triển
khai thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy dân chủ và
320
thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.

III. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC DÂN VẬN ĐÁP ỨNG


YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ (2010-2020)

1. Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị
trong thời kỳ mới

Bước sang thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, tình hình kinh
tế - xã hội của tỉnh Bình Dương tiếp tục chuyển biến tích cực.
Theo đánh giá tại báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ IX: Tổng sản phẩm (GDP) tăng bình quân hằng năm
14%, gần gấp đôi so với mức tăng bình quân cả nước; cơ cấu
kinh tế chuyển dịch đúng hướng với tỷ trọng: Công nghiệp
chiếm 63%, dịch vụ chiếm 32,6% và nông nghiệp chiếm 4,4%.
Nếu so với thời điểm 2005 thì dịch vụ tăng 4,5%, công nghiệp
giảm 0,5% và nông nghiệp giảm 4%. Thu nhập bình quân đầu
người đạt 30,1 triệu đồng, cao gấp 2,2 lần so với năm 2005.
Hằng năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 20%;
kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 22,9% /năm và đạt 8,5
tỉ USD vào năm 2010 gấp 2,8 lần năm 2005. Tỉnh phát triển
thêm 13 khu công nghiệp (thành 28 khu công nghiệp), nâng
tổng diện tích các khu công nghiệp lên 8.751ha (gấp 2,7 lần
năm 2005) và có 24 khu công nghiệp đi vào hoạt động với trên
1.200 doanh nghiệp trong và ngoài nước đang sản xuất kinh
doanh (gấp 1,8 lần năm 2005). Tổng thu ngân sách tăng bình
quân 24,3%/năm và năm 2010 ước đạt 16 ngàn tỉ đồng, tăng
gấp 3 lần năm 2005. Toàn tỉnh hiện có 1.922 dự án FDI với
vốn hơn 13 tỉ USD góp phần giúp tỉnh đạt thứ hạng cao về chỉ
số năng lực cạnh tranh so với các tỉnh thành... Văn hóa - xã
hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống
vật chất tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện.
Tỉnh có 369 đơn vị trường học với khoảng 215.000 học sinh, so
với năm 2005, tăng 58 trường và 25.000 học sinh. Các chương
321
trình mục tiêu về y tế quốc gia thực hiện có hiệu quả, tỉ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng là 14%, giảm 5% so năm
2005. Tỉnh đã có 100% trạm y tế xã có bác sĩ phục vụ, 96,7%
xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế... Hằng năm,
có 46.000 lao động được giải quyết việc làm, tỉ lệ lao động qua
đào tạo nghề đạt 60%. Năm 2008, tỉnh cơ bản không còn hộ
nghèo và năm 2010, còn 2% hộ nghèo so tiêu chí mới1. Báo cáo
chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X cho biết trong 5
năm 2010-2015, tỉnh duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
GDP bình quân 5 năm tăng 13% tương ứng theo cách tính mới
GRDP thì tăng 8,3%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng,
tăng tỷ trọng dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp, đến năm
2015, cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp lần
lượt đạt 60% - 37,3% - 2,7% tương ứng cơ cấu kinh tế (tính
theo GRDP) là: công nghiệp chiếm 62,8%, dịch vụ chiếm 24%,
nông nghiệp chiếm 4%. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm
là 9,2%. GDP bình quân đầu người vượt kế hoạch đề ra, cuối
năm 2015 là 95,6 triệu đồng/người2. Đến cuối năm 2019, tỉnh
đã phát triển được 29 khu công nghiệp với diện tích 12.743ha,
12 cụm công nghiệp với diện tích 790ha, trong đó 9 cụm công
nghiệp đã đi vào hoạt động. Bình Dương trở thành tỉnh đứng
thứ ba (sau Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh) về
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, với tổng vốn lên đến 30,73 tỷ
USD.
Những thành tựu này có được là nhờ sự đóng góp quan
trọng từ công tác dân vận. Ban Dân vận tỉnh ủy, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể tiếp tục được đổi mới, hướng mạnh về cơ
sở, cụ thể là: Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác dân vận trong tình hình mới; nội dung, phương

1. Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình
Dương lần thứ IX.
2. Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình
Dương lần thứ X, nhiệm kỳ 2015-2020.

322
thức lãnh đạo được đổi mới, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các
lực lượng, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ X đã đề ra
phương hướng và nhiệm vụ của công tác dân vận trong giai
đoạn mới là: Tiếp tục phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; nâng cao hiệu quả công tác dân vận, phát huy
vai trò phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền,
phát triển kinh tế - xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội. Phương thức lãnh đạo của Đảng, quản
lý của Nhà nước đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội tiếp tục được tăng cường và đổi mới theo hướng
tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã
hội chủ động trong hoạt động theo mục tiêu gần dân, sát dân
hơn. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phù hợp với tình hình mới.
Chương trình giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền được xây dựng và thực hiện hiệu
quả. Tỉnh tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo
dục truyền thống, lý tưởng, đạo đức cách mạng cho đoàn viên,
hội viên và Nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, lực lượng công nhân1.
Công tác dân vận của tỉnh Bình Dương thời kỳ 2010-2020
có thêm thuận lợi nhờ sự bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản
của Trung ương và của tỉnh, gồm: Quy chế công tác dân vận
của hệ thống chính trị, ban hành kèm theo Quyết định số 290-
QĐ/TW ngày 25/02/2010 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 25-
NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác dân vận trong tình hình mới; Quy chế phối hợp hoạt động
giữa Ủy ban nhân dân tỉnh và Ban Dân vận Tỉnh ủy về công

1. Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh
Bình Dương lần thứ X, nhiệm kỳ 2015-2020.

323
tác dân vận, ban hành kèm theo Quyết định số 1978-UBND-
BDV ngày 08/7/2011; Kế hoạch thực hiện Quy chế phối hợp
hoạt động giữa Ủy ban nhân dân tỉnh và Ban Dân vân Tỉnh
ủy về công tác dân vận của chính quyền năm 2013, ban hành
kèm theo Quyết định số 952-UBND-BDV ngày 15/4/2013;
Chương trình hành động số 69-CTHĐ/TU của Tỉnh ủy thực
hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 về tăng cường
và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận
trong tình hình mới; Kế hoạch thực hiện Quy chế phối hợp
hoạt động giữa Ủy ban nhân dân tỉnh và Ban Dân vận Tỉnh ủy
về công tác dân vận của chính quyền năm 2015, ban hành kèm
theo Quyết định số 1472-UBND-BDV ngày 14/5/2015; Quyết
định số 312-QĐ/TU ngày 20/12/2016 về Quy chế đối thoại giữa
người đứng đầu cấp ủy, người đứng đầu chính quyền các cấp
với người dân trên địa bàn tỉnh Bình Dương; Quy chế số 10-
QC/TU ngày 18/01/2018 về việc đối thoại giữa người đứng đầu
cấp ủy, người đứng đầu chính quyền các cấp với người dân trên
địa bàn tỉnh Bình Dương (thay thế Quyết định số 312-QĐ/TU
ngày 20/12/2016).
Việc Bộ Chính trị ban hành Quy chế công tác dân vận của
hệ thống chính trị là một thuận lợi rất căn bản để triển khai
công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới. Sau khi Quy chế
ra đời, Tỉnh ủy tỉnh Bình Dương đã kịp thời ban hành các Quy
chế, Chương trình, Kế hoạch triển khai thực hiện phù hợp với
tình hình của địa phương. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để
tỉnh triển khai nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, chính
quyền, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc
thực hiện công tác dân vận; củng cố, tăng cường mối quan hệ
giữa chính quyền, Mặt trận, các ban, ngành, đoàn thể trong
thực hiện công tác dân vận; đẩy mạnh công tác phối hợp tuyên
truyền, đưa những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước vào cuộc sống; triển khai các chính sách an
sinh xã hội đúng đối tượng thụ hưởng, góp phần ổn định và
324
nâng cao chất lượng cuộc sống cho Nhân dân.

2. Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy và đổi


mới công tác dân vận trong tình hình mới

Ngày 27/12/2013, Ban Bí thư ban hành Quy định số 219-


QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan
chuyên trách tham mưu, giúp việc Tỉnh ủy, Thành ủy. Theo
Quy định này, chức năng của Ban Dân vận Tỉnh ủy được tiếp
tục khẳng định “Là cơ quan tham mưu của Tỉnh ủy mà trực
tiếp, thường xuyên là Ban Thường vụ và Thường trực Tỉnh ủy
về công tác dân vận (bao gồm cả công tác dân tộc, tôn giáo)”1.
Ban Dân vận Tỉnh ủy có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất về
chủ trương, giải pháp, tham mưu cho Tỉnh ủy, Ban Thường
vụ Tỉnh ủy về công tác dân vận, theo dõi tổng hợp tình hình
Nhân dân để báo cáo với Tỉnh ủy; hướng dẫn, kiểm tra, giám
sát và phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Mặt trận Tổ quốc và
các ban, ngành, đoàn thể trong các hoạt động chung về công
tác dân vận; thẩm định, thẩm tra các đề án, văn bản về công
tác dân vận trước khi trình Tỉnh ủy và Ban Thường vụ Tỉnh
ủy; thực hiện một số công việc do Tỉnh ủy và Ban Thường vụ
Tỉnh ủy giao.
Về tổ chức bộ máy Ban Dân vận tỉnh ủy, lãnh đạo Ban
gồm 1 Trưởng ban, 3 Phó Trưởng ban. Từ đầu năm 2014, cùng
với việc kiện toàn ban lãnh đạo, Ban cũng đã hoàn thiện Quy
chế làm việc và phân công nhiệm vụ cho các đồng chí trong
ban lãnh đạo theo chức năng và nhiệm vụ được phân công.
Trong giai đoạn 2011-2020, các Trưởng ban gồm: Đồng chí
Nguyễn Thanh Liêm (2011-2017) và đồng chí Nguyễn Văn
Lộc (2017-2020). Phó Trưởng Ban gồm các đồng chí: Nguyễn
Minh Nghĩa (1999-2015), Lê Hoàng Minh (2006-2012), Trần

1. Điều 8 về Ban Dân vận, Quy định số 219-QĐ/TW ngày 27/12/2013 của Ban
Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp
việc Tỉnh ủy, Thành ủy.

325
Đức Thịnh (2010-2020), Đỗ Ngọc Huy (2012-2018), Nguyễn
Thị Tuyết Minh (2014-2020), Phạm Văn Kim (2015-2016),
Huỳnh Phú Quý (2017-2020), Lâm Văn Hòa (2018-2020).
Các đơn vị trực thuộc Ban gồm: Văn phòng Ban (Đồng chí
Hoàng Thanh Hà - Chánh Văn phòng, đồng chí Phan Công
Vinh - Phó Chánh Văn phòng), phòng Đoàn thể và các hội
(Đồng chí Nguyễn Thị Thúy Vinh - Trưởng phòng, đồng chí
Tống Xuân Trường - Phó phòng), phòng Dân vận các cơ quan
nhà nước (Đồng chí Lê Thành Phúc - Phó phòng, đồng chí
Lê Thị Ánh Tuyết - Phó phòng), phòng Dân tộc và Tôn giáo
(Đồng chí Phạm Anh Tuấn-Trưởng phòng, đồng chí Nguyễn
Thanh Sơn - Phó phòng). Biên chế Ban Dân vận Tỉnh ủy có
19 cán bộ, công chức. Thực hiện một số mô hình thí điểm
theo Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về một số vấn đề về
tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Quyết định số
711-QĐ/TU ngày 11/5/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy phê
duyệt Đề án sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
tỉnh Bình Dương tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, từ
tháng 3/2019, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy đồng thời là Chủ
tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh.
Ở cấp huyện, Ban Dân vận gồm 1 Trưởng ban, 1 Phó ban
và biên chế từ 4 đến 5 người làm công tác nghiên cứu, tham
mưu, tổng hợp.
Ban Dân vận Tỉnh ủy phối hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân
dân tỉnh ban hành quy chế hoạt động và phân công thành viên
phụ trách công tác dân vận chính quyền; thành lập tổ giúp
việc về công tác phối hợp giữa Ủy ban nhân dân tỉnh và Ban
Dân vận tỉnh ủy.

Các huyện, thị, Thành ủy và đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy


cũng kiện toàn các Ban Chỉ đạo thực hiện công tác vận động
326
quần chúng, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện
quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; chỉ đạo
việc phối hợp thực hiện công tác vận động quần chúng của
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện
các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương và Tỉnh ủy
về công tác vận động quần chúng; duy trì giao ban định kỳ
hằng quý giữa Ban Dân vận với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể, các lực lượng vũ trang và chính quyền về tình hình
công tác quần chúng.

3. Hoạt động dân vận giai đoạn 2011-2020

- Công tác dân vận của các cấp ủy đảng

Những năm đầu thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, trong
nước diễn ra nhiều sự kiện chính trị quan trọng, thu hút sự
quan tâm đặc biệt của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thành công tốt đẹp;
kết quả bầu cử Quốc hội khóa XIII và Hội đồng nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 2011-2016 tạo động lực tích cực trong dư luận
xã hội; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân có nhiều
khởi sắc. Kết quả tăng trưởng kinh tế - xã hội của tỉnh Bình
Dương tạo sự phấn khởi, tin tưởng trong Nhân dân.
Tuy nhiên, cũng còn không ít khó khăn, thách thức từ tình
hình quốc tế và trong nước, nhất là tình hình biển Đông diễn
biến phức tạp. Đối với Bình Dương, kinh tế vẫn tăng trưởng
khá, nhưng tính bền vững và sức cạnh tranh vẫn còn tồn tại
nhiều thách thức; vấn đề ô nhiễm môi trường, an toàn vệ sinh
thực phẩm, tình trạng xây dựng, cải tạo một số tuyến giao
thông bị đình trệ; đời sống văn hóa có những biểu hiện không
lành mạnh, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội còn
diễn biến phức tạp; tình hình đình công, lãn công ở các khu
công nghiệp có chiều hướng gia tăng...
327
Trước tình hình đó, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ
đạo các cấp ủy, cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể tập
trung triển khai thực hiện Quy chế công tác dân vận của hệ
thống chính trị của Bộ Chính trị (Quy chế 290) và Quy chế dân
vận của Tỉnh ủy (Quy chế 1370-QĐ/TU) đối với hệ thống chính
trị tỉnh. Đồng thời, tỉnh sơ kết việc thực hiện các nghị quyết số
23, 24, 25 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX); tổng kết
15 năm thực hiện Chỉ thị số 62-CT/TW ngày 08/11/1995 của
Ban Bí thư về tăng cường công tác người Hoa trong tình hình
mới; và việc thực hiện công tác ở vùng đồng bào Khmer, về xây
dựng lực lượng cốt cán trong chức sắc tôn giáo, đồng bào có đạo
và đồng bào dân tộc thiểu số. Ban Dân vận Tỉnh ủy được giao
nhiệm vụ phối hợp với các ngành chức năng xây dựng đề án
Xây dựng lực lượng cốt cán trong chức sắc tôn giáo, đồng bào
có đạo và đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng Chương trình
hành động về công tác dân vận. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã
tổng kết việc thực hiện các nghị quyết của Trung ương về công
tác cán bộ và chỉ đạo xây dựng Quy hoạch cán bộ giai đoạn
2015-2020 và những năm tiếp theo; củng cố, kiện toàn Ban
Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, Ban Chỉ đạo công tác
tôn giáo, Ban Chỉ đạo phối hợp các đơn vị bộ đội làm công tác
dân vận trên địa bàn tỉnh và Tổ công tác cán bộ nữ của Tỉnh
ủy; phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên các Ban Chỉ
đạo trong việc sửa đổi, bổ sung Quy chế làm việc và triển khai
các Chương trình công tác; duy trì giao ban định kỳ theo Quy
chế công tác dân vận của hệ thống chính trị giữa Thường trực
Tỉnh ủy với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, giữa Ủy ban
nhân dân tỉnh với thủ trưởng các đơn vị lực lượng vũ trang.
Sự lãnh đạo và chỉ đạo sâu sát, quyết tâm của các cấp ủy đảng
là nhân tố có tính quyết định tạo nên sự đổi mới và hiệu quả
trong công tác vận động quần chúng tham gia khắc phục khó
khăn, đẩy lùi thách thức, phát huy tiềm năng và thế mạnh của
khối đại đoàn kết trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã
328
hội của tỉnh.
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, các
đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy đã triển khai thực hiện Quy chế
công tác dân vận của hệ thống chính trị tỉnh Bình Dương, các
Chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ IX.
Năm 2012, Đảng ủy Công ty cổ phần cao su Phước Hòa
thành lập Ban Dân vận của Đảng ủy, như vậy toàn tỉnh có
10 cơ quan Ban Dân vận cấp huyện và tương đương trên 14
Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy1. Các đảng ủy trực thuộc Tỉnh
ủy đã phối hợp tham mưu triển khai thực hiện Quy chế dân
chủ cơ sở, tổ chức Hội nghị Người lao động, triển khai đẩy
mạnh cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh; tích cực và chủ động xây dựng chương
trình công tác, vận động quần chúng tham gia phong trào
Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư
tham gia bảo vệ an ninh trật tự và thực hiện Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, phong trào thi
đua “Dân vận khéo”.
Để thiết thực phát huy tiếng nói của Nhân dân trong xây
dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa, năm 2014, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy ban hành Quy định số 11-QĐ/TU ngày 27/5/2014
về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Ban Dân vận
tỉnh ủy; đồng thời chỉ đạo 100% các huyện, thị, Thành ủy
trực thuộc Tỉnh ủy ban hành các quy định về chức năng,
nhiệm vụ và tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu,
giúp việc cho các cấp ủy đảng. Ban Thường vụ Tỉnh ủy cũng
triển khai và chỉ đạo các cấp ủy đảng tập trung triển khai

1. Đến năm 2012, các đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy đã thành lập Ban Dân vận gồm:
7 Ban Dân vận huyện, thị, thành ủy; Ban Dân vận Đảng ủy Công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên cao su Dầu Tiếng; Ban Dân vận Đảng ủy Công ty cổ phần cao su
Phước Hòa; Ban Dân vận Phòng Chính trị, Đảng ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh.

329
các quy định về xây dựng dân chủ cơ sở, tạo mọi điều kiện để
Nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng và chính quyền như
các quy định: Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, ban
hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013
của Bộ Chính trị (gọi tắt là Quyết định số 217) và Quy định
về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị
- xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền, ban hành kèm theo Quyết định 218-QĐ/
TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị (gọi tắt là Quyết định
số 218). Nhằm phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, Tỉnh ủy đã ban hành
Chỉ thị số 42-CT/TU ngày 24/11/2014 về tiếp tục đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội; Công văn số 2099-CV/TU
ngày 14/11/2014 về việc tiếp tục chỉ đạo thực hiện Quyết định
số 217 và 218 của Bộ Chính trị. Đồng thời, Tỉnh ủy đã chỉ đạo
duy trì tổ chức giao ban hằng quý giữa Thường trực Tỉnh ủy
với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, lực
lượng vũ trang. Những nỗ lực của hệ thống chính trị trong
công tác dân vận đã đưa quy chế dân chủ thấm sâu vào đời
sống xã hội, tác động tích cực đến khối đoàn kết nội bộ, động
viên Nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng và chính
quyền vững mạnh.
Đặc biệt trong năm 2014, Ban Dân vận Tỉnh ủy phát huy
vai trò tham mưu của mình, cùng với Văn phòng Tỉnh ủy tham
mưu cho Tỉnh ủy và Ban Dân vận Trung ương tổ chức thành
công Hội nghị trao đổi kinh nghiệm công tác dân vận trong các
khu chế xuất, khu công nghiệp tại các tỉnh phía Nam, tổ chức
tại Bình Dương. Ngoài ra, Ban Dân vận Tỉnh ủy còn đóng vai
trò chủ đạo trong phối hợp với các ngành tổ chức ký kết, sơ kết,
tổng kết công tác phối hợp thực hiện công tác dân vận trên địa
330
bàn tỉnh1; phối hợp với Đài phát thanh và truyền hình tỉnh
Bình Dương phát hành hơn 500 bộ đĩa CD hỗ trợ báo cáo viên
triển khai học tập, quán triệt Quyết định số 217 và 218 của
Bộ Chính trị (khóa XI) cho cán bộ chủ chốt cấp huyện và cơ sở.
Khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trên vùng
biển Việt Nam, Nhân dân, nhất là công nhân ở các khu công
nghiệp đã tuần hành, biểu tình phản đối hành động này của
Trung Quốc, Ban Dân vận Tỉnh ủy phối hợp cùng Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể tổ chức tuyên truyền để người dân nắm
rõ chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng trong giải quyết
vấn đề biển Đông, kiên quyết không để quần chúng bị các thế
lực phản động kích động, lôi kéo2.
Đánh giá kết quả 5 năm (2010-2015) thực hiện Quyết định
số 290-QĐ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về việc ban hành quy
chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, Tỉnh ủy tỉnh Bình
Dương nhận định “Ban Cán sự Đảng, Đảng đoàn và các đảng
bộ trực thuộc Tỉnh ủy đã chủ động xây dựng và cụ thể hóa các
nội dung trong Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính
trị của Trung ương, của tỉnh phù hợp với tình hình thực tế
địa phương, đơn vị gắn với triển khai thực hiện Chương trình
hành động số 16-CTr/TU. Riêng Đảng ủy khối doanh nghiệp,
Đảng ủy khối các cơ quan Tỉnh tuy là cấp ủy lãnh đạo không
toàn diện, nhưng vẫn tổ chức triển khai quán triệt và chỉ đạo
cấp ủy các doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị căn cứ tình hình
thực tế để triển khai và vận dụng phù hợp với đặc điểm tình
hình hoạt động của cơ quan, đơn vị về công tác dân vận; đặc
biệt là việc vận động các doanh nghiệp phối hợp chặt chẽ với

1. Các chương trình đã được ký kết gồm: Chương trình phối hợp giữa Ban Dân
vận Tỉnh ủy với Ngân hàng Việt Nam, chi nhánh tỉnh Bình Dương; Chương trình phối
hợp giữa Ban Dân vận Tỉnh ủy với Tổng cục Chính trị Quân khu 7; tổ chức Hội nghị
tổng kết công tác phối hợp giữa Ban Dân vận Tỉnh ủy và Công an tỉnh Bình Dương.
Dẫn theo Báo cáo tình hình công tác dân vận năm 2014, phương hướng nhiệm vụ năm
2015 của Ban Dân vận Tỉnh ủy tỉnh Bình Dương ngày 27/02/2015.
2. Báo cáo tình hình công tác dân vận năm 2014, phương hướng nhiệm vụ năm
2015 của Ban Dân vận Tỉnh ủy tỉnh Bình Dương ngày 27/02/2015.

331
địa phương thực hiện công khai việc đền bù, giải tỏa, tham gia
các phong trào từ thiện xã hội, góp phần giải quyết an sinh xã
hội nơi doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh... Hằng năm, Ban
Dân vận các cấp ủy đã tham mưu cho cấp ủy cùng cấp thực
hiện công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện, kết quả 100%
các huyện, thị, Thành ủy, đảng ủy trực thuộc và các đảng bộ
xã, phường, thị trấn đã xây dựng và triển khai thực hiện tốt
quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị và chỉ đạo
chính quyền ký kết các chương trình phối hợp làm công tác
dân vận ở cơ sở”1.
Từ năm 2015, Ban Dân vận Tỉnh ủy được sự chỉ đạo của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã phối hợp với Ban Cán sự Đảng Ủy
ban nhân dân tỉnh đẩy mạnh triển khai thực hiện mô hình
Chính quyền thân thiện do dân và vì dân, Công sở thân thiện
vì Nhân dân phục vụ với nội dung quan tâm, tổ chức tốt công
tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân;
tổ chức rà soát lại các chế độ, chính sách về an sinh xã hội; chỉ
đạo thực hiện Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013
của Chính phủ “Quy định chi tiết khoản 3, Điều 63 của Bộ
luật Lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm
việc”; phối hợp với Đảng ủy các lực lượng vũ trang tổ chức Đại
hội thi đua Vì an ninh Tổ quốc; phối hợp với Đảng ủy Bộ Chỉ
huy Quân sự tỉnh nghiên cứu, biên soạn chuyên đề Thực tiễn
và kinh nghiệm công tác dân vận trong đồng bào Khmer trên
địa bàn tỉnh Bình Dương.
Năm 2016, công tác dân vận của cấp ủy đảng hướng vào
các trọng tâm: Chỉ đạo thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XIV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp

1. Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Quyết định số 290-QĐ/
TW của Bộ Chính trị (khóa X) về ban hành quy chế công tác dân vận của hệ thống
chính trị ngày 06/7/2015.

332
nhiệm kỳ 2016-20211; Đại hội đại biểu Hội Liên hiệp Phụ nữ
và Đại hội Hội Chữ thập đỏ các cấp nhiệm kỳ 2016-2021; tập
trung xây dựng và triển khai Chương trình hành động thực
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ X về công tác dân vận; thông qua quy chế
đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu các cấp ủy, người đứng
đầu chính quyền địa phương, các cấp trong tỉnh với Nhân dân.
Bên cạnh đó, các nội dung liên quan đến triển khai thực hiện
quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, quy chế thực
hiện dân chủ ở cơ sở tiếp tục được chỉ đạo với những đổi mới cả
về nội dung và phương thức. Các hoạt động trên được kết hợp
và gắn liền với việc tiếp tục đẩy mạnh phát động phong trào
thi đua Dân vận khéo và cuộc vận động Học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh2.
Năm 2018, Tỉnh ủy Bình Dương tổ chức sơ kết 5 năm thực
hiện Quyết định số 217 và 218 của Bộ Chính trị. Kết quả cho
thấy, về công tác giám sát và phản biện xã hội theo nội dung
Quyết định số 217, các cấp ủy đã chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội tại địa phương tổ chức thường
xuyên, với nhiều nội dung thiết thực và đạt kết quả khá tốt,
nhất là công tác tham gia xây dựng chính quyền và chuyển
tải các ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân địa phương
đến cấp ủy, chính quyền để có biện pháp giải quyết phù hợp
với nguyện vọng của Nhân dân. Tuy nhiên, chất lượng một số
cuộc giám sát chưa cao, còn mang tính hình thức, vẫn còn một
số đơn vị lúng túng trong xây dựng kế hoạch, chọn nội dung,
đối tượng giám sát hoặc thực hiện chưa đúng quy trình, chưa
mạnh dạn giám sát hoạt động của các cơ quan, các cấp ủy đảng

1. Cuộc vận động Nhân dân tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử Hội
đồng Nhân dân các cấp đạt kết quả rất cao, 98,92% dân cư trong tỉnh đi bầu cử, lựa
chọn được những đại biểu xứng đáng đại diện cho ý chí và nguyên vọng của Nhân
dân trong tỉnh.
2. Ban Dân vận Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo tình hình công tác dân vận năm
2016, phương hướng, nhiệm vụ năm 2017 ngày 23/01/2017.

333
cùng cấp và giám sát cá nhân theo quy định. Công tác phản
biện là một nội dung mới, khó nên một số cấp ủy, tổ chức đảng
và đoàn thể xã hội còn nhầm lẫn giữa phản biện xã hội với
hoạt động góp ý, giữa phản biện xã hội với phản biện khoa học.
Đối với việc thực hiện Quyết định số 218, định kỳ hằng
năm, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Ban Chấp
hành các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp đã tổ chức hội nghị
lấy ý kiến góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, đồng
thời tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền với Nhân dân, với đoàn viên, hội viên các đoàn
thể. Năm 2017, Tỉnh ủy chỉ đạo tổ chức thí điểm đối thoại
trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với Nhân
dân tại thị xã Thuận An. Đến năm 2018, đã có 8/9 huyện, thị,
Thành ủy tổ chức 11 cuộc đối thoại; 113 cuộc đối thoại tổ chức
ở xã, phường, thị trấn. Những cuộc đối thoại được dư luận
quần chúng đánh giá cao là: Bí thư tỉnh đối thoại trực tiếp với
Nhân dân thành phố Thủ Dầu Một; Chủ tịch Hội đồng nhân
dân tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh có các cuộc đối thoại
với các tập thể, Hiệp hội Doanh nhân, cá nhân tại trụ sở tiếp
công dân để lắng nghe và giải quyết các vấn đề kiến nghị trên
các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa... 1.
Giai đoạn 2016 - 2020, Ban Dân vận phối hợp với các
ngành:  Công an, Y tế, Giáo dục, Xây dựng, Tài nguyên và
Môi trường, Ngân hàng... tổ chức diễn đàn lắng nghe ý kiến
của Nhân dân. Công tác đối thoại  giữa người đứng đầu cấp
ủy, người đứng đầu chính quyền các cấp với Nhân dân đã được
thực hiện từ tỉnh đến cơ sở. Đây là một trong những kênh
quan trọng và trực tiếp giúp lãnh đạo các cấp nắm bắt tâm
tư, nguyện vọng của Nhân dân; đồng thời, là phương thức vận
động quần chúng nhân dân linh hoạt, hiệu quả; là cầu nối trực

1. Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo số 293-BC/TU ngày 28/11/2018 về sơ kết 5 năm
thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của
Bộ Chính trị (khóa XI).

334
tiếp giữa ý Đảng với lòng dân. Việc sửa đổi, bãi bỏ những thủ
tục hành chính không còn phù hợp, gây phiền hà, khó khăn
cho doanh nghiệp và Nhân dân, gắn với đẩy mạnh thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở... đã tác động to lớn đến việc thu hút
đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao hiệu quả, hiệu
lực quản lý nhà nước của các cấp chính quyền. Đặc biệt, Ban
Dân vận Tỉnh ủy phối hợp với các ngành Công an, Y tế, Giáo
dục các huyện, thị đã tổ chức được các diễn đàn cấp huyện với
nhiều cuộc tiếp xúc, như: Ngành Công an lắng nghe ý kiến
Nhân dân (182 cuộc); Ngành Y tế lắng nghe ý kiến nhân dân
(18 cuộc); Ngành Giáo dục lắng nghe ý kiến nhân dân (1 cuộc).
Liên đoàn Lao động tỉnh phối hợp với các ngành chức năng
tổ chức 20 cuộc đối thoại giữa lãnh đạo tỉnh với 3.260 cán bộ
Công đoàn cơ sở và người lao động. Qua các cuộc tiếp xúc trực
tiếp, có đến 90% số ý kiến góp ý được giải quyết ngay tại hội
nghị, qua đó, tạo môi trường dân chủ, cởi mở; khắc phục kịp
thời những vấn đề bức xúc trong Nhân dân, doanh nghiệp,
công nhân lao động; tạo điều kiện để doanh nghiệp và người
lao động tham gia góp ý cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh1. Năm 2019, tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện
Quy chế số 10-QC/TU ngày 18/01/2018 về việc đối thoại trực
tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, người đứng đầu chính quyền
các cấp với Nhân dân trên địa bàn tỉnh. Tạo được lòng tin và
ảnh hưởng lớn đến các bộ phận nhân dân trong tỉnh phải kể
đến các cuộc đối thoại thẳng thắn, hiệu quả như: Cuộc tiếp xúc
của Bí thư Tỉnh ủy với cử tri thành phố Thủ Dầu Một; cuộc
đối thoại trực tiếp giữa Bí thư Tỉnh ủy với doanh nghiệp và
Nhân dân trên địa bàn thị xã Dĩ An và huyện Bắc Tân Uyên;
đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đối thoại trực tiếp với
nông dân các huyện Bàu Bàng, Bắc Tân Uyên và Phú Giáo...

1. Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo số 293-BC/TU ngày 28/11/2018 về sơ kết 5 năm
thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013
của Bộ Chính trị (khóa XI).

335
Qua các cuộc đối thoại, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã nắm bắt
được tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị, đề xuất của người dân và
doanh nghiệp, từ đó có các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc, tạo được sự gần gũi và củng cố thêm niềm tin của Nhân
dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền góp phần xây
dựng Đảng, chính quyền ngày càng trong sạch, vững mạnh1.
Năm 2020, Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận
số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa IX) về công tác dân tộc trong tình hình mới.
Đồng thời, Tỉnh ủy tiếp tục chỉ đạo xây dựng kế hoạch triển
khai thực hiện, kế hoạch kiểm tra, giám sát, sơ kết và tổng kết
một số chỉ thị, nghị quyết của Trung ương liên quan đến công
tác dân vận như: Kế hoạch số 128-KH/TU ngày 17/3/2020 về
tổng kết 10 năm thực hiện Quyết định số 290-QĐ/TW ngày
25/02/2010 của Bộ Chính trị về ban hành quy chế công tác dân
vận của hệ thống chính trị; Báo cáo sơ kết 1 năm triển khai
thực hiện Quy chế số 10-QC/TU ngày 18/01/2018 của Tỉnh ủy
về việc đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, người
đứng đầu chính quyền các cấp với Nhân dân trên địa bàn tỉnh
Bình Dương; Quyết định số 1355-QĐ/TU ngày 09/3/2020 của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy về giám sát Ban Thường vụ và cá
nhân đồng chí Bí thư huyện ủy Dầu Tiếng và Công ty Cổ phần
cao su Phước Hòa trong việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực
hiện Quy định số 124-QĐ/TW ngày 02/02/2018 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân đối với việc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ
chủ chốt và cán bộ, đảng viên2.

1. Ban Dân vận Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo tình hình công tác dân vận năm
2019, triển khai nhiệm vụ năm 2020, ngày 17/02/2020.
2. Ban Dân vận Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo sơ kết công tác dân vận quý I,
phương hướng, nhiệm vụ quý II năm 2020, ngày 13/4/2020.

336
- Công tác dân vận của chính quyền

Giai đoạn 2011-2020, công tác dân vận của chính quyền có
nhiều đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động. Mục
tiêu của công tác dân vận chính quyền được Ủy ban nhân dân
tỉnh Bình Dương xác định là: Tập trung chỉ đạo triển khai
thực hiện nghị quyết của Chính phủ về phát triển kinh tế, xã
hội; về các giải pháp cấp bách nhằm tập trung kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Thực hiện
Quyết định số 1370-QĐ/TU và Chương trình hành động số
16-CTr/TU của Tỉnh ủy, các nội dung trọng tâm của công tác
dân vận chính quyền được xác định rõ: Đẩy mạnh tiến trình
cải cách hành chính của tỉnh với các nhiệm vụ cụ thể: Kiện
toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức theo phương châm gần dân, tôn trọng dân, lắng nghe ý
kiến của dân; xây dựng Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức,
viên chức trong bộ máy chính quyền địa phương; triển khai
thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới tỉnh Bình Dương giai đoạn 2010-2020; triển khai chương
trình liên kết lao động với các tỉnh, thành phố và các chương
trình an sinh xã hội.
Về đổi mới phương pháp dân vận nhằm nâng cao chất lượng
trong công tác tiếp xúc cử tri, Hội đồng nhân dân các cấp đã thể
chế hóa chương trình hành động của Tỉnh ủy gắn với quy chế
công tác dân vận của hệ thống chính trị. Hằng năm, Hội đồng
nhân dân các cấp đều xây dựng các chương trình giám sát tình
hình thực thi pháp luật, công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo; những vấn đề có liên quan đến lợi ích, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đặc biệt, Hội đồng nhân dân
các cấp tập trung giám sát chuyên đề về công tác quản lý nhà
nước trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, sử dụng các công trình văn
hóa - thể thao trên địa bàn tỉnh. Qua giám sát, Hội đồng nhân
dân các cấp kịp thời chỉ rõ những kết quả đạt được, những hạn

337
chế tồn tại và có những kiến nghị cụ thể cho chính quyền và các
cơ quan chức năng, góp phần hoàn thành nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, Hội
đồng nhân dân các cấp tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của đại diện
các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tầng lớp nhân dân đối
với các dự thảo luật, dự thảo pháp lệnh theo quy định của pháp
luật, nhất là lấy ý kiến đóng góp cho Dự thảo Hiến pháp năm
2013. Ngoài ra, Hội đồng nhân dân các cấp còn thường xuyên
giữ mối quan hệ, phối hợp công tác, chia sẻ kinh nghiệm hoạt
động và tổ chức cho đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong
tiếp xúc cử tri, tiếp công dân trên địa bàn ứng cử.
Xác định lấy kết quả giải quyết thủ tục hành chính làm
thước đo kết quả phục vụ, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương
đã chỉ đạo chính quyền các cấp tiếp tục đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính, thành lập Trung tâm hành chính công
của tỉnh và các khu vực tiếp công dân, tiếp nhận hồ sơ và trả
kết quả theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại Ủy ban
nhân dân cấp huyện, cấp xã; đồng thời công bố thủ tục hành
chính thuộc thẩm quyền của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh,
đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trên địa bàn tỉnh theo quy
định; tiếp tục chỉ đạo chính quyền các cấp, các cơ quan chuyên
môn triển khai thực hiện mô hình Chính quyền thân thiện
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và mô hình Công sở
thân thiện vì Nhân dân phục vụ. Mặt khác, công tác tiếp dân
và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được các cấp, các
ngành đặc biệt quan tâm đã hạn chế tình trạng đơn thư vượt
cấp, gắn với triển khai diện rộng mô hình Chính quyền thân
thiện, Công sở thân thiện đã trở thành mục tiêu và động lực
để xây dựng chính quyền “của dân, do dân, vì dân”, hướng đến
mục tiêu xây dựng một chính quyền phục vụ. 
Ngày 20/02/2014, Trung tâm hành chính tỉnh Bình Dương
được xây dựng trên diện tích 4.000m2 đã chính thức đi vào
hoạt động, là nơi tổ chức đón tiếp khách, tiếp nhận hồ sơ và
338
trả kết quả đối với tất cả các thủ tục hành chính thuộc Bộ
thủ tục hành chính cấp tỉnh của tất cả các cơ quan làm việc
tại tòa nhà. Việc đưa Trung tâm hành chính tỉnh vào hoạt
động nhằm tạo sự đổi mới, chuyển biến mạnh mẽ về cơ chế,
phương thức, hình thức tiếp nhận và giải quyết nhu cầu giao
dịch hành chính giữa công dân, doanh nghiệp, tổ chức với cơ
quan hành chính nhà nước của tỉnh Bình Dương theo tinh
thần công dân, doanh nghiệp, tổ chức là trung tâm và là đối
tượng được phục vụ. Đồng thời với việc đưa Tòa nhà hành
chính vào hoạt động, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã
quan tâm chỉ đạo sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới
hệ thống tổ chức và quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập
theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm
tính khách quan, khoa học, tạo sự ủng hộ, đồng tình của cán
bộ, đảng viên và Nhân dân.
Song song đó,  tỉnh Bình Dương đã đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước, chuẩn hóa thủ tục hành chính theo quy trình quản
lý chất lượng tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 hoặc TCVN
ISO 9001:2015. Đến năm 2018,  91,4% trên tổng số thủ tục
hành chính trong các cơ quan hành chính nhà nước trên địa
bàn tỉnh  đã chuẩn hóa theo quy trình quản lý chất lượng;
100% thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của các
cơ quan chuyên môn cấp tỉnh được thực hiện tại Trung tâm
hành chính công tỉnh; 100% thủ tục hành chính thuộc thẩm
quyền giải quyết của cấp huyện đều được thực hiện tại Trung
tâm phục vụ hành chính công thành phố Thủ Dầu Một và
Bộ phận một cửa hiện đại của các huyện; 100% thủ tục hành
chính thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp xã đều được thực
hiện tại Bộ phận một cửa cấp xã. Tại Trung tâm hành chính
công tỉnh, Sở Nội vụ phối hợp với Tỉnh đoàn Thanh niên triển
khai các hoạt động dịch vụ, hỗ trợ thực hiện thủ tục hành
chính, duy trì hoạt động Chương trình “Tuổi trẻ Bình Dương
339
chung tay xây dựng Trung tâm hành chính công thân thiện,
năng động”; thực hiện tư vấn miễn phí đối với tổ chức, cá nhân
cần hỗ trợ; phối hợp với tổng đài 8283 để hỗ trợ người dân tra
cứu, theo dõi tình hình và tiến độ giải quyết hồ sơ trên Trang
dichvucong.binhduong.gov.vn. Công tác tuyên truyền đối với
người dân, doanh nghiệp khi đến thực hiện thủ tục hành chính
được quan tâm thông qua tờ rơi đặt trên các kệ, quầy tại các cơ
quan; tuyên truyền về các tiện ích và các dịch vụ hỗ trợ như:
Hoạt động và quy trình thực hiện nhận và trả kết quả qua
dịch vụ bưu chính công ích; dịch vụ công mức độ 3, 4; tuyên
truyền về chính quyền thân thiện, công sở thân thiện... Ngoài
việc triển khai thực hiện mô hình Chính quyền thân thiện của
dân, do dân và vì dân và Công sở thân thiện vì Nhân dân phục
vụ, tỉnh Bình Dương tiếp tục triển khai thí điểm một số đề án
như: Đề án liên thông thủ tục hành chính cấp chứng chỉ hành
nghề khám bệnh, chữa bệnh; cấp chứng chỉ hành nghề dược;
cấp phiếu lý lịch tư pháp; và Đề án bố trí nhân viên bưu điện
tại Bộ phận một cửa của Ủy ban nhân dân cấp xã thuộc Ủy
ban nhân dân thành phố Thủ Dầu Một để thực hiện dịch vụ
tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính
các cấp trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2018-2020;
Thành lập hệ thống đường dây nóng để tiếp nhận, xử lý và trả
lời phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2018-2020.
Công tác dân vận chính quyền trong giai đoạn 2011-2020
đã lồng ghép vào với các phong trào, các mô hình sáng tạo.
Chính quyền, các ngành, các đơn vị, địa phương trong tỉnh đã
tích cực, chủ động nghiên cứu xây dựng các mô hình hay, cách
làm sáng tạo trong phát triển kinh tế - xã hội mang lại hiệu
quả thiết thực, tạo được sự lan tỏa sâu rộng trong Nhân dân;
điển hình là mô hình Gần dân, sát dân của một số cấp ủy địa
phương; khối cơ quan hành chính có mô hình Chính quyền
thân thiện của dân, do dân và vì dân; trong khối doanh nghiệp
340
có mô hình Vì người lao động, Gần công nhân, sát công nhân,
lắng nghe ý kiến công nhân; trong khối lực lượng vũ trang có
mô hình Công an lắng nghe ý kiến nhân dân, Phát huy trách
nhiệm, hiệu quả trong thực hiện công tác chính sách, Cống
hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ... Mỗi một mô hình ở
các lĩnh vực khác nhau nhưng tựu chung lại đều hướng đến lợi
ích của dân, vì dân phục vụ.
Tiếp tục triển khai thực hiện Năm dân vận chính quyền,
hằng năm, chính quyền các cấp đều xây dựng kế hoạch Năm
dân vận chính quyền gắn với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Trọng tâm của cải
cách hành chính là con người. Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo
chính quyền các cấp chấn chỉnh lề lối, tác phong làm việc của đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức, tạo sự chuyển biến tích cực về
nhận thức, tinh thần trách nhiệm, chống tiêu cực, tham nhũng,
quan liêu, sách nhiễu, gây phiền hà cho người dân. Đồng thời,
Ủy ban nhân dân các cấp đã duy trì thường xuyên việc tổ chức
hội nghị đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu chính quyền
với Nhân dân để lắng nghe, tiếp thu ý kiến, kiến nghị, đề xuất
của dân, kịp thời giải quyết những vấn đề mà dư luận và Nhân
dân quan tâm, qua đó phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
Thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân
vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng
thành công”1, Ủy ban nhân dân các cấp chú trọng phát triển
phong trào thi đua xây dựng các mô hình, điển hình Dân vận
khéo. Xây dựng mô hình, điển hình Dân vận khéo là cách làm
hay để giải quyết thành công nhiều khó khăn, phức tạp tại cơ
sở, góp phần đổi mới công tác dân vận của Đảng, chính quyền.
Đây cũng là một phương thức huy động cả hệ thống chính trị
làm công tác dân vận trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.234.

341
hóa và hội nhập quốc tế. Từ những việc làm thiết thực, phong
trào “Dân vận khéo” đã góp phần quan trọng tạo sự đồng
thuận và hưởng ứng tích cực của Nhân dân, các tổ chức chính
trị - xã hội, các tổ chức tôn giáo, dân tộc. Nhiều mô hình tiêu
biểu, điển hình trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng
- an ninh, an sinh xã hội được phát huy và nhân rộng như: Mô
hình Nhà đại đoàn kết của Mặt trận Tổ quốc; Nhà tình thương
của Hội Liên hiệp Phụ nữ; Nhà tình bạn của Đoàn Thanh
niên; Nhà đồng đội - 2 lực lượng vũ trang của Hội Cựu chiến
binh; Nhà mái ấm Công đoàn của Liên đoàn Lao động; Ông
bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, Hũ gạo tình thương,
Vượt khó nuôi con học giỏi thành đạt, Gia đình 5 không 3 sạch,
Hiến đất xây dựng nghĩa trang nhân dân, Tổ từ thiện, Nắm
gạo tình thương, Cửa hàng không đồng phục vụ người nghèo,
hiến đất làm đường giao thông; Ngôi nhà nhân ái, Mái ấm tình
thương, Ngôi nhà khăn quàng đỏ của Tỉnh đoàn...
Từ phong trào thi đua Dân vận khéo đã xuất hiện những
mô hình, gương mặt tiêu biểu như: Mô hình chính quyền thân
thiện xã Bình Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên1; Hội Nông dân các cấp
trong tỉnh Bình Dương đã tích cực tuyên truyền, vận động cán
bộ, hội viên và con em thực hiện tốt quy định pháp luật về an
toàn giao thông; phát động cán bộ, hội viên đăng ký thực hiện
an toàn giao thông gắn với đăng ký xây dựng gia đình văn hóa

1. Được tỉnh chọn làm nơi thí điểm mô hình Chính quyền thân thiện của dân, do
dân và vì dân, Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã Bình Mỹ đã mạnh dạn chọn các công việc
khó liên quan đến cải cách thủ tục hành chính, đổi mới lề lối làm việc để xây dựng mô
hình “Dân vận khéo”. Được sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, huyện và sự hướng
dẫn của Sở Nội vụ, Ủy ban nhân dân xã Bình Mỹ đã ban hành Quy chế tiếp xúc, đối
thoại với Nhân dân; thông báo rõ thời gian, địa điểm, thành phần, nội dung tiếp xúc,
đối thoại; xây dựng hệ thống biểu mẫu, bảng thông tin các loại thủ tục hành chính và
niêm yết công khai; xây dựng và công khai quy trình tiếp nhận và trả hồ sơ trên tất
cả các lĩnh vực có liên quan đến người dân; công khai bảng tên, chức năng, nhiệm vụ
của cán bộ, công chức, viên chức và số điện thoại của lãnh đạo xã theo Pháp lệnh số
34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chỉ thị
số 07 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; phát phiếu lấy ý kiến phản hồi của người
dân khi đến làm việc tại bộ phận một cửa và cán bộ, công chức, viên chức của xã.

342
và được đông đảo cán bộ, hội viên nhiệt tình hưởng ứng. Đặc
biệt, ở Phú Giáo, là huyện nông nghiệp, có 10.520 hội viên, hằng
năm, Hội Nông dân huyện xây dựng kế hoạch chỉ đạo các tổ
chức cơ sở đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động cán bộ,
hội viên và Nhân dân không vi phạm trật tự an toàn giao thông,
tích cực thực hiện tốt Năm an toàn giao thông và Chương trình
Thập kỷ hành động về an toàn giao thông đường bộ 2011-2020.
Công tác tuyên truyền về việc thực hiện an toàn giao thông
được thực hiện thông qua đài truyền thanh, hội thi, các buổi
tập huấn, cuộc họp, sinh hoạt chi hội, phát tờ rơi... Nội dung
tuyên truyền tập trung vào chủ đề thực hiện quy định đội mũ
bảo hiểm, quy định về nồng độ cồn đối với lái xe, quy định về
tốc độ, quy định về tải trọng phương tiện.
Chỉ tính riêng trong năm 2017 và 5 tháng đầu năm 2018,
toàn tỉnh đã có trên 700 mô hình “Dân vận khéo” điển hình
được đăng ký xây dựng, các mô hình giai đoạn trước đã được
tuyên dương tiếp tục duy trì và nhân rộng.
Tại thị xã Dĩ An1, giai đoạn 2016-2020 các đơn vị, địa
phương đã đăng ký thực hiện 131 mô hình, trong đó có 86 mô
hình hiệu quả, nổi bật là các mô hình vận động Nhân dân hiến
đất, đóng góp tiền ngày công, giờ công để bêtông hóa các tuyến
đường giao thông; mô hình Thắp sáng tuyến hẻm; Mỗi khu
phố 1 tuyến đường văn minh - sạch đẹp; Cho yêu thương đi
nhận hạnh phúc về; Sáng, xanh, sạch, đẹp; Trường học là nhà,
cô giáo là niềm tin của bé; Chính quyền thân thiện; Công sở
thân thiện; Nụ cười công sở; mô hình Gần dân, sát dân, giúp
dân; mô hình vận động Nhân dân phát triển sản xuất, giảm
nghèo; Xây dựng đô thị văn minh, tham gia giữ gìn an ninh
trật tự trên địa bàn...

1. Theo Nghị quyết số 857/NQ-UBTVQH14 ngày 10/01/2020 của Ủy ban


Thường vụ Quốc hội, thành phố Dĩ An thuộc tỉnh Bình Dương, được thành lập trên cơ
sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Dĩ An.

343
Về cá nhân, ông Nguyễn Quốc Dũng được bình chọn là tấm
gương điển hình tiêu biểu về tinh thần phục vụ Nhân dân1.
Nhằm tuyên truyền, nhân rộng mô hình và gương điển
hình Dân vận khéo, Ban Dân vận tỉnh đã phối hợp với Báo
Bình Dương, Đài Phát thanh và truyền hình Bình Dương tổ
chức cuộc thi báo chí viết về tấm gương Dân vận khéo giai
đoạn 2018-2020 nhằm tìm kiếm, tôn vinh các tấm gương điển
hình Dân vận khéo, đăng trên các phương tiện thông tin đại
chúng trên địa bàn tỉnh, đồng thời khen thưởng các cơ quan
báo, đài, Ban Dân vận cấp ủy trong công tác tuyên truyền,
phát động cuộc thi.
Bảo đảm an sinh xã hội là một trong những mục tiêu của
dân vận chính quyền. Tỉnh đã ban hành bộ tiêu chí hộ nghèo và
triển khai chương trình giảm nghèo giai đoạn 2011-2020, với
nội dung chính là tập trung quan tâm chăm lo gia đình chính
sách, bảo đảm gia đình chính sách có mức sống bằng hoặc hơn
mức sống trung bình của cư dân trên địa bàn; hỗ trợ hộ nghèo
về tiền điện, trợ cấp khó khăn, bảo hiểm y tế, hỗ trợ vay vốn
phát triển sản xuất, chuyển đổi ngành nghề; xây dựng và sửa
chữa nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, tặng sổ tiết kiệm cho hộ
nghèo, hộ khó khăn về nhà ở; vận động xã hội cùng chung tay

1. Ông Nguyễn Quốc Dũng là Trưởng phòng Xây dựng chính quyền, Sở Nội
vụ tỉnh Bình Dương; Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Dương;
Trưởng đoàn Hội thẩm Nhân dân Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Dương. Năm 2010, ông
đề xuất lãnh đạo Sở tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng và triển khai kế
hoạch tổ chức Hội thi Dân vận khéo khối cơ quan nhà nước tỉnh Bình Dương từ cấp
xã đến cấp tỉnh và đã được tỉnh phê duyệt, đưa vào thực hiện. Năm 2013, ông đề xuất
lãnh đạo Sở trình Ủy ban nhân dân tỉnh và được phê duyệt thực hiện chủ trương xây
dựng thí điểm mô hình Chính quyền thân thiện của dân, do dân và vì dân, thí điểm mô
hình Công sở thân thiện vì Nhân dân phục vụ. Ông cũng đề xuất thành lập Tổ nghiệp
vụ 87 gồm Sở Nội vụ, Ban Dân vận Tỉnh ủy, Liên đoàn Lao động tỉnh, Sở Lao động
- Thương binh và xã hội tỉnh; dịch Nghị định 87 và các văn bản hướng dẫn công tác
dân vận của Trung ương và tỉnh ra các thứ tiếng Anh, Hoa, Nhật, Hàn góp phần mang
lại hiệu quả trong triển khai; đề xuất ban hành hướng dẫn chấm điểm thi đua thực hiện
quy chế dân chủ theo Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH14, Nghị định 71 và Nghị
định 07 tạo động lực cho cán bộ, công chức, viên chức làm tốt nhiệm vụ.

344
lo tết cho người nghèo...1. Đặc biệt, mục tiêu an sinh xã hội, bảo
đảm các chế độ, chính sách cho người có công, đối tượng nghèo
và công nhân lao động tiếp tục được quan tâm, đẩy mạnh.
Đến năm 2016, tỉnh đã vận động xây tặng trên 3.745 căn
nhà tình nghĩa với trị giá 83,2 tỷ đồng và sửa chữa 2.159 căn
nhà với kinh phí 30,5 tỷ đồng; xây mới 7.695 căn nhà tình
thương, nhà đại đoàn kết và tặng hàng ngàn sổ tiết kiệm với
tổng kinh phí trên 167,6 tỷ đồng. Công tác giảm nghèo được
triển khai thông qua việc thực hiện kết hợp nhiều giải pháp
như: Ưu tiên đầu tư nguồn lực tập trung cho các huyện có tỷ lệ
hộ nghèo cao, đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng và công trình
phúc lợi khác đối với các xã vùng khó khăn; thực hiện chính
sách ưu đãi đối với các hộ nghèo, hộ cận nghèo như cho vay vốn
tín dụng từ Ngân hàng chính sách xã hội, hỗ trợ về bảo hiểm y
tế, miễn giảm học phí và các khoản đóng góp khác, thực hiện
chính sách bảo lưu đối với hộ vừa thoát nghèo, vận động các
doanh nghiệp, nhà hảo tâm xây dựng, tặng nhà đại đoàn kết,
tặng quà, khám chữa bệnh miễn phí, nhân rộng mô hình sinh
kế cho hộ nghèo... Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm nhanh, từ
năm 1997 đến năm 2016, có 45.500 hộ thoát nghèo và tỉnh đã
9 lần nâng mức chuẩn nghèo của tỉnh nên mức chuẩn nghèo
của tỉnh cao hơn so với chuẩn nghèo của quốc gia. Giai đoạn
2016 - 2020, tỉnh Bình Dương áp dụng chuẩn nghèo tiếp cận
đa chiều với chuẩn về thu nhập cao hơn gấp khoảng 1,5 lần so
với chuẩn nghèo thu nhập của quốc gia. Sau khi điều tra, khảo
sát theo chuẩn mới, toàn tỉnh có 3.889 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ
1,32%, và 2.870 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 0,97%. Năm 2016,
Bình Dương trở thành tỉnh duy nhất trên cả nước không còn
hộ nghèo theo chuẩn quốc gia2.

1. Ban Dân vận Tỉnh ủy: Báo cáo công tác vận động quần chúng của Đảng bộ
năm 2011. Một số phương hướng nhiệm vụ năm 2012, ngày 18/11/2011.
2. Theo thống kê Tổng hợp diễn biến hộ nghèo cả nước năm 2016 của Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội.

345
Chính quyền các cấp đã triển khai các giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động của tuyến y tế cơ sở, y tế dự phòng, chăm
sóc sức khỏe ban đầu; đẩy mạnh xã hội hóa, phát triển cơ sở y tế
ngoài nhà nước. Dự án nhà ở xã hội, khu dân cư, nhà ở thương
mại phát triển nhanh và được quản lý chặt chẽ, kịp thời chấn
chỉnh những sai phạm, thiếu sót, góp phần tích cực giải quyết
nhu cầu an cư cho người lao động có thu nhập thấp. Chương
trình phát triển nhà ở xã hội thu hút được nhiều thành phần
kinh tế tham gia đầu tư, có 82 dự án với 85.073 căn hộ, đáp
ứng nhu cầu nhà ở cho 238.325 người, trong đó 22 dự án đã
đưa vào sử dụng với 9.330 căn hộ đáp ứng nhu cầu nhà ở cho
36.000 người. Các chính sách: Bảo hiểm thất nghiệp, đào tạo
lại cho người lao động, điều chỉnh chế độ trợ cấp, phụ cấp cho
người có công với cách mạng, bổ sung đối tượng và nâng mức
hỗ trợ bảo trợ xã hội, thực hiện chính sách tiền lương mới,..
được triển khai thực hiện thường xuyên và hiệu quả.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2011-2020 được triển khai với phong trào Toàn tỉnh
chung sức xây dựng nông thôn mới gắn với phong trào Dân
vận khéo. Ngay từ đầu giai đoạn 2010-2015, Bình Dương đã
thực hiện chủ trương huy động mọi nguồn lực để xây dựng
nông thôn mới, lồng ghép với việc thực hiện các chương trình
mục tiêu quốc gia khác, qua đó xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội ở khu vực nông thôn theo hướng hiện đại. Các địa
phương trong tỉnh đã chủ động, linh hoạt huy động nguồn lực
từ Nhà nước, Nhân dân, doanh nghiệp phục vụ xây dựng nông
thôn mới. Năm 2015, huyện Dầu Tiếng đạt chuẩn nông thôn
mới; năm 2016, thị xã Tân Uyên hoàn thành nhiệm vụ xây
dựng nông thôn mới và thị xã Bến Cát đã hoàn chỉnh hồ sơ
hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Đến cuối năm
2019, toàn tỉnh đã có 46/46 xã đạt 19 tiêu chí, được công nhận
đạt chuẩn nông thôn mới (có 2 xã chuyển lên thị trấn là: Tân
Thành, huyện Bắc Tân Uyên và Lai Uyên, huyện Bàu Bàng);
346
3 huyện, thị hoàn thành xây dựng nông thôn mới (Dầu Tiếng,
Bến Cát, Tân Uyên) và 3 huyện đề nghị hoàn thành (Phú Giáo,
Bắc Tân Uyên, Bàu Bàng). Tổng nguồn vốn huy động xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010-2019 trên 25.000 tỷ đồng, trong
đó vốn ngân sách là 12.750 tỷ (49,53%), vốn doanh nghiệp góp
là 3.890 tỷ (15,13%), vốn do cộng đồng dân cư đóng góp là
4.564 tỷ (17,75%), vốn tín dụng 3.670 tỷ (14,28%) và vốn huy
động từ các nguồn khác là 724 tỷ (2,81%). Một trong những
sáng tạo của Bình Dương là đã lồng ghép những chương trình
phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với công
nghiệp chế biến các sản phẩm nông sản. Qua đó, tỉnh đã kêu
gọi được nhiều nhà đầu tư rót vốn vào lĩnh vực nông nghiệp,
công nghệ cao, góp phần thay đổi tư duy sản xuất của người
nông dân tại các địa bàn nông thôn trong tỉnh. Đến năm 2020,
Chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới của tỉnh đã
thực hiện nâng cấp, nhựa hóa, bêtông hóa 157 tuyến đường
giao thông nông thôn với tổng chiều dài 248,8km, góp phần
duy trì và đạt các kết quả như: 100% tuyến đường xã, đường
từ trung tâm xã đến huyện, thị được nhựa hóa; 100% đường
trục ấp và đường liên ấp được nhựa hóa, bêtông hoặc cứng hóa;
100% đường ngõ xóm không lầy lội vào mùa mưa; 100% đường
trục chính nội đồng bảo đảm vận chuyển hàng hóa; 100% xã
đạt chuẩn về y tế; 87,95% người dân tham gia bảo hiểm y tế;
đạt tỷ lệ 23 giường bệnh/vạn dân; 100% xã có bác sĩ phục vụ.
Từ chủ trương ban đầu là không chạy theo hình thức, chú
trọng chất lượng với mục đích chính là nâng cao đời sống cư
dân nông thôn, chương trình nông thôn mới của tỉnh đã có
bước đi đúng hướng, vững chắc. Không có địa phương nào của
tỉnh xảy ra tình trạng nợ công trong quá trình xây dựng cơ sở
hạ tầng phục vụ nông thôn mới. Để chương trình ngày càng
đi vào chiều sâu, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Bộ tiêu
chí xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2018-2020 (ban hành
kèm theo Quyết định số 1925/QĐ-UBND ngày 16/7/2018), làm
347
cơ sở đánh giá việc nâng cao các tiêu chí sau khi đạt chuẩn
nông thôn mới. Các chỉ tiêu nâng cao đều hướng tới việc chăm
lo đời sống của người dân ở nông thôn tốt hơn, giảm khoảng
cách được hưởng các dịch vụ giữa nông thôn và thành thị, tạo
điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người
dân ở nông thôn. Mục tiêu đến năm 2020 của tỉnh là phấn đấu
có từ 12 đến 15 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, kiểu
mẫu; 100% huyện, thị xã đạt chuẩn nông thôn mới và hoàn
thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Năm 2020, Ủy ban nhân dân tỉnh đã phối hợp chỉ đạo các
ngành xây dựng kế hoạch tổng kết chương trình phối hợp làm
công tác dân vận giai đoạn 2016 - 2020; kế hoạch triển khai
thực hiện Năm dân vận khéo 2020 theo Kế hoạch số 06-KH/
BDVTW ngày 19/02/2020 của Ban Dân vận Trung ương. Đồng
thời, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các cấp, các ngành xây
dựng kế hoạch công tác dân vận năm 2020 gắn với thực hiện
chủ đề Năm dân vận khéo 2020. Ủy ban nhân dân tỉnh cũng
triển khai ban hành kế hoạch sử dụng đất năm 2020 ở cấp
huyện, đôn đốc Ủy ban nhân dân các huyện, thị, thành phố
triển khai kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu (2021-2025)
và lập quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030. Công tác chỉ đạo
chính quyền các cấp tập trung chỉ đạo, giải quyết kịp thời các
vướng mắc trong quá trình triển khai dự án, đẩy nhanh tiến
độ đền bù giải phóng mặt bằng các dự án trọng điểm, các dự
án nhà ở xã hội, khu dân cư, nhà ở thương mại được coi trọng.
Đặc biệt, năm 2020, cả thế giới phải đối phó với đại dịch
Covid-19, Ủy ban nhân dân tỉnh tập trung chỉ đạo các ngành,
các cấp triển khai quyết liệt công tác phòng chống, khống chế
dịch bệnh Covid-19 theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ
“Thận trọng, không được chủ quan nhưng không bi quan”.
Đến cuối tháng 5/2020, trên địa bàn tỉnh Bình Dương không
348
có ca mắc và tử vong do dịch bệnh Covid-19 gây ra1. Các tầng
lớp nhân dân trong tỉnh luôn quan tâm, ghi nhận ủng hộ và
đánh giá cao sự nỗ lực, quyết tâm, sự chung sức, chung lòng
của cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới cơ sở trong việc
tuyên truyền, hướng dẫn và triển khai đồng bộ các giải pháp
phòng, chống và kiểm soát dịch bệnh Covid-19.

- Công tác dân vận của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

Giai đoạn 2011-2020, công tác dân vận, hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể tiếp tục đổi mới, hướng mạnh
về cơ sở. Đặc biệt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh chú trọng
triển khai thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết
định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị; tuyên
truyền và triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013 và các
nghị quyết Đại hội Đảng các cấp. Ở cuối giai đoạn này, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể tập trung xây dựng đề án cơ cấu
lại tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo
Quyết định số 711-QĐ/TU ngày 11/5/2018 của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy về phê duyệt Đề án sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị tỉnh Bình Dương theo hướng tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động theo tinh thần của Kết luận số 81-KL/TU của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa X); triển khai Kế hoạch thực
hiện Quy định số 124-QĐ/TW ngày 02/02/2018 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân đối với việc
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán
bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên; Hướng dẫn khung để các cấp
ủy, tổ chức đảng tiếp tục phát huy vai trò của Nhân dân trong
đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ theo Quyết định số 99-QĐ/TW ngày

1. Ban Dân vận Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo sơ kết công tác dân vận quý I,
phương hướng, nhiệm vụ quý II năm 2020, ngày 13/4/2020.

349
03/10/2017 của Ban Bí thư.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tiếp tục phát huy vai trò
giám sát và phản biện, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền theo tinh thần các Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết
định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013. Đồng thời, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở; đẩy mạnh phong trào vận động quần
chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, bám cơ sở, nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng của Nhân dân về những vấn đề mà người dân
quan tâm để kịp thời phản ánh với cấp ủy, chính quyền giải
quyết. Các phong trào thi đua yêu nước được đẩy mạnh như:
Phong trào lao động sản xuất, kinh doanh giỏi; phong trào
xung kích tình nguyện trong thực hiện các cuộc vận động lớn
như Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh, Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư”,... Đặc biệt, trước tình hình khó khăn chung của đất
nước trong năm 2020, Mặt trận đã chủ động trong việc tuyên
truyền về phòng, chống dịch bệnh Covid-19 với nhiều biện
pháp, hình thức sáng tạo, tích cực, phù hợp theo khuyến cáo
của Bộ Y tế để đoàn viên, hội viên, người lao động và Nhân
dân nắm chắc những biện pháp bảo vệ, phòng chống hiệu quả,
góp phần hạn chế thấp nhất lây nhiễm dịch bệnh. Đồng thời,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể vận động các chủ nhà trọ,
các tổ chức, các mạnh thường quân, đoàn viên, hội viên và các
tầng lớp nhân dân ủng hộ phòng, chống dịch Covid-19 và giúp
đỡ đồng bào bị thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn; trao tặng
quà, miễn, giảm tiền nhà trọ cho người nghèo, công nhân lao
động do ảnh hưởng dịch bệnh với tổng trị giá là 260 tỷ đồng.
Với đặc thù là địa phương có đông công nhân, lao động, nhất
là công nhân, lao động từ các địa phương khác đến tạm trú
làm việc (chiếm 85%), Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Dương
phối hợp chặt chẽ với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
triển khai phổ biến các văn bản pháp luật (Luật Lao động, Luật
350
Công đoàn) đến người lao động; tổ chức Hội thảo Nguyên nhân
của tình hình tranh chấp lao động tập thể và đình công ở Bình
Dương. Tổ chức Công đoàn các cấp phát triển đa dạng hơn về
loại hình, đáp ứng tốt hơn yêu cầu tập hợp người lao động, nhất
là trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài. Về thực hiện chức năng, tổ chức Công đoàn thực
hiện khá tốt chức năng tham gia quản lý, tuyên truyền giáo
dục, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
đoàn viên, công nhân, viên chức người lao động; chủ động tham
gia giải quyết kịp thời các vụ tranh chấp lao động, đình công,
lãn công, góp phần quan trọng trong việc xây dựng quan hệ lao
động hài hoà, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp. Công tác
chăm lo đời sống cho công nhân lao động luôn được Liên đoàn
Lao động chú trọng, như chăm lo Tết cho người lao động, tổ
chức các “Chuyến xe Xuân nghĩa tình” đưa công nhân về quê
mỗi độ tết đến, xuân về, bảo đảm an sinh xã hội, trợ cấp khó
khăn cho lao động gặp khó khăn...
Giai đoạn 2011-2020, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh đã tổ
chức thành công Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh nhiệm kỳ 2011-
2016 và nhiệm kỳ 2017-2022. Phối hợp với Ban Dân vận tỉnh
ủy, các cấp chính quyền, ban, ngành, Hội Liên hiệp Phụ nữ
đã tiếp tục triển khai công tác dân vận qua nhiều mô hình
đã được thành lập và duy trì từ lâu như: Câu lạc bộ gia đình
hạnh phúc, Câu lạc bộ phòng chống tệ nạn xã hội, Câu lạc bộ
phòng chống ma túy từ trong gia đình; thành lập các tổ, nhóm
Vận động người thân trong gia đình không vi phạm pháp luật
và mắc tệ nạn xã hội. Những phong trào được Các cấp hội duy
trì và ngày càng phát huy hiệu quả là chương trình Đền ơn,
đáp nghĩa, chương trình Phụ nữ chung tay xây dựng nông
thôn mới, xây dựng Đô thị văn minh, Ngày gia đình Việt Nam,
Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo. Đặc biệt, mô hình tổ tiết kiệm
tín dụng và xoay vòng vốn, chị em giúp nhau không tính lãi
phát huy hiệu quả, giúp chị em tiếp cận đồng vốn, cải thiện và
351
trang trải cuộc sống gia đình, tạo lập hoạt động kinh doanh
buôn bán nhỏ, góp phần đẩy lùi việc cho vay nóng, vay nặng
lãi, phường hụi tại các địa phương. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh
khéo léo triển khai các chương trình gắn với vận động chị em
tham gia phong trào Dân vận khéo, từ đó nhân rộng các gương
điển hình trong công tác dân vận. Phối hợp với ngành công
an và các ngành Y tế, Giáo dục, Lao động - thương binh và xã
hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tổ chức các hoạt động tuyên
truyền, vận động về công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình,
chăm sóc sức khỏe phụ nữ, trẻ em, phòng chống tội phạm, tệ
nạn xã hội, giảm kỳ thị và chống phân biệt đối xử với người
nhiễm HIV/AIDS, bảo vệ môi trường... Phát huy truyền thống
uống nước nhớ nguồn, Hội tham gia tích cực phong trào đền
ơn, đáp nghĩa, chăm sóc phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh
hùng; vận động hội viên xây dựng được trên 400 mái ấm tình
thương tặng phụ nữ nghèo có hoàn cảnh khó khăn. Ngoài ra,
Hội thường xuyên phối hợp, hỗ trợ với các ngành, các cấp làm
tốt công tác quốc phòng - an ninh, tham gia hội trại tòng quân,
thăm hỏi, tặng quà tân binh, quan tâm tặng quà cho bộ đội
biên phòng và đồng bào dân tộc thiểu số nghèo ở Bình Phước...
Công tác dân vận trong giai đoạn 2011-2020 của Hội Liên
hiệp Phụ nữ tỉnh đã có những chuyển biến rõ rệt về lượng
cũng như về chất ngày càng đi vào thực tế cuộc sống, đáp ứng
nhu cầu và nguyện vọng của các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh,
góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh và mục tiêu vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tỉnh.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bình Dương
tiếp tục phối hợp, tham mưu và triển khai thực hiện hiệu quả
các đề án như: Đề án Đoàn kết tập hợp thanh niên công nhân
giai đoạn 2011-2015, đề án Đoàn kết tập hợp thanh niên công
nhân giai đoạn 2016-2020, đề án Phổ cập tin học cho thanh
niên và nâng cao kiến thức tin học cho cán bộ Đoàn - Hội - Đội,
đề án Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu
352
niên giai đoạn 2011-2015, Chương trình phát triển thanh niên
tỉnh Bình Dương đến năm 2020, đề án Văn phòng tư vấn, hỗ
trợ và phát triển thanh niên tỉnh Bình Dương giai đoạn 2016-
2020. Các hoạt động thường xuyên của Đoàn Thanh niên như
Thanh niên làm theo lời Bác; giúp đỡ, cổ vũ thanh niên tham
gia phát triển kinh tế - xã hội; Ngày hội nguồn lực trẻ tỉnh Bình
Dương; Tuần lễ Thanh niên công nhân tỉnh Bình Dương... có
ý nghĩa rất lớn trong tập hợp, động viên thanh niên tích cực
tham gia vào các hoạt động xã hội, phát huy sức trẻ đóng góp
cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Hội Cựu chiến binh tỉnh tích cực tham gia công tác Đảng,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Cán bộ hội
cũng là những thành viên tích cực trong các Tổ hòa giải, Hội
đồng hòa giải cơ sở với tỷ lệ hòa giải thành chiếm 86,35%. Hội
cùng với các ban ngành, đoàn thể có liên quan đã làm tốt công
tác xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, giáo
dục tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng cho thế hệ
trẻ. Các cấp hội nhiệt tình hưởng ứng phong trào Người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, Toàn dân đoàn kết xây dựng
nông thôn mới, Xây dựng đô thị văn minh... Đặc biệt, trong
chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Hội
đã thực hiện 35 công trình, trồng 3.000 cây xanh, làm 87.395m
đường giao thông, phát quang 89.950m đường nông thôn, nạo
vét 24.006m cống rãnh, hiến 10.260m2 đất, đóng góp 9.294 ngày
công và 457,2 triệu đồng. Mô hình Tiếp sức học sinh đến trường,
Không rải vàng mã dọc đường khi gia đình có người qua đời, Chi
hội trưởng Cựu chiến binh làm Bí thư Chi đoàn danh dự, Tấm
lòng vàng Cựu chiến binh, Câu lạc bộ Tình nguyện cứu người
khi bị tai nạn giao thông... được Các cấp hội nhân rộng.
Công tác vận động quần chúng của Hội Nông dân tỉnh giai
đoạn 2010-2020 hướng trọng tâm vào mục tiêu hoàn thành
nhiệm vụ chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn toàn tỉnh. Các cấp hội luôn sâu sát nắm bắt tình
353
hình, lắng nghe nguyện vọng của nông dân, tuyên truyền, giải
thích cặn kẽ, có tình có lý cho nông dân hiểu và xác định quyết
tâm xây dựng thành công chương trình. Đặc biệt, Hội tập trung
vận động nông dân thực hiện tốt các đề án đã được Ủy ban nhân
dân tỉnh thông qua như: Dự án phát triển kinh tế giai đoạn 2018
- 2020 và định hướng đến năm 2025; đề án Điều chỉnh khu nông
nghiệp ứng dụng công nghiệp cao An Thái; Đề án Chương trình
mỗi xã một sản phẩm; đề án thí điểm Làng thông minh trên địa
bàn xã Bạch Đằng; dự án Phát triển vườn cây ăn quả gắn với du
lịch sinh thái phía Nam tỉnh; dự án Xây dựng chuỗi sản xuất rau
an toàn vùng phía Nam tỉnh giai đoạn 2020 - 20211.
Hội Chữ thập đỏ tỉnh Bình Dương trong giai đoạn 2011-
2020 đã quan tâm sâu sắc đến công tác dân vận. Với đặc thù
công tác của Hội, Hội đã triển khai tuyên truyền, vận động và
phát động nhiều phong trào hướng đến cộng đồng mang tính
nhân đạo, xã hội, hình thành nhiều địa chỉ nhân đạo trên toàn
địa bàn tỉnh. Các hoạt động chính của Hội tập trung vào các
mảng: Công tác xã hội, công tác chăm sóc sức khỏe, công tác
phòng ngừa, ứng phó thảm họa, công tác cứu trợ khẩn cấp và
cứu trợ nhân đạo,... Giai đoạn 2011-2020, Hội đã triển khai
nhiều dự án, mô hình thiết thực phục vụ cộng đồng có ý nghĩa
xã hội cao như: Dự án Ngân hàng bò ở huyện Tân Uyên2, dự án

1. Ban Dân vận Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo sơ kết công tác dân vận quý I,
phương hướng, nhiệm vụ quý II năm 2020, ngày 13/4/2020.
2. Đây là chương trình phối hợp giữa Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Ban truyền hình
đối ngoại VTV4 - Đài Truyền hình Việt Nam và Tổ chức Đông - Tây hội ngộ thông
qua Chương trình “Cuộc sống vẫn tươi đẹp” vận động kinh phí hỗ trợ Dự án “Ngân
hàng bò”. Chương trình trao tặng 400 con bò giống và hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi
an toàn cho các hộ gia đình có người khuyết tật và nạn nhân chất độc da cam tại 5
huyện: Mộc Châu (Sơn La) 100 con, Tân Uyên (Bình Dương) 50 con, Bảo Yên (Lào
Cai) 100 con, Sơn Động (Bắc Giang) 100 con, Hiệp Đức (Quảng Nam) 50 con. Tại
tỉnh Bình Dương, dự án phối hợp cùng thú y huyện Tân Uyên tìm kiếm và lựa chọn
bò giống, tổ chức lễ bàn giao cho các hộ dân, đồng thời mời luôn cán bộ thú y tỉnh đến
để chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thật cho đội ngũ cán bộ Hội Chữ thập đỏ tỉnh,
huyện, cơ sở thuộc Chương trình dự án và các gia đình được hưởng lợi còn được trang
bị thêm tài liệu về cách chăn nuôi, làm chuồng trại, phòng, trị bệnh, hỗ trợ và giúp đỡ
nhau trong cộng đồng.

354
Tay, chân, miệng hướng đến phòng và chữa hiệu quả bệnh tay,
chân, miệng cho trẻ em trong tỉnh; các chương trình tặng nhà
Chữ thập đỏ, xây cầu giao thông nông thôn; mô hình Chợ nhân
đạo. Đặc biệt, năm 2020, để đối phó với dịch bệnh Covid-19,
Hội đã phát động nhiều hoạt động thiết thực như: Tháng nhân
đạo năm 2020, Chợ nhân đạo năm 2020 nhằm hỗ trợ người
nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn do ảnh hưởng của dịch
Covid-19.

- Công tác dân vận của lực lượng vũ trang

Lực lượng vũ trang tỉnh và Ban Dân vận Tỉnh ủy đã chủ


động phối hợp triển khai thực hiện công tác dân vận gắn với
tuyên truyền, quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân vận, phong trào
thi đua Dân vận khéo. Đảng ủy các đơn vị lực lượng vũ trang
chỉ đạo thực hiện quy chế công tác dân vận của ngành, đơn vị,
thực hiện quy chế dân chủ nhằm nâng cao nhận thức và xây
dựng tác phong công tác dân vận trong cán bộ, chiến sĩ. Bằng
các hình thức công tác dân vận: Kết nghĩa, ký kết chương
trình phối hợp, hành quân dã ngoại làm công tác dân vận, cán
bộ tăng cường cơ sở, tổ, đội công tác..., Bộ Chỉ huy Quân sự
tỉnh thường xuyên phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể địa
phương đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền, vận động Nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là Nhân dân vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng xa, vùng đồng bào có đạo và
các nơi trọng điểm, nơi nảy sinh các vấn đề phức tạp. Bên cạnh
đó, lực lượng vũ trang của tỉnh còn tham gia bồi dưỡng kiến
thức quốc phòng - an ninh cho các tầng lớp nhân dân trong
tỉnh, trong đó có cả chức sắc, chức việc tôn giáo, người có uy
tín, thanh niên là người dân tộc thiểu số; phối hợp với Sở Giáo
dục và đào tạo tổ chức tốt chương trình bồi dưỡng kiến thức
quốc phòng cho học sinh qua các học kỳ quân sự. Góp phần

355
vào nhiệm vụ phòng, chống đại dịch Covid-19, lực lượng quân
sự tỉnh đã tích cực tham gia công tác tuyên truyền và đặc biệt
đảm nhận tổ chức các khu cách ly tập trung tại tỉnh.
Với phương châm “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân
tin”, thông qua các hoạt động ra quân hằng năm, các đơn vị đã
giúp Nhân dân phát triển kinh tế, giảm nghèo... tổ chức các
đợt nạo vét kênh mương, cống rãnh thoát nước; vệ sinh tượng
đài liệt sĩ, mộ liệt sĩ vô danh; trao tặng quà cho các em học
sinh có hoàn cảnh khó khăn, gia đình có con em đang công tác
tại quần đảo Trường Sa; sửa chữa lại các căn nhà chính sách,
nhà tình nghĩa. Các đơn vị quân sự còn phối hợp nắm bắt tâm
tư, nguyện vọng của công nhân lao động; vận động các chủ nhà
trọ cùng với địa phương giúp đỡ gia đình công nhân gặp khó
khăn như không thu tiền trọ, tiền điện, nước, trao tặng nhà
tình nghĩa quân - dân...
Đảng ủy Công an tỉnh chỉ đạo công an các huyện, thị và
thành phố hướng dẫn lực lượng công an cơ sở chủ động phối
hợp cấp ủy, chính quyền các cấp đẩy mạnh tuyên truyền, giáo
dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và
Nhân dân về phòng ngừa, đấu tranh, trấn áp tội phạm, tệ nạn
xã hội, bảo đảm an ninh trật tự. Các đơn vị công an trong tỉnh
chú trọng triển khai tuyên truyền vận động Nhân dân thực
hiện tốt phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, Phòng
chống tệ nạn xã hội. Lực lượng công an tỉnh đã xây dựng mô
hình “Công an lắng nghe ý kiến Nhân dân”, thường xuyên tổ
chức các cuộc đối thoại để tiếp thu ý kiến của người dân, giải
quyết kịp thời những vướng mắc, bức xúc từ phía người dân.
Do đặc thù của ngành, các đơn vị chuyên môn trong lực lượng
thường xuyên tổ chức tuyên truyền pháp luật cho can phạm;
tuyên truyền Luật Giao thông đường bộ cho các tài xế xe taxi,
xe buýt; tuyên truyền “giây phút cảnh giác” về các thủ đoạn
trộm, cướp giật tài sản và các biện pháp phòng ngừa thông
qua chiếu các đoạn phim tại trụ sở tiếp dân, phục vụ người
356
dân khi đến trụ sở công an làm việc. Nhằm đem lại thuận lợi
cho người dân, lực lượng công an tham gia điều tiết giao thông
tại các chốt giao thông; trực tiếp đến nhà làm thủ tục đăng ký
cấp, đổi chứng minh thư nhân dân cho người cao tuổi, tàn tật;
phối hợp với bưu điện chuyển phát hộ khẩu, giấy chứng nhận
đăng ký xe máy... tận nhà cho công dân. Đặc biệt, lực lượng
công an tỉnh đã triển khai đề án Đội công nhân xung kích bảo
vệ nhà máy, xí nghiệp rất thiết thực và hiệu quả. Tinh thần
vì Nhân dân phục vụ của ngành công an tỉnh đã củng cố sự
tin tưởng của người dân vào lực lượng nói riêng, vào Đảng và
chính quyền nói chung.

- Công tác Dân tộc và Tôn giáo

Giai đoạn 2011-2020, Ban Dân vận Tỉnh ủy phối hợp với
các cấp chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể tiếp tục triển
khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, 24-NQ/TW và Nghị
quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng và Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 20/10/2015 của Ban
Bí thư về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bên cạnh công tác tuyên truyền, vận động, công tác dân
vận trong đồng bào có đạo, đồng bào các dân tộc thiểu số và
người Hoa trong giai đoạn này cũng được gắn với các phong
trào lớn: Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa, phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, chương trình
mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới,...
Ban Dân vận các cấp đã tham mưu cho các cấp ủy và chính
quyền ban hành các chủ trương, chính sách, chương trình phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội đối với vùng có đông đồng bào
dân tộc thiểu số trong các lĩnh vực cụ thể về giáo dục đào tạo,
dạy nghề, xây dựng cơ sở hạ tầng,... tạo điều kiện cho các hộ
dân tộc thiểu số phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc
357
sống. Song song với việc hỗ trợ các điều kiện trực tiếp sản
xuất cho đồng bào, tỉnh còn đầu tư các dự án, chương trình hỗ
trợ sản xuất như: Công trình thủy lợi Phước Hòa, huyện Dầu
Tiếng; đường giao thông nông thôn, hệ thống điện lưới, bưu
chính viễn thông đến tận xã ấp; mở các lớp dạy nghề (cạo mủ
cao su, nấu ăn, chăm sóc cây kiểng, cắt, uốn tóc...); tổ chức các
lớp tập huấn cách trồng, chăm sóc cây cao su, điều, tiêu, mì,
chăn nuôi gia súc, gia cầm; hướng dẫn kỹ thuật nông nghiệp;
hỗ trợ vật tư kỹ thuật để đồng bào phát triển nông nghiệp ổn
định, bền vững.
Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành kế hoạch thực hiện
chiến lược công tác dân tộc đến năm 20201. Theo đó, Bình
Dương tiếp tục phát triển giáo dục - đào tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, công tác cán bộ trong các dân tộc thiểu
số; thực hiện giảm nghèo, phát triển cơ sở hạ tầng; đồng thời,
tuyên truyền, phổ biến vị trí, vai trò của người phụ nữ trong
gia đình và xã hội, bình đẳng nam, nữ, quyền của trẻ em và
nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái; phổ biến chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về tự do tín ngưỡng, quy định về
hoạt động tôn giáo; khuyến khích sử dụng tiếng nói, chữ viết
của từng dân tộc trong cộng đồng và trong sinh hoạt gia đình;
giữ gìn truyền thống tốt đẹp của cộng đồng; khuyến khích và
tạo điều kiện để đồng bào dân tộc thiểu số sinh hoạt văn hóa
tập trung tại địa phương. Các cán bộ dân vận tích cực tuyên
truyền, thu hút thanh niên dân tộc thiểu số vào lực lượng dân
quân; vận động người uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số
hỗ trợ xử lý, giải quyết các vấn đề liên quan. Tỉnh cũng triển
khai thực hiện một số chương trình, đề án phát triển vùng có
đông dân tộc thiểu số, như: Mục tiêu phát triển vùng đồng bào

1. Nhằm đạt mục tiêu của chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 đã được phê
duyệt tại Quyết định số 449/QĐ-TTg ngày 12/03/2013 của Thủ tướng Chính phủ ngày
14/02/2015, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 526/KH-UBND về triển khai
thực hiện chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Bình Dương.

358
dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm
2025. Nội dung chính của chương trình là giúp các hộ nghèo,
cận nghèo tiếp tục được hưởng nhiều chính sách hỗ trợ phát
triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo bền vững.
Công tác dân vận trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số
luôn quán triệt tinh thần phát huy bản sắc văn hóa, phong
tục truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Hằng năm, chính quyền
hỗ trợ đồng bào tổ chức các lễ hội văn hóa của dân tộc mình,
như: Lễ hội rước cộ Bà của dân tộc Hoa, vui Tết của dân tộc
Sán Chỉ, lễ Ramadan của đồng bào người Chăm... Hoạt động
tôn giáo trong đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh
diễn ra ổn định, đồng bào tin tưởng vào đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Năm 2020, Ban Thường vụ Tỉnh ủy
đã ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 65-KL/TW ngày
30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết
số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa IX) về công tác dân tộc trong tình hình mới. Ủy
ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các ngành, các cấp phối hợp với các
địa phương tập trung lo tết cho đồng bào các dân tộc thiểu số
trên địa bàn tỉnh bảo đảm không để các hộ đồng bào dân tộc
thiểu số thiếu đói trong dịp Tết Nguyên đán.
Nhờ làm tốt công tác dân vận, tại các khu dân cư, các vị
chức sắc và tín đồ các tôn giáo luôn hưởng ứng những sinh hoạt
tự quản của cộng đồng; đoàn kết, phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ
cương; thực hiện sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Nhiều phong trào, nhiều cuộc vận động do chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể phát động đã được các vị chức
sắc, tu sĩ và đồng bào tín đồ hưởng ứng tích cực, đóng góp hiệu
quả. Tiêu biểu trong phong trào từ thiện bác ái xã hội là các
vị chức sắc các tôn giáo như: Hòa Thượng Thích Huệ Thông -
Trưởng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Bình Dương; Linh
mục Nguyễn Văn Minh - Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo
tỉnh; Linh mục Nguyễn Văn Riễn - Hạt trưởng Phước Thành,

359
Ủy viên Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam, Chủ tịch Ủy
ban Đoàn kết Công giáo tỉnh Bình Dương; Mục sư Nguyễn
Hoàng Phú - Quản nhiệm chi hội Tin lành Lái Thiêu; Mục
sư Phước Thành, Mục sư Nguyễn Ngọc Thanh, nhà thờ Cây
Trường, cùng nhiều vị chức sắc tôn giáo khác. Trên tinh thần
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, nhân các buổi sinh hoạt tại
các cơ sở thờ tự, các chức sắc thường lồng ghép nội dung tuyên
truyền pháp luật để giáo dân chấp hành pháp luật, đóng góp
tích cực cho các phong trào phát triển kinh tế, xã hội ở địa
phương. Đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực
trong học tập, lao động sản xuất, thực hiện nghĩa vụ công dân
ở địa phương. Nổi bật là các phong trào từ thiện xã hội, chăm
sóc sức khỏe cộng đồng, khuyến học, khuyến tài, đền ơn đáp
nghĩa, xóa đói, giảm nghèo, làm đường giao thông nông thôn,
chỉnh trang đô thị, phòng chống HIV/AIDS, phòng chống các
tệ nạn xã hội... đã có đóng góp quan trọng vào các phòng trào
xây dựng nông thôn mới, xây dựng đô thị văn minh. Nhiều
khu phố, ấp có đông đồng bào tôn giáo đã đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa, gìn giữ phát huy bản sắc văn hóa trong mọi
sinh hoạt và hằng năm đều đạt danh hiệu khu, ấp văn hóa;
nhiều gia đình tín đồ được tuyên dương gia đình văn hóa tiêu
biểu.
Những năm 2019 - 2020, Ban Dân vận Tỉnh ủy đã tham
mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy báo cáo tình hình 1 năm
thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 10/01/2018 của Bộ Chính
trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương (khoá IX) về công tác tôn giáo trong
tình hình mới. Ban Chỉ đạo công tác tôn giáo tỉnh đã tổ chức
đoàn công tác giám sát hoạt động của Ban Chỉ đạo công tác
tôn giáo các huyện, thị, thành phố; tổ chức cho các ngành chức
năng tham dự buổi tọa đàm Thực trạng và xu hướng biến đổi
của cộng đồng Islam giáo ở Bình Dương do Viện Nghiên cứu
Tôn giáo (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức;
360
phối hợp tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh chấp thuận một số
đề nghị của các tôn giáo theo quy định của pháp luật như: Bổ
nhiệm chức sắc, chức việc; xây dựng, trùng tu cơ sở tu viện; hỗ
trợ và tạo điều kiện Họ đạo Cao đài Hòa Phú tháo dỡ, di dời
các vật thờ cúng, vật dụng sinh hoạt đạo tại trên khu đất của
bà Lương Thị Nở về cơ sở tạm trên khu đất đã được Ủy ban
nhân dân tỉnh giao quyền sử dụng (tại khu tái định cư Phú
Chánh B, phường Hòa Phú, thành phố Thủ Dầu Một). Đồng
thời, tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng tiếp tục phối hợp xem
xét việc giao đất và hồ nước tại phường Bình An, thành phố Dĩ
An cho chùa Núi Châu Thới; hướng dẫn Thánh tịnh Cao đài
Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi phường Bình Hòa, thị xã Thuận
An tiếp tục hoạt động tôn giáo theo quy chế, đồng thời củng cố
đoàn kết nội bộ và chuẩn bị nhân sự bầu cử Ban Quản lý mới1.
Tuy nhiên, công tác dân vận trong đồng bào dân tộc, đồng
bào theo các tôn giáo khác nhau trong tỉnh có nhiều khó khăn,
phức tạp do mỗi cộng đồng có phong tục, tập quán, đức tin
riêng; đa số đồng bào sống ở những địa bàn còn nhiều khó
khăn; một số nhóm nhỏ lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để hoạt
động lôi kéo vì các mục tiêu chính trị, trái pháp luật hoặc mưu
cầu lợi ích kinh tế riêng. Do đó, công tác dân vận đối với mảng
dân tộc, tôn giáo luôn đòi hỏi phải có hình thức và nội dung
phù hợp mới có thể phát huy được khối đại đoàn kết dân tộc.
*
* *
Thời kỳ 1997 - 2020, công tác dân vận ở Bình Dương có
những thuận lợi căn bản: Tỉnh Bình Dương được tách ra từ
tỉnh Sông Bé cũ, tạo điều kiện phát huy được thế và lực của
một tỉnh có nhiều lợi thế về địa lý, dân cư; công cuộc đổi mới
thu được những thắng lợi bước đầu quan trọng, kinh tế của

1. Ban Dân vận Tỉnh ủy Bình Dương: Báo cáo sơ kết công tác dân vận quý I,
phương hướng, nhiệm vụ quý II năm 2020, ngày 13/4/2020.

361
tỉnh luôn tăng trưởng ổn định; chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội được điều chỉnh phù hợp với mục tiêu phát triển vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam, mà Bình Dương là một thành
viên tích cực, chủ động. Bình Dương cùng cả nước triển khai
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa với những cách làm
sáng tạo, quyết liệt. Phát huy những thuận lợi trên, công tác
dân vận của hệ thống chính trị nói chung, công tác dân vận
của Ban Dân vận Tỉnh ủy nói riêng đã góp phần quan trọng
vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương.
Đặc điểm của công tác dân vận thời kỳ này là Tỉnh ủy, Ủy
ban nhân dân tỉnh chỉ đạo sát sao các cấp ủy, chính quyền và
các đoàn thể, luôn bám sát tình hình quốc tế, trong nước và
đặc biệt là tình hình của địa phương để kịp thời lãnh đạo, chỉ
đạo các bộ phận phối hợp xây dựng chương trình, kế hoạch và
các giải pháp phù hợp triển khai công tác dân vận phục vụ
nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Ban Dân vận Tỉnh ủy bám sát các
văn bản, quy định của Trung ương, làm tốt chức năng tham
mưu, phối hợp, đề xuất những nội dung, giải pháp để Tỉnh
ủy, Ủy ban nhân dân, Mặt trận và các cơ quan, đơn vị, đoàn
thể chính trị - xã hội các cấp trong tỉnh phối hợp triển khai
hiệu quả công tác dân vận. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương
triển khai đồng bộ và hiệu quả công tác dân vận chính quyền,
đã có nhiều giải pháp cải cách thủ tục hành chính, cải thiện
môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư trong và ngoài nước...
tạo ra nhiều việc làm mới, tăng thu ngân sách. Năm dân vận
chính quyền là chủ trương đúng đắn của Ban Dân vận Trung
ương đã được Bình Dương tích cực triển khai thực hiện, bước
đầu đã có hiệu quả thiết thực góp phần tăng cường công tác
dân vận của các cơ quan chính quyền.
Ban Dân vận các cấp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội các cấp không ngừng được kiện toàn về tổ
chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, góp phần
quan trọng vào hoạt động của các phong trào, các cuộc vận
362
động, nhất là thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Công tác dân
vận của các lực lượng vũ trang có nhiều đổi mới, gần dân, vì
dân phục vụ. Các mảng công tác dân tộc, tôn giáo và người
Hoa có nhiều đổi mới sáng tạo về phương thức và nội dung,
đáp ứng đúng nguyện vọng của đồng bào các dân tộc và đồng
bào có đạo; qua đó, tuyên truyền, giáo dục và tập hợp được
đồng bào tham gia thiết thực vào các hoạt động xây dựng, phát
triển kinh tế, xã hội, văn hóa ở địa phương, góp phần bảo đảm
an ninh, trật tự ở địa bàn dân cư.
Sự phát triển năng động, có trách nhiệm đã giúp Bình
Dương được bình chọn là 1 trong 21 thành phố, khu vực có
chiến lược phát triển thành phố thông minh tiêu biểu của thế
giới. Bình Dương chính thức là thành viên của Diễn đàn cộng
đồng thông minh thế giới (ICF). Với vinh dự và trách nhiệm
này, Bình Dương đã chủ động tổ chức thành công một số sự
kiện quốc gia, quốc tế quan trọng như:  Lễ kỷ niệm 20 năm
thành lập Hiệp hội đô thị khoa học thế giới (WTA) và Diễn đàn
Đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2018; Diễn đàn Hợp tác kinh
tế châu Á (Horasis) năm 2018, 2019.
Đứng trước vận hội mới, hệ thống dân vận các cấp, các
ngành cũng như mỗi cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên,
hội viên trong hệ thống chính trị tỉnh Bình Dương càng nhận
thức rõ phải luôn nắm chắc quan điểm chỉ đạo, điều hành trong
triển khai công tác dân vận. Quán triệt phương châm dân vận
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra đối với người tham gia làm
công tác dân vận: “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng
nói, tay làm”1. Toàn hệ thống chính trị phải không ngừng đổi
mới, tăng cường công tác dân vận thông qua các cuộc vận động
trong các tầng lớp nhân dân; bám sát, phù hợp nhu cầu thực
tiễn của người dân, đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, phát huy dân chủ cơ sở; phát huy vai trò của tổ chức chính

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.233-234.

363
trị, đa dạng hóa các loại hình tập hợp Nhân dân.
Từ những thành tựu, hạn chế của công tác dân vận chính
quyền giai đoạn 1997 - 2020, có thể rút ra một số bài học kinh
nghiệm trong công tác dân vận là:
Một là, việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng,
chỉ thị của Chính phủ về công tác dân vận, dân vận chính
quyền phải có sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy, sự nhận thức
đầy đủ, sâu sắc và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp
chính quyền, cơ quan nhà nước, nhất là người đứng đầu, cùng
với sự kiên trì tuyên truyền, vận động công chức, viên chức,
đoàn viên, hội viên, Nhân dân tham gia thực hiện.
Hai là,  mọi chủ trương, quyết định, chính sách của địa
phương đều phải phù hợp với lợi ích chính đáng của đông đảo
Nhân dân; phải công khai cho dân biết và Nhân dân được trực
tiếp tham gia góp ý trước khi tổ chức thực hiện. Quá trình thực
hiện phải kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, động
viên, khen thưởng và kịp thời xử lý những thiếu sót, sai phạm
của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Ba là, phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và phân công
trách nhiệm cụ thể giữa chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội trong quá trình triển khai thực hiện
công tác dân vận.

364
KẾT LUẬN
Chặng đường 90 năm hình thành và phát triển (1930-
2020), trải qua các thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc,
kháng chiến chống xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng
như trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế, công tác dân vận luôn là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của Đảng, là điều kiện bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng, là nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của
sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trong thời kỳ 1930-1945, công tác dân vận của Đảng gặp
nhiều khó khăn, do chưa có chính quyền cách mạng, lực lượng
đảng viên còn rất ít, lại phải hoạt động trong điều kiện bí mật,
luôn bị kẻ thù đàn áp, bắt bớ. Song, kể từ khi Chi bộ đầu tiên
được thành lập (năm 1930) trên địa bàn tỉnh Bình Dương, từng
cán bộ, đảng viên luôn ý thức sâu sắc công tác vận động quần
chúng, tập hợp, đoàn kết quần chúng dưới ngọn cờ của Đảng.
Những lớp cán bộ, đảng viên đầu tiên của tỉnh đã không quản
gian lao, thực hiện “ba cùng” với Nhân dân để xây dựng phong
trào, vận động cách mạng trong quần chúng. Thực tiễn công
tác dân vận ở Bình Dương thời kỳ 1930-1945 cho thấy trong
mỗi giai đoạn, thời kỳ cách mạng, Tỉnh ủy cũng như từng cán
bộ, đảng viên luôn quán triệt quan điểm, chủ trương, đường lối,
chính sách về công tác vận động quần chúng của Đảng, bám sát
các mục tiêu dân sinh, dân chủ mà Đảng đã đề ra, từ đó, căn
cứ vào tình hình thực tiễn của địa phương mà vận dụng sáng
tạo, linh hoạt các phương thức dân vận, hướng đến mục tiêu
cao nhất là tập hợp, xây dựng lực lượng cách mạng, bao gồm
tất cả các lực lượng, các tầng lớp có thể lôi kéo, đoàn kết được.
Thông qua hình thức Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi,
Tỉnh ủy chỉ đạo cán bộ, đảng viên làm công tác dân vận chủ
động đi sâu vào quần chúng, tuyên truyền, vận động, tổ chức
365
quần chúng đấu tranh bằng nhiều hình thức phong phú công
khai, hợp pháp, nửa hợp pháp. Những hình thức, phương pháp
vận động quần chúng thể hiện qua các khẩu hiệu tuyên truyền,
cổ động, qua các chương trình hành động cách mạng, qua các
phong trào vận động giải phóng dân tộc một cách thích hợp,
không cứng nhắc, phù hợp với đặc điểm của từng thời kỳ cách
mạng và đặc điểm địa phương. Kết quả là quần chúng đã được
tập hợp lại, giác ngộ, rèn luyện, đi từ đấu tranh đòi dân sinh,
dân chủ đến đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, tiến tới
tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, công tác dân
vận của Tỉnh ủy tập trung vào mục tiêu huy động mọi tầng lớp
nhân dân, các giới đồng bào chung tay bảo vệ nền độc lập, xây
dựng chính quyền dân chủ nhân dân, đoàn kết cùng đồng bào cả
nước kháng chiến, kiến quốc. Chính quyền cách mạng non trẻ
vừa xây dựng chưa bao lâu, Bình Dương đã phải cùng cả nước
bước vào cuộc trường chinh kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ (1945-1975), công tác dân vận lại được Tỉnh ủy, cán bộ, đảng
viên đặt lên hàng đầu, đi trước một bước để tạo chỗ đứng cho
cách mạng. Cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lặn lội với phong trào,
kiên cường bám dân để thực hiện nhiệm vụ Đảng giao phó. Với
phương châm, bám sát dân, mở rộng mặt trận đoàn kết công,
nông, trí thức, tư sản dân tộc, các giới đồng bào, phối hợp đồng
thời các hoạt động công vận, nông vận, thanh vận, phụ nữ vận,
địch vận... tạo chuyển biến thuận lợi cho việc tập hợp lực lượng
đánh bại kẻ thù, giải phóng quê hương. Trong công cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, Mặt trận Dân tộc thống nhất là tổ
chức có khả năng tập hợp, động viên và phát huy sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân hiệu quả nhất. Tập hợp dưới ngọn cờ
của Đảng và Mặt trận Dân tộc thống nhất, các tổ chức Công hội,
Nông hội, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các tổ, đội tự vệ, các
hội quần chúng đã ra đời, trưởng thành, lớn mạnh cả về đội ngũ
và tinh thần yêu nước, cách mạng. Mặt trận Dân tộc thống nhất
là tổ chức rộng lớn nhất, có khả năng động viên, khơi dậy mạnh
mẽ nhất tinh thần dân tộc, lòng yêu nước cao độ của các tầng lớp
366
nhân dân, các giới đồng bào vào công cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước. Thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là thắng lợi của đường lối
mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, là thành công của việc xây
dựng lực lượng chính trị theo tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh
“Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót
một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân”1 vì mục tiêu
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Sau thắng lợi lịch sử 30/4/1975, công tác dân vận hướng vào
mục tiêu khôi phục, hàn gắn vết thương chiến tranh, cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, đấu tranh bảo vệ nền độc
lập, thống nhất của đất nước. Bước vào thời kỳ đổi mới, công tác
dân vận của Đảng càng được khẳng định rõ nét cả về lý luận lẫn
thực tiễn. Quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, mối quan hệ
giữa các cấp ủy đảng với Nhân dân được đặc biệt coi trọng. Nghị
quyết 08B-NQ-TW ngày 27/3/1990 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân, Chỉ thị số 30-CT/
TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở đã được Tỉnh ủy mà trực tiếp là Ban
Dân vận Tỉnh ủy triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả đến
từng cơ sở. Cùng với quá trình kiện toàn về mặt tổ chức, nhân
sự, Ban Dân vận Tỉnh ủy đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ của một tổ chức chuyên trách tham mưu, đề xuất những kế
hoạch, giải pháp, chương trình vận động quần chúng, góp phần
quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của
tỉnh. Các mảng công tác dân tộc, tôn giáo và công tác người Hoa
được Ban Dân vận Tỉnh ủy phối hợp với chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể triển khai thực hiện hiệu quả, tạo sự ổn
định và đồng thuận cao giữa chính quyền và đồng bào các dân
tộc thiểu số, đồng bào có đạo. Quần chúng nhân dân được tập
hợp, tổ chức, được quan tâm phát triển đời sống kinh tế, xã hội,

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232.

367
văn hóa đã tin tưởng vững chắc vào tương lai tươi sáng của đất
nước và của tỉnh nhà. Công tác dân vận đã góp phần to lớn tạo
nên sức mạnh đoàn kết trong toàn tỉnh, tạo tiền đề thuận lợi để
Bình Dương tiến hành công cuộc đổi mới.
Từ năm 1997 đến nay, kế thừa thành tựu của các thời kỳ
trước, công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Bình Dương hướng
mạnh về cơ sở, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng, chính
quyền với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng bộ,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ và
đảng viên. Đây chính là cội nguồn sức mạnh để Bình Dương
tiến hành thành công những mục tiêu đề ra của thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Qua quá trình triển khai thực hiện công tác dân vận, bộ
máy dân vận và đội ngũ cán bộ dân vận của tỉnh Bình Dương
ngày càng được xây dựng, củng cố, kiện toàn, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng từng thời kỳ. Năm 1947, Bộ Dân vận
được thành lập ở Trung ương, các Khu và các tỉnh thành lập
Ban Dân vận. Thuộc chức năng quản lý của Ban Dân vận có
các tiểu ban (thanh vận, Phụ nữ vận, Nông vận, Binh vận,...).
Kể từ đây, công tác dân vận đã có tổ chức chuyên trách. Đội
ngũ cán bộ làm công tác dân vận của tỉnh được rèn luyện
qua phong trào, qua khó khăn gian khổ, qua thách thức sinh
tử ngày càng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm, là những
người “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay
làm”1. Cán bộ, đảng viên làm công tác dân vận luôn xác định
rõ công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với
sự nghiệp cách mạng, coi công tác dân vận có mối quan hệ chặt
chẽ với công tác xây dựng Đảng.
Nhằm hoàn thiện về mặt tổ chức và phát huy vai trò công
tác dân vận trong thời kỳ cách mạng mới, Ban Dân vận Trung
ương đã được thành lập vào ngày 17/3/1981. Thực hiện Quyết
định số 93-QĐ/TW, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
III ngày 31/5/1983, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Sông Bé đã ra

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.233-234.

368
Quyết định số 13-QĐ/TU thành lập Ban Dân vận tỉnh uỷ. Sau
ngày thành lập, Ban Dân vận Tỉnh ủy đã kiện toàn tổ chức bộ
máy, thực hiện phân công, phân nhiệm, xây dựng quy chế và
chương trình hoạt động thường niên. Đặc biệt, kể từ khi Bộ
Chính trị ra Nghị quyết số 290-QĐ/TW ngày 25/02/2010 về
việc ban hành quy chế công tác dân vận của hệ thống chính
trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ban hành
Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 về tăng cường và đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình
hình mới, hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ dân vận của tỉnh
không ngừng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, góp
phần quan trọng thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Tỉnh
ủy trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc
phòng - an ninh, bảo đảm an sinh xã hội. Với đặc thù là một
tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ, có sự
phát triển đột phá về công nghiệp trong vài chục năm trở lại
đây, công tác dân vận ở Bình Dương vừa có nhiều thuận lợi,
nhưng cũng có không ít khó khăn, thách thức. Lãnh đạo và
đội ngũ cán bộ dân vận của Bình Dương đã bám sát những
quan điểm của Trung ương và Tỉnh ủy, những nguyên tắc về
mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, nhận thức đúng vị trí
của các đoàn thể trong hệ thống chính trị, nhờ đó mà đã phát
huy tốt vai trò, vị trí của cả hệ thống trong thực hiện nhiệm vụ
chính trị được Tỉnh ủy giao phó.
Thực tiễn công tác dân vận của hệ thống dân vận tỉnh
Bình Dương trong 90 năm qua đã để lại nhiều bài học, kinh
nghiệm quý báu. Đó là:
Thứ nhất, bài học “lấy dân làm gốc”. Công tác dân vận phải
luôn dựa vào lực lượng và trí tuệ của quần chúng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ ra:
“Gốc có vững cây mới bền.
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”1.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.502.

369
Trong quá trình tiến hành nhiệm vụ cách mạng, các cấp ủy,
chính quyền và cán bộ, đảng viên làm công tác dân vận trên địa
bàn tỉnh Bình Dương nhận thức sâu sắc vai trò của quần chúng
trong cách mạng, hiểu rõ vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng
là vấn đề đoàn kết, tập hợp được đông đảo quần chúng đứng vào
đội ngũ do Đảng lãnh đạo. “Cách mạng là sự nghiệp của dân, do
dân và vì dân”. Trí tuệ và sức mạnh của quần chúng là vô hạn.
Do đó, mối liên hệ mật thiết, gắn bó với quần chúng luôn được
quan tâm xây dựng, gìn giữ và phát huy. Cán bộ, đảng viên đi
trước một bước, gương mẫu, trách nhiệm trước Đảng, trước dân,
từ đó củng cố lòng tin của quần chúng, lôi cuốn quần chúng vào
các phong trào thi đua yêu nước.
Thứ hai, giá trị cốt lõi, xuyên suốt của công tác dân vận
chính là gần dân, hiểu dân, tin dân. Để công tác dân vận thực
hiện có hiệu quả, Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể, các sở, ban ngành phải luôn xem dân vận là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng
viên; chủ động, sáng tạo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của hệ
thống dân vận; không ngừng kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới
nội dung và phương thức vận động quần chúng là yêu cầu bắt
buộc, thường xuyên của công tác dân vận. Để làm được điều
này, một mặt hệ thống làm công tác dân vận của tỉnh phải luôn
quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị
của Trung ương và Tỉnh ủy về công tác dân vận; mặt khác, phải
luôn chủ động, tích cực tìm tòi, nghiên cứu, đề xuất các chương
trình, dự án, mô hình và phương thức để tham mưu cho các cấp
ủy, giúp các cấp ủy đề ra và chỉ đạo sát sao, hiệu quả các chủ
trương, giải pháp lớn về công tác dân vận. Trong thời đại hiện
nay, phát huy dân chủ cơ sở, thực hiện đúng đắn phương châm
cơ bản của công tác dân vận “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Thứ ba, công tác dân vận phải dựa trên cơ sở chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đồng thời, công tác dân vận phải căn cứ vào tình hình và
nhiệm vụ cụ thể của tỉnh để góp phần bổ sung, hoàn thiện chủ

370
trương, đường lối, chính sách, pháp luật. Chủ trương, chính
sách đúng, phù hợp với lợi ích của quần chúng là cơ sở bảo đảm
chắc chắn cho sự thành công của công tác dân vận. Do đó, cùng
với việc tham mưu cho các cấp ủy xây dựng các chủ trương,
chính sách dân vận, công tác dân vận còn phải nắm vững tâm
tư, nguyện vọng của quần chúng, đề cao được vai trò của quần
chúng trong tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, phát
huy quyền làm chủ của Nhân dân.
Thứ tư, công tác dân vận phải được triển khai bằng nhiều
hình thức phù hợp với đặc điểm, khả năng, trình độ và lợi
ích của từng giới, từng bộ phận quần chúng, nhằm thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Trong quá trình làm
công tác dân vận 90 năm qua, tùy vào đặc điểm, tình hình
của địa phương trong mỗi thời kỳ, quần chúng trong tỉnh
được tập hợp trong các tổ chức hội, đoàn thể, được rèn luyện
qua các phong trào. Có thể nói, công tác dân vận là công tác
của phong trào. Việc phát động các phong trào, các cuộc vận
động quần chúng là phương thức hiệu quả nhất để thực hiện
thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng
thời, qua phong trào quần chúng mà chủ trương, chính sách
được bổ sung, hoàn thiện. Hiện nay, các phong trào thiết thực
như Cả nước chung tay vì người nghèo không để ai bị bỏ lại
phía sau, Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, Toàn
tỉnh chung sức xây dựng nông thôn mới, xây dựng Đô thị văn
minh... đang hiện thực hóa những chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước và của tỉnh, góp phần quan trọng thực hiện
mục tiêu của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế của tỉnh. Việc nắm bắt và đáp ứng đúng
yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng; hiểu rõ và
đáp ứng phù hợp lợi ích chính đáng của quần chúng, gắn kết
công tác dân vận của hệ thống chính trị với xã hội hóa công
tác vận động quần chúng vừa là mục tiêu vừa là phương thức
để triển khai “Dân vận khéo”. Đội ngũ thực hiện công tác dân
vận tỉnh Bình Dương phải nhận thức thấu đáo và hiểu đúng
đắn, sâu sắc “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan

371
trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì
việc gì cũng thành công ”1 như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra.
Thứ năm, công tác xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ,
chuyên viên làm công tác dân vận để làm tốt chức năng, nhiệm
vụ của công tác dân vận phải được quan tâm đặc biệt. Cán bộ,
chuyên viên làm công tác dân vận phải thật sự đáp ứng tiêu
chuẩn “vừa hồng, vừa chuyên”. Để đáp ứng tiêu chuẩn, công
tác quy hoạch, điều động cán bộ phải được thực hiện thường
xuyên, đúng quy trình, phù hợp với đặc điểm, tính chất của
từng vị trí công việc. Cán bộ làm công tác dân vận không chỉ
rèn luyện bản lĩnh, phẩm chất mà còn phải được bồi dưỡng,
đào tạo chuyên môn nhằm nâng cao trình độ, năng lực, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế. Thực tiễn đã chứng minh, chất
lượng và hiệu quả công tác dân vận phụ thuộc rất nhiều vào
chất lượng của tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác
dân vận. Do đó, xây dựng đội ngũ làm công tác dân vận phải
gắn liền với xây dựng, kiện toàn Ban Dân vận và các tổ chức
làm công tác dân vận. Trong bất kỳ thời kỳ nào, cán bộ vẫn là
gốc của mọi công việc. Cán bộ làm công tác dân vận có trình độ
chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức tốt, có kỹ năng nghiệp
vụ giỏi, có lòng đam mê, tận tụy với công việc và lòng tin tưởng
vững chắc vào sức mạnh của quần chúng là cơ sở bảo đảm
thành công của công tác dân vận.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.234.

372
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2011.

3. Ban Chấp hành Trung ương - Ban Dân vận: Lịch sử công tác
dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2010), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2015.

4. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh: Tổng kết cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước: Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1995.

5. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh: Chiến tranh cách mạng
Việt Nam (1945-1975) - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000.

6. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh: Tổng kết chiến tranh nhân
dân địa phương,, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001.

7. Ban Dân vận Trung ương - Trung tâm nghiên cứu khoa học
dân vận: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận
trong thời kỳ mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

8. Ban Dân vận Trung ương - Trung tâm nghiên cứu khoa học
dân vận: 75 năm công tác dân vận của Đảng, một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

9. Ban Dân vận Trung ương: Công tác dân vận của Đảng thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003.

10. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Lịch sử Đảng

373
Cộng sản Việt Nam, (Sơ thảo)(1920-1954), Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1981.

11. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam
thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà
Nội, 2001.

12. Bộ Quốc phòng- Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Hậu


phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945-1975), Nxb. Quân
đội nhân dân, 1997.

13. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bình Dương: Báo cáo “Diễn biến
tình hình của tỉnh Thủ Dầu Một từ Mậu Thân năm 1968 đến tháng
12/1973”, lưu trữ tại Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bình Dương.

14. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bình Dương: Báo cáo Hội nghị đại
biểu Đảng bộ Phân khu 5 lần thứ nhất (5/1970), lưu trữ tại Bộ Chỉ
huy Quân sự tỉnh Bình Dương.

15. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bình Dương: Báo cáo kết quả hoạt
động năm 1972 của tỉnh Thủ Dầu Một, lưu trữ tại Bộ Chỉ huy Quân
sự tỉnh Bình Dương.

16. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng
bộ tỉnh Bình Dương (1930-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003.

17. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lược sử ngành
Tổ chức Đảng bộ Bình Dương trong hai cuộc kháng chiến, Bình
Dương, 2002.

18. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé: Báo cáo của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ
III (đợt II) ngày 10/12/1983.

19. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé, Báo cáo của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
lần thứ IV, số 64/BC ngày 29/10/1986.

374
20. Ban Chỉ đạo và Ban biên tập truyền thống Tây Nam Bộ: Tây
Nam Bộ 30 năm kháng chiến (1945-1975), tháng 12/2000.

21. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương (2014), Lịch sử
chiến tranh nhân dân tỉnh Bình Dương (1945 - 1975), Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

22. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương (2011), Lịch sử
Đảng bộ tỉnh Bình Dương (1975-2010), NXB. chính trị quốc gia, Hà
Nội.

23. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Bình Dương, Nghị quyết
Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương, tháng 5-1973,
Tài liệu số 31.

24. Ban tổng kết chiến tranh B2 (1979), Báo cáo tổng kết kinh
nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên chiến trường
Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), lưu tại phòng Tư liệu Ban tổng
kết chiến tranh B2.

25. Ban tổng kết chiến tranh B2, Nghị quyết Xứ ủy lần thứ 4,
Tài liệu số 7.924, lưu tại phòng Tư liệu Ban tổng kết chiến tranh B2.

26. Ban tổng kết chiến tranh B2, Nghị quyết của đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ ba, tháng 9-1960, hồ sơ số 7787, lưu tại phòng Tư
liệu Ban tổng kết chiến tranh B2.

27. Ban tổng kết chiến tranh B2, Nghị quyết của đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ ba, tháng 1-1961, hồ sơ số 7789, lưu tại phòng Tư
liệu Ban tổng kết chiến tranh B2.

28. Ban tổng kết chiến tranh B2, Nghị quyết TWC lần thứ nhất
tháng 11-1961, tài liệu số 7792, lưu tại phòng Tư liệu Ban tổng kết
chiến tranh B2.

29. Ban tổng kết chiến tranh B2, Cuộc chiến tranh xâm lược của
đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ - nguy trên chiến trường
B2, lưu tại phòng Tư liệu Ban tổng kết chiến tranh B2.

30. Ban tổng kết chiến tranh B2, Nghị quyết TWC lần thứ 9

375
(tháng 7/69), hồ sơ số 2244, lưu tại phòng Tư liệu Ban tổng kết chiến
tranh B2.

31. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương, Báo cáo năm 1969 của
Phòng Chính trị Phân khu 5. Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy Bình Dương.

32. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương, Nghị quyết Tỉnh ủy
Thủ Dầu Một tháng 10-1974 về “Đánh bại chính sách bình định lấn
chiếm mới của Mỹ - ngụy, tiến tới hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân”. Tư liệu số 57/NQ, lưu trữ tại Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy Bình Dương.

33. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương, Công văn số 21/CV.X
ngày 2-4-1975 của Thường trực Tỉnh ủy Thủ Dầu Một. Tài liệu lưu
trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương.

34. Chỉ đạo của đồng chí Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục
tại Hội nghị Tổng kết công tác nông vận, phụ vận tháng 1-1973, tài
liệu lưu trữ tại kho Lưu trữ Trung ương Đảng.

35. Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Cục về công tác binh vận
năm 1966-1967, ban hành ngày 25-9-1966, tài liệu lưu trữ lưu tại
kho Lưu trữ Viện Lịch sử Đảng.

36. Chỉ thị của Trung ương Cục ngày 6-1-1969 về đẩy mạnh
công tác nông vận trong năm 1969, tài liệu lưu tại kho Lưu trữ
Trung ương Đảng.

37. Chỉ thị của Trung ương Cục ngày 2-12-1965 về tăng cường
công tác vận động phụ nữ tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, tài liệu lưu tại kho Lưu trữ Trung ương Đảng.

38. Chủ trương của Trung ương Cục ngày 22-12-1968 về tăng
cường công tác phát triển Đoàn Thanh niên cách mạng miền Nam,
tài liệu lưu tại kho Lưu trữ Trung ương Đảng.

39. Chủ trương của Trung ương Cục ngày 24-3-1969 về đẩy
mạnh đấu tranh chính trị, tấn công binh vận làm tan rã suy sụp

376
ngụy quân, ngụy quyền, tài liệu lưu tại kho Lưu trữ Trung ương
Đảng.

40. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng
(2002), Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Tỉnh ủy Sông Bé - Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công tác
quần chúng năm 1981-1985 ngày 16-3-1986.

42. Tỉnh ủy Sông Bé - Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công tác
quần chúng năm 1985 ngày 01-01-1986.

43. Tỉnh ủy Sông Bé - Ban Dân vận, Báo cáo công tác Dân vận tỉnh Sông
Bé, năm 1983 ngày 25-11-1983.

44. Tỉnh ủy Sông Bé - Ban Dân vận, Báo cáo Kết quả Hội nghị Tổng kết
công tác Dân vận năm 1986 ngày 14-3-1987.

45. Tỉnh ủy Sông Bé - Ban Dân vận, Báo cáo công tác Dân vận năm 1987
ngày 10-12-1987.

46. Tỉnh ủy Sông Bé - Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công tác dân vận
từ 1991 - 1995 và phương hướng nhiệm vụ đến năm 2000 ngày 15-4-1996.

47. Tỉnh ủy Sông Bé - Ban Dân vận, Báo cáo công tác Dân vận tháng 9
năm 1996 ngày 20-9-1996.

48. Tỉnh ủy Bình Dương (2000), Lịch sử Đảng bộ thị xã Thủ Dầu
Một - Bình Dương, Nxb. Tổng hợp Bình Dương.

49. Tỉnh ủy Sông Bé - Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công tác
quần chúng năm 1983 - 1986 ngày 15-4-1986.

50. Tỉnh ủy Sông Bé - Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công tác
quần chúng năm 1983 - 1986 ngày 15-4-1986.

51. Tỉnh ủy Bình Dương (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình


Dương (1930-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Tỉnh ủy Sông Bé, Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh

377
tỉnh Sông Bé tại Đại hội đại biểu lần thứ nhất (vòng 2) ngày 27
tháng 04 năm 1977.

53. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công
tác dân vận 6 tháng đầu năm 2000 ngày 26-7-2000.

54. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo Tổng kết công
tác dân vận năm 2001, Phương hướng nhiệm vụ năm 2002 ngày
4-2-2002.

55. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo tình hình quần
chúng và công tác dân vận 6 tháng đầu năm 2002 ngày 19-7-2002.

56. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo tình hình quần
chúng và công tác dân vận 6 tháng đầu năm 2003 ngày 25-3-2003.

57. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo tình hình hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quý IV/2003. Phương hướng
hoạt động quý I/2004 ngày 23-12-2003.

58. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo công tác dân
vận tháng 11/2003. Phương hướng công tác tháng 1/2004 ngày 26-
12-2003.

59. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Tổng kết công tác dân
vận năm 2003. Phương hướng, nhiệm vụ năm 2004 ngày 9-3-2004.

60. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Tổng kết công tác dân
vận năm 2005. Phương hướng, nhiệm vụ năm 2006 ngày 14-2-2006.

61. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo Tổng kết công
tác dân vận năm 2006. Phương hướng, nhiệm vụ năm 2007 ngày
9-01-2007.

62. Tỉnh ủy Bình Dương, Báo cáo về “Đổi mới phương thức hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính tri-xã
hội tỉnh Bình Dương” ngày 14-8-2007.

63. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công
tác dân vận năm 2007. Phương hướng, nhiệm vụ năm 2008 ngày
18-12-2007.

378
64. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công
tác dân vận năm 2007. Phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm
2008 ngày 13-01-2008.

65. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công
tác dân vận 6 tháng đầu năm 2009. Phương hướng, nhiệm vụ 6
tháng cuối năm 2009 ngày 25-6-2009.

66. Tỉnh ủy Bình Dương- Đoàn Kiểm tra Quyết định 1240-QĐ/
TU, Báo cáo Kết quả kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực
hiện Chương trình hành động số 30-CTr/TU ngày 26/02/2007 của
Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Đại hội đảng toàn quốc lần thứ X về
công tác dân vận ngày 4-6-2010.

67. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo sơ kết 2 năm
thực hiện “Năm dân vận chính quyền”2009-2010 ngày 22-10-2010.

68. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công
tác dân vận năm 2010, Phương hướng nhiệm vụ năm 2011 ngày
28-12-2010.

69. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công
tác dân vận 6 tháng đầu năm, Phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối
năm 2011 ngày 01-8-2011.

70. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công
tác vận động quần chúng của Đảng bộ năm 2011. Một số phương
hướng nhiệm vụ năm 2012 ngày 18-11-2011.

71. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo tổng kết công
tác năm 2011. Phương hướng, nhiệm vụ năm 2012 ngày 9-01-2012.

72. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo Kết quả công
tác dân vận 6 tháng đầu năm, Phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối
năm 2012 ngày 12-7-2012.

73. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo Tình hình công
tác xây dựng Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
năm 2013; phương hướng, nhiệm vụ năm 2014 ngày 9-12-2013.

379
74. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công
tác dân vận năm 2013, Phương hướng nhiệm vụ năm 2014 ngày
20-12-2013.

75. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công
tác dân vận năm 2014, Phương hướng nhiệm vụ năm 2015 ngày
27-2-2015.

76. Tỉnh ủy Bình Dương, Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Quyết
định số 290-QĐ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) “Về ban hành Quy
chế công tác dân vận của hệ thống chính trị” ngày 6-7-2015.

77. Tỉnh ủy Bình Dương, Báo cáo Tổng kết 17 năm thực hiện
Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII)
về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ngày 28-7-2015.

78. Tỉnh ủy Bình Dương, Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Chương
trình hành động số 16-CTHĐ/TU của Tỉnh ủy Bình Dương thực
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng tòn quốc lần thứ XI về công tác dân
vận ngày 16-9-2015.

79. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo Tổng kết công
tác dân vận năm 2015, Phương hướng nhiệm vụ năm 2016 ngày
13-01-2016.

80. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo tình hình công
tác dân vận năm 2016, Phương hướng nhiệm vụ năm 2017 ngày
23-01-2017.

81. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Sơ kết 3 năm thực hiện
Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định 218-QĐ/TW ngày 12-12-
2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) ngày 11-7-2017.

82. Tỉnh ủy Bình Dương, Sơ kết 5 năm thực hiện Quyết định số
217-QĐ/TW và Quyết định 218-QĐ/TW ngày 12-12-2013 của Bộ
Chính trị (khóa XI) ngày 28-11-2018.

83. Tỉnh ủy Bình Dương-BCĐ Tỉnh thực hiện QCDC ở cơ sở, Sơ


kết 3 năm thực hiện Kết luận số 120-KL/TW ngày 01/01/2016 của

380
Bộ Chính trị (khóa XI) “về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng,
hiệu quả việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” ngày
11-5-2018.

84. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo Tổng kết công
tác dân vận năm 2018, Phương hướng nhiệm vụ năm 2019 ngày
17-12-2018.

85. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo sơ kết công tác
dân vận năm 2019, Phương hướng, nhiệm vụ năm 2020 ngày 17-2-
2020.

86. Tỉnh ủy Bình Dương-Ban Dân vận, Báo cáo sơ kết công tác
dân vận quý I, Phương hướng nhiệm vụ quý II năm 2020 ngày 13-
4-2020.

87. Tỉnh ủy Bình Dương- Đoàn Kiểm tra theo Quyết định số 463-
QĐ/TU ngày 12-6-2012, Báo cáo Kết quả kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ
đạo triển khai thực hiện Nghị quyết 8B-NQ/TW ngày 27/3/1990 của
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI)
về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cương mối quan hệ
giữa Đảng và Nhân dân” ngày 24-12-2012.

88. Tỉnh ủy Bình Dương- Đoàn Kiểm tra theo Quyết định số
920-QĐ/TU ngày 20-8-2013, Báo cáo Kết quả kiểm tra 15 năm thực
hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị (khóa
VIII) về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ngày 29-12-
2013.

89. Edward Lansdale (1972), Tôi làm quân sư cho Tổng thống
Ngô Đình Diệm, bản dịch, Nxb. Văn học, Sài Gòn.

90. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương (2010), Địa chí Bình
Dương, tập 1 và tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

91. Ủy ban nhân dân-Tỉnh ủy Bình Dương, Báo cáo Tổng kết 5
năm thực hiện Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về tăng cường công tác dân vận ngày 17-10-2006.

381
Tài liệu tiếng nước ngoài

92. George C. Herring (1986), America’s longest war (Cuộc chiến


dài nhất của nước Mỹ), Nxb. Mc.Graw-Hill, Inc, New York

93. The Pentagon Papers (1971), Tài liệu Lầu Năm Góc, Nxb.
Bantam Books, New York.

94. The Pentagon Papers (1971), Tài liệu Lầu Năm Góc, ấn bản
của Thượng nghị sĩ Gravel, Nxb. Beacon Press, Boston.

382
MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 5


Chương I
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THỦ DẦU MỘT TRONG THỜI KỲ
ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930- 1945)
I. TỔNG QUAN VỀ VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI BÌNH
DƯƠNG TRƯỚC NĂM 1930 9
1. Lịch sử vùng đất - con người 9
2. Chuyển biến xã hội Bình Dương trước năm 1930 16
3. Quá trình vận động quần chúng trong giai đoạn tiến tới
thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam 19
II. CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG CỦA CHI BỘ
ĐẢNG TRÊN ĐỊA BÀN BÌNH DƯƠNG THỜI KỲ 1930 -
1935 24
1. Quá trình hình thành từ các hội yêu nước đến thành lập các
Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Thủ Dầu Một 24
2. Công tác vận động cách mạng trong giai đoạn 1931-1935 30
III. CUỘC VẬN ĐỘNG MẶT TRẬN DÂN CHỦ ĐÔNG
DƯƠNG TRÊN ĐỊA BÀN BÌNH DƯƠNG (1936 - 1939) 35
1. Chủ trương của Đảng trong công tác vận động quần chúng
thời kỳ 1936 -1939 35
2. Các hình thức vận động quần chúng 37
IV. TỈNH ỦY THỦ DẦU MỘT VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
THAM GIA KHỞI NGHĨA NAM KỲ, TIẾN TỚI TỔNG
KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1939 - 1945) 44
1. Công tác vận động quần chúng trong bối cảnh chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng 44
2. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một vận động và lãnh đạo quần chúng
trong Khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11/1940 46
3. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một vận động quần chúng tham gia các
phong trào cứu quốc và xây dựng Mặt trận Việt Minh 48
4. Toàn dân tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Thủ
Dầu Một 52

383
Chương II
CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỈNH ỦY THỦ DẦU MỘT
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
XÂM LƯỢC (1945-1954)
I. CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỈNH ỦY THỦ DẦU MỘT
NHỮNG NĂM ĐẦU KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
(1945-1946) 60
1. Công tác vận động Nhân dân khắc phục khó khăn, giải
quyết những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng 60
2. Công tác vận động quần chúng xây dựng lực lượng chuẩn bị
kháng chiến 61
3. Công tác vận động quần chúng trong kháng chiến chống
Pháp (1945-1946) 67
II. CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỈNH ỦY THỦ DẦU MỘT
TRONG GIAI ĐOẠN ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH NHÂN
DÂN, CHỐNG CHÍNH SÁCH BÌNH ĐỊNH CỦA THỰC
DÂN PHÁP (1947-1950) 73
1. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một vận động quần chúng tích cực thực
hiện đường lối kháng chiến của Đảng 73
2. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một vận động quần chúng tham gia phong
trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh chiến tranh du kích 77
III. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC DÂN VẬN, GÓP PHẦN VÀO
THẮNG LỢI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
(1951-1954) 85
1. Vận động quần chúng khắc phục khó khăn, chuẩn bị nhân
lực, vật lực, tài lực phục vụ kháng chiến 85
2. Động viên quần chúng thi đua “tất cả cho tiền tuyến, tất
cả để chiến thắng”, góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch
Điện Biên Phủ 90
Chương III
CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỈNH ỦY BÌNH DƯƠNG
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954-1975)
I. CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG GIAI ĐOẠN ĐẤU TRANH
CHÍNH TRỊ, TIẾN TỚI THỰC HIỆN VŨ TRANG TUYÊN
TRUYỀN, THAM GIA PHONG TRÀO ĐỒNG KHỞI (1954-
1960) 96
1. Động viên, tập hợp quần chúng tham gia đấu tranh đòi thi
hành Hiệp định Giơnevơ 96

384
2. Vận động quần chúng kết hợp đấu tranh chính trị với xây
dựng lực lượng tiến tới Đồng khởi 104
II. CÔNG TÁC DÂN VẬN GÓP PHẦN LÀM PHÁ SẢN CHIẾN
LƯỢC “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA MỸ (1961-1964) 110
1. Công tác dân vận phục vụ củng cố tổ chức cách mạng, phát triển
lực lượng, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân 110
2. Vận động quần chúng đẩy mạnh phong trào phá ấp chiến
lược, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”của Mỹ ở
Thủ Dầu Một 117
III. CÔNG TÁC DÂN VẬN GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN
LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ”CỦA MỸ (1965-1968) 122
1. Công tác dân vận góp phần đánh bại cuộc phản công chiến
lược lần thứ nhất của Mỹ (1965-1966) 122
2. Công tác dân vận góp phần đánh bại cuộc phản công chiến
lược mùa khô lần thứ hai (1966-1967) và cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 130
IV. CÔNG TÁC DÂN VẬN GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN
LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” CỦA MỸ (1969
- 1973) 139
1. Tăng cường công tác dân vận, làm cơ sở vững chắc đẩy mạnh
phong trào chính trị và binh vận tiến kịp tình hình mới 139
2. Công tác dân vận góp phần làm phá sản chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh” của Mỹ ở Thủ Dầu Một 149
V. CÔNG TÁC DÂN VẬN GÓP PHẦN CÙNG QUÂN DÂN CẢ
NƯỚC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT
NƯỚC (1973-1975) 154
1. Công tác vận động quần chúng đấu tranh đòi chính quyền
Sài Gòn thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pari 154
2. Công tác dân vận góp phần vào Tổng tiến công và nổi dậy
giải phóng hoàn toàn tỉnh Thủ Dầu Một 162
Chương IV
CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG THỜI KỲ ĐẦU
CÙNG CẢ NƯỚC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
(1975 - 1986)
I. CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU SAU
GIẢI PHÓNG (1975-1976) 168
1. Công tác dân vận thời kỳ quân quản 168
2. Công tác dân vận trong năm đầu tỉnh Sông Bé thành lập 180

385
II. CÔNG TÁC DÂN VẬN THỜI KỲ BAN DÂN VẬN - MẶT
TRẬN (1977-1980) 184
1. Vận động quần chúng tham gia các phong trào thi đua yêu
nước, bước đầu xây dựng mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa 184
2. Vận động quần chúng tham gia các phong trào thi đua yêu
nước, xây dựng xã hội mới, nền văn hóa mới, con người mới
xã hội chủ nghĩa 192
3. Công tác dân vận phát động quần chúng tham gia bảo vệ an
ninh, củng cố quốc phòng, tham gia chiến đấu bảo vệ biên
giới 195
III. CÔNG TÁC DÂN VẬN THỜI KỲ ĐẢNG ĐOÀN, MẶT
TRẬN, CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI KIÊM NHIỆM
(1981-1982) 198
1. Tình hình và nhiệm vụ mới 198
2. Một số thành tựu cơ bản 200
IV. CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU DƯỚI
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA BAN DÂN VẬN TỈNH UỶ (1983 -
1985) 204
1. Ban Dân vận Tỉnh ủy thành lập, kiện toàn tổ chức, cán bộ 204
2. Công tác dân vận giai đoạn 1983-1985 205
Chương V
CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU
TIẾN HÀNH ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI
(1986-1996)
I. QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG “LẤY DÂN LÀM GỐC”, XÂY
DỰNG VÀ PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN
DÂN LAO ĐỘNG (1986-1991) 218
1. Vận động nhân dân thi đua lập thành tích chào mừng Đại
hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, Đại hội Đảng bộ
tỉnh Sông Bé lần thứ IV 218
2. Quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, vận động nhân dân
thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng 223
II. CÔNG TÁC DÂN VẬN THỜI KỲ ĐỔI MỚI, BƯỚC ĐẦU
MỞ CỬA VÀ HỘI NHẬP (1991-1996) 246
1. Tình hình và nhiệm vụ công tác dân vận trong thời kỳ mới 246
2. Công tác dân vận thời kỳ 1991-1996 249

386
Chương VI
CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỈNH ỦY BÌNH DƯƠNG
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA (1997-2020)
I. CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỈNH ỦY BÌNH DƯƠNG
TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1997-2001) 273
1. Quan điểm của Tỉnh ủy Bình Dương về công tác dân vận
trong những năm đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa 273
2. Kiện toàn tổ chức bộ máy, đẩy mạnh công tác dân vận đáp
ứng yêu cầu của thời kỳ mới 277
3. Những thành tựu và hạn chế của công tác dân vận những
năm đầu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa
bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 1997-2001 280
II. CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA TỈNH ỦY BÌNH DƯƠNG
GIAI ĐOẠN 2001-2010 287
1. Bối cảnh và nhiệm vụ dân vận trong giai đoạn 2001-2010 287
2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và đổi mới công tác dân vận 292
3. Công tác dân vận trong giai đoạn 2001-2010 296
III. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC DÂN VẬN ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ (2010-2020) 321
1. Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị trong thời
kỳ mới 321
2. Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy và đổi mới công
tác dân vận trong tình hình mới 325
3. Hoạt động dân vận giai đoạn 2011-2020 327
KẾT LUẬN 365
TÀI LIỆU THAM KHẢO 373

387
LỊCH SỬ DÂN VẬN ĐẢNG BỘ
TỈNH BÌNH DƯƠNG
(1930-2020)

Biên tập: VĂN HỒNG YẾN

Trình bày, bìa: VĂN THÔNG

Sửa bản in: HỒNG YẾN

Chế bản vi tính: PHÒNG CHẾ BẢN

In 3.500 cuốn, khổ 16x24cm tại Công ty ...................... Địa chỉ số


......................................................... Giấy phép số ......./GP-STTTT,
ngày ... tháng ... năm 2021 của Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh
Bình Dương. In xong và nộp lưu chiểu tháng ... năm 2021.

388

You might also like