Professional Documents
Culture Documents
Từ khi bắt đầu đổi mới, nền nông nghiệp nước ta đạt được nhiều tiến bộ với những
kết quả đáng phấn khởi. Song về cơ bản, nông nghiệp nước ta vẫn còn lạc hậu so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Để giải quyết được thực trạng này, từ ngày 3 đến
ngày 10-6-1993, Hội nghị Trung ương 5 khóa VII đã bàn sâu về chính sách đối với
nông dân, nông nghiệp và nông thôn để đưa nông nghiệp và nông thôn tiến nhanh và
vững chắc hơn. Hội nghị đã thông qua Nghị quyết Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế -
xã hội nông thôn. Nghị quyết đã nêu lên thực trạng nông nghiệp, nông thôn nước ta qua
những năm đổi mới, mục tiêu và quan điểm tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp,
nông thôn cũng như phương hướng và giải pháp cụ thể, như:
- Đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
- Cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn.
- Kiên trì và nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước (đổi mới kinh tế hợp tác xã,
phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên, đổi mới hệ thống doanh nghiệp Nhà nước,
khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân)
- Thực hiện chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân.
- Đổi mới chính sách vĩ mô của Nhà nước (chính sách thị trường tiêu thụ nông sản
hàng hoá, chính sách đầu tư và tín dụng, chính sách thuế sử dụng đất và thuỷ lợi phí, đẩy
mạnh công tác khuyến nông, chính sách khoa học và công nghệ, chính sách xã hội nông
thôn, chính sách đối với miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số)
Ngày 30-7-1994, Hội nghị Trung ương 7 đưa ra chủ trường về phát triển công
nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới. Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật
hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát
triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Mang quan điểm công nghiệp
hoá, hiện đại hoá phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là sự nghiệp của toàn dân với
nền tảng là khoa học, công nghệ, Nghị quyết đã xác định cụ thể những chủ trương về:
- Công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản
- Công nghiệp hàng tiêu dùng
- Công nghiệp cơ khí và điện tử - tin học
- Các ngành công nghiệp sản xuất nguyên, nhiên, vật liệu
- Du lịch - dịch vụ
- Công nghiệp quốc phòng
- Kết cấu hạ tầng
- Công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn
- Phát triển đô thị
- Phát triển công nghiệp miền biển
- Phát triển khoa học - công nghệ
V. Kết quả đạt được
1. Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ
yếu của kế hoạch 5 năm.
Trong 5 năm 1991-1995, nhịp độ tăng bình quân hăng năm về tổng sản phẩm
trong nước (GDP) đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5 – 6,5%), về sản xuất công nghiệp là 13,3%,
sản xuất nông nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển
đổi: tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 đến 29,1% năm
1995; dịch vụ từ 39,6% lên 41,9%. Bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư
cơ bản toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP; năm 1995 là 27,4% (trong đó nguồn
đầu tư trong nước chiếm 16,7% GDP). Đến cuối năm 1995, tổng vốn đăng ký của các dự
án đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 19 tỉ USD, gần 1/3 đã được thực hiện. Lạm
phát từ mức 67,1% năm 1991 giảm xuống còn 12,7% năm 1995.
Hoạt động khoa học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường.
Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng.
2. Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội.
Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung
bình và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Mỗi năm thêm hơn 1 triệu lao động có
việc làm. Nhiều nhà ở và đường giao thông được nâng cấp và xây dựng mới ở cả nông
thôn và thành thị.
Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên. Sự
nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục
thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hóa gia đình và nhiều hoạt động xã hội
khác có những mặt phát triển và tiến bộ.
Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý,
phát huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc
làm, tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội.
Chủ trương đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với nước được toàn dân
hưởng ứng, phong trào xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện ngày càng mở
rộng, đang trở thành một nét đẹp mới trong xã hội ta.
Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đát nước, vào Đảng và Nhà nước
được nâng lên.
3. Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia
tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.
Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
đa phương hóa, đa dạng hóa. Khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt
với Trung Quốc; tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với Lào; xây dựng quan
hệ tốt với Campuchia; phát triển quan hệ với các nước trong khu vực, trở thành thành
viên đầy đủ của tổ chức ASEAN; củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống với nhiều nước,
từng bước đổi mới quan hệ với Liên bang Nga, các nước trong Cộng đồng các quốc gia
độc lập và các nước Đông Âu; mở rộng quan hệ với các nước công nghiệp phát triển;
bình thường hóa quan hệ với Mỹ; thiết lập và mở rộng quan hệ với nhiều nước Nam Á,
Nam Thái Bình dương, Trung Đông, châu Phi và Mỹ latinh; mở rộng quan hệ với Phong
trào không liên kết, các tổ chức quốc tế và khu vực.
Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản và
công nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến bộ trên thế
giới; thiết lập quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số nước. Mở rộng hoạt động đối
ngoại của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội. Phát triển quan hệ với các tổ chức phi
chính phủ trên thế giới.
Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ buôn bán
với trên 100 nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào
nước ta. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế dành cho ta viện trợ không hoàn lại hoặc cho
vay để phát triển.
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững
hòa bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên thế
giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó cũng là sự
đóng góp tích cực của nhân ta vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.