You are on page 1of 6

ÔN TẬP

MÔN TÌNH HÌNH VÀ NHIỆM VỤ ĐỊA PHƯƠNG

Câu 1: Khái quát những đặc điểm tự nhiên, văn hóa truyền thống
Bến Tre
Bến Tre là một trong 13 tỉnh, thành phố thuộc khu vực đồng
bằng sông Cửu Long, được hợp thành bởi 03 dãy cù lao: An Hóa, Bảo
và Minh, do phù sa 04 nhánh sông Cửu Long (Cửa Đại, Ba Lai, Hàm
Luông, Cổ Chiên) bồi tụ. Tỉnh có diện tích tự nhiên 2.394,8 km2, dân
số 1.289,1 nghìn người, mật độ dân số là 538 người/km2 ; có 09 đơn
vị hành chính cấp huyện: thành phố Bến Tre, huyện Châu Thành, Bình
Đại, Giồng Trôm, Ba Tri, Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc, Chợ Lách và
Thạnh Phú (trong đó có 03 huyện biển: Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú);
157 xã, phường, thị trấn. Đảng bộ tỉnh Bến Tre có 13 đảng bộ trực
thuộc, gồm: 09 đảng bộ huyện, thành phố và 04 đảng bộ tương đương;
636 tổ chức cơ sở đảng, với 56.540 đảng viên, chiếm 4,38% dân số.
Với vị trí địa lý khá thuận lợi, khoảng cách đường bộ từ Bến Tre
đến Thành phố Hồ Chí Minh 88 km và từ Bến Tre đến thành phố Cần
Thơ 110 km, hệ thống giao thông đường bộ ngày càng hoàn thiện và
phân bố đều khắp trong tỉnh; từ khi cầu Rạch Miễu, cầu Hàm Luông
và cầu Cổ Chiên hoàn thành đưa vào sử dụng, Bến Tre đã phá được
thế biệt lập và tạo tuyến đường bộ thông suốt đi Thành phố Hồ Chí
Minh, tỉnh Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long và các tỉnh, thành trong
khu vực. Mặt khác, Bến Tre thuộc khu vực tam giác hệ thống sông
Tiền nên thuận lợi về đường thủy, với 04 hệ thống sông chính hướng
ra biển Đông và hệ thống kênh rạch là các trục giao thông đối ngoại
quan trọng gắn kết kinh tế tỉnh Bến Tre với các tỉnh vùng đồng bằng
sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, từ đó tạo điều
kiện để khơi dậy và phát triển mạnh mẽ tiềm năng kinh tế - xã hội
trong thời gian tới.
Bến Tre là một tỉnh nông nghiệp, với thế mạnh là kinh tế vườn
và kinh tế biển; với khoảng 72.770ha cây dừa, 27.855 ha cây ăn trái,
45.000 ha nuôi thủy sản, 3.845 tàu khai thác thủy sản, với công suất
bình quân 346 CV/tàu,… Thời gian qua, Bến Tre rất quan tâm đến
việc xây dựng, hoàn thiện chuỗi giá trị trên các sản phẩm nông nghiệp
chủ lực của tỉnh, đến nay đã có 5 chuỗi giá trị sản phẩm được hình
thành và phát triển (dừa, bưởi da xanh, chôm chôm, nhãn và tôm biển)
và 03 chuỗi đang xây dựng (hoa kiểng, bò và heo). Bến Tre có 02 khu
công nghiệp gồm Giao Long (quy mô 170 ha) và An Hiệp (quy mô 72
ha) (thuộc huyện Châu Thành) hiện đã lấp đầy 100% diện tích, hiện
đang triển khai xây dựng Khu Công nghiệp Phú Thuận (quy mô 230
ha, thuộc huyện Bình Đại); 10 cụm công nghiệp ở các huyện, với tổng
diện tích 347,3 ha; có 57 làng nghề đã được công nhận. Các thành
phần kinh tế được quan tâm thành lập mới và phát triển khá tốt, đến
nay toàn tỉnh có 4.903 doanh nghiệp với vốn đăng ký 44.242,063 tỷ
đồng; Chương trình “Đồng khởi khởi nghiệp và Phát triển doanh
nghiệp” được triển khai thực hiện đạt kết quả bước đầu khá quan
trọng, nhiều ý tưởng, dự án khởi nghiệp được kết nối, hỗ trợ và phát
huy khá tốt,...
Những năm gần đây, tình hình đầu tư phát triển, xây dựng kết
cấu hạ tầng rất được quan tâm, hàng loạt các công trình, dự án trên các
lĩnh vực được hoàn thành, đưa vào sử dụng đã góp phần rất lớn trong
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; đến nay, tất cả các cầu trên
các tuyến đường chính của tỉnh đều đã được bê tông hóa, tạo giao
thông thông suốt và an toàn; bên cạnh đó, Bến Tre cũng chú trọng đến
phát triển đô thị, thành phố Bến Tre đạt đô thị loại II, có 02 đô thị loại
III, 02 đô thị loại IV và 20 đô thị loại V. Hệ thống cung cấp điện, cung
cấp nước ngọt phục vụ sản xuất và sinh hoạt, bưu chính viễn thông, tín
dụng ngân hàng, dịch vụ vận tải,… được quan tâm đầu tư phát triển cả
về quy mô và chất lượng phục vụ. Đến nay, có  99.93% hộ dân được
sử dụng điện; 98.5% hộ dân sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong
đó có 61% sử dụng nước sạch. Kết cấu hạ tầng văn hóa - xã hội cũng
được quan tâm đầu tư, hệ thống trường lớp, bệnh viện và trạm y tế cơ
sở,... được xây dựng và mở rộng; phối hợp thành lập và đưa Phân hiệu
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tại Bến Tre (đang phối hợp
thực hiện quy trình thành lập Đại học Bến Tre - Trường thành viên
của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) từng bước đi vào hoạt
động ổn định, góp phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho tỉnh
và khu vực; đã xây dựng 157/157 xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí
Quốc gia về y tế, 100% Trạm y tế có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi để
chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ và trẻ em, 100% xã có y tế ấp,
96,5% ấp có y tế ấp, 79,70% tổ nhân nhân tự quản có TNVSKCĐ,
93,6% TYT xã có cán bộ YHDT; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống hóa”, gắn với xây dựng nông thôn mới và đô thị văn
minh ngày càng phát triển, Đến cuối năm 2020, Bến Tre hiện có 51 xã
nông thôn mới, huyện Chợ Lách đạt huyện nông thôn mới, thành phố
Bến Tre hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và 05 phường
đạt chuẩn văn minh đô thị. Các hoạt động thông tin tuyên truyền, văn
hóa, văn nghệ, có tiến bộ, nội dung và hình thức đổi mới khá phong
phú; hệ thống thông tin đại chúng phát triển rộng khắp đến cơ sở, góp
phần nâng cao dân trí và nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Thực hiện truyền thống quý báu của dân tộc “Uống nước nhớ
nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, Bến Tre luôn quan tâm chăm lo
các đối tượng chính sách, hộ nghèo, neo đơn. Bến Tre hiện có 6.910
Bà Mẹ được phong tặng, truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng
(có 268 Bà mẹ còn sống và được phụng dưỡng), hàng năm tổ chức
điều dưỡng trên 1.000 lượt người có công và hỗ trợ hơn 7.000 người
có công điều dưỡng tại gia đình, phục hồi sức khỏe; tỷ lệ hộ gia đình
chính sách người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống
trung bình của người dân đạt 98,96% và có 100% xã, phường, thị trấn
làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ. Công tác giảm nghèo được tập
trung thực hiện tốt, thông qua các chương trình, dự án đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, nâng cao dân trí, cải thiện
kết cấu hạ tầng, nhà ở,… đã tạo cơ hội và điều kiện cho người nghèo
tham gia sản xuất, tiếp cận với các dịch vụ xã hội, tăng thu nhập, cải
thiện đời sống; tỷ lệ hộ nghèo của Bến Tre cuối năm 2020 còn 3,60%.
Bến Tre có 02 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 16 di tích cấp quốc
gia, 04 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, 56 di tích cấp tỉnh,
trong đó có nhiều nơi khá quen thuộc, như: Khu mộ và khu tưởng
niệm Nguyễn Đình Chiểu (xã An Đức, huyện Ba Tri), khu di tích
Đồng khởi Bến Tre (xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày Nam), mộ Nhà
giáo Võ Trường Toản (làng Bảo Thạnh, Ba Tri), đình Phú Lễ (Ba Tri),
đình Bình Hòa (Giồng Trôm), di tích căn cứ khu ủy Sài Gòn - Gia
Định, di tích đầu cầu tiếp nhận vũ khí Bắc Nam (Thạnh Phú), Nhà Cổ
Hương Liêm, Nhà ông Nguyễn Văn Trác, đền thờ cụ Huỳnh Tấn Phát
(Châu Hưng, Bình Đại), đền thờ lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (Mỹ
Thạnh, Giồng Trôm), đền thờ nữ tướng Nguyễn Thị Định, Phan Văn
Trị (Giồng Trôm), Trương Vĩnh Ký (Chợ Lách), mộ Cụ Phan Thanh
Giản (Ba Tri). Ngoài ra, có các điểm du lịch: Cồn Phụng, Resort
Forever Green (Châu Thành), cồn Bững (Thạnh Phú), cống đập Ba
Lai (Ba Tri)...; các lễ hội truyền thống hàng năm như: Kỷ niệm ngày
Bến Tre Đồng Khởi 17/1; lễ hội truyền thống văn hóa tỉnh (ngày 01/7
hàng năm nhân ngày sinh của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu);
lễ hội Cây trái ngon, an toàn được tổ chức vào dịp Tết Đoan Ngọ hàng
năm,... Hiện nay tỉnh đang tập trung đầu tư, tôn tạo các di tích văn hóa
- lịch sử và kêu gọi đầu tư các dự án du lịch trọng điểm của tỉnh, để
thu hút khách du lịch và góp phần phát triển du lịch trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn theo Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của
Bộ Chính trị.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh khoá XI, nhiệm kỳ
2020 – 2025 đề ra mục tiêu tổng quát: “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đoàn
kết, tinh thần Đồng Khởi, ý chí, khát vọng vươn lên của người Bến
Tre; tập trung phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, năng lượng
tái tạo và nông nghiệp giá trị gia tăng cao; đẩy mạnh ứng dụng khoa
học công nghệ, đổi mới sáng tạo; thúc đẩy khởi nghiệp và phát triển
doanh nghiệp; phát triển Bến Tre về hướng Đông, huy động và sử
dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; tích
cực, chủ động hội nhập quốc tế; giữ vững ổn định an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh; xây dựng và
phát triển văn hoá, con người Bến Tre đáp ứng yêu cầu phát triển
nhanh và bền vững.
  Phấn đấu xây dựng Bến Tre trở thành tỉnh phát triển khá của
vùng đồng bằng sông Cửu Long vào năm 2025 và của cả nước vào
năm 2030”.
Để thực hiện đạt được các mục tiêu trên, Tỉnh ủy khóa XI nhiệm
kỳ 2020 - 2025 đã cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội thành 06 nghị quyết,
06 đề án, 04 chương trình, 02 chỉ thị; tập trung chuẩn bị các điều kiện
để triển khai thực hiện 05 nhiệm vụ trọng tâm, 03 nhiệm vụ đột phá,
11 công trình, dự án trọng điểm; tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
các chủ trương, chương trình, phong trào thiết thực, như: Chủ trương
phân công cán bộ theo dõi, hỗ trợ địa bàn theo phương châm "Tỉnh
nắm tới xã; huyện nắm tới ấp; xã nắm tới hộ gia đình", phong trào thi
đua "Đồng Khởi mới", Chương trình "Đồng khởi khởi nghiệp và Phát
triển doanh nghiệp",... Năm 2021, Tỉnh uỷ xác định chủ đề là “Đồng
thuận - Sáng tạo”, nhằm tập sự thống nhất, đồng thuận trong nội bộ,
Nhân dân; sự chủ động, sáng tạo, linh hoạt của các cấp, các ngành,
cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên trong quá trình tổ chức quán
triệt và cụ thể hoá thực hiện Nghị quyết Đại hội; kết quả của năm
2021 với vị trí là năm đầu nhiệm kỳ sẽ tạo tiền đề, cơ sở quan trọng để
triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh và
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Năm
2022 thực hiện chủ đề “Đồng thuận - sáng tạo - Phát triển” kết quả
nổi bật là lĩnh vực kinh tế có sự tăng trưởng và phục hồi đạt 3,83%.
Có 80 xã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM), trong đó có 20 xã đạt
chuẩn NTM nâng cao; 23 xã đạt từ 15-18 tiêu chí, 39 xã đạt từ 10-14
tiêu chí, không có xã đạt dưới 10 tiêu chí. Thu ngân sách Nhà nước
đạt 60,74% dự toán Trung ương giao, 57,18% dự toán địa phương
phấn đấu. Đặc biệt, Bí thư Tỉnh ủy đã thông tin sâu, cụ thể về 11 công
trình, dự án trọng điểm của tỉnh đang quyết liệt tập trung triển khai…
Nhìn chung 6 tháng đầu năm thực hiện đạt vượt 2/25 chỉ tiêu; có 7/25
chỉ tiêu xấp xỉ đạt; có 7/27 chỉ tiêu đạt trên 50%; có 5/25 chỉ tiêu đạt
dưới 50%; có 3/25 chỉ tiêu thực hiện đánh giá vào cuối năm.
Công tác Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn
đến năm 2050, các dự án đầu tư hạ tầng thủy lợi đang được tập trung
đẩy nhanh tiến độ. Tiếp tục tập trung triển khai thực hiện Kế hoạch số
3453/KH-UBND về phát triển các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh
giai đoạn 2021 - 2025. Hiện toàn tỉnh có 10 cụm công nghiệp được
thành lập với tổng diện tích là 347,3ha; trong đó có 4 cụm công
nghiệp đã đầu tư và đi vào hoạt động với 25 dự án đăng ký đầu tư,
tổng vốn đăng ký đầu tư khoảng 4.905,38 tỷ đồng, giải quyết việc làm
cho khoảng 9.696 lao động, tỷ lệ lắp đầy khoảng 32,35%.
Các dự án đầu tư hạ tầng thủy lợi được tập trung đẩy nhanh tiến
độ như: Dự án Hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre, Dự án Hệ thống thủy
lợi Nam Bến Tre, Trạm bơm nước thô Cái Bè và hệ thống tuyến ống
truyền tải, Dự án đầu tư khu Lạc Địa, Dự án Quản lý nguồn nước Bến
Tre, Kế hoạch phát triển 4.000ha nuôi tôm nước lợ ứng dụng công
nghệ cao…

You might also like