You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

KHOA PHÁP LUẬT DÂN SỰ & KIỂM SÁT DÂN SỰ


-----------

TIỂU LUẬN

MÔN: LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Đề tài:

Hôn nhân đồng giới theo quy định pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam

Họ và tên sinh viên: Phạm Thanh Sơn

MSSV: 193801010262

Lớp: K7G

SBD: TKS000201

Hà Nội, 2021
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Đối với người Á Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng, gia đình là một giá trị
xã hội quan trọng vào bậc nhất. Nếu ở châu Âu gia đình nhiều khi đơn giản chỉ được coi là
một nhóm xã hội thì ở nước ta, gia đình được coi là một tế bào xã hội có tính sản sinh với
đầy đủ các yếu tố cấu thành của nó như vợ - chồng - con cái. Do đó, đồng tính luyến ái được
coi đó là hiện tượng bất bình thường, sự khiếm khuyết của xã hội. Chủ nghĩa độc tôn dị tính,
coi hôn nhân chỉ được kết hợp giữa hai người nam và nữ đã ăn sâu vào tâm trí của nhiều
người dân Việt Nam. Mặc dù hiện nay, xã hội đã có cái nhìn thoáng hơn trước rất nhiều về
vấn đề này nhưng không thể phủ định rằng trong khía cạnh pháp lý quyền của người đồng
tính trong đó có quyền thừa nhận hôn nhân đang là vấn đề hết sức nhạy cảm và có sự tranh
cãi rất lớn không chỉ riêng Việt Nam mà cả thế giới. Xuất phát trên cơ sở quyền mưu cầu
hạnh phúc là quyền cơ bản và thiêng liêng của con người, phe bảo vệ cho rằng cần ủng hộ
việc công nhận hôn nhân đồng giới cho những người thuộc cộng đồng LGBT (cộng đồng
người đồng tính, song tính và chuyển giới). Trái lại, thì phe phản đối việc ủng hộ hôn nhân
đồng giới lại lấy nguyên tắc bảo vệ các giá trị về văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc,
cho rằng việc thừa nhận hôn nhận hôn nhân đồng giới sẽ làm mất đi chức năng duy trì giống
nòi – một trong ba chức năng của hôn nhân, làm lệch lạc nhận thức của trẻ em, và nhiều hệ
lụy khác,.... những cuộc tranh luận như vậy chưa bao giờ đi tới hồi kết. Mặc dù Luật Hôn
nhân và gia đình 2014 của nước ta không thừa nhận hôn nhân giữa hai người cùng giới tính,
nhưng trên thực tế nhiều người đồng tính vẫn đang chung sống với nhau như một gia đình,
từ đó phát sinh các quan hệ về nhân thân, tài sản hoặc về con cái nhưng lại thiếu cơ chế pháp
lý để điều chỉnh các hậu quả về nhân thân, tài sản và con cái từ việc chung sống giữa họ. Điều
này đã tạo ra nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Nhận thấy đây
là một vấn đề mang tính thời sự và rất gần gũi với sinh viên, do đó để hiểu hơn về vấn đề hôn
nhân đồng giới em xin lựa chọn đề tài: “Hôn nhân đồng giới theo quy định của pháp luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam”. Vì sự hiểu biết còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi thiếu
sót, rất mong thầy, cô góp ý để bài tiểu luận thêm phần hoàn thiện. Em xin cảm ơn.

2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Khái quát chung về hôn nhân đồng giới

Trước tiên, ta cần phải hiểu “giới/bản dạng giới/ xu hướng tính dục” là gì? Giới là một
thuật ngữ đề cập đến những vai trò, hành vi, hoạt động và thuộc tính được vun đắp trong môi
trường xã hội mà một xã hội nhất định cho là phù hợp với nam và nữ. Giới tính sinh học đề
cập đến các đặc điểm sinh học và tâm lý để xác định nam giới và nữ giới. Bản dạng giới là
cảm giác nội tại của một cá nhân về việc mình là nam, nữ hay trạng thái nào khác. Vì là cảm
nhận nội tại nên bản dạng giới của mỗi người không nhất thiết phải thể hiện trước những
người khác. Xu hướng tính dục là sự hấp dẫn về mặt tính dục và cảm xúc của một người dành
cho người khác [1] .

Vậy “người đồng giới” là gì? Người đồng giới (người đồng tính) hay đồng tính luyến
ái (homosexual) là người có sự hấp dẫn tình yêu, hấp dẫn tình dục hoặc việc yêu
đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với mình (nam-nam; nữ-nữ)
trong hoàn cảnh nào đó hoặc một cách lâu dài. Người đồng tính được chia thành đồng tính
nữ (Lesbian) và đồng tính nam (Gay), họ là một bộ phận của cộng đồng LGBT bao gồm:
Đồng tính – Song tính (Bisexual) – Chuyển giới (Transgender). Ở Việt Nam còn dùng một
số từ như: “bóng”, “bóng kín”, “đồng cô”, “pê đê” (nam), “ô môi” (nữ) [2].

Trái lại với người đồng giới là người dị giới (dị tính), đây là những người có cảm giác
hấp dẫn về tình cảm, thể chất với người khác giới (nam-nữ).

Hôn nhân đồng giới hay hôn nhân cùng giới đã xuất hiện và tồn tại từ khi có loài người.
Tuy nhiên trong những giai đoạn của lịch sử, mỗi quốc gia đều có những quy định khác nhau,
bắt nguồn từ sự khác nhau về chính trị, văn hóa, truyền thống, tôn giáo, đạo đức… nhưng
trên thế giới hiện nay đều thống nhất về khái niệm: Hôn nhân đồng giới là hôn nhân giữa
những người có cùng giới tính về sinh học. Hôn nhân giữa những người này xuất phát từ tình
yêu đồng giới. Họ tìm thấy ở những người cùng giới tính như mình sự yêu thương, sự đồng
cảm, ấm áp và mong muốn chung sống cùng nhau như những người dị giới.

2. Quan điểm về hôn nhân đồng giới trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay
3
2.1. Quan điểm về hôn nhân đồng giới trên thế giới hiện nay

Hiện nay, một số nước, chưa công nhận hôn nhân đồng giới đã có những giải pháp đối
với vấn đề này. Thông thường với mỗi chúng ta chỉ tồn tại hai khái niệm: hôn nhân và không
phải hôn nhân. Tuy nhiên trên thực tế, pháp luật thế giới tồn tại rất nhiều các chế định khác
nhau, thấp hơn hoặc tương tự như hôn nhân. Những chế định này có các tên gọi như quan hệ
gia đình (domestic partnership), kết đôi có đăng ký (registered partnership), kết hợp dân sự
(civil union) hay các tên gọi khác tùy vào từng quốc gia. Trong đó, hôn nhân là hình thức
kết đôi có đăng ký với nhà nước, được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn với đầy đủ tất
cả những quyền, nghĩa vụ và sự công nhận pháp lý như những cặp dị giới. Kết đôi có đăng
ký (kết hợp dân sự) là hình thức kết đôi có đăng ký với nhà nước, được cấp giấy chứng nhận
“có quan hệ gia đình,” “kết đôi có đăng ký” hoặc các tên gọi tương tự. Chế định này quy định
cho những cặp cùng giới một tình trạng, quyền, nghĩa vụ và sự công nhận pháp lý tương
đương (có thể có một vài ngoại lệ). Sống chung không đăng ký là hình thức kết đôi tự
nguyện giữa hai người, không đăng ký với nhà nước. Chế định này áp dụng cho cả cặp cùng
giới và khác giới, tự động phát sinh khi hai người đã chung sống thực tế với nhau một thời
gian theo luật định. Hai người chung sống không đăng ký có một số quyền lợi và nghĩa vụ
hạn chế liên quan tới tài sản, nhân thân [3].

Tính tới thời điểm năm 2019, trong tổng số 220 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới,
đã có 28 quốc gia/vùng lãnh thổ chính thức công nhận hôn nhân đồng giới, bao gồm: Áo, Bỉ,
Canada, Đan Mạch, Hoa Kỳ, Đài Loan, Phần Lan, Tây Ban Nha,...; kết đôi có đăng ký: Pháp,
Uruguay, Thụy Sĩ, Isle of Man,...; chung sống không đăng ký: Úc, Croatia, Israel. Có hơn 80
quốc gia/vùng lãnh thổ coi hành vi đồng tính luyến ái là tội phạm, một số còn áp dụng hình
phạt tử hình đối với những người có hành vi đồng tính luyến ái. Số quốc gia/vùng lãnh thổ
còn lại có chính sách trung dung, không coi đồng tính luyến ái là bất hợp pháp nhưng cũng
không công nhận hôn nhân đồng tính.

Tại những quốc gia hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới, pháp luật đã định nghĩa lại khái
niệm hôn nhân, bãi bỏ điều kiện về giới tính của hai bên phối ngẫu (vợ/chồng) dẫn đến việc
ban hành một luật hôn nhân thống nhất không phân biệt giới tính. Ví dụ: Thụy Điển ghi trong
4
luật hôn nhân của mình là “luật này áp dụng cho tất cả mọi người”. Có hai nguyên nhân chủ
yếu mà nhiều nước bắt đầu thừa nhận quan hệ cùng giới bằng hình thức “kết đôi có đăng ký”
hoặc “quan hệ dân sự” là do các nhà lập pháp không muốn thay đổi định nghĩa hôn nhân là
giữa một nam và một nữ. Bên cạnh đó, các nhà lập pháp cũng muốn có một bước đệm, một
khoảng thời gian chuyển tiếp để xã hội có thể thay đổi sự suy nghĩ cố hữu về hôn nhân là
giữa nam và nữ [3].

Hình thức kết đôi có đăng ký là mô hình của kỹ thuật lập pháp “tách biệt nhưng bình
đẳng” (“seperate but equal”), với ý tưởng rằng không làm đụng chạm đến những chế định
truyền thống, nhạy cảm, mà vẫn tạo ra được sự công bằng cho tất cả mọi người một cách hợp
pháp. Ở những quốc gia này, điều mà pháp luật hướng tới là thống nhất lại thành một chế
định hôn nhân duy nhất dành cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, quan điểm của những người
ủng hộ hôn nhân không phân biệt giới tính là mặc dù quyền lợi của hai hình thức như nhau,
nhưng khi nào vẫn còn sự phân biệt, nghĩa là vẫn chưa có được công bằng thật sự. Đó cũng
là lý do ngày càng có nhiều nước chuyển từ hình thức kết hợp dân sự hay sống chung có đăng
ký sang hình thức hôn nhân cùng giới. Tùy vào từng quốc gia mà thời gian chuyển đổi nhanh
hay chậm.

2.2. Quan điểm về hôn nhân đồng giới ở Việt Nam hiện nay

Ở Việt Nam hiện chưa có một cuộc nghiên cứu chính thức nào về giới tính, đặc biệt là
thống kê số lượng người đồng tính nam và đồng tính nữ. Theo một thống kê chưa chính thức
từ tổ chức phi chính phủ CARE ước tính năm 2012 thì Việt Nam có khoảng từ 50.000 –
125.000 người đồng tính. Hiện nay là năm 2021, chắc hẳn con số đã tăng lên rất nhiều, một
phần là do xã hội đã cởi mở và tâm lý kỳ thị đã giảm bớt cho nên những người đồng tính
công khai ngày càng nhiều hơn. Số lượng các cặp đôi công khai hôn nhân đồng tính của mình
ngày càng tăng. Nước ta cũng đã có cái nhìn cởi mở hơn về cuộc sống hôn nhân giữa họ bởi
họ thực sự yêu thương, tôn trọng lẫn nhau, là những người có ích cho xã hội trên khắp các
lĩnh vực: nghệ thuật, điện ảnh, kinh doanh; công nghệ; âm nhạc; ...

5
Trước đây, với quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2000, xét về kỹ thuật lập pháp,
việc sử dụng quy phạm “cấm” việc kết hôn giữa những người cùng giới tính (khoản 5, Điều
10) dễ tạo ra hiệu ứng định kiến xã hội đối với người đồng giới. Và hành vi kết hôn giữa
những người cùng giới tính là một trong 05 trường hợp cấm kết hôn. Do đó, kết hôn giữa
những người cùng giới tính là trường hợp bị cấm, căn cứ theo Nghị định 87/2001/NĐ-CP Về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình với mức phạt tiền sẽ từ
100.000 đồng – 500.000 đồng. Tuy nhiên, cùng với sự tiến bộ trong nhận thức của toàn xã
hội về vấn đề kết hôn đồng giới, hiện nay, nước ta đã có cái nhìn cởi mở hơn về những người
đồng tính cũng như hôn nhân giữa họ. Hiện nay, Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã chính
thức bỏ quy định này, thay vào đó là “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng
giới tính” (khoản 2, Điều 8). Mặc dù, xét về bản chất của hai quy định này không khác nhau
nhiều, nhưng cũng thể hiện nhận thức của các nhà làm luật đã có sự thay đổi, việc quy định
như trên đã phần nào tác động tới ý thức trong xã hội, góp phần giảm đi sự kỳ thị trong cộng
đồng với người đồng giới. Trong quá trình xây dựng Luật hôn nhân và gia đình 2014, vấn đề
quyền kết hôn của cặp đôi cùng giới đã được đặt ra bàn luận, xem xét rất nghiêm túc, kĩ
lưỡng, nhận được nhiều ý kiến đóng góp, chia sẻ và bình luận từ các nhóm đối tượng khác
nhau. Đây là một trong những vấn đề gây tranh cãi, nhận được nhiều sự quan tâm khi xây
dựng Luật này. Trong bối cảnh đó, Luật hôn nhân và gia đình 2014 chưa ghi nhận quyền kết
hôn hoặc một hình thức pháp lý khác cho quan hệ chung sống của cặp đôi cùng giới. Quy
định này đã mở ra cơ hội được “kết hôn” cho Cộng đồng LGBT tại Việt Nam, tuy nhiên, điều
này chỉ có ý nghĩa về mặt thực tế nhưng không có ý nghĩa về mặt pháp lý. Bởi lẽ, nếu không
được nhà nước thừa nhận thì cuộc hôn nhân đó sẽ không được pháp luật bảo vệ trong quan
hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Do đó sẽ phát sinh hai vấn đề sau [4]:

Thứ nhất, về quan hệ nhân thân, giữa họ sẽ không có một ràng buộc nào về mặt pháp
lý. Quan hệ giữa họ không được gọi là “quan hệ vợ chồng” do đó sẽ không phát sinh quyền
và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng. Ngoài ra khi có nhu cầu nhận con nuôi, đứa con
do họ nhận nuôi sẽ được cấp giấy khai sinh như thế nào? Vấn đề này vẫn đang bị bỏ ngỏ vì
không xác định được cha và mẹ.

6
Thứ hai, về quan hệ tài sản, giữa họ cũng sẽ không có “chế độ tài sản trong thời kỳ hôn
nhân”. Tức là quan hệ tài sản giữa họ “trong thời kỳ hôn nhân” không được pháp luật bảo vệ.
Do đó, nếu có phát sinh tranh chấp, tài sản giữa họ sẽ được giải quyết theo pháp luật dân sự.

3. Một số bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam liên quan tới hôn nhân đồng
giới hiện nay

Quyền của người đồng tính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình thường đề cập đến hai
quyền: quyền kết hôn và quyền về con cái. Tuy nhiên, vì nước ta chưa thừa nhận hôn nhân
giữa những người đồng giới nên các quy định có liên quan đang tồn tại một số bất cập sau:

Thứ nhất, quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 có khả năng vượt quá giới hạn
quyền kết hôn mà Hiến pháp 2013 quy định tại khoản 1 Điều 36: “Nam, nữ có quyền kết hôn,
ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng,
tôn trọng lẫn nhau”. Như vậy có thể hiểu quy định này của Hiến pháp không cấm kết hôn
cùng giới một cách rõ ràng vì điều luật trên không quy định rõ nam giới, nữ giới có quyền
kết hôn, ly hôn với người khác giới với mình. Hơn nữa, có thể thấy hai thuật ngữ: “Vợ” -
“Chồng” chỉ là danh xưng trong cuộc sống giữa hai người có tình cảm hôn nhân, hai người
cùng giới nam hoặc nữ trong sinh hoạt đời sống hiện nay cũng sử dụng cách gọi này. Về giới
tính sinh học thì hai người cùng giới hoàn toàn có thể được xác định là nam hoặc nữ. Từ đó
có thể hiểu, Hiến pháp 2013 không bắt buộc nam chỉ được kết hôn với nữ hay ngược lại, do
đó quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có khả năng đã vượt quá giới
hạn quyền kết hôn theo quy định của Hiến pháp 2013.

Thứ hai, trong luật Hôn nhân và gia đình 2014, tại khoản 1 Điều 2 quy định nguyên tắc:
“Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”; khoản 2 Điều 5 quy
định cấm hành vi kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn,
cản trở kết hôn. Trước đây, Điều 4 của Luật hôn nhân và gia đình 2000 cũng có quy định
tương tự. Vấn đề đặt ra là nếu người đồng tính hoặc người chuyển giới có xu hướng tính dục
đồng tính nhưng vì lý do áp lực từ cha mẹ, gia đình cũng như định kiến xã hội nên đã chấp
nhận kết hôn với một người khác giới thì liệu có vi phạm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện,

7
tiến bộ hay không [5]? Để xác định được thế nào là tự nguyện kết hôn là điều không đơn giản
vì như chúng ta đều biết tình cảm là những thái độ thể hiện sự rung cảm ổn định của con
người đối với sự vật hiện tượng có liên quan đến nhu cầu và động cơ của họ, do đó không thể
định lượng được trong quy phạm pháp luật hay thực tế áp dụng. Nếu những người đồng giới
kết hôn với người khác giới vì áp lực từ gia đình, xã hội,... như hiện nay thì chắc chắn việc
kết hôn không đáp ứng nguyên tắc tự nguyện. Ngoài ra, trong trường hợp người bạn đời kết
hôn với người đồng giới không biết sự thật về xu hướng tính dục của chồng/vợ mình thì điều
kiện cấm kết hôn giả tạo sẽ bị vi phạm.

Thứ ba, đối với quyền về con cái, theo quy định của Luật Nuôi con nuôi 2010 và các
văn bản hướng dẫn thi hành hiện nay thì một cặp đôi cùng giới không có quyền nhận con
nuôi chung. Tuy nhiên, mỗi người trong cặp đôi đồng giới hoàn toàn có thể nhận con nuôi
riêng của mình: “Một người chỉ được nhận làm con nuôi của một người độc thân hoặc của
cả hai người là vợ chồng hợp pháp” (khoản 3 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010). Do đó, một
người đồng tính nữ hoàn toàn có thể sinh con theo phương pháp khoa học (dưới danh nghĩa
là mẹ đơn thân) nhưng người đồng tính nam thì chưa có quyền này (Nghị định số
10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo). Nếu những người đồng
tính nam muốn có con đẻ, họ phải sử dụng đến dịch vụ đẻ thuê. Trong trường hợp này, người
nam đồng tính cùng chung sống cũng không thể nhận là bố nuôi vì pháp luật quy định khi
mối quan hệ con nuôi đã được xác định thì bố mẹ đẻ không còn quyền và nghĩa vụ với người
con này nữa (khoản 4 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi 2010). Như vậy, rất khó duy trì cả quyền
và nghĩa vụ của hai người đồng tính với đứa con. Tương tự như vậy, khi một người đồng tính
nữ sinh con, người đồng giới cùng chung sống cũng không thể nhận là mẹ nuôi của đứa con
và do đó không thể thực hiện quyền giám hộ khi cần thiết. Thực tiễn xét xử của Tòa án trong
thời gian qua cho thấy, đã có một số vụ việc tranh chấp về tài sản giữa những người đồng
tính có quan hệ sống chung nhưng chưa có cơ sở pháp lý cụ thể để giải quyết tranh chấp. Mặt
khác, cho dù hai người trong cặp đôi đồng tính đã có sự sắp xếp tài sản trong quá trình chung
sống, nhưng người này sẽ không được quyền thừa kế tài sản của người kia nếu một trong hai

8
người qua đời đột ngột. Trong hoàn cảnh này, sẽ có những tài sản chung phải bán đi để trả
phần giá trị đó cho người nhà của người đã mất mà không phải món đồ chung nào hai người
cũng thực hiện thủ tục đăng ký dân sự về sở hữu chung tài sản. Những hạn chế này chủ yếu
xuất phát từ việc pháp luật Việt Nam chưa ghi nhận quyền kết hôn hoặc một hình thức pháp
lý khác cho mối quan hệ chung sống của những cặp đôi cùng giới.

4. Quan điểm: Nên hay không nên công nhận hôn nhân đồng giới ở Việt Nam hiện nay

Qua một cuộc khảo sát và tranh luận trên nhóm “Phản biện không thuyết phục, xóa
group! (XGR)” tại mạng xã hội Facebook với sự tham gia của cá nhân em vào ngày 12 tháng
5 năm 2021 với nội dung: “HỢP PHÁP HÓA HÔN NHÂN ĐỒNG GIỚI” đã có hai luồng ý
kiến chủ đạo từ hai phe ủng hộ và phản đối [6]. Tổng hợp các bình luận của các thành viên
trong nhóm, cá nhân em trích dẫn một số quan điểm chính như sau:

Lập luận của phe ủng hộ việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới, cho rằng:

- “Từ thời xa xưa đã có tình yêu đồng tính rồi, đồng nghĩa với việc đồng tính hoàn toàn
là tự nhiên. Người đồng tính cũng có cơ thể và cấu tạo như bất kì một ai. Họ cũng học tập và
đóng góp. Vì vậy họ cần có quyền cơ bản của một con người. Trong đó bao gồm tự do yêu
đương và kết hôn với người mình yêu”;

- “Đồng tính không phải là bệnh/rối loạn tâm lý/ tâm thần. Hiệp hội tâm thần học Hoa
kỳ đã loại bỏ đồng tính khỏi danh sách các rối loạn tâm thần vào năm 1973. Tổ chức y tế thế
giới đã loại bỏ đồng tính luyến ái khỏi danh mục bệnh từ năm 1990. Bản chất của hôn nhân
là nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, là chế độ một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng và tôn
trọng lẫn nhau (Hiến pháp 2013). Như vậy, hôn nhân LGBTIQ+ không nằm ngoài quy định
này (Dù Hiến pháp chưa thừa nhận "vợ" và "chồng" có thể cùng giới tính). Trong 2 giá trị:
Sinh sản và nuôi dưỡng, xã hội dần nghiêng về hướng "nuôi dưỡng" hơn. Số lượng trẻ mồ
côi, bị chối bỏ vẫn còn rất nhiều; Kết hôn nhưng không sinh con chưa phải là vấn đề bị phạt,
do vậy ủng hộ hôn nhân đồng tính không trái với nguyên tắc "kết hôn là phải có con". Chưa
kể, với sự tiến bộ của y học, có thể có hình thức mang thai hộ hoặc họ có thể xin con nuôi”;...

9
Lập luận của phe phản đối việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới, cho rằng:

“.... cho phép hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới đồng nghĩa với việc tuyên truyền gây
ảnh hưởng tới trẻ em, đó chính là thế hệ tương lai của xã hội và việc càng ngày càng có nhiều
người đồng tính sẽ gây ra bất ổn xã hội, bất công”;

“Xã hội Việt Nam hiện tại chưa thích hợp để luật hóa hôn nhân đồng giới (quan niệm
của thế hệ trước, các tệ nạn bị cho là gắn liền với LGBT+, tỷ lệ dân số vàng đang có nguy cơ
già hóa, dân trí chưa được đồng đều về LGBT+;...). Muốn xây nhà phải làm móng trước, nền
tảng xã hội cần được nâng cao mới chấp nhận được thay đổi không nhỏ này”;

“...Đơn giản như ở Việt Nam, nếu hợp thức hoá hôn nhân đồng giới thì định nghĩa về
kết hôn "là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng" sẽ sai trên thực tế vì không có cơ sở
yếu tố nào để xét ai là vợ ai là chồng, trong khi Luật có rất nhiều khoản quy định về nghĩa vụ
của vợ chồng khác nhau. Điều đấy dẫn đến việc phải soạn thảo và sửa đổi lại luật, một điều
tốn kém và không cần thiết đối với bối cảnh Việt Nam hiện nay. Chính vì thế nước mình cứ
không cấm đồng tính luyến ái nhưng cũng đồng thời không bảo hộ họ trong quan hệ hôn nhân
vẫn là một điều hợp lý”;

“... Đồng tính có tỷ lệ nhiễm HIV trong những người nam quan hệ tình dục với nam ở
TPHCM là 16%, tỷ lệ chỉ đứng sau nhóm tiêm chích ma túy. (Theo báo cáo tiến độ phòng,
chống HIV/AIDS năm 2012)....”;...

Tựu trung lại, ta có thể tổng hợp một số lý do phe đồng ý công nhận hôn nhân đồng
giới: đồng giới không phải là bệnh, không lây lan và nó đã xuất hiện từ khi có lịch sử loài
người; người đồng tính vẫn học tập, lao động, cống hiến như bao người dị giới khác; mưu
cầu hạnh phúc là quyền tối thiểu của con người, do đó người đồng tính cũng có tình yêu, hôn
nhân và gia đình; việc hợp pháp hóa sẽ góp phần xác lập quyền, nghĩa vụ của những cặp đôi
với nhau về: thừa kế, đại diện, nuôi con nuôi;.... Còn bên phản đối dựa trên nguyên tắc bảo
vệ các giá trị về văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam. Giá trị hôn nhân truyền
thống bị phá vỡ, mất đi bản sắc dân tộc truyền thống vốn có; bây giờ chưa phải là thời điểm
thích hợp để hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới; sẽ tuyên truyền ảnh hưởng tới nhận thức của
10
trẻ em; mất đi nòi giống; những người trong cộng đồng này là những đối tượng dễ có nguy
cơ lây nhiễm các bệnh xã hội; phải soạn thảo, sửa đổi lại luật gây tốn kém;... Như vậy, có thể
thấy mỗi quan điểm khi nêu ra đều có lập luận và có các căn cứ nhất định. Đây là vấn đề đã
và đang gây tranh cãi rất nhiều cho xã hội cũng như các nhà làm luật nhưng nhìn chung mục
đích hướng đến đều là hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hôn nhân giữa những người có cùng
giới tính.

Về quan điểm cá nhân, bản thân em ủng hộ tương đối việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng
giới vì mong muốn được thừa nhận quyền kết hôn là mong muốn hoàn toàn chính đáng của
người đồng tính, nó xuất phát từ quyền cơ bản của con người – quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lý do bản thân em không ủng hộ tuyệt đối vấn đề này vì hiện tại chưa phải là thời điểm thích
hợp để thừa nhận hôn nhân đồng giới. Không thể phủ định rằng, hôn nhân đồng giới bên cạnh
những yếu tố tích cực mang lại như đã trích dẫn ở trên thì cũng còn nhiều điểm hạn chế, chưa
thực sự phù hợp với tình hình hiện nay của đất nước.

Thứ nhất, đây là một vấn đề hết sức nhạy cảm và mang tính vĩ mô do đó không thể quyết
định một sớm một chiều. Chắc hẳn nhà nước ta nhận thấy vấn đề này còn có nhiều điểm chưa
thực sự hợp lý, do đó cần phải xem xét và có định hướng kỹ lưỡng, vì thực tế hiện nay chỉ
mới có 29 trên tổng số 220 quốc gia thừa nhận hôn nhân đồng giới. Những nước thừa nhận
hôn nhân đồng giới như: Phần Lan, Đan Mạch, Thụy Điển,... là những nước luôn có chỉ số
hạnh phúc ở ngưỡng rất cao của thế giới với điều kiện kinh tế xã hội phát triển. Mặc dù số
lượng người đồng giới ở Việt Nam chỉ chiếm số lượng nhỏ, nhưng cũng cần phải khẳng định
không một nhà nước nào vì quyền lợi của thiểu số mà mặc kệ đa số cả. Do đó không thể chạy
theo cảm xúc, dùng lý trí để quyết định mà cần phải nghĩ bao quát theo cục diện. Có thể thấy,
Chính phủ nước ta đang giữ một thái độ trung lập đối với vấn đề hôn nhân đồng giới, việc
không thừa nhận nhưng cũng không cấm thể hiện sự khéo léo của Chính phủ trong việc hạn
chế những cuộc tranh cãi gay gắt không đáng có trong xã hội.

Thứ hai, phong trào ủng hộ hôn nhân đồng giới chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam khoảng
hơn 10 năm trở lại đây, trong khi đó Việt Nam là một nước theo truyền thống Á Đông, đại
bộ phận người dân hiện tại vẫn còn nhiều thành kiến tiêu cực, cũng như sự hiểu biết còn nhiều
11
hạn chế, chưa đúng về vấn đề này. Do vậy, việc thừa nhận vấn đề này hiện nay là chuyện
không dễ dàng.

Thứ ba, trên thực tế các nước thừa nhận hôn nhân đồng giới hiện nay vẫn chưa có quy
định pháp luật cụ thể và chi tiết về vấn đề này. Do đó quyền lợi và nghĩa vụ của những cặp
đôi đồng giới nói chung và những người đồng giới nói riêng vẫn chưa được bảo vệ một cách
toàn diện nhất. Với kỹ thuật luật pháp của Việt Nam nếu thừa nhận vấn đề này thì sẽ là một
thách thức không nhỏ đối với các nhà làm luật và hoạch định chính sách.

Thứ tư, chưa thế kiểm soát được vấn đề xu hướng tính dục hay tập nhiễm hành vi: Tại
thời điểm hiện tại, rất khó để xác định liệu một người có phải bẩm sinh họ có xu hướng tính
dục đồng giới hay là do họ bị tập nhiễm hành vi từ môi trường xã hội (sách báo, văn hóa
phẩm, mối quan hệ, truyền thông,...) dẫn đến a dua theo phong trào đồng giới mặc dù bản
thân là người dị giới dẫn đến mối lo sẽ làm lây lan đồng tính "giả" và ngộ nhận trong giới trẻ
cũng như làm rối loạn xã hội. Thế nên chưa có một công cụ hiệu quả để xác định vấn đề này
thì chúng ta vẫn chưa nên vội vàng hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới.

Từ những quan điểm trên, bản thân em mặc dù đồng ý việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng
giới, tuy nhiên với tình hình của Việt Nam hiện tại thì nhà nước cần phải có một lộ trình, định
hướng rõ ràng, cẩn thận, không thể vội vàng công nhận mà cần phải nghĩ bao quát theo một
cục diện rộng.

5. Một số quan điểm về lộ trình tiến tới thừa nhận hôn nhân đồng giới ở Việt Nam

Từ những sự phân tích ở trên cũng như tìm hiểu của bản thân về quyền của người đồng
giới trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, cá nhân em đưa ra một số quan điểm sau:

Thứ nhất, nên công nhận hình thức pháp lý: kết hợp dân sự cho mối quan hệ chung
sống của cặp đôi cùng giới.

Như đã bày tỏ quan điểm của cá nhân ở trên, thì nhà nước cần phải có lộ trình phù hợp,
vừa tạo bước đệm trong chuyển biến tâm lý của xã hội; vừa đáp ứng được nguyện vọng của
người đồng tính. Đặc biệt là cần phải sớm ban hành những văn bản quy phạm pháp luật để

12
điều chỉnh và giải quyết những khó khăn, vướng mắc về mặt pháp luật trong quá trình chung
sống của những cặp đôi đồng giới. Theo ý kiến cá nhân, vì chưa thể thừa nhận hôn nhân đồng
giới ở thời điểm hiện tại, do vậy nhà nước nên tham khảo hướng đi của một số nước trên thế
giới về vấn đề này bằng cách lựa chọn hình thức pháp lý cho mối quan hệ chung sống của
những cặp đôi đồng giới là: kết hợp dân sự. Sở dĩ, cá nhân em cho rằng nên lựa chọn hình
thức này vì sẽ mang tính khả thi và phù hợp nhất đối với Việt Nam trong thời điểm hiện nay.
Bởi lẽ, hầu hết quốc gia thừa nhận hôn nhân đồng giới đều có quy định làm bước đệm chuyển
giao từ “cấm” sang “không thừa nhận” đến “thừa nhận” quyền của người đồng giới và việc
chung sống như vợ chồng của người đồng giới rồi mới có quy định về thừa nhận hôn nhân
đồng giới. Ví dụ: Hà Lan quy định về đăng ký kết hợp dân sự giữa những người cùng giới
tính vào năm 1998, nhưng đến năm 2001 mới thừa nhận chính thức hôn nhân hợp pháp giữa
người cùng giới. Tại châu Á, Trung Quốc và Ấn Độ không thừa nhận hôn nhân đồng tính,
nhưng đã hợp pháp hóa quan hệ đồng tính vào năm 1997 (Trung Quốc), năm 2009 (Ấn Độ).
Do đó, Việt Nam nên học hỏi những kinh nghiệm của các nước đi trước về việc công nhận
hình thức kết hợp dân sự giữa các cặp đôi cùng giới tính. Điều này đặc biệt có ý nghĩa nhằm
giải quyết những hệ quả phát sinh từ việc chung sống trên thực tế của những người đồng tính,
cũng như bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ giống như vợ chồng có đăng ký kết hôn.

Thứ hai, trong trường hợp nếu luật pháp cho phép cặp đôi đồng giới được kết hợp
dân sự thì nhà nước cần phải sớm ban hành văn bản quy phạm liên quan.

Đặc biệt là các quy phạm về những vấn đề: tài sản chung trong thời kỳ chung sống giữa
hai người đồng tính; Khi phát sinh việc không chung sống nữa, phân chia khối tài sản đã tạo
lập trong thời gian đã chung sống thế nào?; Vấn đề nhận nuôi con nuôi chung, giữa hai người
đồng tính thì cả hai có được cùng đứng tên là bố, hoặc cùng đứng tên là mẹ nuôi của đứa trẻ
không?; Vấn đề đại diện cho nhau trong quan hệ dân sự; Vấn đề thừa kế khi một người qua
đời mà không để lại di chúc;...[7]

Thứ ba, nhà nước cần sớm rà soát các văn bản pháp luật hiện hành nhằm có những
điều chỉnh thích hợp theo hướng thừa nhận vấn đề kết hợp dân sự.

13
Theo đó, cần sửa đổi các quy định trong Bộ luật Dân sự 2015 theo hướng thừa nhận các
bên trong quan hệ kết hợp dân sự có quyền đại diện cho nhau, giám hộ lẫn nhau… Sửa đổi
Luật Nuôi con nuôi 2010 theo hướng thừa nhận quyền nuôi con của những người đồng tính.
Sửa đổi các quy định trong Luật về hộ tịch 2014 về quyền đăng ký hộ tịch của những người
đồng tính tham gia kết hợp dân sự.

Thứ tư, nâng cao trách nhiệm và vai trò của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế trong
việc giáo dục, định hướng về giới.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tiếp tục mở rộng nội dung của các chương trình giáo dục
giới tính (đặc biệt cho học sinh phổ thông, sinh viên). Theo đó, cần thông tin, giáo dục các
vấn đề về xu hướng tính dục và bản dạng giới để góp phần định hướng nhận thức đúng đắn
cho học sinh, sinh viên nói riêng và giới trẻ nói chung. Bộ Y tế cần phổ biến các kiến thức
khoa học về xu hướng tính dục, bản dạng giới, đồng tính, chuyển giới… cho các cơ quan, tổ
chức, người dân, gia đình, xã hội và đặc biệt là các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và cán bộ
ngành y tế.

Thứ năm, bản thân những người đồng giới phải thực sự thay đổi và chủ động hơn
để góp phần thay đổi các quan niệm tiêu cực của xã hội về bản thân mình.

Để thay đổi định kiến về mình cần phải có một quá trình lâu dài, do vậy những người
đồng giới cần có những động thái tích cực hơn trong việc xây dựng hình ảnh tốt đẹp trong
cộng đồng xã hội, góp phần giúp cho xã hội hiểu về mình hơn [5]. Việc làm cho xã hội thấy
được đồng tính luyến ái là những điều bình thường, tự nhiên, khách quan là hết sức quan
trọng. Từ đó, quan niệm về một xã hội chỉ có dị tính, chủ nghĩa độc tôn dị tính sẽ dần nhường
chỗ cho một xã hội đa dạng tính dục. Như chúng ta đã biết một số người đồng tính, chuyển
giới ở Việt Nam đã vượt lên định kiến, dám khẳng định bản thân mình và được đông đảo
người ngưỡng mộ, yêu quý như: Hoa hậu chuyển giới Hương Giang; ca sỹ Lynk Lee;...

Thứ sáu, cần nâng cao nhận thức và phổ biến đến người dân về vấn đề liên quan tới
hôn nhân đồng giới.

14
Vì là một nước theo truyền thống Á Đông, nên đại bộ phận người dân hiện nay vẫn có
những thành kiến tiêu cực mặc dù suy nghĩ đã thoáng hơn trước rất nhiều. Việc tuyên truyền,
phổ biến các thông tin trên các phương tiện truyền thông giúp họ nhận thức đầy đủ và đúng
đắn từ đó các cái nhìn cởi mở hơn đối với không chỉ người đồng tính nói riêng mà cả cộng
đồng LGBT nói chung. Từ đó sẽ thay đổi được thái độ chấp nhận đối với hôn nhân đồng giới.
Bên cạnh đó, cần có một số chương trình tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật dành
riêng cho các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương (trong đó có người đồng giới) để giúp họ nắm
được quyền, nghĩa vụ cũng như các cơ chế bảo vệ quyền của mình.

Thứ bảy, nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức xã hội
bảo vệ quyền lợi cho cộng đồng LGBT.

Các tổ chức này có sự gần gũi, gắn kết với người thuộc cộng đồng LGBT hơn so với
các cơ quan nhà nước, việc tiếp tục tạo điều kiện thúc đẩy và bảo vệ quyền của người đồng
giới. Các tổ chức này nên đồng hành nhiều hơn với các cơ quan nhà nước trong các hoạt động
về trợ giúp pháp lý, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật, cũng như chia sẻ tâm tư,
nguyện vọng của người đồng giới.

Trên đây là một số ý kiến cá nhân bày tỏ về lộ trình tiến tới hôn nhân đồng giới ở Việt Nam.

15
C. KẾT LUẬN

Đồng tính không phải là bệnh tâm thần, càng không phải khiếm khuyết của xã hội, nó
là xu hướng tính dục tự nhiên của con người. Những người đồng tính chiếm số lượng ít trong
xã hội và cũng là những đối tượng dễ bị tổn thương nhiều nhất. Xuất phát từ quyền mưu cầu
hạnh phúc – quyền cơ bản, thiêng liêng của con người, người đồng tính cũng có tình yêu,
cũng có nhu cầu về hôn nhân, gia đình và con cái. Không thể phủ nhận việc hợp pháp hóa
nhân đồng giới sẽ giải quyết được nhiều vấn đề, nhưng bên cạnh đó nó cũng đem lại không
ít tiêu cực cho mỗi quốc gia. Nhìn vào thực tế hiện nay của đất nước, việc thừa nhận, hợp
pháp hóa các quyền cho người đồng tính cần theo một lộ trình nhất định. Bởi lẽ, giá trị truyền
thống, văn hóa, tôn giáo từ bao đời nay khó có thể thay đổi ngay được. Mặc dù, xã hội đã có
suy nghĩ thoáng hơn, song nhận thức của đại bộ phận còn chưa đầy đủ và còn nhiều kỳ thị thì
vấn đề hợp pháp hóa một số quyền cho người đồng tính Việt Nam cần đi theo một lộ trình
hợp lý. Do vậy, nên hay không nên thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính là
một bài toán khó cho các nhà lập pháp và hoạch định chính sách không chỉ của riêng Việt
Nam mà cả thế giới. Quan điểm cá nhân trong bài tiểu luận chắc chắn chưa thể sâu sắc và
bao quát hết mọi vấn đề, nhưng phải thừa nhận rằng “kết hợp dân sự” giữa các cặp đôi đồng
giới sẽ là giải pháp phù hợp hơn hết của nước ta hiện nay, không chỉ tạo ra một hành lang
pháp lý thông thoáng điều chỉnh quan hệ nhân thân, tài sản và nuôi con nuôi của những người
đồng tính mà xa hơn còn là một bước đệm quan trọng trong việc chính thức thừa nhận hôn
nhân đồng giới trong tương lai./.

16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và Gia đình.
3. Quốc hội (2013), Hiến pháp.
4. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình.
5. Báo điện tử VnExpress, “Khát vọng hôn nhân của người đồng tính”,
https://vnexpress.net/khat-vong-hon-nhan-cua-nguoi-dong-tinh-2307412.html, ngày
22/6/2021

[1] Văn phòng Luật sư NHQuang và Cộng sự (2014), Báo cáo viết cho UNDP Việt Nam,
“Quyền nuôi con nuôi của người đồng tính, song tính & chuyển giới tại Việt Nam – Thực
trạng và khuyến nghị”;
[2] Trương Hồng Quang (2012), "Nhận thức về người đồng tính và quyền của người đồng
tính", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (Văn phòng Quốc hội), số 24;
[3] Nguyễn Thu Nam (2012), “Xu hướng tác động của hôn nhân cùng giới: Xu hướng thế
giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn, ngày
20/6/2021;
[4] Luật Dương Gia (2021), Kết hôn đồng giới là gì? Việt Nam có công nhận kết hôn đồng
giới không?, https://luatduonggia.vn/ket-hon-dong-gioi-la-gi-viet-nam-co-cong-nhan-ket-
hon-dong-gioi-khong/, ngày 20/6/2021;
[5] Trương Hồng Quang (2019), “Quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên
giới tính theo pháp luật Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ luật học chuyên ngành Luật
Hiến pháp và Luật Hành chính, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam;
[6] Nhóm Phản biện không thuyết phục. Xóa group! (XGP), “Hôn nhân đồng giới”,
https://www.facebook.com/groups/Ping99/permalink/3950624471672063, ngày 21/6/2021;
[7] Ngô Thị Thanh Thúy (2012), “Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia”, Luận
văn Thạc sỹ luật học chuyên ngành Luật Dân sự, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật.

17
MỤC LỤC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................... 2


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ................................................................................................ 3
1. Khái quát chung về hôn nhân đồng giới ..................................................................... 3
2. Quan điểm về hôn nhân đồng giới trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay .................. 3
2.1. Quan điểm về hôn nhân đồng giới trên thế giới hiện nay..................................... 4
2.2. Quan điểm về hôn nhân đồng giới ở Việt Nam hiện nay ..................................... 5
3. Một số bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam liên quan tới hôn nhân đồng
giới hiện nay .................................................................................................................... 7
4. Quan điểm: Nên hay không nên công nhận hôn nhân đồng giới ở Việt Nam hiện nay
......................................................................................................................................... 9
5. Một số quan điểm về lộ trình tiến tới thừa nhận hôn nhân đồng giới ở Việt Nam 12
C. KẾT LUẬN ................................................................................................................. 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 17
MỤC LỤC ........................................................................................................................ 18

18

You might also like