You are on page 1of 15

I.

Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ chính quyền, chuẩn bị kháng chiến trong
cả nước (1945 - 1946)
1. Tình hình Việt Nam sau CMT8
Sau ngày tuyên bố độc lập, lịch sử nước Việt Nam bước sang một chặng đường
mới với nhiều thuận lợi căn bản và khó khăn chồng chất.
1. Thuận lợi
+ Quốc tế
 Sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II, cục diện thế giới và khu vực có
nhiều thay đổi lớn có lợi cho cách mạng Việt Nam. Liên Xô trở thành thành
trì của chủ nghĩa xã hội.
 Nhiều nước ở Đông Trung Âu, được sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên Xô đã
lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội.
 Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa Châu Á, Châu Phi và
khu vực Mĩ La Tinh dâng cao.
+ Trong nước
 Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; nhân dân Việt Nam từ thân phận
nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới.
 Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng trong nước.
 Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của nền độc lập, tự do, là trung
tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tham gia vào việc lãnh đạo. Quân
đội quốc gia và lực lượng Công an; luật pháp của chính quyền cách mạng
được khẩn trương xây dựng
2. Khó khăn
+ Quốc tế
 Phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ thống thuộc địa
thế giới”, gia sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó
có cách mạng Việt Nam.
 Các nước lớn không nước nào ủng hộ lập trường độc lập và công nhận địa vị
pháp lý của Nhà nước Việt Nam.
+ Trong nước
 Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, chưa được củng cố, lực lượng
vũ trang còn non yếu
 Giặc ngoại xâm và nội phản: từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Trung
Hoa Dân quốc kéo theo bọn tay sai thuộc các tổ chức phản động hòng cướp
chính quyền. Từ vĩ tuyến 16 vào Nam, hơn 1 vạn quân Anh kéo vào, dọn
đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Bọn phản động trong
nước ngóc đầu dậy, làm tay sai cho Pháp, chống phá cách mạng.
 Tàn dư của chế độ cũ để lại trên tất cả các mặt: Nạn đói vẫn chưa khắc
phục được, tiếp đó nạn lụt lớn, nửa số ruộng đất không canh tác được. Hàng
hóa khan hiếm, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Di sản văn hóa lạc
hậu của chế độ cũ rất nặng nề, hơn 90% dân số mù chữ. Ngân sách Nhà
nước trống rỗng. Chính quyền chưa quản lý được Ngân hàng Đông Dương.
=> Đất nước đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
2. Chủ trương của Đảng và quá trình thực hiện
a. Chủ trương kháng chiến, kiến quốc của Đảng
 Ngày 25-11-1945 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến
kiến quốc. Vạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới. Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng là:
 Về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng
Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là "Dân tộc
trên hết, Tổ quốc trên hết", nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ
vững độc lập.
 Về xác định kẻ thù, Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với
Đông Dương và chỉ rõ "Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm
lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng".
 Về phương hướng, nhiệm vụ, Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp
bách cần khẩn trương thực hiện là: "Củng cố chính quyền - chống thực
dân Pháp xâm lược- Bài trừ nội phản - Cải thiện đời sống nhân dân".
Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu
"Hoa - Việt thân thiện" đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và "Độc lập về
chính trị, nhân nhượng về kinh tế" đối với Pháp.
=> Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chỉ thị đã xác
định đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược. . Đã chỉ
ra kịp thời những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng, nhất là nêu
rõ hai nhiệm vụ chiến lược mới của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng Tháng
Tám là xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ đất nước.
b. Xây dựng chế độ mới và chính quyền cách mạng
 Về nội chính:
 Đảng xúc tiến việc bầu cử Quốc hội, thành lập Chính phủ, soạn thảo Hiến
pháp và tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, kiện toàn bộ máy chính
quyền từ Trung ương đến cơ sở. Mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, thành
lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (tức Mặt trận Liên Việt) nhằm thu hút
cả tầng lớp tư sản và địa chủ yêu nước tiến bộ.
 Để bảo toàn lực lượng trước sự công kích của kẻ thù, tháng 11-1945, Đảng
tuyên bố tự giải tán mà thực chất là rút vào hoạt động bí mật, chỉ để lại một
bộ phận hoạt động công khai dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa
Mác.
 Về kinh tế, tài chính: Biện pháp cơ bản và lâu dài là tăng gia sản xuất, khôi
phục các nhà máy, hầm mỏ, lập ngân hàng quốc gia,... Đồng thời, Chính phủ
ra sắc lệnh tịch thu ruộng đất của địa chủ và Việt gian chia cho dân cày
nghèo. Phát động nhân dân tự nguyện đóng góp tiền của, hưởng ứng "Tuần
lễ vàng", xây dựng "Quỹ độc lập".
 Về văn hoá, xã hội: Đảng vận động toàn dân xây dựng nền văn hoá mới,
xoá bỏ mọi tệ nạn văn hoá nô dịch, thực hiện nền giáo dục mới, phát triển
"bình dân học vụ” để diệt "giặc dốt".
 Về quân sự: Nhanh chóng xóa bỏ bộ máy cai trị của chính quyền cũ, giải tán
các đảng phái phản động, trừng trị bọn phản quốc, giáo dục nhân dân tăng
cường cảnh giác, bảo vệ chính quyền cách mạng.
 Về ngoại giao: Để thoát khỏi "vòng vây đế quốc", tránh tình thế phải đối
đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc, Đảng thực hiện sách lược ngoại giao
mềm dẻo nhằm ngăn chặn chiến tranh, kéo dài thời gian hoà hoãn để xây
dựng lực lượng cách mạng.
c. Thực hiện sách lược hòa hoãn, tranh thủ thời gian chuẩn bị toàn
quốc kháng chiến
 Tạm thời hòa hoãn với Tưởng trên miền Bắc để tập trung sức chống thực
dân Pháp ở miền Nam (từ tháng 9-1945 đến tháng 3-1946).
Để đối phó với kẻ thù chính, trước mắt là thực dân Pháp, Đảng chủ trương
hòa hoãn, nhân nhượng với Tưởng ở miền Bắc để tập trung sức chống thực
dân Pháp ở miền Nam. Tuy nhân nhượng với Tưởng ở một số mặt, nhưng ta
vẫn bảo đảm nguyên tắc giữ vững thành quả cách mạng và đảm bảo sự lãnh
đạo của Đảng đối với chính quyền.
=> Sách lược ngoại giao sáng suốt trên đã làm thất bại một bước âm mưu
chống phá cách mạng của Tưởng và tay sai, giữ vững và củng cố chính
quyền cách mạng, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho quân và dân cả nước tập
trung nỗ lực vào cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Nam, hậu thuẫn cho
cuộc đấu tranh đẩy lùi nguy cơ chiến tranh lan rộng ra cả nước.
 Tạm thời hoà hoãn với thực dân Pháp để đẩy nhanh quân Tưởng về
nước (từ tháng 3-1946 đến tháng 12-1946).
 Ngày 28-2-1946, Tưởng và Pháp đã ký Hiệp ước Hoa - Pháp thỏa thuận để
quân Pháp vào miền Bắc thay thế quân Tưởng "canh giữ tù binh Nhật" và
giữ "trật tự" theo "Hiệp ước quốc tế". Tình thế đó đặt cách mạng nước ta
trước hai con đường: hoặc cầm súng đánh Pháp, ta sẽ cùng một lúc đối đầu
với nhiều kẻ thù trong khi lực lượng cách mạng còn non yếu: hoặc tạm thời
hòa hoãn với Pháp ta sẽ tránh được tình thế bất lợi phải chiến đấu với nhiều
kẻ thù cùng một lúc, bảo toàn lực lượng.
 Đảng ta chọn con đường thứ hai “hòa để tiến". Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ
bộ ngày 6-3- 1946. Theo đó, Pháp công nhận nước ta là một quốc gia tự do
có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng.
 Ký Hiệp định Sơ bộ là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Hiệp
định không chỉ kéo dài thời gian hoà hoãn để nhân dân ta củng cố thành quả
cách mạng đã giành được, chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp, mà còn tạo cơ sở pháp lý buộc Tưởng rút quân khỏi
miền Bắc.
 Sau khi ký Hiệp định, Đảng và Chính phủ kiên trì giải quyết quan hệ Việt -
Pháp bằng con đường hoà bình. Tuy nhiên, do dã tâm xâm lược của thực dân
Pháp, cuộc đàm phán chính thức không đi đến kết quả. Để tranh thủ tối đa
khả năng hòa bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với đại diện Chính
phủ Pháp bản Tạm ước ngày 14-9 -1946. Đây là nhân nhượng cuối cùng của
ta đối với Pháp. Chúng ta không thể nhân nhượng được nữa, cuộc kháng
chiến toàn quốc chống thực dân Pháp đang đến gần.
II.Lãnh đạo toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1950)
1. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ
a. Âm mưu và hành động chiến tranh của Pháp
Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải Phòng
và thị xã Lạng Sơn, cho quân đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích,
tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội
 Ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp đã liên tiếp gửi tối hậu thư buộc
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải phá bỏ công sự trong thành
phố, giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng.
=> Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, kiểm soát
an ninh trật tự Thủ đô, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại làng Vạn Phúc
(Hà Đông) dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối
phó.
=> Hội nghị đã quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước
và chủ động tiến công. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20 giờ ngày
19/12/1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng
sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh
được phát đi trên Đài Tiếng nói Việt Nam .
 Điều kiện kháng chiến của Việt Nam trước hành động của Pháp
 Thuận lợi: Nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến là chiến đấu để bảo vệ
nền độc lập tự do của dân tộc và đánh địch trên đất nước mình nên có chính
nghĩa. Ta cũng đã có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ
có khả năng đánh thắng quân xâm lược. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng
có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân sự không dễ gì có thể khắc
phục được ngay.
 Khó khăn: Tương quan lực lượng quân sự của ta yếu hơn địch. Ta bị bao vây
bốn phía, chưa được nước nào công nhận giúp đỡ.
b.Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng
 Đường lối kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập trung
trong ba văn kiện lớn được soạn thảo và công bố sát trước và sau ngày cuộc
kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là:
 Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày
22/12/1946
 “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh ngày 19/12/1946
 Và tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Trường Chinh xuất bản
đầu năm 1947.
Nội dung đường lối:
 Mục tiêu kháng chiến: Đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, dành nền độc lập,
tự do, thống nhất hoàn toàn; vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa
bình thế giới…
 Tính chất kháng chiến: trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến.
 Nhiệm vụ kháng chiến: “Cuộc kháng chiến này chính là một cuộc chiến
tranh cách mạng có tính chất dân tộc độc lập và dân chủ tự do…nhằm hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và phát triển dân chủ mới”.
 Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính.
2. Những thắng lợi trên mặt trận quân sự
a.Cuộc chiến đấu ở Hà Nội và các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16
Diễn biến:
 Sớm phát hiện âm mưu của quân Pháp, thực hiện quyết tâm của Trung ương
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chiều 19-12-1946, đồng chí Võ Nguyên
Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng-Tổng chỉ huy ra mệnh lệnh cho các LLVT
ta: “Giờ chiến đấu đã đến”.
 Chấp hành mệnh lệnh, tại Hà Nội, 20 giờ ngày 19-12, dưới sự chỉ huy trực
tiếp của Bộ Quốc phòng-Tổng chỉ huy, sau khi pháo binh bắn hiệu lệnh, các
Tiểu đoàn 77, 101, 145, 212, 523 chủ lực Chiến khu 11 phối hợp với công
an xung phong, tự vệ chiến đấu đồng loạt tiến công vào 30 vị trí và 60 ổ đề
kháng của địch, mở đầu Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp.
 Cùng đêm 19 rạng ngày 20-12, các đơn vị bộ đội chủ lực phối hợp với
LLVT tại chỗ được nhân dân hỗ trợ tiến công địch ở các thành phố Nam
Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng và các thị xã Hải Dương, Bắc Giang, Bắc Ninh.
 Những ngày đầu kháng chiến toàn quốc diễn ra các trận đánh giữa ta và địch
trong các thành phố, thị xã, nhất là ở những thành phố lớn (Hà Nội, Huế, Đà
Nẵng). Đây là những địa bàn quan trọng, trung tâm chính trị, quân sự và
kinh tế, địch được phép đóng quân theo Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946.
 Chiến sự bùng nổ trong điều kiện giữa ta và địch bố trí lực lượng xen kẽ
nhau. Xét tương quan lực lượng giữa ta và địch, ta xác định phương châm
tác chiến là: Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch ngay từ đầu, sau đó nhanh
chóng tổ chức một bộ phận nằm trong lòng địch, xen kẽ với địch đánh ra và
một bộ phận bố trí ở vòng ngoài đánh vào, thực hiện “trong ngoài cùng
đánh”.
 Sau 2 tháng chiến đấu kiên cường, ngày 17/2/1947, quân ta rút khỏi vòng
vây của địch, ra căn cứ an toàn.
b. Chiến dịch Việt Bắc thu- đông năm 1947
Diễn biến:
 Kế hoạch tấn công căn cứ địa Việt Bắc được Tư lệnh quân Pháp ở Bắc Đông
Dương soạn thảo. Với cuộc hành binh này, thực dân Pháp hy vọng sẽ kết
thúc cuộc tái chiếm Việt Nam bằng chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”.
 Địa bàn tiến công của địch bao gồm các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Vĩnh
Phúc, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng và Lạng Sơn. Đây là căn cứ địa,
nơi tập trung cơ quan lãnh đạo kháng chiến, các cơ quan, kho tàng và lực
lượng chủ lực của ta đứng chân.
 Sáng 7/10/1947, quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn, mở đầu cuộc tiến công,
cuộc tiến công của quân Pháp lên Việt Bắc bắt đầu.
 Về phía ta, ngày 8/10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi bộ đội,
dân quân du kích và toàn thể đồng bào ra sức tiêu diệt địch.
 Tiếp đó, ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị:
“Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp.”
 Ngày 9/10/1947, khẩu đội pháo 12,7 mm của Đại đội 675, Trung đoàn 74 tại
Cao Bằng bắn rơi chiếc máy bay vận tải Ju5, chở 12 sĩ quan tham mưu cuộc
hành binh. Ta thu được bản kế hoạch tiến công Việt Bắc của chúng.
Kết quả:
 Với thắng lợi vang dội của Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, quân và
dân Việt Nam đã đập tan cả bốn mục tiêu của thực dân Pháp khi hành quân
lên Việt Bắc; đồng thời, chính thức viết “giấy khai tử” cho chiến lược “đánh
nhanh, thắng nhanh”.
 Trải qua 75 ngày đêm chiến đấu (từ ngày 7/10 đến ngày 19/12/1947), chiến
dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 kết thúc thắng lợi
c. Chiến dịch Biên giới Thu- Đông 1950
Hoàn cảnh lịch sử mới
 Thuận lợi:
+ Ngày 1/10/1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa ra đời.
+ Đầu năm 1950, Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa khác lần
lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, viện trợ vật chất cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
 Khó khăn:
+ Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương.
+ Tháng 5/1949, Pháp đề ra kế hoạch Rơve, tăng cường hệ thống phòng thủ
trên đường số 4, lập hành lang Đông – Tây: Hải Phòng – Hoà Bình – Sơn
La, chuẩn bị tiến công Việt Bắc lần thứ hai.
 Trước tình hình đó, để đẩy mạnh kháng chiến tiến lên một bước mới. Tháng
6/1950, Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch lớn đánh
địch trên tuyến biên giới Việt - Trung
Diễn biến:
 Ngày 7/7/1950, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở chiến dịch giải phóng vùng
biên giới Đông Bắc tại khu vực Cao Bằng - Lạng Sơn.
 Ngày 27/7/1950, Thường vụ Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Đảng
ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch. Đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp được chỉ
định làm Bí thư Đảng ủy mặt trận và Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến
dịch.
 Tháng 8/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên đường ra mặt trận cùng Bộ Chỉ
huy chiến dịch trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.
 Ngày 16/9/1950, sau khi cân nhắc, thảo luận, Đảng ủy chiến dịch quyết định
đánh Đông Khê trước để mở màn chiến dịch; đồng thời, tổ chức tiêu diệt
quân ứng cứu cho Đông Khê, sau đó đánh xuống Thất Khê và chỉnh đốn rồi
tiếp tục đánh Cao Bằng.
 Ngày 16/9/1950, ta tiến công Đông Khê, sau 2 ngày, ta chiếm toàn bộ cụm
cứ điểm Đông Khê.
 Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập, hệ thống phòng ngự của Pháp trên
đường số 4 bị cắt làm đôi.
 Pháp phải rút quân từ Cao Bằng về theo đường số 4 và từ Thất Khê lên
chiếm lại Đông Khê và đón cánh quân từ Cao Bằng về.
 Đoán được ý định của Pháp, ta mai phục chặn đánh khiến cho hai cánh quân
trên đường số 4 không gặp được nhau.
 Thất Khê bị uy hiếp, Pháp rút về Na Sầm (8/10/1950).
 Ngày 13/10/1950, địch rút khỏi Na Sầm, cuộc hành quân của địch ở Thái
Nguyên cũng bị đập tan.
 Quân Pháp trở nên hoảng loạn, phải rút chạy, Đường số 4 được giải phóng
(22/10/1950).
Kết quả :
 Sau hơn một tháng, chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi
 Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 8.000 địch, giải phóng biên giới Việt -
Trung với 35 vạn dân, khai thông con đường nối nước ta với các nước
XHCN.
 Chọc thủng “hành lang Đông - Tây” của Pháp, phá vỡ thế bao vây của Pháp.
 Kế hoạch Rơ-ve phá sản.
III.Lãnh đạo toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ
(1951 - 1954)
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2-1951)
 Thời gian: Từ 11 đến 19-2-1951 tại huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang.
 Chủ tịch Đảng được bầu tại Đại hội: Chủ tịch Hồ Chí Minh
 Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Trường Chinh
 Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại đại hội gồm 29 uỷ viên và
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội gồm 7 uỷ viên.
 Đại hội đã thông qua hai bản báo cáo quan trọng. Trong đó:
Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh
 Đã khái quát những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước những
năm nửa đầu thế kỷ XX. Về quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng trong
20 năm qua.
 Đưa ra những khuyết điểm cần sửa chữa như học tập chủ nghĩa Mác - Lênin
còn yếu, tư tưởng cán bộ chưa vững vàng, công tác tổ chức, lề lối làm việc
còn chủ quan, quan liêu…Để khắc phục những bệnh trên, Đảng phải tìm
cách giáo dục, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin để nâng cao tư tưởng chính
trị cho đảng viên, củng cố mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, đề cao
tinh thần kỷ luật, tính nguyên tắc của đảng viên, mở rộng phong trào phê
bình và tự phê bình ở trong Đảng…
 Nêu lên khẩu hiệu chính của ta là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn
can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hoà bình thế giới.
 Xác định nhiệm vụ chính trong nhiệm vụ mới của chúng ta là:
 Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn
 Tổ chức Đảng lao động Việt Nam
Báo cáo bàn về cách mạng Việt Nam của Trường Chinh
 Đã trình bày toàn bộ đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
 Phân tích tính chất của xã hội Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám và trong
kháng chiến chống Pháp là một xã hội phát triển không đều, một xã hội có
ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến.
 Xác định, đối tượng chính của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc và
thế lực phong kiến. Kẻ thù trước mắt của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa
đế quốc xâm lược (thực dân Pháp, can thiệp Mỹ) và bù nhìn Việt gian phản
nước đại biểu quyền lợi cho đại địa chủ, phong kiến phản động và tư sản mại
bản.
 Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là tiêu diệt bọn đế quốc xâm
lược, đánh đổ bọn bù nhìn Việt gian phản nước, làm cho Việt Nam hoàn
toàn độc lập và thống nhất; xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong
kiến làm cho người cày có ruộng;
 Ngoài ra, Đại hội quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương để thành lập
mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia một Đảng Mác - Lênin riêng, có
cương lĩnh phù hợp với đặc điểm phát triển của từng dân tộc.
 Ở Việt Nam, Đại hội đã quyết nghị đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên
gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam, thông qua Chính cương, Tuyên ngôn
và Điều lệ mới của Đảng.
 Động lực của cách mạng Việt Nam lúc này là công nhân, nông dân, tiểu tư
sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc;
- Điều lệ mới của Đảng gồm có phần mục đích và tôn chỉ, 13 chương và 71
điều. Điều lệ xác định rõ mục đích của Đảng là phấn đấu để "phát triển chế
độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực
hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả
dân tộc đa số, thiểu số Việt Nam".
=>> Có thể thấy đây là một bước tiến mới trong công tác xây dựng Đảng. Một
trong những cơ sở để tăng thêm sức mạnh đoàn kết chiến đấu và tính tiên phong
cách mạng của Đảng Lao động Việt Nam.
2. Phát triển hậu phương kháng chiến về mọi mặt
Về chính trị:
 Đảng và Chính phủ ra sức chăm lo xây dựng, củng cố và mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất (thông qua hai mặt trận Việt Minh và Liên Việt) nhằm
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
 Thực hiện Nghị quyết của Đại hội II và các nghị quyết của Ban Chấp hành
Trung ương, Đảng đã lãnh đạo toàn quân, toàn dân tăng cường đoàn kết, ra
sức phát triển lực lượng củng cố hậu phương. Đầu tháng 3/ 1951, Mặt trận
Việt Minh và Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thống nhất thành một
mặt trận chung lấy tên là Mặt trận Liên Việt.
Về kinh tế:
 Chính sách kinh tế kháng chiến của Đảng và Chính phủ ta lúc bấy giờ bao
gồm: xây dựng kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch. Trong đó, quan
trọng nhất là xây dựng nền kinh tế kháng chiến tự cung tự cấp. Phát triển
nông nghiệp được coi là nhiệm vụ hàng đầu nhằm đẩy mạnh sản xuất, đáp
ứng nhu cầu cuộc kháng chiến.
 Ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Chính phủ ban hành thông tư quy
định thực hiện giảm tô 25%. Đầu năm 1949, Chính phủ ra sắc lệnh quy định
việc chia lại công điền công thổ, tạm cấp ruộng đất của bọn thực dân Pháp,
Việt gian và ruộng “vắng chủ’ cho nông dân. Năm 1950, Chính phủ ra sắc
lệnh giảm tức, xóa nợ, hoãn nợ cho nông dân vay địa chủ, ban hành quy chế
lĩnh canh để bảo vệ quyền lợi cho tá điền.
Về văn hóa, giáo dục, y tế:
 Tiếp tục công cuộc cải cách giáo dục (từ năm 1950), thực hiện theo 3
phương châm: “phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, phục vụ sản
xuất”, nhà trường gắn với đời sống xã hội.
 Văn nghệ sĩ hăng hái thâm nhập mọi mặt của cuộc sống, chiến đấu và sản
xuất, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Kháng chiến văn hóa,
văn hóa hóa kháng chiến”.
 Tính đến năm 1952, chỉ riêng các liên khu Việt Bắc, Khu IV, Khu V đã có
trên 1 triệu học sinh phổ thông, phong trào bình dân học vụ, bổ túc văn hóa
tiếp tục phát triển.
 Phong trào xây dựng đời sống mới (vệ sinh phòng bệnh, chống mê tín dị
đoan,…) ngày càng lan rộng trong nhân dân.
Về đối ngoại:
 Song song với chính sách đối nội, chính sách đối ngoại đóng vai trò quan
trọng. Đảng ta coi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam là
một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới.
=>Khi đánh giá về vai trò của hậu phương, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 12 khoá II (tháng 5/1957) nhấn mạnh: “Hậu phương vững
chắc là nhân tố quan trọng bậc nhất quyết định thắng lợi của kháng chiến”.
3. Giữ vững thế chủ động trên chiến trường
 Sau chiến thắng Biên giới Thu-Đông 1950, quân ta củng cố lực lượng, Đảng
lãnh đạo quân liên tiếp mở các chiến dịch đẩy lùi âm mưu của Pháp- Mỹ
nằm giữ vững thế chủ động trên chiến trường
 Rút kinh nghiệm của các chiến dịch được mở ra ở trên đồng bằng và trung
du, Đảng ta chủ trương những chiến dịch tiến công tiếp sai sẽ được mở ra ở
rừng núi.
 Đầu năm 1953, trung ương Đảng và chính phủ ta cùng với Chính phủ kháng
chiến Lào và Mặt trận Itxala của Lào thảo luận mở "chiến dịch Thượng
Lào" tiến công Sầm Nưa nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai và
mở rộng căn cứ du kích.
=> Chiến dịch Thượng Lào thắng lợi cho thấy đường tinh thần đoàn kết chiến
đấu giữa 2 dân tộc Việt - Lào cũng như đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng góp
phần giữ vững được thế chủ động trên chiến trường và góp phần cho các chiến
dịch sau này.
4. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc
(1953-1954)
a.Âm mưu Pháp-Mỹ
 Thực hiện kế hoạch Na-va với mục tiêu giành thắng lợi quân sự quyết định
kết thúc chiến tranh trong danh dự và duy trì ảnh hưởng của họ ở Đông
Dương
 Kế hoạch Na-va tiến hành theo 2 bước
 Pháp và Mỹ xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở
Đông Dương với hy vọng tiêu diệt cơ quan đầu não và bộ đội chủ lực của ta,
khóa chặt biên giới Việt-Trung và nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
 Pháp và Mỹ cũng lập ra mặt trận quốc gia thống nhất và chính phủ bù nhìn
Bảo Đại để tạo ra 1 đối thủ chính trị cho Việt Minh và chia rẽ dân tộc
b.Cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện
Biên Phủ 1954
Chiến dịch Đông Xuân (1953-1954):
 Đánh bại âm mưu và kế hoạch Na-va, Đảng ta đã chủ trương mở cuộc tiến
công chiến lược Đông Xuân 1953-1954
 Diễn biến:
 Từ đầu tháng 9/1953, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy chỉ đạo Bộ Tổng tham
mưu Quân đội nhân dân VN nghiên cứu, đánh giá toàn diện tình hình quân
sự trên chiến trường và vạch ra kế hoạch tác chiến mới
 Cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp bàn và thông qua chủ trương tác chiến
chiến lược Đông Xuân 1953-1954 nhằm tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng
lực lượng của ta, giữ vững thế chủ động, buộc địch phải phân tán lực lượng
để đối phó → mở đường đi tới những thắng lợi lịch sử trong cuộc tiến công
chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch ĐBP
 Tháng 12/1953, Bộ tổng tham mưu đã xây dựng xong các kế hoạch tác chiến
cụ thể cho các chiến trường và được bộ chính trị phê chuẩn. Trên cơ sở báo
cáo quyết tâm của tổng quân ủy, cuộc họp của Bộ chính trị ngày 6/12/1953
đã quyết định mở chiến dịch ĐBP và giao đại tướng Võ Nguyên Giáp - bộ
trưởng bộ quốc phòng, tổng tư lệnh quân đội trực tiếp làm tư lệnh kiêm bí
thư đảng ủy chiến dịch
 Bên cạnh đó, quân ta đã tiến hành một loạt các cuộc tấn công đồng loạt trên
toàn bộ miền Bắc, nhấn mạnh vào việc cắt đứt các tuyến giao thông và cấu
trúc hạ tầng của quân Pháp, cũng như tiến hành các cuộc tấn công vào các
căn cứ quân sự chiến lược.
→ Chiến dịch này đã góp phần tạo ra một tình hình chính trị và quân sự bất lợi cho
Pháp, làm cho họ buộc phải đối mặt với sức ép ngày càng gia tăng từ Việt Minh.
Chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 3 - tháng 5 năm 1954):
 Nhằm phát huy sức mạnh hậu phương, chi viện tiền tuyến nhất là lực lượng
nông dân cho cuộc tiến công chiến lược ĐX 19653-1954 và chiến dịch
ĐBP, TW Đảng, Quốc hội và chủ tịch HCM quyết định phát động phong
trào quần chúng đấu tranh triệt để giảm tô, giảm tức và tiến hành cải cách
ruộng đất, Bộ chính trị quyết định thành lập Uỷ ban chi viện tiền tuyến; Hội
đồng cung cấp mặt trận TW và các địa phương cũng được thành lập.
 Thực hiện quyết tâm chiến lược đó, ta đã tập trung khoảng 5 vạn quân với
mọi nỗ lực và quyết tâm cao nhất bao cây chặt quân địch ở Điện Biên Phủ
 Ngày 13/3/1954, với phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, “đánh chắc
thắng”, quân ta nổ súng tấn công địch ở phân khu phía bắc trung tâm Mường
Thanh, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
 Trải qua 56 ngày đêm, 3 đợt tiến công lớn, đến 17h30 phút chiều 7/5/1954,
quân ta đã đánh chiếm hầm chỉ huy, bắt sống tướng Đờ Castori. Toàn bộ lực
lượng địch ở ĐBP bị tiêu diệt và bắt sống.
→ Chiến dịch ĐBP kết thúc đã đưa cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-
1954 và cuộc kháng chiến của dân tộc VN chống thực dân Pháp xâm lược đến
thắng lợi vẻ vang. Đây là thắng lợi của ý chí và khát vọng độc lập, tự do của nhân
dân VN
c.Hội nghị Giơnevơ 1954
 Từ cuối năm 1953, Chủ tịch HCM tuyên bố về lập trường của VN: “Cơ sở
của việc đình chiến ở VN là chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập
thật sự của nước Việt Nam”, phải đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược và
phải thương lượng trực tiếp và chủ yếu với Chính phủ Việt Nam Dân chủ
cộng hòa. Tuyên bố này mở đường cho đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị
Giơnevơ
 Hội nghị Giơnevơ bàn về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông
Dương khai mạc ngày 8/5/1954. Trong 75 ngày đàm phán căng thẳng, gay
go, phức tạp, trải qua 8 phiên họp toàn thể, 23 phiên họp cấp trưởng đoàn và
nhiều cuộc gặp gỡ riêng với nhiều áp lực, tác động tiêu cực của diễn biến
tình hình quốc tế phức tạp và sức ép của các nước lớn.
 Phía Việt Nam luôn kiên trì đấu tranh, giữ vững nguyên tắc, nhân nhượng có
điều kiện và cũng tích cực đấu tranh để bảo vệ quyền lợi chính trị của lực
lượng kháng chiến Lào và Campuchia.
 So sánh lực lượng không thuận lợi cho cách mạng ba nước Đông Dương,
nên ta đồng ý chấp nhận ký kết với Pháp bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở
Việt Nam ngày 21/7/1954
 Trong quá trình diễn ra hội nghị, Mỹ đã gây sức ép buộc Pháp chấp nhận
đưa Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ tướng trong chính quyền Bảo Đại
nhằm xây dựng 1 chính quyền thân Mỹ thay thế chính quyền thân Pháp.
 Hội nghị đã thông qua bản Tuyên bố cuối cùng về vấn đề lập lại hòa bình ở
Đông Dương có chữ ký của các bên.
 Kết quả hội nghị phản ánh xu thế chung và cục diện tình hình quốc tế lúc
bấy giờ
→ Đây là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên công nhận các quyền dân tộc cơ bản
của nhân dân VN, Lào, Campuchia; đánh dấu kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống thực dân pháp xâm lược; mở ra 1 trang sử mới cho dân tộc VN và mở đường
cho cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất hoàn toàn cho nhân dân ba nước đông
dương sau này
IV. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm

You might also like