You are on page 1of 397

LỊCH SỬ

ĐẢNG BỘ HUYỆN CAM LỘ


(2000-2020)
2
LỜI NÓI ĐẦU

Cam Lộ là huyện trung du nằm ở khu vực giữa của tỉnh Quảng Trị, cửa ngõ phía bắc và phía tây
của thành phố Đông Hà; là vùng đất có điều kiện tự nhiên đa dạng, địa hình chia thành 3 vùng: miền
núi, trung du gò đồi và đồng bằng với núi, rừng, sông, suối, hồ đập tạo nên nhiều cảnh đẹp. Trên địa
bàn huyện có hệ thống giao thông huyết mạch: quốc lộ 1A, quốc lộ 9, đường Hồ Chí Minh, cao tốc
Cam Lộ - Túy Loan... gắn kết với trục hành lang kinh tế Đông - Tây, tạo thuận lợi trong giao lưu liên
tỉnh và quốc tế. Cam Lộ vốn có bề dày lịch sử, văn hóa và giàu truyền thống cách mạng với nhiều di
sản quý báu như: di tích lịch sử quốc gia Thành Tân Sở - nơi có đền thờ vua Hàm Nghi và các tướng
sĩ Cần Vương; di tích lịch sử quốc gia Trụ sở Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam; di tích Đình làng và chợ Phiên Cam Lộ; Nhà tằm Tân Tường - nơi thành lập Tỉnh ủy
chính thức của tỉnh Quảng Trị tháng 11/1930; Nhà lưu niệm nhà thơ Chế Lan Viên...
Gần một thập kỷ xây dựng từ buổi đầu huyện được lập lại (1991-2000), Đảng bộ và nhân dân
Cam Lộ tiếp tục kế thừa, phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng, đoàn kết, vận dụng sáng tạo
đường lối của Đảng và đạt được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (2000-2020), trở thành huyện nông thôn mới đầu tiên của tỉnh Quảng Trị năm 2019.

3
Để tiếp nối Lịch sử Đảng bộ huyện Cam Lộ (1930-2000), Ban Thường vụ Huyện ủy Cam Lộ
khóa XVI, nhiệm kỳ 2020-2025 chỉ đạo nghiên cứu, biên soạn và xuất bản cuốn sách Lịch sử Đảng
bộ huyện Cam Lộ (2000-2020). Cuốn sách tái hiện chặng đường 20 năm xây dựng và phát triển;
đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện và
là tài liệu phục vụ công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trên
địa bàn huyện.
Trong quá trình nghiên cứu, biên soạn, Ban Thường vụ Huyện ủy đã tiến hành sưu tầm, tập hợp
tư liệu; tổ chức hội thảo, xin ý kiến và nhận được nhiều đóng góp của lãnh đạo huyện các thời kỳ,
nhân chứng, nhà nghiên cứu; đồng thời, nhận được sự hướng dẫn, thẩm định nội dung của Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy. Ban Thường vụ Huyện ủy xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp quý
báu để giúp chúng tôi hoàn thành cuốn sách này.
Mặc dù Ban chỉ đạo và Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng tiếp thu, gạn lọc nội dung nhưng cuốn
sách chắc chắn không tránh khỏi còn hạn chế, thiếu sót. Ban Thường vụ Huyện ủy Cam Lộ rất mong
tiếp tục nhận được ý kiến đóng góp chân thành của các đồng chí và bạn đọc.

4
Nhân dịp chào mừng Kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng huyện Cam Lộ (02/4/1972-02/4/2022),
Ban Thường vụ Huyện ủy Cam Lộ xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Lịch sử Đảng bộ huyện Cam
Lộ (2000-2020) với bạn đọc.
BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY KHÓA XVI,
NHIỆM KỲ 2020-2025

5
6
Chương I
ĐẢNG BỘ HUYỆN CAM LỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẨY MẠNH
SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG
NGHIỆP, NÔNG THÔN (2000-2005)

I. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ HUYỆN CAM LỘ LẦN THỨ XII

Đảng bộ và nhân dân huyện Cam Lộ thực hiện nhiệm vụ giai đoạn 2000-2005 trong bối cảnh đất
nước, quê hương đứng trước những thời cơ và thách thức lớn của quá trình hội nhập quốc tế, tiếp tục
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Sau 9 năm được lập lại, Đảng bộ và nhân dân huyện Cam Lộ luôn nỗ lực phấn đấu và giành
được những thành tựu quan trọng. Năng suất và sản lượng lương thực đạt kết quả tích cực. Chăn nuôi
được đẩy mạnh theo hướng nâng cao chất lượng tổng đàn, đa dạng hóa vật nuôi. Phát huy lợi thế của

7
vùng đất đỏ bazan và đất đồi, diện tích cây hồ tiêu, cây cao su không ngừng tăng lên. Phong trào cải
tạo vườn tạp, vườn đồi, vườn nhà, kinh tế trang trại có bước phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp. Tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề đã có sự chuyển biến, bước đầu mang lại
hiệu quả, góp phần vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn. Phong trào phát triển kết cấu hạ
tầng, quy hoạch thị trấn, thị tứ, xây dựng giao thông nông thôn, thủy lợi và kiên cố hóa kênh mương
được chú trọng. Văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao phát triển. Cuộc vận động toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đã góp phần xây dựng nếp sống mới thấm đượm tình làng nghĩa
xóm. Quốc phòng - an ninh được tăng cường, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội ổn định.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị ngày càng đáp ứng tình hình và nhiệm vụ. Quy
chế dân chủ ở cơ sở được cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể quan tâm thực hiện, bước đầu tạo không
khí dân chủ trong nhân dân.
Bên cạnh những thuận lợi, Cam Lộ cũng gặp không ít khó khăn: kết cấu hạ tầng thấp kém,
nguồn tích lũy từ trong nhân dân hạn chế. Hoạt động dịch vụ, thương mại phát triển chậm. Một bộ
phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn có tư tưởng ỷ lại, bằng lòng với kết quả đạt được. Trước
những thuận lợi và khó khăn đan xen, với truyền thống cách mạng anh hùng, không cam chịu đói

8
nghèo, Đảng bộ và nhân dân huyện Cam Lộ quyết tâm nỗ lực phấn đấu tạo ra động lực mới của quá
trình phát triển mới.
Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW ngày 22/5/2000 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp,
Hướng dẫn số 14-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương về Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng, Kế hoạch số 13-KH/TU ngày 28/6/2000 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiến hành Đại
hội Đảng các cấp trong tỉnh, từ ngày 15 đến ngày 16/01/2001, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Cam
Lộ lần thứ XII, nhiệm kỳ 2001-2005 được tổ chức tại thị trấn Cam Lộ với sự tham gia của 118 đại
biểu đại diện cho 1.100 đảng viên trong toàn huyện. Tham dự và chỉ đạo Đại hội gồm có: đồng chí
Nguyễn Trành, Quyền Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh; đồng chí Nguyễn Minh Kỳ,
Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; đồng chí Nguyễn Viết Nên, Ủy
viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tỉnh cùng các đồng chí trong Ban Thường vụ, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh.
Đại hội đã thảo luận, đánh giá đúng thực trạng tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội,
quốc phòng - an ninh và công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ 1996-2000; đề ra mục tiêu tổng
quát nhiệm kỳ 2001-2005 là: Tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế theo cơ cấu: nông, lâm nghiệp -

9
thương mại, dịch vụ - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách vững chắc với nhịp độ cao hơn. Giải
quyết các vấn đề bức xúc trong xã hội, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm đi đôi với nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tăng cường công tác quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ
thống chính trị vững mạnh đáp ứng tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Đại hội đã đề ra những chỉ tiêu chủ yếu:
- Tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 9-10%, trong đó: giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp
tăng 5-5,5%; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng tăng 10-12%; thương mại, dịch vụ tăng
15-17%. Tỷ trọng các ngành trong nền kinh tế lần lượt là 65% - 20% - 15%. Thu nhập bình quân đầu
người năm 2005 đạt 4 triệu đồng (tăng 1,6 lần so với năm 2000). Đến năm 2005, tổng sản lượng
lương thực đạt 10.000-11.000 tấn (trong đó thóc đạt 9.000-10.000 tấn).
- Tỷ lệ phát triển dân số dưới 1,3%, giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân hàng năm 3-5% (theo tiêu chí
mới). Hạ thấp tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn dưới 30%. Phấn đấu phát triển đảng viên mới
hàng năm là 4-5% so với tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ, không còn thôn không có đảng viên,
tiếp tục tạo nguồn đi đôi đào tạo đội ngũ cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII.
Những chỉ tiêu cụ thể, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu được Đại hội chỉ rõ:

10
- Về xây dựng và phát triển kinh tế: kinh tế nông, lâm nghiệp là chủ yếu, cần tiếp tục đầu tư phát
triển toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới,
với quy hoạch 3 vùng kinh tế, tập trung chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi một cách có
hiệu quả trên cơ sở định hướng và thế mạnh của từng vùng, từng lĩnh vực. Phát triển ngành nghề dịch
vụ, thương mại đáp ứng nhu cầu đời sống và sản xuất, khai thác lợi thế, góp phần giải quyết việc
làm, tăng thu nhập cho người lao động. Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là yêu cầu cơ
bản trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung và là điều kiện để tăng giá trị nền kinh tế.
Hoạt động ngân hàng và các hình thức tín dụng tạo điều kiện và môi trường trong đầu tư sản
xuất kinh doanh, thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển các mô hình kinh tế trên địa
bàn. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, xem đó là điều kiện cốt lõi bảo đảm cho quá trình
phát triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Về nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa - xã hội: chú trọng xây dựng cơ sở vật chất, hình
thành các thiết chế văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân là tiền đề của quá trình tạo ra
nhân tố mới và là động lực to lớn để phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội, xây
dựng đời sống văn hóa.

11
Tiếp tục giữ vững thành quả cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
Tăng cường quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội, chấp hành
nghiêm pháp luật, nêu cao kỷ cương, phép nước đáp ứng cho quá trình xây dựng và phát triển trên
mọi mặt.
- Về xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh đáp ứng quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị
trong giai đoạn mới: Đảng bộ huyện xác định công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, tập
trung xây dựng Đảng bộ vững mạnh toàn diện trên cả ba lĩnh vực: chính trị, tư tưởng và tổ chức lên
ngang tầm yêu cầu lãnh đạo địa phương trong giai đoạn mới. Xây dựng bộ máy chính quyền từ
huyện đến cơ sở trong sạch, vững mạnh, thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Phát huy
vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, thực sự là cơ sở
chính trị vững mạnh của Đảng. Tập hợp các tầng lớp nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân,
tạo ra sức mạnh tổng hợp từ phong trào hành động cách mạng quần chúng cho quá trình xây dựng và
bảo vệ địa phương vững chắc.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XII gồm 29 đồng chí có đủ phẩm chất và
năng lực, bảo đảm tính kế thừa và phát triển; bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XIII gồm 19 đại biểu chính thức và 2 đại biểu khuyết.

12
Tại phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XII đã bầu Ban Thường vụ Huyện
ủy gồm 09 đồng chí: Nguyễn Đức Cường, Hoàng Giáo, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thanh Bảo, Ngô
Quang Chiến, Trương Đức Đinh, Dương Ngọc Phụ, Lê Chính Quy, Hoàng Bá Tiệu. Trong đó, đồng
chí Nguyễn Đức Cường được bầu làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Hoàng Giáo được bầu và phân
công giữ chức Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Quốc Trị, Phó Bí thư Huyện ủy
được Hội đồng nhân dân huyện bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, nhiệm kỳ 1999-2004.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XII cũng đã bầu Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy gồm 04 đồng chí;
đồng chí Hoàng Bá Tiệu được bầu làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy.
Từ ngày 27/02 đến ngày 01/3/2001, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XIII diễn ra
tại thị xã Đông Hà. Đồng chí Nguyễn Đức Cường, Bí thư Huyện ủy Cam Lộ được Đại hội bầu vào
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII. Tại phiên họp thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa
XIII, đồng chí Nguyễn Đức Cường được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2001-2005.
Trong bối cảnh cả nước thi đua bước vào thế kỷ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng (tháng 4/2001) đã tổng kết 15 năm đổi mới, xác định phát huy sức mạnh toàn dân tộc là động
lực phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Đại hội đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001-2010, với mục tiêu tổng quát: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt

13
đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”1.
Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XIII, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Cam Lộ nhiệm kỳ
2001-2005 đã ban hành Chương trình hành động với tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là: nêu cao ý thức
tự lực, tự cường; tập trung củng cố đoàn kết nội bộ, huy động sức mạnh của toàn Đảng bộ, quân và
dân trong huyện cho quá trình phát triển kinh tế gắn với tiến bộ xã hội. Phát huy nội lực, tranh thủ và
thực hiện có hiệu quả sự hỗ trợ đầu tư nhằm khai thác các tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế - xã
hội. Tiếp tục củng cố và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh đáp ứng quá trình thực hiện nhiệm
vụ chính trị trong giai đoạn mới.

II. ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN, ĐƯA CAM LỘ PHÁT TRIỂN (2001-2005)

1. Đảng bộ huyện lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
1
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001,
tr.159.
14
đại hóa nông nghiệp, nông thôn

Đối với sản xuất nông nghiệp, Chương trình hành động số 01-CTHĐ/HU ngày 12/11/2001 của
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện xác định: phát triển nông nghiệp đa dạng, bền vững theo định hướng
sản xuất hàng hóa. Tập trung đầu tư nâng cao năng suất các vùng chuyên canh cây lương thực, cây
công nghiệp dài ngày, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, rau đậu các loại. Phát triển đa dạng
các mô hình kinh tế, kinh tế trang trại, mô hình nông lâm kết hợp ở các vùng gò đồi. Đẩy mạnh sản
xuất lương thực hàng hóa và ngành nghề dịch vụ ở nông thôn.
Quyết tâm đưa sản xuất nông nghiệp phát triển, Cam Lộ triển khai thực hiện nhiều giải pháp
đồng bộ: quy hoạch cải tạo đồng ruộng, mở rộng diện tích vụ hè thu, tăng diện tích trồng lúa nước;
xây dựng các vùng sản xuất lúa cao sản tại xã Cam Thanh, Cam An, Cam Hiếu, Cam Thủy; tập trung
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi...Nhờ vậy, từ năm 2001 đến năm
2005, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện phát triển tương đối toàn diện, trong đó lĩnh vực trồng
trọt phát triển với tốc độ khá nhanh. Diện tích cây lúa nước ổn định 2.600 ha, vượt 200 ha so với nghị
quyết. Nhờ thực hiện tốt chương trình kiên cố hóa kênh mương, đầu tư các công trình thủy lợi, áp
dụng khoa học kỹ thuật và đẩy mạnh thâm canh nên năng suất và sản lượng lúa không ngừng được
nâng lên. Vụ đông xuân năm 2000 - 2001 đạt 40,89 tạ/ha đến vụ đông xuân 2004-2005 đạt 49,14

15
tạ/ha, năng suất bình quân cả năm 40 tạ/ha (chỉ tiêu nghị quyết đề ra từ 40 - 45 tạ/ha/vụ). Tổng sản
lượng lương thực có hạt đạt 11.850 tấn, tăng 2.900 tấn so với năm 2001 và đạt chỉ tiêu nghị quyết đề
ra (11.000-12.000 tấn).
Chương trình cải tạo vườn tạp và phát triển kinh tế gò đồi được chú trọng thông qua việc xây
dựng các mô hình, chọn các loại cây trồng thích hợp với khí hậu và thổ nhưỡng. Nhiều diện tích đất
vườn, đất bãi bồi ven sông được chuyển đổi, đầu tư, phát triển các mô hình trồng rau màu, cây ăn quả
có giá trị. Bước đầu đã hình thành được một số mô hình trang trại. Cây công nghiệp dài ngày phát
triển khá, diện tích cây cao su từ 1.260 ha năm 2001 lên 1.572 ha năm 2003 (kể cả diện tích cao su
của Công ty hồ tiêu Tân Lâm) và tăng lên 1.937 ha năm 2005; Cây hồ tiêu đến cuối năm 2005 có 857
ha, tăng 172 haso với năm 2000 (chỉ tiêu nghị quyết đề ra đến năm 2005 là 1.035 ha).
Tập trung “Phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, cải thiện chất lượng đàn gia súc,
gia cầm hiện có. Đẩy mạnh việc thực hiện Sind hóa đàn bò và nạc hóa đàn lợn. Đầu tư phát triển
chăn nuôi theo hướng bán công nghiệp và công nghiệp theo quy mô hộ gia đình và trang trại. Đa
dạng hóa các sản phẩm chăn nuôi theo định hướng thị trường. Thực hiện đồng bộ các biện pháp hạn

16
chế dịch bệnh gia súc, gia cầm” 1, huyện Cam Lộ đa dạng hóa các loại hình, mô hình chăn nuôi, nâng
dần tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Cùng với việc ổn định quy mô đàn đại gia
súc, đầu tư cải tạo nâng cao thể trạng theo hướng Sind hóa được chú trọng. Người dân đã tập trung
đầu tư chuồng trại, nguồn thức ăn để nâng cao giá trị sản phẩm. Đến năm 2005, đàn trâu, bò có
10.500 con (tỷ lệ chăn dắt chiếm 85%), trong đóđàn bò có trên 8.800 con, bò nái sinh sản là 4.760
con chiếm 53,9% tổng đàn, bò lai Sind 350 con, chiếm 3,9% tổng đàn;đàn lợn có 14.000 con và đàn
gia cầm có 100.000 con.Các con nuôi khác như hươu, nai có trên 150 con,góp phần đáng kể trong
việc tăng giá trị chăn nuôi và thu nhập cho nhiều hộ gia đình.
Ngành nuôi trồng thủy sản không phải là thế mạnh nhưng đã giúp nhiều hộ gia đình tăng thu
nhập, nâng cao đời sống.
Ngành lâm nghiệp có những chuyển biến tích cực. Từ năm 2001 đến năm 2005, đã trồng mới
3.100 ha rừng tập trung và 63 vạn cây phân tán, tỷ lệ độ che phủ đạt 38,9%.
Trồng rừng đã góp phần giải quyết việc làm, cải tạo môi trường sinh thái và nâng cao ý thức bảo
vệ rừng của người dân.

1
. Chương trình hành động số 01 ngày 12/11/2001 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về việc thực hiện Nghị quyết
Đại hội IX, Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII.
17
Thực hiện Luật hợp tác xã năm 2003, các hợp tác xã kinh doanh ngành nghề tiến hành chuyển
đổi theo mô hình mới. Trong quá trình chuyển đổi, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo: một số hợp tác
xã ở những loại hình khác nhau, hoạt động hiệu quả liên kết đểđể hỗ trợ nhau trong sản xuất, phù hợp
với luật mới và điều kiện cụ thể của huyện. 13 đơn vị doanh nghiệp và công ty trách nhiệm hữu hạn
sau chuyển đổi đã có nhiều chuyển biến tích cực trong kinh doanh dịch vụ, hướng dẫn sản xuất, thủy
lợi, khuyến nông, khuyến lâm, chuyển giao khoa học kỹ thuật... thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi. Nổi bật, hợp tác xã khai thác vật
liệu xây dựng và dịch vụ giống cây công nghiệp tuy mới thành lập đã phát huy hiệu quả trong giải
quyết việc làm, cung cấp nguyên liệu phục vụ xây dựng và trồng trọt tại địa phương. Thu nhập kinh
tế hộ gia đình tăng, có tích lũy và có nhu cầu vay vốn để mở rộng quy mô sản xuất.
Công tác khuyến nông được cấp ủy đảng, chính quyền chú trọng nhằm tạo ra nhiều sản phẩm
hàng hóa đa dạng, nâng cao giá trị trên một đơn vị diện tích. Đi cùng với hướng dẫn, trình diễn mô
hình, đã tổ chức nhiều lớp chuyển giao công nghệ cho nhân dân, nổi bật là chương trình thâm canh
500 ha lúa cao sản, 1.000 ha lạc và 520 ha sắn nguyên liệu; hỗ trợ nông dân áp dụng giống có năng
suất chất lượng cao vào sản xuất; kiểm soát tốt dịch bệnh đối với cây trồng, con nuôi.

18
Cơ cấu kinh tế nông thôn có sự chuyển biến tích cực. Sản xuất nông nghiệp phát triển theo lợi
thế các tiểu vùng: đồng bằng sản xuất lúa, trung du sản xuất lạc và tiểu vùng đồi núi trồng hồ tiêu và
cao su. Chủ trương phát triển kinh tế gò đồi, kinh tế trang trại, cải tạo vườn tạp, phát triển cây công
nghiệp ngắn ngày và dài ngày được nhân dân hưởng ứng tích cực nên đã khai thác được lợi thế, sử
dụng có hiệu quả tài nguyên đất.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Đảng bộ luôn quan tâm
lãnh đạo tốt công tác quản lý ruộng đất. Đây là vấn đề quan trọng không những đối với phát triển
kinh tế - xã hội mà còn là yếu tố góp phần bảo đảm an ninh nông thôn. Chú trọng thực hiện Nghị
định số 64/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ về giao đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ổn định lâu dài, đất sản xuất nông nghiệp cho các hộ nông dân, người nông dân yên tâm cải
tạo đồng ruộng, thâm canh và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, qua đó đã thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “dồn điền, đổi thửa”, ngày 30/9/2003, Ban
Thường vụ Huyện ủy ban hành Chỉ thị số 10-CT/HU về thực hiện công tác chuyển đổi ruộng đất. Cụ
thể hóa chỉ thị của Ban Thường vụ Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện ban hành kế hoạch và các văn
bản chỉ đạo thực hiện. Theo hướng dẫn của huyện, các xã, thị trấn đã tập trung tuyên truyền, nâng

19
cao nhận thức trong nhân dân về sự cần thiết phải chuyển đổi, có kế hoạch sử dụng đất hàng năm;
công khai trình tự thủ tục kê khai, xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chuyển đổi mục đích
sử dụng. Đồng thời, giải quyết thỏa đáng phần lớn các trường hợp khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất
đai. Để công tác chuyển đổi đạt kết quả tốt, năm 2003 xã Cam Thành được chọn tổ chức làm thí
điểm, rút kinh nghiệm, nhân rộng. Từ thành công ở xã Cam Thành, huyện Cam Lộ triển khai ra toàn
huyện trên nguyên tắc “bảo đảm tính ổn định nhân khẩu và bình quân ruộng đất đã giao; gắn quy
hoạch, sử dụng đất và thiết kế đồng ruộng; giảm 50% số thữa hiện có và hộ có số thữa tối đa là 4”.
Từ năm 2005, Cam Lộ tiến hành cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa để giải quyết
hồ sơ địa chính đã khắc phục những yếu kém và lập lại kỷ cương, trật tự trong quản lý đất đai. Người
dân yên tâm sản xuất, năng suất, sản lượng cây trồng không ngừng tăng lên.
Huyện đã triển khai tích cực trong việc hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nước sinh hoạt cho đồng bào
thiểu số. Đến năm 2005, 44 hộ, 235 nhân khẩu và 69 lao động đồng bào dân tộc thiểu số ở Bản Chùa,
xã Cam Tuyền đã thực hiện định canh, định cư; không còn tình trạng đốt rừng làm rẫy; 2/3 số hộ đã
có giếng đào. Tuy vậy, đời sống của bà con vẫn còn nhiều khó khăn. Việc khai hoang mở rộng diện
tích canh tác đang gặp nhiều khó khăn do đặc điểm địa hình đồi núi.

20
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng dần tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế. Sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp và xây dựng của huyện có sự chuyển biến tích cực. Đã xây dựng thêm nhà máy
khai thác đá với công suất lớn, phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân. Đến năm 2005, toàn
huyện có 242 cơ sở sản xuất hàng hóa tư nhân. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2001-2005 đạt
17,3%/năm, bằng 144,2% chỉ tiêu nghị quyết; giá trị sản xuất tăng thêm 1,7 lần so với năm 2001.
Các công ty, xí nghiệp trên địa bàn do tỉnh quản lý được cổ phần hóa, mở rộng quy mô sản xuất, góp
phần giải quyết việc làm cho người lao động và thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế khác phát triển.
Hoạt động thương mại, dịch vụ được mở rộng, trong đó các hoạt động về dịch vụ nông nghiệp,
ăn uống, cơ giới sửa chữa phát triển khá nhanh. Huyện đã tích cực huy động các nguồn vốn, đầu tư
xây dựng chợ trung tâm với tổng kinh phí 5 tỷ đồng; sửa chữa chợ Cam Hiếu, nâng cấp chợ Phiên
nhằm mở rộng thị trường trao đổi hàng hóa, góp phần giải quyết việc làm cho người dân. Dịch vụ -
thương mại phát triển đã kích thích sản xuất phát triển, góp phần làm thay đổi diện mạo địa bàn nông
thôn.
Cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng, đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống của người
dân. Đi cùng với việc phát huy nội lực, Cam Lộ tích cực thu hút các dự án đầu tư. Đến năm 2005, đã
kiên cố hóa được 41,4km đường giao thông nông thôn phục vụ đời sống, dân sinh. 32,6kmkênh

21
mương được kiên cố hóa với tổng giá trị đầu tư hơn 6,8 tỷ đồng; sửa chữa nâng cấp và làm mới 24
hồ đập, trạm bơm, cống, kênh tưới tiêu với tổng giá trị 2,29 tỷ đồngđã bảo đảm năng lực tưới, tiêu,
phục vụ có hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp. Các công trình có vốn đầu tư lớn như hồ Nghĩa Hy,
cầu Cam Tuyền, tỉnh lộ 11, chợ trung tâm, trường học đã nâng caogiá trị trong đời sống kinh tế - xã
hội. 100% xã, thị trấn có điện lưới quốc gia, có đường ô tô đến tận các trung tâm dân cư; có trạm y tế
kiên cố, đủ điều kiện chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân; 100% các xã, thị trấn có máy điện
thoại với bình quân 6 máy/100 dân; 5/9 xã, thị trấn có chợ xã và liên xã. Các kế hoạch đầu tư xây
dựng được triển khai trên quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu thực tế của địa
phương, đồng thời bám sát mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ cụ thể hàng năm nên triển khai khá
thuận lợi và đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển.
Công tác tài chính đã có những bước tiến mới, thực hiện tốt công tác thu chi theo Luật ngân
sách. Tăng cường khai thác và quản lý các nguồn thu, đặc biệt là thu trên địa bàn, tiến hành tiết kiệm
chi, chi đúng và đầy đủ theo kế hoạch đã phân bổ. Năm 2005, thu ngân sách nội địa đạt 6,5 tỷ đồng,
tăng 4,9 tỷ đồng so với năm 2001, tốc độ tăng bình quân 29,4% năm.
Các ngân hàng chú trọng đổi mới cách thức huy động vốn và mở rộng phạm vi, đối tượng vay để
phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Tổng dư nợ Ngân

22
hàng nông nghiệp và Ngân hàng chính sách xã hội năm 2005 là 53,9 tỷ đồng, đạt 128,5% và tăng
31,8 tỷ đồng so với năm 2001.
Trong nhiệm kỳ 2001-2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của huyện Cam Lộ
là 13%1, trong đó: giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp tăng 10,3%; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
và xây dựng tăng 17,3%; thương mại - dịch vụ tăng 14,8%. Cơ cấu kinh tế: nông - lâm nghiệp
52,4%; công nghiệp - xây dựng tăng 27,2%; thương mại - dịch vụ 20,4% 1; tính thêm giá trị sản xuất
các đơn vị công nghiệp trên địa bàn thuộc tỉnh quản lý thì tỷ trọng tương ứng là 39,2% - 37,8% -
23%, đạt chỉ tiêu nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII đề ra.
2. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân

Gắn với phát triển kinh tế, Đảng bộ huyện Cam Lộ quan tâm lãnh đạo phát triển văn hóa, tích
cực giải quyết các vấn đề xã hội. Trong giai đoạn 2001-2005, hoạt động trên các lĩnh vực văn hóa -
xã hội đều hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng phục vụ. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII về xây dựng phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
toàn huyện đã đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, trong đó
1
. Nghị quyết đề ra là: 9-10%.
1
. Chỉ tiêu Nghị quyết: 39,2-37,8 - 23,0.
23
nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa. Trong quá trình thực hiện vận động,
các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể coi trọng lồng ghép nội dung phát triển kinh tế với phát triển văn
hóa - xã hội như xóa đói giảm nghèo với thực hiện kế hoạch hóa gia đình, làm giàu chính đáng với
thực hiện nghĩa vụ công dân... Từ năm 2003, phong trào đã phát triển lên bước mới, không chỉ dừng
lại ở làng, khóm, cơ quan, đơn vị mà huyện Cam Lộ đã phát động xây dựng xã, thị trấn điển hình văn
hóa. Đến năm 2005, 100% đơn vị, thôn, bản phát động xây dựng làng văn hóa, đạt 200% chỉ tiêu
nghị quyết; các xã Cam Nghĩa, Cam Thành, Cam An, thị trấn Cam Lộ phát động xây dựng xã điển
hình văn hóa; đã có 2 đơn vị, 40 làng, đơn vị được công nhận văn hóa (đạt 32%) và 2.924 gia đình
được công nhận hộ gia đình văn hóa. Cuộc vận động thực sự đi vào cuộc sống, tạo thành các phong
trào quần chúng rộng lớn và đều khắp. Thông qua đó, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái... được
nuôi dưỡng và nâng cao, các giá trị đạo đức văn hóa truyền thống được giữ gìn và phát huy. Đáng
chú ý là công tác giáo dục truyền thống được các cấp, các ngành, đoàn thể thường xuyên quan tâm.
Hướng về nguồn, về cách mạng, tưởng nhớ các anh hùng, liệt sĩ, nhiều cơ quan, đơn vị tổ chức các
đoàn thăm lại chiến trường xưa. Nổi bật là tổ chức các hoạt động kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân
tộc và của địa phương như kỷ niệm 30 năm giải phóng và 10 năm đổi mới, phát triển huyện Cam Lộ.
Nhiều công trình văn hóa có ý nghĩa được trùng tu, tôn tạo như Nhà tằm Tân Tường, Miếu An Mỹ...

24
Đây là niềm tự hào và động lực để Đảng bộ và nhân dân toàn huyện tiếp tục phấn đấu vươn lên.
Niềm tự hào đó được nhân lên khi các xã, thị trấn của huyện Cam Lộ được Đảng, Nhà nước phong
tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Để phục vụ đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, các đội văn nghệ quần chúng, câu lạc bộ
thuộc các loại hình văn hóa, thể thao trong cộng đồng dân cư được củng cố, phát triển. Điểm nổi bật
trong giai đoạn này là các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao phát triển và được xã hội hóa. Nhờ
đó, ngoài ngân sách, huyện và cơ sở có thêm kinh phí duy trì theo định kỳ tổ chức tốt đại hội thể dục
thể thao, hội diễn văn nghệ quần chúng, hội thi, liên hoan, giao lưu văn hóa như hội thi “Làng vui
chơi, làng ca hát”, “tuyên truyền viên dân số giỏi”, hội thi văn nghệ quần chúng.
Hệ thống truyền thanh - truyền hình được củng cố, mở rộng, chất lượng được nâng cao. Thông
tin viễn thông được phủ sóng rộng khắp trên địa bàn, giúp cho nhân dân sử dụng phương tiện cá nhân
nắm bắt thông tin trên nhiều lĩnh vực. Nhà văn hóa trung tâm, khu vui chơi trẻ em, nhà luyện tập thể
dục thể thao, thư viện huyện, các điểm bưu điện văn hóa xã được xây dựng đáp ứng nhu cầu hưởng
thụ và nâng cao đời sống của người dân.
Để xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, Ban Thường vụ Huyện ủy tăng cường chỉ đạo công
tác quản lý, thanh tra, kiểm tra các hoạt động văn hóa theo tinh thần Thông báo Kết luận số

25
94-TB/TW, ngày 30/12/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nhiệm vụ đấu tranh chống âm
mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Nhiệm vụ giáo dục, tuyên truyền nâng
cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch cho cán bộ, đảng viên và nhân dân được
tiến hành thường xuyên. Nhiều người đã tự giác không mua, bán băng đĩa hình, đĩa nhạc, tranh ảnh,
sách báo có nội dung xấu.
Giáo dục - đào tạo được chú trọng. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về
giáo dục đào tạo, Đề án “Năm giáo dục 2001” của tỉnh, Ban chỉ đạo chương trình phổ cập giáo dục
trung học cơ sở giai đoạn 2001-2005 theo tinh thần Chỉ thị số 61-CT/TW, ngày 28/12/2000 của Bộ
Chính trịđược thành lập từ huyện đến xã, thị trấn. Ngành giáo dục phối hợp chặt chẽ với các xã, thị
trấn nhanh chóng hoàn thành công tác điều tra, khảo sát. Các đoàn thể quần chúng vận động chống
bỏ học, đỡ đầu những em có hoàn cảnh khó khăn; các xã quan tâm xây dựng phong trào toàn dân tạo
môi trường thuận lợi cho con em học tập. Nhờ cố gắng, kiên trì, công tác phổ cập giáo dục huyện
Cam Lộ có sự chuyển biến tích cực, vững chắc cả về quy mô, chất lượng dạy và học.Đến năm 2005,
9/9 xã, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục đúng độ tuổi và đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở, về
đích trước 5 năm so với mục tiêu Chỉ thị số 61-CT/TW đề ra đến năm 2010.

26
Cơ sở hạ tầng phục vụ dạy và học được chú trọng đầu tư xây dựng theo mô hình trường chuẩn
quốc gia, đáp ứng nhiệm vụ dạy và học. Đến năm 2005, toàn huyện có 20/22 trường tiểu học và
trung học cơ sở với gần 73% số phòng học được đầu tư xây dựng kiên cố, đạt 100% chỉ tiêu nghị
quyết; 67/165 lớp học mầm non được đầu tư xây dựng mới; các loại hình giáo dục ngày càng đa dạng
như công lập, bán công.
Thiết bị trường học được tăng cường, cơ bản đáp ứng yêu cầu dạy và học. 100% trường học
được trang bị máy vi tính phục vụ công tác quản lý, văn phòng. Đội ngũ giáo viên được tập huấn, bồi
dưỡng định kỳ. Phòng giáo dục tích cực tìm các biện pháp củng cố, xây dựng nền nếp dạy và học,
thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy để thu hút học sinh hứng
thú, say mê học tập. Các trường học thường xuyên tổ chức phong trào thi đua dạy tốt, học tốt, sinh
hoạt tổ chuyên môn, thao giảng, dự giờ... Chất lượng giáo dục được nâng lên ở từng cấp học.
Thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TU ngày 02/02/2002 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, cuối năm 2000, Hội Khuyến học huyện và các xã,
thị trấn được thành lập. Từ đây, tổ chức hội khuyến học phát triển rộng khắp các thôn, xóm, các dòng
họ trong cộng đồng dân cư. Ban Chấp hành Hội huyện xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động
cụ thể, thiết thực; huy động và quản lý tốt các nguồn hỗ trợ quỹ khuyến học; tổ chức các hoạt động

27
khuyến học; xây dựng 3 mô hình khuyến học: gia đình khuyến học, dòng họ khuyến học, cộng đồng
khuyến học. Đến năm 2005, toàn huyện có trên 160 tổ chức khuyến học. Hội nhận đỡ đầu dài hạn
cho 90 em học sinh; tổ chức, động viên khen thưởng cho các em đạt kết quả cao trong học tập và
những học sinh nghèo, vượt khó, những học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Cùng với sự đóng góp của
nhân dân, 36 trung tâm học tập cộng đồng được xây dựng và hoạt động có hiệu quả.
Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân được chú trọng. Quán triệt Chỉ thị số
06-CT/TW, ngày 22/01/2002 của Ban Bí thư về củng cố, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, Ban
Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo và tăng cường đầu tư trang bị cho y tế tuyến xã cả về cơ sở vật chất và
đội ngũ nguồn nhân lực bảo đảm điều kiện phục vụ chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh cho nhân
dân, kịp thời phòng chống dịch bệnh. 6 trạm y tế xã trên địa bàn được các tổ chức của Liên hiệp quốc
như Quỹ Dân số (UNFPA), Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICFF), Plan... tài trợ trang bị các dụng
cụ y tế cơ bản và thiết yếu phục vụ chăm sóc nâng cao sức khỏe sinh sản, bảo vệ trẻ em.
Ở tuyến huyện, Bệnh viện huyện Cam Lộ được nâng cấp, trang bị thêm một số thiết bị y tế hiện
đại. Nâng cao chất lượng chuyên môn, ngành y tế quan tâm cử cán bộ đi đào tạo trình độ đại học, sau
đại học. Những cố gắng nêu trên góp phần nâng cao chất lượng khám và điều trị tại các cơ sở y tế.
Các bệnh bại liệt, uốn ván sơ sinh cơ bản được thanh toán; các bệnh thường xảy ra hàng năm như sốt

28
xuất huyết, sốt rét và một số dịch bệnh mới nổi như cúm A/H5N1... được kiểm soát và giám sát chặt
chẽ. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh giảm bình quân 0,16%/năm; số giường bệnh đạt 16,4 giường/vạn dân;
2,81 bác sĩ/vạn dân.
Sau khi Pháp lệnh Dân số năm 2003 ra đời, một bộ phận nhân dân và cán bộ đảng viên nhận
thức chưa đúng về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch
hóa gia đình nên tỷ suất sinh có xu hướng gia tăng trở lại. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Huyện
ủy chỉ đạo hướng trọng tâm của công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình là vận động giảm sinh con
thứ 3. Công tác tuyên truyền được đẩy lên thành nhiều chiến dịch. Nội dung tuyên truyền tập trung ở
cả ba mũi gồm tuyên truyền vận động thực hiện chính sách, truyền thông chuyển đổi hành vi và
truyền thông huy động cộng đồng, tạo nên sự đồng thuận trong toàn xã hội. Lực lượng tuyên truyền
có sự phối hợp liên ngành khá chặt chẽ và đồng bộ, nòng cốt là đội ngũ tuyên truyền viên, cộng tác
viên ở tất cả các cấp, các ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở. Ở các xã, thị trấn đã thành lập nhiều
câu lạc bộ không sinh con thứ 3. Tiêu chí xây dựng 1 gia đình có từ 1 đến 2 con để có cuộc sống ấm
no, bình đẳng, tiến bộ được toàn dân hưởng ứng tích cực. Các dịch vụ sinh đẻ có kế hoạch được mở
rộng đến địa bàn dân cư, chủng loại đa dạng, thuận tiện, an toàn, cơ bản đáp ứng nhu cầu của người
sử dụng. Trung tâm y tế huyện, trạm y tế xã có đủ điều kiện đều được trang bị phương tiện, thuốc...

29
phục vụ thực hiện kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Những nỗ lực đó đã mang lại
kết quả tích cực. Đến năm 2005, huyện Cam Lộ đạt được mức giảm sinh trung bình 0,4% 0; tỷ lệ phát
triển dân số tự nhiên giảm bình quân hàng năm 0,46% 0.
Triển khai Chỉ thị số 55-CT/TW, ngày 28/6/2000 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về tăng cường sự
lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Ban
Thường vụ Huyện ủy ra chỉ thị cho các cấp ủy đảng cơ sở trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác trẻ em
ở đơn vị, địa phương mình. Với sự quan tâm của các cấp ủy đảng, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo
dục trẻ em có nhiều chuyển biến tích cực. Trong công tác tuyên truyền, hình thức tư vấn cộng đồng
được coi trọng... Đây là cách làm có hiệu quả cao trong việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm,
trước hết là của gia đình trong việc chăm sóc, tạo điều kiện cho trẻ học tập, bảo vệ trẻ không bị rơi
vào tệ nạn xã hội... Các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể có nhiều hoạt động vì trẻ em như tổ chức hoạt
động vui chơi nhân dịp ngày quốc tế thiếu nhi 1/6, rằm trung thu; nhận đỡ đầu, hỗ trợ cho trẻ em
nghèo, cấp xe lăn cho trẻ khuyết tật... Riêng trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số ở Bản Chùa được đặc
biệt quan tâm. Nhiều mô hình về công tác gia đình - trẻ em, trong đó phổ biến là mô hình câu lạc bộ
“Ông, bà, cha, mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”; các chương trình bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ
em đạt nhiều kết quả. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm bình quân 1,58%/năm. Số trẻ

30
trong độ tuổi được tiêm chủng mở rộng đạt tỷ lệ cao, đặc biệt trẻ dưới 1 tuổi đạt từ 90 - 98% nên các
bệnh có vắc xin bảo vệ đều giảm hẳn. Hầu hết trẻ em trong độ tuổi đều được đi học; hàng năm gần
100% trẻ em 6 tuổi được huy động vào lớp 1.
Hoạt động khoa học công nghệ được chú trọng. Trước những thành tựu lớn từ khoa học công
nghệ mang lại, huyện Cam Lộ đã chủ động ứng dụng vào xây dựng các mô hình kinh tế, tập huấn
chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật như thử nghiệm giống mới, thâm canh cây trồng vật nuôi, áp
dụng quy trình dịch hại tổng hợp IPM, đầu tư xử lý vệ sinh môi trường. Đã từng bước ứng dụng các
tiến bộ khoa học công nghệ vào hoạt động giáo dục, y tế và triển khai chương trình công nghệ thông
tin trong các cơ quan, ban, ngành cấp huyện đến các xã, thị trấn.
Các chính sách xã hội được quan tâm thực hiện, góp phần giải quyết các vấn đề bức xúc của xã
hội. Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong huyện thường xuyên quan tâm đến công tác đền ơn
- đáp nghĩa, đến gia đình có công với cách mạng, gia đình liệt sĩ, thương binh, Mẹ Việt Nam Anh
hùng...; thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách của Nhà nước đối với người có công. Phong trào đền
ơn đáp nghĩa được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Hàng năm, huyện, xã, thị trấn đều trích một phần
ngân sách hỗ trợ cho các gia đình thuộc diện chính sách giúp nâng cao mức sống như: xây dựng, sửa

31
chữa, nâng cấp nhà ở, thăm hỏi tặng quà nhân dịp lễ, tết.... Từ năm 2001 đến năm 2005, đã vận động
đóng góp được 687,6 triệu đồng vào quỹ tình nghĩa, tặng 195 sổ tiết kiệm trị giá 69 triệu đồng; huy
động quỹ vì người nghèo 237,9 triệu đồng. Kết hợp từ nhiều nguồn hỗ trợ, đầu tư xây mới 137 nhà,
sửa chữa 26 nhà tình nghĩa với tổng số 1.949,7 triệu đồng; hỗ trợ xây dựng 37 nhà Đại đoàn kết với
tổng số tiền là 421 triệu đồng. Hơn 1 tỷ đồng quỹ vì người nghèo được huy động từ các nguồn đã sửa
chữa và xây mới được 188 nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo trên địa bàn huyện.
Một trong những vấn đề về an sinh xã hội được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo thực hiện là giải
quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Ngày 28/4/2001, Ban Thường vụ Huyện ủy ra chỉ thị số 05-
CT/HU “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xóa đói giảm nghèo”. Chỉ thị khẳng
định: phấn đấu hoàn thành xóa đói, giảm nghèo là tiêu chí để đánh giá hoạt động của các tổ chức cơ
sở đảng, chính quyền, đoàn thể, các ban, ngành và Ban Thường vụ Huyện ủy yêu cầu chỉ thị này phải
được quán triệt đến tận đảng viên.
Triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/HU, từ năm 2001, các cấp ủy đảng tập trung chỉ đạo các
ban, ngành, đoàn thể, khảo sát, rà soát hộ nghèo, đề xuất các giải pháp cụ thể; chú trọng xây dựng
các mô hình kinh tế, ngành nghề, dịch vụ mới phù hợp với địa bàn dân cư; chú trọng tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc cho các hộ nghèo vay vốn, giải ngân, phát huy hiệu quả sử dụng đồng vốn. Với

32
nhiều giải pháp được triển khai thực hiện như: xây dựng kết cấu hạ tầng, tập huấn kiến thức, giới
thiệu các mô hình kinh tế, tạo điều kiện vay vốn ưu đãi đã nâng cao năng lực giải quyết việc làm và
xóa đói giảm nghèo, nên hàng năm đã giải quyết việc làm cho khoảng 400-500 lao động; nâng tỷ lệ
cân đối giữa lao động có việc làm và lao động chưa có việc làm từ 13,4% năm 2001 lên 25% năm
2005; tỷ lệ lao động được đào tạo nghề từ 13,2% năm 2001 lên 14,7% năm 2005; giảm tỷ lệ hộ
nghèo 3,14%/năm (chỉ tiêu nghị quyết đề ra là 3-5%).

III. QUỐC PHÒNG, AN NINH ĐƯỢC TĂNG CƯỜNG, TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ VÀ TRẬT TỰ AN
TOÀN XÃ HỘI ỔN ĐỊNH

Nhiệm vụ quốc phòng - an ninh được chú trọng. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về
quốc phòng - an ninh, đặc biệt Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ tổ quốc
trong tình hình mới được tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện một cách kịp thời, sâu
rộng; góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, chủ động
làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

33
Công tác huấn luyện diễn tập được chú trọng, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ
trang huyện từng bước được nâng lên. Đã thực hiện tốt xây dựng nề nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật,
an toàn quân đội, an toàn giao thông, giữ vững mối đoàn kết nội bộ, đoàn kết các lực lượng tạo thành
sức mạnh tổng hợp trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh.Chỉ tiêu giao nhận quân hàng
năm luôn hoàn thành 100%.
Nhiệm vụ xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên được chăm lo, từng bước nâng
cao chất lượng chính trị và sức chiến đấu, khả năng sẵn sàng chiến đấu theo tinh thần Chỉ thị số 16-
CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 05/6/2003 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ thị số 11-CT/HU ngày 24/10/2003 Ban Thường vụ Huyện ủy về chỉ đạo
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên trong tình hình
mới. Đến năm 2005, lực lượng dân quân tự vệ chiếm tỷ lệ 1,95% dân số, được biên chế thành 12
trung đội và 17% là đảng viên. 90% cán bộ Ban chỉ huy quân sự xã, thị trấn, cơ quan là đảng viên;
9/9 đồng chí Chỉ huy Trưởng Ban chỉ huy quân sự xã, thị trấn tham gia cấp ủy địa phương; 6/8 đồng
chí Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự của cơ quan, tổ chức tham gia cấp ủy của cơ quan, đơn vị
mình. Lực lượng quân nhân dự bị chiến 2,92% dân số; tỷ lệ đảng viên chiếm 4,5% và đoàn viên
chiếm 94%.

34
Cơ sở vật chất trang bị cho lực lượng vũ trang được quan tâm đầu tư góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Thường xuyên tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng
kiến thức nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn cho lực lượng vũ trang, lực lượng công
an ngày càng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tiến hành diễn tập cơ chế 02 cho các xã, thị trấn, thực hành
diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện đạt kết quả khá, có mặt tốt. Chính sách hậu phương quân đội
được quan tâm thực hiện.Công tác quy tập hài cốt liệt sĩ luôn được quan tâm. Tháng 5/2005, đã phát
hiện, tìm kiếm, quy tập mộ tập thể của 108 liệt sĩ chiến sỹ đặc công hy sinh tại thị trấn Cam Lộ.
Chăm lo xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, kết hợp chặt
chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng kết hợp với kinh tế. Tổ chức tốt các lực lượng, triển
khai các biện pháp nắm chắc tình hình, phát hiện đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động xâm
hại đến lợi ích an ninh quốc gia, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng. Đấu tranh kịp thời các ý đồ
hoạt động móc nối, truyền bá tư tưởng văn hóa độc hại từ bên ngoài, các tệ nạn xã hội, các hoạt động
lợi dụng tôn giáo, dân tộc; phát hiện và thu giữ nhiều tài liệu, ấn phẩm có nội dung xuyên tạc chế độ,
truyền đạo trái phép, góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện. Chủ động đấu
tranh có hiệu quả với những tiêu cực, mặt trái cơ chế thị trường, xây dựng cơ sở vững mạnh, củng cố
thế trận quốc phòng - an ninh từ cơ sở.

35
Chỉ đạo tốt công tác đối ngoại nhân dân; tiếp nhận, triển khai các dự án tài trợ của các tổ chức
phi chính phủ trên địa bàn, nhất là dự án khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh. Bảo đảm an
toàn tuyệt đối các đoàn khách quốc tế, người nước ngoài về làm việc, thăm và du lịch.
Nhiệm vụ xây dựng cơ sở an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu và liên hoàn về an ninh trật tự,
bảo đảm cho quá trình nắm bắt và xử lý tình huống ngay từ cơ sở được chú trọng xây dựng. Thực
hiện có hiệu quả chế độ trực báo, nắm chắc tình hình, chỉ đạo xử lý các vấn đề nảy sinh ở cơ sở.
Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, phong trào tự quản và phòng chống tội phạm được
nhân dân tích cực hưởng ứng, thực hiện ngày càng có hiệu quả. Đã kịp thời phát hiện ngăn chặn xử
lý những vấn đề phức tạp, nảy sinh từ cơ sở không để lan rộng kéo dài.
Đội ngũ công an xã, công an viên từng bước được cũng cố, kiện toàn; lực lượng công an huyện
tích cực phối hợp với các ngành, các địa phương, đơn vị tổ chức các đợt tấn công truy quét tội phạm,
bài trừ tệ nạn xã hội; kiên quyết điều tra làm rõ các vụ án nghiêm trọng xảy ra trên địa bàn. Phối hợp
với các cơ quan bảo vệ pháp luật tăng cường điều tra, xác minh, nâng cao tỷ lệ khám phá án, tập
trung xét xử nhanh các vụ án điểm để giáo dục phòng ngừa tội phạm và nâng cao tinh thần cảnh giác
cho nhân dân.

36
Thực hiện Chỉ thị số 04/2003/CT-TTg, ngày 12/3/2003 của Chính phủ về “tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh trật tự an toàn giao thông, tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 13/2002/NQ-CP, ngày 19/11/2002 của Chính phủ về các giải pháp kiềm chế gia tăng, tiến
tới giảm dần tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông”, công an huyện tổ chức các đợt ra quân nhằm
tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành Luật Giao thông đường bộ, giữ vững ổn định chính trị,
bảo đảm trật tự an toàn xã hội, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội ở địa phương.
Quy chế phối hợp thực hiện công tác quốc phòng - an ninh địa phương được triển khai và đạt
nhiều kết quả tích cực. Vai trò của các tổ chức quần chúng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và phong
trào vì an ninh tổ quốc, phòng chống các loại tội phạm, xử lý dứt điểm các vấn đề nảy sinh từ cơ sở.
Công tác tuyên truyền Luật nghĩa vụ quân sự, ký kết Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống
tội phạm, tổ chức ký cam kết thực hiện gia đình, họ tộc không có tội phạm, không vi phạm pháp
luật... được triển khai nghiêm túc và được các đoàn thể lồng ghép tuyên truyền đã phát huy hiệu quả.
An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững.
Công tác cải cách tư pháp được triển khai kịp thời. Các cơ quan chức năng tăng cường phổ biến
giáo dục pháp luật. Sự phối hợp giữa các cơ quan khối nội chính trong điều tra, truy tố, xét xử được

37
tăng cường; phối hợp trong giải quyết các vụ việc, đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân và phòng
ngừa giáo dục tội phạm trên địa bàn đạt nhiều kết quả tích cực.
Ban Thường vụ Huyện ủy chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Ủy ban nhân dân huyện ban hành nội quy, trình tự, thủ tục tiếp công dân, giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của công dân. Từ năm 2001-2005, Ban Thường vụ huyện ủy và Ủy ban Kiểm tra
Huyện ủy, Thanh tra huyện tiếp nhận 750 đơn khiếu nại, tố cáo 1. Các đơn thư được phối hợp giải quyết
kịp thời, được đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình. Công tác tiếp dân được duy trì đều đặn,
với 1.016 lượt người (460 đơn), góp phần giải quyết kịp thời những thắc mắc của nhân dân.

IV. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ ĐÃ NÂNG CAO TRÊN
CẢ BA MẶT: CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG VÀ TỔ CHỨC

1. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng

Gắn liền với phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, Đảng bộ huyện xác định xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt, vì vậy đã đề ra nhiều giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
1
. Lĩnh vực đất đai có 497 đơn, lĩnh vực chính sách: 16 đơn và các lĩnh vực khác là 255 đơn.
38
toàn Đảng bộ. Ban Chấp hành đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là tập trung củng cố đoàn kết nội bộ,
xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, bảo đảm vai trò lãnh đạo toàn diện trên các mặt công tác.
Sau đại hội, số lượng cấp ủy có sự biến động, 06 đồng chí chuyển công tác và 02 đồng chí nghỉ hưu
theo chế độ; Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã bầu bổ sung đủ số lượng. Tháng 8/2001, đồng chí
Nguyễn Đức Cường, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy chuyển công tác về tỉnh, giữ chức vụ Chủ tịch
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh; đồng chí Hoàng Giáo, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy,
Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện được bầu làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Thanh Bảo, Ủy
viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy được bầu làm Phó Bí thư Thường trực
Huyện ủy. Tháng 5/2004, đồng chí Nguyễn Quốc Trị được điều động giữ chức vụ Phó Trưởng Ban
Dân vận Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Công Phán, Huyện ủy viên được bầu vào Ban Thường vụ, Phó Bí
thư Huyện ủy và được Hội đồng nhân dân huyện bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Sau
hội nghị giữa nhiệm kỳ tháng 8/2003, Ban Thường vụ Huyện ủy tiếp tục rà soát, điều chỉnh quy chế
làm việc và chương trình hoạt động toàn khóa của cấp ủy sát với thực tiễn; đặc biệt là quy chế làm việc
và mối quan hệ công tác giữa Ban Thường vụ Huyện ủy với Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, các ban đảng Huyện ủy.

39
Thường trực Huyện ủy thực hiện nghiêm túc chế độ làm việc định kỳ với các tổ chức trong hệ
thống chính trị, các tổ chức cơ sở đảng; phát huy vai trò của cấp ủy viên và cán bộ phụ trách địa bàn
cơ sở. Trong điều hành công việc có sự phân công nhiệm vụ cụ thể cho tập thể, cá nhân; có cơ chế
kiểm tra, đánh giá việc thực hiện. Xuất phát từ thực tiễn địa phương, từ sau Đại hội, Ban Chấp hành
Đảng bộ huyện đã tổ chức 19 kỳ họp thông qua 14 nghị quyết và 8 chương trình hành động nhằm cụ
thể hóa nghị quyết của cấp trên, đề ra những nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu và thời gian cụ
thể để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Các nghị quyết, chương trình hành động của huyện ủy
được các cấp, các ngành, nhân dân đồng tình hưởng ứng, phấn đấu thực hiện, tạo nên sự chuyển biến
quan trọng trên các lĩnh vực.
Sau Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII, tình hình tư tưởng và tâm trạng cán bộ, đảng viên và
nhân dân nhìn chung ổn định. Phần đông cán bộ, đảng viên và nhân dân Cam Lộ nhận thức đúng đắn
và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt
tích cực, nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa chuyển kịp với tình hình
mới. Trước tình hình đó, thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về công tác tư tưởng, lý luận
trong tình hình mới, Đảng bộ huyện Cam Lộ tập trung nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng; nâng

40
cao phẩm chất đạo đức cách mạng và niềm tin vào sự nghiệp đổi mới. Đây là 2 nhiệm vụ trọng tâm
xuyên suốt của công tác tư tưởng trong suốt nhiệm kỳ. Ngoài việc thường xuyên học tập, quán triệt
nghị quyết của Đảng, từ năm 2003-2005, Đảng bộ huyện tập trung nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ
Chí Minh. Tiếp tục đổi mới công tác tư tưởng. Ban Tuyên giáo cấp xã được thành lập. Đây là chủ
trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu công tác ở cơ sở, thể hiện sự nhạy bén của Trung ương, của
tỉnh trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng tại Kết luận Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (khóa IX)
về tăng cường công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay. Nhìn chung, các Ban tuyên giáo cấp xã
hoạt động có hiệu quả, góp phần tích cực trong việc triển khai học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, quán
triệt nghị quyết Đảng theo từng đối tượng, sát hợp với điều kiện thực tiễn và nhiệm vụ chính trị của
từng đơn vị. Qua học tập tạo sự chuyển biến bước đầu của các cấp, các ngành, các đơn vị trong việc
vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và nghị quyết của Đảng để giải quyết những vấn đề thực
tiễn đang đặt ra tại địa phương, đơn vị. Đồng thời, tạo chuyển biến về ý thức rèn luyện, giữ gìn phẩm
chất đạo đức cách mạng; đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chống âm mưu diễn biến hòa
bình trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa theo tinh thần Thông báo Kết luận số 94-TB/TW, ngày
30/12/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng.

41
Giai đoạn này, huyện đã tập trung nghiên cứu, biên soạn Lịch sử Đảng bộ huyện Cam Lộ (1930-
2000), đã phát huy giá trị tích cực trong công tác tuyên truyền và giáo dục tuyền thống cách mạng.
Quán triệt tinh thần Kết luận hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Chỉ thị
số 10-CT/TU ngày 28/01/2002 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục thực hiện Nghị quyết trung
ương 6 (lần 2), khóa VIII về đẩy mạnh Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Ban Thường vụ
Huyện ủy xây dựng kế hoạch, đề ra nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục thực hiện
cuộc vận động xây dựng Đảng để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức Đảng và đội ngũ đảng viên; xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Trên cơ sở nhiệm vụ được xác định: tăng cường sự lãnh đạo và kiểm tra của cấp ủy nhằm kiên
quyết đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, triệt để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thường
xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình. Kiên quyết xử lý những cán bộ, đảng viên sa sút phẩm chất,
vi phạm pháp luật Nhà nước và kỷ luật của Đảng, Ban Thường vụ Huyện ủy thành lập Ban Chỉ đạo
thực hiện Nghị quyết trung ương 6 (lần 2) và cử cán bộ chuyên trách, xây dựng quy chế hoạt động và
chương trình công tác.
Để xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2),
Ban Thường vụ Huyện ủy tiến hành kiểm điểm theo Hướng dẫn số 33-HD/BTCTW ngày 06/11/2004

42
của Ban Tổ chức Trung ương về kiểm điểm tự phê bình và phê bình năm 2004, gắn với kiểm điểm
cuối nhiệm kỳ và Kế hoạch số 35-KH/TU của Tỉnh ủy; chỉ đạo chặt chẽ việc chuẩn bị nội dung và
tiến hành kiểm điểm gắn với xây dựng chương trình hành động, khắc phục sửa chữa khuyết điểm và
xử lý kịp thời những trường hợp cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật.
Nhờ những biện pháp quyết liệt trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), tình hình chất
lượng tổ chức đảng và đảng viên của Đảng bộ huyện Cam Lộ đã có sự chuyển biến thực sự về nhận
thức và hành động. Năng lực lãnh đạo của các cấp ủy, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền
và hiệu quả hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể ngày càng nâng cao. Đã khắc phục tệ quan liêu, xa
rời quần chúng, ngăn chặn và phát hiện kịp thời những biểu hiện tiêu cực, xử lý nghiêm những cán
bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật,nhận được sự đồng tình cao trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Công tác tổ chức cán bộ có nhiều chuyển biến tích cực. Thực hiện Quyết định số 49-QĐ/TW
ngày 03/5/1999 của Bộ Chính trị và Quyết định số 364-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phân
cấp quản lý cán bộ, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành quy định về phân cấp quản lý cán bộ; quy
định rõ trách nhiệm, quyền hạn quản lý cán bộ của cấp ủy, tổ chức Đảng, các ngành, đơn vị, mặt trận
và các tổ chức thành viên; trách nhiệm của cá nhân lãnh đạo, thủ trưởng các đơn vị trong tuyển chọn,
bố trí, phân công công tác đối với cán bộ; tổ chức thực hiện việc quản lý, sử dụng cán bộ và phân cấp

43
quản lý cán bộ; quy hoạch, đào tạo, nhận xét đánh giá, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại; khen thưởng, kỷ luật
thực hiện chế độ chính sách, mối quan hệ và trách nhiệm của các cơ quan tham mưu trong công tác
cán bộ. Quá trình tổ chức thực hiện đã xác định rõ chức năng nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm của
các tổ chức và các cá nhân trong tham mưu, góp phần quan trọng thúc đẩy việc xây dựng và kiện
toàn hệ thống chính trị.
Nhiều cơ sở đảng đã khẳng định vai trò, hạt nhân lãnh đạo đối với địa phương, đơn vị. Phương
thức lãnh đạo, nội dung sinh hoạt của các cấp ủy và các tổ chức đảng từng bước được đổi mới, thực
hiện tốt các nguyên tắc trong sinh hoạt, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Các loại hình tổ chức
cơ sở đảng cơ bản thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ. Đảng bộ xã, thị trấn thể hiện vai trò lãnh đạo,
nhất là lãnh đạo phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng nông thôn mới. Đảng bộ, chi bộ khối doanh
nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo sản xuất kinh doanh và giáo dục, phát huy tính tiền phong
của giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Tổ chức Đảng trong
khối hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, nhất là việc cải cách hành chính và thực
hành tiết kiệm. Trong nhiệm kỳ đã thành lập thêm 2 chi bộ trực thuộc, nâng tổng số tổ chức cơ sở
đảng của Đảng bộ huyện lên 36.

44
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Quyết định số 51-QĐ/TW ngày 03/5/1999 của Bộ
Chính trị, Quyết định số 306-QĐ/TU ngày 12/10/1999 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc ban hành
quy chế bổ nhiệm cán bộ và Kế hoạch số 02-KH/TU ngày 29/8/2001 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về
việc bổ nhiệm lại cán bộ các cấp trong tỉnh, Ban Thường vụ Huyện ủy Cam Lộ đã ban hành kế hoạch
bổ nhiệm lại cán bộ các cấp theo hướng kiện toàn và nâng cao chất lượng cán bộ đủ sức đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ đổi mới; chỉ đạo toàn Đảng bộ triển khai thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ theo quy trình,
tạo sự thống nhất cao về nhận thức tư tưởng. Trong bổ nhiệm đã chú trọng tiêu chuẩn đạo đức, năng
lực, sở trường, bảo đảm tính kế thừa gắn với kiện toàn, sắp xếp và tinh giản biên chế. Nhiệm kỳ
2001-2005, Ban Thường vụ Huyện ủy có nhiều đổi mới trong công tác đánh giá, quy hoạch, đề bạt,
bổ nhiệm, luân chuyển, bố trí cán bộ.
Quy hoạch và luân chuyển cán bộ đạt nhiều kết quả tích cực; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được
chú trọng. Căn cứ các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên, các tổ chức cơ sở đảng, các cơ quan,
đơn vị xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện. Người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và
các đoàn thể đã nêu cao tinh thần trách nhiệm trong đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp bố trí, đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ. Trong nhiệm kỳ 2000-2005, có 157 đồng chí được đưa vào quy hoạch ban chấp hành,

45
37 đồng chí được quy hoạch ban thường vụ, 43 đồng chí được đưa vào huy hoạch chức danh bí thư,
phó bí thư, 77 đồng chí quy hoạch chức danh chủ tịch, các phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân các xã, thị trấn; 76 đồng chí được đưa vào quy hoạch trưởng, phó các phòng, ban cấp
huyện.
Trên cơ sở quy hoạch đội ngũ cán bộ, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo các ban, ngành xây
dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giai đoạn 2000-2005, 2005-2010. Chính
sách đào tạo cán bộ huyện Cam Lộ chú trọng ưu tiên lựa chọn cán bộ nữ, trẻ, con em các gia đình
chính sách có năng lực, phẩm chất; đồng thời có quy định tạm thời về một số chính sách hỗ trợ kinh
phí cho cán bộ đi học. Từ năm 2001-2005, đã cử 03 đồng đi học lớp cử nhân chính trị; 35 đồng chí đi
học lớp cao cấp lý luận chính trị và 41 đồng chí học trung cấp lý luận chính trị 1; mở một lớp đại học
nông nghiệp tại chức và một lớp trung cấp lý luận chính trị cho cán bộ huyện và các xã, thị trấn. Chất
lượng cán bộ được nâng lên một cách toàn diện cả về trình độ và năng lực công tác. Đồng thời, tiếp
tục xây dựng cán bộ nữ theo tinh thần Chỉ thị số 37-CT/TW của Ban Bí thư, Ban Thường vụ Huyện
ủy rà soát, đánh giá thực trạng công tác cán bộ nữ và xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo và bố trí

1
. Báo cáo số 51-BC/HU ngày 22/12/2006 của Ban Thường vụ Huyện ủy về tổng kết Chỉ thị số 29-CT/TW của Bộ
Chính trị khóa VIII về tăng cường công tác kiểm tra của Đảng.
46
sử dụng theo hướng ưu tiên tuyển chọn và bố trí cán bộ nữ. Đến năm 2005, tỷ lệ đảng viên nữ chiếm
gần 30%; 6,8% cán bộ nữ tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ huyện; 8,3% cán bộ nữ giữ chức vụ
trưởng, phó phòng ban; 28,8% cán bộ nữ tham gia Ban Chấp hành Mặt trận và các đoàn thể. Sau khi
được bồi dưỡng, đào tạo, thông qua thực tiễn công tác, đội ngũ cán bộ, công chức từ huyện đến cơ sở
đã thể hiện rõ năng lực công tác, hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn, góp phần tạo nhiều chuyển biến quan
trọng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cùng với công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ để tạo nguồn lâu dài, Ban Thường vụ Huyện ủy
chủ động luân chuyển cán bộ từ khối Đảng qua khối nhà nước, khối dân vận và ngược lại; đồng thời
điều động một số đồng chí ở cơ sở lên đảm nhận các chức vụ thuộc các ban, ngành cấp huyện; luân
chuyển một số đồng chí trưởng, phó các phòng, ban có năng lực, sức khỏe, được đào tạo bài bản nằm
trong diện quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý cấp huyện về cơ sở đảm nhận các chức vụ chủ chốt ở
các xã. Từ năm 2001-2005, huyện Cam Lộ đã tiến hành luân chuyển 11 cán bộ, trong đó có 01 cán
bộ từ huyện về cơ sở, từ cơ sở lên huyện 03 đồng chí và luân chuyển giữa khối đảng, chính quyền,
mặt trận và các đoàn thể là 07 đồng chí, hợp đồng tăng cường về cơ sở 04 đồng chí cán bộ kỹ thuật.

47
Công tác phát triển đảng viên có nhiều tiến bộ. Trong 5 năm đã kết nạp được 281 đảng viên, tỷ lệ
kết nạp đảng viên hàng năm đạt bình quân 5,18% so với tổng số đảng viên, nâng tổng số đảng viên
trong toàn đảng bộ lên 1.275 đồng chí.
Việc đánh giá nhận xét cán bộ, đảng viên hàng năm được tiến hành đúng quy định. Ban
Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo các xã, thị trấn, các ngành, các cơ quan, đơn vị thực hiên tốt việc tổ
chức để cán bộ, đảng viên tự đánh giá và tham gia nhận xét, đánh giá phân loại. Qua phân loại đánh
giá hàng năm, tỷ lệ cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tỷ lệ cán bộ trẻ có triển vọng và chiều
hướng phát triển ngày càng tăng1. Đội ngũ cán bộ cốt cán từ huyện đến cơ sở ổn định, có sự kế thừa,
góp phần quan trọng trong tổ chức, lãnh đạo thực hiện có kết quả mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm an ninh chính trị.
Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở, Đảng bộ thường xuyên
củng cố tổ chức Đảng bằng nhiều giải pháp đồng bộ. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo, ban hành
các văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX; chỉ đạo các cấp ủy cơ sở
rà soát, điều chỉnh bổ sung quy chế hoạt động của cấp ủy; tiếp tục cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá tổ
chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh phù hợp với từng loại hình cơ sở. Đối với các tổ chức đảng
1
. Kết quả phân loại chất lượng ĐVĐTCHTTNV năm 2001 đến 2005 là: 924/1.109, 535/1.154, 1.030/1.127,
1.083/1.296, 1.017/1.257.
48
yếu kém, Thường trực Huyện ủy và các cơ quan liên quan làm việc với tập thể cấp ủy, trực tiếp chỉ
đạo, giải quyết những vấn đề nổi cộm, giúp cơ sở tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Việc tổ chức kiểm
điểm, tự phê bình và phê bình hàng năm trong Đảng được đổi mới về nội dung, phương pháp; tăng
cường cán bộ về cơ sở, thành lập các đoàn kiểm tra, khảo sát giúp tháo gỡ khó khăn. Kết hợp nhiều
biện pháp củng cố nêu trên, hầu hết cơ sở đảng có những chuyển biến tiến bộ, rõ nét là khắc phục
đáng kể tình trạng ôm đồm công việc, bao biện làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng;
cải tiến quy trình ra nghị quyết, quyết định phù hợp với từng nơi, sát thực tiễn, có tính khả thi cao.
Đến năm 2005, cấp ủy xã, thị trấn đã hoàn thành việc bố trí các chi bộ, tổ Đảng theo địa bàn dân cư;
chủ động rà soát, bổ sung hoàn thiện quy chế làm việc và xác định rõ mối quan hệ công tác giữa tổ
chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể; duy trì chế độ giao ban, trực báo đầu tuần; hạn chế tư tưởng
trông chờ, ỷ lại. Nhiều cấp ủy xã đã chủ động xây dựng chương trình toàn khóa, quý, năm; khắc phục
tình trạng thụ động, chạy theo sự vụ. Một số đảng ủy xã thực hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo phát triển
kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh và giải quyết tốt các vấn đề ở cơ sở. Kết quả
phân loại tổ chức cơ sở đảng hàng năm có sự chuyển biến về chất lượng. Số tổ chức cơ sở đảng đạt
danh hiệu trong sạch vững mạnh tăng dần qua các năm, từ 23/35 năm 2001 lên 28/36 năm 2005.

49
Việc tặng Huy hiệu Đảng theo tinh thần Thông tri số 41-TTr/TW của Ban Bí thư Trung ương
được Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo thực hiện đúng quy trình, quy định, đối tượng và tiêu chuẩn.
Ban Thường vụ Huyện ủy đã làm thủ tục đề nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy xét tặng Huy hiệu Đảng
cho 210 đồng chí, chiếm tỷ lệ 16,1% tổng số đảng viên của Đảng bộ.
Tổ chức đảng ở các cơ quan, đơn vị giới thiệu đảng viên đang công tác ở đơn vị về sinh hoạt giữ
mối liên hệ và thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú theo Quy định 76-QĐ/TW, ngày 15/6/2000 của
Bộ Chính trị. Đảng viên được giới thiệu về sinh hoạt nơi cư trú được tổ chức theo địa bàn dân cư,
sinh hoạt mỗi năm 2 kỳ, cấp ủy nơi cư trú có phiếu nhận xét đảng viên gửi về cho cấp ủy nơi đảng
viên công tác để làm cơ sở phân loại đảng viên. Bước đầu, việc sinh hoạt Đảng theo Quy định 76 có
tác dụng tích cực trong rèn luyện, quản lý đảng viên, tạo điều kiện cho đảng viên gần gũi nhân dân,
khắc phục dần những biểu hiện sống xa dân, thiếu trách nhiệm công dân nơi cư trú, góp phần củng cố
mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Đồng thời, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, nhân dân nơi cư
trú được tham gia giám sát đảng viên cơ quan thực hiện trách nhiệm công dân, thực hiện Quy định số
19-QĐ/TW, ngày 03/01/2001 của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm.
Công tác Bảo vệ chính trị nội bộ được coi trọng. Cấp ủy các cấp thực hiện nghiêm túc Quy định
số 75-QĐ/TW ngày 25/4/2000 của Bộ Chính trị, Hướng dẫn số 02-HD/BVTW, số 14-HD/BVTW

50
của Ban Bảo vệ Chính trị nội bộ Trung ương. Các tổ chức cơ sở đảng chú trọng thực hiện tốt công
tác thẩm tra xác minh đối với 150 cán bộ, đảng viên và quần chúng ưu tú có liên quan đến lịch sử
chính trị về bản thân và gia đình phục vụ công tác phát triển đảng, quy hoạch, bổ nhiệm đề bạt cán
bộ, góp phần bảo vệ quan điểm, đường lối và phục vụ tốt cho công tác phát triển Đảng, bố trí, đề bạt
cán bộ và bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
Công tác kiểm tra của cấp ủy đảng được tăng cường, hoạt động của Ủy ban Kiểm tra có nhiều
kết quả tích cực. Căn cứ chương trình, kế hoạch của cấp trên, Huyện ủy Cam Lộ xây dựng chương
trình kiểm tra nhiệm kỳ và định kỳ hàng năm; phân công từng đồng chí ủy viên thường vụ phụ trách
địa bàn tổ chức thực hiện. Về công tác kiểm tra, bên cạnh việc thường xuyên thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra đảng viên chấp hành điều lệ Đảng, kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi
phạm và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, trong nhiệm kỳ 2001 - 2005, Đảng bộ tăng cường kiểm
tra các cấp ủy, chính quyền cơ sở tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, chương trình hành động
của Huyện ủy về phát triển kinh tế - xã hội. Qua kiểm tra đã phát hiện những thiếu sót, khuyết điểm,
kịp thời điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã
hội phù hợp tình hình địa phương; Đồng thời, nhắc nhở, uốn nắn kịp thời tình trạng nói không đi đôi
với làm, những biểu hiện lệch lạc ở một số đơn vị, góp phần ngăn ngừa vi phạm kỷ luật Đảng và

51
pháp luật của Nhà nước. Một số trường hợp vi phạm được xử lý nghiêm. Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy
chủ động tham mưu cấp ủy kiểm tra tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Từ
năm 2001-2005, đã xử lý kỷ luật 58 đảng viên, trong đó khiển trách 13, cảnh cáo 36, cách chức 2,
khai trừ 7 đảng viên (cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý 15 đồng chí). Đơn thư
khiếu nại, tố cáo được phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành liên quan nghiên cứu, giải quyết dứt
điểm, kịp thời theo đúng quy trình và thẩm quyền. Kết quả giải quyết được nhân dân đồng tình.
Những chuyển biến về công tác kiểm tra của cấp ủy và hoạt động của Ủy ban kiểm tra góp phần
nâng cao hiệu quả cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6
(lần 2). Việc xử lý kỷ luật giúp cán bộ, đảng viên nhận rõ khuyết điểm, có tác dụng giáo dục sâu sắc,
bảo đảm tính nghiêm minh kỷ luật Đảng.
Công tác dân vận từng bước được đổi mới. Quán triệt 4 quan điểm của Nghị quyết Trung ương
8B (khóa VI) về công tác Dân vận, cấp ủy đảng các cấp không ngừng đổi mới nhận thức, đặt công
tác vận động quần chúng thành một nội dung cơ bản của công tác xây dựng Đảng; đồng thời, tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân... nên đã tập hợp, động viên cán bộ và
nhân dân toàn huyện dấy lên nhiều phong trào thi đua hành động cách mạng trên các lĩnh vực: phát

52
triển kinh tế; xóa đói giảm nghèo; xây dựng đời sống văn hóa; chăm lo công tác chính sách xã hội;
giữ vững quốc phòng - an ninh. Hoạt động của Ban Dân vận Huyện ủy và Ban Dân vận các xã, thị
trấn mới thành lập do đồng chí Thường vụ đảng ủy xã làm Trưởng Banđáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ,
mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân tiếp tục được gắn bó chặt chẽ.
Công tác tôn giáo được quan tâm, quyền tự do, tín ngưỡng được tôn trọng theo quy định của
pháp luật. Bà con có đạo thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước và nhiệm vụ
chính trị của địa phương.
Thực hiện tốt chính sách dân tộc, chăm lo đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ tốt cho phát
triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số ở bản
Chùa xã Cam Tuyên; đồng thời tiếp tục duy trì những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng
bào dân tộc Vân Kiều.
2. Năng lực và hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền, vai trò Mặt trận và các đoàn
thể được nâng lên

Là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân huyện Cam Lộ thực hiện tốt
chức năng giám sát trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đại biểu Hội đồng nhân dân nêu cao vai trò,
trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Việc tiếp xúc cử tri được đổi mới và mở rộng, lắng
53
nghe ý kiến của nhân dân và phản ánh ý kiến của cử tri trong các kỳ họp. Nội dung các kỳ họp được
nâng lên. Việc ban hành các nghị quyết sát đúng với tình hình thực tế của địa phương. Đại biểu Hội
đồng nhân dân đã nêu cao trách nhiệm trong quyết định và giám sát tổ chức thực hiện các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế-xã hội.
Ủy ban nhân dân huyện và các xã, thị trấn được củng cố, kiện toàn, đã kịp thời cụ thể hóa chủ
trương, chính sách của Đảng, trong đó bám sát các nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện
thành các kế hoạch, chương trình hành động cụ thể, đáp ứng được yêu cầu nhà nước toàn diện trên
các lĩnh vực.
Cùng với quá trình sắp xếp tổ chứcbộ máy, tinh giản biên chế, Đảng bộ tập trung lãnh đạo thực
hiện cải cách hành chính nhà nước theo tinh thần Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg, ngày 17/9/2001
của Thủ tướng Chính phủ gắn với với đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Huyện ủy và
các cấp ủy đảng cơ sở. Đây là nội dung trọng tâm của nhiệm vụ xây dựng chính quyền nhân dân
trong giai đoạn 2001-2005. Triển khai các nhiệm vụ về cải cách hành chính nhà nước, Huyện ủy chỉ
đạo các cấp chính quyền cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm quản lý nhà
nước của từng cấp theo luật định bằng những quy định, quy chế, chế độ làm việc...; phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong bộ máy hành chính Ủy ban nhân dân huyện và xã, thị

54
trấn; rà soát và xác định rõ các mối quan hệ làm việc giữa các cơ quan, đơn vị và nhiệm vụ cụ thể
của từng chức danh công chức. Khâu đột phá trong cải cách hành chính là cải cách thủ tục hành
chính, loại bỏ những thủ tục rườm rà, gây khó khăn, phiền hà cho dân. Ủy ban nhân dân huyện tiến
hành rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành, loại bỏ những quy định
không còn hiệu lực hoặc chồng chéo, trùng lặp... Quá trình sắp xếp bộ máy, tinh giản biên chế, cải
cách hành chính được gắn với việc bổ nhiệm và bổ nhiệm lại các chức danh chủ chốt; bồi dưỡng, đào
tạo, rèn luyện đội ngũ công chức; uốn nắn, chấn chỉnh, xử lý kịp thời các biểu hiện sai phạm thông
qua tự phê bình và phê bình. Nét nổi bật trong cải cách thủ tục hành chính là việc giao đất theo cơ
chế “một của” theo Quyết định số 32/QĐ-TTg của Chính phủ. Rútngắn quy trình, thủ tục cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã đáp ứng nhu cầu và được nhân dân đồng tình cao. Từ thành công
cải cách thủ tục hành chính trong cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, huyện Cam Lộ đã có bước
cải tiến trong trả hồ sơ để thực hiện cơ chế “một cửa” trong lĩnh vực chứng thực, đăng ký kinh
doanh, xây dựng và nhà ở, lao động - thương binh và xã hội theo tinh thần quyết định số 181/QĐ-
TTg của Chính phủ. Tổ tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả đi vào hoạt động từ đầu năm 2004 có những
đóng góp nhất định trong cải cách thủ tục hành chính. Đầu năm 2005, huyện Cam Lộ đã triển khai
thực hiện cơ chế “một cửa” thí điểm tại xã Cam Thành và thị trấn Cam Lộ.

55
Thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ-CP, ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính
sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo sát việc kiện
toàn đội ngũ cán bộ xã theo các chức danh chuyên trách và không chuyên trách; tiến hành chuyển
xếp lương cho cán bộ công chức cấp xã. Cán bộ chuyên trách cấp xã có chế độ làm việc và hưởng
chính sách về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước như chế độ lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế bắt buộc, chế độ hưu trí... Chính sách đãi ngộ trên đáp ứng lòng mong đợi từ lâu của cán bộ cấp
xã, tạo ra động lực phát triển mới. Phong cách, ý thức trách nhiệm, lề lối làm việc của cán bộ, nhất là
cán bộ chủ chốt ở cơ sở chuyển biến tiến bộ, có trách nhiệm với dân hơn, góp phần củng cố lòng tin
của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Cải cách hành chính trên địa bàn huyện Cam Lộ giai đoạn 2001-2005 đạt được nhiều kết quả,
từng bước khắc phục dần tình trạng chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều
hành, tham mưu giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Quan hệ giữa chính quyền với ủy ban
mặt trận, các đoàn thể huyện được tăng cường, phối hợp công tác có hiệu quả như tổ chức các cuộc
tiếp xúc cử tri, giải quyết các kiến nghị của cử tri... Dân chủ trong sinh hoạt của hội đồng nhân dân
được phát huy, mở rộng; hoạt động giám sát, thảo luận, ra nghị quyết... trong các kỳ họp của hội
đồng các cấp có chất lượng hơn. Ủy ban nhân dân các cấp tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành

56
nghiêm các nghị quyết của hội đồng nhân dân nên tạo được sự thống nhất, đồng thuận cao trong quá
trình quản lý, điều hành và chỉ đạo giải quyết những vụ việc phát sinh. Nhờ đó, phát huy được hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc
phòng.
Quán triệt quan điểm đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động trong công tác vận động
quần chúng của Đảng, Mặt trận và các đoàn thể đã nâng cao chất lượng hệ thống tổ chức; số lượng
chi, tổ, hội vững mạnh tăng khá, không còn tổ chức yếu. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động, tập
hợp quần chúng, coi trọng và mở rộng các hình thực tự quản của nhân dân dưới nhiều hình thức như:
Tổ hợp tác, tổ tín dụng, hiệp hội, câu lạc bộ, các tổ chức xã hội theo sở thích, nghề nghiệp, theo lứa
tuổi. Công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận động nhân dân
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh được triển khai tích cực. Tổ chức các
phong trào thi đua yêu thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ của Đại hội đại biểu Mặt trận và
các đoàn thể đề ra; đồng thời, thực hiện có hiệu quả chức năng tập hợp, phản ánh ý kiến, nguyện
vọng của quần chúng, những kiến nghị về xây dựng Đảng, chính quyền; phát giác, tố giác các hành
vi tham nhũng, lãng phí. Kiện toàn và phát huy tác dụng của Ban thanh tra nhân dân, các tổ hòa giải

57
cơ sở, tham gia hòa giải các mâu thuẩn nội bộ nhân dân, bày tỏ thái độ của mình đối với những vụ
khiếu kiện của dân góp phần giải quyết từ cơ sở.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Cam Lộ và cơ sở đã có nhiều giải pháp cụ thể trong đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động, phát huy sức mạnh của tổ chức hội. Ngay sau đại hội, Mặt trận
huyện đã xây dựng quy chế làm việc trong nhiệm kỳ; tổ chức các hội nghị chuyên đề; ký kết chương
trình hoạt động với các ngành, tăng cường phối hợp công tác với các thành viên; củng cố các ban mặt
trận ở các địa bàn, khu dân cư, tập huấn nghiệp vụ; tổ chức các hoạt động mang lại hiệu quả thiết
thực.
Cuộc vận động xây dựng “quỹ vì người nghèo” được nhân dân ủng hộ, mang lại kết quả thiết
thực, góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo bền vững. Phong trào đã phát triển và lan tỏa
đến từng địa bàn dân cư, dòng họ, các đoàn thể tại cộng đồng giúp các đối tượng có hoàn cảnh khó
khăn ngày công, vật liệu làm nhà ở và tiêu biểu của phong trào là ở các xã Cam Thành, Cam Nghĩa,
Cam Tuyền. Các cuộc vận động đã góp phần nâng cao đời sống của nhân dân, thúc đẩy nền kinh tế-
xã hội huyện Cam Lộ triển.
Liên đoàn lao động huyện chỉ đạo củng cố ổn định tổ chức công đoàn cơ sở, mở rộng việc xây
dựng tổ chức công đoàn ở các doanh nghiệp tư nhân. Thường xuyên phối hợp với chính quyền, các

58
phòng, ban, ngành đoàn thể tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao. Đẩy mạnh
phong trào thi đua lao động học tập trong cán bộ, công chức và xây dựng đời sống văn hóa trong các
cơ quan, đơn vị. Triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở theo tinh thần Nghị định số 71/CP của
Chính phủ, quan tâm chăm lo bảo vệ quyền lợi chính đáng cho công nhân viên chức và lao động.
Phong trào công nhân viên chức và người lao động có nhiều chuyển biến. Qua các hoạt động đã khơi
dây tinh thần thi đua yêu nước, lao động sáng tạo, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh có nhiều đổi mới về nội dung, hình thức sinh hoạt để thu
hút, tập hợp lực lượng thanh, thiếu nhi. Bằng những chương trình, việc làm cụ thể, phong trào Thanh
niên tình nguyện xung kích đi đầu trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, lập thân, lập nghiệp và
bảo vệ Tổ quốc được triển khai mang lại hiệu quả thiết thực. Đoàn thanh niên phối hợp với các
ngành chức năng phát động các phong trào hành động cách mạng; chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi
đồng, nổi bật là hội trại ba thế hệ, hành hương về nguồn, gặp mặt kỷ niệm. Phong trào tiếp lửa tuyền
thống “Mãi mãi tuổi 20” được đoàn viên thanh niên đón nhận với lòng biết ơn sâu sắc về thế hệ xếp
bút lên đường đánh Mỹ. Qua các phong trào, Đoàn thanh niên đã giới thiệu 113 đoàn viên, thanh
niên ưu tú để tổ chức bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

59
Hội Liên hiệp phụ nữ huyện bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương tập trung thực hiện các
chương trình công tác trọng tâm và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua. Trong giai đoạn
2001-2005, hội phụ nữ chú trọng xây dựng mô hình, các câu lạc bộ về phát triển kinh tế, xây dựng
gia đình “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Thực hiện quyền bình đẳng về giới và công bằng
xã hội; xây dựng tổ chức hội hoạt động có hiệu quả. Tích cực củng cố tổ chức, tập hợp đoàn kết rộng
rãi các tầng lớp phụ nữ. Các cấp hội chú trọng giáo dục phẩm chất, nâng cao trình độ kiến thức cho
phụ nữ. Hội đã triển khai thực hiện có hiệu quả 5 chương trình công tác trọng tâm và 2 phong trào thi
đua lớn: phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc
và phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước.
Hội nông dân huyện Cam Lộ xác định xây dựng tổ chức hội vững mạnh là điều kiện tốt để đẩy
mạnh các phong trào thi đua, từ năm 2001 đến năm 2005, các cấp hội và Hội Nông dân huyện Cam
Lộ đã tập trung xây dựng và củng cố tổ chức hội đi vào hoạt động có chất lượng theo hướng đổi mới
công tác tuyên truyền vận động và làm tốt các hoạt động dịch vụ hỗ trợ, tăng năng suất, sản lượng
cây con. Đến năm 2005, 100% thôn, bản có tổ chức hội với số lượng 106 chi hội, với số lượng gần
5.000 người, chiếm 65% số hộ nông nghiệp. Hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước và 3 phong
trào của Hội Nông dân Việt Nam, phong trào thi đua sản xuất-kinh doanh-dịch vụ giỏi, xóa đói giảm

60
nghèo và làm giàu được hội viên hưởng ứng tích cực. Từng tập thể và hội viên Hội nông dân huyện
chủ động mở rộng diện tích, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất và mạnh dạn đầu tư phát triển kinh tế.
Đi cùng với nhiệm vụ truyên truyền, vận động và hướng dẫn, các cấp Hội phối hợp tổ chức được
60 đến 70 lớp tập huấn khoa học kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi và công nghệ sinh học đến hội
viên; hướng dẫn lập dự án và tính chấp cho nông dân vay qua các nguồn vốn 120 giải quyết việc làm,
quỹ hỗ trợ nông dân của huyện, tỉnh, trung ương để phát triển kinh tế, mỗi năm từ 200 đến 300 triệu
đồng; làm ủy thác với Ngân hàng chính sách huyện cho hội viên vay trên 8 tỷ đồng. Triển khai
Chương trình cơ giới hóa nông nghiệp, Hội tín chấp cho hội viên nông dân vay trả chậm mua 20 máy
cày, trên 100 tấn phân bón các loại với số tiền trên 400 triệu đồng. 5 câu lạc bộ khuyến nông đã giúp
đỡ, hướng dẫn hội viên kinh nghiệm làm ăn, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
xây dựng các mô hình kinh tế điểm có hiệu quả như: thâm canh lạc trên đất đỏ, trồng cây ăn quả,
nuôi cá, nuôi ông lấy mật, mây tre đan và làm chổi đót.Mô hình trồng cỏ nuôi bò mang lại hiệu quả
rõ rệt, trở thành phong trào trong toàn huyện. Mô hình trồng cỏ nuôi bò mang lại hiệu quả rõ rệt, trở
thành phong trào trong toàn huyện. Nổi bật, bà con nông dân xã Cam Hiếu và Cam Thành đã nhậnhỗ

61
trợ 135 con bò cái, gần 7.000 cây ăn quả, 48 đàn ong và một số vật dụng sản xuất từ chương trình
phát triển nông thôn.
Phong trào xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng đời sống văn hóa và quốc phòng - an ninh được
hội viên hưởng ứng tích cực. Các hội viên đóng góp hàng ngàn ngày công, hàng trăm triệu đồng để
xây dựng giao thông nông thôn, kênh mương thủy lợi, các công trình phúc lợi công cộng nhằm phục
vụ tốt hơn cho sản xuất, sinh hoạt và đi lại của người dân.
Hội Cựu chiến binh từng bước nâng cao chất lượng tổ chức hội và hội viên, giữ vững và phát
huy phẩm chất “Bộ đội cụ Hồ”. Tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền góp phần giữ vững
ổn định chính trị và chăm lo xây dựng gia đình hội viên gương mẫu. Hội đã phối hợp với Đoàn thanh
niên, giáo dục tuyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ; tham gia làm công tác hòa giải góp phần giữ
vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Hội có nhiều đóng góp tích cực trên lĩnh vực phát
triển kinh tế xóa đói giảm nghèo, đầu tư thâm canh cây lạc, hồ tiêu, trồng cao su tiểu điền; chuyển
đổi cây trồng con nuôi có kinh tế như: sen Đài Loan, măng tre Bát Độ, trồng cỏ nuôi bò lai Sind,
hươu nai lấy nhung, ba ba, cá... mang lại nguồn thu nhập lớn và giải quyết việc làm cho hàng chục
lao động. Số hội viên khá, giàu chiếm 58%, nhiều hội viên thoát nghèo, vươn lên làm giàu ngay trên
quê hương.

62
Các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp chú trọng xây dựng tổ chức và nâng cao chất lượng, đa
dạng hóa các loại hình hoạt động, tập hợp các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương, góp phần vào sự phát triển
chung của huyện.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện
nhiệm kỳ 2001-2005, nền kinh tế huyện Cam Lộ tuy có bước phát triển nhưng chưa mạnh và chưa
vững chắc. Sản xuất nông-lâm nghiệp năng suất cây trồng, con nuôi chưa cao; sản phẩm hàng hóa
khả năng cạnh tranh thấp, thiếu phong phú, đa dạng, giá trị chưa cao. Tiềm năng, thế mạnh vùng gò
đồi chưa được khai thác một cách có hiệu quả, kinh tế trang trại số lượng còn ít, quy mô nhỏ, phần
lớn diện tích vùng gò đồi do các công ty, nông lâm trường quản lý chưa được sử dụng hết. Kinh tế
hợp tác, hợp tác xã phát triển chậm, nhiều hợp tác xã còn lúng túng trong cách quản lý, điều hành,
đội ngũ cán bộ hợp tác xã năng lực yếu. Một số mô hình phát triển kinh tế xóa đói giảm nghèo hiệu
quả thấp. Đời sống của một bộ phận nhân dân nông thôn còn gặp nhiều khó khăn.
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ phát triển chậm, quy mô sản xuất cũng
như khả năng đầu tư còn hạn chế. Thu ngân sách không ổn định, mất cân đối giữa thu và nhu cầu chi.
Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống.

63
Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, các thiết chế văn hóa thiếu đồng bộ. Phong trào xây dựng
làng văn hóa, đơn vị văn hóa có biểu hiện nặng về hình thức, chất lượng chưa cao. Công tác xã hội
hóa nhằm huy động các nguồn lực vật chất, tinh thần xã hội cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn
hóa-thể dục thể thao ở một số cơ sở chuyển biến chưa thật mạnh mẽ.
Hoạt động của các loại tội phạm có chiều hướng diễn biến phức tạp. Tình trạng khiếu kiện, tranh
chấp vẫn xảy ra. Việc tiếp nhận giải quyết đơn thư và các vụ việc có lúc chưa kịp thời, thiếu dứt
điểm.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên vẫn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
mới. Việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết ở một số tổ chức Đảng thiếu sâu rộng. Nhận thức
của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa chuyển kịp với tình hình. Nội dung sinh hoạt
của một số tổ chức cơ sở đảng chưa bám sát tình hình và nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị.
Công tác chỉ đạo khắc phục những tồn tại, hạn chế ở các tổ chức cơ sở đảng, nhất là ở các đơn vị yếu
kém thiếu tích cực dẫn đến vai trò của một số tổ chức Đảng chưa được phát huy, thiếu chủ động sáng
tạo trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị. Một số đảng viên chưa nêu cao tính tiền phong,
gương mẫu, chưa tận tâm với công việc. Việc xử lý các vụ việc vi phạm ở cơ sở còn chậm. Một số
cấp ủy, chính quyền nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân thiếu kịp thời.

64
Hiệu lực điều hành quản lý của chính quyền từ huyện đến cơ sở còn bất cập. Công tác cải cách hành
chính hiệu quả chưa cao. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chưa đồng đều. Một số tổ chức
đoàn thể ở địa bàn dân cư chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm, có những phong trào còn mang tính
hình thức, hiệu quả thấp.
Những kết quả đạt được trên các lĩnh vực từ năm 2001-2005 tuy chưa thật sự vững chắc, nhưng
đó chính là sự nỗ lực của cán bộ, đảng viên và nhân dân huyện Cam Lộ trong khắc phục khó khăn,
khai thách tiềm năng, lợi thếvượt khó đi lên.

65
Chương II
PHÁT HUY SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, HUY
ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC, KHAI THÁC TIỀM NĂNG, LỢI THẾ ĐƯA CAM
LỘ THOÁT NGHÈO (2005-2010)

I. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ HUYỆN LẦN THỨ XIII

Thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 06/12/2004 của Bộ Chính trị và Kế hoạch số 42-KH/TU
ngày 29/3/2005 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội X
của Đảng, từ ngày 09 đến ngày 11/10/2005, tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện Cam Lộ đã diễn
ra Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2005-2010. Dự đại hội có 132 đại biểu
chính thức được triệu tập từ 36 tổ chức cơ sở đảng đại diện cho gần 1.300 đảng viên trong toàn Đảng
bộ. Đồng chí Nguyễn Viết Nên, Bí thư Tỉnh ủy- Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh; đồng chí Lê Hữu

66
Phúc, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cùng các đồng chí trong Ban Thường vụ
Tỉnh ủy dự và chỉ đạo đại hội.
Đại hội kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII; nghiên
cứu, thảo luận, quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ 2005-2010; thảo
luận, tham gia góp ý các dự thảo Văn kiện của Trung ương trình Đại hội X của Đảng; dự thảo Báo
cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV.
Trên tinh thần dân chủ, đoàn kết và trách nhiệm cao trước Đảng bộ và nhân dân, đại hội đã tập
trung thảo luận, thống nhất khẳng định: “Năm năm qua, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách
thức, song được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh, Đảng bộ và nhân dân huyện Cam Lộ phát
huy truyền thống đoàn kết, huy động mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng, lợi thế, tập trung đầu tư
phát triển và giành được nhiều kết quả quan trọng. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng. Văn hóa, xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Quốc phòng - an ninh được
giữ vững. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được củng cố và tăng cường. Đời
sống nhân dân có bước cải thiện. Các chỉ tiêu kinh tế, xã hội chủ yếu đạt và vượt” 1.

1
. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Cam Lộ, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ XIII, Cam Lộ.
01/2006, tr. 102-103.
67
Đại hội đề ra phương hướng chỉ đạo trong giai đoạn 2005-2010 là: Quán triệt và vận dụng đúng
đắn các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Phát huy tính năng động, sáng tạo
và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức
cơ sở đảng. Huy động tối đa các nguồn lực, khai thác triệt để tiềm năng lợi thế về giao thông, địa thế
của vùng ven đô. Triệt để thực hành tiết kiệm, kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tập
trung đầu tư, tạo đà phát triển mạnh về kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh, đưa Cam Lộ
sớm thoát khỏi huyện nghèo.
Mục tiêu tổng quát được chỉ rõ: tiếp tục phát triển kinh tế nông nghiệp một cách toàn diện, nâng
cao giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và thương mại dịch vụ, tạo sự chuyển biến tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phấn đấu sau
năm 2010 hình thành cơ cấu: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - thương mại dịch vụ - nông lâm
nghiệp. Giải quyết tốt việc làm, giảm hộ nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Tăng cường quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Xây
dựng hệ thống chính trị vững mạnh đáp ứng yêu cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn
mới.
Các chỉ tiêu chủ yếu được đại hội thống nhất:

68
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 12-13%/năm. Trong đó, giá trị sản xuất nông - lâm
nghiệp tăng 4,5-5%; thương mại-dịch vụ tăng 18-19%; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng 14-
15%.
- Tỷ trọng các ngành nông lâm nghiệp-thương mại, dịch vụ - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
trong cơ cấu nền kinh tế đến năm 2010 là: 42%-35%-23%. Nếu tính cả các đơn vị công nghiệp tỉnh
quản lý, tỷ trọng đạt: 30%-30%-40%.
- Tổng sản lượng lương thực có hạt 14.500-15.000 tấn. Trong đó, thóc đạt 12.000-12.500 tấn.
- Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2010 đạt 9-9,5 triệu đồng/năm (tăng 2,2 lần so với năm
2005).
- Phấn đấu giữ mức tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1%.
- Tiếp tục duy trì phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở, phấn đấu xây dựng
trường đạt chuẩn quốc gia đối với các cấp học, ngành học: mầm non 50%; tiểu học 90%; trung học
cơ sở 45%.
- 100% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế cơ sở. Hạ tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 17%.
- 90% số hộ ở thị trấn và 70% số hộ vùng nông thôn có nước sạch sử dụng.
- Tạo việc làm mới cho 500-600 lao động/năm.

69
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 2-3%/năm.
- Hàng năm phát triển đảng viên mới 7-8% so với tổng số đảng viên trong toàn đảng bộ. Đến
năm 2010 tất cả các thôn, khóm đều có đảng viên và chi bộ đảng. Phấn đấu 100% cán bộ, công chức
có trình độ đạt chuẩn theo quy định.
Đại hội bầu 33 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, nhiệm kỳ 2005-2010; bầu đoàn đại
biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XIV gồn 19 đại biểu chính thức và 3 đại biểu dự
khuyết.
Tại phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 11 đồng
chí: Hoàng Giáo, Nguyễn Thanh Bảo, Nguyễn Công Phán, Nguyễn Xuân Biểu, Ngô Quang Chiến,
Nguyễn Thị Hoa, Đào Mạnh Hùng, Phan Ngọc Lương, Nguyễn Ký Ngọc, Nguyễn Văn Thanh,
Hoàng Bá Tiệu. Đồng chí Hoàng Giáo được bầu giữ chức Bí thư Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Thanh
Bảo và Nguyễn Công Phán được bầu giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy. Đồng chí Nguyễn Thanh Bảo
được phân công giữ chức Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Nguyễn Công Phán, Phó Bí thư, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân huyện. Bầu 5 đồng chí Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy. Đồng chí Hoàng
Bá Tiệu, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy được bầu giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện
ủy, nhiệm kỳ 2005-2010.

70
Tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, đồng chí Hoàng Giáo, Bí thư Huyện ủy được
bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2005-2010.
Với tinh thần không ngừng phấn đấu vươn lên để đưa Cam Lộ thoát nghèo, đại hội kêu gọi toàn
thể cán bộ, đảng viên, quân và dân toàn huyện nêu cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy truyền thống
cách mạng của quê hương, đoàn kết nhất trí phấn đấu vượt qua khó khăn thực hiện thắng lợi các mục
tiêu, nhiệm vụ.

II. HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC, KHAI THÁC TIỀM NĂNG LỢI THẾ, ĐƯA CAM LỘ
THOÁT KHỎI HUYỆN NGHÈO

1. Đảng bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế

Với khát vọng vươn lên, Đảng bộ và nhân dân huyện Cam Lộ triển khai Nghị quyết Đại hội XIII
một cách khẩn trương, vững chắc trong điều kiện có nhiều thuận lợi đan xen với không ít khó khăn,
thách thức. Thuận lợi cơ bản nhất là sau 20 năm đổi mới, đất nước,quê hương mạnh lên cả thế và lực,
quan hệ quốc tế ngày càng rộng mở; nước ta tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế về kinh tế, văn hóa -
xã hội, đặc biệt gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Những thành tựu đó tạo ra môi trường

71
thuận lợi và động lực mới cho sự phát triển chung của địa phương. Bên cạnh những thuận lợi, tình
hình kinh tế thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế
toàn cầu. Mặc dù hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng những cuộc chiến tranh cục
bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo... diễn ra ở nhiều
nơi và ngày càng phức tạp. Tranh chấp trên biển Đông có xu hướng diễn biến phức tạp, nhất là từ khi
Trung Quốc triển khai nhiều biện pháp nhằm ngụy tạo cơ sở pháp lý của yêu sách “đường lưỡi bò”.
Các thế lực thù địch tiếp tục gia tăng các hoạt động “diễn biến hòa bình”, sử dụng các chiêu bài “dân
chủ”, “nhân quyền” để chống phá đất nước ta. 20 năm đổi mới đất nước đạt nhiều thành tựu, đồng
thời cũng xuất hiện nhiều vấn đề mới rất phức tạp nhưng chưa được làm rõ cả về lý luận và thực tiễn.
Những khó khăn đó tác động trực tiếp đến tình hình trong huyện, gây nhiều khó khăn nhất là đối với
các lĩnh vực kinh tế, tư tưởng - văn hóa. Bên cạnh đó, ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, dịch bệnh,
giá cả tiêu dùng tăng cao; nguồn lực đầu tư cho phát triển còn hạn chế; đời sống của một bộ phận
nhân dân gặp khó khăn. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, Đảng bộ huyện Cam Lộ thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng,
lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn, tranh thủ thời cơ, tiếp tục giành nhiều thắng lợi quan trọng
trong.

72
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ cấp trên, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã ban hành
Chương trình hành động số 17-CTHĐ/HU ngày 22/11/2006 về tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV Ban Thường vụ Huyện
ủy ban hành Nghị quyết về Cải tạo và phát triển chăn nuôi bò giai đoạn 2006-2010; nghị quyết đẩy
mạnh phát triển cây cao su và nghị quyết phát triển công nghiệp - thương mại đến năm 2020. Đây là
những chủ trương lớn trên lĩnh vực kinh tế xuyên suốt giai đoạn này. Việc Thủ tướng Chính phủ ra
Quyết định số 206/2005/QĐ/TTg ngày 21/10/2005về phát triển kinh tế phía tây đường Hồ Chí Minh
đến năm 2020 tạo ra nhiều thuận lợi để Cam Lộ phát triển một nền kinh tế đa dạng: công nghiệp-tiểu
thủ công nghiệp, thương mại-du lịch, dịch vụ và nông-lâm nghiệp. Trong quá trình thực hiện, Ban
Thường vụ Huyện ủy luôn rà soát mục tiêu cho phù hợp với thực tiễn; chỉ đạo hội đồng nhân dân, ủy
ban nhân dân huyện cụ thể hóa nghị quyết bằng các chương trình, đề án, kế hoạch hàng năm.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo, ban hành các nghị quyết chuyên đề sát tình hình thực tiễn
đã khai thác được các tiềm năng, lợi thế của địa phương, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
hàng năm đạt 10%, trong đó: nông nghiệp tăng 6,6%; công nghiệp - xây dựng tăng 9,9%; thương mại
- dịch vụ tăng 13,7%. Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp chiếm 40%; công nghiệp - xây dựng chiếm 34%;

73
thương mại dịch vụ chiếm 26%. Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 11.900 tấn/năm; sản lượng
lương thực bình quân đầu người là 292kg/năm.
Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Để tập trung phát triển nông nghiệp, ngay từ đầu nhiêm kỳ,
Cam Lộ đã tiến hành rà soát quy hoạch đất để thực hiện Đề án phát triển cây cao su; hoàn chỉnh quy
hoạch ba loại rừng và 3 cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và làng nghề; chú trọng nâng cấp,
xây mới các hồ đập thủy lợi, kiên cố hóa kênh mương, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, giống mới,
chuyển đổi cơ cấu và đa dạng hóa cây trồng cho phù hợp với thế mạnh của từng vùng. Năm 2010
thời tiết bất thuận, dịch bệnh phát sinh trên diện rộng, các loại cây trồng hàng năm đều giảm cả về
diện tích, năng suất và sản lượng. Tuy vậy, Ngành nông nghiệp tìm cách khắc phục mọi khó khăn và
đã có sự chuyển biến tích cực. Cây lúa nước ổn định diện tích 2.600ha, trong đó 70% diện tích sử
dụng giống lúa chất lượng cao nên sản lượng hàng năm đạt 13.000 đến 13.800 tấn. Giống lúa mới có
năng suất, chất lượng cao được đưa vào sản xuất ở Cam An với diện tích 9,5ha, cho năng suất bình
quân 50 tạ/ha. Một số sản phẩm có giá trị kinh tế tăng khá mạnh. Cây lạc tăng 1,2 lần về diện tích,
nhưng tăng 16 lần về sản lượng, là bước đột phá lớn trong tăng năng suất trên một đơn vị diện tích
gieo trồng. Cây sắn nguyên liệu tăng 2,5 lần về diện tích, 3 lần về sản lượng so với năm 2006.

74
Xác định cây cao su là một trong những cây công nghiệp mũi nhọn có giá trị kinh tế cao, ngày
17/7/2008 Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ban hành Nghị quyết số 08-NQ/HU về phát triển cây cao
su giai đoạn 2008-2010 có tính đến năm 2015 với 3 giải pháp hỗ trợ chính là cấp đất, dịch vụ khuyến
nông và hỗ trợ tín dụng bù lãi suất tiền vay. Chủ trương của Ban Thường vụ Huyện ủy được người
dân hồ hởi đón nhận và triển khai. Vùng đất có thế mạnh để phát triển cao su được rà soát, quy hoạch
và triển khai trồng mới. Từ đó, diện tích trồng cây cao su tăng nhanh, từ 2.300 ha năm 2009 lên
2.500 ha năm 2010, tăng 1,3 lần so với năm 2006 và có xu hướng tăng đột biến do diện tích đưa vào
kinh doanh ngày càng nhiều. 900ha được đưa vào khai thác, sản lượng mũ khô đạt 1.200 tấn. Nghị
quyết phát triển cây cao su đi vào cuộc sống, tạo bước chuyển lớn về nhận thức, tư tưởng cho người
dân trong phát triển kinh tế, làm giàu tại quê hương. Đã hình thành các vùng chuyên canh cao su với
quy mô ngày càng lớn, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý, từng bước khai thác có hiệu
quả, tiềm năng đất đai vùng gò đồi. Giá trị kinh tế từ cây cao su mang lại nâng cao mức sống của
người dân và sự đổi thay rõ nét nhất là đời sống nhân dân xã Cam Chính, Cam Nghĩa, Cam Thành,
Cam Thủy, Cam Tuyền.
Bên cạnh đó, phát huy thế mạnh vùng đất bồi ven sông, Cam Lộ chú trọng phát triển sản xuất
các loại đậu, rau màu vụ xuân hè, thu đông...mang lại nguồn thu khá lớn. Đây là hướng phát triển

75
phù hợp với xu hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa, khẳng
định tiềm năng của vùng gò đồi, nếu biết cách khai thác thì sẽ mang lại nhiều hiệu quả. Đến năm
2010, trồng trọt là ngành sản xuất chính trên địa bàn Cam Lộ, chiến tỷ trọng 70,7% trong cơ cấu giá
trị sản xuất nông nghiệp. Tốc độ tăng trưởng bình quân ngành trồng trọt giai đoạn 2006-2010 là
20,7%/năm và có xu hướng tăng nhanh do phát triển diện tích cây công nghiệp dài ngày, cây lâm
nghiệp.
Nhằm tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn, ngày 15/5/2009, Ban Chấp hành
Đảng bộ đã ban hành Chương trình hành động số 60-CTHĐ/HUvề thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn với những nội
dung chủ yếu: tập trung nguồn lực phát triển nông nghiệp; lao động, việc làm và thu nhập của nông
dân; cải thiện kinh tế - xã hội ở nông thôn. Yêu cầu các cấp ủy Đảng, cơ quan, ban, ngành có trách
nhiệm quán triệt, tuyên truyền nghị quyết và chương trình hành động đến toàn thể cán bộ, đảng viên,
công nhân viên chức lao động và các tầng lớp nhân dân, dân cư nông thôn; đồng thời căn cứ vào nội
dung chương trình hành động để xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện một cách thiết thực, hiệu quả.
Ngành chăn nuôi thường xuyên đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là dịch bệnh và giá cả thị
trường biến động thất thường nên thiếu ổn định. Chăn nuôi bò vẫn ở quy mô nhỏ hộ gia đình,

76
phương thức chăn thả tự do; chất lượng đàn nái sinh sản có tầm vóc nhỏ bé, tỷ lệ bò lai thấp trong
tổng đàn. Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản cả nước đến
năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 theo quyết định số 150/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ
tướng Chính phủ, ngày 17/7/2006, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Cam Lộ ban hành Nghị quyết số
02-NQ/HU về cải tạo và phát triển chăn nuôi bò giai đoạn 2006-2010, với mục tiêu: tập trung cải tạo
nâng cao thể trạng đàn bò, nâng cao giá trị thu nhập cho người chăn nuôi, từng bước đưa chăn nuôi
trở thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp. Chuyển đổi phương thức chăn nuôi từ chăn thả tự
do sang chăn dắt theo hướng bán công nghiệp và công nghiệp, tiến tới chăn nuôi quy mô tập trung,
công nghiệp hóa. Về chỉ tiêu, đến năm 2010, tỷ lệ bò lai có từ 50% máu ngoại trở lên chiếm trên 40%
tổng đàn, trọng lượng bình quân đạt trên 250kg/con. Đến năm 2010, tổng đàn bò của huyện cơ bản là
bò lai có từ 75% máu ngoại trở lên, trọng lượng bình quân đạt trên 300kg/con.
Thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/HU, Ủy ban nhân dân huyện thành lập Ban chỉ đạo; tổ giúp việc
cho Ban chỉ đạo là những đồng chí có chuyên môn, trực tiếp tư vấn, giúp người dân về kỹ thuật, vật
tư, lai tạo và phòng dịch cho đàn bò; hỗ trợ lãi suất cho các hộ chăn nuôi. Đặc biệt công tác tuyên
truyền được thực hiện khá đồng bộ, qua đó đã góp phần chuyển đổi về nhận thức và tập quán của
người dân. Đến năm 2010, chăn nuôi bò trên địa bàn huyện có bước chuyển đổi nhanh về chất lượng

77
với tỷ lệ bò lai đạt khoảng 30% tổng đàn, tăng bình quân 8-10%/năm; tính riêng trong 3 năm, từ năm
2008-2010 có 298 con bê lai ra đời; tổng số đàn trâu bò có 10.500 con; đàn lợn có 14.000 con và đàn
gia cầm có 100.000 con. Chất lượng, giá trị đàn gia súc, gia cầm, đặc biệt hiệu quả đàn bò tạo điều
kiện cho quá trình phát triển những năm tiếp theo.
Một số mô hình chăn nuôi mới như hươu nai, nhím, thỏ đạt hiệu quả khá nhưng còn ở dạng mô
hình trình diễn, chưa được tổng kết và nhân rộng thành sản xuất hành hóa.
Nuôi trồng thủy sản đạt nhiều kết quả. Nhân dân Cam Lộ đã biết tận dụng diện tích mặt nước để
chăn thả, đưa giá trị sản xuất hàng năm tăng 36%, sản lượng đạt 180 tấn năm 2010. Một số vùng
đồng trũng thường xuyên ngập nước ở Cam Thủy, Cam Thanh hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp
được chỉ đạo chuyển đổi theo hướng sản xuất mới xen cây lúa - cá, sen – cá, mang lại hiệu quả kinh
tế cao và đang được chỉ đạo nhân rộng.
Về lâm nghiệp, nhiệm vụ chủ yếu là quản lý, bảo vệ rừng và trồng rừng, nhưng phát triển chậm
do khai thác tự do khá lớn. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo sát công tác quản
lý, bảo vệ rừng; quyết tâm phát triển lâm nghiệp đồng bộ cả trồng mới, khoanh nuôi và bảo vệ; kiến
nghị các tổ chức bàn giao đất rừng. Huyện thành lập đoàn kiểm tra liên ngành, tổ kiểm lâm cơ động
phối hợp với các trạm kiểm lâm địa bàn và các xã tăng cường kiểm tra; ngăn chặn và xử lý nghiêm

78
các vụ việc vi phạm. Để góp phần cải thiện kinh tế, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái, Cam
Lộ tổ chức rà soát quy hoạch 3 loại rừng, xác định cụ thể diện tích trên bản đồ và thực địa; quy hoạch
đất trồng rừng sản xuất đến từng tiểu khu phù hợp với thực tế rừng trồng; nhận bàn giao đất rừng từ
các tổ chức và giao đất rừng cho các hộ gia đình sản xuất. Nhờ đó, độ che phủ của rừng không ngừng
tăng lên, đạt 47,3%. Từ sản phẩm chủ yếu là gỗ tròn và củi, đến năm 2010, sản phẩm từ lâm nghiệp ở
Cam Lộ có thêm mặt hàng mới gỗ tre, mây măng. Công tác quản lý, bảo vệ và phòng chống cháy
rừng được triển khai thực hiện theo hướng xã hội hóa, gắn quyền lợi người sản xuất với rừng nên huy
động cá nhân tham gia bảo vệ và chăm sóc rừng có hiệu quả. Số vụ vi phạm Luật Bảo vệ rừng trên
địa bàn huyện giảm hẳn; không xảy ra cháy rừng gây thiệt hại lớn. Từ năm 2008 đến năm 2010 cơ
bản giải quyết việc làm cho hơn 800 lao động tại chỗ, góp phần ổn định cuộc sống cho gần 400 hộ
gia đình với 2.000 nhân khẩu.
Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp và
hướng ứng năm “cơ chế chính sách” của tỉnh, quan hệ sản xuất nông thôn trên địa bàn huyện Cam Lộ
đã có những thay đổi căn bản từ cơ chế tập thể sang cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế
phát triển năng động.

79
Chương trình cải cách hành chính trong lĩnh vực theo cơ chế “một của” đã đẩy nhanh tiến độ
giao đất, giao rừng, từng bước hợp lý hóa, chuyển đổi đất nông nghiệp theo phương thức “dồn điền
đổi thửa”, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hộ chủ động sản xuất kinh doanh, mạnh dạn đầu tư sản
xuất hàng hóa. Nghị quyết số 13-NQ/HU của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khóa XI) về phát triển
kinh tế gò đồi đã tạo điều kiện cho nông dân phát triển kinh tế nông - lâm - thủy sản, xây dựng nhiều
mô hình phát triển kinh tế hiệu quả. Đến năm 2010, toàn huyện có 98 trang trại sản xuất nông - lâm
nghiệp với 365 lao động đã tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa đa dạng, khai thác có hiệu quả tiềm năng
kinh tế vùng, góp phần nâng cao thu nhập cho các hộ xã viên.
Thực hiện Luật Hợp tác xã, huyện Cam Lộ tập trung củng cố các hợp tác xã đã chuyển đổi,
thành lập mới và giải thể một số hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả. Với 15 hợp tác xã (trong đó có
14 hợp tác xã sản xuất nông nghiệp) đã phát huy tốt nhiệm vụ hướng dẫn sản xuất, chuyển giao khoa
học kỹ thuật, thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, vươn ra và làm tốt một số khâu dịch vụ
sản xuất nông nghiệp như thủy lợi, điện, vật tư phân bón, bảo vệ thực vật, khẳng định vai trò trong
thúc đẩy kinh tế hộ phát triển.
Thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII, Nghị quyết số 10-NQ/HU của Ban
Chấp hành Đảng bộ huyện về phát triển công nghiệp - thương mại, trong giai đoạn 2005-2010, sản

80
xuất công nghiệp - xây dựng và thương mại dịch vụ tiếp tục tăng trưởng. Cùng với sự chuyển đổi
kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động thương mại - dịch vụ trên địa bàn huyện Cam Lộ từng bước
chuyển dịch theo hướng tích cực. Đã tập trung chỉ đạo xây dựng đề án quy hoạch phát triển công
nghiệp - thương mại dịch vụ đến năm 2020, đồng thời huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng các cụm công nghiệp - dịch vụ như: cụm công nghiệp, làng nghề Tân Trang - Tân Định
(30ha); cụm công nghiệp thương mại - dịch vụ đường 9, Cam Hiếu (70ha) và cụm công nghiệp Cam
Tuyền 15ha. Các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp trên địa bàn được đầu tư xây dựng đã tạo ra các
sản phẩm phục vụ sản xuất và đời sống, góp phần tăng tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp. Các công ty, xí
nghiệp trên địa bàn được cổ phần hóa, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp tư
nhân phát triển cả về quy mô và số lượng đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhiều hộ
gia đình mạnh dạn đầu tư sản xuất kinh doanh gắn với nhu cầu thị trường, giải quyết việc làm cho
người lao động. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006-2010 đạt trên 16,2%, giá trị sản xuất
năm 2010 tăng gấp đôi so với năm 2006. Điểm mới bứt phá trong giai đoạn này là ngành nghề tiểu
thủ công nghiệp phát triển mạnh ở vùng nông thôn khi thực hiện Nghị quyết số 12b/2004/NQ-HĐ
ngày 15/3/2004 của Hội đồng nhân dân tỉnh, đã góp phần tăng thêm thu nhập từ lĩnh vực phi nông
nghiệp và giải quyết việc làm.

81
Hoạt động thương mại - dịch vụ ngày càng đa dạng với quy mô lớn dần. Chợ Phiên, chợ Cùa,
chợ Sòng và hệ thống các nhà hàng, dịch vụ, kinh doanh tổng hợp đáp ứng yêu cầu về lưu thông
hàng hóa, góp phần tăng giá trị kinh doanh dịch vụ, thương mại với mức tăng trưởng bình quân
13,4%/năm.
Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống được chú ý. Với xuất phát điểm thấp,
Ban Thường vụ Huyện ủy Cam Lộ xác định phát triển kết cấu hạ tầng là một trong những yếu tố
quyết định thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh, đúng định hướng. Với mục tiêu huy động mọi
nguồn lực đầu tư cho phát triển, Đảng bộ huyện tích cực chỉ đạo công tác xây dựng quy hoạch, kế
hoạch và lập các dự án chuẩn bị đầu tư nên đã huy động được nhiều nguồn lực để xây dựng kết cấu
hạ tầng. Với 495 tỷ đồng đầu tư xây dựng cơ bản, huyện Cam Lộ tiếp tục đầu tư cải tạo, nâng cấp
toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng hiện có, trong đó, ưu tiên cho các công trình thủy lợi, giao thông,
điện, trường học, chợ. Đến năm 2010, đã nâng cấp 31/57 hồ, đập, trạm bơm nhỏ, lớn; kiên cố hóa
28,9 km kênh mương tưới cho 80% diện tích vụ đông xuân, 60% diện tích vụ hè thu; nâng mật độ
đường giao thông từ 0,35 km 2 năm 2006 lên 1,2 km/km 2 năm 2010. Đường liên thôn, liên xã đã kiên
cố 31/118 km đạt 26,7%, đường nội bộ thôn được bê tông 76,21/128 km, đạt 59,5%; 100% xã, thị
trấn có lưới điện quốc gia, trạm y tế; thông tin liên lạc đạt 18,15 máy điện thoại/100 dân; 85% diện

82
tích phòng học và 75% trường học được kiên cố; 73,6% số hộ được sử dụng nước sạch; 5/9 xã, thị
trấn có chợ xã và 7/9 chợ liên xã. Môi trường, rác thải các chợ được xử lý vào bãi gom rác tập trung.
Nhờ bố trí đầu tư hợp lý, tăng cường công tác lãnh đạo và quản lý nhà nước, được nhân dân đồng
tình ủng hộ nên hầu hết các công trình được nâng cấp và xây dựng mới triển khai thuận lợi, an toàn,
bảo đảm tiến độ. Nhiều công trình ngay khi đưa vào sử dụng đã phát huy tốt hiệu quả như công trình
thủy lợi Đá Mài - Tân Kim, đường liên xã Cam An - Cam Thanh. Hệ thống kết cấu hạ tầng tăng thêm
năng lực, mở rộng thêm diện phục vụ đến các cơ sở sản xuất, khu dân cư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân. Các công trình sau khi hoàn thành góp phần mở ra
hướng khai thác tiềm năng kinh tế, nhất là về du lịch.
Trên cơ sở quy hoạch chung, Cam Lộ đã chú trọng quy hoạch sử dụng đất cấp huyện, cấp xã,
đặc biệt là quy hoạch chi tiết, đáp ứng được yêu cầu phục vụ sản xuất, đời sống cũng như xây dựng
kết cấu hạ tầng. Đến năm 2010, huyện Cam Lộ đã hoàn chỉnh việc đo vẽ và lập bản đồ địa chính với
tổng số 282 tờ cho các xã, thị trấn; đo đạc và bàn giao bản đồ tỷ lệ 1/10.000 giao đất lâm nghiệp ở
các xã vùng đồi Cam Chính, Cam Nghĩa, Cam Thành và Cam Tuyền. Kết hợp bản đồ địa chính và
bản đồ giao đất lâm nghiệp, tất cả các xã, thị trấn đã có bản đồ đo đạc khép kín ranh giới hành chính.
Đã tiến hành làm việc với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên lâm trường đường 9 và các

83
cơ quan, đơn vị của tỉnh và Trung ương đang sử dụng đất trên địa bàn huyện để kiến nghị, đề xuất
Ủy ban nhân dân tỉnh giao lại một phần đất để sản xuất.
Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi trường có những chuyển
biến tích cực, đã hạn chế tình trạng buông lỏng quản lý về đất đai, khai thác tài nguyên, khoáng sản
bừa bãi. Các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ được kiểm tra thường xuyên, đồng thời tổ chức ký
cam kết tham gia bảo vệ môi trường.
Hoạt động khoa học và công nghệ được chú trọng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và khả năng
cạnh tranh của nông sản hàng hóa. Đã tập trung vào việc xây dựng các mô hình thử nghiệm, ứng
dụng, chuyển giao các tiến bộ khoa học vào sản xuất, quản lý, điều hành nhằm nâng cao năng suất,
hiệu quả công việc. Để từng bước nâng cao kiến thức và kỹ năng ứng dụng khoa học công nghệ cho
người lao động, Cam Lộ đã lựa chọn, thử nghiệm giống mới, thâm canh 500ha lúa, sử dụng giống
cấp 1, áp dụng quy trình chăm sóc và quản lý dịch bệnh IPM.
Chú trọng đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý điều hành; đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kỹ thuật ở cơ sở bằng việc mở nhiều lớp tin học, nông nghiệp tại chức; thu
hút cán bộ, sinh viên tốt nghiệp đại học về cơ sở; chú trọng thành lập đội ngũ nông dân tiên tiến
thông qua việc xây dựng các câu lạc bộ khuyến nông, nhóm nông dân cùng sở thích. Chỉ đạo tổ chức

84
các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, từng bước chuyển phương thức sản xuất nông nghiệp còn
phổ biến ở chiều rộng sang chiều sâu. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng từ 5 triệu đồng/ha năm 2006
lên 7,3 triệu đồng/ha năm 2010, nổi bật có địa phương giá trị sản xuất nông nghiệp đạt từ 20 đến 30
triệu đồng/ha và phát động phong trào cánh đồng 50 triệu/ha.
Hoạt động tài chính, tín dụng đạt nhiều kết quả tích cực. Công tác quản lý tài chính đã gắn việc
khai thác với duy trì, bồi dưỡng và tạo nguồn thu. Tốc độ tăng thu ngân sách bình quân hàng năm đạt
14,8%; đến năm 2010 thu ngân sách tăng 2 lần so với năm 2005. Chi ngân sách đúng theo kế hoạch,
trong đó ưu tiên chi đầu tư phát triển và xóa đói giảm nghèo. Quản lý nguồn chi và quyết toán ngân
sách đúng quy định, kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót, sai phạm, thực hiện tốt Luật Ngân sách nhà
nước.
Các tổ chức tín dụng không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho
khách hàng. Nguồn vốn vay được sử dụng đúng mục đích, đã thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh
doanh các thành phần kinh tế, nhất là cho vay phục vụ sản xuất nông nghiệp đối với hộ nông dân, hộ
chính sách. Giai đoạn 2006-2010, tổng dư nợ tăng bình quân hàng năm của Ngân hàng Nông nghiệp
31%, Ngân hàng Chính sách xã hội 25%.

85
Thực hiện Quyết định số 13/QĐ-UBND ngày 09/01/2008 của Ủy ban nhân dân huyện về việc
giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, sau 2 năm
thực hiện, đến năm 2010, 33 đơn vị công lập đã chủ động đổi mới cơ chế quản lý, tạo sự cạnh tranh
lành mạnh và bình đẳng hơn trong việc cung cấp dịch vụ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhân
dân. Đồng thời tạo điều kiện cho các cơ quan hành chính nhà nước sắp xếp tổ chức bộ máy hợp lý,
tinh giảm biên chế nhà nước, thực hiện hợp đồng lao động, tăng thu nhập cho cán, công chức, viên
chức nhà nước.
2. Phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân

Cùng với lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng bộ quan tâm lãnh đạo phát triển văn hóa - xã hội,
chăm lo nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Trước tác động nhiều chiều trong đời sống xã hội
bởi sự bùng nổ thông tin trên các phương tiện thông tin hiện đại, nhất là mạng internet, Ban Thường
vụ Huyện ủy chỉ đạo tăng cường các giải pháp định hướng thông tin trên các lĩnh vực thông tin, văn
hóa, văn nghệ..., trọng tâm là nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”. Thực hiện cuộc vận động này, trước năm 2006, ở cơ sở lập ra nhiều ban chỉ đạo nên
chồng chéo nhau về số một số nhiệm vụ. Thực hiện Thông tư liên tịch số 01/2006/TTLT/MTTW-

86
BVHTT, ngày 23/6/2006 giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Trung ương và Bộ Văn hóa - Thông tin, Ban
Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo: ở xã, thị trấn thống nhất gọi là ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa”; ở khu dân cư (thôn, bản, tổ dân phố) thống nhất gọi là ban vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Từ đó, mới thống nhất, không lẫn lộn
tên gọi giữa cuộc vận động và phong trào 1. Việc thống nhất các đầu mối chỉ đạo tạo điều kiện thuận
lợi để đẩy mạnh các phong trào xây dựng đời sống văn hóa lên một bước mới, trọng tâm là xây dựng
gia đình văn hóa, làng văn hóa, cơ quan, trường học văn hóa. Mục tiêu chung cơ bản là đoàn kết,
giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng; giữ gìn và xây dựng đạo đức,
lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, môi trường xanh, sạch, đẹp; sống và làm việc theo Hiến
pháp, pháp luật. Mặc dù trong việc bình chọn, xét và công nhận các danh hiệu đối với đơn vị, gia
đình đạt tiêu chí về văn hóa đánh giá có phần chủ quan, nhưng thực sự phong trào đã bắt rễ sâu vào
1
. Ở xã, thị trấn thống nhất ban chỉ đạo cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và ban vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” thành một ban gọi là ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Ở khu dân cư (thôn, bản, tổ dân phố) thống nhất ban vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, ban vận động xây dựng nếp sống văn hóa, ban vận động xây dựng gia đình văn
hóa... thành một ban gọi là ban vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” do ban công tác mặt
trận trực tiếp chủ trì. Từ đó, mới thống nhất, không lẫn lộn tên gọi giữa cuộc vận động và phong“Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” gọi là phong trào; “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gọi là cuộc vận
động.
87
cuộc sống, lan tỏa đến mọi hoạt động xã hội, góp phần làm lành mạnh hóa đời sống văn hóa tinh thần
của nhân dân. Đến năm 2010, có 100% làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, trường học phát động
xây dựng đơn vị văn hóa, trên 70% đơn vị được công nhận đạt chuẩn văn hóa, 100% xã, thị trấn phát
động xây dựng xã điển hình văn hóa và có 1 xã được Ủy ban nhân dân huyện công nhận xã điển hình
văn hóa. Chất lượng của nhiều đơn vị văn hóa ngày càng được nâng cao, góp phần đẩy lùi tệ nạn xã
hội, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho các tầng lớp nhân dân.
Tăng cường công tác thông tin, huyện chỉ đạo tập trung nâng cấp hệ thống truyền thanh xã, được
trang bị thiết bị FM đủ công suất phủ sóng đến các vùng dân cư. Các đài đổi mới nội dung, tăng thời
lượng thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là của địa phương. Năm
2010, hệ thống truyền thanh sóng FM phát triển rộng đến các thôn, xóm, đạt mức phát sóng chương
trình phát thanh huyện, tiếp sóng các chương trình của tỉnh, trung ương đạt 1.800h/năm; 90% số hộ
trên địa bàn được xem truyền hình và nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, tăng 40% so với năm 2006. Nhờ
đó, mọi thông tin định hướng thông qua sóng phát thanh và truyền hình đều đến với nhân dân.
Tiếp tục phát huy vai trò của các thiết chế văn hóa đã được xây dựng từ huyện đến cơ sở, các
hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao diễn ra khá đa dạng và phong phú trong nhiều không
gian rộng, hẹp và mức độ sôi nổi theo từng thời điểm khác nhau. Trong đó tâm điểm là ở Trung tâm

88
Văn hóa huyện, Khu vui chơi trẻ em, Nhà thi đấu thể thao... Phong trào được đẩy lên cao trào vào dịp
những ngày kỷ niệm lớn, ngày Tết cổ truyền, sự kiện chính trị quan trọng của quê hương, đất nước.
Trên phạm vi toàn huyện, việc tổ chức các hội thi, hội diễn nghệ thuật quần chúng, đại hội thể dục
thể thao, tổ chức các giải thể thao cấp huyện, đón tiếp và giao lưu văn hóa, thể thao được duy trì với
sự tham gia của hầu hết các xã, thị trấn. Một xu thế sinh hoạt văn hóa - thể thao lành mạnh, bổ ích
được các cấp ủy, chính quyền khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi phát triển là sinh hoạt theo sở
thích dưới hình thức câu lạc bộ1. Trong nhiều loại hình câu lạc bộ, đáng chú ý là các câu lạc bộ văn
học, nghệ thuật. Từ các câu lạc bộ, các hoạt động sưu tầm, sáng tác văn học - nghệ thuật ngày càng
phong phú. Đặc san “Cam Lộ - khát vọng yêu thương” xuất bản được nhiều độc giả đón nhận. Các
hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao... diễn ra với sự tham gia, ủng hộ của đông đảo nhân
dân đều thể hiện tinh thần và bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, các ngành chức năng tăng cường
công tác đấu tranh chống ảnh hưởng văn hóa phẩm độc hại; thường xuyên kiểm tra và xử lý nghiêm
minh những trường hợp kinh doanh dịch vụ văn hóa, khách sạn, nhà hàng... vi phạm pháp luật,
không để các tụ điểm mại dâm, cờ bạc... tồn tại gây bức xúc dư luận xã hội. Nhờ đó, trong xu thế hội
1
. Ở cơ sở có 05 câu lạc bộ văn hóa-văn nghệ, 03 câu lạc bộ thể thao, 09 đội tuyên truyền xung kích, 62 đội văn nghệ
quần chúng, 10 câu lạc bộ không có trẻ suy dinh dưỡng, 40 câu lạc bộ sức khỏe. Ở cấp huyện có 01 câu lạc bộ thơ ca, 01
câu lạc bộ nhiếp ảnh, 02 câu lạc bộ võ thuật.
89
nhập và tác động nhiều chiều của kinh tế thị trường, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Cam
Lộ diễn ra lành mạnh, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương, dân tộc.
Các giá trị văn hóa được bảo tồn, tôn tạo có giá trị trong giáo dục truyền thống. Thiết chế văn hóa ở
trung tâm huyện đến từng thôn, bản từng bước được đầu tư xây dựng. Bằng nguồn những nguồn vốn
hỗ trợ từ ngân sách (1.740 triệu đồng) và đóng góp của nhân dân (3.480 triệu đồng) đã xây dựng
được 58 trung tâm học tập cộng đồng tại các thôn, bản, khu phố; hàng chục cổng chào và cụm cổ
động trực quan được xây dựng kiên cố, bảo đảm mỹ quan. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa đã có sự chuyển biến về chất, phát triển sâu rộng và toàn diện, đã tập hợp, đoàn kết
các lực lượng, phát huy nguồn lực đầu tư, sức sáng tạo của nhân dân góp phần quan trọng tạo nên
diện mạo mới trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, như làng Quật Xá, Tân Phú (Cam
Thành); Hoàn Cát, Thượng Nghĩa (Cam Nghĩa); Mai Lộc, Mai Đàn (Cam Chính); Bắc Bình, Xuân
Mỹ (Cam Tuyền); Định Xá (Cam Hiếu); Phổ Lại (Cam An); khóm 2 (thị trấn Cam Lộ).
Nhiệm vụ giáo dục và đào tạo được chú trọng. Hưởng ứng Cuộc vận động “Nói không với tiêu
cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động vào tháng
7/2006 (gọi tắt là cuộc vận động “hai không”), Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo các cấp ủy đảng,
chính quyền, đoàn thể tạo điều kiện cho ngành giáo dục triển khai thực hiện 2 nội dung trong năm

90
học 2006-2007 là chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích. Năm học 2007-2008, cuộc vận
động “hai không” thêm 2 nội dung là nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và ngồi nhầm lớp.
Cuộc vận động góp phần làm thay đổi nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh, tạo sự
chuyển biến tích cực, xây dựng nền nếp dạy thật, học thật, thi thật và kết quả thật được xã hội đồng
tình, ủng hộ. Với quyết tâm nâng cao chất lượng thật giáo dục, ngành giáo dục Cam Lộ chủ động đề
ra nhiều biện pháp thực hiện. Trong đó, tập trung đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá học sinh,
tăng cường kiểm tra chuyên môn; coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho học sinh. Đội
ngũ giáo viên đề cao đạo đức nghề nghiệp “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và
sáng tạo”; tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, phát huy hiệu quả thiết bị trường học, đặc biệt là
ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Đa số học sinh xác định được động cơ, thái độ tích cực,
chủ động trong học tập. Các trường học gắn cuộc vận động “hai không” với cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, với phong trào “xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”. Kỷ cương nền nếp được củng cố; dân chủ cơ sở được phát huy; các phong trào thi đua
dạy tốt, học tốt, xây dựng nhà trường văn hóa, “Dân chủ, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm” được
đẩy mạnh. Công tác xét hoàn thành chương trình tiểu học, xét tốt nghiệp trung học cơ sở, thi tốt
nghiệp bậc trung học phổ thông được thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc.

91
Cùng với việc đổi mới trong công tác quản lý, dạy và học, cơ sở trường lớp cũng có bước phát
triển theo mô hình trường chuẩn quốc gia. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tập trung các nguồn lực
đầu tư kiên cố hóa trường học, xóa phòng học tạm bợ, xuống cấp, xây thêm trường lớp bảo đảm quy
mô đúng theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đồng thời, bổ sung trang thiết bị trường học
đáp ứng yêu cầu chuyên môn. Đến năm 2010, huyện Cam Lộ cơ bản hoàn thành kiên cố hóa trường
học và nhà công vụ cho giáo viên. 85% số trường học được kiên cố và cao tầng hóa; số trường đạt
chuẩn quốc gia tăng 11,5% so với năm 2006 (mầm non 25%, tiểu học 87,65%, trung học cơ sở 25%).
Được sự quan tâm của toàn xã hội, chất lượng giáo dục có sự chuyển biến tiến bộ. Tỷ lệ học sinh đỗ
tốt nghiệp các cấp hàng năm đều tăng, bình quân đạt 94%; thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng
đạt 25%. Tỷ lệ học sinh giỏi đạt giải học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh ngày càng tăng.
Công tác xã hội hóa giáo dục, công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được
các cấp ủy quan tâm chỉ đạo. Hầu hết các cơ sở hội khuyến học và nhiều dòng tộc xây dựng quỹ
khuyến học, khuyến khích, động viên học sinh giỏi, học sinh nghèo vượt khó, góp phần nâng cao
trình độ dân trí, thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển. 100% xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ
cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở trong nhiều năm liên tục. Công tác
giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật có nhiều tiến bộ.

92
Nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân có những chuyển biến tích cực. Ngày 16/7/2007, Ban
Thường vụ Huyện ủy Cam Lộ đã ban hành Kết luận số 13-KL/HU về thực hiện Nghị quyết số 46-
NQ/TW, ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị (khóa X) về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân trong tình hình mới. 5 năm thực hiện chương trình (2006-2010) là thời gian hệ thống
y tế công lập huyện được đầu tư mạnh mẽ và đồng bộ từ tuyến huyện đến tuyến xã. Từ các nguồn
vốn Trung ương, tỉnh và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Bệnh viện Đa khoa Cam Lộ được xây
mới và đưa vào sử dụng 7/2009 với quy mô 80 giường bệnh đã tạo bước phát triển trong công tác
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Mạng lưới y tế, cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị y tế từ
huyện đến xã được tăng cường đầu tư. Đến năm 2010, 100% xã, thị trấn có trạm y tế được xây dựng
kiên cố và có đủ điều kiện, phương tiện chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, 9/9 xã đạt chuẩn
quốc gia về y tế. Đi cùng với đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tuyến huyện trang bị thêm một số thiết
bị hiện đại như máy nội soi chẩn đoán, máy siêu âm tim, máy trợ thở, máy xét nghiệm sinh hóa... Ở
tuyến xã, tất cả trạm y tế đều trang bị đủ các dụng cụ y tế cơ bản, thiết yếu. Đội ngũ cán bộ y tế được
quan tâm bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn. Toàn huyện có 138 cán bộ y tế, Phòng y
tế có 04 cán bộ trong đó có 01 bác sĩ; Trung tâm y tế có 25 cán bộ trong đó có 02 bác sĩ, bệnh viên đa
khoa có 63 cán bộ trong đó có 08 bác sĩ; Trạm y tế có 46 cán bộ trong đó có 04 bác sĩ; bình quân 3,6

93
bác sĩ/1 vạn dân; 100% trạm y tế có nữ hộ sinh trung học; 100% thôn, bản có nhân viên y tế được
đào tạo cơ bản từ 3 đến 9 tháng theo quy định. Luân phiên bác sĩ được đi đào tạo, về trạm y tế để hỗ
trợ chuyên môn, tham gia khám, điều trị, đào tạo lại cán bộ y tế cấp xã và nhân viên y tế thôn, bản...
Với hệ thống y tế khá hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ y tế, chất lượng khám, chữa
bệnh và các dịch vụ y tế được cải thiện đáng kể. Nhiều ca bệnh trước đây phải chuyển lên tuyến trên,
nay đã điều trị có hiệu quả; giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh từ 0,91% năm 2006 xuống còn 0,28% năm
2010. Công tác khám chữa bệnh ban đầu cho các đối tượng có thẻ bảo hiểm y tế được chuyển giao
cho trạm y tế xã. 97% trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về y tế, đầu năm 2007, Phòng Y tế huyện được thành lập.
Ngoài chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tham mưu, Phòng được giao nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân
dân huyện trực tiếp quản lý các trạm y tế xã, thị trấn. Trung tâm Y tế huyện lúc này chủ yếu thực
hiện nhiệm vụ chuyên môn, gồm các đơn vị trực thuộc: Bệnh viện Đa khoa huyện; Y tế dự phòng;
Bảo vệ bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia đình. Tuy nhiên, qua thực tiễn, việc giao cho Phòng Y tế
nhiệm vụ quản lý các trạm y tế xã, thị trấn có nhiều bất cập. Vì vậy, cuối năm 2009 chuyển các trạm
về trực thuộc Trung tâm Y tế huyện như trước đây. Với chức năng nhiệm vụ được giao, Trung tâm y
tế huyện đã làm tốt nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn cho các trạm y tế xã; hướng dẫn, đào

94
tạo nhân viên y tế thôn, bản thực hành trên người bệnh. Công tác phòng chống dịch bệnh, các
chương trình quốc gia về y tế được triển khai đồng bộ, có hiệu quả.
Hoạt động y tế dự phòng, các chương trình mục tiêu quốc gia, vệ sinh an toàn thực phẩm,
chương trình phòng chống HIV/AIDS, dân số kế hoạch hóa gia đình... được triển khai tích cực.
Huyện Cam Lộ đã hoàn thành mục tiêu thanh toán bệnh bại liệt, loại trừ bệnh uốn ván ở trẻ sơ sinh.
Công tác gia đình và chăm sóc, bảo vệ quyền lợi trẻ em ngày càng được quan tâm thực hiện. Tỷ lệ trẻ
em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 17,4%. Cùng với hệ thống y tế công lập còn có nhiều phòng
khám bệnh, phòng chẩn trị đông y và nhà thuốc tư nhân tạo nên mạng lưới y tế đến các địa bàn dân
cư, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận dễ dàng với nhiều loại dịch vụ y tế.
Công tác gia đình và chăm sóc, bảo vệ quyền lợi trẻ em đã gắn với các chương trình kinh tế - xã
hội, được nhân dân đồng tình hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả như: cộng đồng cam kết thực hiện
chính sách dân số, phong trào thôn, khu phố không có người sinh con thứ 3 trở lên. Công tác dân số -
kế hoạch hóa gia đình đạt kết quả tích cực. Đến năm 2010 tổng tỷ suất sinh là 2 con/phụ nữ trong độ
tuổi sinh đẻ, đạt mức sinh thay thế. Tỷ lệ tăng dân số duy trì ổn định ở mức dưới 1%.
Việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với người có công được cấp ủy, chính quyền, đoàn thể
quan tâm thực hiện tốt. Đến năm 2010, huyện Cam Lộ hoàn thành giải quyết chính sách cho người

95
có công trong 2 cuộc kháng chiến. Tổng số đối tượng chính sách, có công được hưởng chế độ là
2.215 người. Phong trào đền ơn đáp nghĩa được nhân dân hưởng ứng rộng rãi; huy động quỹ tình
nghĩa được 1.865 triệu đồng, sửa chữa, xây dựng mới 167 nhà tình nghĩa; xây dựng 142 nhà đại đoàn
kết cho người nghèo. Với những chính sách phù hợp, việc làm thiết thực đã từng bước nâng cao đời
sống của các gia đình chính sách.
Công tác quy tập mộ liệt sĩ, chăm sóc, tu bổ các Nghĩa trang liệt sỹ, nhà bia tưởng niệm ở huyện
và các xã được quan tâm đầu tư nâng cấp, xây dựng mới. Từ năm 2005 đến 2010 đã khảo sát, quy tập
trên 50 hài cốt liệt sỹ về an táng tại Nghĩa trang liệt sỹ, góp phần giáo dục thế hệ trẻ về đạo lý “uống
nước nhớ nguồn” và để lại ấn tượng, tình cảm tốt đẹp trong lòng nhân dân.
Cùng với việc đẩy mạnh đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, công tác xóa đói giảm nghèo đã trở
thành nhiệm vụ chính trị quan trọng của cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể trên địa
bàn huyện. Huyện Cam Lộ đã triển khai Chương trình quốc gia giảm nghèo năm 2006-2010 với
quyết tâm cao, huy động các ban, ngành, các cấp, lồng ghép các chương trình, các cuộc vận động lớn
nên đã thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia, trong đó cả người nghèo. Các chương trình xóa đói
giảm nghèo, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội đạt hiệu quả thiết thực. Trong giai đoạn
2006-2010, huyện Cam lộ chú trọng xây dựng kết cấu hạ tầng, tập huấn ở nhiều lĩnh vực khác nhau

96
để nâng cao kiến thức làm ăn, trình diễn các mô hình có hiệu quả và tạo điều kiện vay vốn ưu đãi
nhằm nâng cao năng lực giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo. Thông qua các chương trình, dự
án của huyện, tỉnh, hàng năm giải quyết việc làm cho khoảng 500 đến 600 lao động bằng hình thức
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo ngành nghề mới, hợp tác xuất khẩu lao động. Đến năm 2010, tỷ lệ hộ
đói nghèo giảm xuống còn 14,3%; tạo việc làm mới cho 2.493 lao động; tỷ lệ sử dụng thời gian lao
động nông thôn từ 65% năm 2006 lên 80% năm 2010; nâng tỷ lệ cân đối giữa lao động có thêm việc
làm và lao động chưa có việc làm từ 13,4% năm 2006 lên 25% năm 2010; tỷ lệ lao động được đào
tạo từ 13,2% năm 2006 lên 14,7% năm 2010.
Những năm 2005, 2006, trên địa bàn huyện Cam Lộ xảy ra hiện tượng sụt lún, sạt lỡ vùng dọc
sông Hiếu và quốc lộ 9 (đoạn từ Cam Tuyền đến ngã ba thị xã Đông Hà). Khẩn trương bảo vệ tính
mạng và ổn định cuộc sống cho người dân, Ban Thường vụ Huyện ủy đã tổ chức nhiều phiên họp,
tiến hành khảo sát và đưa ra giải pháp, đề xuất hợp lòng dân. Trên cơ sở báo cáo của Liên đoàn địa
chất Bắc Trung Bộ, ngày 31/12/2008 Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 2718/QĐ-UBND
về phê huyệt đầu tư bổ sung dự án đầu tư di dời dân ra khỏi vùng sụt lún, sạt lỡ. Khu tái định cư
được khẩn trương xây dựng với kết cấu hạ tầng đồng bộ: đường giao thông, điện sinh hoạt, trường
học, trạm y tế, nhà văn hóa cộng đồng. Từ năm 2009, 54 hộ 243 nhân khẩu thôn Hậu Viên, thị trấn

97
Cam Lộ an cư tại vùng quy hoạch mới (khu phố 3 thị trấn); 42 hộ 189 nhân khẩu ở thôn Lâm Lang,
xã Cam Thủy đến vùng xã Cam Thủy; 30 hộ 135 nhân khẩu thôn Bích Giang xã Cam Hiếu đến vùng
xã Cam Hiếu và 50 hộ 225 nhân khẩu ở thôn Tân Hiệp đến vùng Động Mối. Được cấp đất ở tại vùng
quy hoạch mới và nhà nước hỗ trợ 12 triệu đồng/1 hộ, cuộc sống các hộ thuộc diện di dời đi vào ổn
định, phát triển.

III. TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, GIỮ VỮNG ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ

Thực hiện Nghị quyết số 02 và Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị khóa
X về xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong
tình hình mới; xuất phát từ vị trí chiến lược của huyện trong thế trận phòng thủ của tỉnh và Quân khu,
Ban Thường vụ Huyện ủy xác định nhiệm vụ trọng tâm là hướng về cơ sở, xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng xã, thị trấn, cơ quan vững mạnh về quốc
phòng - an ninh, bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội để phát triển kinh tế - xã
hội. Để thực hiện tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hàng năm Huyện ủy ban hành nghị quyết lãnh đạo
công tác quốc phòng địa phương; chỉ thị về công tác quốc phòng - an ninh; Ủy ban nhân dân huyện

98
xây dựng kế hoạch thực hiện. Trên cơ sở văn bản chỉ đạo của cấp trên, Ban Chỉ huy quân sự huyện
chủ trì phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể ký kết liên tịch, liên ngành thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng - an ninh; xây dựng hệ thống kế hoạch tác chiến, duy trì nghiêm túc chế độ trực sẵn sàng chiến
đấu. Nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhiệm vụ quốc phòng và xây
dựng cơ sở vững mạnh toàn diện được nâng cao. Chú trọng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn
với củng cố quốc phòng - an ninh, tổ chức thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc phòng - quân sự
địa phương, xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, cụm an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu liên
hoàn về an ninh trật tự, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận chiến tranh nhân dân,
góp phần giữ vững an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển bền vững.
Lực lượng thường trực cơ quan quân sự huyện được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức; năng lực lãnh đạo, chỉ huy điều hành thực hiện nhiệm vụ quân sự quốc phòng ngày càng
cao. Đội ngũ cán bộ, chiến sỹ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; 100% cán bộ sỹ quan được đào tạo qua các trường trong
Quân đội, trình độ quân sự, lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ Trung, Cao cấp chiếm 70%; cơ
quan quân sự huyện nhiều năm đạt danh hiệu đơn vị quyết thắng. Thực hiện Nghị quyết số 51 của Bộ

99
Chính trị, Nghị quyết số 513 của Đảng ủy quân sự Trung ương (sau này là Quân ủy Trung ương) về
thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính ủy, chính trị viên trong quân đội đã phát
huy hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, tạo được mối đoàn kết, thống nhất cao trong hoạt động
của đơn vị.
Quán triệt quan điểm ở đâu có dân, có tổ chức đảng, ở đó có lực lượng dân quân tự vệ. Trên cơ
sở rà soát lực lượng dân quân tự vệ hiện có, các xã, thị trấn củng cố, phát triển, biên chế đủ số lượng
của các binh chủng và được huấn luyện hàng năm, bảo đảm chất lượng. Định kỳ cấp huyện, cấp xã
(luân phiên) tổ chức diễn tập, vận hành theo “cơ chế 02”; điều chỉnh bổ sung các kế hoạch, phương
án tác chiến, phòng thủ. Công tác đăng ký, quản lý, phúc tra, đề bạt, bổ nhiệm, huấn luyện lực lượng
dự bị động viên từng bước đi vào nền nếp. Tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dân quân tự vệ chiếm
16,1%. Ban chỉ huy quân sự các xã, thị trấn thường xuyên được kiện toàn đủ số lượng, bảo đảm chất
lượng theo pháp lệnh. 100% cán bộ Ban chỉ huy quân sự là đảng viên; 77,8% xã đội trưởng và 11,1%
xã đội phó được bầu vào cấp ủy. Năm 2006, Cam Lộ tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ hoàn thành
khá, có nhiều mặt tốt. Hàng năm đều hoàn thành tốt công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ.
Ban Chỉ huy quân sự huyện được Quân khu 4 công nhận đơn vị quyết thắng năm 2007.

100
Nhiệm vụ xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, cụm an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu liên
hoàn về an ninh trật tự được chú trọng. Ban chỉ huy các cụm thường xuyên trao đổi thông tin, thống
nhất nhận thức, đánh giá tình hình; duy trì nghiêm chế độ trực báo, giao ban cụm hàng quý, đồng
thời tham mưu Ban Thường vụ Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo giải quyết kịp thời các vấn
đề nảy sinh từ cơ sở. Phối hợp chỉ đạo, thực hiện tốt chủ trương diễn tập cụm xã (Cam Thành, Cam
Tuyền và thị trấn Cam Lộ) chiến đấu. Mối quan hệ giữa các cấp, các ngành, các đơn vị gắn bó hơn;
các thông tin được trao đổi nhanh hơn, đã tạo ra phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc trên từng
khu vực dân cư, cụm xã, đơn vị, góp phần ngăn ngừa, phòng chống tội phạm, tai tệ nạn xã hội, thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Chính sách hậu phương quân đội được chú trọng. Vào các dịp lễ, Tết, ngày kỷ niệm truyền thống
của lực lượng, huyện ủy, ủy ban nhân dân, các đơn vị chỉ đạo các cấp, các ngành tổ chức các hoạt
động giao lưu, tọa đàm, thăm hỏi tặng quà các đối tượng chính sách, gia đình có công với nước và
các gia đình có người thân đang công tác tại biên giới, hải đảo. Lực lượng vũ trang huấn luyện, diễn
tập, con em lên đường làm nghĩa vụ quân sự được các cấp, các ngành, mặt trận và các đoàn thể đến
động viên, xây dựng hình ảnh tốt đẹp trong mối quan hệ quân dân, củng cố vững chắc nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân ở địa phương.

101
Thực hiện Nghị quyết số 40-NQ/TW, ngày 08/11/2004 của Bộ Chính trị về nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác công an trong tình hình mới, Ban Thường vụ Huyện ủy yêu cầu các cấp ủy
đảng, chính quyền bám sát nhiệm vụ trọng tâm về phát triển kinh tế - xã hội của địa phương để chỉ
đạo công tác công an; quan tâm xây dựng lực lượng công an nhân dân; chủ động ngăn chặn các loại
tội phạm và tệ nạn xã hội; chỉ đạo Công an huyện triển khai cuộc vận động “Xây dựng lực lượng
công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ”. Công an huyện Cam Lộ đã tổ chức nhiều đợt
sinh hoạt chính trị gắn với học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, 6 điều Bác Hồ dạy công an
nhân dân. Sau khi Pháp lệnh Công an xã năm 2008 ra đời, đội ngũ công an xã được củng cố, kiện
toàn. Trưởng, phó công an xã do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện ra quyết định bổ nhiệm; công an
viên các thôn do chủ tịch ủy ban nhân dân xã ra quyết định công nhận. Việc bồi dưỡng, đào tạo cán
bộ, công an xã chuyển theo hướng chuẩn hóa. Lực lượng Công an huyện, xã được xây dựng theo
hướng ngày càng chính quy, nâng cao bản lĩnh chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Cùng với nâng cao chất lượng lực lượng công an, các cấp ủy, chính quyền thường xuyên củng
cố, xây dựng tổ an ninh nhân dân, thanh niên xung kích, ban bảo vệ dân phố, các tổ chức quần chúng
tham gia công tác đảm bảo an ninh trật tự. Nhờ đó, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, đấu

102
tranh phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội được nhân dân tích cực hưởng ứng, thực hiện có
hiệu quả. An ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội duy trì tốt, tạo thuận lợi cho quá trình phát triển
kinh tế xã hội của địa phương.
Đứng trước tình hình tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nghiêm trọng. Sau khi Chính phủ ban
hành Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP, ngày 29/6/2007 về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế
tai nạn giao thông, huyện Cam Lộ đã tổ chức lập lại trật tự hành lang đường bộ, đường sắt; thực hiện
nghiêm túc quy định đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông. Từ ngày 15/9/2007, khi đi trên các
tuyến quốc lộ và từ ngày 15/12/2007 khi đi trên tất cả các tuyến đường, người đi mô tô, xe máy đều
bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm được người tham gia giao thông thực hiện nghiêm túc.
Với lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện gồm quân sự, công an, các lực lượng vũ trang quần
chúng (dân quân tự vệ), vũ trang bán chuyên trách (công an xã) và mạng lưới tổ chức quần chúng đã
tạo nên thế trận an ninh nhân dân kết hợp với thế trận quốc phòng toàn dân khá vững chắc. Các lực
lượng phối hợp chặt chẽ, duy trì thường xuyên chế độ sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình hình, giải
quyết tương đối tốt các vụ việc xảy ra. Duy trì tốt mối quan hệ với các đơn vị chủ lực, các cơ quan
đóng trên địa bàn và tạo điều kiện hỗ trợ lẫn nhau thực hiện nhiệm vụ chính trị. Thường xuyên quan

103
tâm chăm lo đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị cho lực lượng vũ trang. Hiệu lực quản lý
nhà nước của chính quyền các cấp trên lĩnh vực quốc phòng ngày càng được nâng cao.
Ngày 22/11/2006, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã ban hành Chương trình hành động số 16-
CTHĐ/HU về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của Trung ương Đảng (khóa X) về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí với mục tiêu: Ngăn
chặn, từng bước đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí; tập trung cho nguồn lực đầu tư, phát triển sản xuất
kinh doanh, nâng cao chất lượng, hiệu quả, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội; giữ vững ổn
định chính trị, củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch vững
mạnh; đội ngũ cán bộ, công chức kỹ cương, liêm chính. Ban Chấp hành Đảng bộ đặc biệt coi trọng
các biệp pháp đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa; tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan, đơn vị; công khai thu, chi ngân sách, quy hoạch các dự án đầu tư phát triển kinh tế - văn hóa;
rà soát, bố trí thay thế kịp thời những cán bộ giảm sút uy tín hoặc có dấu hiệu tiêu cực, không để xảy
ra vi phạm đến mức phải xử lý. Mặt khác, chỉ đạo các ban, ngành chức năng cụ thể hóa chủ trương
của Trung ương, của tỉnh về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí để xây dựng quy chế, quy định
nhằm phát huy dân chủ xã hội, động viên mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia thực hiện tốt chủ
trương thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong công tác quản lý, sản xuất, tiêu dùng để tập trung

104
cho đầu tư phát triển nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Nhận thức của cán bộ,
đảng viên và nhân dân được nâng lên, kỷ cương, nền nếp, kỷ luật lao động, rèn luyện tu dưỡng đạo
đức, tác phong của người cán bộ, đảng viên trong quá trình công tác, sinh hoạt có nhiều chuyển biến
tích cực. Công khai, minh bạch về tài sản thu nhập và dân chủ trong thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước; quản lý đầu tư xây dựng và xây dựng trụ sở; quản lý,
khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên... Việc giải quyết đơn thư kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của
dân được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo. Trong đó, hầu hết các trường hợp khiếu nại lần đầu đối với
cấp huyện đều được đối thoại trực tiếp. Kết quả đó thể hiện các cấp, các ngành chấp hành Luật Khiếu
nại, Tố cáo năm 2005 (sửa đổi), góp phần ổn định tình hình mọi mặt trong địa bàn huyện Cam Lộ.
Các cơ quan thực thi và bảo vệ pháp luật phối hợp tốt trong công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ
biến pháp luật cũng như trong quá trình điều tra, truy tố xét xử, hạn chế các sự việc xử lý oan sai, bảo
đảm sự nghiêm minh của pháp luật đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm. Đến năm
2010, 100% các xã, thị trấn đã xây dựng quy chế tiếp dân, tủ sách pháp luật, thành lập các câu lạc bộ
trợ giúp pháp lý nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của người dân. Công tác
giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo có nhiều chuyển biến, kịp thời, dứt điểm, không để tồn đọng kéo

105
dài, tạo được lòng tin của nhân dân. Việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ đạo kịp thời,
gắn với học tập chuyên đề “Thực hành tiết kiệm chống tham ô, lãng phí, quan liêu”.

IV. TẬP TRUNG XÂY DỰNG, CỦNG CỐ TỔ CHỨC ĐẢNG GẮN VỚI XÂY DỰNG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ VỮNG MẠNH

1. Đổi mới và tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức

Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII, trong nhiệm kỳ, Ban Thường vụ
Huyện ủy đã ban hành nghị quyết về công tác phát triển đảng viên giai đoạn 2006-2010; nghị quyết
về quy hoạch, đào tạo cán bộ xã, thị trấn; nghị quyết về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các chi bộ trực thuộc Đảng bộ xã, thị trấn. Công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ đã có nhiều
chuyển biến tích cực.
Về công tác chính trị, tư tưởng, Đảng bộ coi trọng đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
trước hết là phương pháp học tập quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng phải gắn chặt,
sát với tình hình thực tiễn của địa phương; đổi mới phương thức lãnh đạo, nội dung sinh hoạt chi
bộnhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Các đồng chí huyện ủy

106
viên; thành viên Ủy ban nhân dân huyện, đồng chí trưởng, phó các phòng ban Mặt trận Tổ quốc,
đoàn thể cấp huyện đều được phân công phụ trách theo dõi địa bàn cơ sở. Việc tổ chức quán triệt
nghị quyết của Đảng có bước đổi mới về tổ chức lớp học, cách thức truyền đạt nghị quyết phù hợp
với từng loại đối tượng, điều kiện của từng địa phương, đơn vị. Nội dung học tập, quán triệt không
dàn trải mà theo hướng tập trung nghiên cứunhững vấn đề mới, cốt lõi của nghị quyết, gắn với
chương trình hành động của từng cấp và có sự liên hệ thực tiễn ở địa phương, đơn vị. Việc xây dựng
chương trình hành động cũng được đổi mới, không chỉ đề ra đầy đủ mọi nội dung của nghị quyết mà
chọn lọc, vận dụng nghị quyết để tập trung giải quyết một số vấn đề trọng tâm, cấp bách, thiết thực
của địa phương, đơn vị. Thông qua đổi mới phương thức công tác tư tưởng, những diễn biến về tư
tưởng, tâm trạng và dư luận xã hội, nhất là những vấn đề bức xúc trong nhân dân được các cấp ủy,
chính quyền phát hiện, dự báo, xử lý kịp thời và có hiệu quả hơn. Chế độ học tập lý luận chính trị
trong đảng theo Quy định số 54-QĐ/TW ngày 12/5/1999 của Bộ chính trị được chú trọng. Công tác
tư tưởng đã góp phần nâng cao nhận thức, tính tích cực của cán bộ, đảng viên; định hướng và củng
cố lòng tin của nhân dân vào đường lối đổi mới, sự lãnh đạo của Đảng, thúc đẩy phát triển kinh tế,
giữ vững ổn định chính trị xã hội.

107
Điểm nổi bật trong công tác tư tưởng giai đoạn này là toàn Đảng bộ tập trung học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/11/2006 của Bộ
Chính trị (khóa X). Đây là cuộc vận động sâu rộng trong Đảng và toàn xã hội nhằm nâng cao đạo
đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trước hết trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Tháng 3/2007, Ban Thường vụ
Huyện ủy ban hành Kế hoạch số 13-KH/HU về triển khai thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; thành lập Ban Chỉ đạo cuộc vận động do đồng chí Bí thư
Huyện ủy làm Trưởng ban. Trong quá trình thực hiện, cuộc vận động được gắn liền với triển khai
thực hiện các nhiệm vụ chính trị hàng năm; gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hành
tiết kiệm, đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Mỗi năm học tập một số chủ đề tư tưởng và tác phẩm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh do Trung ương quy định. Đối tượng học tập là cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể chính trị - xã hội. Trong 4 năm thực hiện, các cấp
ủy đảng, mặt trận, đoàn thể tổ chức hàng trăm lớp học cho hàng chục ngàn lượt người. Sau khi học
tập, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức tự liên hệ, kiểm điểm cá nhân và đăng ký phấn đấu tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức, lối sống, khắc phục khuyết điểm. Các cấp ủy, cơ quan, đơn vị xây dựng tiêu
chuẩn đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để phấn đấu, rèn luyện phù hợp với từng

108
cơ quan, đơn vị; xây dựng chương trình hành động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh; xử lý các sai phạm được phát hiện; tổ chức quần chúng nơi công tác góp ý cho cán bộ, đảng
viên... Để tạo sự lan tỏa trong xã hội, theo sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, tháng 10/2007,
Ban Thường vụ Huyện ủy tổ chức hội thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở cấp cơ sở
và cấp huyện. Tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên, nhân dân và các em học sinh đến cổ vũ và học
tập, hội thi cấp huyện được tổ chức tại 3 địa điểm (Cam Thành, Cam An và Nhà văn hóa trung tâm).
Học tập và làm theo Bác, các chi, đảng bộ, cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức
đều có sự chuyển biến tiến bộ nhất định: Tinh thần trách nhiệm nâng lên, ý thức tổ chức kỷ luật và
thái độ phục vụ nhân dân tốt hơn, tình trạng đi muộn, về sớm, làm việc riêng trong giờ hành chính
được khắc phục đáng kể. Nhiều cơ quan, đơn vị nhanh chóng đẩy mạnh việc học tập gắn với làm
theo bằng nhiều nội dung, mô hình phù hợp; tích cực giải quyết các vấn đề cán bộ, đảng viên và nhân
dân quan tâm, góp phần tạo sự chuyển biến tích cực, toàn diện trên các lĩnh vực phát triển kinh tế -
xã hội.
Sự nghiệp đổi mới của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần củng cố và nâng cao
lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong những năm 2005-2010 nổi lên
một số vấn đề bức xúc với nhiều thông tin, dư luận xã hội trái chiều. Trong nước, có một số vấn đề

109
nhạy cảm, phức tạp như về chủ quyền quốc gia qua phân giới cắm mốc biên giới Việt Nam - Trung
Quốc; việc Trung Quốc tranh chấp chủ quyền biển đảo; về dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên; về
sai phạm nghiêm trọng ở Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam Vinashin; tình hình tham nhũng,
tiêu cực diễn biến phức tạp... Các thế lực thù địch đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, nổi lên các phần
tử cơ hội chống phá Đảng và chế độ, các vụ gây rối trật tự công cộng liên quan đến tôn giáo, các luận
điệu tuyên truyền, xuyên tạc cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh... Những vấn đề nêu
trên tác động tiêu cực đến tình cảm, tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong
huyện với nhiều nỗi băn khoăn, lo lắng, bức xúc. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ
đạo tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, đặc biệt là công tác tuyên truyền miệng theo tinh
thần Chỉ thị số 17-CT/TW của Ban Bí Thư Trung ương khóa X); chủ động tăng cường đấu tranh
chống âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - xã hội theo tinh
thần Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 17/4/2009 của Bộ Chính trị. Thực hiện chủ trương của Ban Thường
vụ Huyện ủy, ngày 21/11/2005, Ban Tuyên giáo Huyện ủy ban hành Kế hoạch số 03-KH/BTGHU
xây dựng, củng cố đội ngũ báo cáo viên cấp huyện nhiệm kỳ 2005-2010. Ban Thường vụ Huyện ủy
quyết định thành lập đội ngũ báo cáo viên Huyện ủy gồm 21 đồng chí. Ngoài đội ngũ báo cáo viên
của Đảng, các ngành, mặt trận, đoàn thể... còn thành lập đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của

110
ngành mình. Các lực lượng đã tạo nên binh chủng tuyên truyền miệng phủ đều, rộng khắp đến mọi
địa bàn dân cư. Thông qua hình thức chủ yếu là tổ chức hội nghị thông tin thời sự, chính sách, học
tập nghị quyết của Đảng, lồng ghép trong các cuộc hội nghị các cấp, các ngành, sinh hoạt chi bộ, cơ
quan, đoàn thể... đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên đã cung cấp thông tin chính thống, định
hướng chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trước các vấn đề thời sự quan trọng trong huyện,
trong tỉnh, trong nước và quốc tế. Hoạt động tâm huyết của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên
và Tài liệu sinh hoạt chi bộ do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy biên soạn được gửi về đến chi bộ cơ sở đã
góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tạo ra sự thống nhất tư tưởng trong Đảng bộ và sự
đồng thuận trong nhân dân.
Được sự hỗ trợ một phần kinh phí của ngân sách tỉnh, công tác sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn
lịch sử của xã, thị trấn được đẩy mạnh. Đến cuối năm 2010, có 4 đơn vị (2 đảng bộ xã, 2 ngành) đã
xuất bản lịch sử Đảng bộ giai đoạn 1930-2000; 7 xã khác đang trong quá trình sưu tầm tư liệu,
nghiên cứu biên soạn.
Công tác tổ chức và cán bộ được triển khai đồng bộ, mang lại kết quả tích cực.Đảng bộ đã tập
trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và coi đây là một trong
những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện

111
lần thứ XIII. Ngày 29/11/2007, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ban hành Nghị quyết số 07-NQ/HU
về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ, đảng bộ xã, thị trấn với phương
hướng: Đẩy mạnh học tập, quán triệt và tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân
những quan điểm của Đảng về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị, vai trò lãnh đạo
của chi bộ đảng ở cơ sở trong quản lý xã hội, chăm lo đời sống cho nhân dân về mọi mặt. Nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của chi bộ đảng và đội ngũ đảng viên; giữ vững vai trò và nâng cao
hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị và các hoạt động xã hội”.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện được triển khai học tập, quán triệt, gắn với việc xây
dựng và thông qua chương trình kế hoạch thực hiện của các đảng bộ, chi bộ trực thuộc một cách thiết
thực và sát đúng với tình hình. Các cấp ủy đảng đã tập trung chỉ đạo kiện toàn bộ máy, đổi mới
phương thức hoạt động; xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và lề lối làm việc, nâng cao tính chủ
động của các chi, đảng bộ. Vai trò lãnh đạo của Đảng ủy, sự phối hợp của Ủy ban nhân dân, Ủy ban
Mặt trận và các đoàn thể đối với chi bộ được tăng cường; chú trọng hơn trong chăm lo xây dựng các
tổ chức trong hệ thống chính trị, phát huy dân chủ cơ sở; chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội phải gắn
chặt với quốc phòng - an ninh.

112
Cấp ủy và đảng viên các chi bộ đã thực hiện nghiêm túc nền nếp chế độ sinh hoạt định kỳ theo
Điều lệ Đảng và Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương. Đã xây dựng Quy chế làm việc của chi
bộ, phân công chi ủy, đảng viên phụ trách địa bàn. Nội dung chất lượng sinh hoạt chi bộ từng bước
được đổi mới, đa số các cấp ủy chi bộ đã duy trì chế độ hội ý để bàn, thống nhất và chuẩn bị trước
nội dung sinh hoạt. Tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên ổn định, nhân dân tin tưởng vào sự lãnh
đạo của đảng. Nổi bật chi bộ Mai Đàn, Mai Lộc 2 (Cam Chính); đường 9 (Cam Hiếu); Cam Vũ 1
(Cam Thủy); khu phố 1, 2 (thị trấn Cam Lộ); Xuân Mỹ (Cam Tuyền); Tân Phú, Tân Xuân 2 (Cam
Thành) đã xây dựng và ban hành được các nghị quyết chuyên đề đúng với tinh thần chỉ đạo của cấp
ủy cấp trên, phù hợp với tình hình, đặc điểm của địa phương, đơn vị, tạo sự chuyển biến trong phát
triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Từng loại hình của tổ chức
cơ sở đảng đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định, phát huy được vai trò lãnh đạo trong
thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Đi cùng với nhiệm vụ đổi mới và nâng cao chất
lượng sinh hoạt chi bộ, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ cấp ủy ở các cấp, chất lượng các tổ chức cơ
sở đảng ngày càng nâng cao. Trong nhiệm kỳ đã chia tách, thành lập mới 22 chi bộ trực thuộc Đảng
bộ cơ sở; giảm từ 11 thôn không có đảng viên xuống còn 5 thôn.

113
Tiếp tục thực hiện công tác phát triển đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
huyện lần thứ XIII, ngày 27/10/2006 Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Cam Lộ đã ban hành Nghị
quyết số 03-NQ/HU về công tác phát triển đảng viên giai đoạn 2006-2010 với những chỉ tiêu cụ thể:
Hàng năm kết nạp đảng viên mới đạt từ 8% trở lên so với tổng số đảng viên trong toàn đảng bộ. Đến
năm 2010, tất cả các thôn, địa bàn dân cư đều có tổ chức đảng và đảng viên. Mỗi chi bộ kết nạp từ 1-
2 đảng viên/năm. Phấn đấu hạ thấp dần độ tuổi bình quân của toàn Đảng bộ. Để triển khai có hiệu
quả chỉ tiêu trên, các cấp ủy đảng chú trọng tăng cường công tác tuyên truyền, theo dõi, phát hiện
quần chúng ưu tú ở những thôn chưa có đảng viên, chi bộ ít đảng viên và đổi mới quy trình thủ tục
xét kết nạp đảng. Triển khai động bộ các nhiệm vụ, giải pháp, từ năm 2006-2010, toàn Đảng bộ đã
kết nạp được 446 đảng viên, bình quân hàng năm đạt 6,7%. Số lượng, chất lượng đảng viên mới kết
nạp được nâng lên đã góp phần phát huy vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở, giảm được số lượng chi
bộ ghép lãnh đạo nhiều thôn và thôn chưa có đảng viên.
Quán triệt và thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý
đội ngũ cán bộ, Ban Chấp hành Đảng bộ đã triển khai đồng bộ, đúng quy trình từ đánh giá, quy
hoạch đến sử dụng cán bộ; ban hành các quy định về phân cấp, quản lý, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ
ứng cử và thực hiện chính sách cán bộ, tạo sự thống nhất cao trong quá trình tổ chức thực hiện. Các

114
cấp ủy, chính quyền, cán bộ lãnh đạo quản lý, các cơ quan tham mưu chấp hành nghiêm các quy định
cũng như sự chỉ đạo của cấp trên về công tác cán bộ; thực hiện đúng quy định của cấp trên trong giới
thiệu cán bộ ứng cử, đề bạt, bố trí, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, khen thưởng, kỷ luật, quy hoạch cán bộ.
Triển khai công tác đánh giá cán bộ đã giúp cấp ủy thấy rõ hơn điểm mạnh, điểm yếu của đội ngũ
cán bộ từ đó có kế hoạch giúp đỡ, bồi dưỡng nên chất lượng đội ngũ cán bộ từng bước được nâng
lên.
Điểm nổi bật của công tác cán bộ trong giai đoạn này là Ban Thường vụ Huyện ủy và cấp ủy cơ
sở chú trọng tất cả các khâu, từ đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển bố trí, sắp xếp
sử dụng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ và thực hiện chính sách cán bộ... Mỗi chức danh quy hoạch từ
2 đến 3 cán bộ và mỗi cán bộ quy hoạch từ 2 đến 3 chức danh. Hoàn thành quy hoạch A1; bổ sung
quy hoạch A2 và được Ban Thường vụ Tỉnh ủy phê duyệt các chức danh Ban Chấp hành, Ban
Thường vụ và 14 chức danh chủ chốt của huyện giai đoạn 2010-2015. Ban Thường vụ Huyện ủy đã
phê duyệt quy hoạch 57 đồng chí cấp trưởng, 68 đồng chí cấp phó phòng, ban cấp huyện; 51 đồng
chí ban thường vụ đảng ủy và 67 đồng chí vào chức danh chủ chốt các xã, thị trấn. Công tác bổ
nhiệm cán bộ được thực hiện đúng quy trình, thẩm quyền, đã khắc phục được tình trạng chậm trễ
trong thực hiện các bước của quy trình cán bộ. Tính từ năm 2002 đến năm 2008 số lượng cán bộ

115
được giới thiệu bầu cử, đề bạt, bổ nhiệm vào các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy
quản lý gồm 48 đồng chí, trong đó khối Đảng, đoàn thể 08 đồng chí, khối nhà nước 20 đồng chí và
các xã, thị trấn 20 đồng chí. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban ngành thuộc ngành dọc tỉnh quản
lý đang công tác và làm việc trên địa bàn huyện trong công tác quy hoạch, bổ nhiệm và bổ nhiệm lại
cán bộ theo đúng quy trình công tác cán bộ. Ban Thường vụ Huyện ủy đã luân chuyển 04 đồng chí
lãnh đạo các ban, ngành về công tác tại cơ sở. Các đồng chí được luân chuyển đều hoàn thành tốt
nhiệm vụ, có chiều hướng phát triển tốt.
Thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ, tháng 01/2008, Tỉnh ủy điều động đồng chí Hoàng
Giáo, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện về công tác tại Ban Tổ
chức Tỉnh ủy và chỉ định đồng chí Nguyễn Ngọc Châu - Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng ban Tổ chức Tỉnh
ủy tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ làm Bí thư Huyện ủy Cam Lộ nhiệm kỳ 2005-2010.
Thực hiện chủ trương thí điểm Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp,
tháng 4/2009, Tỉnh ủy quyết định điều động đồng chí Nguyễn Ngọc Châu - Tỉnh ủy viên, Bí thư
Huyện ủy về công tác tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã bầu đồng chí
Nguyễn Công Phán, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện giữ chức Bí thư Huyện
ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện.

116
Công tác đào tạo, bồi dưỡng được chú trọng. Ban Thường vụ Huyện ủy đã ban hành Quy định số
02-QĐ/HU ngày 05/6/2006 về một số chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ chủ chốt cấp
huyện, xã, thị trấn từ năm 2006-2010. Kết quả từ năm 2006 đến năm 2010, đội ngũ cán bộ được bồi
dưỡng, đào tạo không chỉ có số lượng lớn mà còn khá đồng bộ, đồng đều ở cả cấp huyện, cấp cơ sở;
nâng cao vê trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ. Toàn huyện đã có 190 đồng chí được
cử đi đào tạo, trong đó đại học chuyên môn 68 đồng chí, cao cấp lý luận chính trị 19 đồng chí và 103
đồng chí đi học trung cấp lý luận chính trị. Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện đã mở được gần 50
lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính
trị-xã hội từ thôn đến các xã, thị trấn. Nhiều đồng chí được cử đi học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, ngoại ngữ và tin học văn phòng. Trình độ cán bộ được nâng lên
đồng đều và toàn diện, được thường xuyên giáo dục rèn luyện, tu dưỡng đạo đức theo tấm gương
Chủ tịch Hồ Chí Minh nên cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên nòng cốt được nâng lên tạo điều kiện thuận lợi để củng cố,
xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh. Hầu hết tổ chức cơ sở đảng thể hiện rõ vai trò lãnh đạo, tổ
chức thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị. Đến năm 2010, Đảng bộ huyện Cam Lộ có 44 tổ chức cơ

117
sở đảng, tăng so với nhiệm kỳ trước 9 tổ chức cơ sở đảng; 26 tổ chức cơ sở đảng (59%) đạt danh hiệu
trong sạch vững mạnh, không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém.
Đáp ứng yêu cầu tham mưu, triển khai thực hiện nhiệm vụ Bảo vệ chính trị nội bộ trong tình
hình mới, Ban Thường vụ Huyện ủy phân công 01 đồng chí Phó Trưởng Ban Tổ chức phụ trách
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ; xây dựng và ban hành quy chế phối hợp nhiệm vụ giữa ban tổ chức,
ủy ban kiểm tra, ban tuyên giáo, Đảng ủy Quân sự, Đảng ủy Công an huyện. Công tác bảo vệ chính
trị nội bộ được các cấp ủy đảng quan tâm chỉ đạo, tổ chức quán triệt và nghiêm túc triển khai thực
hiện các quy định, hướng dẫn của trung ương, góp phần bảo vệ Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, đồng thời phục vụ tốt cho công tác phát triển đảng, nâng cao chất lượng bố trí, sử dụng cán bộ.
Từ năm 2006 đến năm 2020, đã thẩm tra, kết luận gần 200 trường hợp phục vụ công tác quy hoạch
vào cấp ủy của huyện, kết nạp đảng viên mới cho trên 160 trường hợp. Công tác bảo vệ bí mật của
Đảng, Nhà nước được quan tâm. Tài liệu lưu trữ, phát hành bảo đảm đúng theo quy định từng mức
độ bảo mật. Nói, viết, phát ngôn thực hiện đúng theo quy định 115 của Bộ Chính trị về những điều
đảng viên không được làm.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng được chú trọng và từng bước đổi mới, hoạt động
của Ủy ban Kiểm tra đạt nhiều kết quả tích cực.

118
Về công tác kiểm tra, Điề̀u lệ Đảng (Đại hội X) quy định bổ sung thêm nhiệm vụ giám sát cho
cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp ngoài các nhiệm vụ kiểm tra như trước đây. Quán triệt Nghị quyết
Hộ̣i nghị Trung ương 5 khóa X của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng, Ban Thường vụ Huyện ủy đã xây dựng Chương trình hành động số
41-CTHĐ/HU, chỉ đạo các Đảng bộ trực thuộc xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện. Định kỳ, Ủy
ban Kiểm tra Huyện ủy làm việc với các cơ quan phối hợp báo cáo những vấn đề liên quan đến tổ
chức đảng, đảng viên thuộc diện cấp ủy quản lý bị tố cáo, khiếu nại, có dấu hiệu vi phạm kỷ luậ̣t của
đảng, xem xét giải quyết những yêu cầu kiến nghị có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luậ̣t trong Đảng bộ. Công tác kiểm tra, giám sát của Huyện ủy sâu sát hơn, chặt chẽ, có sức
mạnh và hiệu quả hơn. Trong nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Huyện ủy đã ban hành Quyết định thành lập
28 đoàn kiểm tra. Nội dung kiểm tra tập trung việc lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cơ sở thực hiện các
chương trình, kế hoạch hành động về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, công tác xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị 1; về chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương và chế độ trách nhiệm của cán bộ

1
. Trong đó có 06 đoàn kiểm tra đối với 07 lượt tổ chức cơ sở Đảng về thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
quản lý đất đai, dồn điền đổi thửa, thực hiện nghị quyết phát triển đàn bò, phát triển cây cao su, xã hội hóa giáo dục. 08
đoàn kiểm tra với 13 lượt tổ chức cơ sở Đảng về thực hiện các nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIII về
công tác quản lý, đào tạo đội ngũ cán bộ xã, thị trấn; công tác phát triển đảng viên; xây dựng hệ thống chính trị vững
119
đảng viên, công chức, viên chức trong thi hành nhiệm vụ. Qua kiểm tra đã chỉ ra những ưu điểm,
khuyết điểm, giải pháp khắc phục để các tổ chức cơ sở đảng tiếp tục thực hiện tốt hơn nghị quyết của
Đảng, nhiệm vụ chính trị của từng đảng bộ.
Đối với công tác giám sát, Ban Thường vụ Huyện ủy tăng cường nhiệm vụ giám sát trên tất cả
các lĩnh vực, phân công đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy làm trưởng các đoàn để nâng
cao chất lượng giám sát. Nội dung giám sát chủ yếu tập trung vào việc xây dựng các chương trình
kiểm tra, giám sát, quy chế làm việc của cấp ủy, về việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, tham nhũng, về quản lý, sử dụng đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... Qua các
cuộc giám sát, Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy đã kịp thời bổ sung những giải pháp phù hợp với
thực tế để lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, quy hoạch đất
trồng cao su, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đặc biệt là giám sát tổ chức thực hiện cuộc vận
động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; kịp thời uốn nắn những sai phạm, góp
phần giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Trong nhiệm kỳ, toàn Đảng bộ đã xử lý kỷ luật 56
trường hợp, trong đó khiển trách 23, cảnh cáo 24, cách chức 06, khai trừ 03 đảng viên; đã xử lý kỷ

mạnh; 03 đoàn kiểm tra với 15 lượt tổ chức cơ sở đảng về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng địa phương; 07 đoàn kiểm tra
đối với 09 lượt tổ chức cơ sở đảng và các ban, ngành về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
120
luật 01 cấp ủy chi bộ bằng hình thức khiển trách. Công tác thi hành kỷ luật trong đảng được thực
hiện đúng nguyên tắc, thủ tục, bảo đảm nghiêm minh, chính xác, kịp thời, góp phần phòng ngừa,
giáo dục, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên.
Công tác dân vận có nhiều chuyển biến tích cực về nhận thức, phương thức và nội dung hoạt
động. Các cấp, các ngành chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, nghị quyết về
công tác dân vận; kịp thời sơ, tổng kết nhằm rút ra bài học kinh nghiệm để chỉ đạo và động viên
phong trào. Chất lượng đội ngũ cán bộ dân vận từng bước được nâng lên; tích cực phối hợp, hướng
dẫn kiểm tra, nắm tình hình, tham mưu cho cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận, phát huy vai
trò cầu nối trong việc củng cố, xây dựng mối quan hệ giữa đảng với nhân dân.
Phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được triển khai có hiệu quả, góp phần thúc đẩy các phong
trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt quy chế dân chủ, phát huy khối đại đoàn kết, huy động các nguồn
lực trong nhân dân để phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, xây dựng cơ sở vật chất, các công trình
phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. 120 mô hình “Dân vận khéo” trên địa
bàn huyện cơ bản đạt các tiêu chí đề ra, trong đó 72 mô hình trên lĩnh vực văn hóa, lĩnh vực kinh tế

121
36 mô hình và quốc phòng - an ninh có 16 mô hình đã góp phần tăng trưởng kinh tế từ 10-12%/năm,
tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 17% xuống 14,3%.
2. Phát huy hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, điều hành của hội đồng nhân dân, ủy ban
nhân dân

Gắn chặt với công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ thường xuyên quan tâm xây dựng chính quyền
từ huyện đến cơ sở. Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện (giai đoạn 2004-2009), xã,
thị trấn (giai đoạn 2004-2011) có sự đổi mới, chuyển biến tích cực; quy định về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn được rõ hơn. Chất lượng đại biểu hội đồng nhân dân được nâng lên 1. Trước các kỳ
họp, các đại biểu Hội đồng nhân dân phải báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ trong kỳ họp trước,
chuẩn bị câu hỏi chất vấn đối với các đại biểu của Hội đồng nhân dân, nhờ vậy chất lượng các kỳ họp
từng bước được cải thiện, bảo đảm hơn thực quyền của Hội đồng nhân dân trong việc quyết định các
chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Ủy ban nhân dân đạt kết quả tốt hơn, hiệu lực cao hơn, đã
bám sát những vấn đề trọng tâm của địa phương, những nội dung mà cử tri quan tâm. Từng bước

1
. Tổng số 3.285 đại biểu, trong đó đại học 190 (5,8%), trung cấp-cao đẳng 499 (15,2%), trung, cao cấp chính trị 140
(3,4%); nữ 521 (15,9%).
122
tăng cường và đổi mới hình thức chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu đối với các cơ quan của
chính quyền trước trong các kỳ họp. Đã đổi mới và mở rộng các hoạt động tiếp xúc cử tri; kịp thời trả
lời các ý kiến chất vấn của nhân dân và phản ánh tâm tư, nguyện vọng, đề xuất, kiến nghị của nhân
dân lên các cơ quan có trách nhiệm.
Tính công khai ngày càng mở rộng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua trả
lời chất vấn của đại biểu, của nhân dân. Việc mở rộng dân chủ để nhân dân tham gia ý kiến về các
nội dung liên quan đến nghĩa vụ, quyền lợi của nhân dân trước khi Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân xem xét, quyết định được thực hiện và ngày càng đi vào nền nếp.
Ngay từ đầu nhiệm kỳ Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành Quy chế hoạt động và thông báo
phân công trách nhiệm đối với các thành viên. Trên cơ sở Nghi quyết của Huyện ủy và Hội đồng
nhân dân huyện, Ủy ban nhân dân huyện xây dựng các chương trình công tác trọng tâm, tập trung chỉ
đạo điều hành khá toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, đúng định hướng trên các lĩnh vực kinh tế,
văn hóa-xã hội, quốc phòng - an ninh. Duy trì tốt chế độ giao ban, trực báo thống nhất, chỉ đạo điều
hành thông suốt, có hiệu quả. Đã tập trung củng cố tổ chức, bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ các phòng,
ban chuyên môn, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương lề lối
làm việc, thực hiện cải cách thủ tục hành chính. Chất lượng, cơ cấu thành viên Ủy ban nhân dân cấp

123
huyện, cấp xã nhiệm kỳ 2004-2011 được nâng cao về chất 1. Quá trình điều hành, chỉ đạo bảo đảm sự
thống nhất giữa các thành viên ủy ban đã tạo tạo được sự chuyển biến tích cực. Tổ chức bộ máy của
Ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn, quy chế hoạt động, lề lối làm việc, chất lượng cán bộ,
công chức đều có bước phát triển và tiến bộ. Việc bố trí cán bộ lãnh đạo, chuyên viên tại các phòng,
ban khi tổ chức sắp xếp lại được thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình, phù hợp với năng lực, sở
trường. Tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức được nâng lên; quyền làm chủ của nhân
dân được đề cao và tôn trọng hơn.
Ủy ban nhân dân xã, thị trấn căn cứ tình hình thực tế và xây dựng quy chế hoạt động, chú trọng
việc phân công nhiệm vụ của các thành viên; đồng thời tập trung nâng cao hiệu quả quản lý, điều
hành và nắm bắt tình hình ở cơ sở, kịp thời xử lý các tình huống phát sinh. Hoạt động của Ủy ban
nhân dân xã, thị trấn có bước trưởng thành, tiến bộ rõ nét, đã xác định rõ hơn và thực hiện tốt hơn

1
Cấp huyện: 7 thành viên Ủy ban nhân dân huyện, trình độ như sau: chuyên môn nghiệp vụ: đại học 7/7 đồng chí
(100%), tăng 14,3% so với nhiệm kỳ 1999-2004; Lý luận chính trị: Cử nhân, cao cấp: 6 đồng chí (85,7%), trung cấp 1
đồng chí (14,3%).
Cấp xã: trong 35 thành viên: trình độ chuyên môn: đại học 11 đồng chí (26,82%), tăng 9 đồng chí so với nhiệm kỳ
trước; trung cấp, cao đẳng 19 đồng chí (55,88%), tăng 11 đồng chí so với nhiệm kỳ trước; sơ cấp 4 đồng chí (9,75%),
giảm 4 đồng chí so với nhiệm kỳ trước; Lý luận chính trị: cao cấp, đại học: 3 đồng chí (7,32%), trung cấp: 25 đồng chí
(60,97%), sơ cấp: 1 đồng chí (2,43%).
124
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước ở cơ sở, quản lý, điều hành theo pháp luật
gắn với công tác dân vận của chính quyền.
So với các nhiệm kỳ trước, nhiệm kỳ 2004-2009 của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các
cấp có một điểm khác biệt là thời gian hoạt động được kéo dài thêm 2 năm, đến năm 2011 theo Nghị
quyết số 25/2008/QH12, ngày 14/11/2008 tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII. Mục đích kéo dài là
để thống nhất cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp vào cùng
một thời điểm; tạo thuận lợi cho việc hoạch định các kế hoạch 5 năm, cho việc bố trí đội ngũ cán bộ
chủ chốt sau đại hội đảng bộ các cấp; tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức của nhà nước và nhân
dân. Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XII ban hành Nghị quyết số 26/2008/QH12 về thực hiện thí điểm
không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Quảng Trị là một trong 10 tỉnh, thành phố
của cả nước được Trung ương chọn giao thực hiện thí điểm này.
Ngày 02/02/2008 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW
về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Tỉnh Quảng Trị chọn huyện Cam Lộ thí điểm thực hiện “nhất thể hóa” bí thư cấp ủy đồng
thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp. Thực hiện chủ trương của cấp trên, Ban Thường vụ Huyện
ủy đã ban hành Đề án số 02-ĐA/HU, ngày 18/5/2009 về nhân sự nhất thể hóa chức danh Bí thư

125
Huyện ủy đồng thời là chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, các Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
khi thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện; đồng thời chọn xã Cam nghĩa thực
hiện thí điểm đồng chí Bí thư Đảng ủy đồng thời là chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Xác định đây là
nhiệm vụ mới, hệ trọng liên quan đến tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, vì vậy trong tổ
chức thực hiện, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đã bám sát quy trình hướng dẫn, bảo đảm dân
chủ, khách quan, tạo sự thống nhất, đồng thuận trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sau khi
thực hiện thí điểm nhất thể hóa, đã tiến hành bổ sung, sửa đổi quy chế làm việc của Ban Chấp hành
Đảng bộ, Ủy ban nhân dân huyện, phân công trách nhiệm rõ ràng, rành mạch, xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của tập thể, cá nhân theo hướng tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, phát
huy vai trò giám sát, tham gia xây dựng chính quyền của Mặt trận và các đoàn thể. Sau hơn 1 năm
thực hiện thí điểm, tình hình hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, công
tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị tiếp tục duy trì ổn định và có bước phát triển tốt.
Hoạt động lãnh đạo, điều hành của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện vẫn giữ vững nguyên tắc tập
trung dân chủ, đề cao trách nhiệm người đứng đầu, đồng thời phát huy vai trò từng thành viên trong
tập thể lãnh đạo huyện; việc cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của cấp ủy cũng như công tác chỉ
đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân huyện đều bảo đảm tính thống nhất, kịp thời và thông suốt.

126
Trong giai đoạn 2004-2011, có một số thay đổi trong Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân huyện. Ban Thường vụ Huyện ủy đã bố trí kịp thời, phù hợp với 2 đồng chí nguyên là Phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy viên Thường trực Hội đồng nhân dân huyện. Căn cứ Nghị định số
27/2009/NĐ-CP ngày 19/3/2009 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định 107/2004/NĐ-CP
ngày 01/4/2004 của Chính phủ quy định số lượng phó chủ tịch và cơ cấu thành viên Ủy ban nhân dân
các cấp; Thông tư số 01/TT-BNV ngày 19/3/2009 của Bộ Nội vụ về Hướng dẫn số 14-HD/BTCTU
ngày 31/3/2009 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về quy trình bổ nhiệm chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên Ủy
ban nhân dân huyện nơi thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân; sau khi có ý kiến chỉ
đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện xây dựng đề án nhân sự các chức danh
chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên Ủy ban nhân dân huyện trên cơ sở căn cứ quy hoạch các chức danh
chủ chốt của huyện giai đoạn 2010-2015, đồng thời thông qua việc đánh giá, nhận xét cán bộ để xem
xét, giới thiệu; lập hồ sơ đề nghị bổ nhiệm.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa X, Chương trình hành động số
56-CTHĐ/TU, ngày 10/4/2008 của Tỉnh ủy về đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý của bộ máy nhà nước ở địa phương, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã ban hành Chương
trình hành động số 40-CTr/HU ngày 12/5/2008. Đây là nhiệm vụ trọng tâm và cũng là nét nổi bật của

127
tỉnh và huyện trong công tác xây dựng chính quyền. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo gắn việc quán
triệt chủ trương, với tiến hành khảo sát thực trạng tình hình, xây dựng kế hoạch cụ thể hóa chương
trình cải cách hành chính của tỉnh và huyện sát đúng với thực tiễn nhu cầu của địa phương, đơn vị,
với 2 mục tiêu chính là: cải cách thủ tục giao đất theo cơ chế “một của” và đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực. Nhiệm vụ kiện toàn, củng cố các phòng, ban chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân
huyện theo Nghị định số 117/2004/NĐ-CP của Chính phủ, Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày
04/02/2008 của Chính phủ, Quyết định số 756/QĐ-UBND ngày 28/4/2008 cuả Ủy ban nhân dân tỉnh
về việc sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Cam Lộ được chú trọng.
Ủy ban nhân dân huyện được tổ chức với 13 phòng, ban chuyên môn và 5 đơn vị sự nghiệp trực
thuộc. Cùng với sắp xếp lại bộ máy, huyện ban hành các quy chế, quy định về chế độ làm việc; bổ
sung, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ cho các cơ quan chuyên môn; ban hành quy định chế độ trách
nhiệm, quy tắc ứng xử của cán bộ công chức, viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa
phương. Qua đó chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương, chế độ trách nhiệm và thái độ của cán bộ, công chức,
viên chức trong thi hành công vụ phục vụ nhân dân gắn với học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh. Bộ máy được củng cố, kiện toàn, được đầu tư phương tiện làm việc, Ban Thường vụ
Huyện ủy chỉ đạo đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính - là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, là khâu

128
đột phá trong cải cách hành chính nhằm tạo môi trường “thông thoáng” cho mọi hoạt động của người
dân và doanh nghiệp. Việc cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính được gắn với việc thực hiện cơ
chế một cửa, một cửa liên thông. Đây là giải pháp đổi mới hữu hiệu về phương thức làm việc của cơ
quan hành chính nhà nước, từ đó tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa chính quyền với các tổ chức,
công dân.
Từ tháng 10/2004, cơ chế “một cửa” được triển khai thực hiện tại huyện và áp dụng thí điểm tại
xã Cam Thành, thị trấn Cam Lộ với trang thiết bị hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin trong quá
trình tiếp nhận, xử lý hồ sơ, trả kết quả, bảo đảm tính công khai, minh bạch đã phát huy tác dụng tích
cực. Năm 2010, các xã, thị trấn trên địa bàn huyện đã hoàn thành nhiệm vụ “tăng cường hoạt động
của cơ chế một cửa”. Huyện Cam Lộ thực hiện đồng bộ, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn ISO 9001: 2000 trong toàn hệ thống hành chính từ huyện đến xã, thị trấn. Trong đó, tiến
tới hoàn chỉnh quy trình liên thông giữa Ủy ban nhân dân huyện và ủy ban nhân dân xã, thị trấn trên
lĩnh vực đất đai, xây dựng, đăng ký kinh doanh, chứng thực, hộ tịch, lao động và thương binh xã hội.
Đây là những lĩnh vực liên quan nhiều đến lợi ích của dân nên được ưu tiên thực hiện trước. Từng
bước hiện đại hóa nền hành chính công, trụ sở các cơ quan cấp huyện, xã, thị trấn được xây dựng
mới hoặc nâng cấp; được trang bị thêm phương tiện, thiết bị ứng dụng công nghệ thông tin vào công

129
tác lãnh đạo, quản lý, điều hành. Mạng nội bộ (mạng LAN) của Huyện ủy được nâng cấp và nối
mạng diện rộng với văn phòng đảng ủy các xã, thị trấn theo đề án của Tỉnh ủy. Các cơ quan, đơn vị,
ủy ban nhân dân xã, thị trấn trang bị bản quyền phần mềm văn phòng của Microsoft. Ngoài ra, giữa
một số cơ quan Phòng Tài chính - Kế hoạch, Kho bạc và Chi cục Thuế huyện, Cục Thuế tỉnh được
nối mạng để phối hợp theo dõi, cập nhật số liệu, thông tin phục vụ nhiệm vụ quản lý tài chính.
Trong quá trình đi đến hoàn thiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, các cấp, các ngành tích
cực rà soát các quy định, thủ tục hành chính theo các tiêu chí về sự cần thiết, tính hợp lý, tính hợp
pháp và tính hiệu quả. Trên cơ sở đó, kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy
phạm pháp luật có quy định về thủ tục hành chính. Đặc biệt, các thủ tục hành chính trên những lĩnh
vực có nhiều bức xúc, liên quan trực tiếp tới người dân và doanh nghiệp như đất đai, xây dựng, hộ
tịch, hộ khẩu, đầu tư, cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, thuế, kho bạc... được rà soát nhiều lần, loại
bỏ những thủ tục phức tạp, gây phiền hà.
Thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” bước đầu đạt được nhiều kết quả tích cực.
Thời gian giải quyết thủ tục, hồ sơ được rút ngắn, trả kết quả đúng hẹn đạt tỷ lệ cao, bảo đảm công
khai, minh bạch, bình đẳng. Năng lực, trách nhiệm của cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước, kỹ
năng, nghiệp vụ hành chính cũng như tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công

130
chức nâng lên rõ rệt. Mối quan hệ giữa nhân dân với cơ quan nhà nước và công chức, giữa lãnh đạo
với cán bộ, công chức gắn bó hơn. Có thể nói, chủ trương cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa”, “một cửa liên thông” thực sự đi vào cuộc sống, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động,
giải quyết công việc... của các cơ quan hành chính nhà nước, được nhân dân và doanh nghiệp đồng
tình, đánh giá cao.
Cùng với cải cách thủ tục hành chính, Đảng bộ lãnh đạo đẩy mạnh việc thực hiện Quy chế dân
chủ theo Nghị định số 79/2003/NĐ-CP của Chính phủ và Pháp lệnh số 34/2007/UBTVQH11, ngày
20/4/2007 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XI về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Ban Thường vụ Huyện ủy kiện toàn Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của huyện do
đồng chí phó bí thư thường trực làm trưởng ban, đồng chí trưởng ban dân vận làm phó ban trực, đồng
chí chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện làm phó ban, cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo đặt tại Ban Dân
vận Huyện ủy; ban hành quy chế hoạt động và phân công cụ thể các thành viên phụ trách địa bàn cơ
sở; chỉ đạo kiện toàn ban chỉ đạo các xã, thị trấn do đồng chí bí thư đảng ủy làm trưởng ban; tổ chức
quán triệt nội dung pháp lệnh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và phổ biến rộng rãi đến các tầng lớp
nhân dân.

131
Quá trình thực hiện quy chế dân chủ luôn gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội địa
phương với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đến năm 2010, 100% xã, thị
trấn đã triển khai thực hiện các nội dung của quy chế dân chủ ở cơ sở với việc đẩy mạnh triển khai
công tác cải cách hành chính của chính quyền và các cơ quan hành chính sự nghiệp. Tuy nhiên ở
từng nơi, việc triển khai cũng có những mức độ khác nhau. Đối với nơi có đời sống kinh tế và trình
độ dân trí phát triển như thị trấn, các xã ven thị trấn... người dân yêu cầu phải cụ thể hóa từng nội
dung về quyền của người dân như quyền được thông tin, quyền được bàn bạc, thảo luận, quyền đóng
góp ý kiến, quyền được quyết định, được kiểm tra, giám sát... Vì vậy, nội dung quy chế ở những đơn
vị này xây dựng khá chi tiết, cụ thể, thiết thực. Đối với một số xã xa trung tâm huyện lỵ còn nhiều
khó khăn, kinh tế phát triển chậm nên triển khai chưa đồng bộ, có mặt còn hạn chế. Các doanh
nghiệp trên địa bàn đã chủ động rà soát, sửa đổi các văn bản mới phù hợp với Quy chế dân chủ. Về
những việc thông báo cho dân biết, 100% xã, thị trấn thực hiện niêm yết công khai các quy trình, thủ
tục, thời hạn giải quyết đối với hồ sơ, lịch làm việc, tiếp dân, các quy định thu phí, lệ phí... tại trụ sở,
cơ quan làm việc; chủ động triển khai: 14 việc nhân dân được biết, 5 việc nhân dân được bàn và
quyết định, 11 việc nhân dân giám sát và kiểm tra, 9 việc nhân dân tham gia ý kiến để chính quyền

132
quyết định theo Nghị định số 79 của Chính phủ, nội dung Quyết định số 80/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ.
Bằng nhiều hình thức công khai, thông qua các kỳ họp hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, tiếp
xúc cử tri, niêm yết tại trụ sở xã, qua hệ thống truyền thanh, sinh hoạt đoàn thể..., chính quyền thông
báo cho nhân dân biết các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chủ trương, quy định, các dự án của
Nhà nước, của địa phương, nhất là những vấn đề liên quan đến lợi ích sát sườn của dân như các dự
án đầu tư, phương án đền bù giải tỏa, tái định cư... Tùy theo tính chất, mức độ quan trọng của vấn đề
để thông qua một hay nhiều kênh thông tin đến dân. Đối với những việc liên quan trực tiếp đến
quyền, lợi ích và nghĩa vụ công dân mà nhân dân được bàn, được biểu quyết thì phải thực hiện bảo
đảm dân chủ trước khi cấp có thẩm quyền ra quyết định cuối cùng, hợp với lòng dân. Nhiều nội dung
được dân bàn và tích cực tham gia như xây dựng quy ước của thôn, bình xét hộ nghèo, tuyển chọn
công dân nhập ngũ, đóng góp kinh phí xây dựng điện, đường, trường, trạm, kiên cố hóa kênh
mương... Nhiều nơi, dân tự nguyện đóng góp ngày công lao động, tự giải tỏa, không cần đền bù khi
mở rộng giao thông nông thôn. Để phát huy tốt quyền giám sát của nhân dân, trước khi quyết định
các chủ trương lớn, nhân dân đều được tham gia ý kiến. Các cấp ủy đảng chỉ đạo thường xuyên củng
cố ban thanh tra nhân dân xã, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập. Nhiều nơi, tổ tự

133
quản của nhân dân phát triển và hoạt động tốt, nhất là việc tham gia giám sát thực hiện các công trình
phúc lợi theo phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Các tổ, ban hòa giải ở cơ sở cũng
được chú trọng củng cố, phát huy tác dụng tích cực trong cộng đồng dân cư, giải quyết nhiều vụ việc
tranh chấp phát sinh trong nhân dân. Để đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước, Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành Công văn số 71-CV/UBND về chấn chỉnh tác
phong lề lối làm việc của cán bộ, công chức, đồng thời thường xuyên tổ chức, giám sát việc thực
hiện. Trong thực hiện đã tạo được sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức và hành động của đội ngũ cán
bộ công chức từ huyện đến cơ sở; nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, kỹ năng tuyên truyền,
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.
Thực hiện quy chế dân chủ đã đạt được một số kết quả tích cực, tạo được một số chuyển biến tốt
ở nông thôn. Quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân được phát huy, động viên được sức mạnh vật
chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao
dân trí, góp phần ngăn ngừa, hạn chế tiêu cực, tệ nạn xã hội xảy ra. Cán bộ, công chức ngày càng gần
dân, lắng nghe ý kiến của dân, nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với dân. Những kết quả đó góp
phần quan trọng củng cố mối liên hệ gắn bó giữa Đảng, chính quyền với nhân dân; xây dựng sự đoàn

134
kết gắn bó tình làng, nghĩa xóm trong cộng đồng dân cư, ổn định tình hình an ninh nông thôn trên địa
bàn huyện trong xu thế phát triển và hội nhập.
Nhìn một cách tổng quát, công tác cải cách hành chính đã đạt được những kết quả và tiến bộ
nhất định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền. Năng lực lãnh đạo, chỉ
đạo, quản lý, tham mưu, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước trong bộ máy chính quyền huyện, xã, thị trấn được nâng cao. Mối quan hệ
làm việc giữa cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể; giữa hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và
các cơ quan chuyên môn trong bộ máy chính quyền được xác định ngày càng rõ, có sự phối hợp theo
quy chế. Cán bộ công chức, viên chức cấp huyện, cấp xã được bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ
lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ; cán bộ nữ, trẻ được quan tâm. Trách nhiệm, kỷ luật, kỷ
cương trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ chuyên trách, bán chuyên trách cấp xã
nâng lên một bước. Lề lối làm việc, thái độ trong tiếp xúc, giải quyết công việc phục vụ nhân dân có
nhiều tiến bộ. Quan hệ giữa cơ quan hành chính với người dân gần gũi hơn. Việc thực hiện Pháp lệnh
dân chủ ở cơ sở ngày càng mở rộng, bảo đảm các điều kiện để cán bộ, đảng viên tham gia, bàn bạc,
quyết định những vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của địa
phương.

135
3. Chăm lo củng cố, xây dựng mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể vững mạnh

Cùng với công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Đảng bộ thường xuyên quan tâm củng cố, xây
dựng mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể vững mạnh. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII
xác định: “Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực sự làm nòng cốt xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân. Chăm lo xây dựng Ủy ban Mặt trận và các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội vững mạnh, phát
huy dân chủ, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển” 1. Các cấp ủy
lãnh đạo, chỉ đạo mặt trận và các đoàn thể bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, tăng cường khối
đại đoàn kết, tham gia xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phát động nhiều phong trào thi đua
yêu nước; chỉ đạo chính quyền tạo điều kiện nâng cao vai trò giám sát, tăng cường cơ sở vật chất,
kinh phí cho hoạt động của mặt trận, các đoàn thể. Tổ chức, bộ máy mặt trận, đoàn thể từ huyện đến
cơ sở được củng cố kiện toàn, nhất là sau các kỳ đại hội nhiệm kỳ. Hàng năm, việc kết nạp mới đoàn
viên, hội viên được chú trọng cả về số lượng và chất lượng. Các tổ chức chính trị xã hội đổi mới nội
dung và cách làm, hướng về cơ sở để tập hợp, tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên tham gia
các phong trào thi đua yêu nước trên từng địa phương và địa bàn dân cư; nổi bật là việc chuyển tải
thông tin tuyên truyền, vận động nặng về truyền giảng lý thuyết sang tuyên truyền, kết hợp xây dựng
1
. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ XIII, trang 64.
136
các chương trình, mô hình gắn quyền lợi vật chất, tinh thần cho hội viên, đoàn viên, gắn lợi ích cá
nhân với lợi ích tập thể như: chương trình giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng
kết cấu hạ tầng, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, đền ơn đáp nghĩa, bảo vệ an ninh Tổ quốc; tham
gia giám sát, quản lý đảng viên; hoạt động ban thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng
đồng... Từng đoàn thể phân công cán bộ bám sát cơ sở, đến tận từng công việc cụ thể đang diễn ra để
lắng nghe ý kiến, tuyên truyền, vận động, thuyết phục đoàn viên, hội viên thực hiện chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, kịp thời phản ánh nguyện vọng của dân đến
cấp ủy đảng, chính quyền giải quyết.
Bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, trong 5 năm (2005-2010), dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ huyện, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên cùng nhân dân trong huyện đã đoàn kết
xây dựng quê hương bằng những phong trào thiết thực trong phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng. Thông qua các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”,
cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với việc nâng cao nhận thức về sự nghiệp đại đoàn kết toàn
dân tộc và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

137
Ủy ban Mặt trận các cấp đã tích cực chủ động phối hợp với các tổ chức thành viên bảo đảm vai
trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, vận động nhân dân thực hiện tốt chính sách
dân tộc, tôn giáo và tín ngưỡng theo quy định của pháp luật; đi đầu trong các phong trào hành động
cách mạng ở địa phương. Tổ chức sâu rộng và thiết thực cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, phát động nhiều phong trào hướng đến người nghèo, các đối
tượng chính sách, đồng bào bị thiên tai, người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn. Từ năm 2006-2010,
đã huy động được 2.596 triệu đồng quỹ “Vì người nghèo”, xây dựng được 423 nhà đại đoàn kết. Kết
quả các phong trào, các cuộc vận động khẳng định rõ vị thế, vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong thời
kỳ đổi mới. Mặt trận cơ sở xã, thị trấn và ban công tác mặt trận khu dân cư từng bước được củng cố
và phát triển, đội ngũ cán bộ được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, thường xuyên đổi mới
hoạt động, góp phần thực hiện tốt các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng mà Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ XIII và Chương trình hành động mà Đại hội Mặt trận Tổ quốc huyện đề ra.
Liên đoàn lao động huyện và công đoàn các xã, phường, thị trấn tổ chức nhiều hoạt động tích
cực nhằm xây dựng người cán bộ công chức: “Trung thành, sáng tạo, tận tụy gương mẫu”; các phong
trào thi đua học tập, công tác, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho

138
công nhân viên chức và người lao động. Nhiệm vụ tuyên truyền, vận động và thực hiện chế độ chính
sách đối với người lao động kịp thời, hợp lý.
Chiếm 50% dân số của toàn huyện, Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Cam Lộ thực hiện tốt chủ
trương “ở đâu có phụ nữ thì ở đó có tổ chức hội” và mục tiêu “đoàn kết, sáng tạo, bình đẳng, phát
triển”. Các tổ chức hội tích cực vận động hội viên thực hiện các phong trào “phụ nữ tích cực, lao
động sáng tạo, xây dựng gia đình hành phúc”, “phụ nữ làm kinh tế giỏi”. Đến năm 2010, toàn huyện
có hơn 6.000 hội viên, trong đó hội viên cơ sở gần 6.000 người; tỷ lệ tập hợp hội viên đạt 78,%, tăng
18,5% so với nghị quyết đề ra; đã thành lập được 37 “Câu lạc bộ doanh nghiệp nữ” với 978 thành
viên, 7.385 nhóm tiết kiệm-tín dụng với 36.926 thành viên. Công tác đào tạo, đề bạt cán bộ nữ được
cấp ủy quan tâm. Trong nhiệm kỳ 2005-2010, nữ huyện ủy viên có 3/33 đồng chí chiếm 9,09%; đảng
ủy viên, chi ủy viên 21/152 đồng chí, chiếm 13,81%; 5/30 đại biểu Hội đồng nhân dân huyện chiếm
16,6%; 48/224 đại biểu hội đồng nhân dân xã chiếm 20,5%.
Hội nông dân huyện Cam Lộ chiếm 80% lực lượng lao động toàn huyện và chiếm 70% số hộ sản
xuất nông nghiệp thường xuyên đổi mới trong nội dung, hình thức hoạt động để tập hợp hội viên.
Thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, hội hướng dẫn, tư vấn, mở các lớp tập huấn trồng
trọt, chăn nuôi, tín chấp vay vốn, vật tư nông nghiệp, giúp nông dân sản xuất đạt hiệu quả với các

139
phong trào nổi bật như: “nông dân sản xuất kinh doanh dịch vụ giỏi”, thực hiện xây dựng các mô
hình “trang trại”, “cánh đồng 40 triệu đồng/ha”, “xây dựng cơ sở hội vững mạnh”. Đặc biệt, để tạo
điều kiện cho các chi, tổ hội xây dựng quỹ, hội đề xuất được đảm nhận các công trình, phần việc để
xây dựng quỹ hội. 112/112 chi hội xây dựng quỹ hoạt động với tổng số tiền 315 triệu đồng, trong đó
chi hội có quỹ cao nhất lên tới 50 triệu đã đáp ứng hoạt động các tổ chức hội, giúp hội viên phát triển
kinh tế, tăng thu nhập, cải thiện đời sống. Hưởng ứng phong trào nông dân xây dựng nông thôn mới,
Hội vận động hội viên tham gia đóng góp hàng ngàn ngày công với hàng trăm triệu đồng để xây
dựng các công trình điện, đường, trường, trạm phục vụ sản xuất và đi lại của bà con nông dân. Đến
năm 2010, 100% xã, thị trấn, khu phố, thôn bản có tổ chức cơ sở và chi, tổ hội. Bình quân hàng năm
phát triển khoảng 270-300 hội viên, đưa tỷ lệ hội viên nông dân trên tổng số lao động nông nghiệp từ
36,8% năm 2006 lên 43% năm 2010; tỷ lệ hội viên tham gia sinh hoạt từ 72,8% năm 2006 lên 82%
năm 2010. Chất lượng hội viên ngày một tăng lên, từ 28 chi hội vững mạnh, 40 chi hội khá, 25 chi
hội trung bình, 9 chi hội yếu kém năm 2000 lên 62 chi hội vững mạnh, 42 chi hội khá, 8 chi hội trung
bình năm 2010.
Đoàn viên, thanh niên huyện Cam Lộ chiếm 22% dân số và là lực lượng nòng cốt xung kích đi
đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đã chủ động làm tốt công tác giáo dục chính trị

140
tư tưởng cho cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu nhi, thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước do
Trung ương đoàn phát động, xây dựng được các mô hình, đào tạo nghề cho đoàn viên thanh niên.
Hàng năm có trên 90% đoàn viên, hội viên và gần 70% thanh niên địa phương học tập, quán triệt
nghị quyết của đảng. Đoàn thanh niên chủ động tham mưu cấp ủy đảng đánh giá đúng tình hình
thanh niên, đề xuất chủ trương, chính sách để xây dựng tổ chức đoàn, tập hợp thanh niên. Với 31 tổ
chức cơ sở đoàn, 211 chi đoàn trực thuộc tổ chức cơ sở đảng đã hưởng ứng mạnh mẽ phong trào
“Thanh niên tình nguyện”, “Tuổi trẻ giữ nước”, “Đoàn viên thanh niên phấn đấu trở thành đảng viên
Đảng cộng sản Việt Nam”, “Xây dựng cơ sở Đoàn vững mạnh toàn diện”, “Xây dựng chi đoàn chủ
động công tác”, “Thi đua học tập vì ngày mai lập nghiệp”. Tuy vậy, do tác động từ mặt trái của cơ
chế thị trường, một số thanh niên vi phạm pháp luật còn diễn ra; một bộ phận thanh niên thiếu ý thức
rèn luyện, thờ ơ và ít tham gia vào các hoạt động chính trị-xã hội. Để tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác thanh hiên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa, ngày
15/5/2009, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ban hành Chương trình hành động số 59-CTHĐ/HU, nhấn
mạnh mục tiêu chung đến năm 2020 và mục tiêu chủ yếu đến năm 2015, với những nhiệm vụ và giải
pháp chính: tăng cường bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức cách mạng, ý thức công dân
cho thanh niên; xây dựng tổ chức đoàn vững mạnh, mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên và

141
xây dựng tổ chức Hội Liên hiệp thanh niên; nâng cao chất lượng phong trào thi đua yêu nước của
tuổi trẻ; tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự phối hợp giữa chính quyền và các tổ chức chính
trị-xã hội đối với công tác thanh niên; tăng cường chỉ đạo công tác xây dựng Đội thiếu niên tiền
phòng Hồ Chí Minh và chăm sóc giáo dục thiếu niên, nhi đồng; phát huy vai trò, sự nỗ lực phấn đấu
của mỗi thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chương trình hành động
được triển khai trong lực lượng đoàn viên thanh niên, tạo nên phong trào thi đua sỗi nỗi, góp phần
hoàn thành các nhiệm vụ, chào mừng Đại hội Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2010-2015.
Phát huy truyền thống “Bộ đội cụ Hồ”, Hội cự chiến binh tích cực hưởng ứng các phong trào thi
đua hành động cách mạng, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị. Quán triệt
sâu sắc 4 quan điểm và 5 nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết 09-NQ/TW của Bộ Chính trị về “tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Cựu Chiến binh Việt Nam trong giai đoạn cách mạng
mới”. Hội đã tập trung chỉ đạo đổi mới phương thức, nội dung sinh hoạt, kiện toàn các tổ chức hội
trung bình vươn lên hoạt động có hiệu quả.
Tham gia xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, Hội tạo điều kiện cho hội
viên vay vốn phát triển kinh tế gia đình, phát động nhiều phong trào thi đua lao động sản xuất; tham
gia thực hiện cải tạo và phát triển chăn nuôi đàn bò, phục hồi và trồng mới vườn tiêu, nâng cao năng

142
suất kinh tế vùng lạc, phát triển kinh tế vùng gò đồi, trồng rừng và trồng cây cao su tiểu điền, phát
triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, hươu nai, hình thành nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ. Hội cũng đã
vận động hội viên giúp nhau về vốn, giống cây trồng, vật nuôi, kiến thức làm ăn và các điều kiện sản
xuất, góp phần tạo điều kiện cho hội viên khó khăn vươn lên phát triển kinh tế và có trên 70% hộ hội
viên có mức khá trở lên. Hội và hội viên tham gia tích cực tham gia xây dựng Quỹ “đền ơn đáp
nghĩa”, Quỹ “Vì người nghèo” và các hoạt động từ thiện, nhân đạo và thực hiện tốt cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”.
Các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp có nhiều cố gắng trong xây dựng tổ chức, nâng cao chất
lượng hoạt động, đa dạng hóa các loại hình hoạt động, tập hợp hội viên, thực hiện tốt các chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương góp phần vào sự phát triển chung
của huyện.
Trong 5 năm triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2005-2010
trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tình hình thời tiết bất lợi, giá cả tiêu dùng tăng
cao do tác động của lạm phát. Nhưng với sự nổ lực và quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân toàn
huyện, Cam Lộ đã đạt được kết quả quan trọng trên các lĩnh vực. Tuy vậy, nền kinh tế có chuyển
dịch đúng hướng nhưng tốc độ tăng trưởng chưa cao và chưa thực sự bền vững, một số chỉ tiêu chủ

143
yếu chưa đạt kế hoạch đề ra; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa
còn chậm, chưa tạo được bước đột phá mạnh mẽ cho toàn bộ nền kinh tế. Việc làm và thu nhập của
người dân vẫn chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp nhưng năng suất, giá trị cây trồng vật nuôi
chưa cao. Quy mô sản xuất trên các lĩnh vực kinh tế còn nhỏ lẻ, hiệu quả sản xuất của các thành phần
kinh tế cũng như khả năng cạnh tranh thấp.Phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở một số nơi chất
lượng vẫn chưa cao. khả năng huy động nguồn lực để đầu tư cho lĩnh vực văn hóa xã hội còn hạn
chế. Công tác giải quyết việc làm chưa thực sự bền vững.
Chất lượng của lực lượng vũ trang so với yêu cầu nhiệm vụ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Hoạt động của các loại tội phạm còn diễn biến phức tạp.
Việc nắm bắt diễn biến tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân có lúc, có nơi thiếu
thiếu chủ động để định hướng dư luận xã hội đối với một số vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Công tác
phát triển đảng viên ở khu vực nông thôn còn hạn chế.Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp,
nhất là ở cơ sở chưa thực sự phát huy vai trò, quyền hạn, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, khả
năng lập và hoạch định các mục tiêu, giải pháp để tạo chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế -
xã hội ở mỗi địa phương.Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân còn thiếu sáng tạo. Việc

144
nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân còn thiếu kịp thời; công tác tập hợp quần chúng vào tổ
chức đạt tỷ lệ chưa cao.
Giai đoạn 2005-2010, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Cam Lộ đã nỗ lực phấn đấu, phát huy
tinh thần đoàn kết và giành được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Năng lực lãnh đạo
của tổ chức Đảng được nâng lên; bộ máy chính quyền các cấp được củng cố. Sức mạnh khối đại
đoàn kết trong Đảng và toàn dân được tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định. Kinh tế có bướctăng
trưởng khá; cơ cấu kinh tếtừng bước chuyển dịch đúng hướng...Văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ. Đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới... Quốc
phòng, an ninh không ngừng được cũng cố, tăng cường. Việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đạt được những kết quả quan trọng bước đầu. Nhiều chỉ
tiêu quan trọng do Đại hội XII đề ra đã đạt và vượt. Đặc biệt, cấp ủy, chính quyền, mặt trận, các tổ
chức chính trị - xã hội, các ban ngành từ huyện đến cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và có nhiều
giải pháp hiệu quả trong điều hành thực hiện, kiểm tra, đôn đốc, tạo điều kiện thu hút các nguồn vốn
đầu tư. Nhân dân tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, đoàn kết, đồng thuận, khắc phục khó
khăn, tích cực đẩy mạnh sản xuất kinh doanh thi đua thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương.

145
146
Chương III
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ,
PHÁT HUY SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN,
KHAI THÁC HIỆU QUẢ TIỀM NĂNG, LỢI THẾ ĐƯA CAM LỘ PHÁT
TRIỂN TOÀN DIỆN VÀ BỀN VỮNG (2010-2015)

I. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ HUYỆN LẦN THỨ XIV

Thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 04/8/2009 của Bộ Chính trị và các kế hoạch, văn bản
hướng dẫn của cấp trên về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng, ngày 25/11/2009, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Kế hoạch số 34-KH/HU về triển khai
đại hội các tổ chức cơ sở đảng tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2010-
2015. Trong đó, Ban Thường vụ Huyện ủy chọn 02 đơn vị đại hội điểm là Đảng bộ xã Cam Chính và

147
Đảng bộ Công an huyện. Thông qua công tác chỉ đạo và tổ chức đại hội điểm để rút ra những ưu
điểm, tồn tại để chỉ đạo đại hội các tổ chức cơ sở đảng đạt kết quả cao.
Từ ngày 12 đến ngày 14/8/2010, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ XIV, nhiệm kỳ
2010-2015 được tổ chức tại thị trấn Cam Lộ. Về dự đại hội có 225 đại biểu, đại diện cho 1.600 đảng
viên sinh hoạt tại 44 tổ chức cơ sở đảng trong toàn huyện. Đại hội vui mừng được đón đồng chí Lê
Hữu Phúc, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, đồng chí
Thái Vĩnh Liệu, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Đức Cường, Phó Bí thư, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cùng các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đến dự và chỉ đạo Đại hội.
Đại hội xác định chủ đề: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy
sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế đưa Cam Lộ phát triển
toàn diện và bền vững”.
Đại hội tập trung thảo luận, đóng góp ý kiến các dự thảo Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng; Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV; kiểm
điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIII; xác định mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển giai đoạn 2010-2015; bầu Ban Chấp hành Đảng bộ

148
huyện khóa XV và Đoàn đại biểu dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV.
Đại hội đề ra phương hướng, mục tiêu tổng quát nhiệm kỳ 2010-2015: Phát huy sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống chính trị; tập trung khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển;
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng dần tỉ trọng công
nghiệp - thương mại, dịch vụ, chú trọng đầu tư phát triển nông nghiệp toàn diện; giải quyết các vấn
đề xã hội; bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị; tiếp tục nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; tăng cường hiệu lực, hiệu quả
quản lý, điều hành của các cấp chính quyền; phát huy vai trò của Mặt trận các đoàn thể nhân dân, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng dân chủ, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước để xây
dựng quê hương.
Các chỉ tiêu cụ thể đến năm 2015 được Đại hội xác định là: Tăng trưởng kinh tế bình quân hàng
năm 12 -13%; trong đó: giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 7 - 8%; công nghiệp - xây dựng tăng 15 -
16%; thương mại - dịch vụ tăng 18 -19%. Tỷ trọng các ngành nông nghiệp - công nghiệp xây dựng,
thương mại, dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế đến năm 2015 là: 37% - 36% - 27%.
Tổng sản lượng lương thực có hạt 13.000 - 13.500 tấn; trong đó, thóc: 12.500 - 13.000 tấn. Thu
nhập bình quân đầu người đến năm 2015 đạt 20 triệu đồng/năm. Duy trì tỷ lệ tăng dân số tự nhiên

149
hàng năm ở mức 1%. Tỷ lệ trường học đạt chuẩn Quốc gia: Mầm non 80%; Tiểu học: 100%, trong
đó 60% mức độ II; Trung học cơ sở: 100%. Duy trì 100 % xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế; hạ tỷ lệ trẻ
em đưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống dưới 14%. Giải quyết việc làm hàng năm từ 600-700 lao động.
Giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm 2-3%.
Phấn đấu đến năm 2015 hoàn thành quy hoạch xây dựng nông thôn mới ở các xã thị trấn và có 2
đơn vị đạt chuẩn. Phấn đấu có từ 3 đến 4 xã, thị trấn được công nhận điển hình văn hoá. Tỉ lệ số hộ
sử dụng nước hợp vệ sinh 85%. Phấn đấu xây dựng từ 1 đến 2 xã, thị trấn vững mạnh toàn diện tiêu
biểu về quốc phòng - an ninh.
Hàng năm phát triển đảng viên từ 8-10% so với tổng số đảng viên trong Đảng bộ. Đến năm
2015, tất cả các thôn, bản, khu phố đều có chi bộ Đảng. Phấn đấu 3 - 5 % cán bộ chủ chốt cấp huyện
có trình độ sau đại học; 40 - 50% cán bộ chủ chốt và công chức cấp xã, thị trấn có trình độ đại học.
Phấn đấu hàng năm 70-80% tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, không có tổ chức cơ sở đảng
yếu kém.
Nhằm phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra, Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện lần thứ XIV nhiệm kỳ 2010-2015 đưa ra nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu: Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung phát triển nông nghiệp toàn diện và bền vững theo hướng đa

150
dạng hoá gắn với vùng chuyên canh. Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp xây dựng, thương
mại dịch vụ, chú trọng các ngành, nghề có lợi thế và tiềm năng lớn để tạo sự đột phá trong chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Phát huy tiềm lực trong nhân dân, thu hút các nguồn lực hỗ trợ để đầu tư cơ sở
vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIV, nhiệm kỳ 2010-2015 gồm 37 ủy viên;
bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV gồm 21 đại biểu chính thức và 01
đại biểu dự khuyết.
Tại kỳ họp thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIV đã bầu Ban Thường vụ Huyện ủy
gồm 11 đồng chí: Nguyễn Công Phán, Nguyễn Thanh Bảo, Nguyễn Xuân Biểu, Ngô Quang Chiến,
Nguyễn Văn Đông, Đào Mạnh Hùng, Phan Ngọc Lương, Đào Mạnh Hùng, Nguyễn Ký Ngọc, Lê
Hồng Nhạn, Hoàng Bá Tiệu. Đồng chí Nguyễn Công Phán, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện tiếp tục được Đại hội bầu giữ chức Bí thư Huyện ủy. Đồng chí Nguyễn Thanh Bảo được
bầu giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy. Ban Chấp hành đã tiến hành bầu Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy
khóa XIV gồm 5 đồng chí. Đồng chí Hoàng Bá Tiệu - Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy giữ chức
Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XV nhiệm kỳ 2010-2015 diễn ra từ ngày24 đến

151
ngày 26/9/2010, đồng chí Nguyễn Công Phán, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
Cam Lộ được đại hội bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV, nhiệm kỳ 2010-2015.
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ XIV đánh dấu bước phát triển mới trong chặng
đường đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn. Thành công của đại hội là nguồn cổ vũ, động viên to lớn, tạo nên sức mạnh tổng hợp để Đảng
bộ và nhân dân toàn huyện thi đua thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng
- an ninh và công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng
trên địa bàn huyện giai đoạn 2010-2015.

II. ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA - XÃ HỘI, CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, AN
NINH

1. Nền kinh tế phát triển khá toàn diện; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới đạt kết quả tích cực về tiến độ và tính bền vững

Đảng bộ và nhân dân huyện Cam Lộ triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần
thứ XIV, nhiệm kỳ 2010-2015 trong bối cảnh có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn:

152
tác động của tình hình khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới và khu vực, lạm phát tăng
nhanh, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, biến đổi khí hậu, thiên
tai, dịch bệnh... ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Trong bối cảnh
khó khăn chung đó, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã kịp thời điều chỉnh nhiệm vụ và giải pháp
phát triển kinh tế - xã hội trên cả nước. Chính phủ ban hành chính sách cắt giảm đầu tư công; tăng
cường quản lý ngân sách nhà nước; điều chỉnh chính sách thu linh hoạt, phù hợp, góp phần tháo gỡ
khó khăn của đất nước, tạo sự đồng thuận, tin tưởng của các tầng lớp nhân dân.
Bám sát sự chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện kịp thời ban
hành Chương trình hành động số 15-CTr/HU, ngày 25/7/2011 về tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Nghị quyết Đảng bộ huyện
lần thứ XIV và nhiều chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch, đề án trên các lĩnh vực nhằm lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Trên lĩnh vực nông nghiệp, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIV chủ trương: Phát triển
nông nghiệp toàn diện và bền vững theo hướng đa dạng hóa gắn với vùng chuyên canh để sản xuất
hàng hóa; đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất; lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi
có năng xuất, chất lượng cao, hình thành các vùng sản xuất giống lúa, lạc bảo đảm cung ứng tại

153
chỗ...”1. Cụ thể hóa chủ trương, Đảng bộ huyện ban hành Nghị quyết số 01-NQ/HU, ngày 14/7/2011
về “Nâng cao hiệu quả kinh tế vùng lạc và thí điểm mô hình phục hồi vườn tiêu giai đoạn 2011-
2015”; Kết luận số 28-KL/HU, ngày 25/11/2011 về tiếp tục thực hiện các nghị quyết chuyên đề khóa
XIII về “Cải tạo và phát triển chăn nuôi bò giai đoạn 2006-2010” và “Phát triển cây cao su giai đoạn
2008-2010”; chỉ đạo bố trí cơ cấu cây trồng vật nuôi theo nhu cầu thị trường, xây dựng vùng chuyên
canh nông sản chủ lực, từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi gắn với tăng cường các biện
pháp thâm canh, nâng cao năng suất; sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ, nâng cao giá trị sản phẩm
hàng hóa nông nghiệp địa phương.
Quá trình thực hiện, dù đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ tư duy làm ăn nhỏ lẽ, quảng
canh của một bộ phận nông dân, sản xuất nông nghiệp một số vùng còn manh mún và thiếu tính bền
vững; việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất chưa thực sự mạnh mẽ; vốn đầu tư kết cấu hạ
tầng nông nghiệp còn thấp..., song Ban Thường vụ Huyện ủy đã kịp thời chỉ đạo Ủy ban nhân dân
huyện và các ban, ngành, đoàn thể chủ động triển khai, xây dựng kế hoạch thực hiện có hiệu quả các
mục tiêu phát triển nông nghiệp mà nghị quyết đã đề ra. Kinh tế nông nghiệp, nông thôn từng bước
chuyển biến tích cực.

1
. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2010-2015, tr 49.
154
Diện tích gieo trồng lúa hàng năm ổn định khoảng 2.800 ha, trong đó đã quy hoạch vùng lúa chất
lượng cao 1.830 ha tại các xã Cam An, Cam Thanh, Cam Thủy, Cam Hiếu. Sản lượng lương thực có
hạt bình quân hàng năm đạt 14.060 tấn, năng xuất bình quân hàng năm đạt 47 tạ. Chú trọng cải tạo
đồng ruộng, giao thông nội đồng, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào thâm canh, tuyển chọn và đưa vào
sản xuất các bộ giống mới có năng xuất, chất lượng cao, từng bước bảo đảm an ninh lương thực.
Nhận thấy nhiều tiềm năng từ đất gò đồi, đất bãi bồi ven sông Hiếu, rất thuận lợi phát triển các
loại cây công nghiệp ngắn và dài ngày, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ban hành Nghị quyết số 01-
NQ/HU, ngày 14/7/2011 về “Nâng cao hiệu quả kinh tế vùng lạc và thí điểm mô hình phục hồi vườn
tiêu giai đoạn 2011-2015”. Nghị quyết xác định: “Tập trung chỉ đạo xây dựng vùng chuyên canh cây
lạc để tạo ra được sản phẩm hàng hoá có quy mô, giá trị cao, đồng thời thực hiện luân canh, xen vụ
bằng việc gieo trồng một số hoa màu, đậu đỗ khác bảo đảm phát triển bền vững trong sản xuất”.
Để sớm hình thành các vùng chuyên canh cây lạc, Đảng bộ huyện chỉ đạo mở rộng diện tích gieo
trồng; hướng dẫn người dân thực hiện xen canh, gối vụ với các loại cây trồng sắn, ngô, đậu đỗ; áp
dụng phủ bạt ni lông sau thâm canh, thay đổi mật độ gieo, tưới tiết kiệm nước..., xây dựng các mô
hình trình diễn về quy trình thâm canh, xen canh, xen vụ. Ngoài ra, bằng nhiều nguồn lực, huyện đã
tiến hành thủy lợi hóa trên 100 ha diện tích, góp phần nâng cao năng suất trên một đơn vị diện tích.

155
Kết quả, đến năm 2015, diện tích trồng lạc toàn huyện trên 700 ha, trong đó có 50 ha lạc giống chất
lượng cao; năng xuất bình quân đạt 20,8 tạ/ha, nổi trội có những vùng năng suất đạt 30 - 40 tạ/ha,
cho thu nhập từ 60 đến 80 triệu đồng/ha.
Đẩy mạnh phát triển cây hồ tiêu, Đảng bộ huyện chỉ đạo xây dựng các vùng nguyên liệu và xây
dựng thương hiệu tiêu Cùa thành vùng chuyên canh với diện tích hơn 400 ha. Tuy nhiên, do tình hình
dịch bệnh và diễn biến thời tiết phức tạp, những năm 2010 - 2011, diện tích cây hồ tiêu sụt giảm. Tập
trung đánh giá lại thực trạng canh tác, nguyên nhân sụt giảm diện tích, năng suất, Ban Thường vụ
Huyện ủy đã chỉ đạo rà soát lại quy hoạch, quy trình sản xuất. Ngành nông nghiệp huyện đã tổ chức
liên kết, huy động các nguồn lực từ các tổ chức, doanh nghiệp và người dân triển khai thí điểm 335
mô hình phục hồi. Từ hiệu quả việc triển khai thí điểm, các mô hình được nhân rộng, phát huy hiệu
quả với diện tích cây hồ tiêu được phục hồi trên 136 ha (2012), nâng diện tích hồ tiêu trên toàn huyện
lên 336,7 ha, cho năng suất cao hơn trước từ 4-6 tạ/ha; điển hình có những vườn tiêu đạt năng suất 30
tạ/ha tại xã Cam Chính. Từng bước khẳng định thương hiệu tiêu Cam Lộ, việc ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao chất lượng giống, xây dựng mẫu vườn tiêu sạch bệnh, chú trọng
quy trình thu hái, chế biến và bảo quản tiêu được chú trọng. Thực hiện liên kết “bốn nhà” Nhà nước -
Nhà khoa học - Nhà nông - Nhà doanh nghiệp trong quy trình trồng, chăm sóc và thu hoạch cây hồ

156
tiêu, Cam Lộ cũng đã tiến hành rà soát quy hoạch và xây dựng hệ thống thoát úng trên 2000m kênh
tiêu úng cho 20 ha vùng sản xuất tập trung.
Phát triển cây cao su tiểu điền, Đảng bộ huyện chỉ đạo xây dựng các vùng chuyên canh cây cao
su với quy mô phù hợp, hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông vào các cùng trồng cây cao su tập
trung có quy mô từ 100 ha trở lên; chú trọng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, sử dụng giống bảo đảm chất
lượng, giảm thiểu các hình thức phát triển cây cao su nhỏ lẽ, tự phát.... Diện tích cây cao su tiểu điền
có điều kiện tăng nhanh, từ năm 2010 đến 2015 toàn huyện đã trồng mới được 866,5 ha, nâng diện
tích cao su toàn huyện lên 4.243,6 ha năm 2015, tăng 2.276 ha so với năm 2008, vượt 746 ha so với
chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra; đến năm 2015 diện tích cao su đưa vào khai thác đạt 2.100 ha, cho
sản lượng 2.500 tấn/năm. Cam Lộ đã tiến hành quy hoạch và đầu tư kết cấu hạ tầng đến các vùng tập
trung trên 700 ha và thực hiện các chương trình chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, chương trình
đào tạo nghề cạo mũ cho người dân... Cây cao su trở thành một trong những loại cây trồng chủ lực
của huyện, mang lại nguồn thu nhập ổn định từ 1,5 đến 2 triệu đồng/tháng, đồng thời tạo công ăn
việc làm cho nhiều lao động ở địa phương.
Ngành chăn nuôi được chú trọng đầu tư về con giống vật nuôi, công tác thú y và hoạt động
khuyến nông, xây dựng mô hình trình diễn, các địa phương xây dựng quy hoạch bố trí khu vực sản

157
xuất thức ăn và xây dựng chuồng trại. Nhờ đó, ngành chăn nuôi phát triển khá đa dạng, đáng chú ý
có các con nuôi mới đang phát triển như đàn thỏ, dê, hươu nai, lợn rừng và nhím.
Tiếp tục đẩy mạnh cải tạo và phát triển chăn nuôi bò, ngày 25/11/2011, Ban Thường vụ Huyện
ủy ban hành Kết luận số 28-KL/HU về “tổng kết Đề án cải tạo và phát triển chăn nuôi bò giai đoạn
2006-2010”. Từ kết quả đạt được cũng như tiềm lực hiện có của địa phương, Đảng bộ huyện chủ
trương tiếp tục duy trì việc thực hiện Đề án trong giai đoạn 2011-2015. Với sự vào cuộc quyết liệt
của ngành nông nghiệp huyện, chú trọng kiểm soát dịch bệnh trong chăn nuôi, tăng cường tập huấn
cho nông dân bằng các mô hình thực tế, nhân rộng các mô hình hợp tác chăn nuôi trong nông thôn,
thực hiện tốt công tác liên kết “bốn nhà” theo chuỗi sản xuất để tìm đầu ra tiêu thụ sản phẩm cho
nông dân”. Người dân Cam Lộ đã đổi mới cách thức chăn nuôi, mạnh dạn đầu tư phát triển trang trại,
gia trại để mở rộng quy mô đàn gia súc gia cầm. Chất lượng đàn bò hàng năm tăng lên rõ rệt, tỉ lệ bò
lai Sind từ 17% năm 2010 tăng lên 55% năm 2015; từ năm 2010 đến 2015, đã thụ tinh nhân tạo 2.160
con bò cái, có 1.512 con bê lai ra đời;nâng tỷ trọng ngành chăn nuôi lên 38% năm 2015 trong cơ cấu
sản xuất nông nghiệp.
Từng bước khai thác thế mạnh các tiểu vùng, Cam Lộ triển khai xây dựng các mô hình: nuôi thỏ,
trồng cỏ thâm canh tập trung kết hợp thức ăn tinh nuôi bò theo hướng hàng hóa, trồng đậu xanh cao

158
sản vụ hè - thu, khảo nghiệm và sản xuất các giống lúa mới chất lượng, khảo nghiệm giống sắn ngắn
ngày chất lượng.... Các mô hình đã góp phần thay đổi nhận thức cho người dân, từng bước chuyển
đổi tập quán canh tác tự túc, tự cấp sang các phương thức sản xuất hàng hóa.
Tận dụng diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản, Cam Lộ đã nuôi cá nước ngọt thâm canh,
bán thâm canh, xen canh lúa - cá, sen - cá mang lại hiệu quả kinh tế. Đến cuối năm 2015, diện tích
nuôi cá ổn định 131,8 ha, tổng sản lượng 284,8 tấn.
Ngành lâm nghiệp có nhiều điều kiện phát triển với lợi thế diện tích đất nông nghiệp hơn 18.000
ha, chiếm hơn 53% diện tích đất tự nhiên trên toàn huyện. Nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ huyện tập
trung chỉ đạo hoàn thành quy hoạch “Bảo vệ và phát triển rừng bền vững giai đoạn 2011-2020”.
Công tác trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng gắn với việc giao đất, giao rừng cho hộ trồng rừng để
vừa phát triển vừa bảo vệ rừng đạt những kết quả, góp phần cải thiện kinh tế cho hộ nông dân cũng
như bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường sinh thái. Tiếp nhận và có kế hoạch quản
lý, sử dụng chặt chẽ, hiệu quả trên 6.000 ha đất lâm nghiệp do các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn
giao. Bình quân hàng năm huyện Cam Lộ trồng mới trên 400 ha rừng tập trung theo hướng thâm
canh, đưa năng suất gỗ rừng trồng từ 30 tấn/ha năm 2010 lên 65 tấn/ha năm 2015. T ổng diện tích
rừng trên địa bàn đạt 15.500 ha; Tỷ lệ che phủ rừng tăng từ 47% năm 2010 lên 51% năm 2015.

159
Hưởng ứng phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, cấp ủy, chính
quyền, mặt trận và các đoàn thể từ huyện đến cơ sở tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ,
xác định xây dựng nông thôn mới là hoạt động có điểm khởi đầu nhưng không có điểm kết thúc với
khẩu hiệu “Xây dựng quê hương trở thành miền quê đáng sống”.
Để nhanh chống hiện thực chủ trương, Ban Thường vụ Huyện ủy thành lập Ban chỉ đạo, Ban
quản lý xây dựng Nông thôn mới các cấp. Ủy ban nhân dân huyện ban hành Quyết định số 2147/QĐ-
UBND ngày 04/11/2010 về việc thành lập Thường trực Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, trong đó, đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
làm Trưởng ban; Ban Thường vụ Huyện uỷ ban hành Kết luận số 24-KL/HU, ngày 11/7/2011 về chỉ
đạo đẩy nhanh tiến độ xây dựng kế hoạch, đề án Quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới. Quyết liệt
trong chỉ đạo thực hiện, từ năm 2010 đến 2015, Ban Thường vụ Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện
đã xây dựng và ban hành 09 đề án trình Hội đồng nhân dân huyện ra nghị quyết thông qua để thống
nhất lộ trình, kế hoạch, giải pháp triển khai thực hiện.
Là địa phương còn nhiều khó khăn, song với quyết tâm cao trong xây dựng nông thôn mới,
huyện chủ trương dựa vào nội lực là chính, không để nợ đọng cơ bản, không huy động quá sức dân,
chỉ đạo đầu tư từng bước, hoàn thiện kết cấu hạ tầng sản xuất, cơ sở thiết yếu sinh hoạt ở nông thôn,

160
nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Trong chỉ đạo thực hiện có sự phân công trách
nhiệm và ký cam kết giữa Bí thư Huyện ủy với Bí thư đảng ủy các xã, thị trấn; Chủ tịch ủy ban nhân
dân huyện với Chủ tịch ủy ban nhân dân các xã, thị trấn, trưởng các phòng, ban . Quyết tâm của Đảng
bộ được nhân dân hưởng ứng tích cực, từ năm 2010 đến 2015, Cam Lộ đã huy động gần 800 tỷ đồng
từ các nguồn để phát triển sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang nông thôn. Đến năm 2015,
tổng tiêu chí nông thôn mới toàn huyện đạt 114 tiêu chí, bình quân mỗi xã đạt 14,5 tiêu chí; đến
tháng 12/2015, xã Cam An đạt chuẩn nông thôn mới.
Kinh tế tập thể có bước phát triển. Thực hiện Chương trình hành động số 71-CTHĐ/TU, ngày
11/7/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa XV về “thực hiện Kết luận số 56-KL/TW ngày
21/2/2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”, Ban Thường vụ Huyện ủy tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể đúng hướng, hiệu quả. Đến năm 2015, toàn huyện có 17/18 hợp tác
xã được chuyển đổi theo luật hợp tác xã và xây dựng phương án kinh doanh phù hợp, có tính khả thi,
hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, hỗ trợ tích cực cho kinh tế hộ phát triển, tăng thu nhập cho xã
viên; đã thành lập thêm 25 tổ hợp tác khuyến công, khuyến nông, 347 tổ tín dụng, với mục đích liên
kết, tương trợ nhau trong quá trình sản xuất.

161
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiêp - thương mại dịch vụ phát triển theo hướng thu hút đầu tư các
ngành nghề có lợi thế ở địa phương. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/HU, ngày 15/5/2009
của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIII về phát triển công nghiệp - thương mại đến năm 2020
và Quyết định số 1077/QĐ-UBND, ngày 04/6/2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh về “Phê duyệt quy
hoạch phát triển công nghiệp - thươngmại huyện Cam Lộ đến năm 2020”, Ban Thường vụ Huyện ủy
chỉ đạo Ủy ban nhân dân huyện xây dựng quy hoạch phát triển công nghiệp - thương mại đến năm
2015, định hướng đến năm 2020; hoàn thành quy hoạch chi tiết ba cụm công nghiệp Cam Thành,
Cam Hiếu, Cam Tuyền với diện tích 145 ha;đề ra các giải pháp tích cực, hiệu quả nhằm phát triển
công nghiệp, thương mại trên địa bàn. Đến năm 2015, giá trị sản xuất công nghiệp tiểu thủ công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng đạt 300 tỉ đồng. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng đạt 17,2% (kế hoạch 15-16%).
Tập trung khai thác thế mạnh của địa bàn nằm trên tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây, Ban
Chấp hành Đảng bộ huyện chỉ đạo phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế của địa phương, mạnh
dạn đi tắt đón đầu phát triển một số lĩnh vực, sản phẩm công nghệ cao đủ sức cạnh tranh trên thị
trường. Bằng nhiều giải pháp tích cực, linh hoạt trong đầu tư kết cấu hạ tầng thiết yếu cho các cụm
công nghiệp, giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch, giải quyết nhanh gọn các thủ tục hành chính...,

162
đến năm 2015, Cam Lộ đã thu hút được 25 dự án sản xuất công nghiệp với tổng số vốn đăng ký trên
733,8 tỷ đồng, trong đó 17 dự án đã đi vào hoạt động có số vốn 481 tỷ đồng, nâng tổng số cơ sở sản
xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn lên 486 cơ sở và 92 doanh nghiệp năm 2015, sử
dụng 2.250 lao động.
Hệ thống kết cấu hạ tầng tại các cụm công nghiệp được quan tâm đầu tư. Đến năm 2015, huyện
Cam Lộ đã duy trì hoạt động ổn định tại 03 cụm công nghiệp: Cụm công nghiệp Cam Thành có tổng
diện tích 25 ha, cụm công nghiệp Cam Hiếu diện tích 70 ha và cụm công nghiệp Cam Tuyền với diện
tích 54 ha. Riêng cụm công nghiệp Cam Thành được đầu tư xây dựng hoàn chỉnh với tổng số vốn
đầu tư là 14,6 tỷ đồng. Cụm công nghiệp Cam Hiếu hoàn thiện về mặt bằng, xây dựng 4 tuyến đường
giao thông với tổng chiều dài 1.553 m với tổng số vốn đầu tư là 14,993 tỷ đồng. 3 cụm công nghiệp
trên địa bàn huyện Cam Lộ đã có 21 dự án đăng ký đầu tư, trong đó có 9 dự án đi vào hoạt động với
tổng vốn đầu tư khoảng 504 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 360 lao động tại địa phương.
Điểm nổi bật, các dự án sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp được đầu tư theo hướng sử
dụng nguồn nguyên liệu trên địa bàn nhằm tiêu thụ sản phẩm nông sản, lâm sản cho địa phương như:
chế biến sản phẩm cao su, hồ tiêu, sắn, lạc, gỗ rừng trồng, vật liệu không nung... Trong đó nhiều
doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư máy móc, công nghệ hiện đại, bảo đảm môi trường bền vững trong

163
quá trình phát triển sản xuất, quan tâm sử dụng nguồn lao động địa phương và đóng góp không nhỏ
vào ngân sách, hoạt động an sinh xã hội trên địa bàn huyện. Điển hình một số nhà máy có vốn đầu tư
tương đối lớn như: nhà máy tinh bột sắn An Thái của Công ty Cổ phần Thành An, công suất 100 tấn
tinh bột/ngày, số vốn 145 tỷ đồng; nhà máy gạch không nung của Công ty Cổ phần Thiên Tân, số
vốn 20 tỷ đồng; nhà máy cao su Cam Lộ, công suất 5.000 tấn/năm, số vốn đầu tư 70 tỷ đồng; dự án
sản xuất viên nén năng lượng với số vốn đầu tư 50 tỷ đồng của Công ty Cổ phần thương mại Quảng
Trị...
Thương mại - dịch vụ phát triển ngày càng đa dạng với nhiều loại hình, ngành hàng kinh doanh
khác nhau. Các cơ sở kinh doanh thương mại, dịch vụ không chỉ tập trung ở khu vực thị trấn huyện
lỵ, chợ Cùa, Ngã Tư Sòng... mà còn vươn đến các thôn, vùng xa góp phần lưu thông hàng hóa, nhất
là tiêu thụ nông sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và phát triển sản xuất của nhân dân. Các chợ
được đầu tư xây dựng và bố trí tương đối hợp lý, trong đó có nhiều chợ đầu tư khá quy mô như chợ
trung tâm huyện, chợ Ngã Tư Sòng, chợ Cùa, tạo điều kiện cho nhân dân kinh doanh buôn bán thuận
lợi. Đến năm 2015, huyện Cam Lộ đã hoàn thành việc quy hoạch mạng lưới chợ và các điểm dịch vụ
trung tâm xã; có 2.246 cơ sở sản xuất kinh doanh thương mại - dịch vụ thu hút gần 7.000 lao động tại
địa phương.

164
Việc quản lý và điều hành ngân sách được thực hiện chặt chẽ, đúng quy định, kết hợp tốt giữa
khai thác với duy trì, bồi dưỡng và tạo nguồn thu, tổng thu ngân sách trên địa bàn tăng dần qua các
năm. Tốc độ tăng bình quân 5 năm (2010-2015) là 11%/năm. Chi ngân sách thực hiện theo đúng kế
hoạch, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, ưu tiên chi phát triển sản xuất và dân sinh; thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng trong chi tiêu ngân sách.
Hoạt động ngân hàng đáp ứng cơ bản nhu cầu vốn phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn,
nhất là cho vay đối với các hộ sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo, hộ cận nghèo... Tổng dư nợ cho vay
bình quân hàng năm của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện là 19%, ngân hàng
chính sách - xã hội huyện là 11%. Công tác thẩm định, kiểm tra sử dụng vốn đúng mục đích và thu
hồi vốn được chú trọng, góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện chính sách xã
hội, giảm thiểu tình trạng nợ quá hạn.
Quy hoạch, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng được quan tâm triển khai. Đảng bộ huyện tranh thủ
tối đa sự hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh vào quy hoạch đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông,
thủy lợi, giáo dục, y tế, hạ tầng, điện nước và cụm công nghiệp với tổng mức vốn đầu tư toàn xã hội
giai đoạn giai đoạn 2011-2015 đạt 1.425 tỷ đồng. Công tác xây dựng quy hoạch được chú trọng. Cam
Lộ đã hoàn thành quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội đến năm 2020, quy hoạch xây dựng nông thôn

165
mới, quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, quy hoạch chi tiết phía Nam thị trấn Cam Lộ, quy hoạch
các cụm công nghiệp - dịch vụ, điều chỉnh quy hoạch chung thị trấn Cam Lộ. Các đề án quy hoạch
đã phát huy được hiệu quả, làm cơ sở định hướng mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn, phục vụ
tốt cho việc đầu tư xây dựng, đón đầu các dự án đầu tư của tỉnh và quốc gia như dự án Đường cao
tốc Cam Lộ - Túy Loan, đường Xuyên Á, đường Nam Cam Lộ - Tây Triệu Phong.
Tiếp tục thực hiện chủ trương nhựa hóa, bê tông hóa giao thông nông thôn theo phương thức
“Nhà nước và nhân dân cùng làm”, đến năm 2015, toàn huyện nhựa hóa 70% tuyến đường huyện,
kiên cố hóa 85% tuyến đường xã, liên xã và 75% đường nông thôn.
Công tác quản lý về tài nguyên, môi trườngtiếp tục được quan tâm chỉ đạo. Đến năm 2015,
huyện Cam Lộ cơ bản hoàn thành quy hoạch sử dụng đất cấp huyện đến năm 2020; quy hoạch sử
dụng đất các xã, thị trấn giai đoạn 2012-2020 và quy hoạch bảo vệ môi trường đến năm 2020, định
hướng đến năm 2025. Nhiệm vụ quản lý và sử dụng quỹ đất được quản lý chặt chẽ, nhất là các quỹ
đất của các tổ chức bàn giao cho địa phương để xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất, nâng
cao đời sống của nhân dân. Tăng cường kiểm tra hoạt động các cơ sở sản xuất, trang trại chăn nuôi,
các khu vực sụt lún, sạt lỡ, chú trọng đánh giá tác động của môi trường đối với các dự án, công trình

166
xây dựng. Xây dựng mô hình thu gom và xử lý rác thải các xã và xây mới bãi rác tập trung của huyện
nên đã hạn chế được tình trạng ô nhiễm môi trường.
Lĩnh vực khoa học công nghệ đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Từ năm 2010 đến 2015,
nhiều tiến bộ khoa học - công nghệ trên các lĩnh vực được áp dụng rộng rãi; tập trung nghiên cứu
loại giống mới, công nghệ mới nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Nhiều mô hình, sản
phẩm của huyện có ưu thế về chất lượng, hiệu quả kinh tế đã và đang được xây dựng và phát triển,
như: Mô hình phục hồi vườn tiêu ở xã Cam Chính và Cam Nghĩa; công nghệ làm bún ở làng Cẩm
Thạch, Cam An; mô hình trồng lạc phủ bạt ni long ở xã Cam Tuyền... Huyện cũng đã thực hiện có
hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành, góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý của chính quyền các cấp.
2. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục
được cải thiện

Lãnh đạo nhân dân xây dựng và phát triển văn hóa - xã hội trong bối cảnh có nhiều thuận lợi,
khối đại đoàn kết toàn dân và sự đồng thuận xã hội ngày càng chặt chẽ, thống nhất; đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân huyện nhà ngày một nâng cao; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
được đẩy mạnh làm thay đổi một cách căn bản bộ mặt quê hương.
167
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ XIV xác định: “Thực hiện tốt các chính sách
xã hội, chăm lo sự nghiệp giáo dục và đào tạo, bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Tích
cực đầu tư, hỗ trợ giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Đẩy mạnh xã hội hóa để xây dựng và bảo
tồn các thiết chế văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần và mức hưởng thụ văn hóa
của nhân dân, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội” 1.
Để nhanh chống đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Cam Lộ
đã triển khai nhiều giải pháp phù hợp, thiết thực, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện trong đời
sống văn hóa - xã hội, hình thành nhiều phong trào văn hóa sôi nổi, thu hút đông đảo quần chúng
tham gia, góp phần vào việc giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với cuộc vận động “Toàn dân
chung sức xây dựng nông thôn mới”được chú trọng. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã ban hành Kết
luận số 42-KL/HU, ngày 11/9/2012 về tiếp tục nâng cao chất lượng cuộc vận động xây dựng đời
sống văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới; Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt quy hoạch xây

1
. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Cam Lộ, Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2010-
2015, tr 55.
168
dựng nông thôn mới cho 8 xã giai đoạn 2012-2020, trong đó có chính sách đầu tư cho văn hóa - thể
thao gần 25 tỷ đồng. Đến năm 2015, 4/9 xã, thị trấn đạt chuẩn đơn vị điển hình văn hóa; 168/172
làng, khu phố, cơ quan đơn vị được công nhận đạt chuẩn văn hóa. 11.127 gia đình được công nhận
gia đình văn hóa, 100% làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, trường học đã xây dựng quy ước, hương
ước về thực hiện nếp sống văn hóa, giữ gìn vệ sinh công cộng, bảo vệ môi trường, cảnh quan xanh -
sạch - đẹp.
Thông qua các phong trào xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng làng, bản, khu phố
không có tội phạm, không có người sinh con thứ 3 trở lên... đã tác động tích cực góp phần xóa bỏ các
hủ tục lạc hậu, các tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Việc thực hiện
nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang về cơ bản thực hiện tốt; công tác quản lý và tổ chức lễ
hội có nhiều chuyển biến tích cực, điển hình làng Quật Xá (Cam Thành), Bảng Sơn (Cam Nghĩa),
Mai Đàn, Mai Lộc (Cam Chính), khu phố 2 (thị trấn Cam Lộ)... góp phần xây dựng gia đình, cộng
đồng và khu dân cư phát triển bền vững, xây dựng cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ, có nếp
sống văn minh, môi trường văn hóa lành mạnh; nâng mức hưởng thụ về văn hóa cho các tầng lớp
nhân dân.

169
Việc bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa được quan tâm triển khai. Hệ thống các thiết
chế văn hóa từ huyện đến các thôn, khu phố được quan tâm đầu tư xây dựng. Với phương châm
“Nhà nước và nhân dân cùng làm”, từ năm 2010 đến năm 2015 huyện Cam Lộ đã huy động các
nguồn lực đầu tư xây dựng, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa như: Đề án đầu tư khu công viên giải
trí Bàu Ra, di tích Nhà tằm Tân Tường kết hợp nhà trưng bày truyền thống của huyện, căn cứ Tân
Sở, đền thờ Bác Hồ tại thôn Mai Đàn, xã Cam Chính.... Đến năm 2015, có 90% số thôn, khu phố
trong toàn huyện xây dựng được nhà văn hóa - trung tâm học tập cộng đồng.
Phong trào toàn dân tham gia thể dục thể thao có xu hướng phát triển trong từng cộng đồng và
mỗi gia đình.
Chú trọng bảo tồn và phát huy, phát triển văn hóa dân tộc thiểu số, Đảng bộ huyện chỉ đạogắn
với việc xây dựng đời sống văn hóa mới, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, thực hiện tốt
phương châm “xây đi đôi với chống” trong đó lấy “xây” làm chính. Bản Chùa là bản duy nhất của
huyện Cam Lộ có 100% người dân tộc Vân Kiều (với 66 hộ và 286 nhân khẩu), đến năm 2015, bản
đã ra mắt và được công nhận Bản văn hóa cấp huyện. Được sự đầu tư của Nhà nước, huyện đã xây
01 trường học và 01 nhà sàn làm trung tâm văn hóa và học tập cộng đồng cho bà con sinh hoạt. Bên

170
cạnh đó, huyện chú trọng việc phát triển kinh tế - xã hội cho đồng bào bảo đảm nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần.
Hệ thống thông tin truyền thông được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ, nhân lực và
nâng cao chất lượng hoạt động. Đến năm 2015, hệ thống Đài Truyền thanh từ huyện đến các xã, thị
trấn được quan tâm xây dựng, củng cố và phát triển; 100% xã, thị trấn hoàn thành việc xây dựng
trạm thu phát sóng FM, thành lập và đưa trạm phát thanh cơ sở đi vào hoạt động có nền nếp, hiệu
quả. Hầu hết các hộ gia đình có máy thu hình, 100% khu dân cư đều được phủ sóng điện thoại di
động và hệ thống cáp quang để kết nối internet. Đội ngũ phóng viên, cộng tác viên của Đài Truyền
thanh huyện được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất chính trị và năng lực chuyên
môn. Huyện đã xây dựng Trang thông tin điện tử huyện để điều hành công tác và phản ánh các hoạt
động của địa phương.
Chất lượng công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân được nâng lên. Các chương
trình mục tiêu quốc gia về y tế được triển khai đồng bộ và đạt nhiều kết quả. Công tác y tế dự phòng
được triển khai thực hiện tốt, kịp thời khống chế, ngăn chặn ở mức thấp nhất sự xuất hiện và lây lan
các loại dịch bệnh. Bệnh viện đa khoa huyện và các trạm y tế được đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết
bị y tế; chất lượng và số lượng đội ngủ cán bộ y tế được nâng lên. Năm 2015, toàn huyện có 7/9 xã

171
đạt chuẩn quốc gia về y tế, 100% số trạm y tế trên toàn huyện có bác sĩ, 100% thôn, khu phố có nhân
viên y tế cộng đồng. 85% nhân dân tham gia bảo hiểm y tế. Các chương trình mục tiêu quốc gia về
dân số, gia đình và trẻ em được triển khai hiệu quả, góp phần ổn định quy mô dân số, duy trì tỉ lệ
tăng dân số tự nhiên ở mức 1% năm 2015. Đến năm 2015, toàn huyện đã xây dựng được 36 làng
không sinh con thứ 3 trở lên, duy trì tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới 1%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở
trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 17,4% năm 2010 xuống còn dưới 8% năm 2015. Tỷ lệ hộ dân dùng nước
hợp vệ sinh đạt 97%.
Giáo dục đào tạo tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Chương trình hành động số 15-
CTr/HU, ngày 25/7/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ XIV xác định: Phát triển toàn
diện sự nghiệp giáo dục đào tạo; tập trung nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp học, ngành học,
chú trọng giáo dục văn hóa với giáo dục đạo đức cho học sinh. Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục một cách toàn diện bảo đảm đạt chuẩn và trên chuẩn. Tiếp tục đầu tư xây dựng
trường học đạt chuẩn quốc gia ở các cấp học, ngành học, phấn đấu: Mầm non 80%, Tiểu học 100%
(trong đó 60% mức độ II), Trung học cơ sở 100%; Trung học phổ thông 25%.
Triển khai thực hiện Chương trình hành động số 15-CTr/HU, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện chỉ
đạo các cấp, các ngành huy động tối đa các nguồn lực cùng chung tay chăm lo phát triển giáo dục,

172
tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, đáp ứng yêu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế.
Từ năm 2010 đến 2015, ngành Giáo dục - Đào tạo huyện Cam Lộ có những bước tiến vượt bậc, trong
đó nổi bật là phong trào xây dựng trường học đạt kiểm định chất lượng giáo dục và chuẩn quốc gia
gắn với mục tiêu xây dựng huyện nông thôn mới trở thành điểm sáng của Ngành Giáo dục tỉnh
Quảng Trị. Nhiều năm liên tục, huyện duy trì bền vững chương trình phổ cập tiểu học, trung học cơ
sở, đạt chuẩn phổ cập mầm non 5 tuổi và đang thực hiện phổ cập trung học phổ thông.
Cơ sở vật chất, chất lượng dạy và học được quan tâm; mạng lưới trường lớp được phân bố hợp
lý. Đến năm 2015, huyện Cam Lộ có 34 trường học, trong đó có 8/11 trường mầm non, 15/15 trường
tiểu học, 4/8 trường trung học cơ sở, có 90% trường học được kiên cố hóa và cao tầng, tỷ lệ trường
đạt chuẩn quốc gia là 88,2%. Chất lượng đội ngũ giáo viên được nâng lên rõ rệt (99,7% giáo viên đạt
chuẩn). Tỷ lệ học sinh thi đỗ tốt nghiệp các cấp hàng năm đều tăng (bình quân đạt 94%); tỷ lệ học
sinh giỏi đạt cấp tỉnh, quốc gia và thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng tăng. Công tác
xã hội hóa giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực cả về mặt nhận thức và hành động, góp phần nâng
cao dân trí, thúc đẩy giáo dục phát triển. 100% xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục
tiểu học đúng độ tuổi và duy trì phổ cập trung học cơ sở trong nhiều năm.

173
Thực hiện Chỉ thị số 04-CT/TU, ngày 17/8/2011 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “về việc tăng
cường lãnh đạo công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh”, Ban Chấp hành
Đảng bộ huyện ban hành Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, thực hiện tốt
công tác quản lý Nhà nước về đào tạo nghề, giải quyết việc làm, đẩy mạnh thực hiện công tác đào tạo
nghề và giáo dục, định hướng nghề nghiệp cho người lao động trên địa bàn, góp phần quan trọng
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực địa phương và chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp,
nông thôn, nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 20% năm 2015. Hàng năm, giải quyết việc làm mới
cho 800 lao động.
Chính sách xã hội, chăm sóc người có công với nước được quan tâm thực hiện. Việc giải quyết,
chỉ trả chế độ cho các đối tượng đúng, đủ, kịp thời, bảo đảm các đối tượng chính sách có cuộc sống
ổn định, bằng mức trung bình ở địa phương. Thực hiện cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” cùng
với sự hỗ trợ của các cấp, ngành và sự đóng góp ủng hộ của nhân dân, đến năm 2015, toàn huyện đã
huy động được hơn 7 tỷ đồng vào quỹ “Vì người nghèo”, đầu tư xây dựng 694 nhà đại đoàn kết cho
nhân dân. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” được thực hiện thiết thực, hiệu quả, quỹ “Đền ơn đáp
nghĩa” của huyện đã huy động đóng góp được 3,45 tỷ đồng, đầu tư xây dựng, sửa chữa 245 nhà tình
nghĩa với số tiền 5,94 tỷ đồng. Đảng bộ huyện thường xuyên quan tâm tiến hành nâng cấp, tôn tạo

174
các nghĩa trang liệt sỹ, tổ chức thăm hỏi, tặng quà các đối tượng chính sách, gia đình có công với
cách mạng trong các dịp lễ, tết, ngày thương binh liệt sỹ... Chính sách an sinh xã hội được quan tâm
chỉ đạo, giải quyết kịp thời, không để xảy ra tình trạng trùng lặp hoặc bỏ sót đối tượng. Đối tượng
bảo trợ xã hội được giải quyết đầy đủ chế độ theo quy định của Nhà nước. Hoạt động nhân đạo, từ
thiện được khuyến khích, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài địa phương tham gia
góp phần giúp đỡ những người gặp khó khăn, hoạn nạn, khơi dậy, động viên tinh thần tương thân,
tương ái trong các tầng lớp nhân dân.
Triển khai có hiệu quả Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 80/NQ-CP, ngày 19/5/2011 của Chính
phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011-2020; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015, Ủy ban nhân dân huyện tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện
đồng bộ các chính sách, giải pháp nên công tác giảm nghèo của huyện đạt được kết quả quan trọng.
Huyện đã mở 54 lớp đào tạo nghề cho gần 1.900 lao động; Ngân hàng chính sách xã hội huyện giải
ngân cho 2.103 hộ vay vốn ưu đãi với dư nợ trên 100 tỷ đồng. Từ nguồn vốn này các gia đình đã đầu
tư phát triển kinh tế, đưa nhiều loại cây trồng, con nuôi có giá trị cao vào sản xuất để nâng cao thu
nhập, xóa đói giảm nghèo. Các chính sách hỗ trợ về giáo dục, y tế, nhà ở cho người nghèo cũng được
quan tâm. Trong 5 năm (2010-2015) đã thực hiện hỗ trợ cho học sinh thuộc diện hộ nghèo, cận

175
nghèo và hộ dân tộc thiểu số với tổng kinh phí lên đến hàng chục tỷ đồng; mua bảo hiểm y tế cho
người nghèo, cận nghèo; cho các hộ nghèo được vay vốn xây dựng, sửa chữa nhà ở...Nhờ thực hiện
đồng bộ các giải pháp với quyết tâm cao của cấp ủy, chính quyền các cấp và người dân về công tác
giảm nghèo, tỉ lệ hộ nghèo toàn huyện giảm từ 18,37% năm 2011 xuống còn 6% năm 2015, giảm
bình quân 3%/năm.

III. TĂNG CƯỜNG TIỀM LỰC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH, ĐẢM BẢO TRẬT TỰ XÃ HỘI

Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, từ tình hình thực tế và tiềm lực quốc phòng - an ninh địa phương, Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ XIV đề ra nhiệm vụ trọng tâm: Xây dựng lực lượng vũ
trang huyện thực sự là lực lượng nồng cốt, củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân gắn với
thế trận an ninh nhân dân, đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch. Tích cực phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, bảo đảm an toàn giao thông nhằm giữ
vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng - an ninh vững chắc.

176
Triển khai thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, các cấp ủy đảng từ huyện
đến cơ sở tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng, củng cố quốc phòng - an ninh
gắn với phát triển kinh tế xã hội, xã hội.
Lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng theo phương châm “Vững mạnh rộng khắp”, lấy chất
lượng chính trị làm chính, có số lượng phù hợp, biên chế đúng quy định. Đội ngũ cán bộ quân sự cấp
xã 100% chỉ huy trưởng, chỉ huy phó quân sự được đào tạo trung cấp quân sự cơ sở, 100% chỉ huy
trưởng quân sự các xã, thị trấn là đảng ủy viên; tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dân quân tự vệ đạt
26,3% năm 2015. Cán bộ, chiến sỹ lực lượng dân quân tự vệ hàng năm đều được huấn luyện quân sự,
giáo dục chính trị theo đúng kế hoạch.
Lực lượng dự bị động viên được đăng ký, quản lý chặt chẽ, tổ chức biên chế đúng, gần đúng
chuyên nghiệp quân sự. Hàng năm, lực lượng dự bị động viên được phúc tra, đăng ký, xắp xếp đúng
quy định, tổ chức báo động kiểm tra sẵn sàng động viên, huấn luyện theo kế hoạch để nâng cao trình
độ khả năng sẵn sàng chiến đấu.
Không ngừng củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng
khu vực phòng thủ huyện, cơ sở vững mạnh toàn diện, cụm an toàn làm chủ, sẳn sàng chiến đấu và
liên hoàn về an ninh trật tự. Các cơ quan, Mặt trận, tổ chức chính trị, xã hội, trường học trên địa bàn

177
huyện Cam Lộ thường xuyên phối hợp với các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn như: Trung
đoàn 19, Trung đoàn 9 thuộc Sư đoàn 968 cùng các Trung đoàn 830, tiểu đoàn 410, Tiểu đoàn 25,
Đại đội thông tin... thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng – an ninh của địa phương, nhằm tăng cường
mối quan hệ đoàn kết quân - dân, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị. Hoạt động kết nghĩa
giữa địa phương và các đơn vị quân đội ngày càng được mở rộng, từ việc kết nghĩa giữa các tiểu
đoàn với các xã, thị trấn, được nhân rộng ra đến tất cả các đại đội với các thôn, bản, khu phố, trường
học với 44 đầu mối kết nghĩa giữa các đơn vị thuộc Trung đoàn với địa phương.
Trong 5 năm (2010-2015) huyện Cam Lộ đã tổ chức trên 300 diễn đàn như: Giao lưu với chiến
sỹ mới; thanh niên sống đẹp; kể chuyện truyền thống cho thanh niên; tọa đàm gặp mặt nhân kỷ niệm
các ngày lễ lớn... thu hút hàng nghìn lượt cán bộ chiến sỹ và thanh thiếu niên địa phương tham gia,
tình cảm quân dân gắn kết. Hưởng ứng phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”,
Trung đoàn tổ chức 10 đợt hành quân với hơn 1.500 lượt cán bộ, chiến sỹ, tham gia trên 2.300 ngày
công, đào đắp trên 10.000 m3 đất đá, phối hợp với các xã trên địa bàn huyện thực hiện chỉnh trang
đường làng ngõ xóm, tu sửa hệ thông kênh mương, xây dựng giao thông nông thôn, giao thông nội
đồng..., góp phần cùng địa phương đẩy nhanh thực hiện hoàn thành các tiêu chí nông thôn mới.

178
Chính sách hậu phương quân đội thường xuyên được quan tâm và được đề ra trong Chương trình
công tác hàng năm. Từ năm 2010 đến 2015, Đảng bộ huyện đã chỉ đạo sửa chữa, cải tạo nhà ở cho
184 gia đình chính sách, 60 đối tượng thương, bệnh binh, tổ chức tốt các hoạt động dâng hương,
dâng hoa Nghĩa trang liệt sỹ nhân dịp lễ, tết, ngày truyền thống... . Huyện đã chỉ đạo thực hiện tốt
các hoạt động quy tập hài cốt liệt sỹ; đề nghị giám định thương binh; thụ lý hồ sơ cho các đối tượng
chính sách nghiêm túc, chặt chẽ, đúng đối tượng và chế độ.
Công tác diễn tập khu vực phòng thủ được thực hiện nghiêm túc, chất lượng theo Nghị quyết số
28-NQ/TW, ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị “về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”. Năm 2012, huyện tổ chức diễn
tập khu vực phòng thủ đạt kết quả tốt, có mặt xuất sắc, được Ủy ban nhân dân tỉnh tặng Bằng khen.
Kết quả diễn tập góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong
huyện về nhiệm vụ bảo vệ, duy trì, tăng cường sức mạnh cho khu vực phòng thủ và khả năng sẵn
sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang trong huyện; đồng thời, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo
của cấp ủy, chính quyền các cấp, trình độ tổ chức, chỉ huy, tham mưu đề xuất của các cơ quan quân
sự, công an, các ban, ngành, đoàn thể và xã, thị trấn.

179
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong
tình hình mới, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Cam Lộ ban hành Kế hoạch số 35-KH/HU, ngày
31/8/2012 về thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương nhằm tăng cường sự
lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng trên toàn huyện đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Đến năm 2015 toàn huyện có 90% xã, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, trường học có phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đạt từ loại khá trở lên, không có loại yếu, kém. Ủy ban nhân dân các xã,
thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường đạt chuẩn “An toàn về an ninh trật tự” theo Thông tư số
23/2012/TT-BCA ngày 27/4/2012 của Bộ Công an, trên 90% thôn, bản, khu phố được công nhận đạt
tiêu chuẩn an toàn an ninh trật tự; không xảy ra trọng án, không có tụ điểm phức tạp về trật tự xã hội,
không có tội phạm hoạt động theo kiểu băng nhóm, xã hội đen, các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, vi
phạm pháp luật khác được kiềm chế, các vụ việc xảy ra đều được giải quyết triệt để, tỷ lệ khám phá
án cao.
Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt được nhiều kết quả tích cực. Các tai nạn, tệ nạn xã
hội được hạn chế, giải quyết dứt điểm không để phát sinh thêm mâu thuẩn và trở thành “điểm nóng”.
Đã triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 03-NQ/HU ngày 17/6/2013 của Ban Chấp hành về
nâng cao chất lượng chính trị lực lượng dân quân nòng cốt, công an viên, bảo vệ dân phố đáp ứng

180
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và
phát triển kinh tế ở địa phương.
Lực lượng công an huyện Cam Lộ thường xuyên được củng cố, kiện toàn và tăng cường về số
lượng và nâng cao chất lượng. Thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục chính trị bảo đảm
lực lượng Công an huyện có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ
quốc và nhân dân, thực hiện đúng lời dạy của Bác Hồ “Công an nhân dân, vì nước quên thân, vì dân
phục vụ”.
Công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng được tăng cường. Chương trình hành động của
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2020-2015 xác định nhiệm vụ: “Ngăn chặn, từng bước đẩy
lùi tham nhũng, lãng phí; tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; nâng cao
chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, cũng
cố lòng tin nhân dân, xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ, công chức
kỹ cương, liêm minh”.
Ban Thường vụ Huyện ủy đã tiến hành sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí”. Thực hiện tốt luật phòng chống tham nhũng, tổ chức kê khai,

181
minh bạch tài sản thu nhập của 100% cán bộ, công chức theo đúng quy định của pháp luật. Tăng
cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước trong mua
sắm tài sản công, quản lý chặt chẽ tài nguyên đất đai. Thực hiện công khai hóa quy định, thủ tục,
phân bổ ngân sách hàng năm, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, chương trình mục tiêu... Xây dựng quy
chế tự chủ, tự quản và tự chịu trách nhiệm trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công đối với các
cơ quan, đơn vị. Xây dựng quy trình giám sát cộng đồng trên các lĩnh vực hoạt động, đặc biệt là các
chương trình, dự án xây dựng cơ bản, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nền nếp, kỹ
cương, kỷ luật lao động. Nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về việc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí có nhiều chuyển biến rõ rệt, tạo sự đồng thuận và nhất trí cao trong toàn
Đảng bộ, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức trong hệ thống chính trị, tích cực đấu
tranh, phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi các tệ quan liệu, tham nhũng, lãng phí, cũng cố niềm tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước, xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh.

182
IV. NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC ĐẢNG, CHẤT
LƯỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN CÁC CẤP. PHÁT HUY SỨC MẠNH
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, NÂNG CAO ĐỜI SỐNG
NHÂN DÂN

1. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV xác định các nhiệm vụ về công tác xây dựng
Đảng: Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tăng cường công tác chính trị tư tưởng; hoạt động kiểm tra,
giám sát; chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ gắn với công tác phát triển đảng viên để đáp
ứng với yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và chiến lược lâu dài. Quán triệt và thực hiện nhiệm vụ trên,
nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ huyện Cam Lộ đã có những giải pháp chỉ đạo phù hợp góp phần
mang lại những kết quả quan trọng trên các mặt của công tác xây dựng Đảng.
Công tác chính trị, tư tưởng. Ban Thường vụ Huyện ủy thường xuyên chỉ đạo các cấp uỷ Đảng
tăng cường nhiệm vụ giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục đẩy mạnh

183
việc tổ chức học tập, nghiên cứu, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng gắn với việc xây dựng
chương trình hành động và kế hoạch thực hiện nghị quyết. Với sự vào cuộc chỉ đạo sâu sát, quyết liệt
của Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Huyện ủy, việc học tập, nghiên cứu, quán triệt các
Nghị quyết của Đảng gắn với thông tin thời sự, định hướng tư tưởng trong nhiệm kỳ 2010-2015 được
thực hiện với nhiều hình thức phong phú, ngày càng nền nếp, nghiêm túc, chất lượng 100% tổ chức
cơ sở đảng trực thuộc và trên 90% cán bộ, đảng viên tham gia, góp phần quan trọng trong thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ đề ra.
Nhằm tích cực theo dõi, nắm bắt tình hình, diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân, Ban Thường vụ Huyện uỷ chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng, các phòng, ban chuyên môn,
Mặt trận và các đoàn thể sâu sát cơ sở nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân,
kịp thời đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ, dân tộc,
tôn giáo để xuyên tạc, tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới, phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân, đồng thời làm tốt công tác định hướng dư luận cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Thường xuyên duy trì hội nghị giao ban, trực báo định kỳ theo cụm đối với chi bộ trực thuộc
Đảng bộ xã, thị trấn, giao ban khối nội chính, khối Mặt trận và các đoàn thể để nắm bắt tình hình.
Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc công tác tiếp dân, tập trung giải quyết các vấn đề nổi cộm, bức xúc,

184
tâm tư nguyện vọng chính đáng của cán bộ, đảng viên và nhân dân như tranh chấp địa giới hành
chính, đơn thư khiếu nại, tố cáo và những vấn đề trong thực tiễn đời sống đặt ra. Tăng cường trách
nhiệm của các cấp ủy đảng trong việc giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên, chỉ đạo thực hiện nghiêm
quy định của Đảng về kỷ luật phát ngôn, đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch, chủ động phòng ngừa “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.
Công tác biên soạn lịch sử Đảng và và giáo dục truyền thống cách mạng được thực hiện nghiêm
túc, hiệu quả theo Chỉ thị số 23-CT/TU, ngày 7/4/2003 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Đến cuối năm
2015, xã Cam Thành, Cam Chính, Cam An xuất bản lịch sử; những xã còn lại đang tiến hành nghiên
cứu, biên soạn; đồng thời chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền
thống lịch sử địa phương trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được triển khai thực hiện sâu rộng. Trên cơ sở chủ đề
của Trung ương, từ năm 2012-2014, Ban Thường vụ Huyện ủy thống nhất thực hiện chủ đề học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh huyện Cam Lộ với nội dung “Tận tâm với công việc,
tận tụy với nhân dân”. Việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW tại các cấp ủy đảng được gắn với việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và Quy định số 101-QĐ/TW về trách nhiệm nêu gương của

185
cán bộ, đảng viên. Sau 4 năm triển khai thực hiện, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh trên toàn huyện đã từng bước trở thành việc làm thường xuyên của các tổ chức đảng, chính
quyền, đoàn thể; ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm trước
Đảng, trước nhân dân của cán bộ, đảng viên được nâng lên, góp phần ngăn chặn những biểu hiện suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, cũng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Các cấp ủy đảng, cơ quan, ban ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở gắn việc học tập và làm theo
Bác với các phong trào, mô hình, cuộc vận động thi đua yêu nước như: “Chung tay xây dựng nông
thôn mới”, “Xây dựng xã đạt chuẩn văn hóa”, “Làng không có tội phạm”, “Làng không sinh con thứ
ba trở lên”, “Khu dân cư tiên tiến”, “ngày vì người nghèo”, “xóa nhà tạm”; mô hình “5 không 3 sạch,
chung sức xây dựng nông thôn mới” của phụ nữ, phong trào “tuổi trẻ sung kích vào những khâu khó
việc mới” của đoàn thanh niên...
Nhằm tăng cường xây dựng và chỉnh đốn Đảng,ngày 16/01/2012, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay”. Với phương châm: nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan,
không nể nang, né tránh, Nghị quyết xác định ba nhiệm vụ cấp bách và bốn giải pháp chủ yếu nhằm
ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,

186
“tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Sau khi Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 18-KH/TU, ngày 22/3/2012 về thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI), ngày 23/4/2012 Ban Thường vụ Huyện ủy Cam Lộ đã ban hành
kế hoạch số 27-KH/HU về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI, trong đó xác định rõ những nội dung, phương pháp tiến hành và thời gian cụ thể triển
khai thực hiện các nhiệm vụ trong toàn đảng bộ. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo các cơ quan tham
mưu giúp việc tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện các nội dung Nghị quyết trong toàn
Đảng bộ. Gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) với Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị
về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương, đạo đức Hồ Chí Minh. Huyện đã thành lập
bộ phận Thường trực chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) gồm đồng chí bí thư, phó
bí thư thường trực huyện ủy và các đồng chí trưởng ban tổ chức, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra, trưởng
ban tuyên giáo và trưởng ban dân vận cấp ủy cấp huyện.
Quá trình kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) được thực hiện một cách nghiêm
túc, chặt chẽ, đúng nguyên tắc. Nội dung kiểm điểm của tập thể Ban Thường vụ Huyện ủy và các
đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy bám sát 03 nội dung Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa

187
XI), gợi ý của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các ý kiến góp ý của các tập thể và cá nhân. Các thành
viên trong Ban Thường vụ Huyện ủy đều có ý kiến phát biểu với tinh thần thẳng thắn, chân tình và
có tính xây dựng đoàn kết; vừa khẳng định những ưu điểm nhưng đồng thời cũng chỉ rõ những
khuyết điểm, hạn chế và đề xuất các giải pháp khắc phục. Sau hội nghị kiểm điểm, Ban Thường vụ
Huyện ủy đã bổ sung hoàn thiện nội dung kiểm điểm và báo cáo kết quả kiểm điểm trước Hội nghị
lần thứ 11, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XIV. Kết quả bước đầu việc kiểm điểm đã tạo sự
chuyển biến rõ nét trong nhận thức và hành động của các tập thể và cá nhân, nội bộ Ban Thường vụ
Huyện ủy đoàn kết, thống nhất, vai trò của người đứng đầu cấp ủy và mối quan hệ với cấp ủy được
phát huy, việc kiểm điểm cũng đã có tác dụng cảnh báo, răn đe, góp phần ngăn ngừa tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, cũng cố lòng tin với
Đảng.
Công tác tổ chức cán bộ tiếp tục được đổi mới. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV
xác định: Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức
Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.... chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ gắn
với công tác phát triển đảng viên để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và chiến lược lâu dài 1.

1
. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2010-2015.
188
Quán triệt và triển khai các chủ trương, nhiệm vụ đã đề ra, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ
Huyện ủy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đổi mới, cụ thể hóa các nội dung và tinh thần chỉ đạo của
Trung ương, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác tổ chức cán bộ. Sau đại hội Đảng bộ huyện lần
thứ XIV Ban Chấp hành Đảng bộ huyện xây dựng và ban hành Quy chế làm việc của Ban Chấp
hành, Ban Thường vụ và Thường trực Huyện ủy; quy chế hoạt động của Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy;
chương trình công tác và chương trình kiểm tra, giám sát toàn khóa. Phân công các đồng chí ủy viên
thường vụ, ủy viên ban chấp hành Đảng bộ huyện phụ trách các tổ chức cơ sở đảng, các địa bàn, lĩnh
vực công việc nhằm bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ đối với quá trình phát triển kinh tế -
xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh và công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong
sạch vững mạnh.
Tiếp tục thực hiện Chương trình hành động số 62-CTr/TU ngày 30/7/2008 của Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ về thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên”; Nghị quyết số 07-NQ/HU,
ngày 29/11/2007 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XIII về “Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các chi bộ trực thuộc Đảng bộ xã, thị trấn”, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo,
kiện toàn, sắp xếp lại các tổ chức Đảng theo hướng tinh gọn, phù hợp với điều kiện thực tế của địa

189
phương. Đến năm 2015, toàn huyện từ 44 tổ chức giảm xuống còn 43 tổ chức cơ sở đảng, trong đó
có 11 đảng bộ cơ sở với 147 chi bộ trực thuộc và 32 chi bộ cơ sở.
Xác định chi bộ là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện
ủy thường xuyên quan tâm kiện toàn nhân sự các chi bộ, hướng dẫn xây dựng quy chế hoạt động của
chi bộ, xác định mối quan hệ giữa các chi ủy chi bộ với các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhằm
phát huy dân chủ, huy động được trí tuệ tập thể của các chi bộ. Đối với các chi bộ phải lãnh đạo
nhiều thôn, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo các Đảng ủy quan tâm đến công tác phát triển đảng
viên để có đủ điều kiện thành lập các chi bộ theo quy định của điều lệ hoặc sắp xếp lại một cách hợp
lý bảo đảm vai trò lãnh đạo ở các thôn, bản, khu phố, trường học. Kết quả, từ năm 2010-2015 toàn
huyện đã giảm được 9/10 chi bộ sinh hoạt ghép lãnh đạo nhiều thôn, khu phố. Thông qua việc sắp
xếp, cũng cố các chi bộ, chất lượng tổ chức cở sở đảng ngày càng nâng lên, hàng năm có 91,7% tổ
chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên.
Cùng với việc sắp xếp, kiện toàn các chi bộ Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện xác định việc
đổi mới phương thức lãnh đạo và nội dung sinh hoạt chi bộ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng theo Chỉ thị số 10-CT/TW của
Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa X). Sự chỉ đạo quyết liệt trong toàn Đảng bộ, nhiệm kỳ 2010-

190
2015, nội dung sinh hoạt của các chi bộ được đổi mới, thiết thực hơn, tăng cường phân công nhiệm
vụ cụ thể trong chi bộ và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nên đã góp phần nâng cao vai trò, năng
lực lãnh đạo của các chi bộ một cách rõ rệt.
Quán triệt và tổ chức thực hiện Chỉ thị số 14-CT/TU, ngày 15/01/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy về “Tăng cường công tác phát triển đang viên ở địa bàn, lĩnh vực còn khó khăn và ít đảng viên”;
Nghị quyết số 03-NQ/HU ngày 27/10/2006 của Huyện ủy (khoá XIII) “Về công tác phát triển đảng
viên giai đoạn 2006-2010 và phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2011-2015”, với tinh thần vừa nâng
cao số lượng nhưng vẫn phải bảo đảm chất lượng, gắn công tác phát triển đảng viên với việc chia
tách, thành lập tổ chức đảng ở các thôn, bản, khu phố chưa có đảng viên và chi bộ lãnh đạo ghép
nhiều địa bàn dân cư, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã sơ kết và ban hành Kết luận số 29-KL/HU,
ngày 28/11/2011 “Về tiếp tục thực hiện công tác phát triển đảng viên giai đoạn 2011-2015”. Kết quả,
trong 05 năm (2010-2015) Đảng bộ huyện đã kết nạp được 742 quần chúng ưu tú vào Đảng, đưa tổng
số đảng viên toàn Đảng bộ lên 2.315 đảng viên năm 2015, bình quân hàng năm Đảng bộ huyện kết
nạp đạt 7,88% so với tổng số đảng viên. Trong nhiệm kỳ 2010 – 2015, huyện đã xóa được thôn trắng
đảng viên.

191
Công tác cán bộ được thực hiện bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 02/10/2006 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về quy hoạch cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong tỉnh giai đoạn 2006-2015.
Với phương châm thực hiện công tác cán bộ một cách đồng bộ, chặt chẽ, đúng quy trình từ việc
phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến bố trí, sử dụng cán bộ phù hợp với năng lực, trình độ
đối với từng chức danh, quan tâm cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Ban Thường vụ Huyện ủy đã ban hành Kế
hoạch số 22-KH/HU, ngày 11/01/2012 về “Quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý giai
đoạn 2011-2020” và chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng, các phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện tiến
hành rà soát, quy hoạch cán bộ một cách dân chủ, công khai, thực hiện việc luân chuyển cán bộ một
cách nghiêm túc, đồng bộ nhằm tạo ra sự chủ động trong công tác cán bộ từ huyện đến cơ sở, bảo
đảm sự kế thừa và phát triển giữa các thế hệ cán bộ. Ban Thường vụ Huyện ủy cũng đã tiến hành
công tác rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cán bộ giai đoạn 2010-2015 và quy hoạch cán bộ giai
đoạn 2015-2020.
Gắn với công tác quy hoạch, Ban Thường vụ chú trọng công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ. Ban Chấp hành Đảng bộ tiến hành sửa đổi, bổ sung quy định về chế độ hỗ trợ đào tạo nhằm tạo

192
điều kiện tốt hơn cho cán bộ, đảng viên được cử đi học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Từ năm
2010 đến 2015, bên cạnh cử 125 đồng chí đi đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, cao cấp lý luận chính
trị, huyện đã chủ động mở 2 lớp Trung cấp lý luận chính trị - hành chính với 181 học viên, 3 lớp sơ
cấp lý luận chính trị với 184 học viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ nguồn quy hoạch cấp huyện
và cấp cơ sở. Đến năm 2015, Đảng bộ huyện có trên 10% cán bộ chủ chốt cấp huyện có trình độ
chuyên môn sau đại học; trên 70% cán bộ chủ chốt và công chức cấp xã, thị trấn có trình độ đại học.
Việc bố trí, bổ nhiệm, điều động luân chuyển cán bộ trước, trong và sau Đại hội Đảng bộ được
thực hiện nghiêm túc các bước theo đúng quy trình nhằm ổn định và nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của các địa phương, cơ quan, đơn vị trên địa bàn huyện. Đảng bộ huyện Cam Lộ luôn xác
định phương châm phải đổi mới trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo việc quy hoạch và luân chuyển cán
bộ để mở rộng giới thiệu cán bộ, tránh cách làm cục bộ, khép kín ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị
trong công tác cán bộ. Từ năm 2010-2015, Đảng bộ huyện đã tiến hành bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, hiệp
y bổ nhiệm 59 cán bộ, điều động, luân chuyển, hoán đổi vị trí công tác 27 cán bộ.
Nhiệm kỳ 2010-2015, do yêu cầu, nhiệm vụ của công tác cán bộcó 8 đồng chí chuyển công tác
ra ngoài Đảng bộ và nghĩ hưu theo quy định. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã quyết định chỉ định và bổ

193
sung 4 đồng chí tham gia ban chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy nhiệm kỳ 2015-2020 1.Tháng
4/2013, đồng chí Nguyễn Thanh Bảo, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy được Ban Thường vụ Tỉnh
ủy điều động đến công tác tại cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và giữ chức vụ Phó
Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh. Tháng 5/2013, đồng chí Nguyễn Văn Khởi, Hàm
trưởng phòng Nội chính - Tiếp dân, Văn phòng Tỉnh ủy được Ban Thường vụ Tỉnh ủy điều động đến
công tác tại cơ quan Huyện ủy Cam Lộ, chỉ định tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy
và giữ chức vụ Phó Bí thư Huyện ủy Cam Lộ nhiệm kỳ 2010-2015. Tháng 7/2013, đồng chí Ngô
Quang Chiến, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban nhân dân huyện
Cam Lộ được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy và đến tháng 11/2014, đồng chí giữ
chức Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Cam Lộ nhiệm kỳ 2011-2016.
Tiếp tục triển khai thực hiện Hướng dẫn số 30-HD/BTCTW, ngày 12/8/2009 của Ban Tổ chức
Trung ương về việc xem xét, công nhận người hoạt động cách mạng trước ngày tổng khởi nghĩa
tháng 8/1945 đã hy sinh từ trần. Đến năm 2015, huyện đã hoàn chỉnh hồ sơ báo cáo Ban Thường vụ

1
3 đồng chí ủy viên ban thường vụ là: Thái Văn Nam, Nguyễn Thành Công và Đào Trọng Tiến; 01 đồng chí ủy viên
ban chấp hành là Võ Văn Hưng.
194
Tỉnh uỷ xem xét 39 trường hợp. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ban hành quyết định công nhận 13
trường hợp.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được tiến hành thường xuyên, theo đúng Quy định số
57-QĐ/TW của Bộ Chính trị và Hướng dẫn số 11-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương về
“Một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng”. Ban Thường vụ Huyện ủy sơ kết 05 năm thực hiện
Quy định số 57- QĐ/TW, của Bộ Chính trị và chỉ đạo tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc các
chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của trung ương, của tỉnh ủy về công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng
trong giai đoạn hiện nay. Tập trung rà soát nhân sự phục vụ công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí sử
dụng cán bộ. Tiến hành thẩm tra xác minh, kết luận và đề nghị cấp uỷ cấp trên kết luận các trường
hợp liên quan lịch sử chính trị và chính trị hiện nay bảo đảm kịp thời cho công tác quy hoạch, bố trí
sử dụng cán bộ, công tác kết nạp đảng viên mới và các trường hợp từ các đơn vị ngoài Đảng bộ
huyện đề nghị thẩm tra, xác minh.
Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng được chú trọng đã góp phần giữ vững kỹ
cương, kỷ luật và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng. Sau Đại hội, Ban Thường vụ Huyện ủy
kịp thời ban hành Chương trình số 05-CTr/HU, ngày 16/11/2010 về công tác kiểm tra giám sát của
cấp ủy nhiệm kỳ 2010-2015 và chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng chủ động xây dựng chương trình kiểm

195
tra giám sát của cấp mình. Kịp thời quán triệt và triển khai thực hiện Quy định số 45-QĐ/TW, ngày
01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Thi hành Điều lệ Đảng”; Quyết định số 46-
QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Hướng dẫn thực hiện
các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỹ luật đảng”; Quy định số 47-QĐ/TW, ngày
01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “về những điều đảng viên không được
làm”; Quy định số 181-QĐ/TW, ngày 30/3/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “về xử lý kỷ
luật đảng viên vi phạm” và các quy định của Ban Thường vụ Huyện ủy về cung cấp thông tin cho
báo chí sau các kỳ họp của Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy về giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với đảng
viên là cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý.
Ngoài các chương trình kiểm tra giám sát định kỳ hàng năm, cấp ủy các cấp chủ động xây dựng
các chương trình kiểm tra giám sát đột xuất. Từ năm 2010 đến 2015, Ban Thường vụ Huyện ủy đã
tiến hành kiểm tra đối với 139 tổ chức Đảng và 51 đảng viên. Nội dung kiểm tra tập trung vào việc
quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của tỉnh, các nghị quyết
chuyên đề của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIII, XIV; về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; công tác phát triển đảng viên, phát
triển kinh tế xã hội, quốc phòng - an ninh và công tác xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị.

196
Ban Thường vụ Huyện ủy và cấp ủy cơ sở tiến hành 198 lượt giám sát với các tổ chức cơ sở đảng,
trong đó Ban Thường vụ Huyện ủy giám sát 47 tổ chức Đảng, đảng ủy cơ sở giám sát 151 tổ chức
Đảng. Kết quả công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy các cấp góp phần nâng cao nhận thức, xác định
vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra giám sát của các cấp ủy; phát hiện,
biểu dương những nhân tố mới, cách làm hay, đồng thời nhắc nhở, uốn nắn những khuyết điểm, hạn
chế, ngăn ngừa vi phạm của các tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên.
Công tác dân vận có nhiều chuyển biến tích cực cả nội dung, hình thức, phương thức tiến hành
với phương châm hướng mạnh về cơ sở, tập trung tháo gỡ những vấn đề khó khăn, bức xúc, nổi cộm
trong nhân dân thông qua các hình thức trao đổi, đối thoại, tổ chức làm việc với các khu dân cư, khảo
sát, trưng cầu ý kiến....
Triển khai thực hiện Quyết định 290-QĐ/TW, ngày 25/02/2010 của Bộ Chính trị “về việc ban
hành Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị”; Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Kế hoạch số
02-KH/HU, ngày 14/12/2010 để triển khai thực hiện, đồng thời ban hành Quyết định số 372-QĐ/HU,
ngày 03/11/2011 “Về ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị Huyện Cam Lộ ”,
chỉ đạo các cấp ủy đảng ở cơ sở căn cứ tình hình thực tế để xây dựng quy chế công tác dân vận ở cấp

197
mình. Đến năm 2015, 9/9 xã, thị trấn đã ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị ở
địa phương.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy
đã chỉ đạo kiện toàn khối dân vận các xã, thị trấn; chỉ đạo hướng dẫn quán triệt, kiểm tra, giám sát
việc thực hiện Quyết định 290-QĐ/TW của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân
vận trong tình hình mới; Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở; Quyết định số 217 QĐ/TW, số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị giám sát, phản biện xã
hội và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền.
Kết quả việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận về công tác dân vận, nhận thức của các
cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận, các ban ngành, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và nhân dân có sự
chuyển biến tích cực, không khí dân chủ được mở rộng và tăng cường, ý thức làm chủ của nhân dân
ngày càng được phát huy. Mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể ngày càng
chặt chẽ hơn, góp phần tạo sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân, tích cực thực hiện các nhiệm

198
vụ chính trị của địa phương, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng - an ninh được giữ
vững.
Phong trào “Dân vận khéo” lan rộng trên tất cả các lĩnh vực, ở khắp các đơn vị, địa phương trên
địa bàn huyện. Gắn phong trào “Dân vận khéo” với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” và “Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới”, từ năm 2010 đến 2015,
huyện Cam Lộ đã huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; kết hợp đồng bộ giữa
công tác dân vận với hoạt động quản lý, điều hành của chính quyền để cụ thể hóa chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước. Đã có hàng chục mô hình dân vận khéo trên tất cả các lĩnh vực; xuất hiện
nhiều tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, thể hiện được sự năng động, sáng tạo trong công tác vận
động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước đặc biệt là những nội dung
liên quan đến công tác dân vận.
Công tác dân tộc, tôn giáo được các cấp ủy đảng quan tâm chỉ đạo. Đảng bộ huyện đã thực hiện
hiệu quả công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo tinh thần Chỉ thị 49-CT/TW của
Ban Bí thư về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số”, chỉ đạo phát động phong trào thi đua; phối hợp các cơ quan, đơn vị  tổ chức nhiều hoạt động thiết
thực, hiệu quả giúp đỡ đồng bào dân tộc ở Bản Chùa ra mắt mô hình “Nhân dân Bản Chùa bảo vệ an

199
ninh trật tự và xây dựng nông thôn mới”; hỗ trợ xây mới nhà đại đoàn kết; tặng quà cho người
nghèo; xây dựng công trình “Ánh sáng đường quê”; thăm khám, chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí;
phối hợp với Trung đoàn 19 - Sư 968 chỉnh trang đường giao thông nông thôn...
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa X về “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị”, các cấp ủy đảng đã chú trọng việc nâng cao vai trò
lãnh đạo toàn diện trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các tổ
chức trong hệ thống chính trị; bám sát cơ sở để lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành và tăng cường
công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Đảng bộ huyện đã xây dựng các nghị quyết chuyên đề để tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực với phương châm “Không buông lõng những không bao biện,
làm thay”, phát huy tốt vai trò của các cấp chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong thực
hiện nhiệm vụ chính trị.
2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp, đẩy mạnh cải cách hành
chính

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV xác định: Tạo bước chuyển biến mới trong thực
hiện cải cách hành chính, tăng cường kỷ cương, kỷ luật, phòng chống tệ quan liêu, tham nhũng, nâng
200
cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý, điều hành của các cấp chính quyền. Từ chủ trương
trên, Đảng bộ huyện tập trung chỉ đạo nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước của chính quyền từ
huyện đến cơ sở.
Hội đồng nhân dân các xã, thị trấn được cũng cố, kiện toàn, phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn theo quy định của pháp luật, tăng cường đổi mới về tổ chức, hình thức hoạt động, phát
huy vai trò là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân, góp phần thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Được chọn là đơn vị không tổ chức Hội đồng nhân
dân cấp huyện, Cam Lộ định kỳ tổ chức trực báo đối với khối dân vận, mặt trận, giao ban khối nội
chính để kịp thời báo cáo Ban Thường vụ Huyện ủy xử lý các vấn đề nảy sinh, từ đó đã phát huy và
nâng cao tính chủ động sáng tạo của cả cơ quan tham mưu giúp việc ở khối đảng và khối chính
quyền.
Bộ máy ủy ban nhân dân cấp huyện, xã được cũng cố kiện toàn, các phòng ban thuộc ủy ban
nhân dân được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn, đúng chức năng nhiệm vụ. Công tác điều hành của
ủy ban nhân dân huyện hiệu quả, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tính chủ động và sáng tạo của đội
ngũ cán bộ, khắc phục tình trạng trông chờ, ỷ lại, bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo

201
của cấp ủy. Tăng cường thực hiện kỹ cương, nền nếp, kỹ luật lao động; thường xuyên bám sát cơ sở
để nắm tình hình nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, công tác cải cách hành chính của ủy ban nhân dân các cấp tiếp
tục được đẩy mạnh. Từ năm 2013, Ủy ban nhân dân huyện đã triển khai áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam ISO 9001:2008. Hệ thống máy móc, thiết bị ứng dụng công
nghệ thông tin tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của huyện được đầu tư đồng bộ. Ủy ban nhân dân
huyện đã xây dựng đề án thực hiện cơ chế “Một cửa” và được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Trên
cơ sở đó, tập trung chỉ đạo ủy ban nhân dân các xã, thị trấn đẩy mạnh cải cách hành chính, áp dụng
hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 về việc tiếp nhận và trả kết quả
theo cơ chế “một cửa”. Đến năm 2015, 100% các xã, thị trấn trong toàn huyện đã áp dụng cơ chế
“Một cửa” trong giải quyết các thủ tục hành chính. Hoạt động của cơ chế “Một cửa” thực sự phát huy
dân chủ, hạn chế cửa quyền, đẩy lùi quan liêu, tham nhũng tạo niềm phấn khởi đồng tình trong nhân
dân, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội và quốc phòng - an ninh trên
địa bàn toàn huyện.

202
Công tác tiếp nhận, xử lý các đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân được xử lý đúng quy trình,
mang lại kết quả tích cực, nội dung được kịp thời chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết
theo quy định của pháp luật, không để đơn thư tồn động, kéo dài, không để tình trạng khiếu kiện vượt
cấp. Từ năm 2010 đến 2015, Ủy ban nhân dân huyện đã tiếp công dân 47 lượt/51 người, không có
khiếu kiện đông người phức tạp. Giải quyết 100 đơn, trong đó 73 đơn kiến nghị, phản ánh, 15 đơn
khiếu nại, 4 đơn tố cáo, 8 đơn tranh chấp đất đai. Chất lượng điều tra, truy tố xét xử, thi hành án dân
sự và các hoạt động hành chính tư pháp được nâng lên. Hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật,
trợ giúp pháp lý được triển khai tích cực. Cấp ủy các cấp thể hiện sự chỉ đạo ngày càng sâu sát hơn
đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật.
3. Khối đại đoàn kết toàn dân được cũng cố, tăng cường, hoạt động của Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân có nhiều đổi mới

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV xác định:Tăng cường sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội,
thực sự phát huy dân chủ, tạo động lực trong phong trào thi đua yêu nước của quần chúng nhân
dân.Quá trình triển khai thực hiện, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp đã cụ thể hoá

203
bằng những chương trình, kế hoạch hàng năm; đa dạng hóa các loại hình tập hợp quần chúng, đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động, tập trung hướng mạnh các hoạt động về cơ sở.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ huyện đến cơ sở đã phát huy tốt vai trò trách nhiệm trong hoạt
động giám sát, phản biện xã hội theo tinh thần Chỉ thị số 24-CT/TW, ngày 9/9/2014 của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy về Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện “Quy chế giám sát và phản biện
xã hội của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội” và “Quy định Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể chính trị xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền”. Việc
định hướng, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể được cấp ủy thường xuyên
quan tâm, hoạt động của Ban công tác mặt trận ở khu dân cư ngày càng hiệu quả. Công tác hòa giải,
giải quyết kịp thời việc khiếu nại, tố cáo của nhân dân ở cơ sở được thực hiện nghiêm túc, góp phần
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Khối đại đoàn kết toàn dân được tăng
cường, người dân ngày càng có ý thức nâng cao chất lượng xây dựng đời sống văn hóa, tự giác hiến
kế, hiến công, hiến đất, hiến cây và đóng góp các nguồn lực xây dựng nông thôn mới, xây dựng
huyện sạch đẹp, văn minh. Thực hiện tốt cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, phong trào “đền ơn
đáp nghĩa” và các hoạt động nhân đạo từ thiện. Từ năm 2010 đến 2015, Cam Lộ đã vận động và tiếp
nhận trên 8,8 tỷ đồng, xây dựng và tu sửa 828 nhà đại đoàn kết.

204
Với đặc thù huyện có 80% dân số là nông dân, kinh tế nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu, Ban
Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy luôn xác định việc khai thác tiềm năng, lợi thế, huy động mọi
nguồn lực, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, tạo việc làm, nâng cao đời sống nhân dân là định
hướng chính và lâu dài của huyện. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ban hành Chương trình hành động
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn; thường xuyên chỉ đạo các cấp chính quyền tạo điều kiện để hội viên nông dân
tích cực, chủ động tham gia xây dựng nông thôn mới bằng những việc làm cụ thể như cải tạo đồng
ruộng, dồn điền đổi thữa, giải phóng mặt bằng, mở rộng giao thông nông thôn, giao thông nội đồng...
Từ năm 2010 đến 2015, có trên 15 nghìn lượt hội viên được tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận
thức về mục đích, ý nghĩa của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Hội viên hội
nông dân huyện Cam Lộ đã hiến 3.132m 2 đất, 632 cây cối các loại có giá trị, 486m hàng rào, tham
gia 1.055 ngày công, đóng góp trên 220 triệu tiền mặt để xây dựng các công trình công cộng; xây
dựng, nâng cấp, sửa chữa 2.000 m đường giao thông nông thôn, giao thông nội đồng....
Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn được quan tâm chỉ đạo, thực hiện. Bình quân
hàng năm, các cấp hội nông dân trên địa bàn huyện phối hợp với các ban ngành tổ chức 400 lớp tập
huấn khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho gần 11.000 lượt nông dân. Từ năm 2011 đến 2015, các cấp

205
hội nông dân của huyện đã phối hợp tổ chức 55 lớp học nghề cho lao động nông thôn với 1.500 lượt
người tham gia, chiếm 23,6% tổng số hội viên nông dân trong toàn huyện. Đội ngũ cán bộ các cấp
hội được tạo điều kiện tham gia các lớp Trung cấp Nông vận, tập huấn nghiệp vụ công tác hội, bồi
dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh, trung cấp, cao cấp lý luận chính trị. Đến năm 2015, 100% đội
ngũ cán bộ thường trực huyện hội đã đạt chuẩn về chuyên môn và lý luận chính trị, góp phần đáp
ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của Hội.
Giải pháp hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất được các cấp ủy triển khai tích cực, nguồn quỹ hỗ
trợ nông dân luôn duy trì trên 2 tỷ đồng. Đến năm 2015, toàn huyện có 104 tổ vay vốn với 3.402
thành viên tham gia, chiếm 46,6% tổng số hội viên trong toàn hội. Đảng bộ huyện thường xuyên
quan tâm, tạo điều kiện để hội viên tham gia các chương trình, dự án, đề án của Huyện về phát triển
cây cao su, hồ tiêu, lạc, đàn bò, hỗ trợ khoa học kỹ thuật. Phong trào “Nông dân sản xuất kinh doanh
giỏi và giảm nghèo bền vững” đã tạo ra khí thế thi đua sôi nổi trong cán bộ, hội viên nông dân. Đến
năm 2015, toàn huyện có hơn 2.000 hộ nông dân sản xuất - kinh doanh giỏi các cấp.
Hội Liên hiệp phụ nữ huyện thực hiện tốt vai trò là hạt nhân đoàn kết các tầng lớp phụ nữ, chăm
lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cán bộ, hội viên. Ban Thường vụ huyện Hội tăng cường chỉ
đạo thực hiện các chủ trương, chính sách của đảng, pháp luật nhà nước về công tác vận động phụ nữ,

206
cán bộ nữ, ưu tiên phụ nữ trong lao động, việc làm, đào tạo nghề, đào tạo cán bộ nữ, luật bình đẳng
giới, luật phòng chống bạo lực gia đình.Các cấp hội phụ nữ trên địa bàn huyện đoàn kết phấn đấu
thực hiện thắng lợi phong trào thi đua yêu nước và các nhiệm vụ trọng tâm của Hội. Hoạt động của
Hội ngày càng đa dạng về nội dung, linh hoạt, phong phú về hình thức. Nét nổi bật trong giai đoạn
2010-2015, hội chú trọng chọn những điểm mới và những vấn đề còn khó khăn để tập trung chỉ đạo
và thực hiện có hiệu quả như công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức trên các lĩnh vực, xây dựng
gia đình hạnh phúc, chương trình tạo việc làm tăng thu nhập, đỡ đầu chủ hộ là phụ nữ nghèo, vay
vốn phát triển kinh tế... Trên cơ sở phát huy nội lực, tinh thần hợp tác, tương thân tương ái, Hội vận
động hội viên thực hiện cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”; “Đỡ đầu hộ nghèo
do phụ nữ làm chủ hộ. Đặc biệt trong 5 năm thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” nhiều đơn vị đã có cách làm hay, sáng tạo về thực hành tiết kiệm như
mô hình tổ tiết kiệm tín dụng, heo đất tiết kiệm, hũ gạo tình thương, tổ thu gom ve chai, hỗ trợ cho
các hộ nghèo về cây con giống, phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống. Bằng nhiều hình thức khác
nhau, các cấp hội đã quyên góp được gần 200 triệu đồng và hơn 1.400 ngày công giúp cho chị em
phụ nữ nghèo, phụ nữ khó khăn hoạn nạn, nhận đỡ đầu và giúp đỡ 1.946 chị em phụ nữ nghèo là chủ
hộ và làm chủ kinh tế. Đến năm 2015, đã có gần 600 chị vượt nghèo vươn lên làm ăn khá.

207
Hoạt động của hội cựu chiến binh có nhiều đổi mới. Thực hiện kế hoạch số 02-KH/HU, ngày
14/02/2010 của Ban thường vụ Huyện ủy về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ
Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Cựu chiến binh Việt Nam trong
giai đoạn mới”, Thường trực Huyện ủy định kỳ hàng quý làm việc với Ban Thường vụ Hội Cựu
chiến binh huyện để nghe báo cáo tình hình hoạt động và các ý kiến đề xuất để lãnh đạo, chỉ đạo,
định hướng hoạt động của hội sát đúng với tình hình, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào
Hội Cựu chiến binh. Ủy ban nhân dân huyện và Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn tạo điều kiện để cán
bộ hội viên cựu chiến binh tham gia ý kiến về các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội, phân
bổ kịp thời nguồn kinh phí nhà nước cho hoạt động của hội.
Được sự chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy đảng, các cấp hội cựu chiến binh huyện ngày càng vững
mạnh, đến năm 2010, toàn huyện có 10 tổ chức hội, trong 5 năm (2010-2015) đã kết nạp thêm được
700 hội viên, đưa tổng số hội viên lên 2.282 hội viên năm 2015 vượt 120% chỉ tiêu đề ra. Hội đã
phối hợp với cơ quan quân sự, đoàn thanh niên huyện xây dựng, tổ chức hoạt động câu lạc bộ để giáo
dục truyền thống cho thế hệ trẻ và động viên cán bộ, hội viên giữ vững và phát huy truyền thống “Bộ
đội Cụ Hồ”, truyền thống gia đình quân nhân tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa
phương. Thực hiện việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, các cấp hội đã tổ

208
chức 35 lớp học tập chuyên đề với 6.020 lượt cán bộ hội viên tham gia đạt 98%, đồng thời tổ chức
hội thi “kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Hưởng ứng thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, các cấp hội đã tổ chức nhiều hội nghị tập
huấn chuyên đề về chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật,
đầu tư thâm canh tăng năng suất cây trồng vật nuôi; vận động hội viên giúp nhau về vốn, giống cây
trồng, vật nuôi, kiến thức làm ăn và các điều kiện sản xuất khác, góp phần tạo điều kiện cho hội viên
khó khăn vươn lên phát triển kinh tế, giảm hộ nghèo, tăng hộ khá và giàu. Nhiều hội viên được vay
vốn sản xuất, hiện số vốn do hội quản lý trên 25 tỷ đồng.
Với tinh thần “Đoàn kết, xung kích, sáng tạo, hội nhập và phát triển”, Đoàn Thanh niên huyện
Cam Lộ tập trung xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và
hành động cách mạng. Tiếp tục thực hiện Chương trình hành động số 59-CTr/HU, ngày 15/5/2009
của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về thực hiện Nghị quyết số 25 - NQ/TW (khóa X), Ban Chấp
hành, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo đổi mới nội dung và phương thức giáo dục lý tưởng cách
mạng, đạo đức, lối sống cho lực lượng đoàn viên thanh niên. 100% cán bộ đoàn, 90% đoàn viên
thanh niên được học tập, nghiên cứu các chủ trương, đương lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, tham gia các hoạt động sinh hoạt chuyên đề, giáo dục truyền thống của Đoàn.

209
Thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-HĐ của Ban Chấp hành Huyện đoàn về “Nâng vao chất lượng
hoạt động của các tổ chức cơ sở Đoàn, trọng tâm và các Tổ chức cơ sở Đoàn khối xã, thị trấn giai
đoạn 2008-2021”, công tác xây dựng tổ chức Đoàn được chú trọng, các chi đoàn luôn được quan tâm
kiện toàn, cũng cố Ban Chấp hành, Ban Thường vụ khi có sự biến động; lực lượng cán bộ Đoàn, Hội
được sự quan tâm, tạo điều kiện của cấp ủy, chính quyền, tích cực học tập, nâng cao trình độ. Đến
năm 2015, 100% Bí thư đoàn cơ sở là đảng viên và có trình độ đại học, cao đẳng trở lên. Toàn huyện
có 224 chi đoàn trực thuộc các tổ chức cơ sở đoàn, trong đó có 137 chi đoàn khối xã, thị trấn; 59 chi
đoàn khối trường học; 28 chi đoàn khối công nhân viên chức lao động.
Các cấp ủy chú trọng lãnh đạo công tác Hội liên hiệp thanh niên qua việc đào tạo, lựa chọn, giới
thiệu những cán bộ Đoàn có phẩm chất chính trị, năng lực, uy tín và trẻ tuổi sang làm công tác Hội.
Hội liên hiệp thanh niên huyện đã có nhiều hoạt động thu hút đông đảo hội viên tham gia, tập hợp
nhiều đối tượng thanh niên ngoài tổ chức vào sinh hoạt. Nhiều phong trào, hoạt động của tổ chức
Đoàn - Hội - Đội thu hút đông đảo tuổi trẻ hưởng ứng tham gia. Đặc biệt, phong trào “xung kích phát
triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc”, “đồng hành với thanh niên lập thân lập nghiệp” được các
cấp bộ Đoàn triển khai với nhiều nội dung, hình thức phong phú và mang lại hiệu quả thiết thực. Qua

210
các phong trào, tuổi trẻ Cam Lộ tỏ rõ vai trò xung kích, tình nguyện, đóng góp sức lực, trí tuệ của
mình vào sự nghiệp xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh.
Tiếp tục thực hiện Chương trình hành động số 61-CTHĐ/HU, ngày 15/5/2009 của Ban Chấp
hành Đảng bộ huyện (khóa XIII) về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”, công tác xây dựng, cũng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt
động của công đoàn các cấp được quan tâm. Tổ chức công đoàn cấp huyện đến cấp cơ sở đã chú
trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị cho đội ngũ công
nhân, viên chức, người lao động. Từ năm 2010 đến 2015, có 99% công nhân viên chức, người lao
động huyện được học tập, quán triệt đầy đủ các chủ trương Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước. Đội ngũ công nhân viên chức, lao động trên toàn huyện ngày càng lớn mạnh về
số lượng và không ngừng nâng cao chất lượng, có sự đa dạng về cơ cấu. Các hoạt động xã hội của
công đoàn như chương trình “Mái ấm công đoàn”, quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”... đã phát huy hiệu quả,
góp phần quan trọng cùng Đảng bộ, chính quyền huyện thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội,
đóng góp có hiệu quả vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương.
Các cấp hội quần chúng tiếp tục phát huy vai trò trong tập hợp, tuyên truyền, vận động, giáo dục
hội viên tham gia các phong trào thi đua yêu nước, nâng cao lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm

211
công dân, giúp hội viên và quần chúng nâng cao nhận thức, chấp hành tốt các chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy định của địa phương.
Nhiệm kỳ 2010-2015, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế trên các lĩnh
vực kinh tế xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế một số chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch đề ra, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, việc ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật vào thâm canh còn hạn chế nên năng suất, hiệu quả chưa cao. Công nghiệp, thương
mại còn có quy mô nhỏ, chưa có nhiều giải pháp tích cực, hiệu quả để quảng bá, kêu gọi đầu tư.
Nhiều sản phẩm nông nghiệp có thế mạnh của địa phương chưa được xây dựng thương hiệu và xúc
tiến thương mại. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn quy mô nhỏ, thiếu ổn định, chi đầu tư chủ yếu
phụ thuộc vào nguồn của trung ương, của tỉnh và thu từ quỹ đất. Vẫn còn tình trạng tranh chấp, khiếu
kiện liên quan đến đất đai, ô nhiễm môi trường.
Chất lượng đời sống văn hóa ở một số làng, đơn vị chưa cao. Công tác giảm nghèo chưa thật sự
bền vững. Đào tạo nghề, giải quyết việc làm chưa thực sự đáp ứng nhu cầu xã hội. Tình hình hoạt
động của các loại tội phạm, an ninh nông thôn, tranh chấp, khiếu kiện vẫn tiềm ẩn các yếu tố có thể
gây mất ổn định. Công tác dự báo, nắm tình hình có lúc thiếu kịp thời.

212
Việc nắm bắt tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, định hướng dư luận xã hội có lúc, có
nơi còn chưa kịp thời. Công tác tuyên truyền, quán triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết
có lúc chưa thuyết phục. Việc tổ chức “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở một
số tổ chức đảng còn mang tính hình thức, kết quả việc làm theo chưa thật rõ nét. Năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức Đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở một số tổ chức cơ sở đảng
có lúc, cơ nới vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác phát triển đảng viên chưa đồng đều, chất lượng
đảng viên mới kết nạp ở một số chi bộ chưa cao. Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát vẫn còn
những hạn chế, giám sát chuyên đề với đảng viên còn chưa được chú trọng. Việc xây dựng kế hoạch
triển khai thực hiện nhiệm vụ phòng chống tham nhũng tại một số địa phương, đơn vị còn mang tình
hình thức. Triển khai thực hiện công tác dân vận ở một số cấp ủy còn thiếu sự phối hợp thường
xuyên, đồng bộ giữa các lực lượng làm công tác dân vận. Ở một số tổ chức cơ sở đảng, việc khắc
phục sửa chưa khuyết điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) còn chưa dứt điểm,
trong sinh hoạt tư phê bình vẫn còn biểu hiện ngại va chạm.
Công tác quản lý, điều hành của các cấp chính quyền có phần chưa theo kịp sự phát triển của xã
hội. Chất lượng của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu về năng lực

213
thực tiễn và tình thần, thái độ phục vụ nhân dân. Kết quả đổi mới phương thức hoạt động của Mặt
trận đoàn thể chưa thật rõ nét.
Thẳng thắn nhìn nhận hạn chế, khuyết điểm, Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Huyện ủy
Cam Lộ nhiệm kỳ 2010-2015 xem đây là những kinh nghiệm cho quá trình chỉ đạo điều hành trong
thời gian tới. Những thành tựu quan trọng và cơ bản mà Đảng bộ huyện đạt được trong nhiệm kỳ
2010-2015 là tiền đề quan trọng để huyện Cam Lộ tiếp tục tiến bước vững chắc trọng giai đoạn tiếp
theo.

214
Chương IV
TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA
ĐẢNG BỘ; ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ; TẠO BƯỚC
ĐỘT PHÁ VỀ NĂNG SUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP VÀ THU NHẬP CHO NHÂN DÂN (2015-2020)

I. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ HUYỆN CAM LỘ LẦN THỨ XV

Thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 69-KH/TU, ngày
26/9/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XVI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Ban Thường vụ Huyện ủy Cam
Lộ đã tổ chức hội nghị quán triệt Chỉ thị của Bộ Chính trị và các văn bản liên quan; thành lập các
tiểu ban phục vụ đại hội; ban hành và chỉ đạo các cơ quan tham mưu ban hành các văn bản hướng

215
dẫn, lãnh đạo công tác chuẩn bị đại hội các tổ chức cơ sở đảng, gắn với việc đẩy mạnh thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và việc
học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; làm tốt công tác tư tưởng trong Đảng bộ, đẩy
mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân, phát động phong trào thi đua yêu nước, lập thành
tích chào mừng đại hội Đảng các cấp và những ngày lễ lớn trong năm 2015.
Từ ngày 13 đến ngày 15/8/2015, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ XV được tổ
chức tại thị trấn Cam Lộ; 225 đại biểu, trong đó có 32đại biểu đương nhiên và 193 đại biểu được bầu
từ 43 tổ chức cơ sở đảng đại diện cho gần 2.000 đảng viên tiêu biểu của Đảng bộ về dự Đại hội.
Đồng chí Lê Hữu Phúc, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội
đồng Nhân dân tỉnh; đồng chí Phạm Đức Châu, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại
biểu Quốc hội tỉnh; đồng chí Nguyễn Đức Chính, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân
tỉnh; đồng chí Nguyễn Văn Hùng, Phó Bí thư Tỉnh ủy cùng các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ
Tỉnh ủy; Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; đại diện lãnh đạo một số ban, ngành...về
dự Đại hội. Đồng chí Phạm Đức Châu, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc
hội tỉnh, thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh ủy phát biểu chỉ đạo đại hội.

216
Với chủ đề “Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân;
chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, tăng tỉ trọng công nghiệp- thương mại; tạo đột phá về năng suất
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế nông nghiệp và thu nhập cho nhân dân”, Đại hội đã tổng kết, đánh
giá kết quả trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2010-
2015; đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ giải pháp nhiệm kỳ 2015-2020; thông qua bản tổng
hợp ý kiến góp ý các dự thảo Văn kiện trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI và dự thảo Văn kiện
trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII; bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2015-2020
và bầu Đoàn đại biểu dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015-2020.
Trên cơ sở tình hình và nhiệm vụ của huyện đặt trong bối cảnh chung của tỉnh và cả nước, Đại
hội quyết định phương hướng, mục tiêu tổng quát nhiệm kỳ 2015-2020 là: “Tiếp tục khai thác có
hiệu quả tiềm năng, thế mạnh, huy động mọi nguồn lực nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế một
cách bền vững; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tỉ trọng công nghiệp - thương
mại đồng thời phát triển nông nghiệp hàng hóa có giá trị, hiệu quả ngày càng cao gắn với xây dựng
nông thôn mới. Chăm lo giải quyết tốt các vấn đề xã hội, giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân. Tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh, ổn định an ninh chính
trị và trật tự an toàn xã hội. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng

217
và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Đổi
mới phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể; phát huy tinh thần đoàn kết, huy động sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân cùng hướng tới mục tiêu vì sự
phát triển của huyện Cam Lộ”.
Từ mục tiêu tổng quát trên, Đại hội đề ra các chỉ tiêu cho từng lĩnh vực:
- Về kinh tế - xã hội, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hàng năm từ 12% -13%. Tốc
độ tăng giá trị sản xuất các ngành kinh tế bình quân giai đoạn 2015-2020: nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản: 6%; công nghiệp và xây dựng 13,6%; thương mại và dịch vụ 15,4%. Phấn đấu đến năm 2020, cơ
cấu kinh tế của các khu vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ theo thứ tự là: 28% - 37% - 35%.Tốc
độ tăng thu ngân sách trên địa bàn bình quân giai đoạn 2015-2020 đạt 10%.Tổng vốn đầu tư toàn xã
hội trong 5 năm đạt 1.530 tỷ đồng.Sản lượng lương thực có hạt bình quân/năm từ 14.000-14.500
tấn.Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2020: 44 triệu đồng.Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên duy trì ở
mức 1%.Tỷ lệhộ nghèo giảm bình quân hàng năm từ 1,5-2%;giải quyết việc làm mới cho 800-900
lao động/năm;Phấn đấu đến năm 2020, Cam Lộ trở thành huyện nông thôn mới.100% xã, thị trấn là
đơn vị điển hình về văn hóa; duy trì và củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, đúng
độ tuổi; phổ cập trung học cơ sở, phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi, đẩy mạnh phổ cập bậc trung học

218
phổ thông. 100% xã, thị trấn đạt và duy trì chuẩn quốc gia về y tế giai đoạn 2011-2020.Tỷ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 5%.Tỷ lệ độ che phủ rừng 53%. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y
tế: 80%và tỷ lệ dân số sử dụng nước hợp vệ sinh 100%.
- Về xây dựng Đảng: hàng năm có trên 90% tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên;
tỷ lệ phát triển đảng viên mới đạt 8-10% trên tổng số đảng viên.
Đại hội đã đề ra 3 chương trình, đề án trọng điểm và 6 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 39 đồng chí; bầu Đoàn dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị
lần thứ XVI gồm 21 đại biểu chính thức và 01 đại biểu dự khuyết.
Tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã công bố
Quyết định về việc điều động, luân chuyển đồng chí Đào Mạnh Hùng, Phó Giám đốc Sở Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Trị đến nhận công tác và chỉ định tham gia Ban Chấp hành,
Ban Thường vụ Huyện ủy, giữ chức Bí thư Huyện ủy. Hội nghị bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm
11 đồng chí: Nguyễn Ký Ngọc, Ngô Quang Chiến, Hoàng Bá Tiệu, Trần Anh Tuấn, Đào Mạnh
Hùng, Nguyễn Thị Thanh Hương, Nguyễn Thành Công, Nguyễn Tiến Dũng, Lê Hồng Nhạn, Trần
Quang Thanh, Đào Trọng Tiến; hai đồng chí được bầu giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy là đồng chí
Nguyễn Ký Ngọc và đồng chí Ngô Quang Chiến. Hội nghị bầu Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy gồm 06

219
uỷ viên; Đồng chíNguyễn Tiến Dũng, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy được bầu làm Chủ nhiệm
Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XVI được tổ chức từ ngày 22 đến ngày
25/9/2015; đồng chí Đào Mạnh Hùng, Bí thư Huyện ủy Cam Lộ được Đại hội bầu vào Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI, nhiệm kỳ 2015-2020.
5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
huyện lần thứ XV, nhiệm kỳ 2015-2020, trong bối cảnh chung của đất nước, của tỉnh; những khó
khăn nội tại của huyện như: Tốc độ tăng trưởng chưa cao; quy mô, giá trị, hiệu quả, khả năng cạnh
tranh trong sản xuất kinh doanh còn hạn chế; việc huy động và thu hút nguồn đầu tư dự báo còn
nhiều khó khăn; thiên tai, dịch bệnh...là những trở lực lớn nhưng Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban
Thường vụ Huyện ủy đã kế thừa những thành tựu từ các nhiệm kỳ trước; tập trung xây dựng Đảng bộ
trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; quyết tâm vượt qua khó khăn,
thách thức; khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế để phát triển,đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng
cường thu hút đầu tư, huy động tối đa nội lực, tạo nên sức mạnh tổng hợp hoàn thành mục tiêu, chỉ
tiêu giai đoạn 2015 -2020, đặc biệt,Huyện Cam Lộ đạt chuẩn “Nông thôn mới” trước một năm so với
kế hoạch đề ra.

220
II. ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ; GẮN VỚI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI;
GIẢI QUYẾT TỐT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI, NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, TINH THẦN CỦA
NHÂN DÂN

1. Lĩnh vực kinh tế

Huyện Cam Lộ triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ về lĩnh vực kinh tế trong điều kiện: Năm
2015, hạn hán diễn ra trên diện rộng; giá mủ cao su và một số mặt hàng nông sản giảm đã tác động
tiêu cực đến sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng đời sống của nhân dân. Năm 2016, bão số 4 gây thiệt
hại về người và của mà trực tiếp là sản xuất nông nghiệp. Năm 2017, thời tiết lại diễn biến bất
thường; bệnh rầy lưng trắng, lùn sọc đen gây hại nặng lúa vụ hè -thu làm cho năng suất, sản lượng
giảm; bên cạnh đó do ảnh hưởng của cơn bão số 10, các đợt mưa lụt vào các tháng cuối năm, giá cả
thị trường tiêu thụ hàng nông sản không ổn định, đặc biệt giá thu mua hạt tiêu và thịt lợn hơi giảm
mạnh làm ảnh hưởng đến thu nhập, sản xuất - kinh doanh và đời sống của nhân dân. Năm 2020, đại
dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, biến đổi khí hậu, hạn hán vụ hè - thu, tiếp đến là lũ lụt từ cuối
tháng 9 gây ra hậu quả nặng nề.Cùng với đó là những khó khăn, hạn chế từ các nhiệm kỳ trước đã tác
động không nhỏ đến quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết.

221
Ngày31/5/2016, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Cam Lộ ban hành Chương trình hành động số
14-CTr/HU thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XVI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV với 4 nội dung trọng tâm: Cải
cách hành chính trong hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả sản trong xuất nông nghiệp; nâng cao
chất lượng nguồn lao động và xây dựng nông thôn mới. Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần
thứ 7 (khóa XV) họp ngày 27/10/2016 đã thảo luận và thống nhất ban hành Nghị quyết số
02-NQ/HU ngày 15/11/2016 về “Nâng cao hiệu quả sản xuất các sản phẩm nông nghiệp hàng hóa có
thể cạnh tranh của địa phương giai đoạn 2016-2020, với các mục tiêu cụ thể như: Tốc độ tăng trưởng
về giá trị thu nhập/đơn vị diện tích đạt 6%/năm; xây dựng các vùng sản phẩm nông nghiệp hàng hóa
có thế mạnh như: gạo chất lượng cao, lạc, hồ tiêu, cao su, sắn nguyên liệu, gỗ FSC, bò lai, lợn và các
sản phẩm đặc thù vùng. Hình thành vành đai trang trại ngoài khu dân cư để phát triển chăn nuôi bò,
lợn bảo đảm an toàn sinh học; trồng cây ăn quả hữu cơ, rau màu thực phẩm an toàn....Duy trì, nâng
caovà xây dựng thêm một số thương hiệu mới cho các sản phẩm riêng có của huyện như: cao thảo
dược, hồ tiêu Cùa, tinh bột nghệ; mật ong, rau an toàn và cây lạc...
Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết, Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy đã tập
trung nguồn lực, kế hoạch cụ thể, sát hợp với từng vùng, từng lĩnh vực, từng ngành, từng địa phương

222
nhằm khai thác tốt tiềm năng, lợi thế; gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; kinh tế
với các vấn đề xã hội, quốc phòng - an ninh và xây dựng nông thôn mới. Nhờ vậy, tốc độ tăng trưởng
giá trị sản xuất các ngành đến cuối nhiệm kỳ: Nông nghiệp đạt 6,2%; Công nghiệp - Xây dựng đạt
14,5% và dịch vụ đạt tỷ lệ 15,7%. Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp đạt tỷ lệ 28%; công nghiệp - xây
dựng đạt 37%; thương mại - dịch vụ đạt 35%; về cơ bản các chỉ tiêu đều đạt và tiệm cận các mục tiêu
Đại hội đề ra. Riêng tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 2.230 tỷ đồng vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ XV đề ra 700 tỷ đồng.
Kinh tế nông nghiệp.Chủ trương của Đảng bộ trong nhiệm kỳ 2015-2020 là: “Phát triển nông
nghiệp toàn diện và bền vững theo hướng đa dạng hoá gắn với vùng chuyên canh để sản xuất hàng
hoá; đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất; lựa chọn giống cây trồng vật nuôi có năng
xuất, chất lượng cao, hình thành các vùng sản xuất giống lúa, lạc bảo đảm cung ứng giống tại
chổ...”1.
Theo tinh thần đó, Cam Lộ đã chỉ đạo quyết liệt nhiệm vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với
xây dựng nông thôn mới theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và thu nhập cho người dân, với các
1
. Chương trình hành động số 14-CTr/HU, ngày 31/5/2016, Ban Chấp hành Đảng bộ về thực hiện Nghị quyêt Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XII; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ
XV.
223
công việc cụ thể như: Quy hoạch các vùng chuyên canh tập trung theo hướng sản xuất hàng hoá để
liên doanh liên kết với các doanh nghiệp; tăng cường ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ
nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm, kết nối
thị trường tiêu thụ cho sản phẩm nông sản của địa phương. Xây dựng các phương án, kịch bản ứng
phó với biến đổi khí hậu, chủ động ứng phó với thiên tai.Chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng thích
ứng với thời tiết khô hạn; Chỉ đạo quyết liệt thực hiện lịch thời vụ gieo trồng, tăng cường công tác
phòng trừ dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Tiếp tục thực hiện mục tiêu: 5 cây (lúa, lạc, tiêu, cao su, rừng sản xuất) và 2 con (bò, lợn); đầu tư
kết cấu hạ tầng, liên kết với các doanh nghiệp tổ chức sản xuất, tiêu thụ theo chuỗi giá trị, tạo ra các
sản phẩm nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ đem lại hiệu quả kinh tế cao (gạo sạch, các loại cây
dược liệu, cây dứa, cây ăn quả), giai đoạn 2015-2020, huyện đã chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu
quả sang trồng thử nghiệm cây dược liệu; quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại
các xã Cam An, Cam Thanh, Cam Thủy và khảo sát để hình thành vùng trồng cỏ gắn với trang trại
chăn nuôi bò tập trung trên diện tích đất 600 ha tại xã Cam Tuyền (khu vực do Công ty Lâm nghiệp
Đường 9 giao lại); chuyển một số diện tích đất rừng có độ dốc thấp, thuận tiện cơ giới sang trồng dứa
và chè vằng; chuyển diện tích trồng lạc kém hiệu quả sang trồng ớt; hình thành 5 cánh đồng mẫu lớn

224
trên diện tích 48,1ha. Để từng bước nâng dần cơ cấu giống lúa theo hướng chất lượng cao và tiến đến
xây dựng thương hiệu gạo sạch Cam Lộ, huyện đã chọn một số giống lúa mới chất lượng cao vào sản
xuất trên diện tích 150ha. Phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ triển khai trồng thí điểm cây
dược liệu tại xã Cam Thủy, đồng thời nghiên cứu hoàn thiện quy trình, kỹ thuật để làm cơ sở nhân
rộng trên địa bàn. Thu hút, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt
đầu tư công nghệ cao, cam kết bao tiêu đầu ra cho các sản phẩm, phối hợp và ký biên bản ghi nhớ
với các công ty, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh.
Tính chung cả nhiệm kỳ, diện tích, năng suất, sản lượng các loại cây trồng cơ bản đạt kế hoạch
đề ra nhưng tăng so với cùng kỳ năm trước.Về cây lúa, đến năm 2020, diện tích gieo trồng đạt
3.080ha, vượt 380 ha so với Nghị quyết đề ra, trong đó có 1.000ha xây dựng cánh đồng mẫu lớn;
90% diện tích trồng giốnglúangắn ngày chất lượng cao, giá trị gia tăng đạt từ 30-35%.Tổng sản
lượng lương thực có hạt đạt 18.930 tấn, vượt gần 4.500 tấn so với chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Công tác
dồn điền, đổi thửa, cải tạo đồng ruộng, đầu tư thủy lợi, giao thông nội đồng phục vụ cơ giới hóa và
thâm canh cây lúa đã được chú trọng, mang lại hiệu quả kinh tế khá cao.
Kết luận số 28-KL/HU của Huyện ủy về tiếp tục thực hiện Nghị quyết phát triển cây cao su giai
đoạn 2008-2010 khẳng định: kiên trì chọn hướng phát triển bền vững cây cao su tiểu điền, hình thành

225
vùng tập trung chuyên canh có quy mô lớn; đầu tư kết cấu hạ tầng cho vùng trồng tập trung từ 100ha;
quy mô một hộ từ 1ha trở lên và có thiết kế vành đai chắn gió; quy hoạch, kế hoạch phải theo vùng
có thể trồng cao su theo từng năm; khuyến khích xây dựng vườn ươm sản xuất giống tại chổ.Với
quyết tâm chính trị và các giải pháp quyết liệt, hiệu quả đến năm 2020 toàn huyện có 4.212 ha cây
cao su tiểu điền (Nghị quyết đề ra 4.300 ha) trong đó trên 3.000ha đã đưa vào khai thác, tăng 900ha
so với năm 2015; sản lượng mủ khô 3.894 tấn, tăng 1.400 tấn so với năm 2015.
Nhiệm kỳ 2015-2020, Cam Lộ vẫn tiếp tục xem hồ tiêu là cây chủ lực. Năm 2017, tổ chức ROP
đã hỗ trợ Cam Lộ xây dựng mô hình tưới tiết kiệm; tập huấn kỹ thuật mới về trồng chăm sóc cây hồ
tiêu nên tình hình sinh trưởng của cây hô tiêu có bước phát triển theo hướng bền vững. Tuy nhiên, do
giá cả biến động, thậm chí có lúc giảm chỉ còn 50-80.000 đồng/kg nên diện tích trồng mới chỉ ổn
định 413,9ha; trong đó phục hồi gần 300ha,năng suất bình quân hàng năm đạt 12,5tạ/ha. Mặc dù,
diện tích trồng tiêu không đạt so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện đề ra (500 ha) nhưng năng
suất vẫn tăng 1,6-1,8 lần.
Trên cơ sở kết quả và bài học kinh nghiệm thực hiện chủ trương “nâng cao hiệu quả kinh tế vùng
lạc” được đề ra từ năm 2011, nhiệm kỳ 2015-2020, Huyện ủy chỉ đạo triển khai các mô hình: ứng
dụng kỹ thuật thâm canh lạc thịt bằng bạt phủ nilon (vụ đông - xuân); kỹ thuật tưới thấm (vụ hè -

226
thu) tại xã Cam Hiếu, Cam Thủy; sử dụng hệ thống tưới bằng công nghệ Israel...; mô hình lạc xen
đậu xanh cao sản (vụ hè - thu); lạc xen sắn ngắn ngày (ở vùng không có thuỷ lợi); khảo nghiệm các
giống mới có năng suất cao đưa vào sản xuất. Cùng với đó, huyện đã tập huấn nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ cho cán bộ khuyến nông xã, thôn, bản; có giải pháp hỗ trợ hợp tác xã khâu dịch vụ làm đất
và sản xuất giống tại chổ; rà soát, chuyển đổi một số diện tích lúa thiếu nước chuyển qua trồng lạc và
các giải pháp kỹ thuật thâm canh, xen canh có chủ động tưới tiêu... Nhờ vậy, năng suất cây lạc đạt
25-30 tạ/ha (cao hơn 1,5 lần so với cách làm cũ) thu nhập từ 60-70 triệu đồng/ha.
Lâm nghiệp, ngày 17/7/2017, Huyện ủy đã ban hành Kết luận số 37-KL/HU về “Phát triển lâm
nghiệp bền vững giai đoạn 2017- 2020, định hướng đến năm 2025”, với các nội dung chủ yếu: Tiếp
tục rà soát quỹ đất rừng sản xuất có độ dốc thấp sử dụng máy móc trong khâu làm đất để xây dựng kế
hoạch chuyển đổi sang cây trồng cạn có kinh tế cao hơn; Tiến hành giao đất, giao rừng cho các tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân... để có điều kiện phát triển rừng sản xuất thâm canh áp dụng kỹ thuật
canh tác, quản lý hiện đại theo chứng chỉ quốc tế tạo ra sản phẩm gỗ lớn. Làm tốt công tác kiểm kê,
quản lý diện tích rừng trên địa bàn. Chủ động triển khai đồng bộ các biện pháp phòng, chống cháy
rừng, đặc biệt là công tác tuyên truyền để hạn chế đến mức thấp nhất về số vụ và mức độ thiệt hại do
cháy rừng gây ra.

227
Phát triển lâm nghiệp bền vững, Huyện đã phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ triển khai
ứng dụng đề tàisản xuất giống lâm nghiệp bằng phương pháp nuôi cấy mô tại hợp tác xã An Mỹ (xã
Cam Tuyền) tạo ra gần 3 triệu cây giống giâm hom trồng đại trà trên địa bàn; áp dụng kỹ thuật lâm
sinh tiên tiến, quản lý hiện đại theo chứng chỉ quốc tế FSC. Chú trong công tác phòng, chống cháy
rừng. Đến cuối năm 2020, toàn huyện có gần 100% diện tích rừng trồng mới sử dụng giống cây giâm
hom. Cùng với đó, huyện cũng đã liên kết với nhà máy viên nén năng lượng thuộc Tổng Công ty
Thương mại Quảng Trị để tận thu, chế biến gỗ sau khai thác. Nhờ vậy, mỗi năm diện tích trồng rừng
mới trên địa bàn huyện đạt trên 1.100ha; hiệu quả kinh tế từ rừng cũng được nâng lên. Năng suất gỗ
khai thác tăng từ 50 tấn/ha/năm (giai đoạn 2011-2015) lên 100 tấn/ha/năm (giai đoạn 2016-2020), giá
trị thu được 112 tỷ đồng/ năm. Sản lượng gỗ khai thác năm 2020 gần 143 tấn; tỷ lệ rừng che phủ
52,1%.
Chăn nuôitiếp tục phát triển theo hướng tập trung, quy mô lớn, gắn với an toàn dịch bệnh và
bảo vệ môi trường. Đề án cải tạo và phát triển đàn bò kết hợp chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới về
con giống, phương thức nuôi, các giải pháp an toàn sinh học và phòng trừ dịch bệnh được triển khai
hiệu quả nên chất lượng đàn gia súc từng bước được nâng lên, sản lượng xuất chuồng cao. Trong 5
năm (2015-2020), chăn nuôi phát triển cả về quy mô và chất lượng theo hướng tập trung với mục

228
đích: an toàn dịch bệnh và bảo đảm vệ sinh môi trường. Đến năm 2020, toàn huyện có 25 trang trại,
gia trại chăn nuôi tập trung. Tỷ trọng đàn bò lai chiếm 78% tổng đàn (Nghị quyết đề ra đến năm
2020: 75-80%), góp phần nâng cao giá trị ngành chăn nuôi trong kinh tế nông nghiệp.
Thủy sản, tiếp tục thực hiện mô hình: cá-lúa, cá-sen, đồng thời tận dụng diện tích mặt nước của
các hồ chứa (Đá Mài-Tân Kim, Nghĩa Hy, Số 7, Đập 559, Tân Lâm ) để nuôi cá nước ngọt. Nhờ vậy,
diện tích nuôi cá nước ngọt toàn huyện đến năm 2020, có 142,36 ha (trong đó diện tích nuôi cá lúa
27,3 ha), sản lượng đạt 328,40 tấn.
Để thúc đẩy nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp,Cam Lộ chú trọng việc đổi mới
các hình thức tổ chức sản xuất trong nông thôntheo hướng đa dạng liên kết, làm cầu nối xây dựng
chuỗi giá trị sản phẩm của huyện. Chính vì vậy, mặc dù bị tác động bởi thời tiết bất lợi và các yếu tố
thị trường song nhờ sớm chuyển đổi diện tích rừng trồng sang trồng các cây dược liệu và cây trồng
ngắn ngày nên giá trị gia tăng từ 2 đến 3 lần. Việc nhân rộng mô hình sản xuất lạc xen, dược liệu;
đặc biệt là đa dạng canh tác trong các vườn cao su theo mô hình “nông nghiệp thông minh” vừa thích
ứng với biến đổi khí hậu, vừa góp phần nâng cao giá trị sản xuất và duy trì chăm sóc cây công nghiệp
dài ngày.Mặc dù, giá cả cao su, hồ tiêu giảm sâu và kéo dài nhưng giá trị thu được của người sản

229
xuất trên đơn vị diện tích vẫn tăng. Cách làm này, đã mở ra hướng mới khai thác đất đai, sinh thái
vùng gò đồi để phát triển các sản phẩm đặc thù địa phương gắn với thị trường tiêu thụ.
Triển khai chương trình quốc gia “mỗi xã mỗi sản phẩm(OCOP)”, đến năm 2020, toàn huyện có
07 sản phẩm được công nhận đạt tiêu chuẩn OCOP từ 3-4 sao (chiếm 36,8% sản phẩm OCOP toàn
tỉnh), trong đó, 03 sản phẩm đạt 4 sao (dầu lạc super green; Cao Cà gai leo An Xuân dạng cô đặc và
thực phẩm bảo vệ sức khỏe Cà gai leo An Xuân dạng bột hòa tan);4 sản phẩm đạt 3 sao (tiêu Cùa;
Cao chè vằng Mai Thị Thủy; bơ lạc, dầu mè Supergreen); một số sản phẩm đã đạt giải thưởng cao về
chất lượng, vào được thị trường “khó tính”, các siêu thị cao cấp.
Hoạt động khoa học và và công nghệ. Triển khai nhiệm vụ “Đẩy mạnh công tác chuyển giao,
ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ chế biến, bảo quản nông
sản trong sản xuất nông nghiệp; đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị trong sản xuất công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp. Chú trọng việc đánh giá và phổ biến nhân rộng các mô hình ứng dựng tiến bộ khoa
học kỹ thuật có hiệu quả cao vào sản xuất. Tăng cường công tác tiêu chuẩn, đo lường chất lượng; xây
dựng và phát triển thương hiệu các sản phẩm đặc sản, truyền thống của địa phương” 1,giai đoạn 2015-
2020, Huyện Cam Lộ đã chủ động phối hợp với các sở, ngành liên quan xây dựng chỉ dẫn địa lý cây

1
. Huyện ủy Cam Lộ, Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV, nhiệm kỳ 2015-2020; tr.45
230
hồ tiêu; triển khai dự án: "Xây dựng mô hình cộng đồng quản lý, sử dụng tổng hợp tài nguyên đất,
nước để sản xuất lạc hiệu quả, thích ứng biến đổi khí hậu"; tổ chức nhiều cuộc hội thảo đánh giá, rút
kinh nghiệm trong việc triển khai ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất trên địa bàn huyện;
triển khai dự án khoa học và công nghệ trồng cây dược liệu tại xã Cam Thủy, từ đó hoàn thiện quy
trình kỹ thuật để có cơ sở nhân rộng trên địa bàn và triển khai đề tài sản xuất giống lâm nghiệp bằng
phương pháp nuôi cấy mô...
Để tạo điều kiện cho các sản phẩm của địa phương đến với các thị trường trong và ngoài nước,
Huyện đã hỗ trợ cho hợp tác xã sản xuất, dịch vụ kinh doanh Cao dược liệu làng Định Sơn và hợp tác
xã An Mỹ các khâu: đăng ký mã vạch, thiết kế mẫu mã, bao bì sản phẩm, trồng cây dược liệu; tư vấn
kỹ thuật ươm giống cây lâm nghiệp; đồng thời, triển khai thí điểm một số mô hình, dự án, đặc biệt là
các dự án đưa một số cây dược liệu từ các tỉnh phía Bắc vào trồng thử nghiệm trên địa bàn huyện; đề
nghịỦy ban nhân dân tỉnh và Sở Kế hoạch và Đầu tư hỗ trợ 04 dự án với tổng mức đầu tư 2,152 tỷ
đồng để xây dựng thương hiệu tập thể cho các sản phẩm: ổi, dưa, bưởi Cam Lộ. Hoàn thiện hồ sơ thủ
tục đề nghị hỗ trợ từ nguồn khuyến công cho 03 dự án, trong đó có 02 dự án được hỗ trợ từ nguồn
khuyến công tỉnh, 01 dự án khuyến công quốc gia với tổng kinh phí 425 triệu đồng. Kết quả nổi bật

231
trong giai đoạn 2015-2020 là việc áp dụng công nghệ, nhất là công nghệ sinh học để tạo ra một số
sản phẩm có chất lượng caocủa địa phương Cam Lộ có mặt tại các chuỗi bán lẻ trongvà ngoài nước.
Tài nguyên và môi trường. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực giao đất
và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo cơ chế một cửa điện tử. Đến năm 2020, huyện
đãhoàn thành việc lập, thẩm định và phê duyệt đề cương, nhiệm vụ và dự toán quy hoạch sử dụng đất
giai đoạn 2021-2030 và kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2021- 2025. Công tác cải cách thủ tục hành
chính trong quản lý, sử dụng đất được tập trung chỉ đạo theo đúng quy định pháp luật; việc cấp đất ở
cho nhân dân, (trong đó có số diện tích đất do các tổ chức bàn giao) quy chủ đất đai...được đẩy nhanh
tiến độ. Uỷ ban nhân dân Huyện đã chỉ đạo các phòng, ban chức năng tập trung rà soát, giải quyết,
xử lý dứt điểm những vấn đề bức xúc tồn đọng kéo dài, các vấn đề cử tri kiến nghị, phản ánh, vấn đề
tranh chấp đất đai có liên quan địa giới hành chính.
Việc khai thác, sử dụng tài nguyên theo đúng quy định pháp luật và thích ứng với biến đổi khí
hậu. Công tác bảo vệ môi trường có sự tham gia tích cực của nhân dân; tỷ lệ thu gom và xử lý chất
thải sinh hoạt đạt trên 90%. Huyện đã mở rộng bãi rác tập trung và nhiều điểm thu gom rác các xã,
thị trấn; xây mới, nâng cấp một số hệ thống nước sinh hoạt tại xã Cam Hiếu, Cam Thủy, Cam Thành
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Chủ động đề xuất Uỷ ban Nhân dân tỉnh và các sở, ngành

232
liên quan hỗ trợ kinh phí đầu tư hố gom rác thải trung chuyển tại vùng Cùa; di dời làng nghề bún
Cẩm Thạch (xã Cam An nay là xã Thanh An) ra khỏi khu vực dân cư. Thường xuyên giám sát chất
lượng môi trường tại 02 cụm công nghiệp Cam Thành, Cam Hiếu.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Giai đoạn 2015-2020 huyện đã tích
cực huy động các nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và dân sinh; chủ động, linh
hoạt thu hút đầu tư phát triển công nghiệp-thương mại nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nhanh, bền vững. Triển khai nhiều giải pháp sát hợp; các hoạt động công nghiệp, ngành nghề đa
dạng, đặc biệt huyện đã tạo điều kiện cho các nhà máy chế biến gỗ rừng trồng, nhà máy sản xuất cấu
kiện bê tông, nhà máy gạch, ngói không nung, nhà máy chế biến tinh bột sắn, tinh chế dầu lạc, may
mặc và một số cơ sở công nghiệp khác gắnvới vùng nguyên liệu trên địa bàn. Cách làm này, không
chỉ tạo công ăn việc làm cho nhân dân trong vùng, giải quyết đầu ra cho sản phẩm nông sản mà còn
chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế. Đến năm 2020, giá trị sản xuất (theo giá so sánh) ngành công
nghiệp-xây dựng đạt 787.257 triệu đồng, đạt 115,3% so với cùng kỳ.
Các trung tâm cụm xã, tiểu thủ công nghiệp cũng có bước phát triển. Các làng nghề truyền thống
như: Bún Cẩm Thạch, cao dược liệu Định Sơn cũng tiếp tục duy trì; chất lượng, sản phẩm được
khẳng định thương hiệu và bước đầu đã có chỗ “đứng” trên thị trường.

233
Các ngành dịch vụ:ăn uống, giải trí, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tiếp tục khai thác lợi thế
thuận lợi về giao thương để phát triển đa dạng mang lại giá trị gia tăng cao. Công tác quy hoạch và
đầu tư hạ tầng các vùng dịch vụ - thương mại được tăng cường, trong đó có quy hoạch thị trấn Cam
Lộ, ngã Tư Sòng, vùng Cùa, ngã ba Cùa và xã Cam Hiếu tạo động lực, góp phần bảo đảm nhu cầu
trao đổi, tiêu thụ hàng hoá của nhân dân trên địa bàn, nhất là tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Đến
năm 2020, toàn huyện có 2.887 cơ sở kinh doanh thương mại- dịch vụ (tăng 641 cơ sở), thu hút gần
3.800 lao động, doanh thu hàng năm trên 3.000 tỷ đồng. Điểm nổi bật là huyện đã chỉ đạo thúc đẩy
gắn kết các khâu trong chuỗi sản xuất -tiêu thụ thông qua các hoạt động quảng bá, xúc tiến thương
mại, xây dựng thương hiệu sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
Tài chính, tín dụng. Với quyết tâm “Phát triển sản xuất kinh doanh để tạo lập, nuôi dưỡng nguồn
thu...”1, trong giai đoạn 2015-2020, huyện đã có nhiều giải pháp quyết liệt,hiệu quả vì vậy thu ngân
sách trên địa bàn tăng bình quân 13,5%/năm(Nghị quyết đề ra 10%). Thu ngân sách năm sau cao hơn
năm trước và cao hơn tốc độ tăng trưởng chung nền kinh tế.Công tác quản lý chi theo đúng quy định,
không phát sinh nhiệm vụ chi mới, tăng định mức, vượt dự toán, hạn chế chi dự phòng; Thực hiện tốt

1
. Huyện ủy Cam Lộ, Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV nhiệm kỳ 2015-2020, tr.44
234
Luật phòng chống tham nhũng, lãng phí. Kết quả lớn nhất trong giai đoạn 2015-2020 là thu ngân
sách địa phương tăng cao.
2. Quy hoạch, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết
quả tích cực

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV “Thường xuyên rà soát, bổ sung quy
hoạch kinh tế-xã hội, quy hoạch sản xuất cho phù hợp với điều kiện mỗi xã, thị trấn, tạo sự kết nối,
hỗ trợ vùng nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng, lợi thế gắn với sự phát triển chung của toàn huyện.
Huy động, lồng ghép các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, công trình thủy lợi,
hệ thống điện lưới, cấp thoát nước... tạo tiền đề đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội. Tập trung xây
dựng thị trấn huyện lỵ phát triển và phấn đấu đến 2020 trở thành đô thị loại IV”1 và triển khai Nghị
quyết số 02-NQ/TU, ngày 04/11/2016 của Tỉnh ủy “về phát triển đô thị tỉnh Quảng Trị giai đoạn
2016-2021, định hướng đến năm 2025” huyện Cam Lộ đã đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm: Rà soát
điều chỉnh lại quy hoạch cụm thương mại - dịch vụ ngã Tư Sòng; quy hoạch mới các cụm công
nghiệp - dịch vụ đón đầu trên các tuyến giao thông đã được quy hoạch như: Tuyến tránh phía nam thị
trấn Cam Lộ, tuyến Cam Lộ - Túy Loan, tuyến tây Triệu Phong - nam Cam Lộ...; phát triển ở các
1
. Huyện ủy Cam Lộ, Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV, nhiệm kỳ 2015-2020. tr 44
235
khu vực trung tâm xã, ven các trục giao thông, cụm công nghiệp - dịch vụ, nhà máy, xí nghiệp, nơi
có mật độ dân cư đông, kinh doanh thuận lợi. Từng bước thu hút đầu tư, liên kết hình thành các trung
tâm dịch vụ, điểm dừng nghỉ, dịch vụ kho bãi trên các tuyến đường quốc gia đi qua địa bàn.
Ngay từ đầu nhiệm kỳ 2015-2020, Ủy ban Nhân dân huyện đã chỉ đạocác xãlựa chọn nhà tư vấn
đủ năng lực; đồng thời đôn đốc đẩy nhanh tiến độ lập đồ án quy hoạch;tập trung quản lý quy hoạch;
công khai quy hoạch; thường xuyên rà soát, đề xuất điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, nhất là quy hoạch sử dụng đất. Tiến hành cắm mốc chỉ giới
các công trình hạ tầng theo quy hoạch. Hoàn thành quy hoạch vùng huyện gắn với quy hoạch nông
thôn mới cấp xã; triển khai quy hoạch chi tiết thị trấn Cam Lộ; mở rộng 3 cụm công nghiệp (Cam
Thành, Cam Hiếu và Cam Tuyền); quy hoạch và giải phóng mặt bằng cao tốc Cam Lộ - La Sơn; từng
bước đầu tư tạo quỹ đất sạch và hoàn thiện cơ sở hạ tầng các vùng động lực, tạo điều kiện thu hút các
nhà đầu tư. Nhờ làm tốt công tác quy hoạch, nên hoạt động công nghiệp, ngành nghề trên địa bàn
diễn ra sôi động hơn. Trong 5 năm (2015-2020), có 36 doanh nghiệp đăng ký đầu tư trong và ngoài
cụm công nghiệp, tổng số vốn 1.329 tỷ đồng. Một số dự án quy mô lớn đầu tư vào địa bàn như: Nhà
máy Bia Camel, công suất 50 triệu lít/năm với số vốn đăng ký đầu tư: 668 tỷ đồng; nhà máy may

236
xuất khẩu Tân Định với số vốn đăng ký 10 tỷ đồng; dự án sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao FAM và dự án đường bộ cao tốc đoạn Cam Lộ - La Sơn.
Từ kết quả và kinh nghiệm sau 5 năm (2011-2015) triển khai chương trình mục tiêu quốc gia
“xây dựng nông thôn mới”, dự báo những khó khăn, thách thức cho giai đoạn tiếp theo (2016-2020),
ngày 11/11/2015, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Thông báo Kết luận số 13-TB/HU, tiếp tục khẳng
định “Xây dựng nông thôn mới là nội dung quan trọng, xuyên suốt trong giai đoạn 2016-2020” với
các quan điểm: Lấy việc xây dựng thành công huyện nông thôn mới làm đích hướng tới; lấy lợi ích
thiết thực mang lại cho người dân làm động lực để đẩy mạnh phong trào ở cộng đồng dân cư; tập
trung mọi nguồn lực để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống và giảm nghèo bền vững cho người
dân làm cơ sở để nâng cao chất lượng xây dựng nông thôn mới; lấy sự đồng lòng, đồng sức của nhân
dân làm cốt lõi trong xây dựng, hoàn thành, duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn
mới; quyết tâm hoàn thành chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV, phấn đấu đến
cuối năm 2018 huyện Cam Lộ cơ bản đạt chuẩn nông thôn mới”. Tiếp theo Thông báo kết luận này,
Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Kế hoạch số 38- KH/HU phân công trách nhiệm phần việc cho
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện và đoàn thể chính trị- xã hội tham gia xây dựng nông thôn mới.

237
Quá trình lãnh đạo, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo Cấp ủy đảng các cấp tiếp tục quán triệt
các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ quản lý; Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội từ huyện đến cơ sở nhằm tạo sự thống nhất
trong nhận thức, đồng thuận trong hành động; phát huy tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng
viên, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và hệ thống chính trị trong xây dựng nông thôn
mới.Đề án "Huyện nông thôn mới" với quan điểm "Không chạy theo hình thức, không huy động quá
sức dân", "lấy thu nhập nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân làm mục tiêu"; "Gắn
việc xây dựng xã nông thôn mới song song với thực hiện các tiêu chí nông thôn mới cấp huyện theo
Quyết định số 558/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ"được triển khai nghiêm túc, sâu rộng. Huyện
cũng đã thành lập Ban Chỉ đạo, Ban Quản lý xây dựng nông thôn mới các cấp. Thành viên Ban Chỉ
đạo được phân công trách nhiệm và phụ trách địa bàn cụ thể, lấy hiệu quả công việc để đánh giá chất
lượng đảng viên, công chức, viên chức.Hàng năm, các kết luận của Ban Chấp hành Đảng bộ Huyện
về phát triển kinh tế - xã hội; quốc phòng - an ninh; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
đều có nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Cùng với đó, Bí thư Huyện ủy cam kết nhiệm vụ xây
dựng nông thôn mới với Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Bí thư cấp ủy các xã, thị trấn cam kết với Ban
Thường vụ Huyện ủy và Bí thư Huyện ủy; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn, trưởng các

238
phòng, ban ký cam kết trách nhiệm với Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Bí thư Cấp ủy các xã, thị
trấn giao trách nhiệm cho các thôn, hợp tác xã, đoàn thể chính trị- xã hội trên tinh thần 4 có: “có
công việc cụ thể; có con người cụ thể; có địa chỉ cụ thể; có hiệu quả cụ thể”. Hàng năm, ngoài việc
tập trung chỉ đạo toàn diện trên tất cả các mặt đời sống kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh Huyện
ủy, Ủy ban Nhân dân huyện chọn chủ đề hành động để tập trung chỉ đạo có điểm nhấn góp phần
quyết tâm xây dựng huyện đạt chuẩn nông thôn mới.
Với sự nỗ lực quyết tâm phấn đấu của cả hệ thống chính trị và sự quan tâm chỉ đạo của Trung
ương, của tỉnh; sự hỗ trợ của các doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nước, con em quê hương
Cam Lộ đang công tác, lao động, sinh sống trong và ngoài nước ... saugần 10 năm xây dựng đến năm
2019, huyện Cam Lộ đã hoàn thành mục tiêu cơ bản:8/8 xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt tỷ lệ 100%,
trong đó có 01 xã đạt chuẩn xã nông thôn mới kiểu mẫu; 09 tiêu chí nông thôn mới dành cho cấp
huyện. Công tác lập quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạchđầy đủ theo qui định; Xây dựng kết
cấu hạ tầng thiết yếu đảm bảo; kênh mương thủy lợi đã kiên cố hóa đạt tỷ lệ 87,5%, cơ bản chủ động
đáp ứng nhu cầu tưới, tiêu; góp phần ngăn ngừa, giảm thiểu các rủi ro thiệt hại do thiên tai gây ra. Về
điện: Hệ thống lưới điện các xã, thị trấn được thiết kế xây dựng bảo đảm “đạt” thông số kỹ thuật, an
toàn điện. Có 100% số hộ sử dụng điện an toàn từ các nguồn. Về trường học: Toàn huyện có 24/24

239
trường (tỷ lệ 100%) đã được UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn quốc gia, tăng 12 trường so với năm
2011 (Trong đó có 6 trường đạt chuẩn mức 2 và 18 trường đạt chuẩn mức 1). Về cơ sở vật chất văn
hóa: 08/08 xã xây hội trường đa năng có sức chứa 200 chổ ngồi trở lên, tổng số diện tích sân thể thao
trên địa bàn huyện đưa vào sử dụng 72.000 m 2, sân khấu phục vụ sinh hoạt văn hóa. Các điểm vui
chơi, giải trí cho trẻ em, người cao tuổi, được đầu tư. Nhà văn hóa - khu thể thao hoạt động thường
xuyên, có hiệu quả, tổ chức hội họp của các đoàn thể, câu lạc bộ, sinh hoạt văn hóa đáp ứng nhu cầu
của nhân dân. Về chợ nông thôn: xây dựng mới và nâng cấp chợ phù hợp nhu cầu thực tế mỗi địa
phương. Về thông tin và truyền thông: đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ bưu chính của các tổ chức,
cá nhân. Năm 2020 thu nhập bình quân đầu người đạt 48,72 triệu đồng/người/năm, tăng 22,52 triệu
đồng (gần 1,9 lần); hộ nghèogiảm còn 2,85%.Tổng nguồn lực huy động để thực hiện Chương trình
xây dựng nông thôn mới từ năm 2011 đến 2019: 3.017 tỷ đồng trong đó: Ngân sách nhà nước
1.214,790 tỷ đồng, chiếm 40,3%; ngân sách Trung ương: 802,402 tỷ đồng, ngân sách tỉnh: 215,899
tỷ đồng, ngân sách huyện: 180,150 tỷ đồng, ngân sách xã: 16,339 tỷ đồng; Vốn tín dụng: 663,74 tỷ
đồng, chiếm 22%; vốn doanh nghiệp: 648,002 tỷ đồng, chiếm 21,5%; vốn nhân dân đóng góp
490,468 tỷ đồng, chiếm 16,3%.

240
Ngày 16/4/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hànhQuyết định số 520/QĐ-TTg công nhận huyện
Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị đạt chuẩn nông thôn mới năm 2019.Chủ tịch nước tặng thưởng Huân
chương Lao động hạng Ba. Ngày 25/7/2020, tỉnh Quảng Trị long trọng tổ chức lễ đón nhận Quyết
định của Thủ tướng và đón nhận Huân chương của Chủ tịch nước. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị
tặng cờ thi đua xuất sắc và tiền thưởng 10 tỷ đồng cho cán bộ và nhân dân Cam Lộ, tặng bằng khen
cho 10 tập thể và 10 cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2016-2020. Từ thành công huyện nông thôn mới Cam Lộ, nhiều đơn vị đã đến nghiên cứu,
học tập.
3. Lãnh đạo phát triển văn hóa - xã hội

Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao. Từ thực tiễn tình hình địa phương, Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ XV xác định: “Nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá" gắn với thực hiện "chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới”; phấn đấu 100% xã điển hình về văn hóa; 60% số làng, cơ quan, trường học duy trì chuẩn
đơn vị văn hóa 3 năm liên tục; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội.
Thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng và

241
nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu. Phát triển sâu rộng phong trào thể dục, thể thao
quần chúng phù hợp với đối tượng, lứa tuổi, đầu tư nâng cao thành tích các môn thể thao mũi nhọn,
truyền thống. Huy động các nguồn lực, nhất là nguồn lực từ xã hội trong xây dựng các thiết chế văn
hóa cộng đồng, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa của địa phương gắn
với việc quy hoạch, xây dựng, phát triển các loại hình du lịch. Quản lý tốt nội dung, nâng cao hiệu
quả hoạt động của hệ thống phát thanh, trang thông tin điện tử”1.
Giai đoạn 2015-2020, các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục, thể thao diễn ra sôi nổi, khơi dậy
niềm tự hào, tinh thần thi đua lao động sản xuất của cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn.
Huyện đã huy động nguồn lực để xây dựng, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử -
văn hóa của địa phương như: Khu Chính phủ Cách mạng lâm thời, Nhà tằm Tân Tường, Đình làng
Chợ Phiên, Đền thờ vua Hàm Nghi và các tướng sỹ Cần Vương, Nhà lưu niệm nhà thơ Chế Lan
Viên.... Đề án “Nâng cấp, sửa chữa trung tâm văn hóa và học tập cộng đồng” được tập trung triển
khai gắn với phát huy các thiết chế văn hóa nông thôn mới; điện chiếu sáng, sóng truyền hình,
internet, sóng FM của Đài Phát thanh huyện đến100% thôn, bản, khu phố góp phần cải thiện đời
sống tinh thần cho nhân dân. Đến cuối năm 2020, 100% thôn, bản, khu phố trên địa bàn huyện đạt

1
. Huyện ủy Cam Lộ, Văn kiện Đại hội Đảng bộ lần thứ XV, nhiệm kỳ 2015-2020, tr 46
242
chuẩn văn hóa; 100% xã, thị trấn đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới và văn minh đô thị; 32 thôn, khu
phố và 8 cơ quan, đơn vị đạt danh hiệu văn hóa xuất sắc cấp tỉnh; trên 95% gia đình được công nhận
“Gia đình văn hóa”.
Nhận thức rõ tầm quan trọng chất lượng nguồn nhân lực đối vớităng trưởng bền vững của nền
kinh tế trong bối cảnh hội nhập hiện nay, cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống
chính trị từ huyện đến cơ sở đã có nhiều đổi mới trong công tác đào tạo, nâng cao nguồn nhân lực lao
động trực tiếp theo hướng: tập trung đào tạo, nâng cấp nghề phù hợp nhu cầu thị trường và xã hội,
gắn chặt dạy nghề với tạo việc làm và cung ứng các dịch vụ hỗ trợ áp dụng nghề; đào tạo, nâng cấp
nghề gắn với quy hoạch, kế hoạch tổ chức lại sản xuất trong nông - lâm - nghiệp, mở mang ngành
nghề dịch vụ, mở rộng hoạt động công nghiệp trên địa bàn theo chủ trương của Ban Chấp hành Đảng
bộ huyện và nhu cầu nhân lực tại các khu công nghiệp, khu kinh tế của tỉnh. Đến năm 2020, số lao
động trực tiếp trên địa bàn huyện có 22.663 người, trong đó qua đào tạo 12.752 người, đạt tỷ lệ 56,27
%; Số người sau khi đào tạo được cấp bằng, chứng chỉ 8.318/12.752 người, đạt tỷ lệ 65,23%. Tỷ lệ
lao động được việc làm ổn định sau học nghề bảo đảm 80%. Lao động có việc làm ổn định hàng năm
từ 1.000 - 1.100 người. Tỷ lệ lao động trẻ chuyển dịch vào khu vực phi nông nghiệp tăng dần qua
hàng năm, đến năm 2020, đạt 41,6%. Về cơ bản giai đoạn 2015-2020 đã giải quyết việc làm và

243
chuyển dịch cơ cấu lao động tạo động lực thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương
thuần nông sang hướng công nghiệp - dịch vụ.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số-kế hoạch hóa gia đình. Triển khai thực hiện
nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ y tế về chuyên môn nghiệp vụ và y đức. Đa dạng các
loại hình chăm sóc sức khoẻ, xây dựng phong trào chăm sóc sức khoẻ tại cộng đồng, sử dụng các
biện pháp và truyền thông về sức khoẻ, phát triển phương pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền. Duy
trì và nâng cao chất lượng xã (thị trấn) đã đạt chuẩn về y tế giai đoạn 2011-2020. Chủ động triển khai
công tác y tế dự phòng, kiểm tra, giám sát các loại dịch bệnh không để phát sinh thành dịch. Tuyên
truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, nâng cao chất lượng
mô hình làng không có người sinh con thứ 3 trở lên”1, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân đã có những chuyển biến tích cực; đội ngũ cán bộ y tế ngày càng được bổ sung, chất
lượng nâng cao. Thực hiện chủ trương của Trung ương; Kế hoạch số 84-KH/TU, ngày 27/4/2018 của
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; Quyết định số 1322/QĐ-UBND, ngày 15/6/2018 của Uỷ ban Nhân dân
tỉnh huyện Cam Lộ đã sáp nhập Trung tâm Dân số/Kế hoạch hóa gia đình vào Trung tâm Y tế huyện.
Năng lực quản lý về khám, chữa bệnh nhất là tuyến xã, tuyến huyện được cải thiện rõ rệt, quản lý y

1
. Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ XV,nhiệm kỳ 2015-2020, tr 47.
244
tế cộng đồng ngày càng hiệu quả, hiệu lực. Toàn huyện có 34 cơ sở hành nghề y tế tư nhân được tạo
điều kiện để phát triển. Công tác cải cách hành chính tiếp tục đẩy mạnh. Công tác vệ sinh, an toàn
thực phẩm được quan tâm. Từ năm 2015-2020, huyện không có ngộ độc thực phẩm xảy ra trên diện
rộng, đông người.
Trung tâm Y tế huyện và một số trạm y tế xã được xây dựng mới, nâng cấp; đầu tư thêm trang
thiết bị y tế theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa đáp ứng ngày càng cao nhu cầu chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe nhân dân. Tổng số giường bệnh toàn huyện tăng từ 80 giường (năm 2015) lên 150 giường (năm
2020). Trên nền tảng những năm trước và sau 3 năm xây dựng, năm 2017, cả 8/8 xã của huyện đạt
chuẩn quốc gia về y tế xã. Năm 2020, 100% trạm y tế xã có bác sĩ góp phần nâng cao chất lượng
khám và điều trị tuyến cơ sở. Công tác y tế dự phòng được chú trọng. Tuy nhiên do thời tiết thay đổi
thất thường nên năm 2016, 2017, 2019 trên địa bàn huyện xảy ra 211 ca bệnh sốt xuất huyết và 39
trường hợp tay - chân - miệng. Nhờ được phát hiện kịp thời, điều trị đúng phác đồ nên không lây lan
ra diện rộng và không dẫn đến tử vong. Đặc biệt năm 2020, đại dịch covid-19 diễn ra trên diện rộng,
diễn biến phức tạp, tốc độ lây nhanh và nguy cơ cao, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Ban Thường vụ
Huyện ủy, Uỷ ban nhân dân huyện đã xây dựng và ban hành kế hoạch phòng, chống dịch; xác định
từng cấp độ và kế hoạch hành động cụ thể tương ứng với từng cấp độ để chủ động phòng, chống dịch

245
bệnh. Thành lập ban chỉ đạo từ huyện đến cơ sở; thành lập các đội phản ứng nhanh; 432 tổ giám sát
phòng, chống dịch Covid-19với 1.181 tình nguyện viên tham gia hoạt động tích cực, có hiệu quả. Chỉ
đạo chuẩn bị sẵn sàng 04 khu cách ly tập trung bảo đảm đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ tốt công tác
cách ly đối với các công dân từ các vùng có dịch về địa phương với số lượng 714 người.Đến cuối
năm 2020, trên địa bàn huyện chưa ghi nhận trường hợp nhiễm Covid-19.
Nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của nhân dân thực hiện tốt công tác dân
số-kế hoạch hóa gia đình, nâng cao chất lượng mô hình làng không có người sinh con thứ 3 trở lên
được đẩy mạnh; tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên duy trì ở mức cho phép. Mô hình làng không có
người sinh con thứ 3 trở lên được duy trì. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm mạnh, dưới
5%; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 95%.
Giáo dục và đào tạo. Tiếp tục thực hiện chủ trương “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa-hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy đã có nhiều giải pháp sáng
tạo, chỉ đạo quyết liệt gắn mục tiêu giáo dục với xây dựng nông thôn mới vì vậy đãđạt nhiều kết quả
quan trọng; chất lượng dạy học được nâng lên cả về giáo dục đại trà và giáo dục mũi nhọn. Tỷ lệ huy

246
động và duy trì số lượng học sinh của các bậc học đạt ở mức cao; công tác phổ cập giáo dục được
duy trì và ngày càng nâng cao.
Năm 2018, thực hiện chủ trương của cấp trên, Cam Lộ đã hoàn thành sáp nhập các trường học,
từ 34 trường, xuống 24 trường, trong đó mầm non: 11; tiểu học: 05; tiểu học và trung học cơ sở 06;
trung học cơ sở: 02. Quy mô, mạng lưới trường, lớp được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn, hiệu quả.
Cơ sở vật chất được tăng cường, công tác xã hội hóa giáo dục và xây dựng trường chuẩn quốc gia đạt
kết quả toàn diện ở tất cả cấp học. Đến năm 2020, 100% trường học từ mầm non đến trung học cơ sở
đạt chuẩn quốc gia, trong đó có 07 trường đạt chuẩn mức độ 2 và 17 trường đạt chuẩn mức độ 1;
Trường Trung học phổ thông Cam Lộ, Lê Thế Hiếu và Chế Lan Viên đạt chuẩn quốc gia. Cam Lộ l à
huyện đầu tiên của tỉnh Quảng Trị cógần 100% trường học các cấp đạt chuẩn quốc gia; 91,7% trường
đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục.Năm học 2020-2021, năm học đầu tiên triển khai chương
trình giáo dục phổ thông 2018 và sách giáo khoa mới; ngành giáo dục tiếp tục tập trung thực hiện các
giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và mũi nhọn.
Thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TU ngày 15/02/2016, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị về tiếp tục
đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập, đến năm 2020, toàn huyện có 251 tổ
chức hội với tổng số hội viên 15.456; 12.112 gia đình đạt danh hiệu “Gia đình học tập; 81 dòng họ

247
đạt danh hiệu “Dòng họ học tập; 80 thôn, khu phố đạt danh hiệu “Cộng đồng học tập”; 54 đơn vị đạt
danh hiệu “Đơn vị học tập”; 8 xã, thị trấn đạt danh hiệu “Cộng đồng học tập cấp xã”. Những kết quả
đó có tác động tích cực đến học tập thường xuyên trong mỗi gia đình, dòng họ, cộng đồng, đơn vị,
góp phần giữ vững phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi,
phổ cập giáo dục trung học cơ sở vững chắc.
Đã thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho người có công
với nước, đối tượng chính sách xã hội. Đến năm 2020, an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân
dân tiếp tục được cải thiện. Các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, “nối vòng
tay nhân ái” tiếp tục được duy trì và hoạt động có hiệu quả. Tất cả các nghĩa trang liệt sĩ trên địa bàn
đều đúc đại hồng chung cung tiến.Chương trình mục tiêu giảm nghèo bền vững, các hoạt động xóa
đói giảm nghèo và các chính sách hỗ trợ cho người nghèo được quan tâm thực hiện. Quỹ “Đền ơn
đáp nghĩa” được các tổ chức, cá nhân tích cực hưởng ứng, giai đoạn 2015- 2020 đã huy động 2,3 tỷ
đồng xây dựng, nâng cấp, tôn tạo toàn bộ các nghĩa trang liệt sỹ, các công trình tri ân trên địa bàn và
nhà ở cho người có công, thân nhân người có công với cách mạng.

248
III. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VỮNG MẠNH TOÀN DIỆN, TẠO ĐIỀU
KIỆN VỮNG CHẮC THÚC ĐẨY KINH TẾ, XÃ HỘI PHÁT TRIỂN

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV nhiệm kỳ 2015-2020, xác định: “Xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ quốc phòng - an ninh với
phát triển kinh tế- xã hội; triển khai có hiệu quả các giải pháp nhằm hạn chế các loại tội phạm, củng
cố quốc phòng- an ninh, giữ vững ổn định chính trị, tạo điều kiện cho kinh tế- xã hội phát triển”.
Công tác quốc phòng. Trước tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp nhanh hơn dự báo;
tình hình trong nước cơ bản ổn định nhưng các thế lực thù địch, phản động tiếp tục đẩy mạnh âm
mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông, thiên tai, dịch bệnh... để kích
động, xuyên tạc đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước gây mất ổn định
tình hình an ninh chính trị; Bên cạnh đó, hoạt động của các loại tội phạm với nhiều phương thức, thủ
đoạn tinh vi, xảo quyệt, phạm vi hoạt động rộng, lưu động liên tỉnh, liên tuyến nhất là tội phạm trộm
cắp tài sản, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm ma túy, tội phạm liên quan đến tín dụng đen...
đã tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế- xã hội của huyện. Tiếp tục quán triệt Nghị quyết
Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và các chỉ thị, chương

249
trình, kế hoạch của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh; từ năm 2015 đến năm
2020, Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy đã ban hành các văn bản chỉ đạo sát hợp với tình hình .
Công tác quốc phòng đã đạt một số kết quả quan trọng: Duy trì, ổn định biên chế; nâng cao chất
lượng tổng hợp lực lượng thường trực cơ quan quân sự huyện; quản lý tốt lực lượng dự bị động viên,
xây dựng, tạo nguồn, sắp xếp kiện toàn tổ chức biên chế các đơn vị dự bị động viên, thực hiện
nghiêm công tác sinh hoạt nắm tình hình, kết hợp chi trả phụ cấp trách nhiệm, tổ chức huấn luyện,
kiểm tra sẵn sàng động viên, nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu các đơn vị dự bị động
viên. Ban Chỉ huy quân sự và dân quân các xã, thị trấn đạt chuẩn theo quy định; Chỉ huy trưởng, Chỉ
huy phó quân sự cấp xã 100% đạt trình độ từ trung cấp quân sự cơ sở, trung cấp lý luận chính trị trở
lên. Tổ chức biên chế lực lượng dân quân tự vệ, được kiện toàn. Đến năm 2020, toàn huyện có 25
đơn vị cơ sở; trong đó 14 ban chỉ huy quân sự (cấp xã 08, cơ quan, tổ chức 06), 11 đơn vị tự vệ. 100
% ban chỉ huy quân sự cơ sở đủ 04 đ/c. Tổng số dân quân tự vệ đạt tỷ lệ 1,93% so với dân số. Trong
đó: Đảng viên: đạt tỷ lệ 33,4%; Đảng viên trong dân quân đạt, tỷ lệ 32,1%; Đảng viên trong tự vệ đạt
tỷ lệ 46,1%. Chất lượng tổng hợp và trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, độ tin cậy lực lượng dân
quân nòng cốt được nâng cao, đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong

250
mọi tình huống. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng vũ trang trên địa bàn làm tốt công tác phòng, chống
thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, phòng chống cháy nổ, cháy rừng.
Nghị quyết số 03-NQ/HU, ngày 17/06/2013 của Huyện ủy và Đề án số 01 của Ủy ban nhân dân
huyện về nâng cao chất lượng chính trị trong lực lượng dân quân nòng cốt, bảo đảm lực lượng dân
quân tự vệ có độ tin cậy về chính trị, đủ khả năng sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu, chiến đấu
thắng lợi trong mọi tình huống đã được triển khai, tổ chức thực hiện nghiêm túc. Các cơ quan, đơn
vị, địa phương trên địa bàn huyện phát động, duy trì có hiệu quả phong trào thi đua “Lực lượng vũ
trang huyện chung tay xây dựng nông thôn mới; đô thị văn minh giai đoạn 2016-2020”; chăm lo xây
dựng cơ sở vững mạnh toàn diện; cụm an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu, an ninh trật tự. Hoàn
thành quy hoạch thế trận quân sự, quy hoạch đất vùng lõi căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương cấp
huyện, từng bước xây dựng, hoàn thiện sở chỉ huy luyện tập, diễn tập. Năm 2016, huyện tổ chức diễn
tập chiến đấu phòng thủ cụm Cam An, Cam Thanh, Cam Thủy đạt kết quả tốt. Năm 2017 , diễn tập
khu vực phòng thủ cấp huyện được tỉnh đánh giá cao. Năm 2018, tổ chức diễn tập chiến đấu phòng
thủ tại 02 xã: Cam Chính, Cam Nghĩa bảo đảm chất lượng, an toàn. Năm 2019, tổ chức diễn tập
chiến đấu khu vực phòng thủ tại xã Cam Thành đạt kết quả tốt.Hàng năm, thực hiện tốt công tác
tuyển quân, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu.Năm 2020, các lực lượng vũ trang phối hợp chặt chẽ với

251
chính quyền địa phương, các đơn vị nắm chắc tình hình, làm tốt công tác tiếp nhận, cách ly phòng
chống dịch Covid-19, công tác cứu hộ, cứu nạn, nhất là các đợt mưa lũ tháng 10, 11.Công tác tuần
tra, kiểm tra, trực sẵn sàng chiến đấu được duy trì thường xuyên, bảo đảm an toàn tuyệt đối các sự
kiện chính trị trọng đại của quê hương, đất nước, đặc biệt là cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV;
Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 và Đại hội Đảng các cấp trong hai năm 2019-2020.
Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ cấp huyện vững chắc. Trong giai đoạn 2015-2020, cơ quan
Quân sự huyện Cam Lộ luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Về công tác an ninh.Quán triệt chủ trương của Đảng về công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong
tình hình mới, Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy đã ban hành các văn bản lãnh đạo; chỉ đạo Ủy
ban nhân dân huyện xây dựng kế hoạch phòng, chống khủng bố (phương án A2) trên địa bàn đồng
thời thường xuyên điều chỉnh, bổ sung nội dung sát hợp với tình hình địa phương; tổ chức hội nghị
rút kinh nghiệm xử lý tình huống về an toàn chính trị-trật tự, an toàn xã hội giai đoạn 2015-2018; chỉ
đạo giải quyết các vụ việc liên quan đến tranh chấp, khiếu kiện; bảo đảm an ninh trật tự các sự kiện
địa phương, không để xảy ra tình hình phức tạp phát sinh.

252
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đi vào chiều sâu. Một số mô hình, như: "Họ, tộc
không có người vi pháp luật", "Phật giáo huyện Cam Lộ tham gia bảo vệ an ninh trật tự và xây dựng
nông thôn mới", "Giáo xứ Phước Tuyền chung tay bảo vệ an ninh Tổ quốc và xây dựng nông thôn
mới", "Văn nghệ sỹ, trí thức, những người yêu thơ tham gia bảo vệ an ninh trật tự và xây dựng nông
thôn mới" đã phát huy hiệu quả, được tỉnh biểu dương và trở thành các mô hình điểm về phong trào
bảo vệ an ninh Tổ quốc trong toàn tỉnh. Đến năm 2020 trên địa bàn huyện Cam Lộ không xuất hiện
các tổ chức, hội đoàn, câu lạc bộ có hoạt động phức tạp liên quan đến an ninh quốc gia; không xảy ra
trọng án, không có tụ điểm phức tạp về trật tự xã hội, không có tội phạm hoạt động theo kiểu băng
nhóm, xã hội đen. Các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật khác được kiềm chế. Tỷ lệ
khám phá án cao; trong đó tỷ lệ điều tra khám phá án đối với án ít nghiêm trọng đạt tỷ lệ 94,2 %; án
nghiêm trọng tỷ lệ 99,6%; án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đạt tỷ lệ 100 %, tỷ lệ điều tra
khám phá án chung đạt 96,9%. Công tác quản lý Nhà nước về trật tự, an toàn xã hội được đẩy mạnh,
triển khai quyết liệt trên các lĩnh vực đạt được nhiều kết quả. Công tác cứu nạn, cứu hộ được triển
khai kịp thời và hiệu quả; Các cơ quan chuyên môn đã tuyên truyền, vận động nhân dân giao nộp 33
khẩu súng, phát hiện, xử lý hàng ngàn công cụ hỗ trợ trái phép; xử lý 18/32 đối tượng tàng trữ, mua
bán và đốt pháo nỗ trái phép; các vụ cháy, nỗ giai đoạn 2015-2020 giảm so với trước.

253
Tiếp tục, thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy về “Nâng cao chất
lượng chính trị lực lượng Công an viên, bảo vệ dân phố đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới, giai đoạn 2013-2017”, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lựclực lượng công an viên đã
được chú trọng. Từ năm 2019, huyện bắt đầu triển khai chủ trương điều động công an chính quy về
công tác tại xã, thị trấnvà đến cuối năm 2020, 100% xã, thị trấn đã hoàn thành nhiệm vụ này, góp
phần quan trọng xây dựng xã, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường đạt chuẩn “An toàn về an
ninh trật tự”. Trên 90% thôn, bản, khu phố đạt tiêu chuẩn an toàn an ninh trật tự. Công an huyện luôn
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Bộ Công an tặng cờ thi đua xuất sắc hai năm liền (2019-2020).

IV. NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ; PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN

1. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ

Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy dành nhiều thời gian khảo sát,
đánh giá kết quả thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh và Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện qua các nhiệm kỳ; phân tích những thách thức, khó khăn, điểm yếu để có giải pháp

254
tháo gỡ, từ đó xây dựng và ban hành các nghị quyết sát với thực tiễn của địa phương, tập trung chỉ
đạo với phương châm “phải thật trọng tâm, làm cái gì ra cái đó”;đồng thời, cụ thể hóa Nghị quyết
Đại hội thành 04 nội dung trọng tâm để tập trung lãnh đạo xuyên suốt cả nhiệm kỳ, làm cơ sở để các
địa phương, các ngành xây dựng kế hoạch huy động nguồn lực. Nhiều vấn đề nổi cộm, khâu khó
trong chỉ đạo, điều hành được chú trọng tháo gỡ, nhất là các vấn đề phát triển kinh tế, xây dựng nông
thôn mới; giảm thiểu việc chồng chéo chức năng nhiệm vụ, phân tán các nguồn lực; chuyển đổi tư
duy quản lý hành chính sang phục vụ nhân dân cho đội ngũ cán bộ, công chức. Hàng năm, Ban Chấp
hành Đảng bộ huyện Cam Lộ đều chọn chủ đề trọng tâm để tập trung chỉ đạo. Quy trình xây dựng và
ban hành nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy được đổi mới. Theo
đó, nội dung các nghị quyết, kết luận được bàn bạc, thảo luận dân chủ, thể hiện vai trong lãnh đạo
của cấp ủy trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, xã hội.
Công tác chính trị, tư tưởng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV xác định 03 nội
dung trọng tâm, đó là: Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng nhằm củng cố và tăng cường
sự thống nhất về tư tưởng chính trị trong Đảng bộ, đồng thuận trong nhân dân; Thường xuyên coi
trọng nhiệm vụ giáo dục rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu
nước, tự hào dân tộc và truyền thống cách mạng quê hương cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; Tiếp

255
tục tuyên truyền, giáo dục, tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII)
"về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ" gắn với việc thực hiện
Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”; và các diễn đàn sinh hoạt chi bộ về “Vai trò của chi bộ Đảng trong việc giáo dục, quản lý cán
bộ, đảng viên để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Triển khai nhiệm vụ trên, Ban Thường vụ Huyện
ủy đã tập trung chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân. Việc quán triệt, tổ chức học tập nghị quyết của Đảng các cấp trong
nhiệm kỳ được tiến hành nghiêm túc, ngày càng đổi mới; chất lượng học tập có bước nâng cao, đối
tượng học tập mở rộng; Theo đó, Ban Thường vụ Huyện ủy chịu trách nhiệm quán triệt nghị quyết
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện; Bí thư Cấp ủy các tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ báo cáo
viên cấp huyện chịu trách nhiệm triển khai nghị quyết...gắn với xây dựng các chương trình hành
động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết cho tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị. Sau học tập nghị quyết có tổ
chức viết thu hoạch, trong đó có nội dung đề xuất giải pháp được thực hiện nghiêm túc, chất lượng.
Từ năm 2019, Huyện ủy đã đầu tư kinh phí để kết nối đường truyền trực tuyến từ huyện đến một số

256
phòng, ban và các xã, thị trấn trên địa bàn tạo điều kiện cho việc học tập, quán triệt nghị quyết của
Đảng kịp thời, chất lượng hơn. Các cấp ủy đảng đã làm tốt công tác tuyên truyền, bồi dưỡng, giáo
dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên. Thường xuyên theo dõi, nắm bắt
tình hình diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, kịp thời định hướng
thực hiện nhằm nâng cao nhận thức, chính trị tư tưởng, tinh thần cảnh giác; ngăn ngừa những biểu
hiện cán bộ, đảng viên giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, nói không đi đôi với làm; nêu
cao cảnh giác đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, phản động. Chỉ đạo thực hiện nghiêm các
quy định của Đảng về kỷ luật phát ngôn, đấu tranh chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch. Duy trì tốt hội nghị giao ban, trực báo định kỳ; thực hiện nghiêm túc công tác tiếp dân,
tập trung giải quyết các vấn đề nổi cộm, bức xúc và những vấn đề trong thực tiễn đặt ra. Chú trọng
nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, xây dựng đội ngũ cán bộ Tuyên giáo các
cấp bảo đảm về số lượng và chất lượng.
Công tác nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền lịch sử Đảng được chú trọng, tiếp tục đẩy mạnh
theo tinh thần Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về tiếp tục

257
tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng”. Đến
năm 2020, có 100 % xã trên địa bàn xuất bản lịch sử Đảng bộ.
Công tác truyên truyềnđược triển khai tích cực. Hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên các cấp; cộng tác viên dư luận xã hội thực hiện có nền nếp. Việc cung cấp thông tin, định
hướng dự luận kịp thời và có nhiều đổi mới; bảo đảm thông tin hai chiều thường xuyên và kịp thời,
giúp các cấp ủy đảng giải quyết những vấn đề bức xúc, nảy sinh từ cơ sở. Việc mua, đọc tạp chí của
Đảng theo quy định và tình hình thực tiễn. Hàng tháng, Ban Tuyên giáo Huyện ủy đã tổ chức hội
nghị báo cáo viên để cung cấp thông tin, định hướng công tác tuyên truyền; biên soạn tài liệucủa địa
phương phục vụ sinh hoạt hàng tháng của chi bộ. Các cơ quan chuyên trách làm công tác tuyên
truyền đã thể hiện tốt vai trò nòng cốt trong tham mưu chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ về
công tác tư tưởng - văn hóa. Các tổ chức đảng trên địa bàn đã tổ chức nhiều hoạt động có ý nghĩa,
góp phần nâng cao nhận thức, niềm tự hào về truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đảng,
của Nhân dân ta; củng cố và bồi đắp niềm tin khoa học vào Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn; giữ vững sự đoàn kết toàn dân tộc, khơi
dậy khát vọng, ý thức tự cường dân tộc.

258
Thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 20/10/2018, của Bộ Chính trị, Kế hoạch số
14-KH/TW, ngày 25/3/2019 của Ban Bí thư và Kế hoạch số 133-KH/TU, ngày 20/6/2019 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm
sai trái, thù địch trong tình hình mới dần dần đi vào nền nếp. Năm 2019, Ban Thường vụ Huyện ủy
đã thành lập Ban Chỉ đạo gồm 9 thành viên; đồng chí Nguyễn Ký Ngọc, Phó Bí thư Thường trực
Huyện ủy làm Trưởng Ban.
Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Ban Thường vụ Huyện ủy đã ban hành các văn
bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện. Cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội; các cơ quan, đơn vị trên địa bàn huyện bám sát kế hoạch
của Ban Thường vụ Huyện ủy xây dựng kế hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ. Việc tổ chức học tập chỉ thị số 05-CT/TW và các
chuyên đề hàng năm được triển khai nghiêm túc. Kết quả giai đoạn 2015- 2020 đã tổ chức được 55
lớp với 7.084 lượt cán bộ, đảng viên tham gia, đạt tỷ lệ 90,68%. Cùng với đó, cấp ủy các chi bộ đã
lồng ghép nội dung các chuyên đề vào các buổi sinh hoạt chi bộ hội nghị các đoàn thể; Trung tâm

259
Chính trị huyện đưa nội dung này vào giảng dạy các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho đối tượng
Đảng, cập nhật lý luận chính trị, kiến thức mới cho đối tượng 5.
Khắc phục tình trạng trong tổ chức "học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" ở
một số tổ chức Đảng còn mang tính hình thức, kết quả "làm theo" chưa rõ nét, nhiệm kỳ 2015-2020,
Huyện ủy đã gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện
nhiệm vụ chính trị qua chủ đề hàng năm 1. Trên tinh thần đó, cấp ủy các tổ chức cơ sở đảng, các cơ
quan, đơn vị thuộc Đảng bộ huyện Cam Lộ đã xác định chủ đề, nội dung lãnh đạo phù hợp; chọn một
số khâu đột phá tập trung giải quyết những vấn đề nảy sinh ở cơ sở; Định kỳ tổ chức trực báo với bí
thư các chi bộ trực thuộc; tổ chức đối thoại trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; cử cán bộ, đảng
viên các phòng, ban cấp huyện về sinh hoạt tại các chi bộ thôn, bản, khu phố ...góp phần đổi mới
phương thức lãnh đạo, điều hành, đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nông thôn mới, tích cực
xây dựng niềm tin, lan tỏa phong trào bằng sự đồng tình hưởng ứng của cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Nhiều tập thể và cá nhân được Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy khen trong

1
. “Năm cải cách hành chính” với mục đích “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị trên địa bàn huyện Cam Lộ năm 2016, định hướng đến năm 2020”; năm 2017: “Năm hành động, nói
đi đôi với làm; năm 2018: “Hướng về cơ sở” và hành động “Sâu sát, toàn diện, quyết liệt, hiệu quả” và năm 2019: “Năm
nông thôn mới” để tập trung chỉ đạo hoàn thành các tiêu chí, phấn đầu “về đích” trước năm 2020.
260
thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức, bộ máy Đảng và hệ thống chính trị. Thực hiện Nghị
quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn
đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả”; Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XII “Về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của
các đơn vị sự nghiệp công lập”; Kế hoạch số 84-KH/TU, ngày 27/4/2018; Kế hoạch số 86-KH/TU,
ngày 07/5/2018 của Tỉnh ủy và Quyết định số 1322- QĐ-UBND, ngày 15/6/2018 của Ủy ban Nhân
dân tỉnh về việc triển khai, tổ chức thực hiện 02 nghị quyết trên; Cam Lộ đã sáp nhập 02 xã Cam An
và Cam Thanh thành xã Thanh An; tiến hành sắp xếp các cơ quan, đơn vị, trường học, sáp nhập đơn
vị hành chính. Theo đó, toàn huyện hiện còn 7 xã và 01 thị trấn; giảm 3 đơn vị sự nghiệp cấp huyện,
10 trường tiểu học, 25 thôn, khu phố; kiện toàn bộ máy cấp xã, thôn, bản, khu phố bảo đảm đúng quy
trình, tiến độ, được cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân cơ bản đồng tình, ủng hộ. Sau khi sáp
nhập về mặt nhà nước, Ban Thường vụ Huyện ủy đã kịp thời củng cố, kiện toàn tổ chức đảng. Đến
năm 2020, toàn huyện có 12 đảng bộ và 31 chi bộ cơ sở, tăng 2 đảng bộ so với giai đoạn 2010-2015;

261
có 133 chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở. Về cơ bản việc sáp nhập và thành lập các tổ chức đảng phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ bảo đảm yêu cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cơ
quan, đơn vị. Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy đã tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức đảng, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh.
Tiếp tục nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo các tổ chức
cơ sở đảng tổ chức diễn đàn sinh hoạt chi bộ theo Kế hoạch số 47-KH/TU ngày 22/3/2017 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy. Qua diễn đàn, đã giúp tổ chức đảng và đảng viên nâng cao nhận thức, tinh thần
“tự soi”, “tự sửa” ý thức rèn luyện; sâu sát hơn với cơ sở; phát huy tinh thần đoàn kết, ý thức trách
nhiệm, xây dựng cơ quan đơn vị ngày càng vững mạnh. Việc tổ chức chào cờ và sinh hoạt tư tưởng
dưới cờ vào ngày thứ hai tuần đầu tháng được duy trì đều đặn, nội dung ngày càng được bổ sung
hoàn thiện, chất lượng ngày càng cao, tính lan tỏa ngày càng rộng.
Công tác đánh giá chất lượng hàng năm đối với tổ chức đảng được tiến hành đúng quy định, lấy
kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị, kết quả cam kết trách
nhiệm của cấp ủy, nhất là người đứng đầu hàng năm làm thước đo, tiêu chí để đánh giá và xem xét
các danh hiệu thi đua. Nhờ vậy, vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng được nâng lên. Giai đoạn
2015-2020, bình quân hàng năm có trên 98% tổ chức cơ sở đảng và các chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ

262
sở được xếp loại hoàn thành nhiệm vụ trở lên; trong đó có hàng chục tổ chức cơ sở đảng, chi bộ trực
thuộc đảng ủy liên tục nhiều năm đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh và được khen thưởng trong
sạch vững mạnh tiêu biểu.
Về công tác quản lý, đánh giá, nâng cao chất lượng đảng viên. Ngày 21/10/2016, Ban Thường
vụ Huyện ủy ban hành Kế hoạch số 21-KH/HU “về cử đảng viên công tác ở cơ quan, đơn vị cấp
huyện về tham gia sinh hoạt tại chi bộ thôn, bản, khu phố trực thuộc đảng bộ xã, thị trấn”. 103 đảng
viên trong đó có 45 đảng viên trẻ đang công tác tại các phòng, ban, ngành cấp huyện về tham gia
sinh hoạt tại các chi bộ thôn, bản; thời gian 3 năm. Giải pháp có tính đột phá này góp phần từng bước
nâng cao năng lực lãnh đạo của các chi bộ thôn, bản, khu phố; đồng thời, là cách để rèn luyện đội
ngũ cán bộ trong diện quy hoạch. Đội ngũ trưởng, phó phòng, ban cấp huyện và cán bộ thuộc diện
quy hoạch được cử về tham gia sinh hoạt tại chi bộ nông thôn để rèn luyện thực tiễn. Thông qua rèn
luyện, đội ngũ cán bộ các cấp đã có bước trưởng thành cả về nhận thức, phẩm chất, năng lực chuyên
môn, tuân thủ kỷ cương, nâng cao ý thức phục vụ người dân và doanh nghiệp. Triển khai chủ trương
trực báo bí thư chi bộ tại các cụm xã, thị trấn theo định kỳ; Việc phân công nhiệm vụ gắn với đánh
giá đảng viên được thực hiện nghiêm túc. Công tác quản lý đảng viên đi làm ăn xa, đảng viên đi học
tập, thăm thân người ngoài nước được coi trọng.

263
Cấp ủy các chi bộ, Đảng ủy đã chấn chỉnh việc quản lý đảng viên đang công tác sinh hoạt nơi cư
trú theo Quy định số 76-QĐ/TW của Bộ Chính trị và từ năm 2020 là Quy định số 213-QĐ/TW của
Bộ Chính trị về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức
đảng và nhân dân nơi cư trú.
Triển khai chủ trương của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đánh gía cán bộ, Ban Thường vụ Huyện
ủy Cam Lộ đã ban hành quyết định số 521-QĐ/HU, ngày 29/11/2016 về “Ban hành thí điểm khung
đánh giá năng lực cán bộ, công chức” để thí điểm đối với một số chức danh thuộc diện Ban Thường
vụ Huyện ủy quản lý. Tiếp theo, ngày 22/10/2018, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Quyết định số
1199-QĐ/HU “về quy chế đánh giá cán bộ, công chức và khung tiêu chí đánh giá cán bộ diện Ban
Thường vụ Huyện ủy trực tiếp nhận xét, đánh giá và quản lý” để chỉ đạo thực hiện.
Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ đảng viên, cán bộ quản lý ngày càng chặt chẽ, đúng người,
đúng việc. Các cấp ủy chi bộ thực hiện tốt việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên phù hợp lĩnh vực
công tác; tăng cường quản lý, phát huy vai trò trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu của đảng viên
trong thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao cũng như thực hiện nghĩa vụ của công dân nơi cư trú.
Phân công đảng viên tham gia làm nòng cốt trong các ban, ngành, đoàn thể ở thôn, bản, khu phố, bảo
đảm tính thống nhất, kịp thời và thông suốt trong việc triển khai, tổ chức thực hiện các chủ trương,

264
nghị quyết của Đảng ở địa bàn dân cư. Nhiều đảng viên tuy tuổi đời cao, sức khỏe hạn chế nhưng
vẫn tích cực tham gia các hoạt động, đóng góp nhiều ý kiến xây dựng tâm huyết và thực sự có tác
dụng đối với các hoạt động ở địa phương. Hầu hết cán bộ, đảng viên có lập trường quan điểm chính
trị vững vàng, giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, hoàn thành chức trách nhiệm vụ được
giao. Qua đánh giá, phân loại bình quân hàng năm có trên 98% đảng viên hoàn thành nhiệm vụ trở
lên, nhiều đảng viên đạt tiêu chuẩn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Ban
Thường vụ Huyện uỷ tặng bằng khen và giấy khen. Hàng năm, Ban Thường vụ Huyện ủy làm thủ tục
đề nghị xét, tặng Huy hiệu Đảng và tổ chức trang trọng lễ trao tặng cho các đảng viên theo quy định
của Đảng.
Công tác chính sách, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được chú trọng. Ngày 30/5/2016, Ban Thường
vụ Huyện ủy ban hành Quy định số 03-QĐ/HU “về một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ đào tạo,
bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2020”; chỉ đạo Ủy ban Nhân dân
huyện ban hành quy định mức hỗ trợ đối với cán bộ, công chức, viên chức được cử đi đào tạo bồi
dưỡng. Năm 2018, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành 04 quyết định về quy định việc bổ nhiệm cán
bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử; quy định về phân cấp, quản lý cán bộ, về chính sách đối với diện Ban
Thường vụ Huyện ủy quản lý; chính sách đối với cán bộ luân chuyển.

265
Giai đoạn 2015-2020, Huyện phối hợp với Trường Chính trị Lê Duẩn mở 02 lớp Trung cấp Lý
luận chính trị tại huyện với 159 học viên; Trung tâm Chính trị huyện bồi dưỡng sơ cấp lý luận chính
trị 2 lớp với 108 học viên và đào tạo 1 lớp có 60 học viên. Về cơ bản Huyện đã h oàn thành đào tạo lý
luận chính trị từ trung cấp trở lên cho cán bộ thuộc diện quy hoạch; gửi đào tạo cán bộ có trình độ
sau đại học thuộc 15 ngành huyện đang thiếu. Hàng năm, tùy theo tình hình cụ thể Ban Thường vụ
Huyện ủy chỉ đạo các ban tham mưu, Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị (nay là Trung tâm Chính trị)
mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng cho cán bộ làm công tác Đảng ở cơ sở.
Công tác quy hoạch, rà soát quy hoạch cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện, cấp xã được
thực hiện nghiêm túc. Năm 2017, thực hiện chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và hướng dẫn của
Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Huyện ủy Cam Lộ đã tiến hành rà soát, bổ sung quy hoạch ban chấp hành, ban
thường vụ Huyện ủy nhiệm kỳ 2015-2020 và nhiệm kỳ 2020-2025; chỉ đạo rà soát và phê duyệt quy
hoạch cấp ủy, ban thường vụ, các chức danh lãnh đạo, quản lý nhiệm kỳ 2015-2020 và quy hoạch
nhiệm kỳ 2020-2025 của các tổ chức cơ sở đảng và các cơ quan đơn vị cấp huyện. Theo đó, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy đã phê duyệt quy hoạch Ban Chấp hành Đảng bộ huyện 74 đồng chí; Ban
Thường vụ Huyện ủy 17 đồng chí; 13 đồng chí giới thiệu quy hoạch vào 27 lượt chức danh lãnh đạo,
quản lý cấp huyện. Ban Thường vụ Huyện ủy cũng đã phê duyệt 208 đồng chí cấp ủy tổ chức cơ sở

266
đảng, 55 đồng chí vào ban thường vụ và 137 đồng chí vào các chức danh quản lý cấp xã. Chỉ đạo
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện và các đoàn thể chính trị- xã hội quy hoạch ban chấp hành, ban
thường vụ cán bộ chủ chốt theo nhiệm kỳ.
Trên cơ sở tình hình thực tế của địa phương, từ năm 2017 đến năm 2020, Ban Thường vụ Huyện
ủy đã quyết định luân chuyển, điều động 13 đồng chí cán bộ lãnh đạo, quản lý; Trong đó cán bộ lãnh
đạo phòng, ban, ngành cấp huyện về làm bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân
các xã, thị trấn; 5 Đồng chí điều động từ khối Đảng sang khối Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và ngược lại; 03 cán bộ lãnh đạo các xã, thị trấn được điều động
lên công tác tại cơ quan, đơn vị cấp huyện để bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo .
Năm 2016, thực hiện đề án 1618-ĐA/TU, ngày 27/02/2015 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Đào
tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã”, Ban Thường vụ Huyện ủy đã thành lập Hội đồng, kết quả đã
tuyển chọn và bố trí 18 cán bộ cho 9 đảng ủy xã, thị trấn.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/HU, Kết luận số 29- KL/HU, ngày 28/11/2011 về công
tác phát triển đảng viên, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo các cấp ủy làm tốt công tác tuyên
truyền, giáo dục, bồi dưỡng quần chúng tạo nguồn phát triển đảng. Chú trọng kết nạp đảng viên ở
trong doanh nghiệp ở những thôn có ít và chưa có đảng viên, tập trung bồi dưỡng quần chúng trong

267
độ tuổi đoàn thanh niên, quần chúng nữ, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo. Đến năm 2020,
Huyện đã tổ chức 16 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho 805 đối tượng kết nạp đảng; kết nạp 565
đảng viên mới, đưa tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ lên 2.844 đảng viên (năm 2020), bình quân
mỗi năm kết nạp 125 đảng viên mới; hoàn thành việc xóa thôn không có đảng viên.
Các cấp uỷ, tổ chức đảng đã triển khai, thực hiện nghiêm túc các quy định, hướng dẫn của
Trung ương, của tỉnh về kiểm tra kỹ thuật thẻ đảng viên. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ; tiến hành
thẩm tra, xác minh và kịp thời kết luận tiêu chuẩn chính trị đối với cán bộ, đảng viên và quần chúng
xem xét kết nạp đảng được tiến hành nghiêm túc, kịp thời theo quy định của Đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát được nâng cao. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới,
Cấp ủy và uỷ ban kiểm tra các cấp đã bám sát nhiệm vụ chính trị, chủ động xây dựng và tổ chức thực
hiện tốt chương trình kiểm tra, giám sát hàng năm; đưa việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật trong Đảng đi vào nền nếp và phát huy hiệu quả; góp phần quan trọng trong việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ huyện. Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện uỷ đã kịp thời
quán triệt đầy đủ các văn bản của Trung ương, của Tỉnh về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật trong Đảng đến toàn thể cán bộ, đảng viên và đội ngũ làm công tác kiểm tra của đảng các cấp.
Thông qua việc triển khai học tập, quán triệt các văn bản của Trung ương, Tỉnh uỷ, nhận thức của

268
cấp uỷ, các tổ chức đảng, đảng viên về nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của Đảng được nâng lên rõ rệt,
góp phần quan trọng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của
Đảng bộ. Đội ngũ cán bộ kiểm tra của Ủy ban Kiểm tra Huyện uỷ và đảng uỷ cơ sở từng bước được
bổ sung, kiện toàn. Công tác tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác kiểm tra ở cơ sở được cấp
ủy quan tâm chỉ đạo. Trong nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Huyện ủy kiểm tra, giám sát 34 tổ chức đảng
và 13 đảng viên; cấp ủy cơ sở kiểm tra, giám sát 177 tổ chức đảng và 41 đảng viên; các tổ chức đảng
đã xử lý kỷ luật 104 đảng viên, trong đó khiển trách 84 đảng viên; cảnh cáo 15 đảng viên; cách chức
01 đảng viên; khai trừ 04 đảng viên.
Về công tác nội chính, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo quán triệt, triển khai tổ chức thực
hiện nghiêm túc các văn bản của Trung ương, của Tỉnh về công tác nội chính, phòng chống tham
nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí và cải cách tư pháp; tập trung kiểm tra, giám sát, thanh tra
trách nhiệm của tổ chức, cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong thực hiện các quy định
của Luật Phòng chống tham nhũng. Thường trực Huyện ủy duy trì chế độ giao ban khối nội chính để
nắm bắt tình hình và chỉ đạo giải quyết những vấn đề phức tạp, nổi cộm phát sinh trên địa bàn; chỉ
đạo công tác phối hợp giữa các ngành trong khối, thống nhất các biện pháp đấu tranh phòng chống
các loại tội phạm; nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo tinh thần cải cách tư

269
pháp. Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định. Thực hiện Quy định
số 11-QĐi/TW, ngày 10/02/2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong
việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân; đồng chí Bí thư
Huyện ủy, Bí thư Đảng ủy xã, thị trấn trực tiếp chỉ đạo giải quyết các vụ việc phức tạp, nổi cộm trên
địa bàn. Để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, huyện tập trung thực
hiện việc sắp xếp tổ chức bộ máy, mô tả vị trí việc làm gắn với rà soát các thủ tục hành chính bảo
đảm nhanh gọn trong giao dịch; nâng cao tính dân chủ, khách quan, minh bạch trong công tác đánh
giá, quy hoạch, bổ nhiệm và phân loại cán bộ, đảng viên hàng năm; siết chặt kỷ cương quản lý, kỷ
luật nghiêm minh. Đồng thời với tăng cường tính công khai, minh bạch trong chỉ đạo, điều hành của
cấp ủy, chính quyền, Ban Thường vụ Huyện uỷ chỉ đạo Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam huyện triển khai nghiêm túc công tác giám sát hoạt động của cán bộ, đảng viên, nhất
là người có chức vụ, các bộ phận trực tiếp giao dịch hành chính.
Công tác dân vận có những chuyển biến cơ bản về nhận thức, nội dung và phương thức tiến
hành. Các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện và các đoàn thể chính trị-xã hội
đã chuyển tải kịp thời, đầy đủ các chủ trương, nghị quyết, kế hoạch hành động đến từng địa bàn dân
cư; thực hiện cùng bàn, cùng làm với nhân dân; tạo điều kiện để nhân dân thực hành dân chủ và phát

270
huy quyền làm chủ của mình. Tổ Dân vận thôn, bản, khu phố tiếp tục phát huy hiệu quả phong trào
thi đua dân vận khéo. Công tác dân vận của chính quyền các cấp có bước tiến bộ; cụ thể hóa quan
điểm, chủ trươngcủa Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Công tác tiếp dân, đối thoại với
người dân; thực hiện quy chế dân chủ dần thành nền nếp bước đầu mang lại hiệu quả. Nổi bật trong
nhiệm kỳ việc huy động sức dân tham gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh đã có sự đổi mới
cách nghĩ, cách làm trong vận động quần chúng. Phần đông cán bộ, công chức, viên chức gương mẫu
thực hiện tốt nghĩa vụ tại khu dân cư sinh sống; thường xuyên hơn trong tiếp xúc, gặp gỡ, đối thoại
với nhân dân; đến tận thôn, bản, vùng sản xuất để đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn, động viên nhân dân
và chung sức cùng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang nông thôn, đô thị. Qua đó đã góp
phần tích cực xây dựng mối quan hệ mật thiết với nhân dân, thể hiện sự tôn trọng dân, tăng cường
lòng tin của nhân dân với Đảng.
2. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực điều hành, quản lý Nhà nước của chính quyền từ huyện đến
cơ sở

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện nhiệm kỳ 2015-2020 đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục đổi mới công
tác quản lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp” . Đẩy mạnh cải cách
hành chính nhất là nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế
271
"Một cửa" cấp huyện, cơ sở, công khai minh bạch các nội dung, thủ tục theo quy định để nhân dân
giám sát. Tập trung rà soát và chủ động giải quyết, xử lý dứt điểm những vấn đề bức xúc tồn đọng
kéo dài trên các lĩnh vực, nhất là tranh chấp đất đai, địa giới hành chính bảo đảm đúng quy định của
pháp luật. Duy trì công tác tiếp dân theo quy chế, chỉ đạo giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo theo
đúng quy trình, thẩm quyền quy định, không đùn đẩy trách nhiệm. Tăng cường các cuộc thanh tra
trên các lĩnh vực như xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, tài chính nhằm kịp thời phát hiện và chấn
chỉnh các sai phạm, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước, xây dựng bộ máy chính
quyền trong sạch, vững mạnh”.
Năm 2016, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2016-2021 thành công. Toàn huyện có 99,4 % cử tri đã tham gia bầu cử. Đồng chí Đào
Mạnh Hùng, Bí thư Huyện ủy, được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân huyện.
Nhiệm kỳ 2016-2021, Hội đồng Nhân dân huyện tổ chức 15 kỳ họp, trong đó 10 kỳ họp thường
lệ và 05 kỳ họp chuyên đề. Công tác chuẩn bị và tổ chức kỳ họp theo luật định nhưng có đổi mới,
theo hướng giảm thời gian trình bày các báo cáo, tờ trình...để tập trung thời gian thảo luận, trong đó
tập trung vào những vấn đề bức xúc, những vấn đề mới, quan trọng của địa phương. Chất lượng thẩm
tra của các ban Hội đồng Nhân dân được nâng lên. Hầu hết, các đại biểu Hội đồng Nhân dân huyện

272
đã phát huy vai trò, trách nhiệm; nắm vững và vận dụng tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và thực tiễn cuộc sống để thực thi nhiệm vụ người đại biểu nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết số 85/2014/QH13, ngày 26/11/2014 của Quốc hội, kỳ họp thứ 7, Hội đồng
Nhân dân huyện đã tổ chức lấy phiếu tín nhiệm; kết quả 19 chức danh do Hội đồng Nhân dân bầu
hoặc phê chuẩn đều được tín nhiệm cao. Nhiều nghị quyết chuyên đề phát triển kinh tế- xã hội, ngân
sách, xây dựng nông thôn mới...được Hội đồng Nhân dân ban hành kịp thời, tạo bước đột phá để khai
thác tiềm năng, lợi thế, huy động hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Các ý kiến, kiến nghị của cử
tri được tiếp thu, giải trình và giải quyết đúng thẩm quyền, đúng quy định pháp luật, tạo được niềm
tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và điều hành của chính quyền.Công tác giám sát của Hội
đồng Nhân dân được chú trọng. Từ năm 2016 đến cuối năm 2020, đã tổ chức 19 cuộc giám sát
chuyên đề, 13 cuộc giám sát theo kiến nghị của cử tri. Nội dung, hình thức giám sát được đổi mới,
hiệu quả. Qua giám sát Thường trực Hội đồng Nhân dân đã kiến nghị các cơ quan chức năng giải
quyết, cơ bản đáp ứng nguyện vọng chính đáng của cử tri. Cũng trong nhiệm kỳ, Hội đồng Nhân dân
đã tiếp nhận, xử lý, chuyển các cơ quan chức năng xử lý 278 kiến nghị của cử tri, 35 đơn.Hoạt động
của Hội đồng Nhân dân các cấp đã thể hiện rõ vai trò quyết định, kể trong ban hành và giám sát tổ
chức thực hiện các chủ trương chính sách địa phương.

273
Công tác quản lý và điều hành của Ủy ban Nhân dân các cấp có nhiều chuyển biến tích cực.
Từng bước xây dựng chính quyền điện tử theo hướng đổi mới, cắt giảm thời gian hội họp trực tiếp,
tăng cường họp trực tuyến; tiếp nhận, xử lý thông tin, theo dõi nhiệm vụ, chế độ báo cáo được thực
hiện qua các phần mềm điện tử; các thủ tục hành chính được số hóa “ Một cửa” điện tử; áp dụng thực
hiện chữ ký số tại các cơ quan, đơn vị, địa phương; đẩy mạnh thực hiện cung cấp dịch vụ công điện
tử. Hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được cải thiện rõ rệt, nhiều chỉ tiêu mang tính thách
thức cao như phát triển kinh tế ngành, lao động việc làm, giải quyết các vấn đề tài nguyên, môi
trường, hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông thôn mới, đô thị văn minh...được Ủy ban Nhân dân điều
hành thông suốt. Cải cách thủ tục hành chính đạt được nhiều kết quả rõ nét, các chỉ số cải cách hành
chính (PAR INDEX), chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan Nhà
nước (M-score) chuyển biến tốt và luôn giữ vị trí các huyện, thị dẫn đầu trong toàn tỉnh.
Thực hiện Kế hoạch số 15-KH/HU, ngày 01/6/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về việc
“Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị năm
2016, định hướng đến năm 2020”, phương thức lãnh đạo, điều hành của Huyện ủy, Ban Thường vụ
Huyện ủy và Ủy ban Nhân dân đã được đổi mới theo hướng tận dụng và phát huy thành tựu của công
nghệ thông tin. Huyện đã hoàn thành các phần mềm: theo dõi nhiệm vụ Ủy ban Nhân dân và Chủ

274
tịch Uỷ ban Nhân dân huyện giao; hệ thống chỉ tiêu kinh tế- xã hội; đánh giá cán bộ công chức. Triển
khai chữ ký số và xây dựng Đề án họp trực tuyến từ huyện đến cơ sở; thực hiện các đề án khuyến
công quốc gia, tỉnh, huyện. Triển khai xây dựng, chuyển đổi áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
theo TCVN ISO 9001:2015 trong các cơ quan hành chính nhà nước; xây dựng Đề án chính quyền
điện tử huyện đến năm 2025, định hướng đến 2030. Đến năm 2020, chỉ số hài lòng của người dân
(chỉ số M-Score) trung bình hàng năm giai đoạn 2016-2020 đạt 8,6 điểm, thái độ phục vụ người dân
hàng năm đạt 8,6 điểm; hướng dẫn làm thủ tục hàng năm đạt 8,6 điểm, số lần người dân đi làm thủ
tục 3,4 lần các chỉ số trên đạt gần điểm tuyết đối; giảm 10 % thời gian giải quyết thủ tục hành
chính.Chỉ số cải cách hành chính bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 78,38 điểm.
3. Phát huy vai trò, vận động tập hợp quần chúng nhân dân đẩy mạnh phong trào thi đua
yêu nước

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Cam Lộ, nhiệm kỳ 2015-2020, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội từ huyện đến cơ sở đã tiếp tục củng cố, không ngừng mở
rộng khối đại đoàn kết toàn dân, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; đa dạng hóa hình thức
tuyên truyền, vận động, tập hợp, động viên quần chúng nhân dân hưởng ứng, tham gia có hiệu quả
các phong trào thi đua yêu nước góp phần quan trọng vào sự phát triển toàn diện của huyện.
275
Một trong những mục tiêu tổng quát được đại hội Đảng bộ huyện Cam Lộ, nhiệm kỳ 2015-2020,
đề ra đó là “Đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể; phát huy tinh thần đoàn
kết, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân cùng hướng tới
mục tiêu vì sự phát triển của huyện Cam Lộ” 1. Từ tình hình thực tiễn của địa phương và công tác Mặt
trận trong giai đoạn mới, ngày 05/4/2017, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện đã thông qua
Đề án số 01/ĐA-MTTQ “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động và tập hợp
quần chúng trong giai đoạn mới” gắn với Kế hoạch số 38-KH/HU của Ban Thường vụ Huyện uỷ về
đẩy mạnh thực hiện các công trình, phần việc theo 4 chương trình trọng tâm.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện đã cụ thể hóa Nghị quyết của Huyện ủy, Ban Thường vụ
Huyện ủy; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện thành chương trình, kế hoạch hành động
thiết thực, cụ thể; phối hợp chặt chẽ với các tổ chức thành viên đổi mới hình thức tập hợp, vận động;
đoàn kết rộng rãi; động viên các tầng lớp nhân dân trong huyện phát huy tinh thần sáng tạo và tự
quản của nhân dân; hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, các hoạt
động xã hội. Tổ chức mở 75 lớp đào tạo nghề cho 1.923 lượt người; tạo việc làm mới cho 5.214 cho
lao động; tổ chức các đợt tập huấn để chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao kiến thức sản

1
. Huyện ủy Cam Lộ, Văn kiện Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ XV, nhiệm kỳ 2015-2020.
276
xuất kinh doanh; hỗ trợ tạo điều kiện cho đoàn viên, hội viên về vốn để phát triển kinh tế; động viên
nhân dân phát huy truyền thống đoàn kết tương thân tương ái, giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, thiên
tai...Công tác vận động nhân dân di dời, quy tập mộ để mở rộng diện tích đất sản xuất được nhân dân
hưởng ứng1. Để xây dựng các thiết chế văn hóa, công trình phúc lợi phục vụ cho sản xuất và sinh
hoạt cộng đồng, nhân dân hiến 125.306 m 2 đất, 34.884 công lao động; đóng góp hơn 19,439 triệu
đồng tạo mặt bằng để xây dựng các công trình giao thông nông thôn, góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh.
Việc phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể chính trị - xã hội theo Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QQĐ/TW của Bộ Chính
trị được triển khai với nhiều hình thức phong phú, thiết thực. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
huyện đã chủ trì, phối hợp với các tổ chức thành viên giám sát chuyên đề 27 cuộc; phối hợp với Hội
đồng Nhân dân huyện, Viện Kiểm sát Nhân dân, Công an huyện tổ chức 12 cuộc giám sát, kiểm sát
về các nội dung liên quan đến quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam các xã, thị trấn tiến hành 121 cuộc phản biện; góp phần phát huy dân chủ, cầu nối
xây dựng niềm tin vững chắc giữa đảng, chính quyền với các tầng lớp nhân dân. Cuộc vận động quỹ

1
. Nổi bật xã Cam An di dời 216 ngôi mộ, Cam Hiếu di dời 111 ngôi mộ và Cam Nghĩa di dời 110 ngôi mộ.
277
"Vì người nghèo", chương trình xóa nhà ở tạm bợ, dột nát cho hộ nghèo được triển khai sâu rộng,
mang lại hiệu quả cao. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong huyện phối hợp với chính
quyền tổ chức vận động các cơ quan, đơn vị, các nhà hảo tâm và các tầng lớp nhân dân giúp đỡ, ủng
hộ khi có thiên tai, sự cố xẩy ra. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Cam Lộ được Chủ tịch
nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
Liên đoàn Lao động huyện.Tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện Chương trình hành động số 61-
CTHĐ/HU, ngày 15/5/2009 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khóa XIII) về "Tiếp tục xây dựng
giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” Ban Thường vụ
Huyện ủy chỉ đạo các Cấp ủy đảng phối hợp với Liên đoàn Lao động huyện tiến hành khảo thực
trạng công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn các cấp trên địa bàn để bổ sung nhiệm
vụ, giải pháp kịp thời, sát hợp. Trong giai đoạn này, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động có bước
phát triển về số lượng, không ngừng nâng cao chất lượng, đa dạng về cơ cấu; luôn phát huy vai trò
nòng cốt, tích cực trong quá trình phát triển của địa phương. Đời sống, việc làm của đoàn viên và
người lao động trên địa bàn huyện cơ bản ổn định, quan hệ lao động và thực hiện các chính sách,
pháp luật luôn được quan tâm đúng mức. Liên đoàn Lao động huyện Cam Lộ vinh dự được Chủ tịch
nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba.

278
Công tácĐoàn viên và phong trào, thanh niên huyện Cam Lộtiếp tục thực hiện nghị quyết số 25-
NQ/TW, Chương trình hành động số 69-CTHĐ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Hàng năm,
Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo cấp ủy đảng có chương trình làm việc với tổ chức Đoàn, phân
công cấp ủy viên phụ trách công tác thanh niên; xây dựng quy hoạch cán bộ Đoàn nhiệm kỳ 2017-
2022, nhiệm kỳ 2022-2027; quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng, có chính sách ưu tiên cán bộ nữ,
thu hút tài năng trẻ; Quan tâm sắp xếp cán bộ Đoàn sau đại hội không đủ tuổi để tái cử đảm nhiệm
công tác mới phù hợp với năng lực, sở trường. Các tổ chức cơ sở đảng xây dựng kế hoạch, nghị
quyết chuyên đề về công tác thanh niên; chú trọng bồi dưỡng, giới thiệu đoàn viên ưu tú cho tổ chức
Đảng xem xét, kết nạp.
Giai đoạn 2015-2020, Huyện đoàn tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua “sáng- xanh- sạch-
đẹp”; “Ngày thứ bảy tình nguyện”, “Ngày chủ nhật xanh” và cuộc vận động “Tuổi trẻ Cam Lộ tham
gia xây dựng nông thôn mới”, “Tuổi trẻ Cam Lộ tiên phong- gương mẫu- đoàn kết- sáng tạo- xung
kích-thi đua lập thân, khởi nghiệp xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh”.Đoàn viên, thanh niên
huyện Cam Lộtiếp cận nhanh với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; từng bước làm chủ các
tiến bộ khoa học kỹ thuật mới. Đại đa sốthanh niên sống có lý tưởng, phấn đấu rèn đức, luyện tài,

279
học tập, lao động sáng tạo và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc xứng đáng là lượng
xung kích trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh.
Hội Nông dân Việt Nam huyện là lực lượng nòng cốt ở nông thôn và là chủ thể trong quá trình
xây dựng nông thôn mới. Giai đoạn 2015-2020, Ban Thường vụ Huyện ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo việc
tiếp tục học tập, quán triệt triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến
nông nghiệp, nông dân, nông thôn; chỉ đạo Hội Nông dân huyện, Đảng ủy các xã, thị trấn tổ chức
tổng kết các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương; kịp thời đánh giá kết quả, nhận diện những hạn chế,
khuyết điểm để rút kinh nghiệm và đề ra nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới. Hội đã tổ chức triển
khai nhiều phong trào, đặc biệt là “phong trào Nông dân sản xuất giỏi”;chương trình “Đoạn đường tự
quản”, “Đường kiểu mẫu” sáng, xanh, sạch, đẹp ở nông thôn; hỗ trợ người nông dân tiếp cận với
khoa học, kỹ thuật, tiếp cận các nguồn vốn; vận độngthành lập được 01 tổ hợp tác; 13 tổ, nhóm liên
kết theo mô hình sản xuất mới; tích tụ ruộng đất, xây dựng cánh đồng mẫu lớn, xây dựng trang trại,
gia trại; xây dựng được 60 vườn mẫu, cải tạo 128 vườn tạp; xây dựng 55 đoạn đường mẫu, trồng
hàng trăm chậu hoa, hàng nghìn cây xanh tại đoạn đường Hội quản lý, chăm sóc. Hội Nông dân Việt
Nam huyện Cam Lộ vinh dự được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba.

280
Nhiệm kỳ 2015-2020, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo các tổ chức đảng tiếp tục đẩy mạnh
việc thực hiện Chương trình hành động số 42-CTHĐ/HU của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về
công tác Phụ nữ thời kỳ đầy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước và các văn bản của Đảng,
Nhà nước liên quan đến công tác Phụ nữ, bình đẳng giới...; phối hợp tổ chức hoạt động công tác Hội
và phong trào phụ nữ.
Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện tiếp tục duy trì, nhân rộng nâng cao chất lượng các cuộc vận
động“Giađình 5 không 3 sạch” “Xây dựng nông thôn mới”; “xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc” và phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”; “Phụ nữ tích cực học tập, lao
động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc. Lực lượng phụ nữ tham gia ngày càng đông đảo vào
các hoạt động kinh tế, xã hội, các cơ quan lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị các cấp trong
huyện; trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp của phụ nữ tiếp tục được nâng cao, bình đẳng giới
có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2015-2020 có
9/40 đồng chí (11,9%); tham gia Ban Thường vụ 2/12 (7,5%); tham gia cấp ủy cơ sở có 25/104 cán
bộ nữ (24,0 %); đại biểu Hội đồng Nhân dân nhiệm kỳ 2016-2021: cấp tỉnh: 01; cấp huyện: 09 và
cấp xã là 61.

281
Hội Cựu Chiến binh và Cựu Thanh niên xung phong huyện Cam Lộ luôn nêu tấm gương sáng về
đạo đức và phẩm chất cách mạng, phát huy truyền thống "Bộ đội cụ Hồ", có vai trò quan trọng trong
việc giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ trẻ; gương mẫu trong việc giữ gìn an ninh, trật tự xã hội,
đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng,
chính quyền, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Hội Cựu chiến bình huyện được Chủ tịch nước tặng
thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
Nhiệm kỳ 2015-2020, Hội Người Cao tuổi luôn chú trọng nâng cao chất lượng cuộc sống, thực
hiện sống vui, sống khỏe, sống có ích cho gia đình và xã hội. Thực hiện phương châm “tuổi cao
gương sáng”, người cao tuổi tiếp tục đóng góp trí tuệ, kinh nghiệm vào sự nghiệp phát triển kinh tế-
xã hội, giáo dục thế hệ trẻ và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân ở địa phương.
Các Hội quần chúng phát triển về số lượng, từng bước nâng cao về chất lượng hoạt động, nhiều
phong trào hoạt động đa dạng, có hiệu quả, gắn với lợi ích thiết thực của quần chúng nhân dân, thu
hút đông đảo Hội viên và nhân dân tham gia.
Sau 5 năm tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XV;
trong điều kiện có nhiều thuận lợi như: Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, cụ thể, kịp thời của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy, UBND tỉnh; sự phối hợp, tạo điều kiện của các sở, ban ngành, Ủy ban Mặt

282
trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các đoàn thể chính trị- xã hội; cùng với sự cố gắng nỗ lực của Đảng
bộ và nhân dân trong huyện; phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất, quyết tâm khắc phục khó khăn,
thách thức, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị của huyện đạt nhiều
kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện nhiệm kỳ
2015-2020 đề ra đều đạt và vượt.
Kinh tế- xã hội tăng trưởng và có bước phát triển ngày càng vững chắc. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch đúng hướng. Kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng đồng bộ. Sự nghiệp giáo dục-đào tạo; y tế,
văn hóa-xã hội có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không
ngừng được cải thiện và nâng cao. Quốc phòng- an ninh được giữ vững. Vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ từng bước được nâng lên. Hoạt động quản lý, điều hành của chính quyền và
các cơ quan hành chính nhà nước từ huyện đến cơ sở ngày càng đổi mới; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị -xã hội được củng cố, kiện toàn, hoạt động ngày càng tốt hơn, góp phần tích
cực vào sự phát triển kinh tế- xã hội, để huyện Cam Lộ được công nhận “Huyện nông thôn mới” vào
năm 2019, về đích trước một năm so với nghị quyết Đại hội Đảng bộ đề ra.

283
Những kết quả nói trên là cơ sở thực tiễn khẳng định vai trò lãnh đạo, quyết tâm đổi mới của
Đảng bộ gắn với thực hiện cam kết trách nhiệm trước Ban Thường vụ Tỉnh ủy; thể hiện sức mạnh
đoàn kết thống nhất, sự nỗ lực của cấp ủy, chính quyền, các địa phương, các cơ quan, ban ngành
trong việc cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp vào cuộc sống.
Bên cạnh kết quả đạt được: Quy mô nền kinh tế của huyện còn nhỏ, tốc độ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế chậm; việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là lợi thế công nghệ 4.0 vào sản
xuất kinh doanh còn hạn chế. Nhiều sản phẩm nông nghiệp hàng hóa có thế mạnh của huyện chưa
đạt tiêu chuẩn cao về chất lượng; hoạt động hợp tác xã chưa tạo ra động lực thúc đẩy liên kết sản
xuất, tích tụ đất đai, nhân rộng các vùng chuyên canh. Sản xuất công nghiệp nhìn chung quy mô còn
nhỏ, liên kết chưa bền chặt nên sức cạnh tranh thấp. Dịch vụ, ngành nghề chủ yếu phục vụ nhu cầu
nội tại, chưa có giải pháp đột phá thu hút khách hàng bên ngoài. Thu ngân sách địa phương chưa bền
vững.Chất lượng xây dựng đời sống văn hóa ở một số khu dân cư còn ở mức trung bình. Đào tạo
nghề gắn với giải quyết việc làm ổn định và giảm nghèo còn lúng túng, chưa có nhiều mô hình hay,
cách làm sáng tạo phù hợp với từng vùng, từng lĩnh vực. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động, nhất là
lao động trẻ từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp diễn ra chậm.Chất lượng chính trị, khả năng sẵn

284
sàng chiến đấu, ứng phó tình huống bất ngờ của lực lượng dân quân, tự vệ có mặt còn hạn chế. Tình
hình an ninh trật tự tiềm ẩn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự ổn định; một số loại tội phạm nguy hiểm
có chiều hướng gia tăng; bảo đảm an toàn giao thông cần nhiều giải pháp đồng bộ của các cơ quan
nhà nước và toàn xã hội.Xây dựng nông thôn mới đạt được kết quả tích cực song ở một số địa
phương đang dừng lại ở tiêu chí đạt được ban đầu, tự hài lòng với kết quả đang có, còn thiếu các biện
pháp đồng bộ để duy trì sự bền vững và nâng cao chất lượng tiêu chí theo hướng kiểu mẫu.
Phương pháp truyền đạt chủ trương, nghị quyếtcó đổi mới nhưng chưa đáp ứng yêu cầu; Việc
nắm bắt dư luận xã hội, tâm tư nguyện vọng chính đáng của người dân có lúc chưa kịp thời. Nội
dung xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị vững mạnh tuy được Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban
Thường vụ Huyện ủy tập trung lãnh đạo quyết liệt, song ở một số cơ sở vẫn chưa tạo được sự thống
nhất cao trong chỉ đạo, điều hành; một số nội dung cam kết trách nhiệm của người đứng đầu địa
phương, đơn vị có kết quả thực hiện đạt thấp so với yêu cầu, nhất là việc khắc phục các tồn tại, yếu
kém và thực hiện 04 chương trình trọng tâm của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XV. Năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng trực thuộc Huyện ủy chưa đáp ứng với yêu cầu
trong giai đoạn mới. Công tác kiểm tra, giám sát ở một số mặt chưa thực sự phát huy hiệu quả tổng

285
hợp về yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay; việc giám sát cá nhân, tổ chức thực hiện kết luận
kiểm tra, thanh tra chưa thường xuyên. Một số cấp ủy cơ sở chưa thực sự chú trọng chỉ đạo nâng cao
hiệu quả công tác dân vận. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện và các tổ chức chính trị
- xã hội ở một số nội dung trọng tâm về đổi mới phương thức vận động quần chúng kết quả chưa cao,
còn mang tính hành chính; tỷ lệ hội viên nòng cốt còn thấp nên thiếu lực lượng làm chổ dựa tin cậy
trong các phong trào quần chúng và giải quyết các vấn đề nổi lên ở cơ sở.
Thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị “về đại hội đảng bộ các cấp
tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, Kế hoạch số 141-KH/TU, ngày 01/8/2019
của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh “thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị
về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng” và các văn bản
hướng dẫn của Trung ương, Tỉnh ủy trong hai ngày 16-17/8/2020, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện
Cam Lộ được tổ chức tại thị trấn Cam Lộ. 235 đại biểu chính thức đại diện cho trên 2800 đảng viên
của toàn Đảng bộ đã về dự Đại hội.
Đồng chí Lê Quang Tùng, Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy
dự và phát biểu chỉ đạo Đại hội. Dự Đại hội còn có các đồng chí Đồng chí Nguyễn Đăng Quang, Phó

286
Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; đồng chí Võ Văn Hưng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh cùng các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đại diện lãnh đạo các ban Đảng và Văn
phòng Tỉnh ủy và Tổ Công tác chỉ đạo đại hội.
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2020-2025 diễn ra vào thời
điểm có ý nghĩa hết sức quan trọng; huyện Cam Lộ đã được Thủ tướng Chính phủ Quyết định công
nhận huyện Nông thôn mới, huyện đầu tiên của tỉnh. Đó là thành quả hết sức to lớn, tạo thêm thế và
lực mới để phát triển bứt phá đi lên.
Từ những kết quả quan trọng, hạn chế, tồn tại và bài học kinh nghiệm trong 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV, nhiệm kỳ 2015-2020; và 30 năm huyện Cam lộ được
lập lại; trên cơ sở phân tích và dự báo tình hình, với chủ đề và cũng là tư tưởng chỉ đạo và mục tiêu
hướng tới “Tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; Phát huy truyền
thống đoàn kết toàn dân; Đổi mới, sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; phấn đấu xây
dựng huyện nông thôn mới kiểu mẫu”, Đại hội đã xác định phương hướng và mục tiêu tổng quát :
Đến năm 2025, phấn đấu xây dựng Cam Lộ trở thành huyện nông thôn mới kiểu mẫu với các chỉ số:
Trình độ phát triển kinh tế đạt mức khá của tỉnh; tốc độ tăng trưởng cao về công nghiệp, dịch vụ;

287
nhiều sản phẩm nông sản chế biến có thương hiệu và có giá trị gia tăng cao; chất lượng cuộc sống
người dân, cảnh quan, môi trường nông thônđược cải thiện tốt; với những mục tiêu hành động trọng
tâm:
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong
sạch vững mạnh; xây dựng chính quyền phục vụ năng động, hiệu quả, liêm chính. Đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị- xã hội, nâng cao tỷ lệ hội viên, đoàn
viên tiên tiến làm nòng ốt trong các phong trào ở khu dân cư.
- Khơi dậy mọi tiềm năng, nguồn lực và sự đồng thuận cao của xã hội thông qua thực hành dân
chủ, tăng cường khối đại đoàn kết, phát huy vai trò chủ thể, tinh thần tự lực, hợp tác của quần chúng
nhân dân để vượt qua khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, ổn định xã hội, phục hồi nhanh
kinh tế, thúc đẩy nâng cao chất lượng xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, sáng tạo, đổi mới và ứng dụng mạnh mẽ thành tựu cách
mạng công nghiệp 4.0 vào quản lý, sản xuất để tạo năng suất lao động cao, chuyển dịch nhanh cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp- dịch vụ gắn với phát triển nông nghiệp hàng hóa.

288
- Duy trì, nâng cao chất lượng giáo dục các cấp; nâng cao năng lực khám chữa bệnh, bảo đảm y
tế toàn dân. Đẩy mạnh các phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng, gìn giữ và phát huy bản sắc
văn hóa làng quê nông thôn mới; bảo vệ tài nguyên, môi trường.
- Nâng cao chất lượng công tác quân sự, quốc phòng địa phương; bảo đảm an ninh chính trị, trật
tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
Đại hội cũng đã đề ra các chỉ tiêu phát triển, chương trình trọng tâm giai đoạn 2020-2025.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2020-2025 gồm 35 đồng chí; bầu Đoàn
đại biểu dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XVII gồm 21 đại biểu chính thức và 02
đại biểu dự khuyết.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành khóa XVI, đã bầu Ban Thường vụ Huyện ủy có 10 đồng
chí: Đào Mạnh Hùng, Nguyễn Ký Ngọc, Ngô Quang Chiến, Trần Quang Thanh, Nguyễn Tiến Dũng,
Lê Hồng Nhạn, Nguyễn Thị Thanh Hương, Đào Mạnh Hùng, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thành Công.
Đồng chí Đào Mạnh Hùng, được bầu giữ chức Bí thư Huyện ủy; các đồng chí Nguyễn Ký Ngọc, Ngô
Quang Chiến được bầu giữ chức Phó Bí thư huyện ủy; Hội nghị cũng đã bầu Ủy ban Kiểm tra Huyện

289
ủy gồm 06 đồng chí; đồng chí Nguyễn Tiến Dũng, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy làm Chủ
nhiệm.
Ngày 30 tháng 9 năm 2020, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quyết định số 1945-QĐ/TU,
về việc điều động đồng chí Đào Mạnh Hùng, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội đồng
Nhân dân huyện Cam Lộ để đảm nhận chức vụ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh,
nhiệm kỳ 2019-2024. Ngày 06/10/2020, Huyện ủy Cam Lộ tổ chức Hội nghị bầu đồng chí Ngô
Quang Chiến, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện giữ chức Bí thư Huyện ủy, nhiệm kỳ
2020-2025.
Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XVII, đồng chí Ngô Quang Chiến, Bí thư
Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Cam Lộ được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ
2020-2025.
Ngày 23/12/2020, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Cam Lộ tổ chức Hội nghị bầu đồng chí Trần
Anh Tuấn, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy và giới thiệu để Hội
đồng Nhân dân huyện bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, nhiệm kỳ 2016-2021. Ngày 29/12/2020,
kỳ họp thứ 13, Hội đồng Nhân dân huyện Cam Lộ khóa V, bầu đồng chí Ngô Quang Chiến, Tỉnh ủy

290
viên, Bí thư Huyện ủy giữ chức Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện, nhiệm kỳ 2016-2021; bầu đồng
chí Trần Anh Tuấn, Phó Bí thư Huyện ủy giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Cam Lộ, nhiệm
kỳ 2016-2021.
Kể từ khi Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2020-2025 đến hết
năm 2020, mặc dù trong điều kiện gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh nhưng Huyện ủy, Ban
Thường vụ Huyện ủy đã bám sát sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân
tỉnh đã xây dựng Chương trình hành động, Chương trình công tác toàn khóa của Ban Chấp hành, Ban
Thường vụ; ban hành các quy chế, quy định hoạt động, kiện toàn các chức danh chủ chốt của huyện,
phân công trách nhiệm cho các Huyện ủy viên; cụ thể hóa nghị quyết Đại hội bằng các nghị quyết
chuyên đáp ứng công tác lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ, phù hợp với tình hình địa phương; nhất là
thực hiện “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch covid-19 vừa tập trung phục hồi và phát triển kinh
tế- xã hội, bảo đảm đời sống Nhân dân. Về công tác xây dựng Đảng, Huyện ủy, Ban Thường vụ
Huyện ủy đã triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ. Đảng bộ huyện Cam Lộ là Đảng bộ duy
nhất trong 10 đảng bộ huyện, thị, thành phố trực thuộc Tỉnh ủy được Ban Thường vụ Tỉnh ủy đánh
giá, xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2020.

291
Năm 2020 kết thúc, khép lại 20 năm đầu của thế kỷ XXI, huyện Cam Lộ đã đạt được thành tựu
rất đáng trân trọng và tự hào. Bước vào thập kỷ thứ ba, tình hình chính trị - kinh tế thế giới, trong
nước bên cạnh nhưng thuận lợi dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp; Những khó khăn, thách thức cho
phát triển đang còn ở phía trước.
Với bề dày lịch sử và truyền thống cách mạng vẻ vang, với truyền thống anh hùng, Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân huyện Cam Lộ tiếp tục đoàn kết nhất trí, năng động sáng tạo, ý chí, khát
vọng phát triển; chủ động nắm bắt, tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, phấn đấu “Đến
năm 2025, xây dựng Cam Lộ trở thành huyện nông thôn mới kiểu mẫu xây dựng huyện Cam Lộ phát
triển nhanh và bền vững”.

292
KẾT LUẬN

Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển, Đảng bộ và nhân dân huyện Cam Lộ phát huy truyền
thống cách mạng, nêu cao tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, bứt phá vươn lên và giành được
những thành tựu to lớn, đưa Cam Lộ từ một vùng quê thuần nông trở thành huyện có tốc độ phát
triển khá, là huyện nông thôn mới đầu tiên của tỉnh Quảng Trị. Dù trước mắt còn nhiều khó khăn,
song với mỗi một người dân Cam Lộ, những đổi thay trên quê hương mà người dân đang chứng kiến
và thụ hưởng là điều nằm ngoài sự tưởng tượng cách đây 20 năm.
Từ một huyện nghèo, qua nhiều năm tìm tòi, thử nghiệm, Cam Lộ đã tìm được hướng đi phù
hợp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, thu nhập bình quân đầu người cao gấp 20 lần so với
năm 2000. Đặc biệt, các vành đai trang trại, gia trại được xây dựng trên 500 ha; các sản phẩm nông,
lâm sản chủ lực của huyện được hình thành từ các vùng sản xuất tập trung chuyên canh như cao su,

293
hồ tiêu, lúa lạc, dược liệu, gỗ rừng trồng vv....thông qua liên kết với các nhà máy chế biến tiêu thụ,
tạo thành các chuỗi giá trị sản xuất theo chương trình OCOP. Hiệu quả kinh tế cao hơn từ 40 – 50
triệu đồng/ha so với sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, nâng giá trị sản phẩm bình quân 1 ha sản xuất nông,
lâm nghiệp lên gần 70 triệu đồng, tăng trên 30 triệu đồng so với năm 2011.
Dấu ấn đậm nét trong 20 năm là quá trình xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng. Từ nhiều
chương trình trọng điểm của tỉnh, của huyện, sự bền bỉ vượt qua gian khó, lao động cần cù, sáng tạo
của nhân dân; tinh thần đoàn kết, năng động, sáng tạo của Đảng bộ, chuẩn bị tốt tư tưởng về đích
sớm nông thôn mới nên đã chú trọng đầu tư đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng. 100%tuyếnđường xã,
liên xã, đường từ trung tâm xã đến huyện được cứng hóa, bê tông hóa, nhựa hóa. Hệ thống thủy lợi
nội đồng bảo đảm tưới và tiêu nước chủ động cho 100% diện tích đất trồng lúa và 50% cho cây trồng
cạn. Đặc biệt việc quy hoạch và hoạt động tại các khu, cụm công nghiệp nói riêng, thương mại,
ngành nghề dịch vụ nói chung trên địa bàn huyện đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ câu
kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp; tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và
thương mại - dịch vụ.
Những thành tựu đó là quá trình cụ thể hóa một cách sáng tạo chủ trương, nghị quyết của cấp
trên vào điều kiện cụ thể của Cam Lộ, gắn liền với sự chuyển biến liên tục trong quá trình đổi mới tư

294
duy, trước hết là của Ban chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy, phù hợp với thực tiễn ở địa phương.
Đó là quá trình thích ứng nhanh chóng, phù hợp, đón trước xu thế để chuyển hướng lãnh đạo, nhờ
vậy, đã khơi dậy tiềm năng, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân.
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng nâng cao.
Trong bối cảnh còn mỏng về tiềm lực kinh tế nhưng Cam Lộ sớm quan tâm đúng mức giải quyết
đồng thời các vấn đề về việc làm, giáo dục, y tế, chính sách xã hội... Qua từng nhiệm kỳ, từ huyện
đến cơ sở đều chú ý chuyển hóa những thành tựu kinh tế vào đời sống văn hóa - xã hội. Đây là tư
tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng bộ huyện đưa đến những thành tựu văn hóa - xã hội trong 20
năm. Các vấn đề xã hội được lồng ghép, giải quyết trong mục tiêu kinh tế, nổi bật là kết quả thực
hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, chính sách hậu phương quân đội, an sinh
và an toàn xã hội... Các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, thể dục
thể thao... phát triển gắn với hàng loạt chủ trương như xã hội hóa, mở rộng y tế cộng đồng, kiên cố
hóa trường học, xóa đói giảm nghèo... đều hướng tới mục tiêu xây dựng con người mới, mỗi người
dân có sức khỏe, có tri thức và phẩm chất đạo đức. Các thiết chế văn hóa, hệ thống giáo dục, y tế...
được phân bổ sâu rộng, phủ kín đến mọi địa bàn khu dân cư, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu thụ hưởng của nhân dân. Những thành tựu đạt được trên các mặt văn hóa - xã hội để lại

295
dấu ấn đậm nét là kết quả của cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng
nông thôn mới. Thông qua các cuộc vận động và phong trào văn hóa, những giá trị đặc trưng văn hóa
của quê hương như lòng yêu quê hương, đất nước, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động... đã
được chuyển hóa thành ý thức tự giác của mỗi người dân Cam Lộ. Để từ đó, tạo nên động lực mới
bứt phá thoát khỏi đói nghèo, làm giàu chính đáng.
Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh.Thực tiễn 20 năm qua khẳng định, quân và dân toàn huyện
luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không ngừng tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh,
củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu
chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Được sự chăm
lo của Đảng và nhân dân, huyện Cam Lộ đã xây dựng được lực lượng vũ trang lớn mạnh bao gồm bộ
đội địa phương, lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và lực lượng công an. Các lực
lượng được trang bị đầy đủ các phương tiện kỹ thuật, thường xuyên được huấn luyện, diễn tập phòng
thủ, có khả năng sẵn sàng chiến đấu, phối hợp chiến đấu và chiến đấu tốt. Trong quá trình xây dựng,
Cam Lộ là một địa phương có nền quốc phòng vững mạnh, luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ
quân sự địa phương. Gắn với quốc phòng, lực lượng công an nhân dân và thế trận an ninh nhân dân
được xây dựng, củng cố trở thành nhân tố nòng cốt và quyết định bảo đảm giữ vững an ninh chính

296
trị, trật tự an toàn xã hội. Điểm đáng ghi nhận xuyên suốt trong 20 năm là Đảng bộ lãnh đạo lực
lượng quân sự và công an phối hợp và hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, có hiệu quả cao, nhất là trong
các nhiệm vụ khó khăn, gay go, phức tạp; không để hình thành tội phạm có tổ chức không có điểm
nóng về an ninh trật tự, các vụ việc xảy ra cơ bản được giải quyết kịp thời, tỷ lệ phá án cao. Mối
quan hệ bền chặt đó là sức mạnh của lực lượng vũ trang, bán vũ trang của huyện và được nhân lên
khi phối hợp các lực lượng quân đội đóng trên địa bàn. Đặc biệt, sức mạnh đó càng phát huy cao độ
khi được nuôi dưỡng, gắn bó với các phong trào quần chúng diễn ra liên tục, góp phần bảo đảm cho
công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội trên địa bàn huyện diễn ra thuận lợi và an
toàn.
Nhận thức sâu sắc công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt ,Nghị quyết đại hội các nhiệm
kỳ của Đảng bộ huyện, cũng như trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ
đều nhấn mạnh yêu cầu, nhiệm vụ và đề ra các giải pháp xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo
đức và tổ chức. Chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng; xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết Trung ương IV (khóa XI, XII), gắn với học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

297
Công tác cán bộ được thực hiện khá đồng bộ ở tất cả các khâu: quy hoạch, đào tạo gắn với bố trí,
sử dụng. Quan tâm công tác luân chuyển, điều động để tạo điều kiện cho cán bộ được rèn luyện thực
tiễn và phát huy năng lực. Nhờ vậy, huyện đã chủ động được trong công tác cán bộ, đồng thời còn
tạo điều kiện để nhiều đồng chí được điều động lên Tỉnh, đảm nhận các chức vụ Trưởng, phó sở,
ngành; được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy và một số chức vụ lãnh đạo chủ chốt của tỉnh. Công
tác dân vận ngày càng đổi mới. Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường.
Nét nổi bật trên địa bàn huyện trong 20 năm qua là tập thể Ban Thường vụ, Ban Chấp hành
đảng bộ huyện luôn đoàn kết, dân chủ, phát huy trí tuệ, sức mạnh tập thể và vai trò chủ động sáng tạo
của cá nhân; ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết sát tình hình, hợp lòng dân và tập trung cả Hệ
thống chính trị từ huyện đến cơ sở cùng đồng hành, hướng dẫn nhân dân thi đua thực hiện. Đội ngũ
cán bộ đảng viên nói chung, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt luôn gương mẫu, đoàn kết, tận tụy,
trăn trở đối với công việc, vì sự phát triển của huyện nhà. Nhờ vậy đã tạo được niềm tin, sự đồng
thuận của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, qua đó, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương trong từng giai đoạn lịch sử.
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện và xã, thị trấn trong các khóa đều có nhiều đổi mới
theo đúng định hướng cải cách hành chính. Hoạt động của chính quyền ngày càng thể hiện rõ theo

298
hướng công khai rộng rãi, phát huy dân chủ, tăng cường đối thoại, tôn trọng lắng nghe ý kiến và giải
quyết kịp thời kiến nghị đề xuất chính đáng của nhân dân. Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội
từng bước đổi mới về tổ chức, bộ máy; về nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình
thức để tập hợp ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân; chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của
nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền. Trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân từng
bước được nâng lên. Mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị; giữa cấp huyện với cấp
xã hài hòa theo hướng ngày càng làm rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, chức trách của từng cấp,
đồng thời có quy chế phối kết hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống.
Chặng đường 20 năm (2000-2020) xây dựng và phát triển, Đảng bộ rút ra những bài học
kinh nghiệm sau:
Một là: Thường xuyên nghiên cứu, quán triệt nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ trương,
đường lối của Đảng để lựa chọn được nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm và những khâu đột phá phù
hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
Để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực,
Đảng bộ Cam Lộ coi trọng việc quán triệt là yêu cầu trước hết và là cơ sở để vận dụng sáng tạo nghị
quyết của Đảng. Đó không phải là sự quán triệt thụ động, máy móc, mà là sự nghiên cứu nghiêm túc

299
những quan điểm, định hướng, giải pháp lớn của Trung ương, nhất là của tỉnh rồi đối chiếu, so sánh
với thực tiễn địa phương để nhận thức sâu sắc và thấm nhuần nghị quyết. Trên cơ sở đó, bám sát yêu
cầu, đòi hỏi cấp thiết và xuất phát từ thực tế, từ cuộc sống của người dân để trăn trở, suy nghĩ, vận
dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của cấp trên, dám nghĩ, dám làm, chọn nhiệm vụ trọng điểm,
đột phá để tạo ra đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển tổng thể, toàn diện hơn.
Từ thực tiễn cách mạng trong 20 năm, Cam Lộ đã khẳng định, nếu thiếu sự vận dụng sáng tạo,
không phù hợp, đặc biệt là tâm huyết, trí tuệ của tập thể, người đứng đầu thì việc chỉ đạo thực hiện sẽ
xơ cứng, không phát huy được tiềm năng đa dạng và lợi thế của địa phương. Ngược lại, khi nghị
quyết của Đảng đưa xuống cơ sở thông qua việc tiếp thu và vận dụng sáng tạo, biết chọn đúng việc
thì nghị quyết nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo chuyển biến mạnh mẽ. Nổi bật, các quyết sách
chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, thay đổi phương thức canh tác; “Phát triển cây cao su”; “Thí
điểm và phục hồi vườn tiêu”; “Nâng cao hiệu quả vùng lạc”; “Cải tạo và phát triển chăn nuôi bò”;
“Phát triển lâm nghiệp bền vững”; “Nâng cao hiệu quả sản xuất một số sản phẩm có thế mạnh của
địa phương”; “phát triển công nghiệp-thương mại...“ Các phong trào xây dựng điện, đường, trường
trạm; xóa nhà tranh tre, dột nát; chủ trương quy hoạch phát triển huyện nông thôn mới; như đón bắt
thời cơ, xây dựng các cụm công nghiệp, đẩy nhanh quá trình đô thị hóa để sớm đưa huyện về đích

300
nông thôn mới trước 1 năm...Đối với từng chương trình, nhiệm vụ lớn Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện đều đưa ra kế hoạch lãnh đạo để cán bộ, đảng viên biết, thấy rõ trách nhiệm và lan tỏa đến
quần chúng nhân dân, tạo nhận thức chung, lấy sức mạnh từ hệ thống chính trị, sức mạnh của nhân
dân nhằm thực hiện thành công các mục tiêu đề ra. Với cách làm mới, sáng tạo trong nghiên cứu,
quán triệt và đưa nghị quyết vào cuộc sống, nhiều tổ chức cơ sở đảng của huyện Cam Lộ đã tạo được
nét nổi bật về đổi mới phương thức lãnh đạo, điều hành, đẩy mạnh cải cách hành chính, quan tâm đến
công tác cán bộ, xây dựng nông thôn mới...mang lại kết quả thiết thực, được cán bộ, đảng viên và
nhân dân đồng tình hưởng ứng. Chỉ số cải cách hành chính (PCI, PAPI), chỉ số hài lòng của người
dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan nhà nước (M-score) huyện Cam Lộ luôn giữ vị trí dẫn
đầu trong toàn tỉnh. Đó là minh chứng sinh động cho tinh thần chủ động, sáng tạo của Đảng bộ trong
quán triệt, vận dụng sáng tạo nghị quyết của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương.
Tinh thần chủ động, sáng tạo và linh hoạt vận dụng các chủ trương, chính sách của Đảng phù
hợp với tình hình thực tế địa phương đã đưa Cam Lộ phát triển vượt bậc. Từ bài học lịch sử đúc kết
được, trong thời gian tới, việc quán triệt, vận dụng đúng quan điểm, đường lối của đảng bộ cấp trên
phù hợp với địa phương là nhân tố quyết định mọi thắng lợi sự nghiệp đổi mới trên quê hương Cam
Lộ.

301
Hai là: Coi trọng sáng tạo, chủ động và mạnh dạn tìm tòi các phương pháp, cách thức phù hợp
để biến tiềm năng thành thế mạnh của địa phương.
Thực tiễn 20 năm xây dựng và phát triển trên địa bàn huyện Cam Lộ đã chỉ ra rằng, đối với một
địa phương còn nhiều khó khăn, nếu định hướng không đúng, hoặc định hướng đúng nhưng thiếu
phương pháp, cách làm phù hợp, thiếu quyết tâm thì tiềm năng đó mãi mãi không thể chuyển hóa
thành thế mạnh của địa phương. Với Cam Lộ, điều này phụ thuộc vào trí tuệ, bản lĩnh của toàn Đảng
bộ mà trước hết là vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy, của đội ngũ
cán bộ chủ chốt trong từng nhiệm kỳ. Trong quá trình khai thác, phát huy tiềm năng, Đảng bộ luôn
đặt trong tổng thể chung, biết lựa chọn những bước đi, cách làm sáng tạo nhưng phù hợp gắn với quá
trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển đổi mô hình tổ chức sản xuất, cấu trúc lại cơ cấu kinh tế
huyện, tổ chức lại đời sống xã hội.
Nắm rõ từng dạng tiềm năng tài nguyên về đất đai, con người..., Đảng bộ đã biết lựa chọn bước
đi và cách làm phù hợp để phát huy khai thác. Đó là cách thức tổ chức những bước đi lên của nông
nghiệp, chia thành 3 tiểu vùng kinh tế để khai thác thế mạnh mỗi tiểu vùng; phải kiên quyết thực hiện
“tam nông”: nông nghiệp, nông thôn, nông dân, trong đó nông thôn mới là mục tiêu cụ thể mà huyện
Cam Lộ xác định phải đạt được. Cam Lộ là vùng bán sơn địa, an ninh lương thực vẫn chưa thực sự

302
vững chắc. Đảng bộ đã dồn sức làm bằng được các công trình thủy lợi, quy hoạch kiến thiết lại đồng
ruộng, bảo đảm tưới cho 100% diện tích lúa và 50% rau đậu các loại; áp dụng khoa học kỹ thuật,
thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Khi cơ bản giải quyết được lương thực thì tích cực
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, biến những vùng đất độc canh cây lương thực thành những
vùng chuyên canh lúa - cá, lúa chất lượng cao; vùng trồng cây dược liệu, cây cao su, hồ tiêu, vườn
rừng nông lâm kết hợp; nâng cao các sản phẩm nông nghiệp có thế mạnh của địa phương; đó là t hực
hiện chủ trương phát triển nông nghiệp gắn với chế biến, phải kêu gọi thu hút các doanh nghiệp đầu
tư liên kết chế biến tiêu thụ một số nông sản chủ lực, khuyến khích hỗ trợ công nhận làng nghề
truyền thống, xây dựng làng nghề mới góp phần cơ bản tiêu thụ một số nông sản sản xuất trên địa
bàn. Đó là cách thức tổ chức, đón bắt các bước phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương
mại, dịch vụ để biến một huyện thuần nông thành một địa phương có các cụm công nghiệp, dịch vụ
thu hút vốn đầu tư cả trong tỉnh, trong nước; có cơ cấu kinh tế mà các sản phẩm thế mạnh của huyện
Cam Lộ đã vươn ra thị trường lớn. Đó còn là cách lựa chọn giải pháp phát huy giá trị văn hóa truyền
thống của vùng đất và con người Cam Lộ, nơi từng là phên dậu của nhiều đời biến động giang sơn,
nơi hai lần được lịch sử chọn đặt “kinh đô kháng chiến” vốn được tích lũy, đúc kết trong quá trình
hình thành và phát triển, nhất là trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và 2 cuộc kháng chiến

303
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chính nhờ phát huy nhân tố văn hóa, con người nên đã tạo ra
nguồn lực nội sinh để đưa Cam Lộ vươn lên, vượt qua những khó khăn của thiên tai hạn hán, lũ lụt,
khủng hoảng kinh tế - xã hội trên bình diện cả nước; vượt qua tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế
thị trường để đột phá mạnh mẽ của thời kỳ đổi mới và hội nhập. Chất lượng nguồn lao động trực tiếp
được nâng cao đã tạo động lực mở rộng cơ sở sản xuất dịch vụ; thúc đẩy chuyển dịch lao động trẻ từ
nông nghiệp sang phi nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi
tích cực. Vốn văn hóa, con người Cam Lộ, đặc biệt là truyền thống cách mạng vẻ vang dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ không chỉ là niềm tự hào, được phát huy tại địa phương mà còn có sức lan tỏa trở
thành động lực và niềm tự hào của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị, Cam Lộ trở thành vùng quê
đáng sống, hạnh phúc, thanh bình.
Ba là: Bám sát cơ sở, coi cơ sở là nơi kiểm chứng, là nơi xuất phát mọi quyết sách lãnh đạo của
Đảng bộ.
Nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước được Cam Lộ lựa chọn, cụ thể hóa và triển khai
thực hiện ở cơ sở. Từ thực triển trong 20 năm cho thấy, nơi nào, lúc nào và công việc nào có sự chỉ
đạo sát sao của cấp uỷ đảng, có sự lăn lộn với phong trào của đội ngũ cán bộ lãnh đạo thì nơi đó,
công việc đó sẽ đạt được kết quả ở mức cao nhất. Nhiều phong trào, công trình trọng điểm các đồng

304
chí Bí thư, Phó Bí thư, Thường vụ Huyện uỷ, Huyện ủy viên... trực tiếp chỉ đạo giải quyết từng vấn
đề nảy sinh trong thực tiễn. Hầu hết các phong trào cách mạng của quần chúng, huyện đều thành lập
các đoàn, tổ công tác bao gồm nhiều thành phần, cơ quan cấp huyện để chỉ đạo phong trào, sẻ chia
khó khăn cùng với cơ sở trong vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ nên đã góp phần bảo đảm
thành công trong lãnh đạo. Nếu thiếu sự sâu sát, gắn bó với cơ sở thì không thể có thành công trong
cải tạo và phát triển chăn nuôi đàn bò; những cánh rừng cao su bạt ngàn được che chắn chắc chăn
vành đai bảo hộ; của phong trào “đồn điền đổi thửa”; của các chương trình kinh tế - xã hội trọng
điểm; của việc bảo đảm an ninh nông thôn; của các chương trình phổ cập giáo dục; của cải cách hành
chính; của đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt và vai trò hạt nhân lãnh đạo của chi bộ, đặc biệt
là chi bộ nông thôn...Đặc biệt, huyện Cam Lộ về đích nông thôn mới sớm hơn 1 năm là tập thể Ban
Thường vụ trong chỉ đạo thực hiện quán triệt phương châm lấy người dân là chủ thể xây dụng nông
thôn mới, thực hiện tốt phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng tất cả
đều hướng tới mục tiêu là sự hài lòng của người dân, do vậy mọi huy động, đóng góp của người dân
đều được bàn bạc công khai dưới sự giám sát của người dân, của chính quyền, không huy động quá
sức dân, tạo sự đồng thuận cao trong cộng đồng dân cư để nhân dân hiến kế, đề xuất cách thức tổ
chức thực hiện. Nhiều công công trình kết cấu hạ tầng được nhân dân giám sát, trực tiếp thi công,

305
không chỉ có chất lượng tốt, chi phí thấp phù hợp với đặc điểm của từng địa phương mà còn góp
phần quan trọng tạo ra sự gắn kết cộng đồng, tinh thần tương thân, tương ái, tình làng nghĩa xóm
ngày càng bền chặt. Hướng về cơ sở để kiểm chứng sự đúng đắn của các chủ trương, giải pháp lựa
chọn của Đảng bộ, đồng thời nắm được những tình huống nảy sinh gắn với từng công việc, hiểu rõ
nguyện vọng của đảng viên và quần chúng ở cơ sở... để bổ sung điều chỉnh và đưa ra quyết sách lãnh
đạo tiếp theo. Có thể nói, đi sâu, đi sát cơ sở theo phương châm huyện sát thôn, xã sát hộ dân từng
bước trở thành phong cách lãnh đạo của toàn Đảng bộ và trong hệ thống chính trị ở Cam Lộ.
Bốn là: Luôn chú trọng xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt có
phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị và năng lực thực tiễn đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn cách mạng.
Nối tiếp lịch sử trong xây dựng và bảo vệ quê hương, Đảng bộ huyện Cam Lộ trong 20 năm thực
hiện sự nghiệp công nghiệp - hóa hiện đại hóa cho thấy rằng: Phong trào cách mạng của huyện phát
triển mạnh mẽ, có tính đột phá hoặc thoái trào hay có tính trì trệ đều bắt đầu từ công tác cán bộ. Kết
quả của mọi phong trào cách mạng là kết quả lãnh đạo của toàn Đảng bộ, của tập thể cấp ủy, nhưng
để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lòng cán bộ, đảng viên và nhân dân là những cán bộ, đặc biệt là
cán bộ chủ chốt có đức, có tài. Nhờ làm tốt chiến lược cán bộ nên trong các nhiệm kỳ, Cam Lộ luôn

306
có một đội ngũ cán bộ trung thành tuyệt đối với Đảng, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, có tinh thần
hy sinh, chịu đựng gian khổ, gần gũi với quần chúng, dám nghĩ dám làm, sống trong sạch. Đó là
những cán bộ đã từng “trăn trở, lo toan trước những khó khăn, vất vã” với nhân dân, những cán bộ
tiên phong trong xây các mô hình tiên tiến, trong các phong trào quần chúng trên mọi lĩnh vực...
Những cán bộ đó đã góp phần xây dựng nên hình tượng người cán bộ, đảng viên gần gũi với dân, với
công việc, được nhân dân ghi nhận và noi theo. Để có được đội ngũ cán bộ như vậy phải trải qua một
quá trình lâu dài, từ tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, rèn luyện, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng hợp lý...
Đó phải là một chiến lược cán bộ đúng đắn của Ban Chấp hành Đảng bộ qua các nhiệm kỳ, trong đó
vai trò của Ban Thường vụ Huyện uỷ, của các đồng chí Bí thư, Phó Bí thư Huyện ủy là rất quan
trọng, có tính quyết định. Trong đó, Đảng bộ rất coi trọng đồng thời 2 khâu: Một là, đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ cán bộ cả về chuyên môn và lý luận chính trị với số lượng cao nhất có thể;
hai là, tạo môi trường công tác để cán bộ tu dưỡng, rèn luyện nâng cao năng lực thực tiễn, nâng cao
ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân và phẩm chất đạo đức cách mạng. Hầu hết cán bộ chủ chốt của
huyện đều được rèn luyện qua thực tiễn lãnh đạo phong trào ở cơ sở. Trong lòng mỗi người dân Cam
Lộ vẫn còn nhớ như in hình ảnh các đồng chí lãnh chủ chốt của huyện đi khảo sát tình hình, ban hành
chủ trương cải tạo và phát triển đàn bò; đồn điền, đổi thửa; thuyết phục người dân chuyển đổi mô

307
hình chăn nuôi, trồng trọt; hay đi khảo sát những cánh rừng cao su, vườn tiêu sau mưa bão với quyết
tâm không đổi phải làm giàu tại chính quê hương mình; chỉ đạo các địa bàn dân cư hoàn chỉnh các
tiêu chí xây dựng huyện nông thôn mới với quyết tâm “không chạy theo hình thức, không huy động
quá sức dân”, “lấy thu nhập nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” là nhiệm vụ trọng
tâm, cốt lõi trong chỉ đạo và trăn trở tìm đường đưa sản phẩm dược liệu được chắt lọc trên mảnh đất
cằn cỗi, nắng rát, gió lào đến thị trường khó tính châu Âu...
Chính vì vậy, không những huyện luôn có đội ngũ cán bộ bảo đảm đưa phong trào cách mạng
địa phương phát triển liên tục, mà còn đóng góp cho tỉnh nhiều cán bộ có năng lực tốt và trở thành
cán bộ chủ chốt của tỉnh.
Năm là: Xây dựng, củng cố và giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất của Đảng bộ dựa trên quan điểm,
đường lối của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng
bộ, hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân ở địa
phương.
Để hoàn thành các nhiệm vụ chính trị, Đảng bộ luôn xác định không ngừng tự đổi mới và nâng
cao năng lực lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu của mỗi giai đoạn lịch sử. Kinh nghiệm 20 năm qua đã chỉ ra
rằng, muốn đạt được điều đó, vấn đề cốt lõi nhất đối với Đảng bộ là phải đoàn kết, thống nhất về tư

308
tưởng và hành động. Sự đoàn kết, thống nhất đó được xây dựng, củng cố trên cơ sở quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Trước hết phải củng cố sự đoàn kết thống nhất Ban Chấp hành và Ban Thường vụ Huyện ủy. Mỗi
nhiệm kỳ, các đồng chí Huyện ủy viên, Ủy viên Ban Thường vụ đều biết chia sẻ, mạnh dạn phê bình
và tiếp thu sự phê bình, có những tranh luận, kể cả có lúc đấu tranh thẳng thắn nhưng đều là xây
dựng, tạo điều kiện hỗ trợ cho nhau cùng phát triển. Ở bất cứ vị trí nào, nhiệm vụ nào, hoàn cảnh
nào, cán bộ chủ chốt cũng cần nêu cao tinh thần đoàn kết vì lợi ích chung, không vì lợi ích, động cơ
cá nhân làm tổn hại đến danh dự của Đảng bộ. Thông qua quá trình cùng thực hiện các nhiệm vụ, qua
công việc để gần gũi, đoàn kết, quy tụ đội ngũ. Chính sự đoàn kết, thống nhất trong đội ngũ cán bộ
chủ chốt đã tạo hạt nhân đoàn kết bền vững trong toàn Đảng bộ, trong hệ thống chính trị và toàn dân.
Nhờ đó, mặc dù vẫn còn có những ý kiến trái chiều vào những thời điểm nhạy cảm, khó khăn, có nên
tiếp tục tiến hành phát triển cây cao su, xây dựng các cụm công nghiệp, lựa chọn nhà đầu tư, hướng
ra của nông sản..., Đảng bộ vẫn vững vàng lãnh đạo toàn dân chung sức, chung lòng hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ chính trị. Trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm, nhờ sự đoàn kết, thống nhất, Đảng bộ
luôn thể hiện bản lĩnh và năng lực, khẳng định được vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
dẫn đến thắng lợi của các phong trào cách mạng quần chúng ở địa phương.

309
Đảng bộ và nhân dân Cam Lộ tự hào về những thành tựu đã đạt được trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội; Đảng bộ và nhân dân huyện nhà được trao tặng huân chương Lao động hạng Ba. Mặc dù
trước mắt còn nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với phương hướng đúng đắn mà Đại hội đại biểu
Đảng bộ Cam Lộ lần thứ XVI đề ra, tin tưởng nhân dân huyện Cam Lộ sẽ tiếp tục phát huy truyền
thống anh hùng trong kháng chiến, anh hùng trong lao động, trên con đường đi tới, Đảng bộ và nhân
dân Cam Lộ đoàn kết, thống nhất chắc chắn sẽ mở ra trang lịch sử mới để đến năm 2025 xây dựng
Cam Lộ trở thành huyện nông thôn mới kiểu mẫu, đưa trình độ phát triển kinh tế đạt mức khá của
tỉnh, tốc độ tăng trưởng cao về công nghiệp, dịch vụ, nhiều sản phẩm nông sản chế biến có thương
hiệu và có giá trị gia tăng cao, chất lượng cuộc sống người dân, cảnh quan, môi trường nông được cải
thiện tốt theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI.

310
PHỤ LỤC

I. BẢNG VÀNG TRUYỀN THỐNG

Các danh hiệu cao quý huyện Cam Lộ được nhận trong giai đoạn 2000-2020:
- Năm 2007, huyện Cam Lộ được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng
Huân chương Lao động hạng Ba (Quyết định số 330-QĐ/CTN, ngày 28/3/2007).
- Năm 2012, huyện Cam Lộ được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng
Huân chương Lao động hạng Nhất (Quyết định số 371/QĐ-CTN, ngày 27/3/2012).
- Năm 2019, huyện Cam Lộ được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng công nhận huyện Cam Lộ đạt
chuẩn nông thôn mới năm 2019 (Quyết định số 520/QĐ-TTg, ngày 16/4/2020).

311
- Năm 2020, huyện Cam Lộ được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng
Huân chương Lao động hạng Ba (Quyết định số 1200/QĐ-CTN, ngày 22/7/2020) (thành tích huyện
đạt chuẩn nông thôn mới).

II. CÁC ĐỒNG CHÍ BÍ THƯ, PHÓ BÍ THƯ HUYỆN ỦY TỪ NĂM 2001-2020

TT Thời gian giữ


Họ và tên Chức vụ
chức vụ
1 Nguyễn Đức Cường Bí thư Huyện Từ tháng
ủy 01/2001 đến
tháng 3/2001
Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ 3/2001 đến
Tỉnh ủy, Bí tháng 8/2001
thư Huyện ủy

312
TT Thời gian giữ
Họ và tên Chức vụ
chức vụ
2 Hoàng Giáo Phó Bí thư Từ tháng
Thường trực 01/2001 đến
Huyện ủy, tháng 8/2001
Chủ tịch Hội
đồng nhân dân
huyện
Bí thư Huyện Từ tháng
ủy, Chủ tịch 8/2001
Hội đồng
nhân dân
huyện
Tỉnh ủy viên, Từ tháng
Bí thư Huyện 10/2005 đến
ủy, Chủ tịch tháng 01/2008
Hội đồng

313
TT Thời gian giữ
Họ và tên Chức vụ
chức vụ
nhân dân
huyện
3 Nguyễn Ngọc Châu Tỉnh ủy viên, Từ tháng
Bí thư Huyện 01/2008 đến
ủy tháng 4/2009
4 Nguyễn Công Phán Phó Bí thư Từ tháng
Huyện ủy, 5/2004 đến
Chủ tịch Ủy tháng 4/2009
ban nhân dân
huyện
Bí thư Huyện Từ tháng
ủy, Chủ tịch 4/2009 đến
Ủy ban nhân 8/2010
dân huyện
Tỉnh ủy viên, Từ tháng

314
TT Thời gian giữ
Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Bí thư Huyện 9/2010 đến
ủy, Chủ tịch tháng 10/2014
Ủy ban nhân
dân huyện
Tỉnh ủy viên, Từ tháng
Bí thư Huyện 11/2014 đến
ủy tháng 7/2015
5 Đào Mạnh Hùng Tỉnh ủy viên, Từ tháng
Bí thư Huyện 8/2015 đến
ủy, Chủ tịch tháng 9/2020
Hội đồng
nhân dân
huyện

315
TT Thời gian giữ
Họ và tên Chức vụ
chức vụ
6 Ngô Quang Chiến Phó Bí thư Từ tháng
Thường trực 7/2013 đến
Huyện ủy tháng 10/2014
Phó Bí thư Từ tháng
Huyện ủy, 11/2014 đến
Chủ tịch Ủy tháng 10/2020
ban nhân dân
huyện
Tỉnh ủy viên, Từ tháng
Bí thư Huyện 10/2020 đến
ủy tháng 12/2020
Tỉnh ủy viên, Tháng 12/2020
Bí thư Huyện đến tháng
ủy, Chủ tịch 8/2021
316
TT Thời gian giữ
Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Hội đồng
nhân dân
huyện
7 Nguyễn Quốc Trị Phó Bí thư Từ tháng
Huyện ủy, 01/2001 đến
Chủ tịch Ủy tháng 5/2004
ban nhân dân
huyện
8 Nguyễn Thanh Bảo Phó Bí thư Từ tháng
Thường trực 8/2001 đến
Huyện ủy tháng 8/2008
Phó Bí thư Từ tháng
Thường trực 8/2008 đến
Huyện ủy, tháng 5/2009
Chủ tịch Hội

317
TT Thời gian giữ
Họ và tên Chức vụ
chức vụ
đồng nhân dân
huyện
Phó Bí thư Từ 5/2009 đến
Thường trực 4/2013
Huyện ủy
9 Nguyễn Văn Khởi Phó Bí thư Từ tháng
Huyện ủy 5/2013 đến
tháng 8/2015
10 Nguyễn Ký Ngọc Phó Bí thư Từ tháng
Thường trực 8/2015
Huyện ủy

11 Trần Anh Tuấn Phó Bí thư Từ tháng


Huyện ủy, 12/2020
Chủ tịch Ủy
318
TT Thời gian giữ
Họ và tên Chức vụ
chức vụ
ban nhân dân
huyện

III. DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN TỪ NĂM 2000-2020

1. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XII, nhiệm kỳ 2000-2005

Thời gian giữ


TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
1 Nguyễn Đức Cường Bí thư Huyện Từ tháng
ủy 01/2001
Tỉnh ủy viên, Từ tháng
Bí thư Huyện 3/2001
ủy
Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ 3/2001 đến

319
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Tỉnh ủy, Bí tháng 8/2001
thư Huyện ủy
2 Hoàng Giáo Phó Bí thư Từ tháng
Thường trực 01/2001 đến
Huyện ủy, Chủ tháng 8/2001
tịch Hội đồng
nhân dân
huyện
Bí thư Huyện Từ tháng
ủy, Chủ tịch 8/2001 đến
Hội đồng nhân tháng 10/2005
dân huyện
3 Nguyễn Quốc Trị Phó Bí thư Từ tháng
Huyện ủy, Chủ 01/2001 đến
tịch Ủy ban tháng 5/2004
nhân dân

320
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
huyện
4 Nguyễn Thanh Bảo Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 01/2001 đến
Trưởng Ban tháng 8/2001
Tổ chức
Huyện ủy
Phó Bí thư Từ tháng
Thường trực 8/2001 đến
Huyện ủy tháng 10/2005
5 Nguyễn Công Phán Huyện ủy Từ tháng
viên, Phó Chủ 01/2001 đến
tịch Ủy ban tháng 5/2003
nhân dân
huyện
Ủy viên Ban Từ tháng

321
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Thường vụ 5/2003 đến
Huyện ủy, Phó tháng 4/2004
Chủ tịch Ủy
ban nhân dân
huyện
Phó Bí thư Từ tháng
Huyện ủy, Chủ 5/2004 đến
tịch Ủy ban tháng 10/2005
nhân dân
huyện
6 Ngô Quang Chiến Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 02/2001 đến
Trưởng Ban tháng 10/2001
Tuyên giáo
Huyện ủy

322
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 10/2001 đến
Trưởng Ban tháng 10/2005
Tổ chức
Huyện ủy
7 Trương Đức Đinh Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 10/2000 đến
Trưởng Công tháng 6/2005
an huyện
8 Dương Ngọc Phụ Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 01/2001 đến
Chỉ huy tháng 6/2002
trưởng Ban
Chỉ huy quân

323
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
sự huyện
9 Nguyễn Văn Minh Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 6/2002 đến
Chỉ huy tháng 6/2005
trưởng Ban
Chỉ huy quân
sự huyện
10 Lê Chính Quy Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 02/2000 đến
Trưởng ban tháng 4/2002
Dân vận, Chủ
tịch Ủy ban
Mặt trận Tổ
quốc Việt

324
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Nam huyện
11 Hoàng Bá Tiệu Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 01/2001 đến
Chủ nhiệm Ủy tháng 8/2005
ban Kiểm tra
huyện ủy
12 Nguyễn Thanh Bình Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Kế
hoạch đầu tư
13 Hồ Trọng Bình Huyện ủy
viên, Chủ tịch
Ủy ban nhân
dân xã Cam
Thanh

325
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
14 Hồ Xuân Dung Huyện ủy
viên, Chi cục
trưởng Chi cục
Thuế
15 Lê Quang Dũng Huyện ủy
viên, Phó Chủ
nhiệm Ủy ban
Kiểm tra
Huyện ủy
16 Trần Đoàn Huyện ủy
viên, Phó
Giám đốc
Công ty hồ
tiêu Tân Lâm
17 Hồ Văn Hân Huyện ủy
viên, Phó Chủ

326
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
tịch Hội đồng
nhân dân
huyện
18 Nguyễn Thị Hoa Huyện ủy
viên, Phó Chủ
tịch Ủy ban
nhân dân
huyện
19 Đào Mạnh Hùng Huyện ủy
viên, Bí thư
Huyện Đoàn
20 Nguyễn Ký Ngọc Huyện ủy
viên, Chánh
Văn phòng
Huyện ủy

327
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
21 Nguyễn Huynh Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Giáo
dục - Đào tạo
22 Hà Quảng Hưng Huyện ủy
viên, Phó Viện
trưởng Viện
Kiểm sát nhân
dân huyện
23 Đào Xuân Hữu Huyện ủy
viên, Phó Chủ
tịch Ủy ban
Mặt trận Tổ
quốc Việt
Nam huyện

328
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
24 Nguyễn Minh Khương Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy xã
Cam Hiếu
25 Trần Ngọc Ký Huyện ủy
viên, Phó
Trưởng Ban
Tuyên giáo -
Giám đốc
Trung tâm Bồi
dưỡng chính
trị huyện
26 Nguyễn Ngọc Lương Huyện ủy
viên, Chủ tịch
Ủy ban nhân
dân xã Cam

329
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Chính
27 Hồ Thị Ngân Huyện ủy
viên, Chủ tịch
Hội Liên hiệp
phụ nữ huyện
28 Hoàng Ngọc Sĩ Huyện ủy
viên, Trưởng
Đài truyền
thanh huyện
29 Lê Văn Thanh Huyện ủy
viên, Chủ tịch
Ủy ban nhân
dân xã Cam
Nghĩa
30 Nguyễn Thanh Trung Huyện ủy
viên, Bí thư

330
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Đảng ủy xã
Cam Tuyền
31 Trần Anh Tuấn Huyện ủy
viên, Chánh
Văn phòng Ủy
ban nhân dân
huyện

2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIII, nhiệm kỳ 2005-2010

Thời gian giữ


TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
1 Hoàng Giáo Tỉnh ủy viên, Từ tháng
Bí thư Huyện 10/2005 đến
ủy, Chủ tịch tháng 01/2008
Hội đồng nhân
dân huyện
331
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
2 Nguyễn Ngọc Châu Tỉnh ủy viên, Từ tháng
Bí thư Huyện 01/2008 đến
ủy tháng 4/2009
3 Nguyễn Thanh Bảo Phó Bí thư Từ tháng
Thường trực 10/2005 đến
Huyện ủy tháng 8/2008
Phó Bí thư Từ tháng
Thường trực 8/2008 đến
Huyện ủy, Chủ tháng 5/2009
tịch Hội đồng
nhân dân
huyện
Phó Bí thư Từ tháng
Thường trực 5/2009 đến
Huyện ủy tháng 8/2010

332
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
4 Nguyễn Công Phán Phó Bí thư Từ tháng
Huyện ủy, Chủ 10/2005 đến
tịch Ủy ban tháng 4/2009
nhân dân
huyện
Bí thư Huyện Từ tháng
ủy, Chủ tịch 4/2009 đến
Ủy ban nhân tháng 8/2010
dân huyện
5 Ngô Quang Chiến Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 10/2005 đến
Trưởng Ban tháng 11/2008
Tổ chức huyện
ủy
Ủy viên Ban Từ tháng

333
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Thường vụ 12/2008 đến
Huyện ủy, Phó tháng 8/2010
Chủ tịch Ủy
ban nhân dân
huyện
6 Nguyễn Thị Hoa Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2005 đến
Phó Chủ tịch tháng 10/2008
Ủy ban nhân
dân huyện
7 Đào Mạnh Hùng Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 10/2005 đến
Trưởng ban tháng 7/2010
Tuyên giáo
Huyện ủy

334
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
8 Phan Ngọc Lương Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 7/2005 đến
Trưởng Công tháng 7/2010
an huyện
9 Nguyễn Ký Ngọc Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 10/2005 đến
Trưởng Ban tháng 8/2009
Dân vận
Huyện ủy
Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2009 đến
Trưởng Ban tháng 8/2010
Tổ chức
Huyện ủy
10 Nguyễn Xuân Biểu Ủy viên Ban Từ tháng

335
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Thường vụ, 8/2005 đến
Chủ tịch Hội tháng 7/2007
Nông dân
huyện
Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2007 đến
Chủ tịch Ủy tháng 8/2010
ban Mặt trận
Tổ quốc Việt
Nam huyện
11 Nguyễn Văn Thanh Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 10/2005 đến
Chỉ huy tháng 2/2010
trưởng Ban
Chỉ huy quân

336
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
sự huyện
12 Nguyễn Văn Đông Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 2/2010 đến
Chỉ huy tháng 8/2010
trưởng Ban (Bổ sung)
Chỉ huy quân
sự huyện
13 Hoàng Bá Tiệu Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2005 đến
Chủ nhiệm Ủy tháng 8/2010
ban Kiểm tra
Huyện ủy
14 Nguyễn Thanh Bình Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Tài

337
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
chính - kế
hoạch
15 Nguyễn Văn Bình Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Giáo
dục - Đào tạo
16 Hồ Xuân Dung Huyện ủy
viên, Chi cục
trưởng Chi cục
thuế
17 Thái Hữu Dũng Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy, Chủ
tịch Hội đồng
nhân dân thị

338
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
trấn Cam Lộ
18 Nguyễn Văn Đăng Huyện ủy
viên, Phó Chủ
nhiệm Ủy ban
Kiểm tra
Huyện ủy
19 Hồ Văn Hân Huyện ủy
viên, Phó Chủ
tịch Hội đồng
nhân dân
huyện
20 Nguyễn Xuân Hoài Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy - Chủ
tịch Ủy ban

339
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
nhân dân xã
Cam Chính
21 Đào Mạnh Hùng Huyện ủy
viên, Chánh
Văn phòng
Huyện ủy
22 Nguyễn Hùng Huyện ủy
viên, Phó Bí
thư Đảng ủy -
Chủ tịch Ủy
ban nhân dân
xã Cam An
23 Hà Quảng Hưng Huyện ủy
viên, Viện
trưởng Viện

340
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Kiểm sát nhân
dân huyện
24 Đào Xuân Hữu Huyện ủy
viên, Phó Chủ
tịch Ủy ban
Mặt trận Tổ
quốc Việt
Nam huyện
25 Nguyễn Huynh Huyện ủy
viên, Phó Chủ
tịch Ủy ban
nhân dân
huyện
26 Nguyễn Minh Khương Huyện ủy
viên, Phó Bí

341
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
thư Đảng ủy,
Chủ tịch Ủy
ban nhân dân
xã Cam Hiếu
27 Lê Văn Lô Huyện ủy
viên, Phó
Trưởng Ban
Tuyên giáo
Huyện ủy,
Giám đốc
Trung tâm Bồi
dưỡng Chính
trị huyện
28 Hồ Thị Ngân Huyện ủy
viên, Chủ tịch

342
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Hội Liên hiệp
Phụ nữ huyện
29 Lê Hồng Nhạn Huyện ủy
viên, Bí thư
Đoàn Thanh
niên Cộng sản
Hồ Chí Minh
huyện
30 Trần Văn Phóng Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy xã
Cam Thành
31 Lê Văn Thanh Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng hạ tầng

343
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
cơ sở
32 Trần Quang Thanh Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy xã
Cam Thủy
33 Nguyễn Thanh Trung Huyện ủy
viên, Phó Bí
thư Đảng ủy,
Chủ tịch Ủy
ban nhân dân
xã Cam Tuyền
34 Trần Anh Tuấn Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Nội vụ -
Lao động,

344
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
thương binh,
xã hội
35 Lê Văn Vĩnh Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy, Chủ
tịch Ủy ban
nhân dân xã
Cam Nghĩa

345
3. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIV, nhiệm kỳ 2010-2015

Thời gian giữ


TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
1 Nguyễn Công Phán Tỉnh ủy viên, Từ tháng
Bí thư Huyện 9/2010 đến
ủy, Chủ tịch tháng 10/2014
Ủy ban nhân
dân huyện
Tỉnh ủy viên, Từ tháng
Bí thư Huyện 11/2014 đến
ủy tháng 7/2015
2 Nguyễn Thanh Bảo Phó Bí thư Từ tháng
Thường trực 8/2010 đến
Huyện ủy tháng 4/2013
3 Nguyễn Văn Khởi Phó Bí thư Từ tháng
Huyện ủy 5/2013 đến

346
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
tháng 8/2015
Phó Bí thư Từ tháng
Huyện ủy 8/2014 đến
kiêm Chủ tháng 9/2015
nhiệm Ủy ban
Kiểm tra
Huyện ủy
4 Ngô Quang Chiến Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ 8/2010 đến
Huyện ủy, Phó tháng 6/2013
Chủ tịch
Thường trực
Ủy ban nhân
dân huyện
Phó Bí thư Từ tháng

347
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Thường trực 7/2013 đến
Huyện ủy tháng 10/2014
Phó Bí thư Từ tháng
Huyện ủy, Chủ 11/2014 đến
tịch Ủy ban tháng 8/2015
nhân dân
huyện
5 Nguyễn Xuân Biểu Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 9/2010 đến
Chủ tịch Ủy tháng 6/2014
ban Mặt trận
Tổ quốc Việt
Nam huyện
6 Nguyễn Văn Đông Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2010 đến

348
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Chỉ huy tháng 10/2013
trưởng Ban
Chỉ huy quân
sự huyện
7 Đào Mạnh Hùng Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2010 đến
Trưởng ban tháng 8/2015
Tuyên giáo
Huyện ủy
8 Đào Mạnh Hùng Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2010 đến
Phó Chủ tịch tháng 8/2015
Ủy ban nhân
dân huyện
9 Phan Ngọc Lương Ủy viên Ban Từ tháng

349
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Thường vụ, 8/2010 đến
Trưởng Công tháng 8/2012
an huyện
10 Nguyễn Ký Ngọc Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2010 đến
Trưởng Ban tháng 11/2014
Tổ chức
Huyện ủy
Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ 12/2014 đến
trực, Trưởng tháng 8/2015
Ban Tổ chức
Huyện ủy
11 Lê Hồng Nhạn Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 10/2010 đến

350
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Trưởng Ban tháng 8/2015
Dân vận
Huyện ủy
12 Hoàng Bá Tiệu Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2010 đến
Chủ nhiệm Ủy tháng 5/2014
ban Kiểm tra
Huyện ủy
Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 6/2014 đến
Chủ tịch Ủy tháng 8/2015
ban Mặt trận
Tổ quốc Việt
Nam huyện
13 Thái Văn Nam Ủy viên Ban Từ tháng

351
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Thường vụ, 8/2012 đến
Trưởng Công tháng 5/2015
an huyện
14 Nguyễn Thành Công Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 11/2013 đến
Chỉ huy tháng 8/2015
trưởng Ban (Bổ sung)
Chỉ huy quân
sự huyện
15 Đào Trọng Tiến Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 7/2015 đến
Trưởng Công tháng 8/2015
an huyện (Bổ sung)

352
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
16 Trần Quang Thanh Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Nội vụ

17 Nguyễn Thanh Bắc Huyện ủy


viên, Trưởng
phòng Y tế
huyện
18 Nguyễn Thanh Bình Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Tài
chính - kế
hoạch
19 Nguyễn Thanh Bình Huyện ủy
viên, Phó Bí

353
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
thư Đảng ủy,
Chủ tịch Ủy
ban nhân dân
xã Cam Thanh
20 Nguyễn Văn Bình Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Giáo
dục - Đào tạo
21 Nguyễn Tiến Dũng Huyện ủy
viên, Chánh
Thanh tra
huyện
22 Ngô Viết Đơn Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy xã

354
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Cam An
23 Nguyễn Văn Hà Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy xã
Cam Chính
24 Hồ Văn Hân Huyện ủy
viên, Giám
đốc Trung tâm
Bồi dưỡng
Chính trị
huyện
25 Nguyễn Xuân Hoài Huyện ủy
viên, Chủ tịch
Hội Nông dân
huyện

355
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
26 Nguyễn Hùng Huyện ủy
viên, Phó
trưởng phòng
Nông nghiệp
và phát triển
nông thôn
27 Hà Quảng Hưng Huyện ủy
viên, Viện
trưởng Viện
Kiểm sát nhân
dân huyện
28 Nguyễn Thị Hương Huyện ủy
viên, Bí thư
Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh

356
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
huyện
29 Nguyễn Minh Khương Huyện ủy
viên, Chánh
Văn phòng
Huyện ủy
30 Nguyễn Thị Thanh Huyện ủy
Hương viên, Phó
Chánh Văn
phòng Huyện
ủy
31 Lê Văn Lô Huyện ủy
viên, Phó
Trưởng Ban
Tuyên giáo
Huyện ủy

357
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
32 Đặng Thị Lý Huyện ủy
viên, Chủ tịch
Hội Liên hiệp
phụ nữ huyện
33 Nguyễn Thuận Minh Huyện ủy
viên, Chi cục
trưởng Chi cục
Thuế huyện
34 Nguyễn Đức Quỳnh Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy xã
Cam Hiếu
35 Dương Văn Sơn Huyện ủy
viên, Giám
đốc Công ty

358
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Cổ phần Thiên
Tân
36 Lê Văn Thanh Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Công
thương
37 Thái Tăng Thiện Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy Thị
trấn Cam Lộ
38 Trần Anh Tuấn Huyện ủy
viên, Chánh
Văn phòng Ủy
ban nhân dân
huyện

359
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
39 Lê Văn Tỵ Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy xã
Cam Tuyền
40 Lê Văn Vĩnh Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy, Chủ
tịch Ủy ban
nhân dân xã
Cam Nghĩa
41 Nguyễn Thế Vỹ Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy xã
Cam Thủy
42 Võ Văn Hưng Huyện ủy Từ tháng

360
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
viên, Phó Chủ 11/2012 đến
tịch Ủy ban tháng 01/2015
nhân dân (Bổ sung)
huyện

361
4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XV, nhiệm kỳ 2015-2020

Thời gian giữ


TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
1 Đào Mạnh Hùng Tỉnh ủy viên, Từ tháng
Bí thư Huyện 8/2015 đến
ủy, Chủ tịch tháng 8/2020
Hội đồng nhân
dân huyện
2 Nguyễn Ký Ngọc Phó Bí thư Từ tháng
Thường trực 8/2015
Huyện ủy
3 Ngô Quang Chiến Phó Bí thư Từ tháng
Huyện ủy, Chủ 9/2015 đến
tịch Ủy ban tháng 8/2020
nhân dân
huyện

362
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
4 Nguyễn Thành Công Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2015 đến
Chỉ huy trưởng tháng 8/2020
Ban Chỉ huy
Quân sự huyện
5 Nguyễn Tiến Dũng Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2015 đến
Chủ nhiệm Ủy tháng 8/2020
ban Kiểm tra
Huyện ủy
6 Đào Mạnh Hùng Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2015 đến
Trưởng Ban tháng 7/2016
Tuyên giáo
Huyện ủy

363
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2016 đến
Phó chủ tịch tháng 8/2020
Thường trực
Hội đồng nhân
dân huyện
7 Nguyễn Thị Thanh Ủy viên Ban Từ 8/2015 đến
Hương Thường vụ, tháng 7/2016
Chánh Văn
phòng Huyện
ủy
Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2016 đến
Trưởng Ban tháng 8/2020
Tuyên giáo

364
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Huyện ủy
8 Lê Hồng Nhạn Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2015 đến
Trưởng Ban tháng 8/2020
Dân vận
Huyện ủy
9 Trần Quang Thanh Uỷ viên Ban Từ tháng
Thường vụ 8/2015 đến
Huyện ủy - tháng 9/2015
Trưởng phòng
Nội vụ
Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 10/2015 đến
Trưởng Ban tháng 8/2020
Tổ chức Huyện

365
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
ủy
10 Đào Trọng Tiến Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ 8/2015 đến
Huyện ủy, tháng 5/2020
Trưởng Công
an huyện
11 Hoàng Bá Tiệu Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 8/2015 đến
Chủ tịch Ủy tháng 8/2020
ban Mặt trận
Tổ quốc Việt
Nam huyện
12 Trần Anh Tuấn Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ 5/2015 đến
Huyện ủy, Phó tháng 11/2020

366
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Chủ tịch
Thường trực
Ủy ban nhân
dân huyện
13 Trần Thị Anh Huyện ủy viên,
Bí thư Đảng ủy
xã Cam Hiếu
14 Nguyễn Thanh Bắc Huyện ủy viên,
Trưởng phòng
Y tế
15 Nguyễn Thanh Bình Huyện ủy viên,
Phó Bí thư,
Chủ tịch Ủy
ban nhân dân
xã Cam Thanh

367
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
16 Nguyễn Thanh Bình Huyện ủy viên,
Trưởng phòng
Nông nghiệp
và phát triển
nông thôn
huyện
17 Nguyễn Minh Đức Huyện ủy viên,
Bí thư Huyện
đoàn
18 Ngô Viết Đơn Huyện ủy viên,
Bí thư Đảng ủy
xã Cam An
19 Nguyễn Văn Hà Huyện ủy viên,
Bí thư Đảng ủy
xã Cam Chính

368
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
20 Phan Thanh Hải Huyện ủy viên,
Phó Chánh văn
phòng Huyện
ủy
21 Nguyễn Xuân Hoài Huyện ủy viên,
Chủ tịch Hội
nông dân
huyện
22 Lê Huy Hoàn Huyện ủy viên,
Viện trưởng
Viện Kiểm sát
nhân dân
huyện
23 Phạm Văn Hồng Huyện ủy viên,
Trưởng phòng

369
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Giáo dục - Đào
tạo huyện
24 Nguyễn Hùng Huyện ủy viên,
Chánh thanh
tra huyện
25 Nguyễn Thị Hương Huyện ủy viên,
Phó trưởng
Ban Dân vận
Huyện ủy
26 Hoàng Thị Kim Huyện ủy viên,
Hường Phó Trưởng
Ban Tổ chức
Huyện ủy
27 Lê Thị Hường Huyện ủy viên,
Trưởng đài

370
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Truyền thanh
huyện
28 Nguyễn Minh Khương Huyện ủy viên,
Phó Chủ
nhiệm Ủy ban
Kiểm tra
huyện ủy
29 Trần Hoài Linh Huyện ủy viên,
Trưởng phòng
Kinh tế - Hạ
tầng
30 Lê Văn Lô Huyện ủy viên,
Phó trưởng
Ban Tổ chức
Huyện ủy

371
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
31 Vũ Thị Hoàng Loan Huyện ủy viên,
Trưởng phòng
Tài chính - Kế
hoạch
32 Đặng Thị Lý Huyện ủy viên,
Chủ tịch Hội
Liên hiệp phụ
nữ huyện
33 Đinh Văn Quyết Huyện ủy viên,
Bí thư Đảng ủy
xã Cam Nghĩa
34 Nguyễn Đức Quỳnh Huyện ủy viên,
Phó trưởng
Ban Tuyên
giáo Huyện ủy

372
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
35 Lê Văn Thanh Huyện ủy viên,
Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân
dân huyện
36 Thái Tăng Thiện Huyện ủy viên,
Phó Bí thư,
Chủ tịch Ủy
ban nhân dân
thị trấn Cam
Lộ
37 Nguyễn Anh Tuân Huyện ủy viên,
Bí thư Đảng ủy
xã Cam Tuyền
38 Lê Văn Vĩnh Huyện ủy viên,
Trưởng phòng

373
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Lao động,
thương binh và
xã hội huyện
39 Nguyễn Thế Vỹ Huyện ủy viên,
Bí thư Đảng ủy
xã Cam Thủy
40 Dương Thị Xuân Huyện ủy viên,
Chủ tịch Liên
đoàn lao động
huyện
41 Hồ Sỹ Đông Huyện ủy viên, Từ tháng
Trưởng Công 6/2020 (Bổ
an huyện sung)

5. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XVI, nhiệm kỳ 2020-2025

374
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
1 Đào Mạnh Hùng Tỉnh ủy viên, Từ tháng 8/2020
Bí thư Huyện đến tháng
ủy, Chủ tịch 9/2020
Hội đồng
nhân dân
huyện
2 Ngô Quang Chiến Phó Bí thư Từ tháng 9/2020
Huyện ủy, đến tháng
Chủ tịch Ủy 10/2020
ban nhân dân
huyện
Tỉnh ủy viên, Từ tháng
Bí thư Huyện 10/2020
ủy
Tỉnh ủy viên, Tháng 12/2020

375
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Bí thư Huyện
ủy, Chủ tịch
Hội đồng
nhân dân
huyện
3 Nguyễn Ký Ngọc Phó Bí thư
Thường trực
Huyện ủy

4 Trần Anh Tuấn Ủy viên Ban Từ tháng 8/2020


Thường vụ đến tháng
Huyện ủy, 12/2020
Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân
dân huyện

376
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Phó Bí thư Từ tháng
Huyện ủy, 12/2020 đến nay
Chủ tịch Ủy
ban nhân dân
huyện
5 Trần Quang Thanh Ủy viên Ban Từ tháng 8/2020
Thường vụ, đến nay
Trưởng Ban
Tổ chức
Huyện ủy
6 Nguyễn Tiến Dũng Ủy viên Ban Từ tháng 8/2020
Thường vụ, đến nay
Chủ nhiệm Ủy
ban Kiểm tra
Huyện ủy

377
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Lê Hồng Nhạn Ủy viên Ban Từ tháng 8/2015
7 Thường vụ, đến tháng
Trưởng Ban 8/2020
Dân vận
Huyện ủy
Ủy viên Ban Từ tháng 9/2020
Thường vụ, đến nay
Trưởng Ban
Tuyên giáo
Huyện ủy
kiêm Giám
đốc Trung tâm
chính trị
huyện
8 Nguyễn Thị Thanh Ủy viên Ban Từ tháng 8/2015

378
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Hương Thường vụ, đến tháng
Trưởng Ban 9/2020
Tuyên giáo
Huyện ủy
Ủy viên Ban Từ tháng 9/2020
Thường vụ, đến nay
Trưởng Ban
Dân vận
Huyện ủy
Ủy viên Ban Từ tháng
Thường vụ, 12/2020 đến nay
Trưởng Ban
Dân vận
Huyện ủy,
Chủ tịch Ủy

379
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
ban Mặt trận
Tổ quốc Việt
Nam huyện
9 Đào Mạnh Hùng Ủy viên Ban Từ tháng 9/2020
Thường vụ, đến nay
Phó Chủ tịch
Hội đồng
nhân dân
huyện
10 Hồ Sỹ Đông Ủy viên Ban Từ tháng 9/2021
Thường vụ,
Trưởng Công
an huyện
11 Nguyễn Thành Công Ủy viên Ban Từ tháng 8/2020
Thường vụ, đến nay

380
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Chỉ huy
trưởng, Ban
Chỉ huy quân
sự huyện
12 Nguyễn Thanh Bắc Huyện ủy
viên, Phó Chủ
tịch Hội đồng
nhân dân
huyện
13 Trần Thị Anh Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy xã
Cam Hiếu
14 Nguyễn Văn Ân Huyện ủy
viên, Bí thư

381
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Đảng ủy xã
Cam Thủy
15 Nguyễn Thanh Bình Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy xã
Thanh An
16 Nguyễn Thành Công Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Tài
nguyên - Môi
trường
17 Nguyễn Minh Đức Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Văn
hóa - Thông

382
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
tin huyện
18 Phan Thanh Hải Huyện ủy
viên, Chánh
Văn phòng
Huyện ủy
19 Nguyễn Hùng Huyện ủy
viên, Chánh
Thanh tra
huyện
20 Hoàng Thị Kim Huyện ủy
Hường viên, Phó
Trưởng Ban
Tổ chức
Huyện ủy
21 Lê Thị Hường Huyện ủy

383
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
viên, Chủ tịch
Hội Liên hiệp
phụ nữ huyện
22 Nguyễn Minh Khương Huyện ủy
viên, Phó Chủ
nhiệm Ủy ban
Kiểm tra
Huyện ủy
23 Vũ Thị Hoàng Loan Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Tài
chính - Kế
hoạch
24 Nguyễn Tiến Long Huyện ủy
viên, Phó

384
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Trưởng phòng
Giáo dục -
Đào tạo huyện
25 Trần Hoài Linh Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Kinh tế
- Hạ tầng; Phó
Chủ tịch Ủy
ban nhân dân
huyện
Ủy viên Ban Từ tháng 9/2021
Thường vụ
Huyện ủy,
Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân

385
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
dân huyện
26 Đặng Thị Lý Huyện ủy
viên, Phó Chủ
tịch Ủy ban
Mặt trận Tổ
quốc Việt
Nam huyện
27 Trần Vũ Minh Huyện ủy
viên, Phó Chủ
tịch Ủy ban
Mặt trận Tổ
quốc Việt
Nam huyện
28 Nguyễn Thị Tuyết Huyện ủy
Nhung viên, Chánh

386
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Văn phòng
Hội đồng
nhân dân - Ủy
ban nhân dân
huyện
29 Nguyễn Thị Hoàng Huyện ủy
Oanh viên, Bí thư
Huyện đoàn
30 Đinh Văn Quyết Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy xã
Cam Nghĩa
31 Nguyễn Anh Tuân Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy xã

387
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
Cam Tuyền
32 Phạm Viết Thanh Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Nông
nghiệp và
Phát triển
Nông thôn
huyện
33 Thái Tăng Thiện Huyện ủy
viên, Bí thư
Đảng ủy Thị
trấn Cam Lộ
34 Lê Văn Vĩnh Huyện ủy
viên, Trưởng
phòng Lao

388
Thời gian giữ
TT Họ và tên Chức vụ
chức vụ
động -
Thương binh
và xã hội
35 Dương Thị Xuân Huyện ủy
viên, Chủ tịch
Liên đoàn Lao
động huyện

389
MỤC LỤC

Trang
Lời Nhà xuất bản
Lời nói đầu
Chương I
ĐẢNG BỘ HUYỆN CAM LỘ LÃNH ĐẠO ĐẨY
MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN (2000-2005)
I. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ
XII
II. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn, đưa Cam Lộ phát triển
(2001-2005)

390
1. Đảng bộ lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân
III. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, tình
hình chính trị và trật tự, an toàn xã hội ổn định
IV. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị đã nâng cao trên cả ba mặt: chính trị, tư
tưởng và tổ chức
1. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng
2. Năng lực và hiệu quả quản lý, điều hành của chính
quyền, vai trò Mặt trận và các đoàn thể được nâng lên
Chương II
PHÁT HUY SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN, HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC, KHAI
THÁC TIỀM NĂNG, LỢI THẾ ĐƯA
CAM LỘ THOÁT NGHÈO (2005-2010)
I. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ

391
XIII
II. Huy động các nguồn lực, khai thác tiềm năng lợi
thế, đưa Cam Lộ thoát khỏi huyện nghèo
1. Đảng bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh
tế
2. Phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao chất lượng
cuộc sống nhân dân
III. Tăng cường quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn
định chính trị
IV. Tập trung xây dựng, củng cố tổ chức đảng gắn
với xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh
1. Đổi mới và tăng cường công tác xây dựng Đảng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức
2. Phát huy hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, điều hành
của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân
3. Chăm lo củng cố, xây dựng mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể vững mạnh

392
Chương III
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ,
PHÁT HUY SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN, KHAI THÁC HIỆU QUẢ TIỀM
NĂNG, LỢI THẾ ĐƯA CAM LỘ PHÁT
TRIỂN TOÀN DIỆN VÀ BỀN VỮNG (2010-2015)
I. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ
XIV
II. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội,
củng cố quốc phòng - an ninh
1. Nền kinh tế phát triển khá toàn diện; Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đạt kết quả
tích cực về tiến độ và tính bền vững
2. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ; đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện
III. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh,
bảo đảm trật tự xã hội

393
IV. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức đảng, chất lượng, hiệu quả hoạt động của
chính quyền các cấp. Phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao đời sống nhân dân
1. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức đảng
2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính
quyền các cấp, đẩy mạnh cải cách hành chính
3. Khối đại đoàn kết toàn dân được cũng cố, tăng
cường, hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân có nhiều đổi mới

394
Chương IV
TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ
SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ; ĐẨY
MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ; TẠO
BƯỚC ĐỘT PHÁ VỀ NĂNG SUẤT NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ
THU NHẬP CHO NHÂN DÂN
(2015-2020)
I. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Cam Lộ lần thứ
XV
II. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế; gắn với
xây dựng nông thôn mới; giải quyết tốt các vấn đề
xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân
1. Lĩnh vực kinh tế
2. Quy hoạch, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và xây
dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả tích cực

395
3. Lãnh đạo phát triển văn hóa - xã hội
III. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững
mạnh toàn diện, tạo điều kiện vững chắc thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển
IV. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ; phát
huy sức mạnh đoàn kết toàn dân
1. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ
2. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực điều hành, quản lý Nhà
nước của chính quyền từ huyện đến cơ sở
3. Phát huy vai trò, vận động tập hợp quần chúng nhân
dân đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước
Kết luận
Phụ lục

396
397

You might also like