You are on page 1of 33

VÕ THUẬT Mục lục NAM PHÁI NỘI GIA BỘ MÁY HÔ HẤP TRONG KHÍ CÔNG: Khí

Công Khí Công Bài Một - Khái Lược Về Khí Công ÐỊNH NGHỈA KỶ THUẬT LUYỆN
KHÍ CÁCH THỞ NỘI CÔNG Khí Công Bài Hai - Phương Pháp Luyện Khí I. Thở Bụng
(còn gọi là thở Thuận): II. Thở Ngực (còn gọi là thở nghịch): Khí Công Bài Ba - Luyện Khí
1. Môi Trường Tập 2. Chuẩn bị tư tưởng 3. Tư thế mẫu.
4.Luyện Công Khí Công Bài Bốn - Luyện Vòng Tiểu Chu Thiên I. Luyện Nhâm Mạch và
Ðốc Mạch Riêng (áp dụng phương pháp thở hai thời) II. Luyện vòng Nhâm Ðốc Chung Khí
Công Bài Năm - Luyện Tinh - Khí - Thần và Nội Lực A. Tinh - Khí - Thần B. Nội Lực
ĐẠT MA TỔ SƯ THIỀN NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH TÔN CHỈ VÀ YẾU LÝ TRUNG
HOA VÕ SỬ THỜI THƯỢNG CỔ: (trước thời nhà tần, 221. b.c. trước thiên chúa) THỜI
TRUNG CỔ: (Từ 221 trước TC đến 684 sau TC )
4. Thời Cận Đại: (1277 1644 sau T.C) 5. Thời Hiện Đại (1644 1912) VÕ HỌC BÌNH ĐỊNH
THỜI KỲ MỞ MANG (1470-1558) THỜI KỲ PHÁT TRIỂN (1558-1771) THỜI KỲ CỰC
THỊNH (1771-1802) THỜI KỲ ẨN MÌNH (1802-1867) THỜI KỲ TRUNG HƯNG (1867-
1924) THỜI KỲ NGOẠI NHẬP (1924-1945) THỜI KỲ TRẦM LẮNG (1945 đến nay)
NAM PHÁI NỘI GIA GS Vũ Đức N.D. Vào thời thượng cổ tại Trung Hoa võ thuật được
bắt nguồn từ các môn võ sơ khai như: Giốc Để (đấu vật cổ truyền), Thủ Bác (Đánh Tay Đá
Chân), Đạo Dẫn (HôHấp Dưỡng Sinh) và Kiếm Thuật (Đánh Kiếm). Về sau, vì muốn trao
dồi kỹ thuật chiến đấu, và sức khỏe thâ tâm, bốn môn võ cổ điển này đã được người ta phát
huy và phối hợp lại thành hệ thống võ thuật Trung Hoa, gồm có hai ngành chính yếu: Quyền
Thuật và Binh Khí. Ngày xưa, võ thuật Trung Hoa được mệnh danh là "Kỷ Kích" hay
"Quốc Kỷ". Vào thời cận đại, người ta gọi là "Wu Shu" tại lục địa Trung Hoa, và "Kung Fu"
tại các nước khác trên thế giới. Tại Trung Hoa, vì ảnh hưởng với các yếu tố: Hoàn cảnh địa
lý, triết lý tôn giáo, và kỹ thuật thực hành, võ thuật Trung Hoa đã phát sinh ra hàng trăm võ
phái lớn nhỏ khác nhau, qua các thời đại. Từ thời thượng cổ đến đầu triều Minh (1368),
nguồn gốc lịch sử của các võ phái rất là mơ hồ, không có tài liệu dẫn chứng. Hầu hết, chỉ
dựa vào các truyền thuyết không được rõ ràng. Kể từ triều đại nhà Minh (1368 – 1660) về
sau, xuất xứ và cách truyền dạy của các võ phái, tương đối được rõ ràng, xuyên qua các tài
liệu sách sử. Hoàn cảnh địa lý đã đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống con người
và võ thuật. Cho nên, trên đại thể, hầu hết, giới võ lâm Trung Hoa đã đồng thuận dùng sông
Dương Tử (Trường Giang), làm giới tuyến cho địa phận Nam Bắc, nơi khai sinh các võ
phái. Do đó, võ thuật Trung Hoa được chia thah hai phái căn bản: Nam và Bắc phái. Vì vậy
người ta thường nói "Nam Quyền, Bắc Cước". Nam phái được đại diện bởi ba võ phái: Võ
Đang Thái Cực Quyền, Bát Quái Quyền, và Hình Ý Quyền. Bắc phái gồm có rất nhiều võ
phái khác nhau. Xuất xứ từ miền bắc, các võ phái nổi danh Thiếu Lâm, Trường Quyền,
Đoàn Đả, và Địa Đàn. Ngoài ra, vì ảnh hưởng tríết lý tôn giáo và nguồn gốc khai sáng, danh
từ "nội gia" và "ngoại gia" cònđược dùng thêm cho Nam Phái và Bắc phái. Tức là hai nguồn
võ thuật: nội phát và ngoại nhập. Nội Gia (hay Nam phái) Vì ba võ phái Võ Đang Thái Cực
Quyền, Bát Quái Quyền, và Hình Ý Quyền đều được ảnh hưởng bởi triết lý đạo dẫn của Lão
Trang, và Kinh Dịch cũng như nguồn gốc khai sáng tại nội địa Trung Hoa. Kỹ thuật thực
hành của Nội Gia có những đặc tính như: nhu nhuyễn, chậm chạp, vòng cầu, nội lực, tĩnh
chế động, tư thế ngắn hẹp. Ngoại gia (hay Bắc Phái) Hầu hết các võ phái ngoại gia đều được
ảnh hưởng bởi các triết lý tôn giáo cũng như nguồn gốc khai sáng do từ nước ngoài du nhập
vào Trung Hoa: Thiếu Lâm từ Phật Giáo đến Ấn Độ, Đàn Thoái từ Hồi Giáo ở Tây Tạng.
Kỹ thuật thực hành của ngoại gia có những đặc tính như cương mãnh, nhanh
nhẹn, đường thẳng, ngoại lực, năng động, tư thế dài rộng. Sau đây là nguồn gốc lược sử của
một số võ phái nổi tiếng đại diện cho hai nhóm Nam Phái (Nội Gia) và Bắc Phái (Ngoại
Gia): NAM PHÁI (NỘI GIA) 1. VÕ ĐANG PHÁI (THÁI CỰC QUYỀN) Võ Đang Phái
tọa lạc tại núi Võ Đang Sơn thuộc Tiêu Anh phủ, nằm giữa hai phần đất Giang Tây và Hà
Nam. Sáng tổ là Trương Quân Bảo, đạo hiệu là Trương Tam Phong sống vào cuối đời nhà
Nguyên (Mông Cổ) và đầu đời nhà Minh, tổ tiên gốc ở Long Hổ Sơn, tỉnh Giang Tây. Thuở
nhỏ, ông theo học đạo Nho và đạo Lão. Vào triều Nguyên, vua Huệ Tôn (Thuận Đế), niên
hiệu Nguyên Thống (năm 1333) ông thi đỗ Mậu Tài (Tú Tài ngày nay) và làm quan Lịnh ở
Trung Sơn và Bắc Lăng. Về sau ông dứt bỏ đường công danh để chu du thiên hạ. Ông đã
từng theo học võ và Phật tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự khoảng 10 năm. Vì nhận thấy võ thuật
Thiếu Lâm Tự thuộc về cương quyền ngoại tráng, cho nên khi thành đạo sĩ tu luyện tại núi
Võ Đang, ông đã khai sáng Võ Đang quyền pháp, với đặc tính nhu nhuyễn trong kỹ thuật,
phối hợp với nội lực tĩnh luyện. Cũng như triết lý Lão Trang và Dịch Kinh được áp dụng
dẫn đạo thực hành. Môn quyền ổi danh nhất của Võ Đang phái là "Thái Cực Quyền" được
Trương Tam Phong sáng chế vào thế kỷ 14. Theo sách "Thái Cực Quyền Luận" của Vương
Tông Nhạc có ghi: "Những điều bàn luận trong sách này đều căn cứ vào tài liệu truyền dạy
của Trương Tam Phong tiên sinh, để giúp hào kiệt trong thiên hạ, tăng thêm tuổi thọ, sống
lâu, chớ không nghĩ đến chuyện dùng Thái Cực Quyền để làm phương tiện chiến đấu với kẻ
địch". Theo mục "Phương Kỷ Truyện" trong Minh sử có chép" "Trương Toàn Nhất có tên
thật là Trương Quân Bảo, đạo hiệu là Trương Tam Phong dung mạo khôi ngô, thân giống
rùa, lưng giống hạc, tai to, mắt tròn, râu cứng như kích. Dù trời nóng hay lạnh, Trương Tam
Phong thường mặc một bộ quần áo, đầu đội nón, mỗi ngày ăn hơn một đấu gạo, và đi hơn
trăm dặm đường. Ông cùng học trò đi chơi núi Võ Đang, vì thích phong cảnh nơi đây, ông
đã lập ra lều cỏ trên núi Võ Đang để tu luyện. Vua Minh Thái Tổ nghe tiếng vào năm Hồng
Vũ thứ 14 tức năm 1382, có sai sứ đến tìm ông nhưng không gặp". Theo Hoàng Tông Hy,
một học giả đời Thanh cho rằng Trương Tam Phong sống vào đời Bắc Tông (950 – 1275).
Còn có thuyết cho rằng Trương Tam Phong sinh ngày 9 tháng 4 năm 1247, triều Nguyên,
sống đến triều Minh, thọ trên 200 tuổi. Theo Quốc Kỷ Luận Lược của Từ Triết Đông,
những thuyết này không đáng tin cậy.
Về nguồn gốc môn Thái Cực Quyền có tất cả là 4 truyền thuyết: 1. Trương Tam Phong là
sáng tổ (vào cuối đời Nguyên đầu đời Minh); 2. Vào đời Đường (618 – 907) Thái Cực
Quyền được phát triển bởi bốn nhà: Hứa Tuyên Bình, người phủ Vi Châu, Giang Nam, Du
Lưu Châu, người phủ Ninh Quốc, Giang Nam, Trình Linh Tiển, tự Nguyên Điều, người phủ
Vi Châu, Giang Nam và Ân Lợi Hanh. 3. Vào cuối đời Minh 91618 – 1644) Trần Vương
Tinh, người thuộc Trần Gia tại làng Trần Gia. 4. Vào triều Thanh vua Càn Long 91736 –
1797), Vương Tông Nhạc, người tỉnh Thiểm Tây trong lúc đi ngang qua làng Trần Gia Cấu,
tỉnh HỒ Nam trông thấy dân làng đang tập luyện môn nhuyển quyền Thái Cực Trần Gia.
Hôm sau, ông đến tiếp xúc và được dân làng nể phục, sau những lần thử đấu với các võ sư
Trần Gia. Vương Tông Nhạc đã nhận lưu lại dạy Thái Cực Quyền cho dân làng Trần Gia.
Từ đó, Trần Gia Thái Cực Quyền có ha hệ phái đứng đầu bởi: Trần Hữu Bổn (Tân phái),
Trần Trường Hưng (cựu phái) và Trần Thanh Bình (Tiểu gia). Về sau Dương Phúc Khôi, tự
Lộ Thiền theo học với Trần Trường Hưng, rồi cải biến thành Dương Gia Thái Cực Quyền.
Dương Phúc Khôi (Lộ Thiền) có ba người học trò là anh em họ Vũ: Vũ Trừng Thanh, Võ
Hà Thanh (tự là Võ Nhượng) và Võ Như Thanh. Võ Hà Thanh (tự Võ Nhượng) đến làng
Trần Gia Cấu (Hồ Nam) học thêm với Trần Thanh Bình (Tiểu gia phái) rồi cải biến thành
"Vũ Gia Thái Cực Quyền". 2. BÁT QUÁI QUYỀN (hay BÁI QUÁT CHƯỞNG) Bát Quái
là một trong ba phái thuộc Nội Gia Nam Phái, danh từ Bát Quái được rút ra từ Dịch Kinh,
tạm hiểu là sự biến động truyền điệu trong tám phương hướng. Vì vậy kỹ thuật chính yếu
của Bát Quái Quyền (Chưởng) chuyền dùng bọ pháp và chưởng pháp làm trung tâm vận
chuyển, biến hóa không ngừng trong vị thế bốn phương tám hướng. Nguồn gốc Bát Quái
Quyền (Chưởng) vẫn chưa được xác định. Câu hỏi vẫn còn đặt ra. Do ai, từ đâu, và lúc nào
phát sinh ra nó? Theo sách "Lam Triều Ngoại sử" có ghi: "Vào năm 1798, triều Thanh vua
Gia Khánh năm thứ hai ở huyện Tế Ninh, tỉnh Sơn Đông, miền Hoa Bắc, Vương Trường có
truyền dạy quyền pháp cho Phùng Khắc Thiện. Đến mùa xuân Canh Ngọ (năm Gia Khánh
thứ 15), Ngưu Lương Thần theo học quyền pháp này với Phùng Khắc Thiện và nhận thấy
quyền pháp có tám phương bọ nên gọi là Bát Quái. Từ đó, môn Bát Quái được lưu truyền
cho đến nay đã hơn trăm năm." Đến đời vua Thanh Quang Tự thứ sáu (1881), môn Bát Quái
Quyền phát triển cực thịnh khắp Trung Hoa, nhất là ở Bắc Kinh, có nhiều vị tiền bối về Bát
Quái Quyền như các ông: Đổng Hải Xuyên (1798 – 1879), người tỉnh Hồ Bắc học được
môn Bát Quái từ một đạo sĩ ở miền núi. Đổng Hải Xuyên rất giỏi và nổi tiếng nhất ở Bắc
Kinh, được xem như một Chưởng Môn về Bát Quái, có nhiều học trò nổi tiếng như Vi
Phước, Trịnh Đình Hoa, Tống Vĩnh Tường, Mã Duy Kỳ, Ngụy Cát, Lý Văn Bảo, Đoàn
Phúc, Lý Tồn Nghĩa. Về sau, Đổng Hải Xuyên kết bạn với danh thủ Quách Vân Thâm về
Hình Ý Quyền, sau trận thử thách ngang tài. Từ đó, hai ngườikết hợp hai môn cùng dạy cho
các học trò. Trong số các học trò của Đổng Hải Xuyên có Trịnh Đình Hoa rất giỏi, nổi tiếng
ở Hoa Bắc. Trịnh Đình Hoa có học trò giỏi nhất là Tôn Lộc Đường. Về kỹ thuật Bát Quái,
theo sách "Bát Quái Quyền Học" của Tôn Lộc Đường có ghi: "Trong Du Thân Bát Quái
Liên hoàn chưởng có chưa mười tám đường La Hán Quyền, gồm bảy mươi hai tuyệt thoái,
72 ám cước, đến như các môn điểm huyệt, kiếm thuật, và các môn võ khí cũng chứa trong
Bát Quái Quyền. Do đó, về hình thức môn Bát Quái rất giuống như các quyền thuật ngoại
gia Bắc Phái, nhưng đặc điểm chuyên dùng bộ pháp tròn Hoán Hành, và thay đổi tay Hoán
Chưởng làm chính tông, được gọi là "Du Thân Bát Quái" gồm có ba loại: thượng bàn, trung
bàn, và hạ bàn. Các thế thượng bàn đã thấp, trung bàn và hạ bàn còn thấp hơn. Trong lúc
xoay chuyển bộ pháp dùng rất hẹp và nhanh nhẹn, với dụng ý né tránh thế công của địch, để
phản kích vào mặt sau lưng của địch. Trong lúc đối địch, thân và ý phải chuyển động nhưng
khí phải trầm. Các động tác về tay gồm có thập chưởng, đơn hoán chưởng, dùng để biến
chuyển phối hợp với bốn bộ pháp linh động. Trong thập chưởng, đơn hoán chưởng và song
hoán chưởng làm gốc, còn lại là tám chưởng chủ yếu. Bốn bộ pháp gồm có: Khởi, Lạc,
Khấu và Bài. Nhằm rèn luyện cho thân thủ được nhanh nhẹn, kỹ thuật của Bát Quái gồm có
bốn đặc điểm như sau: Nhất Tẩu (chạy, bước lẹ), Nhị thị (trông, nhìn thấy rõ ràng), Tam
Tọa (xuống bộ, ngồi thấp), và Tứ Phiên (nhà lộn, thoát ra khỏi). 3. HÌNH Ý QUYỀN Theo
truyền thuyết, Nhạc Phi Vũ (Vũ Mục 1103 – 1142) Trung Liệt Tướng Quân vào đời vua
Tống Cao Tông là sáng tổ của môn Hình Ý Quyền. Nhưng về kỹ thuật, ngườicác học trò của
hai phái), Lưu Kỳ Lan, người Thâm Châu, Trương Thủ Đức, người Kỳ Châu, Tống Thế
Vinh, người Uyển Bình, Xa Nghị Trai, người Thái Cốc, Bạch Tây Viên, người Đại Hưng,
Lưu Hiếu Lan, người Hà Giang, và Thọ Nhiễu Trai, người Tân An. Quách vân Thâm có một
số học trò rất giỏi như Hứa Chiêm Ngao, Tiền Quản Lương, Lý Tồng Nghĩa, Lý Khuê
Nguyên, Trương Chiếm Khôi, ... Còn Mã học Lễ khi về đến Hà Nam thâu nhận rất đông học
trò. Trong os học trò giỏi nhất như mã Tầm Nguyên, người Hà Nam và Trương Chí Thanh,
người Nam Dương. Về sau, Trương Chí Thanh truyền dạy cho Lý Chính, người Lỗ Sơn. Lý
Chính truyền lại cho Turơng Tu, người Lỗ Sơn. Trương Tu dạy lại cho Gia Trang Đỗ, rồi
Gia Trang Đỗ dạy lại cho An Đại Khánh, người Trường An. An Đại Khánh dạy lại cho Bảo
Hiến Đình. Đó là chi phái Hình ý Quyền ở Hà Nam một thời danh tiếng. Môn Hình Ý
Quyền rất là đơn giản, ít biến hóa, người tập chuyên tâm dễ thuần thục. Cả ba môn Thái
Cực, Bát Quái, và Hình Ý thuộc Nội Gia Quyền đều có liên quan mật thiết lẫn nhau.
BẮC PHÁI NGOẠI GIA Trong quyền thuật, Bắc Phái hay Ngoại Gia bao gồm rất
nhiều các môn võ khác nhau, được xuất xứ từ các địa phương Hoa Bắc. Cũng như, triết lý
tôn giáo và nguồn gốc khai sáng được du nhập từ nước ngoài. Về kỹ thuật thực hành, Bắc
Phái Ngoại Gia có những đặc tính căn bản như: cương mãnh, nhanh nhẹn, năng động, trực
diện, đường thẳng, ngoại lực, tư thế dài rộng,…Căn cứ vào các môn võ nổi tiếng, người ta
nhận thấy có 3 loại tổng quát như: Trường Quyền, Đoản Đả, và Địa Đàng (theo sách "Quốc
Kỷ Luận Lược" của Từ Triết Đông). Trong Trường Quyền, một số môn nổi tiếng như: Thái
Tổ, Nhị Lang, Mê Tung, Bát Cực, Phiên Tử, Tra Quyền, Hồng Quyền,… đều có những
điểm đại đồng và tiểu dị. Thí dụ như môn Phiên Tử sở trường về luyện tay, môn Phê Quải
chuyên luyện về chưởng pháp, còn Tra Quyền chuyên luyện về bước di chuyển. Đó là nét
độc đáo của mỗi môn. Ngoài ra, trong lúc tập luyện, hầu hết các môn trong Trường Quyền
đều tập trung vào các điểm: tiến thoái nhanh lẹ, nhảy và tọa một cách nhẹ nhàng, khí trầm
thế vững, biến hóa linh động, đường quyền dài rộng,… Về Đoản Đả, các môn nổi tiếng nhất
là Miên Trường Đoản Đả, Lục Lộ Đoản Đả của Đàn Thoái Môn, Thiên Cang Thủ ở vùng
Giang Nam, Đối Đả của phái Hồng Tháo,… đều áp dụng quyền pháp nghiêm ngặt, thủ pháp
kín đáo. Còn Địa Đàng chuyên về nhào lộn, nổi tiếng nhất Lục Hợp Môn, Hầu Quyền, Túy
Bát Tiên,… Về sau, cả ba môn Trường Quyền, Đoản Đả và Địa Đàng đều được một số các
võ phái phối họp lại với nhau. Sau đây là nguồn gốc và lược sử một số các môn võ nổi tiếng
đại diện cho Bắc Phái Ngoại Gia Quyền:1. Đàm Thoái và Đàn Thoái Quyền: Môn võ Đàm
Thoái hay còn gọi là Đàn Thoái được du nhập vào Trung Hoa, từ những người theo đạo Hồi
ở Tây Tạng, khoảng thế kỷ thứ mười bốn, rất thịnh hành ở tỉnh Sơn Đông, Hoa Bắc. Về kỹ
thuật, môn này có hai nhánh. Những người theo học 12 lộ quyền thường gọi là Đàm Thoái.
Còn những người theo học 10 lộ quyền lại gọi là Đàn Thoái. Vào thời nhà Thanh, Hoắc
Nguyên Giáp, người ở Hà Bắc, xuống phương nam sáng lập Tinh Võ Hội ở Thượng Hải, và
phổ biến môn Đàm Thoái, rất đông người theo học. Về sau, Mã Vĩnh Trinh là người nổi
tiếng giỏi nhất về môn Đàm Thoái ở Thượng Hải. 2. Tra Quyền hay Xoa Quyền: Tra Quyền
hay còn gọi là Xoa Quyền là một môn võ cổ của Trung Hoa, thuộc Bắc Phái, xuất xứ từ các
tín đồ Hồi Giáo người Trung Hoa, thuộc các tỉnh Tân Cương, Thanh Hải, và Cam Túc, vào
thế kỷ thứ 14. Môn này có cùng nguồn gốc với môn Đàm Thoái. Cả hai đều được thịnh
hành vào thế kỷ thứ 17 tại Trung Hoa. Theo sách Kỷ Hiệu Tân Thư Quyền Kinh của Thích
Kế Quang, nhà họ Ôn có 72 đường hành quyền, cùng một dụng ý như Tra Quyền. 3. Nga
Mi Võ Phái: Vào thời vua Minh Tuyên Tôn (1426 sau T.L) tại núi Nga Mi Sơn, thuộc tỉnh
Tứ Xuyên, võ phái Nga Mi được sáng lập, do nữ sáng tổ Chu Tú Anh, xuất thân từ dòng họ
Chu gia giỏi võ, danh tiếng nhiều đời, tại tỉnh Sơn Đông, Hoa Bắc. Thuở nhỏ, vì cha mất
sớm, hai anh em Chu Đức Kiệt và Chu Tú Anh được chú ruột, Chu Đức Võ Thượng Nhân,
nuôi dưỡng và truyền dạy võ nghệ rất cẩn thận. 4. Không Động Võ Phái: Võ Phái Không
Động được xuất hiện tại núi Không Động, tỉnh Cam Túc, một nơi núi rừngâm u, lạnh lẽo,
với một xuất xứ mù mờ, nguồn gốc sáng lập không được xác định. Cách thu nhận môn đồ
rất khắt khe và hạn chế. 5. Võ Phái Địa Đàng: Võ Phái Địa Đàng chuyện luyện về các kỹ
thuật nhảy nhào, lăn lộn, té người xuống đất. Theo sách Quyền Kinh của Thích kế Quang, tổ
sư của môn võ này là Thiên Trật Trường. Ơû miền Hoa Bắc, võ phái này áp dụng phối hợp
với kỹ thuật Trường Quyền. Trái lại, ở vùng Giang Nam, kỹ thuật của Đoản Đả được phối
hợp làm căn bản. Ngoài ra, môn võ Túy Bát Tiên rất được xem trọng trong võ phái Địa
Đàng. Về sau, Trương Cảnh Phúc, tự là Giới Thần, rất nổi tiếng về Địa Đàng, ở Hà Bắc.
Oâng đã từng xuống Hoa Nam, dạy môn Địa Đàng cho Trung Hoa Thể Dục Hội, tại
Thương Hải. 6. Côn Luân Võ Phái: Vào thời vua Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc (1403
– 1425 T.L.) nhà vua xuất công khố trùng tu ngôi cổ tự Bích Vân, trên dãy núi Côn Luân
Sơn, thuộc đất Lương Châu, huyện Tiêu Dương, tỉnh Thanh Hải, để cấp cho Chu Đức Võ
Thượng Nhân trụ trì tu luyện, và sáng lập võ phái Côn Luân. Gần ngày tạ thế, Chu Đức Võ
Thượng Nhân đã kế truyền chức Chưởng Môn phái Côn Luân cho Chu Đức Kiệt, một người
cháu ruột, cũng là một cao đồ đắc ý nhất của ngài. Ngài còn lưu truyền lại bí kíp "Thái
Dương Trường Kiếm Pháp", cùng với thanh bảo kiếm Thái Dương, do ngài dày công nghiên
cứu chế tạo, cũng như, môn thuốc giang hồ "Tiêu Nhục Phấn" (còn gọi là Mãng Xà Diệp),
cách chế tạo thuốc phấn này do sư phụ của ngài truyền lại. Trước kia, Chu Đức Võ Thượng
Nhân được thụ giáo với sư phụ Huyền Vân Trưởng Lão, tại Bạch Vân Miếu, trên dãy núi
Cửu Huyền Sơn, miền bắc quan ngoại, biêngiới Mông Cổ. Nguyên sư phụ Huyền Vân
Trưởng Lão, vào thuở thiếu thời, đã tình cờ khám phá ra lá cây "Tiêu Nhục Diệp" (hay
Mãng Xà Diệp) qua sự chỉ điểm của người tiều phu Mông Cổ, cư ngụ bên chân núi Cửu
Huyền Sơn. Loại lá "Tiêu Nhục Diệp" chỉ mọc trong rừng rậm, nơi có nhiều mnag xà lui
tới, vì giống mãng xà có sẵn chất giải độc trong máu, nên khi ăn loại lá cây này, mãng xà
không bị nguy hiểm, mà còn tiêu hóa được con thịt vừa mới nuốt vào trong bụng. Ngoài ra,
bất cứ động vật nào nhiễm phải chất độc của lá "Tiêu Nhục Diệp", đều bị nguy hiểm đến
tánh mạng, vì nhục thể sẽ bị tiêu hủy, từ từ tan ra thành nước. Trên đường giang hồ hành
hiệp, mỗi khi muốn làm sạch, tiêu mất thi thể đối phương, người hiệp sĩ chỉ cần cho một
lượng vừa phải của "Tiêu Nhục Phấn" vào vết thương trên tử thi. Sau vài phút đồng hồ, tử
thi dần dần bị tan biến thành nước mà tiêu mất. 7. Tung Sơn Thiếu Lâm Tự: Võ phái Tung
Sơn Thiếu Lâm Tự do Đạt Ma Tổ Sư sáng lập, vào năm (520 – 529 sau T.L.), tại núi Tung
Sơn, tỉnh Hồ Nam, là một danh môn chính phái, có nề nếp kỷ cương, trong suốt gần 15 thế
kỷ. Thiếu Lâm Tự đã được mọi người mến mộ, có thành tích lừng lẫy, danh trấn giang hồ,
được giới võ lâm kính nể như một ngôi sao Bắc Đẩu, trên vòm trời võ lâm Trung Hoa. Kể
từ đời nhà Đường, sau chiến công oanh liệt của 13 vị thiền sư Thiếu Lâm Tự, giúp vua
Đường Thái Tông (năm 627 sau T.L.) dẹp được giặc Vương Thế Sung, từ đó, võ phái Thiếu
Lâm vang danh khắp Trung nguyên. Trong suốt thời nhà Minh (1368 – 1644 T.L.), võ phái
Thiếu Lâm Tự ở vào thời hưng thịnh, sách "Thiếu Lâm Côn Pháp Xiểng Tông" được biên
soạn phổ biến, do Trình Xung Đẩu, tự Tông Du, người ở Tân Đô, saukhi học võ thuần thục
với hai vị thiền sư Thiếu Lâm là Hồng Kỷ và Hồng Chuyển, hai vị này đã nổi danh nhất về
côn pháp, vào thời vua Minh Vạn Lịch (1573 – 1616 sau T.L.). Đến đời vua Minh Sùng
Trinh (1628), tướng Thẩm Thụy Trinh đã mời các nhà sư Thiếu Lâm Tự: Hồng Kỷ và Hồng
Tín đến Thái Thượng dạy võ cho binh sĩ. Khi nhà Minh mất về Thanh triều (1644), các cựu
thần văn võ và tôn thất nhà Minh, phần đông, trốn ẩn trong chùa Thiếu Lâm Tự, để ẩn dật
và chuyên tâm gắng sức luyện võ, mưu tìm cơ hội khôi phục quốc gia. Sau cùng, Thiếu Lâm
Tự đã ở vào thời cực thịnh, vang danh trong phong trào "Phản Thanh Phục Minh" của dân
Hán, vào thời Mãn Thanh. Ngoài ra, Tung Sơn Thiếu Lâm Tự còn là một lò luyện võ sản
xuất biết bao ngoại đồ cao đẳng, nhân tài võ dũng, giang hồ hiệp sĩ, giúp dân giúp nước,
khắp nơi trên lãnh thổ Trung Hoa, trong những thế kỷ vừa qua. Cũng như, một số chi nhánh
Thiếu Lâm Tự địa phương Nam Bắc đã được các cao đồ phát huy như Hồng Gia, Lưu Gia,
Lý Gia, Thái Gia, và Mặc gia,… cũng như, rất nhiều võ phái lớn nhỏ được sáng lập tại các
địa phương Trung Hoa, đáng kể đến như: Quảng Châu Thiếu Lâm Nam Phái, Thiếu Lâm
Bạch Hạc Phái, Thái Sơn Thiếu Lâm Bắc Phái (hay Sơn Đông),… 8. Quảng Châu Thiếu
Lâm Nam Phái: Quảng Châu Thiếu Lâm Nam Phái được đặt trụ sở tại chùa Tam Vân Tự,
tọa lạc tại phía đông ngoại thành Quảng Châu, tỉnh Phúc Kiến. Ngôi vhùa này đã được xây
cất vào thời vua Đường Túc Tông, niên hiệu Càn Nguyên (756 sau T.L.). Vào đời vua Minh
Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc (1403 sau T.L), vị trụ trì Ngũ Chấn Thiền Sư đến từ Thiếu
Lâm Tự, phát động huấn võ cho các vị thiền sư trong chùa Tam Vân Tự. Ngũ ChấnThìn Sư,
dáng người cao lớn khỏe mạnh, là sư đệ của chiêu Đức Sư Trưởng, Tung Sơn Thiếu Lâm
Tự lúc bấy giờ. Vào triều nhà Minh, những vị thiền sư tại Tam Vân Tự đã có lần vang danh
trong cuộc chiến thắng bọn "Nụy Khấu" (cướp biển người Nhật) đến cướp phá dân lành,
thuộc vùng ven biển, tỉnh Phúc Kiến. Đến đời Mãn Thanh, vì tham gia vào phong trào
"Phản Thanh Phục Minh" ngôi chùa này đã bị chính quyền Mãn Thanh đốt phá, và các vị
thiền sư đã phải bôn ba trốn tránh tại các tỉnh lân cận như Quảng Đông, Quảng Tây,…và âm
thầm phát huy tinh thần võ dũng của Thiếu Lâm Nam Phái. 9. Thiếu Lâm Bạch Hạc Phái:
Thiếu Lâm Bạch Hạc Phái tu luyện tại chùa Long Sơn Tự, trên núi Bạch Hạc Sơn (hay Long
Sơn), thuộc huyện Quan Đồ, phía Tây tỉnh Vân Nam. Võ phái này được sáng lập bởi Nhứt
Khánh Thiền Sư, vào hàng sư đệ của Trí Dõng Thiền Sư (Trí Dõng là thầy dạy của Chiêu
Đức và Ngũ Chấn Thiền Sư). Vì xuất xứ từ Thiếu Lâm Tự, cho nên, cách luyện tập của
Bạch Hạc phái đã được Nhứt Khánh Thiền Sư áp dụng giống y như tại Tung Sơn Thiếu
Lâm Tự. Nhứt Khánh Thiền Sư thọ được 91 tuổi. Đệ nhất cao đồ của ngài là Thượng Thái
Lão Ni Sư Trưởng lên kế nghiệp, và chỉ truyền dạy 10 ni cô, đều rất giỏi võ nghệ. Vào đời
vua Thanh Cao Tôn, niên hiệu Càn Long (1736 – 1796 sau T.L.), Bạch Hạc Phái tại Long
Sơn Tự được truyền đến Ngũ Mai Lão Ni Sư Trưởng, lúc bấy giờ, danh nghĩa Bạch Hạc
Phái lẫy lừng trong chốn giang hồ hành hiệp. 10. Thái Sơn Thiếu Lâm Bắc Phái (hay Thiếu
Lâm Bắc Phái Sơn Đông): Thái Sơn Thiếu Lâm Bắc Phái, Sơn Đông, được đặt trụ sở tu
luyện tại Chùa Bạch Vân Tự, trên núi Mã Dương Cương, thuộc dãy Thái Sơn, tỉnh Sơn
Đông, miền Hoa Bắc. Nữsáng tổ Âu Dương Bích Nữ trụ trì tu luyện, và khai sáng võ phái
này, vào thời vua Minh Tuyên Tôn (1426 sau T.L.). Xuất thân từ một gia đình yêu chuộng
võ thuật, cha của Âu Dương Bích Nữ là Âu Dương Tòng Thiện, một ngoại đồ cao đẳng của
Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, thuộc hàng sư huynh trên Chiêu Đức Thiền Sư, cả hai là bạn đồng
môn, cùng thụ huấn với sư phụ Trí Dõng Thiền Sư. Nguyên tổ tiên dòng họ Âu Dương, trải
qua nhiều đời, rất giàu có và ham chuộng văn học nghệ thuật. Vào đời vua Tống Nhân Tôn
(1023 sau T.L.), Âu Dương Tu, tự là Vĩnh Thúc người ở đất Lư Lăng, thi đỗ tiến sĩ, và được
giữ chức Thái Tử Thiếu Sư trong triều Tống Nhân Tôn. Về sau, ông xin từ quan, về quê làm
trí sĩ, hiệu là Lục Nhất Cư Sĩ, biên soạn sách "Văn Trung Tập" được lưu truyền trong văn
học sử Trung Hoa. Về sau, họ Âu Dương, qua nhiều đời tại Tô Châu, chuyên về việc kinh
doanh, trở nên một họ giàu lớn, có nhiều ruộng đất, và nhiều cổ phần lớn trong các hiệp hội
kinh doanh lớn. Đến đời Âu Dương Tòng Thiện, ngoài văn học còn ham chuộng võ nghệ,
sẵn có sức khỏe và trí thông minh, từ thuở bé, cha mẹ đã mời danh sư về nhà truyền dạy võ
cho ông. Đến năm 15 tuổi, ông được phép theo học võ tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, với sư
phụ Trí Dõng Thiền Sư. Đến năm 21 tuổi, việc học tập thập bát ban võ nghệ đều tinh thông.
Sau khi hạ san Thiếu Lâm Tự, Âu Dương Tòng Thiện giao dịch rất rộng rãi, thường kết giao
với các hảo hán giang hồ, dị nhân quái khách, đạo sĩ thiền sư, và tao nhân mặc khách. Cho
nên, tại Tô Châu, và khắp mọi nơi lân cận, họ Âu Dương đã vang danh, mọi người đều biết
đến. Trong trang trại, lúc nào cũng tấpn ập bạn bè, hàng trăm thực khách từ bốn phương đến
thăm viếng lưu ngụ. Vì vậy, khách giang hồ đã đặt tước hiệu cho Âu Dương Tòng Thiện là
"Trai Mạnh Thường".Âu Dương Tòng Thiện có hai con trai là Tòng Cát, Tòng Đức, và một
gái là Âu Dương Bích Nữ. Cả ba anh em họ Âu Dương đều ham chuộng võ nghệ, và được
cha tập luyện ngay từ thuở nhỏ, theo phương pháp chính tông Thiếu Lâm Tự. Ngoàira, các
tay hảo hán giang hồ qua lại Âu Dương Trang, còn mang ra những đòn hay thế lạ của các võ
phái khác nhau, để chỉ dạy cho ba anh em Âu Dương. Khi đến tuổi 17, lần lượt, cả ba đều
được đưa lên Thiếu Lâm Tự, theo học tập hai năm liền với sư phụ Chiêu Đức Sư Trưởng.
Cả ba anh em Âu Dương đều tinh thông thập bát ban võ nghệ, và đặc biệt giỏi về tài cung
tiển và kỵ mã. Riêng về Âu Dương Bích Nữ, nàng thường sử dụng Thiết phiến, một võ khí
cá nhân đặc biệt, do Chiêu Đức Sư Trưởng chế ra. Đó là một cây quạt xếp bằng sắt, có 6
dóng đầu nhọn. Khi xếp chụm lại giống như cây giản vuông bằng sắt. Lúc thuận tiện, muốn
lấy đầu đối thủ, bất ngờ xòe ra thành cây quạt, với 6 dóng đầu nhọn, cổ đối thủ sẽ bị tiện đứt
như bị cưa cắt. Bích Nữ sử dụng món võ khí này rất tinh vi, cho nên, giới giang hồ gọi nàng
là "Thiết Phiến Cô". Vào thời vua Minh Thành Tổ, năm Vĩnh Lạc thứ 10, với tư cách công
dân trung nghĩa, gia đình Âu Dương Tòng Thiện đã lập được đại công, trong việc cứu mạng
nhà vua thoát hiểm, và giúp vua phá vỡ cuộc âm mưu phản loạn của nhóm Thuận Vương,
tránh được cuộc nội chiến tương tàn, khiến cho dân chúng lầm than, khốn khổ. Do đó, Âu
Dương Tòng Thiện đã được vua Minh Thành Tổ sắc phong tước "Trung Dũng Hầu", và
toàn gia đình họ Âu Dương được phép dùng chữ "Trung Dũng Tô Châu Đệ Nhất Gia".
(Theo sách "Giang Hồ Kỳ Văn, 1930" của tác giả Tề Phong Quân) Giáo Sư Vũ Đức

HÔ HẤP TRONG KHÍ CÔNG

GS Vũ Đức, N.D. Ý NIỆM VỀ KHÍ: Đối với người Tây phương, "Khí" được hiểu
bằng những danh từ như: Energy, Vital Energy, Life Force, Bio-Force, Electromagnetism...
Cũng như "Animal Magnetism" ở Úc châu do Mesmer, "Odic Force" ở Đức do Baronvon
Reichenbach, "Orgone Energy" ở Mỹ do Wilhelm Reich, "Bioplamsm" ở Nga Sô do
Inyushin. "Khí" (Energy) tức là năng lực, năng lượng. Khí thể hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau như :Nhiệt năng, cơ năng, quang năng, điện năng, hóa năng, năng lực tinh thần,...
Khí và vật có sự liên hệ mật thiết với nhau. Khí cấu tạo ra vật, và cùng kết hợp với vật. Vật
hoạt động sinh ra khí. Cũng như, cơ quan có sự liên hệ mật thiết với cơ năng. Cơ năng quyết
định sự hình thành và phát triển cơ quan. Cơ quan ssinh hoạt biến thành cơ năng. Nhà khoa
học Einstein đã giải thích sự liên hệ giữa khí và vật bằng phương trình E = mc 2. năng
lượng khí bằng khối lượng nhân với bình phương tốc độ ánh sáng. Năng lượng khí và khối
lượng vật chỉ là một, nhưng p hai hình thức khác nhau. Khi khối lượng vật chất bị phá hủy,
kết quả sẽ sinh ra năng lượng khí được tỏa ra. Về phương diện sinh lý, cơ thể con người là
một thể chất hóa hợp của những tế bào, phân tử, nguyên tử khác nhau. Tùy theo những yếu
tố và điều kiện sống chung quanh (như: thực phẩm, nước uống, không khí, thời tiết, xã
hội...), nguồn năng lực (khí) trong cơ thể được gia tăng, hay bị suy giảm. Trong đời sống
hàng ngày, nguồn năng lực (Khí) đóng một vai trò rất quan trọng, trong sự liên quan mật
thiết giữa cơ thể và tâm trí con người. Cũng như, hơi thở qua việc hô hấp không khí là một
yếu tố quan trọng nhất, trong tiến trình phát sinh năng lực (Khí) conngười. Qua tiến trình hô
hấp không khí, dưỡng khí (oxygen) trong không khí được gạn lọc như một nhiên liệu căn
bản, dùng đốt cháy thực phẩm, để sinh ra năng lực (khí), thán khí (carbon dioxide), và nước,
theo phương trình hoá học như sau: Food + Oxygen ® Energy + Carbon Dioxide + Water
(Đồ ăn) + (Dưỡng khí) ® (Năng lực) + (Thán khí) + (Nước) năng lựv (khí) được sinh ra từ
phản ứng hóa học của dưỡng khí và đồ ăn, được dùng bồi dưỡng, điều hòa nhiệm vụ não bộ,
và các bộ phận trong cơ thể, cũng như, tạo nên một sức mạnh chịu đựng, dẻo dai về thể chất
lẫn tinh thần. Để có nguồn năng lực (khí) sung mãn, trong đòi sống khỏe mạnh, ngoài hai
yếu tố cần thiết phải có như dưỡng khí (Oxygen) (trong khí trong lành), và thức ăn tươi tốt
(đầy đủ chất dinh dưỡng), người ta cần phải có thêm những yếu tố hỗ trợ khác, không kém
phần quan trọng như: nước uống tinh khiết, ánh sáng mặt trời, nghỉ ngơi tịnh dưỡng, tâm trí
quân bình, và vận động thể dục... HÔ HẤP VÀ SỰ SỐNG: Hô hấp (hít thở) không khí đóng
một vai trò quan trọng nhất, trong sự sống con người. Do đó, hô hấp là để sống, sống cần
phải hô hấp, vì hô hấp tạo nên hơi thở, và nguồn sinh lực (khí) trong con người. Nếu hơi thở
chấm dứt, tiếp theo, sự chết đến ngay với con người. Sau một công việc mệt nhọc, hay một
ngày lao tâm, lao lực, người ta áp dụng một số phương pháp hô hấp (hít thở) không khí
đúng cách. Kết quả nhận thấy cơ thể khỏe mạnh, tinh thần tươi tỉnh. Sinh lực được phục hồi,
nhờ vào sự biến năng của dưỡng khí (oxygen), được không khí mang vào cơ thể. Hơi thở
của một người khỏe mạnh bìnhthường được gọi là hơi thở tự nhiên, cần phải hội đủ bốn đặc
tính: yên lặng, thanh thản, nhẹ nhàng, và điều hòa. Hơi thở của họ biểu lộ một cách dễ dàng,
nhẹ nhàng, liên tục, không cảm thấy mệt mỏi, không bị ràng buộc bởi bất cứ điều kiện nào,
kể cả việc ý thức về hơi thở. Nói một cách khác, hoi thở khỏe mạnh tự nhiên là hơi thở
không dài, không ngắn, êm đềm, và đều đặn. Khi đạt được hơi thở như thế, người ta cảm
thấy nhận được sự khỏe khoắn, nhẹ nhàng trong cơ thể, tình cảm an hòa, tinh thần bình tĩnh,
trong một linhhồn minh mẩn. Tuy nhiên, đối với người bệnh hoạn, sức khỏe yếu kém, hơi
thở của học thường có vẻ mệt nhọc, do sức cố gắng mà ra. Hơi hít vào vô cùng ngắn, thở ra
thường kéo dài, đôi khi, ngược lại. Những người có hơi thở mất bình thường như thế, thể
chất và tinh thần của họ trở nên yếu đuối, đời sống tình cảm bất an, để đưa đến những nỗi lo
âu, buồn nản, thiếu ý chí kiên nhẫn, trong công việc hàng ngày. Tiếp tục như thế, trong một
thời gian lâu dài. Điều kiện sức khỏe thể chất lẫn tinh thần của họ sẽ gặp nhiều khó khăn.
Do đó, hơi thở của những người này cần được chăm sóc cẩn thận, trong lúc tập luyện khí
công. Dần dần, với thời gian, khí công có thể giúp họ phục hồi được hơi thở tự nhiên, khỏe
mạnh bình thường. Nhịp độ thở trung bình của một người khỏe mạnh bình thường là mười
tám hơi thở (ra vào) trong một phút. Trong tiến trình tập luyện khí công, thời gian cho mỗi
hơi thở (ra vào) càng lúc cần được kéo dài thêm. Vì vậy, khi đến giai đoan tiến bộ, học viên
nên tập để nhịp độ thở trung bình giảm xuống, nghĩa là giảm dần số lần của hơi thở (ra vào)
trong một phút. Các nhà thiền sư, đạo sĩ thường tập giữ cho nhịp độ thở (ra vào) từ 5 xuống
tới 2 hơi thở (ra vào) trong một phút. Với tư thế ngồithiền tịnh tâm, họ có thể tập kéo dài
trong 30 phút. Có hai cách thông thường để giữ cho nhịp độ thở giảm xuống như: tạo nên
hơi thở nhẹ nhàng, hay đưa hơi thở sâu xuống bụng dưới (đan điền). BỘ MÁY HÔ HẤP
TRONG KHÍ CÔNG: Đối với học viên mới nhập môn khí công, điều quan trong nhất là
việc hiểu biết về sinh lý căn bản của các bộ phận liên quan đế tiến trình hô hấp của con
người như sau: Nhiệm vụ của phổi: Bộ máy hô hấp của con người gồm có hai lá phổi, và
những bộ phận trung gian, để dẫn không khí ra vào hai lá phổi như: mũi, miện, yết hầu,
thanh quản, khí quản và cuống phổi. Hai lá phổi được nằm ở hai bên đường trung tuyến
trong lồng ngực, và ngăn cách bởi quả tim. Lá phổi bên phải gồm có ba thùy. Lá phổi bên
trái có hai thùy. Nơi tận cùng của ống khí quản được tiếp nối với hai cuống phổi lớn, và các
động mạch, để dẫn vào bên trong hai lá phổi trái phải. Từ đó, hai cuống phổi lớn và các
động mạch, càng vào bên trong phổi, càng được phân chia thành nhiều chùm nhánh nhỏ
dần, để dẫn đến tận cùng những túi nhỏ chứa không khí (gọi là Khí bào). Bên trong mỗi lá
phổi, được cấu tạo bởi vô số, khoảng 600 triệu túi nhỏ chứa không khí (Khí bào), chia thành
hiều chùm khí bào, đi song song với nhiều chùm mạch máu lớn nhỏ chằng chịt. Phổi được
cấu tạo bởi những mô mềm xốp, co dãn và có nhiều lỗ hình thức như một tổ ong. Mỗi túi
nhò khí bào chứa đựng một phần không khí được hít vào. Từ đó, dưỡng khí (oxygen) được
thấm xuyên qua thành của các phế mao quản. Sau đó, máu hữu dụng hóa dưỡng khí
(oxygen) và thải trừ thán khí (carbondioxide) cùng những chất cặn bã, do máu góp nhặt
được trong hệ thống. Nếu thiếu sự hiện diện của máu, những túi nhỏ khí bào sẽ bị thất thoát
nguồn dưỡng khí (oxygen), và được thay vào bằng thán khí (carbon dioxide). Thể tích của
hai lá phổi ở người trưởng thành, trung bình chứa từ 4 đến 6 lít không khí, hoặc tương
đương với số lượng không khí được chứa trong quả bóng rổ (basketball). Nếu những mô
tầng của hai lá phổi được tráng mỏng ra trên mặt phẳng, diện tích của nó có thể phủ lên một
nửa sân chơi quần vợt. Bên ngoài mỗi lá phổi được bao phủ bởi mặt trong của màng phổi
vững chắc. Mặt ngoài của màng phổi này được dính vào thành trong lồng ngực. Vùng ở
giữa màng phổi là một chất nước nhờn, để cho hai lá phổi di chuyển linh động, trong lúc hít
thở không khí. Vai trò hoành cách mô: Thân người được chia làm hai phần: phần trên là
lồng ngực, phần dưới là bụng. Hai phần này được ngăn cách bởi một "Hoành Cách Mô"
(một màng thịt gân có hình nón chóp bầu). Sự co dãn của lồng ngực và hoành cách mô đã
đóng một vai trò chủ yếu trong tiến trình hít thở không khí. Lồng ngực chứa đựng hai lá
phổi và tim, được bao phủ bởi bộ xương sườn và xương ức. Khi hít hơi vào, hai lá phối bắt
đầu nở lớn dần dần và gây nên sự kích thích các bắp thịt liên tiếp giữa các xương sườn.
Chính các bắp thịt này tác dụng tạo nên sự di động của bộ xương sườn, để cho lồng ngực
được căng phồng lên. Do đó, bên trong lồng ngực có thêm một khoảng trống đủ sức chứa
thể tích gia tăng của hai lá phổi. Đây là loại thở bằng ngực (hay thở trung bình), không có
sự ảnh hưởng của hoành cách mô. Phần chủ yếu là sự dãn nởlớn tối đa của lồng ngực, để đạt
được một số lượng dưỡng khí (oxygen) lớn nhất, trong một thể tích không khí tối đa ở vào
vùng giữa của hai lá phổi. Đối với loại thở sâu (hay thở thấp, Đan Điền), khi hít hơi vào,
không khí không bị dừng lại ở vùng giữa của hai lá phổi như nói trên, nhưng không khí
được đưa sâu xuống phần dưới của hai lá phổi. Đồng thời tạo nên một sức ép trên mặt chóp
bầu của hoành cách mô, khiếncho hoành cách mô bị đẩy thấp xuống phía bụng dưới, khoảng
4 phân (centimeters). Động tác này tạo nên một khoảng trống, giữa mặt trên hoành cách mô
và phía dưới của hai lá phổi. Do đó, không khí gia tăng làm cho phần đáy của hai lá phổi,
dãn nở thêm xuống phía dưới. Trong khi đó, tất cả những túi nhỏ khí bào, ở vùng dưới hai lá
phổi, phải hoạt động tích cực, để có một sự dãn nở lớn gia tăng tối đa. Được như thế, các túi
nhỏ khí bào mới đạt được một thể tích tồn trữ không khí tối đa. Điều này rất quan trọng, vì
cần phải có một số lượng dưỡng khí (oxygen) tối đa, để thay vào chỗ của số thán khí
(carbon dioxide) cần được loại bỏ ra ngoài, cũng như cần một số dưỡng khí (oxygen) để
dùng vào việc tác dụng phản ứng biến thể trong phổi. Ngoài ra, sức ép của hoành cách mô
hướng xuống bụng dưới, đã khiến cho một số máu dư đang ứ đọng trong các nội tạng, và
màng ruột được ép dồn vào bên trong các tĩnh mạch. Cũng như, tạo nên sự kích thích cho
đôi dây tah kinh thái dương, giúp cho tâm trí trở nên thanh tịnh. Không khí được thổ ra là
buớc sau cùng cần thiết, trong tiến trình hô hấp. Song song với không khí được thở ra, hai lá
phổi co thắt nhỏ lại dần dần, cùng lúc với lồng ngực hạ thấp xuống, vì các bắp thịt giữa bộ
xương sườn giảm dần tính kích thích, rồi trở lại bình thường. Do đó, sức ép của hoành cách
môbị mất ảnh hưởng, rồi hoành cách mô bật hướng lên, theo sức đàn hồi tự nhiên. Đồng
thời tạo nên một sức đẩy hướng thượng, tác động vào phần đáy của hai lá phổi, giúp gia
tăng sức ép từ dưới đáy phổi, tống mạnh không khí dơ bẩn, còn ứ đọng lại từ đáy phổi ra
ngoài. (Trích trong sách sắp xuất bản "Khí Công Dưỡng Sinh" của Vũ Đức Hiền Âu) GS Vũ
Đức, N.D. Khí Công Khí Công Bài Một - Khái Lược Về Khí Công GS. Ngô Gia Hy - VS.
Trần Huy Phong ÐỊNH NGHỈA Khí là nguồn năng lực sống của con người. Khí luân lưu
trong khắp cơ thể theo các đường Kinh mạch vào Lục phủ ngũ tạng. Khí biểu hiện dưới cả
hai dạng vật chất và tinh thần, nhưng mắt ta không nhìn thấy được (không được lầm lẫn
giữa Khí và Không Khí. Không khí là khí trời, là phương tiện để ta hô hấp trong lúc luyện
Khí.) Mỗi người sinh ra đều mang trong cơ thể một lượng khí nhất định, nhiều ít tuỳ theo
từng người. Ðó là Khí trời cho, tức Khí thụ hưởng từ cha mẹ, còn gọi là Tiên Thiên Khí hay
Khí Bẩm Sinh. Ngoài Tiên Thiên Khí, hàng ngày con người còn tiếp thụ một lượng Khí từ
bên ngoài vào cơ thể mình xuyên qua đồ ăn thức uống, không khí, ánh sáng, vũ trụ tuyến và
môi trường sống nói chung. Loại khí này gọi là Hậu Thiên Khí (tức Khí Có Sau). Khí Công:
Là công phu tập luyện để điều hòa, phát huy tích luỹ và sử dụng hai loại khínói trên. Hai
loại khí ấy phối hợp và cộng hưởng với nhau làm thành Chân Khí. Chân Khí thịnh thì người
khỏe, khi suy thì người yếu, khi rối thì người bệnh, khi kiệt thì người chết. Có thể nói, Khí
Công là gốc của các phái võ Nội Gia, là căn cốt của mọi phương pháp dưỡng sinh Ðông A.
Hình thành từ các Phép Ðạo Dẫn của Ðạo Gia, phối hợp với Môn Phái Thiền Tông Ðạt Ma
Sư Tổ, Khí Công triển khai qua dịch học đã trở nên rất phong phú và mỗi ngày một phát
triển nhất là dựa vào y học hiện đại. Lấy nguyên lý Quân Bình Âm Dương, Ðiều Hòa Ngũ
Hành làm căn bản trong luyện khí. Khí công làm gia tăng nội lực, một mục tiêu mà mọi võ
gia đều mong muốn. Lại nữa, cũng trên căn bản này, các Võ Gia còn có thể tự trị bệnh và
hơn thế, trị bệnh cho người khác, thể hiện Tinh Thần của Võ Ðạo. Phương pháp luyện tập
Khí Công không khó, nhưng muốn luyện tập Khí Công thành tựu thì phải có quyết tâm cao
và tốn nhiều công phu. Cũng ví như cách học làm thơ, cách chơi các nhạc cụ thì không khó
nhưng muốn trở thành một thi sĩ, một nhạc sĩ có tài thì khó hơn. Chính vì vậy có người nói
muốn luyện thành Khí Công thì phải có "cơ duyên". Nhưng điều chắc chắn là bất cứ ai nếu
yêu thích Khí Công và kiên trì luyện tập theo đúng phương pháp thì cũng sẽ đạt được một
kết quả nhất định, đủ để giúp cho thân thể kháng kiện, kịch phát năng lực bản thân, điều trị
được nhiều loại bệnh tật của chính mình và của người khác như các loại bệnh về Tim mạch
- Thần Kinh - Tê Thấp - Thận Suy - Các loại bệnh về hô hấp, tiêu hóa, các loại bệnh liên
quan đến cột sống v.v... Tập Khí Công còn làm gia tăng tuổi thọ. Ðối với các võ sinh luyện
Khí Công còn tích lũy nội lực, tập trung tâm ý, ngõ hầu phát huy tối đa hiệu quả của đòn
thế.KỶ THUẬT LUYỆN KHÍ Các phương pháp luyện khí thay đổi tùy theo các Trường
Phái. Ðại để có năm Trường Phái chính: Ðạo Gia - Phật Gia - Y Gia - Võ Gia. Phương pháp
của Ðạo Gia chủ yếu tạo sự kháng kiện cả thể xác và tâm hồn. Phương pháp này dạy cách
phát triển trau dồi Tâm Chất và sự sống. Nghĩa là nhấn mạnh cả về hai mặt: luyện tập và suy
tưởng. Phương pháp của Phật Gia đặt nặng về sự điều hòa phần Tâm, tức là gạt bỏ mọi tạp
niệm để đầu óc trống rỗng, tiến đến giác ngộ. Phương pháp của Khổng Gia lại nêu ra những
"Nguyên Tắc Của Tâm Hồn!" Sự chân chính và sự rèn luyện các đức tính. Ðưa người tập
vào trạng thái nghỉ ngơi, an bình và yên tĩnh. Phương pháp của Y Gia chủ trương dùng Khí
Công để điều trị bệnh tật, bảo dưỡng sức khỏe và kéo dài tuổi thọ. Phương pháp của Võ Gia
nhằm xây dựng sức mạnh cá nhân, biết chấn tĩnh tinh thần khi bị tấn công hoặc để công
kích địch thủ. Mặc dầu phương pháp này cũng có chức năng bảo vệ sức khỏe và nâng cao
tuổi thọ nhưng nó khác hẳn với các Trường Phái nói trên. Tuy các phương pháp của các
Trường Phái có sự khác biệt nhưng chúng vẫn không nằm ngoài ba nguyên tắc chính: Tĩnh
Luyện, Ðộng Luyện, và Tĩnh Ðộng Luyện. Cả ba nguyên tắc này đều có 3 mặt: Luyện Tâm
(tức Ðiều Tâm), Luyện Thở (tức Ðiều Tức) và Luyện Hình (tức Ðiều Thân). Luyện Tâm
(Ðiều Tâm): Bắt buộc phải gạt bỏ mọi suy nghì, ưu tư và tình cảm để đầu óc trống rỗng
hoặc phải tập trung ý niệm vào một điểm để đưa trí não vào một trạng tháiđặc biệt. Cách
luyện này gọi là Ðịnh Thần. Luyện Thở (Ðiều Tức): Những bài tập thở gồm: Nạp Khí - Vận
Khí - Xả Khí - Bế Khí, đều phải "nhẹ và sâu" (sẽ chỉ dẫn ở phần sau). Luyện Hình (Ðiều
Thân): Gồm nhiều vị trí khác nhau trên cơ thể qua nhiều tư thế, xuyên qua 6 cách: Ði -
Ðứng - Ngồi - Nằm - Quỳ - Thoa Bóp. Bất kể luyện tập theo phương pháp nào, nếu tập bền
bỉ và đúng phép thì chắc chắn sẽ đạt được một công phu đáng kể. Khí Công của Việt Võ
Ðạo tổng hợp các kinh nghiệm của nhiều Trường Phái khác nhau, chủ yếu để luyện Tâm &
Thân theo nguyên lý "Cương Nhu Phối Triển." Cũng để tập trung sức mạnh của TÂM
THÂN trong tự vệ chiến đấu, điều trị bệnh tật và gia tăng tuổi thọ. Phương pháp khí công
trong võ thuật còn gọi là: Nội Công. Nội công là phương pháp luyện tập những phần bên
trong của cơ thể con người (không luyện cơ bắp như thể thao). Luyện bên trong tức là
phương pháp luyện để: - Kinh mạch điều hòa (luyện Kinh Mạch). - Thần kinh vững mạnh
(luyện Tâm). - Lục phủ ngũ tạng được kích phát và kháng kiện (luyện Phủ Tạng). Muốn
"luyện bên trong" chủ yếu là phải vận dụng hơi thở. Thở đúng phương pháp là cơ bản của
việc luyện công. Thở tự nhiên hàng ngày là thở Vô Thức. Thở Nội Công là thở Có Y¨ Thức.
Thở chủ động theo phương pháp đã được nghiên cứu công phu. CÁCH THỞ NỘI CÔNG
A. Thở Bụng: là cách thở chủ yếu, trong Nội Công gọi là "Thở Thuận". Trong khi luyện thở
có thể Nằm - Ngồi - Ði - Ðứng đều được cả, nhưng bao giờ cũngphải giữ cho xương sống
thật thẳng. Nằm: Trên một mặt bằng cứng (không nệm, không gối đầu) hai tay để úp xuôi
theo thân mình. Ngồi: Ngồi xếp bằng theo lối bán già hay kiết già tùy ý. Cũng có thể ngồi
trên ghế, không dựa lưng, hai chân để xuôi xuống sàn một cách ngay ngắn, hai tay buông
xuôi xuống hoặc để trên hai bắp vế. Giữ lưng thẳng góc với mặt ghế. Ðứng: Ðứng thật
thẳng như thế "Nghiêm" nhưng hai chân ngang rộng khoảng 25cm cho vững. Hai tay buông
xuôi thoải mái, không co cứng cơ. Ði: Hai chân di động nhưng giữ thân người thật thẳng.
Dù ở tư thế nào hai tay và hai vai đều buông lỏng thoải mái. Trước khi thở phải gạt bỏ tạp
niệm. Tập trung ý vào hơi thở. Lưu ý: chữ Khí dùng ở đây chỉ là Khí Trời, tức Hơi Thở,
không phải là Chân Khí như đã định nghĩa. B. Thực Hành Nạp Khí: Hít khí trời thẳng vào
bụng dưới, tất nhiên bụng dưới sẽ căng lên. Vận Khí: Nín thở, dồn hơi vào Ðan Ðiền (cách
vùng bụng dưới rốn khoảng 3-4cm) rồi dồn khí luân lưu theo Kinh Mạch. Xả Khí: Thở ra
hết, thót bụng lại, từ từ nhẹ nhàng cho hơi ra hết. Bế Khí: Ngưng thở trong lúc bụng trống
rỗng, nhíu cơ hậu môn lại và tưởng tượng khí của toàn cơ thể trở về Ðan Ðiền. Một vòng
thở đủ bốn nhịp như thế gọi là Phép Thở 4 Thì. Lưu ý: Cả 4 thì đều phải: Êm, Nhẹ, Ðều
Ðặn. Kết hợp co cơ và giãn cơ, nhưng giãn cơ là chính. Tự điều hòa 4 nhịp sao cho vừa phải
đểcảm thấy thoải mái, dễ chịu. Nếu chỉ Nạp, Vận, và Xả mà không Bế Khí thì đó là phép
thở 3 thì. Nếu chỉ Nạp và Xả không thôi thì đó là phép thở 2 thì. Các Ðạo Gia thường áp
dụng lối thở hai thì và lấy thư giãn là chủ yếu. Những người bị bệnh do cao huyết áp, bệnh
Tim mạch, bệnh Hen Suyễn chỉ nên thở 2 thì. Thở thật đều, nhẹ và êm. C. Thở Ngực (Còn
gọi là Thở Nghịch): Lúc Nạp Khí, Ngực căng lên, Bụng thót lại. Lúc Xả Khí, Ngực xẹp
xuống, Bụng hơi phình ra. Phép Thở Nghịch rất tốt cho Phế Nang Thượng, tạo sự cường
tráng. Người mới tập thở mỗi ngày nên chia làm nhiều lần, mỗi lần khoảng 5, 10 phút và
thật đúng giờ, trong tư thế Ði - Ðứng - Ngồi - Nằm đều được cả. Khi đã thở quen, dần dần
tăng thời gian tập lên. Những nhà Khí Công chuyên nghiệp họ thở hầu như suốt ngày, dĩ
nhiên trừ lúc ăn no, làm việc nặng, ngủ nghỉ. Ðây mới chỉ là những cách thở căn bản trong
Khí Công. Thở đúng cách theo các tư thế khác nhau là chúng ta bắt đầu bước vào con
đường luyện tập Khí Công hay Nội Công vậy. Khí Công Bài Hai - Phương Pháp Luyện Khí
VS. Trần Huy Phong Khí là nguồn năng lực sống của con người (vital energy). Có hai loại
Khí: Khí Tiên Thiên do cha mẹ truyền thụ, Khí Hậu Thiên do ta tiếp thụ qua dinh dưỡng và
môi trường sống. Khí luân lưu khắp cơ thể, qua các đường Kinh Mạch vào lục phủ ngũ tạng.
Khí biểu hiện dưới cả hai dạng vật chất và tinh thần (các nhà khoa học đã dùng máy móc để
thí nghiệm và xác minh điều đó), nhưng với mắt thường ta không nhìn thấy được.Không
bao giờ được lầm lẫn Khí và Khí Trời (tức không khí), vì không khí (air) chỉ là một trong
những phương tiện, dùng để hô hấp trong khi Luyện Khí. Võ lâm Trung Nguyên thường
truyền tụng một câu nói rất nổi tiếng: Lực bất đả quyền Quyền bất đả công Luyện vũ bất
luyện công Ðáo lão nhất trường không. Có nghĩa là "người chỉ có sức khỏe không thôi thì
không thể đánh người giỏi quyền pháp, và người có quyền pháp không thắng được người có
Khí Công. Tập võ mà không luyện Khí Công thì khi về già sẽ không còn gì nữa". Những
Phương Pháp Thở Thông Thường Ðể Chuẩn Bị Luyện Khí Lưu ý: Thở đúng phương pháp
là phần cơ bản của việc luyện Công. Thở hàng ngày là thở tự nhiên, thở vô thức. Thở Khí
Công hay Nội Công là thở có ý thức, thở theo phương pháp. Các bài thở thông thường này,
chưa cần thiết phải áp dụng những phương pháp Nhập Tĩnh, Thu Công. Tư Thế: Trong khi
luyện thở, có thể Nằm - Ngồi - Ðứng đều được cả, nhưng bao giờ cũng phải cho đầu, cổ và
xương sống thật thẳng thì Khí mới có thể lưu thông được. Nằm: trên một mặt bằng và cứng
(không nệm, không gối đầu), hai tay để úp, xuôi theo thân mình. Hai chân duỗi thẳng, gót
chân chạm nhau, mũi bàn chân ngả ra hai bên. Tư thế nằm áp dụng cho những người sức
khỏe quá yếu, hoặc những người thiếu máu, không thể ngồi lâu được. Ngồi: ngồi xếp bằng
theo lối bán già hay kiết già tùy ý, cũng có thể ngồi trên ghế, không dựa lưng, hai chân để
xuôi xuống sàn một cách tự nhiên, ngay ngắn, hai tay buông xuôi xuống hoặc để trên hai
bắp vế. Ðiềuquan trọng là phải giữ cho đầu, cổ xương sống xuống đến hậu môn ở trên một
đường thẳng. Ngồi là tư thế đúng nhất và tốt nhất cho việc Luyện Khí´. Ðứng: Hai chân
đứng song song, dang rộng khoảng 25cm, cho vững, hai tay buông xuôi theo thân người, hai
đầu gối hơi chùng xuống một chút, nặng ở hai gót chân, buông lỏng hai vai. Tư thế đứng
dùng để tập luyện nhiều động tác quan trọng. Dù ở tư thế nào, thân, vai, bụng đều buông
lỏng, thoải mái. Trước khi thở phải gạt bỏ hết mọi ý nghĩ, tập trung tinh thần vào hơi thở.
Trước khi Luyện Khí nên biết Thư Giãn. Không biết Thư Giãn thì kết quả Luyện Khí sẽ bị
giới hạn rất nhiều: Thư giãn Cơ Bắp: buông lỏng tất cả dường gân, thớ thịt: từ đầu ngón tay
cho tới tứ chi, vai, bụng và toàn thể thân người, coi như toàn thân mềm nhũn ra, không còn
một trương lực nào cả. Thư giãn Tâm Thần: để bộ não từ từ tan biến đi, không còn một ý
thức nào nữa, không nghe, không thấy, không biết gì nữa, cứ để tâm chìm vào hư vô... Mới
đầu khó thực hiện, nhưng sau sẽ quen dần. Ðộng tác Thư Giãn sẽ giúp ta thấy nhẹ nhàng,
khoan thai, dễ chịu sau những giờ làm việc căng thẳng. Thư giãn thoải mái xong mới bắt
đầu tập luyện. I. Thở Bụng (còn gọi là thở Thuận): Phương pháp thở bụng 2 thời liên tục:
ngồi bán già hay kiết già, hay ngồi trên ghế hoặc đứng, hoặc nằm trên mặt phẳng và cứng,
không gối đầu, mục đích giữ cho đầu, cổ, lưng thật thẳng, hai tay buông xuôi. Nạp Khí: Từ
từ hít hơi vào thẳng bụng dưới theo phương pháp: đều, nhẹ, êm, sâu (khi đầy, bụng hơi
phình ra). Xả Khí: ngay khi đó, từ từ thở ra cũng đều-nhẹ - êm và thở ra hết. Ghi chú quan
trọng: - Hít vào và thở ra đều bằng mũi. - Công thức: mới tập theo công thức 3-3 (nghĩa là
hít vào trong 3 giây và thở ra cũng đúng 3 giây, nghĩa là thở 10 vòng trong 1 phút. Cách
đếm: ba trăm lẻ một, ba trăm lẻ hai, ba trăm lẻ ba... cứ đếm đều đặn là rất đúng, nếu cần lấy
đồng hồ ra căn lại cách đếm cho chính xác hơn), dù ta có thể tập dài hơn cũng đừng cố, phải
tập ít nhất trong 3 tuần lễ mới có thể tăng dần. Về sau, khi đã tập luyện vững vàng rồi, ta có
thể theo công thức: 5-5 (tức 5 vòng thở ra một phút) hoặc 6-6 (tức 6 vòng thở trong một
phút). Một người bình thường, thở trung bình 15 vòng trong 1 phút, nếu nay ta thở chỉ còn
10 vòng/phút là đã khá tốt rồi. So sánh với nhịp thở của một loài động vật: gà mái 30
nhịp/phút, chó 28 nhịp/phút, mèo 24 nhịp/phút, ngựa 16 nhịp/phút, rùa 2 nhịp/phút. Nếu
nhiều công phu tập luyện, sau này ta có thể thở từ 2 nhịp hay 1 nhịp trong một phút thì tuổi
thọ của ta có thể tăng lên như loài rùa. Mặt khác, khi thở chậm, nhịp tim cũng sẽ đập chậm
lại và đều hơn. Giả thử nhịp tim đang từ 90 giảm xuống 60 lần/phút, tức là tiết giảm được
30 lần/phút. Nếu tính trong một năm thì sẽ tiết giảm được: 30 lần x 60 x 24 x 365 ngày =
15,768,000 lần. Tập đúng: thân thể tráng kiện, da mặt hồng hào, sáng láng, mắt sáng, tinh
thần thoải mái dễ chịu. Tập sai: Nồng độ CO2 trong máu quá cao, gây ra các triệu chứng dễ
nhức đỉnh đầu và vùng gáy. Tim bị hồi hộp, ăn không tiêu... gặp trường hợp này, xả trong
một tuần lễ sẽ khỏi (xem cách XẢ ở phần Thụ Công - đoạn chót bài 4). Phương pháp thở
bụng 3 thời: công thức3-3-3 hoặc 4-4-4. Nghĩa là Nạp Khí trong 3 giây. Sau đó dồn khí
xuống Ðan Ðiền (tức huyệt Khí Hải - cách lỗ rốn khoảng từ 3 tới 4 cm), ngưng tụ khí tại đó
trong 3 giây, làm cho đan điền căng lên, đồng thời ta nhíu hậu môn và đường tiểu tiện lại.
Sau đó, buông lỏng tất cả và từ từ Xả Khí ra trong 3 giây, cho không khí ra hết, xả xong lại
tiếp tục Nạp Khí, thở cho vòng kế tiếp, liên tục không ngừng. Sự ngưng tụ khí tại Ðan Ðiền
này rất quan trọng sẽ giải thích sau. Phương pháp thở bụng 4 thời: công thức 3-3-3-3 về sau
khi thở đã quen có thể áp dụng công thức 4-4-4-4 hoặc cao hơn nữa (nhưng đừng cố quá sẽ
có hại!). Nạp trong 3 giây, ngưng tụ tại Ðan Ðiền trong 3 giây, nhíu hậu môn và đường tiểu
tiện lại, như nói ở đoạn trên. Sau đó buông lỏng tất cả, Xả (tức thở ra nhẹ, đều, êm trong 3
giây cho hết không khí). Khi bụng đã xẹp hết hơi, ta Bế Khí, tức là ngưng thở hoàn toàn, để
bụng trống rỗng trong 3 giây... rồi lại tiếp tục Nạp Khí cho vòng kế tiếp. Ghi chú: Việc thở
phải điều hòa, liên tục, nhịp nhàng và bao giờ cũng phải Êm - Nhẹ - Ðều - Dài. Thở hấp tấp,
vội vàng, cốt cho đủ số là hoàn toàn vô ích! Nên khai thác triệt để hơi thở trong ngày: nếu ta
chỉ tập thở trong những buổi chính thức theo đúng nghi thức, thì nhiều lắm, mỗi ngày, ta
cũng chỉ tập được hai buổi (mỗi buổi khoảng nửa giờ mà thôi) và tất nhiên kết quả chỉ có
giới hạn. Nhưng theo lối thở phổ thông trình bày ở trên, ta có thể thở bất cứ lúc nào, bất cứ
tại đâu, tại văn phòng, trong xưởng, trong phòng khách, tại nơi đang làm việc v.v... Ta khai
thác được rất nhiều dịp thở trong ngày mà những người xung quanh không hay biết, theo
kiểu "tích tiểu thành đại", lâu dần thành thói quen. Càng thở nhiều càng thấy thoải mái dễ
chịu không bị mệt mỏi, căng thẳng, chán nản, mấttinh thần... Tất nhiên không nên thở lúc ăn
no, uống say hoặc lúc làm việc nặng. II. Thở Ngực (còn gọi là thở nghịch): Ðây là phương
pháp thở phổ thông trong các môn thể thao, điền kinh của Tây phương. Phương Pháp Khi
Nạp Khí, ta dồn không khí lên ngực trên, bụng sẽ thót lại. Lúc Xả Khí, ngực sẽ xẹp xuống,
bụng hơi phình ra. Phép thở nghịch tốt cho Phế Nang Thượng, làm cho ngực nở nang,
nhưng không hữu dụng cho phương pháp tập KHÍ CÔNG. Lý giải theo Y-học Tây phương:
Khi ta tập các cơ bắp như tập tay, tập chân, tập cổ, tập ngực v.v... ta thường dùng các dụng
cụ như tạ, dây kéo, para fix, parallel, hoặc hít đất, nhẩy xổm, bơi lội v.v... Nhưng nếu ta
muốn tập các bộ phận bên trong như Tim, Gan, Tì, Phế, Thận (ngũ tạng) hoặc Dạ Dầy, Mật,
Bàng Quan, Tam Tiêu, Ruột Non, Ruột Già (lục phủ)... nhất là các Kinh Mạch và Thần
Kinh, thì chúng ta tập ra sao? Người xưa dạy ta tập bằng cách Thở Khí Công: khi ta Nạp
không khí vào phần Hạ Phế (phổi dưới) - nói là thở Bụng, nhưng thực tế, không bao giờ
không khí có thể vào thẳng bụng được. Không khí vào phần Phổi dưới, nó sẽ nở ra, đẩy Cơ
Hoành và Cơ Bụng xuống, làm cho Lục Phủ Ngũ Tạng bị ép nhẹ xuống. Khi ta Xả Khí, Cơ
Hoành và Cơ Bụng lại nâng Lục Phủ Ngũ Tạng lên. Như vậy, toàn bộ các cơ quan trong
người ta cứ liên tục bị nhồi lên, ép xuống một cách nhẹ nhàng, nhu nhuyễn, như vậy các bộ
phận bên trong của ta đã được "thoa bóp bằng hơi một cách vô cùng êm ái". Nói cách khác,
Lục Phủ Ngũ Tạng của ta đã được tập luyệnbằng những đệm hơi rất vi tế. Một khi các bộ
phận trong người đã được tập có phương pháp như thế thì tất nhiên chúng sẽ trở nên linh
hoạt, không bị u trệ và hoạt động tốt hơn, do đó Kinh Mạch của ta sẽ vận hành đều hòa hơn.
Mặt khác, vì phải tập trung tinh thần, không suy nghĩ vẩn vơ, điều này sẽ giúp cho Thần
Kinh của chúng ta vững vàng, Tâm không bị giao động, âm dương được quân bình. Tập như
thế, tức là Tập Bên Trong - Công Phu Tập Luyện Bên Trong- Tức là Tập Nội Công vậy.
Ghi chú: Nếu chịu khó tập Thở Nội Công liên tục đều dặn, sau 3 tháng sẽ có kết quả cụ thể:
người khỏe mạnh, năng động, vui tươi, giảm lượng đường trong máu, giảm cholesterol,
giảm huyết áp (nếu có), ăn uống, tiêu hóa tốt, sinh lý mạnh và có thể chữa khỏi những
chứng bệnh thông thường.

Khí Công Bài Ba - Luyện Khí VS. Trần Huy Phong Khí Công của Vovinam - Việt
Võ Ðạo, có những nét đặc thù riêng, mục đích để luyện Tâm Thân theo nguyên lý Cương
Nhu Phối Triển. Chủ yếu luyện Khí Công để Dưỡng sinh, bảo kiện, tăng cường thể lực để tự
chữa một số bệnh cho chính bản thân và nếu khá hơn, có thể phát công để trị bệnh cho
người khác. Ðặc biệt là có khả năng tập trung sức mạnh của Tâm Thân, áp dụng trong tự vệ
và chiến đấu. Tôi đã dự định viết một cuốn "Nội Công Nhập Môn Việt Võ Ðạo" từ mấy
năm trước, nhưng không may tôi bị lâm trọng bệnh, nên chưa thực hiện được. Do yêu cầu
của một số môn sinh, đề nghị tôi viết tiếp một vài bài nữa sau bài "Khái Lược Về Khí Công"
đăng trong tập san Việt Võ Ðạo - Trở Về Nguồnxuất bản năm 1993. Mặc dù đang tiếp tục
điều trị bệnh tại Pháp (đợt 3), tôi cũng cố gắng đáp ứng lời yêu cầu của các bạn. 1. Môi
Trường Tập Môi trường tập rất quan trọng, để tránh những tác động của khung cảnh từ bên
ngoài có thể tác động không tốt vào cơ thể. Không gian: Yên tĩnh - Sạch sẽ - Thoáng mát
(đừng để bị ngoại cảnh quấy rầy, nhất là những thứ ảnh hưởng tới Ngũ Quan và cần nơi an
toàn...) Không nên ngồi tập chỗ có gió lùa. Khi trời giông bão, sấm sét, mưa to, điện trường
xung quanh biến động quá nhanh. Nên ngồi tập trên một tấm chiếu hay một tấm mền mỏng.
Thời gian: Người xưa chia thời gian theo giờ sinh thái rất phức tạp, ngày nay ít ai theo được.
Tốt nhất là nên tập vào lúc bình minh, hoặc vào những giờ rảnh rỗi, không bị công việc chi
phối là được. Không nên luyện công trong lúc ăn no, uống say, chỉ tập khi bụng đã nhẹ (sau
bữa ăn khoảng 2 giờ). Không tập khi đau yếu, hoặc khi làm việc quá mệt mỏi. Không giao
hợp trước và sau buổi tập. Uống một ly nước đun sôi để nguội trước và sau buổi tập. 2.
Chuẩn bị tư tưởng Trước khi tập thở Nội Công, điều quan trọng trước hết là phải chuẩn bị
Y¨ Niệm và Tư Tưởng: hãy buông bỏ tất cả... không còn hình ảnh nào vương vấn trong tâm
ta nữa, không lo lắng, ưu tư, yêu ghét gì nữa... cuộc đời dù có ghê gớm đến đâu, ta cũng nên
"vứt bỏ ra ngoài trong chốt lát, để Tâm được thực sự an bình, thư thái (điều Tâm). 3. Tư thế
mẫuHướng ngồi nên theo hướng Nam Bắc (quay mặt về hướng Bắc cho hợp với Ðịa từ,
nhưng cũng không cần quan trọng hóa). Ngồi kiết già hay bán già đều được cả, miễn sao
thấy thoải mái. Áp dụng các nguyên tắc sau: Lưng thẳng, cổ thẳng, đầu ngay ngắn, cằm hơi
thu lại. Bụng lỏng, hai vai và hai tay buông lỏng, toàn thân thư giãn (điều thân) cho hai
mạch Nhâm Ðốc và 12 kinh thông. Miệng ngậm để giữ Khí, lưỡi cong đặt trên vòm ếch để
thông giữa hai mạch Nhâm Ðốc, nếu có nước miếng thì nuốt đi. Hai lòng bàn tay để ngửa,
chồng lên nhau, đặt ở vị trí bụng dưới. Con Trai tay trái chồng lên trên, con Gái tay phải
chồng lên trên. Mắt nhắm để định thần, tư tưởng tập trung dùng Ý dẫn Khí, vì vậy phải
thuộc vị trí của các đại huyệt (coi bảng hướng dẫn). Ðầu tiên hơi thở phải tự nhiên, đều đặn
(điều Tức). Nhập Tĩnh: Tập trung tinh thần, ta nhẩm đọc bài Kệ, trong ý: Lưng thẳng, vai
mềm, bụng lỏng ra, Gát phăng ý nghĩ khỏi đầu ta, Ðiều hơi, vận khí theo phương pháp, Óc
cố, tâm yên, tiến rất xa. (Óc cố có nghĩa là đầu óc chỉ tập trung cố định vào một điểm như
hơi thở chẳng hạn). Nếu Tâm vẫn chưa thực sự yên tĩnh, ta nhẩm đọc bài Kệ sau đây: Chẳng
mừng giận, cũng không yêu ghét, Chẳng thương xót, cũng không lo buồn, Ðã không ham
muốn, có chi sợ hãi, Ðể lòng thanh thản, an nhiên tự tại.4. Luyện Công Khi Tâm hồn đã
thực sự đi vào yên tĩnh và thoải mái, ta bắt đầu luyện Công theo phương pháp 3 thời hoặc 4
thời, nhưng theo các nguyên tắc sau đây: 3-6-3. Mượn hơi thở không khí bằng mũi, thở Nhẹ
- Êm - Dài, nhưng thực tế dùng ý thở bằng toàn thân. Tất nhiên vẫn thở như bài luyện thở
Nội Công số 2, nhưng không quan tâm nhiều đến hơi thở (bằng khí trời) như trước mà thở
gần như vô thức. Nhưng điểm chủ yếu là Thở Bằng Ý, thở bằng tất cả các huyệt đạo, bắt
đầu thở từ huyệt Bách hội (đỉnh đầu), thở bằng tất cả các huyệt cao trên đầu, thở bằng lỗ tai,
thở bằng các huyệt Dũng Tuyền (giữa gan bàn chân), bằng các huyệt Lao Cung (giữa gan
bàn tay), thở bằng tất cả những lỗ chân lông, dưới hạ bàn, từ hậu môn, bộ phận sinh dục, từ
huyệt Hội Âm, Trường Cường và các huyệt đạo khác... ta hấp thụ được Ðịa Khí v.v.. nghĩa
là toàn thân đều thở. Thở như thế, có nghĩa là toàn bộ cơ thể ta đã được hấp thụ được nhiều
Tinh Khí của trời đất, của Vũ Trụ, của các tia alfa, các tia điện từ của trái đất và các hành
tinh khác... Ta dồn tất cả các khí "Âm Dương" của trời đất ấy, tích tụ vào Ðan Ðiền, nén
thành một trái cầu ngũ sắc, to như một quả cam. Ta vận hành cho trái cầu này quay tròn
trong Ðan Ðiền, theo chiều quay của kim đồng hồ và ngược lại. Trái cầu này sẽ phát ánh
sáng, soi sáng Lục Phủ Ngũ Tạng của ta, rồi soi sáng khắp các Kinh Mạch và cơ thể ta, có
thể đó chỉ là do ta tưởng tượng ra mà cũng có thể là thật. ánh sáng đó mỗi lúc một sáng, soi
toả khắp cơ quan trong người. Hiện tượng này có thể chỉ là ý niệm, nhưng cũng có thể là sự
thật. Người Tây phương sẽ khó có thể cảm nhận được hiện tượngnày. Trái cầu ấy chính là
Khí Hậu Thiên của Trời Ðất, kết hợp với Khí Tiên Thiên vốn đã sẵn có trong cơ thể ta để
tăng cường, phối hợp, làm thành Chân Khí, mà Chân Khí là cái gốc của sự sống, nó lưu
hành, cung ứng cho các Kinh Mạch và Nội Tạng của ta. Trái cầu "Chân Khí" đó, sau khi
cung ứng cho các nội tạng và Kinh Mạch, nó sẽ mờ dần và nhỏ dần, chỉ còn là một điểm
sáng... Nhưng sau đó ta lại tiếp tục thở, tiếp tục Nạp... trái cầu lại càng lớn và sáng trở lại...
và cứ thế tiếp tục mãi cho đến hết buổi tập. Trung bình, mỗi buổi tập ít nhất cũng phải kéo
dài trong 30 phút, ta sẽ tiếp thụ được thêm Chân Khí.

Khí Công Bài Bốn - Luyện Vòng Tiểu Chu Thiên VS. Trần Huy Phong Ghi chú:
Vòng Tiểu Chu Thiên (còn gọi là Vòng Nhâm Ðốc Mạch) xưa kia được coi như một
phương pháp Khí Công bí truyền vì Luyện Vòng Tiểu Chu Thiên duy trì sự quân bình Âm
Dương. Khí luôn vận hành theo vòng khép kín, không bao giờ ngừng, tầm mức tác dụng rất
cao vào toàn bộ Kinh Mạch và chức năng của Phủ Tạng. Hướng đi của hai mạch Nhâm Ðốc
Mạch Nhâm thuộc Âm (thuộc phía trước thân ngực, bụng của ta). Mạch Ðốc thuộc Dương
(thuộc phía sau lưng, chạy qua đỉnh đầu của ta). Theo luật Âm giáng (đi xuống), Dương
thăng (đi lên) thì: Mạch Nhâm sẽ đi từ huyệt Thừa Tương (huyệt nằm ở giữa cằm, cách môi
dưới độ 1cm), đi xuống theo đường giữa bụng, xuống đến huyệt Hội Âm (huyệt Hội Âm
nằm ở chính giữa bộ phận sinh dục và hậu môn).Mạch Ðốc sẽ đi ngược lên, đi từ huyệt
Trường Cường (huyệt này nằm ở điểm chót của đốt cột sống cuối cùng, ngay đầu hậu môn),
chạy ngược lên, qua đỉnh đầu, xuống tới huyệt Ngân Giao (là huyệt nằm ở chính giữa vòm
miệng, thường gọi là hàm ếch). Vì vậy, trong tập luyện vòng Tiểu Chu Thiên, cũng như
luyện các phương pháp Khí Công khác, lưỡi luôn phải uốn cong, đặt lên nóc hàm ếch, tại
vùng huyệt Ngân Giao, nhằm khép kín vòng Âm Dương, để Khí không bị phân tán. Nhập
Tĩnh: Ngồi bán già hay kiết già, hoặc ngồi trên ghế, từ huyệt Bách hội (đỉnh đầu) qua sống
lưng, xuống huyệt Hội Âm đều nằm trên một trục thẳng. I. Luyện Nhâm Mạch và Ðốc
Mạch Riêng (áp dụng phương pháp thở hai thời) Luyện Nhâm Mạch Thở vào: từ từ dẫn Khí
theo Mạch Nhâm, đi từ huyệt Thừa Tương xuống huyệt Hội Âm. Thở ra: từ từ dẫn Khí theo
Mạch Nhâm, đi từ huyệt Hội Âm đi ngược lên huyệt Thừa Tương. Luyện Mạch Ðốc Thở
vào: dẫn Khí từ huyệt Trường Cường, ngược lên theo cột sống, qua đỉnh đầu, tới huyệt
Ngân Giao (vòm miệng) Thở ra: dẫn Khí từ huyệt Nhân Trung (huyệt này nằm giữa vùng
môi trên, ngay giữa sống mũi), lên đỉnh đầu, xuống gáy, chạy dọc theo cột sống, xuống
huyệt Trường Cường. II. Luyện vòng Nhâm Ðốc Chung Thông suốt hai mạch mà không
cảm thấy vướng víu, do đó cần tập trung Ý để Khí có thể chạy dễ dàng.a. Phương pháp thứ
nhất: Luyện vòng Tiểu Chu Thiên theo hai hơi thở (mỗi hơi hai thời). ** Hơi thở thứ nhất:
Thở vào: dẫn Khí từ huyệt Thừa Tương, xuống tới huyệt Khí Hải, hay Ðan Ðiền. Thở ra:
dẫn Khí từ huyệt Khí Hải xuống Hội Âm rồi theo Ðốc Mạch lên huyệt Trường Cường, đồng
thời co thắt hậu môn để đẩy Khí lên. ** Hơi thở thứ hai: Thở vào: dẫn Khí từ huyệt Trường
Cường cho tới huyệt Ðại Chùy (huyệt này nằm dưới các đốt xương cổ, nhưng ngay ở đốt
xương sống đầu tiên, khi ta cúi đầu xuống, ở phần giáp xương cổ và lưng có một cục xương
nhô cao, sát bên dưới đốt xương đó là huyệt Ðại Chùy). Thở ra: dẫn Khí từ huyệt Ðại Chùy
cho tới huyệt Nhân Trung. b. Phương pháp thứ hai: Luyện nguyên vòng Tiểu Chu Thiên
bằng một chu kỳ thở Thở vào: tưởng tượng Khí nhập vào huyệt Thừa tương, dẫn xuống qua
huyệt Khí Hải, tới Hội Âm (trong 5 giây) Thở ra: Co thắt hậu môn, đẩy Khí từ huyệt Hội
Âm, ngược theo cột sống, chạy lên đỉnh đầu (huyệt Bách Hội), rồi tới huyệt Nhân Trung
(trong 5 giây). Cứ thế tiếp tục không ngừng nghỉ cho đến hết buổi tập. Ðến khi kết thúc buổi
tập, lúc thở ra, ta sẽ dẫn Khí xuống thẳng Ðan Ðiền. c. Phương pháp thứ ba: Luyện hai vòng
Tiểu Chu Thiên bằng một chu kỳ thở: Thở vào: dẫn Khí đi từ huyệt Thừa Tương, chạy suốt
hai mạch Nhâm Ðốc đến huyệt Nhân Trung. Thở ra: cũng dẫn Khí chạy suốt hai mạch
Nhâm Ðốc, nhưng ở vòng cuối, dẫn Khí chạy thẳng xuống Ðan Ðiền.d. Phương pháp thứ
tư:Luyện nhiều vòng Tiểu Chu Thiên bằng một chu kỳ thở ba thời: Tạm ngưng thở: dẫn Khí
chạy lướt qua vòng Nhâm Ðốc mạch. Thở vào: tụ Khí đầy ở huyệt Thừa Tương. Ngưng thở:
Tập trung ý, dẫn Khí chạy theo đường Nhâm Ðốc mạch từ 3 đến 4 lần nhanh. Ở vòng cuối
cùng dẫn Khí xuống Ðan Ðiền. Thở ra: tưởng tượng Khí tỏa ra khắp vùng bụng dưới. e.
Phương pháp thứ năm:Vận Khí chạy ngược vòng Nhâm Ðốc Mạch. Sau khi đã tập thành
thục, ta có thể: 1. Vận Khí chạy ngược với đường đi tự nhiên trên vòng Nhâm Ðốc: Thở
vào: Vận Khí từ huyệt Hội Âm ngược lên đường giữa bụng, lên huyệt Thừa Tương (luyện
Nhâm Mạch). Thở ra: vận Khí từ huyệt Thừa Tương, lên mặt, qua đỉnh đầu, chạy dọc xương
sống xuống Hội Âm, về Ðan Ðiền. 2. Vận Khí chạy ngược xuôi, qua lại, tới lui trên suốt
vòng Nhâm Ðốc: Có khi, chỉ cần dùng lưỡi, để lên vòm miệng (hàm ếch), hơi thở tự nhiên
bình thường, tự động vòng Nhâm Ðốc vận hành chạy liên tục không ngừng nghỉ. Tất nhiên
phải đạt tới giai đoạn nhuần nhuyền lắm thì mới có thành tựu như vậy được. Ghi chú:
Những huyệt khó vượt qua trên mạch Ðốc: Huyệt Trường Cường (nằm ở đốt xương cùng
của cột sống), từ Hội Âm lên Trường Cường phải qua hậu môn, là một đường cong... vì thế,
ta phải co thắt hậu môn để giúp đẩy Khí lên. Huyệt Mệnh Môn (nằm trong khối thận,
khoảng chính giữa trục Ðan Ðiền và cộtxương sống.) Khi dẫn Khí qua Mệnh Môn, ta chỉ
cần tập trung Y¨, cho chạy chậm lại một chút là có thể vượt qua dễ dàng. Huyệt Não Hộ
(nằm trên vùng gáy, dưới Bách Hội, ngang với huyệt Ấn Ðường ở phía trước), vì Khí phải
vượt qua đường hõm, vòng cung của gáy nên khó đi, nhưng nếu ta tập trung Y¨, cho chạy
chậm lại một chút thì Khí sẽ vượt qua dễ dàng. Người mới tập vòng Tiểu Chu Thiên, lúc
đầu chưa thấy cảm giác gì. Nhưng sau thời gian tập quen, ta tập trung được Tâm Ý, dẫn Khí
đi đúng hướng, không bị phân tán, lúc đó ta sẽ thấy một luồng chân Khí chạy thành vòng
cung trên suốt vòng Nhâm Ðốc. Tầm quan trọng của vòng Nhâm Ðốc: luyện vòng Nhâm
Ðốc là sự giao hòa giữa Tiên Thiên (mạch Ðốc vốn là di sản của cha mẹ), và Hậu Thiên
(mạch Nhâm được tiếp thụ từ đời sống bên ngoài). Luyện Tiểu Chu Thiên làm thanh khiết
và quân bình Âm Dương, tránh được sự rối loạn chức năng của Phủ Tạng. Luyện vòng Tiểu
Chu Thiên là bước đầu tác động vào Tinh - Khí - Thần, tiến tới bài tập để "Tinh biến thành
Khí, Khí biến thành Thần" Khí Công Bài Năm - Luyện Tinh - Khí - Thần và Nội Lực VS.
Trần Huy Phong A. Tinh - Khí - Thần Tinh, Khí, Thần là tam Bảo của con người, không có
chúng thì chúng ta không thể tồn tại được. Tinh - Khí - Thần cũng đều có Tiên Thiên và
Hậu Thiên, do đó đều có thể luyện tập để trở nên tăng tiến, sung mãn. Tinh Tiên Thiên: (còn
gọi là Nguyên Khí) là tinh chất cốt lõi của con người, vốn là do Âm Dương của cha mẹ
truyền lại, vì vậy, Tinh là nguồn mạch của sự sống, nó duy trì tínhchất di truyền của gene
DNA. Tinh Hậu Thiên: (còn có tên gọi là Thiên Ðịa Khí và Thủy Cốc Khí) có chức năng
duy trì và bù đắp cho sự tiêu hao của Tinh Tiên Thiên, do ta hấp thụ từ trời đất (tiết thực,
dinh dưỡng, thu nạp trong những môi trường sống nói chung). Phân biệt như vậy cho có
nguồn gốc, thực ra Tinh Tiên Thiên hay Tinh Hậu Thiên cùng giao hòa làm một và ta gọi
chung là Tinh Khí. Sách Hoàng Ðế Nội Kinh cho rằng Tinh tích tụ tại Thận, điều này cũng
không sai vì Thận nên hiểu là cơ quan bao hàm cả cơ quan sinh dục, trong đó có tinh hoàn
và buồng trứng. Hai Khí giao hòa với nhau, bổ túc cho nhau để tạo thành một dạng chung
gọi là Chân Khí, hàng ngày luân lưu trong các kinh mạch và Lục Phủ Ngũ Tạng của ta.
Chân Khí lại chia thành: Vinh Khí: luân lưu trong các Kinh Mạch và Tạng Phủ với chức
năng điều hòa và tăng cường cho sức mạnh của Kinh Mạch và Nội Tạng. Vinh Khí mạnh
hay yếu tùy thuộc rất nhiều và tiết thực, vì vậy chúng ta phải rất cẩn thận trong việc ăn
uống.Vệ Khí: không đi theo Kinh Mạch mà lại đi vào da thịt. Vệ Khí khuếch tán mạnh có
thể đi vào vùng rỗn của khoang ngực, bụng. Tập thở bằng Cơ Hoành (ở bài 2) có thể làm
cho Vệ Khí rất có lợi trong luyện tập võ thuật, nó giúp cho gân, xương, cơ bắp của ta trở
nên vững chắc và bảo vệ thân thể ta chống chọi với những thay đổi của môi trường xung
quanh (như trong thiết bố sam). Thần là chủ đạo của não. Thần có liên quan mật thiết với
Tâm, nên mới nói Tâm tàng Thần. Ðan Ðiền của Thần đóng ở Ấn Ðường và phía sau là
Bách Hội (đỉnh đầu). Nói tóm lại, Tinh là gốc của sự sống, được nuôi dưỡng hàng ngày bởi
Khí sinh sau và chịuảnh hưởng của Chân Khí và Nguyên Khí. Mục tiêu tối hậu của Khí
Công là luyện Tinh thành Khí - Luyện Khí thành Thần (trong dịp khác, tôi sẽ trình bày bài
tập này). Tinh - Khí - Thần xét cho cùng chỉ là một Tinh và Thần chỉ là hai dạng khác nhau
của Khí. Tinh là trạng thái gốc, Thần là trạng thái thăng hoa của Khí. Ba trạng thái này có
liên hệ mật thiết với nhau và có tác động qua lại rất hài hòa. B. Nội Lực Nội lực là sức mạnh
bên trong cơ thể con người, ai cũng có Nội Lực, chỉ nhiều ít khác nhau mà thôi. Nội lực
cũng có hai dạng: bẩm sinh và tự tạo. Rất nhiều người, trời sinh ra đã có sẵn một nội lực phi
thường và cũng không ít người, khi ra đời chỉ có một sức mạnh yếu kém, nhưng nhờ bền chí
luyện tập đúng phương pháp, cũng trở nên những con người có sức mạnh siêu phàm. Cái
gốc của Nội Lực là Tinh - Khí - Thần, nên muốn luyện Nội Lực thì ta phải đi từng bước.
Trước hết luyện Tinh - Khí - Thần, sau đó phải biết phương pháp luyện tập để thúc đẩy nội
lực lên. Ðiều quan trọng là phải biết huy động và tập trung nội lực vào một mục tiêu để "phá
vỡ" hay "bẻ gẫy" những chướng ngại cần thiết, nhất là trong võ thuật. Nội lực thường tản
mát trong khắp cơ thể ta, nhưng thường thường ta không biết sử dụng chúng vào những mục
tiêu mong muốn. Có rất nhiều câu chuyện thực tế được kể lại như sau: có nhiều người khi
gặp cơn nguy khốn, họ đã vượt thoát được sự hiểm nghèo như nhẩy qua một hố sâu rộng
nhiều mét, vượt qua một bức tường 3 mét, phóng mình lên một cành cây cao khi gặp một
con gấu đuổi tấn công, vác được những vật nặng hàng trăm ký khi nhà đang bị cháy, bị trượt
chân trên một tòa nhà cao 33 tầng, phải túm lấy nhau, đu bám trên một bậc cửa sổ và
đãđược thoát chết v.v... nhưng sau đó họ sẽ không thể nào lập lại quá trình đó được nữa, vì
nội lực của họ đã bị phân tán mỏng, không có "yếu tố kích thích để tập trung vào một điểm
hay một vùng" của cơ thể để có thể thực hiện được những mục tiêu mong muốn, tất nhiên,
không phải bất cứ ai cũng có thể tập trung được nội lực trong lúc hiểm nguy như thế, vì
thường thường lúc đó họ "mất tinh thần, có khuynh hướng buông xuôi !" Thường thường
những nhà quán quân trong các môn điền kinh hoặc những võ sĩ chuyên nghiệp, do công
phu tập luyện hàng ngày đã quá nhuần nhuyễn, nên họ có khả năng tập trung nội lực để phát
huy hết khả năng vào đôi chân hay đôi tay... do đó, họ đạt được những thành tích cao. Tuy
nhiên, không phải lúc nào họ cũng làm được những điều mà họ mong muốn, nhiều khi họ
cũng bị "phân tâm, mất tự tin" khiến thành tích của họ bị sút giảm. Chỉ khi nào chúng ta tập
được tới trình độ "tâm ý tương thông", tập trung được toàn bộ nội lực vào một điểm, đột
khởi xuất chiêu thì lúc đó ta mới có thể cho rằng "mình đã tự làm chủ được nội lực của
mình". Muốn phát huy được nội lực cao độ để thực hiện những mục tiêu mong muốn, ta
phải thực hiện được hai yếu tố sau đây: Luyện nội lực thật sung mãn. Tập trung cao độ nội
lực vào một bộ phận của cơ thể để đạt mục đích. 1. Luyện Tinh - Khí - Thần để nâng cao
nội lực. Muốn luyện nội lực thì trước hết phải luyện Tinh - Khí - Thần, vì đó là cái "thế
chân vạc" để nâng cao nội lực. Cũng phải theo đúng quy trình, ngồi bán già hay kiết già,
"Khai Công Nhập Tĩnh", thư giãn, an thần, vứt bỏ mọi tạp niệm v.v... a. Luyện Tinh Nạp
Khí: thở vào từ tất cả các huyệt đạo,tập trung toàn bộ suống vùng bụng dưới (Quan Nguyên
- Khí Hải), từ 5 đến 6 giây, tập trung cao độ ý niệm vào vùng này. Vận Khí: ngưng thở để
thu hút khí trời đất và vận hành để nén chúng thành một "Khối Tinh Chất", quán tưởng khối
đó như một bông hoa sen lớn, thơm và tinh khiết, dùng cơ bụng dưới vận khí cho bông sen
đó quay vòng theo chiều kim đồng hồ, rồi sau đó quay ngược lại, thời gian trong vòng
khoảng 20 giây. Xả Khí: thở ra, buông lõng tất cả cơ bắp, thở ra từ từ, bông sen sẽ tan biến
và loan tỏa ra khắp vùng Quan Nguyên, vùng bụng dưới, theo vòng đôi mạch chạy sang
Mệnh Môn, xuống Trường Cường và chạy ngược lên vùng thận du (Bế Thận). Bế Khí: sau
đó Bế Khí trong 3 giây để Tinh tan biến vào Phủ Tạng, tích lũy và tàng trữ Tinh trong đó. b.
Luyện Khí Luyện Khí ở đây cũng có những điểm như luyện Khí ở bài số ba, nhưng có điểm
khác biệt là tụ Khí để tăng cường trực tiếp cho Nội Lực. Nạp Khí: qua tất cả các huyệt đạo
nạp khí vào trung tâm Ðan Ðiền (Khí Hải) trong vòng 5 giây. Vận Khí: cắn chặt hai hàm
răng, hai nắm tay nắm xiết chặt đến cao độ, cơ bụng dưới căng ra như có một khối đá nặng
hàng trăm ký đang đè xuống... Tất cả tư tưởng và ý niệm đặt hết vào bụng dưới, không một
chút gì có thể làm ta phân tâm trong lúc này... thời gian kéo dài trong 20 giây hoặc hơn (có
thể làm cho ta toát mồ hôi). Xả Khí: buông lỏng cơ bắp thở ra từ từ, để Khí lan tỏa ra khắp
vùng bụng dưới. Thư Giãn hoàn toàn: tất cả Tâm Thần như chết đi, tất cả mọi cơ bắp như
tan rã ra, mềm nhũn ra, dùng hai tay thoa nhẹ vàokhắp vùng bụng dưới - thời gian khoảng
10 giây, sau đó lại tiếp tục nạp Khí để làm chu kỳ tiếp theo. Trung bình Nam làm 7 vòng,
Nữ làm 9 vòng. Vì tập theo chu kỳ này rất tổn hao sức, nên nếu muốn tập nhiều thì phải chia
ra làm nhiều buổi trong ngày mà tập. Chỉ cần tập đều trong 3 tháng, các bạn có thể hít một
luồng khí vào bụng dưới, trương cơ bụng lên và cho những môn sinh khoẻ mạnh tha hồ đấm
cực mạnh vào bụng mà chẳng sao cả. c. Luyện Thần Nạp Khí: Khi đã "Óc cố - Tâm an"
xong, từ huyệt Bách Hội, Nhân Trung, Phong Phủ, Não Hộ, Thái Dương, nói chung là tất cả
các huyệt đạo trên đầu... ta quán tưởng, nạp Khí từ khắp không gian thu vào Bách Hội, kết
lại ở đó thành một vòng hào quang - thời gian 10 giây. Vận Khí: tập trung tư tưởng, ý niệm
cao độ vào Bách Hội, vận hành cho vòng "hào quang" đó xoay nhiều vòng theo chiều kim
đồng hồ và sau đó quay ngược lại - thời gian 10 giây. Xả Khí: sau đó, dẫn một nửa Khí chạy
theo Nhâm Mạch xuống Hội Âm, từ từ buông lỏng, thư giãn và để cho Khí tự bung ra lan
tỏa từ Bách Hội ra khắp không gian, phần kia, lan xuống hạ bàn và đi vào lòng đất - thời
gian 10 giây. Bế Khí: sau đó bế Khí (ngưng thở) trong 5 giây và để cho Bách Hội và tất cả
các huyệt đạo trên đầu như chìm đắm đi, quên hết mọi thứ... và ngay sau đó lại tiếp tục Chu
Kỳ kế tiếp. Trung bình mỗi buổi tập khoảng 24 chu kỳ. d. Luyện Nội Lực Luyện Tinh - Khí
-Thần chính là những phương pháp luyện Nội Lực cơ bản, vì chính chúng là những chất liệu
để gia tăng nội lực. Nhưng sau đây có ba phương pháp mà nếu tập luyện đúng cách thì Nội
Lực sẽ gia tăngnhanh chóng: Ðó là tập luyện 3 vòng xoay trên cơ thể. Vòng xoay thứ nhất là
Xoay Cổ. Vòng xoay thứ hai là Xoay Hai Vai. Vòng xoay thứ ba là Xoay Vòng Cột Sống
Vùng Thắt Lưng. Phương pháp Ðứng trung bình tấn, tập trung hết Tâm Y¨ vào nơi tập
luyện. Nạp Khí đầy bụng dưới - nín thở (Bế Khí). Quay cổ: cắn chặt hai hàm răng, vận tối
đa gân, xương cơ Cổ lên một trương lực thật cao. Từ từ quay cổ sát theo thân người (đầu lúc
nào cũng sát xuống xương vai- lưng - ngực), quay nhanh dần, nhanh dần, sau đó quay
ngược lại... quay cho đến khi nào hơi thể hết, cần phải thở ra thì ngưng. Thở sâu 3 hơi, để
lấy sức và tiếp tục quay vòng thứ hai. Trung bình nam 7, nữ 9. Quay vai: cắn chặt hai hàm
răng, nắm chặt hai tay, vận hết xương, gân ở hai vai và hai tay... quay vòng tay theo hai vai
từ phía sau ra phía trước, mỗi lúc một nhanh dần, sau đó quay ngược lại, cũng nhanh dần.
Khi hơi thở đã hết thì ngưng lại. Tạm ngưng, thở sâu ba hơi để lấy lại sức và tiếp tục quay
vòng thứ hai. Trung bình Nam 7, Nữ 9. Xoay Cột Sống (đây là vòng xoay quan trọng nhất
và cũng khó nhất): cắn chặt hai hàm răng, căng cứng phần bụng dưới, hai tay nắm thật chặt,
dang rộng ra hai bên, cúi gục người xuống, xoay quanh vòng bụng, quanh thắt lưng, từ phải
sang trái, thân người phải bẻ gập sang các phía, lúc ngửa thì lưng song song với mặt đất.
Lúc nghiêng thì sườn phải gập hẳn sang một bên, quay nhanh dần, nhanh dần, sau đó quay
ngược lại, cũng nhanh dần. Khi hơi thở đã hết thì ngưng lại. Tạm ngưng, thở sâu ba hơi để
lấy lại sức, tiếp tục quay vòng thứ hai. Trung bình: Nam 7, Nữ 9.Ðây là ba vòng quay quan
trọng, trong lúc quay phải vận hết Khí lực trong người, tập trung Tâm Y¨ cao độ, nên việc
luyện tập khá vất vả, nhưng nhờ đó mà Nội Lực sẽ được phát triển sung mãn, nhanh chóng.
Những bài tập Khí Công còn nhiều. Ngoài Ðộng Công còn có Tĩnh Công. Trong chương
trình đã được phổ biến (giới hạn) còn có bài Khí Công Quyền, thuộc loại "động công", vừa
ứng dụng để luyện Khí, vừa ứng dụng trong kỹ thuật chiến đấu. Một chương trình khác là
"Nhị Thập Bát Tú," bao gồm 28 tư thế Ðộng Công, luyện tập để dưỡng sinh và tự chữa bệnh
cho mình và cho người khác. Lưu ý: người ta nói "Tập Khí Công rất dễ, ai cũng có thể tập
được, chỉ không có duyên với nó mà thôi, nhưng muốn giỏi về Khí Công thì lại rất khó,"
theo tôi phần đông không chịu tập đều đặn, hoặc Tâm - Y¨ bị phân tán vì công việc (cứ lo ra
vớ vẩn), không thể tập trung được, hoặc đời sống hàng ngày buông thả quá, nào hút thuốc,
chơi khuya, ăn uống tự do quá độ v.v... Tuy nhiên nếu không thể nào theo đúng đươp pháp
độ, thì cứ chịu khó tập thở đúng (theo bài 2) thì cùng giúp cho các bạn được rất nhiều trong
khoa dưỡng sinh, bảo vệ sức khỏe, đó là cũng là một trong những mục tiêu của Môn phái ta.
2.THU CÔNG Sau khi đã Nhập Tĩnh để tập luyện, sau giai đoạn kết thúc buổi tập, ta phải
Thu Công để trở lại trạng thái bình thường. Trước khi Thu Công, phải có ý niệm chuẩn bị
Thu Công. Bước đầu tiên là Xả: phải buông lỏng các khớp toàn thân nhão hết ra, rời rạc ra,
mắt mở nhìn ra xa. Từ từ hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng, nhưng chậm hơn, trung bình
khoảng 20 lần, nhằm thải bớt khí CO2 tích tụ trong máu. Bước hai: dùng song chưởng đẩy
nhè nhẹra như đẩy một cái hộp (thở ra), xong lại co vào cũng nhè nhẹ như thế (trong 20
lần). Bước ba: thoa hai bàn tay vào nhau cho thật nóng, rồi ấp vào hai mắt, tìm cảm giác có
ánh sáng từ lòng bàn tay truyền vào mắt để tăng thị lực. Rồi dùng hai bàn tay vuốt mặt
nhiều lần, rồi vuốt ngược lên đỉnh đầu cho đến khi thấy thoải mái. Bước bốn: duỗi hai chân
ra, dùng hai tay thoa bóp và vuốt mắt trên, rồi mắt dưới, rồi tay này vuốt tay kia, theo chiều
trong rồi chiều ngoài. Bước năm: dùng lưỡi xoay vòng trong vòng miệng nhiều lần, có nước
bọt thì nuốt đi. Bước sáu: hít hơi đầy bụng, xong từ từ cúi gập mình xuống (hai chân duỗi
thẳng) thở ra chậm, lúc nâng người lên thì hít hơi vào (làm khoảng từ 5-7 lần). Chấm dứt
Thu Công

ĐẠT MA TỔ SƯ THIỀN
Vũ Đức, N.D.
"Đạt Ma Tổ Sư Thiền" hay là Thiền Tông Trung Hoa là môn thiền do Tổ sư Bồ Đề
Đạt Ma khai sáng và chuyển hóa từ Thiền Tông Ấn Độ. Thiền Tông Ấn Độ hay còn gọi là
Thiền Tam Muội, cách truyền dạy dựa vào kinh sách Phật. Phật Tổ Thích Ca là vị đầu tiên
thực hiện và chỉ dạy phép Thiền Tam Muội, cũng như những pháp môn của các tông phái
Phật giáo khác. Giai thoại "Niêm Hoa Vi Tiếu" trong lịch sử thiền học có giải thích: "Trong
lúc thuyết pháp cho các đệ tử, Phật Tổ đưa cao lên một cành hoa sen (Niêm hoa). Hầu hết
mọi người đều ngơ ngác, không hiểu việc gì. Ngài Ca Diếp là người duy nhất cảm nhận
được thâm ý của Phật Tổ lúc bấy giờ. Lập tức đáp lại với Phật Tổbằng một nụ cười thông
cảm (vi tiếu)" Thiền Tông Ấn Độ được Đức Phật Tổ tâm truyền cho ngài Ca Diếp từ đó, và
ngài Ca Diếp được nhận truyền y bát, kế thừa nhiệm vụ Tổ sư đời thứ hai. Dần dần, các kế
tổ được truyền thừa y bát đến vị tổ sư thứ hai mươi tám Bồ Đề Đạt Ma, cũng là vị tổ sư sau
cùng của Thiền Tông Ấn Độ. NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH Bồ Đề Đạt Ma là vị tổ sư
Thiền Tông Ấn Độ đời thứ hai mươi tám lúc bấy giờ xã hội Ấn Độ đang bị ảnh hưởng lâu
đời của Bà La Môn Giáo, và tín ngưỡing của dân Ấn, hầu hết thiên nhiều về siêu hình, thần
bí học. Cho nên Ấn Độ lúc bấy giờ, rất thích hợp cho Phật giáo Duy Tông Thức, Chân Như
Tông, Hoa Nghiêm Tông và Không luận Tông. Trái lại, con đường trực chỉ quy nguyên của
Thiền Tông rất khó khăn phát triển tại quê nhà. Do dó, Thiền Tông cần phải tìm đến một
môi trường thích nghi như Trung Hoa. Đúng theo lời di huấn của Tổ thứ hai mươi bảy, ngài
Bát Nhã Đa La (Prajanatra) truyền lại cho Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma như sau: "Sáu mươi năm
sau ngày ta viên tịch, đệ tử nên du hành sang Đông Độ Trung Hoa truyền đạo, vì môi trường
hướng Đông rất thích hợp với Thiền Tông. Theo các học giả Đông Tây, Trung Hoa và các
nước thuộc miền Đông Châu Á là đất dụng võ, rất thích hợp phát triển Thiền Tông, vì phần
lớn người dân bản xứ từng thấm nhuần, và áp dụng tinh thần hòa hợp các tư tưởng Lão
Trang trong cuộc sống hàng ngày. Đây là yếu tố thuận lợi giúp cho tâm hồn con người dễ
trở nên điềm đạm, hào sảng, chân thành, bình thản, quân bình, mẫn tiệp, hài hòa, an nhiên tự
tại, ... Những đức tính căn bản này rất cần thiết, là những viên gạch cốt tủy để xây dựng nền
móng vững chắc cho Thiền Tông.Vào năm 520, đời vua Lương Võ Đế, những ngày đầu tiên
mới đến Trung Hoa, Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma nhận thấy hầu hết những người học Phật chỉ hiểu
theo danh số, hành theo sự tướng "Dĩ danh số vi giải, sự tướng vi hành" (Theo Thiền Sư
Khuê Phong, tác giả sách Truyền Nguyên Chư Thuyên tập). Cũng như các tông phái Phật
giáo tại đây đều có khuynh hướng về tranh luận siêu hình, pháp quan vô thường, phụng trì
giới hạnh, ... Tất cả khuynh hướng này đều là lớp vỏ bên ngoài, những phương tiện để diễn
tả chân lý, giống như ngón tay chỉ trăng của Phật. Do dó, với tư tưởng cách mạng, chặt bỏ
ngón tay chỉ trăng, Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma chủ xướng một đường lối tu hành mới, đặt lại vấn
đề "giác ngộ" cho người Trung Hoa. TÔN CHỈ VÀ YẾU LÝ Với chủ trương bất chấp
phương tiện, kinh sách để đi thẳng vào tâm hồn con người, Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đã sáng
chế ra bốn tôn chỉ thiền như sau: Giáo Ngoại Biệt Truyền, Bất Lập Văn Tự Trực Chỉ Như
Tâm Kiến Tánh Thành Phật Dịch nghĩa tạm là: Truyền Riêng Ngoài Giáo Chẳng Lập Văn
Tự Chỉ Thẳng Tâm Người Thấy Tánh Thành Phật Yếu lý của thiền làgì? Theo ngài chủ
trương: "Thiền là con đường đi thẳng vào tâm hồn con người để đạt chân lý, chỉ thẳng vào
bản chất thể tánh của con người để giải thoát. Thiền không thể nghiên cứu về mặt lý luận
mà phải là những kinh nghiệm sống thực, từđó, để phát sinh ra những trực giác đi thẳng vào
đời sống tâm linh của con người. Do đó, Thiền cũng có thể hiểu là một Đạo sống của con
người. Mọi phương diện của cuộc sống đều nằm trong Đạo Sống. Thí dụ như: - Tinh thần
và thái độ cư xử hợp nhân bản trong cuộc sống của chúng ta đối với con người và vật xung
quanh là Đạo (Nhân đạo hay đạo làm người) – Viết văn, đọc sách, làm thơ, ca ngâm, chơi
nhạc, vẽ tranh, ... để nâng cao tâm hồn văn hóa nghệ tuật, và giáo dục đời sống con người là
Đạo (Văn Đạo như người xưa có câu: Văn dĩ tải đạo) – Luyện tập võ thuật, thể dục và chơi
thể thao là Đạo (Võ đạo). – Nghệ thuật uống trà có Trà đạo. – Thửng thức cảnh vật thiên
nhiên, làm vườn, cắm hoa, trang trí sạch sẽ nhà ở, nấu thức ăn, và cách dùng y phục... tất cả
thích hợp với htời tiết và sức khỏe cá nhân, đều là Đạo (Đạo dưỡng sinh) – Tập trung tinh
thần và thưởng thức niềm vui thú trong các công việc làm hàng ngày, tại nhà hoặc nơi làm
việc cũng là Đạo. Sau cùng, yên lặng cũng là Đạo. Danh từ Thiền là một tiếng giản dị,
nhưng ý nghĩa cao cả của nó lại vượt lên trên tất cả hiểu biết ngoại tâm, sắc tướng của con
người. Chân lý thiền không phải là đối tượng có thể mang ra để thảo luận suông, xuyên qua
sự thông hiểu của hàng trăm kinh sách. Một người dốt nát không hiểu biết chữ nghĩa cũng
có thể đạt được chân lý thiền. Nếu tâm của người đó tự nhận biết được bản tính thực chất
của mình." Hiện nay những sử sách ghi chép lại những lời thuyết giảng của Tổ sư Bồ Đề
Đạt Ma gồm có: Thiếu Thất Lục Môn, các bài thuyết pháp, các bài kệ phú pháp,... "Thiếu
Thất Lục Môn" còn gọi là "Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất" là sách ghi chép lại sáu môn đi
vào đạo pháp Đạt Ma Tổ sư Thiền Tông như:Tâm Kinh Tụng (Bộ Kinh Bát Nhã Ba-La-
Mật) Phá Tướng Luận (Luận Về Pháp Phá Tướng) Nhị Chũng Nhập (Hai Nẽo Đường Đi
Vào Đạo Pháp) An Tâm Pháp Môn (Phép An Tâm) Ngộ Tánh Luận (Phép Thấy Tánh
Thành Phật) Đạt Ma Huyết Mạch Luận (Phép Luận Chính Yếu Của Đạo Phật) Sau đây là
bài kệ phú pháp của Đạt Ma đọc trong lúc truyền y bát cho ngài Nhị Tổ Huệ Khả (tức Thần
Quang) "- Ngôn Bản Lai Tư Thổ - Thọ Pháp, Cứu Mê Tình - Nhất Hoa Khai Ngũ Diệp -
Kết Quảtự Nhiên Thành" dịch nghĩa tạm là: "- Ta Vốn Qua Trung Thổ - Trao Pháp, Cứu Mê
Tình - Một Hoa Năm Cánh Trổ - Trái Kết Tự Nhiên Thành" Theo sách "Truyền Đăng lục"
(do Đạo Nguyên soạn 1101, đầu đời Tống), bài thuyết giảng đầu tiên cho triều đình Lương
Võ Đế chính là phần cơ bản của Đạt Ma Huyết Mạch Luận. Ngài đã đặt lại các quan điểm:
An tâm, Kiến tánh, Pháp thân, Phá tướng, và các nguyên lý Thiền đạo. Ngài rất thất vọng vì
triều đình Lương Võ Đế, đại diện cho một lớp người tầm thường về mặt tư tưởng: nệ cổ,
thành kiến bởi những phong tục tập quán, bảo thủ với những phước đức cầu danh nhỏ hẹp,
không đủ căn cơ lĩnh hội những tư tưởng mới lạ, cao thâm của ngài như sau: "Cả thế giới
được nghĩ trong Tâm. Tất cả các chư Phật từ quá khứ hiện tại đến tương lại, đều được tạo
thành ngay ở trong Tâm.Sự hiểu biết cũng được truyền bá từ Tâm sang Tâm nhờ vào lời nói.
Tâm của mọi người đều đồng điệu, tương ứng trong thực tại muôn đời, với thực tế muôn
đời. Tâm là Phật. Ngoài tâm không có Phật. Sự giác ngộ nào ngoài Tâm linh động, ngoài
thực tại của Tâm. Tất cả đều là huyển tượng. Duy chỉ có tư tưởng của Tâm và sự an nghĩ
của Tâm mới chính là Niết Bàn thực sự. Cho nên, mình phải tự lắng nghe và tự nhìn thất
Phật tánh ngay trong chính mình. Mọi người là một vị Phật trong chính mình. Do đó, mình
chẳng cứu ai cả, cũng như không có ai có thể cứu được mình. Mình không phải van xin,
nguyện cầu bất cứ ai, vì không có vị Phật nào hiểu mình hơn chính mình tự hiểu. Vì vậy,
mình không phải học hỏi những sự hiểu biết trong các kinh sách của bất cứ ai... Thân xác là
phù du, trong cuộc đời trôi nhanh với thời gian ngắn ngủi nầy. Vậy ta tự giải thoát, bằng
cách tự khám phá lại hình bóng của mình... Tâm ơi! Hỡi Tâm! Mi lớn đến nỗi bao trùm cả
vũ trụ, mi nhỏ đến nỗi mũi kim không xuyên qua lọt. Hỡi Tâm của ta ơi! Mi là Phật, và
chính vì mi mà ta phải lao đao qua Trung quốc để giảng truyền đạo lý..." SỰ KẾ THỪA BỒ
ĐỀ ĐẠT MA Đạt Ma Tổ sư Thiền hay là Thiền Tông Trung Hoa được chuyển hóa từ Thiền
Tông Ấn Độ, do ngài Bồ Đề Đạt Ma khai sáng, trong chín năm "Diện Bích Tham Thiền" tại
chùa Thiếu Lâm Tự (núi Tung Sơn). Sau đó, đúng theo lời tiên tri của Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma,
trong bài kệ phú pháp truyền lại cho Nhị Tổ Huệ Khả là "- Nhất Hoa Khai Ngũ Diệp, Kết
quả tự nhiên thành". Thiền Tông Trung Hoa đã được kế thừa bởi năm vị tổ như sau: Nhị Tổ
Huệ Khả (486-593)Tam Tổ Tăng Xán (606) Tứ Tổ Đạo Tín (580-651) Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn
(601-674) Lục tổ Huệ Năng (638-713) Trong khoảng hai trăm năm, sáu vị tổ sư đã gia công
hưng thịnh Thiền Tông Trung hoa. Từ đó, Thiền Tông được bành trướng sâu rộng vào các
nước thuộc miền Đông Châu Á, điển hình như các nước Nhật, Đại Hàn, Việt Nam, Đài
Loan, HongKong, ... Trong thời kỳ sơ khởi này cách truyền dạy Thiền qua những lời truyền
khẩu (không có chữ viết), những lời dạy giản dị, dể hiểu và thực tiễn. Việc tu tập chủ yếu
vẫn theo lối Ấn Độ. Đó là kỹ thuật "Quán Tâm trong Tĩnh Lặng" hay nói theo danh từ nhà
Thiền là Mặc Chiếu. Vào khoảng đầu thế kỷ thứ tám, Lục tổ Huệ Năng có một số đệ tử xuất
sắc torng đó co hai người là Hoài Nhượng (? – 788) và Hành Tư (? – 775) có ảnh hưởng rất
mạnh mẻ. Mỗi vị lại có một đệ tử xuất sắc là Mã Tổ (? – 788) và Thạch Đầu (700-790), hai
vị này lại có một số đệ tử phi thường, trực tiếp hoặc gián tiếp đã sáng lập ra năm phái Thiền
chính, vào thời đó như: Phái Lâm Tế, phái Tào Động, phái Qui Ngưỡng, phái Vân Môn và
phái Pháp Nhãn. Theo thời gian ba phái Qui Ngưỡng, Vân Môn và Pháp Nhãn không còn
tồn tại, đều bị đồng hóa vào hai phái Lâm Tế hoặc Tào Động. Do đó, hai phái Thiền độc
nhất là Lâm Tế và Tào Động vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Trãi qua nhiều thế hệ, hai phái
này thường hay đối địch với nhau. Tào Động vẫn giữ việc tu tập "Mặc Chiếu" theo truyền
thống Ấn Độ, còn Lâm Tế theo kiểu Trung HOa và Nhật là tham khảo Công Án (Thoại
Đầu), cách tập này rất là rắc rối, khó hiểu. Gs. Vũ Đức, N.D.

TRUNG HOA VÕ SỬ Giáo Sư Vũ Đức, N.D. THỜI THƯỢNG CỔ: (trước thời
nhà tần, 221. b.c. trước thiên chúa) Theo truyền thuyết thần thoại Trung Hoa, vào thời thái
cổ hỗn mang, ông Bàn Cổ được sinh ra bởi khí thiêng vũ trụ. Sau đó khoảng hơn mười tám
ngàn năm, trời đất mới bắt đầu khai lập theo định luật thiên nhiên. Dần dần, vạn vật và loài
người xuất hiện trên quả đất. Trong giai đọan này, các nhà chép sử gọi là thời đại Tam
Hoàng, khoảng tám mươi mốt ngàn năm. Theo sử ký của Tư Mã Thiên năm 145 80 BC
trước Thiên Chúa), Tam Hoàng gồm có Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhân Hoàng. Theo
sách Thượng Thư Đại Truyện, vua Toại Nhân dạy người biết dùng lửa (tức là thời đại phát
minh lửa) Vua Phục Hy dạy người biết cách đánh cá, săn bắn thú rừng (tức là thời đại du
mục). Vua Thần Nông dạy người biết làm ruộng vườn, giao dịch họp chợ (tức là thời đại
canh nông). Tiếp theo Tam Hoàng, truyền xuống thời đại Ngũ Đế (khoảng hơn 474 năm).
Ngũ Đế cũng có nhiều thuyết khác nhau. Theo sách sử, thời đại Ngũ Đế gồm có các vua:
Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn. Thực ra, năm tên của Ngũ Đế
không phải là tên vua, chính là tên của các bộ tộc thời xưa. Sau đó, Đế Thuấn nhường ngôi
lại cho vua Vũ, thuộc bộ tộc Hạ, để lập nên triều đại nhà Hạ, bắt đầu cho chế độ quân chủ
thế tập, cha truyền con nối ngôi vua. Nhà Hạ truyền ngôi được 422 năm, gồm những đời vua
như: Vũ, Khải, Thái Khang,, sau cùng là Nhà Hạ bị diệt vong, bởi sự nổi lên của vua Thang,
nguyên là tù trưởng của bộ tộcThương, vua Thang thâu gồm nhiều bộ tộc khác nhau, để
dựng nên triều đại nhà Thương, bắt đầu đóng đô tại vùng đất Hà Nam, thuộc tỉnh Sơn Tây
ngày nay. Mãi đến đời thứ tám nhà Thương, vua Bàn Canh dời đô sang đất thuộc bộ tộc Ân,
cho nên nhà Thương còn được gọi là nhà Ân từ đó. Triều đại nhà Thương (hoặc Ân) truyền
ngôi được 661 năm. Tại Trung Hoa, các món binh khí bằng đá như: dao đá, búa đá, tên
đá,cuốc đá, mác đá, chày đá,, đã đào được ở các vùg đất thuộc làng Ngưỡng Thiều, huyện
Thăng Trì, tỉnh Hồ Nam. Theo các nhà khảo cổ, những di tích binh khí bằng đá nầy đã xuất
hiện cách nay khoảng 5,000 nam. Điều này chứng tỏ rằng võ thuật Trung Hoa đã khai sinh
vào thời Thượng Cổ. Theo truyền thuyết Trung Hoa, vua Hoàng Đế (năm 2697. B.C. trước
Thiên Chúa) là thủy tổ của Hán tộc, từ miền Bắc, dùng kỹ thuật (Giốc-Để) đấu vật cổ truyền
Trung Hoa, đã chiến thắng tù trưởng Xi-Vưu (Chi-You) của Miêu tộc, và chiếm lấy miền
đất lưu vực sông Hoàng Hà, vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ ba trước Thiên Chúa. Cũng
như, dựa vào những hình khắc vẽ trên các di tích bằng xương, các nhà khảo cổ cho rằng
phương thuật (Giốc-Để) đấu vật cổ truyền vẫn còn được áp dụng trong các đời vua nhà
Thương (năm 1783 1134.B.C.trước Thiên Chúa). Hơn nữa, các kỹ thuật (Giốc-Để) đấu vật
cổ truyền này còn được thể hiện trong các vũ điệu dân tộc cổ truyền, qua hình ảnh hai vũ
công, đầu mang sừng, giống như hai con bò đang lừa thế ôm vật, với đội cặp sừng đánh hút
vào nhau. Đến đời vua nhà Ân (hay Thương), bộ tộc Ân thường đánh nhau với các bộ tộc
khác, cho nên, việc chế tạo những vũ khí bằng đồng rất là phát đạt như: cung, tên, giáo,dao,
búa, thương,. Bằng chất đồng. Theo bốc từ ở Ân Khư, trong cuộc chiến tranh với các bộ tộc
Thổ Phương và Lữ Phương, người Ân có khi giết chết hơn 2600 người, kẻ địch bị bắt về
làm nô lệ. Theo sách sử, nhà Thuong (Ân) truyền ngôi được 661 năm, đến đời vua Trụ, vì
tham tàn vô đạo, bị diệt vong, về tay người con của Văn Vuong là Vũ Vương. Văn Vương
là hậu duệ thuộc dòng dõi tù trưởng (tên Khí) ở đất Thai, vào đời vua Nghiêu và Thuấn, từ
phương Bắc di cư đến chân núi Kỳ Sơn, thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay. Vào năm 1134
B.C trước Thiên Chúa, vũ Vương lên ngôi vua, đóng đô ở đất Cảo Kinh, lập nên triều đại
nhà Tây Chu, bắt đầu chế độ phong kiến. Đến năm 770 B.C. trước Thiên Chúa, vua Bình
Dương đời đô về Lạc Dương, bắt đầu cho nhà Đông Chu. Nhà Chu truyền ngôi được 885
năm (từ 1134 249 B.C. trước Thiên Chúa). Theo sử liệu, thời đại nhà Chu là giai đoạn bắt
đầu của thời đại kim khí, và các tư tưởng triết học Trung Hoa. Thuật bắn cung và dùng
chiến mã xa cũng được phát sinh, với sự hưởng ứng mãnh liệt của giới thượng lưu trí thức.
Thuật bắn cung, lúc bấy giờ đã được xem trọng, như là một phần nghi lễ văn hóa, tập quán
xã hội, một nghệ thuật cần thiết, trong chương trình giáo dục học đường cho các học sinh ở
lớp tuổi từ 15 đến 20. Theo sử ký của Tư Mã Thiên, vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc
(722- 221 B.C. trước Thiên Chúa), người Trung Hoa đã biết dùng sắt, để thay thế chất đồng,
trong việc chế tạo binh khí. Vào thời kỳ này là lúc nhà Đông Chu bắt đầu suy tàn, tiến dần
đến diệt vong. Những lãnh chúa ở các địa phương nổi lên chiếm đất, hùng cứ lập nên những
vượng quốc tự trị. Xã hội Trung Hoa, lúc bấy giờ, gặp phải nhiều nỗi bất công, trộm
cướp,loạn lạc khắp nơi. Những vị anh hùng, hiệp sĩ, giỏi võ hảo tâm, tự nguyện đứng lên thế
thiên hành đạo, trừ gian diệt bạo, để giúp đỡ bênh vực dân lành, sức yếu thế cô. Vào thời
Xuân Thu (772 481 B.C. trước Thiên Chúa), Trung Hoa có hơn 160 nước lớn nhỏ, dưới
quyền thống trị của nhà Chu. Sang đến thời Chiến Quốc (từ 481- 221 BC trước Thiên Chúa)
trải qua nhiều cảnh chiến tranh, các nước lớn mạnh lần lần thôn tính các nước nhỏ yếu, co
nên, nhiều nước bị cảnh diệt vong, chỉ còn lại 7 nước lớn mạnh, tranh hùng với nhau, tạo
nên một cuộc chiến quốc sử lâu dài giữa các nước như: Sở, Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, và
Tần. Trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, thuật đánh kiếm đã được phổ biến rộng rãi, khắp
cả hai miền Nam và Bắc Trung Hoa. Điều ấy đã được minh chứng trong sách "Ngô Việt
Xuân Thu" THỜI TRUNG CỔ: (Từ 221 trước TC đến 684 sau TC ) Vào năm 249 B.C.
trước Thiên Chúa, nhà Chu mất ngôi về tay Tần Thủy Hoàng. Vì biết cách áp dụng chính
sách phú quốc cường binh, Tần Thủy Hoàng đã diệt được 5 nước: Sở, Hàn, Ngụy, Triệu và
Yên. Sau đó, vào năm 221 B.C. trước Thiên Chúa, Tần Thủy Hoàng tận diệt luôn nước Tề,
thống nhất đất Trung Hoa, và lập nên nhà Tần, với một chế độ quân chủ chuyên chế, tại
kinh đô Hàm Dương. Để chống giữ giặc Hung nô từ phương Bắc, Tần Thủy Hoàng cho
thực hiện "Vạn Lý Trường Thành", dài hơn 1400 dặm, dọc theo biên giới, vùng núi rừng
thung lũng, từ Lâm Thao, tỉnh Cam Túc đến tận Sơn Hải Quan. Công trình xây cất này đã
gây nên biết bao tốn kém công quỹ , và xương máu, khổ cực từ phía dân chúng.Hơn nữa, vì
muốn thống nhất tư tưởng ngôn luận, nhà Tần ra lệnh đốt bỏ tất cả sách vở, và bắt chôn
sống hơn 460 học trò. Về phương Nam, nhà Tần đem quân chinh phụcc xứ Bách Việt, và di
dân hơn 50 vạn để khai hoang lập ấp. Vào thời nhà Tần, môn kiếm thuật vẫn còn thịnh
hành, và được minh chứng qua truyện "Kinh Kha Hành Thích Vua Tần" trong sử ký có ghi
nhận: "Kha bàn về kiếm thuật trái ý với Nhiếp Cái. Về sau, Kha đâm không trúng Tần Thủy
Hoàng, Lỗ Câu Tiễn có nói rằng:-Tiếc thay Kha không tinh luyện môn kiếm thuật." Đến đời
Nhị Thế Hoàng (năm 209 B.C. 206 B.C. trước Thiên Chúa)vì chính sách quá khắc nghiệt
của nhà Tần, dân chúng khắp nơi nổi lên chống lại chính quyền, nhưng đều bị quân Tần
đánh dẹp, duy chỉ còn lại binh của Lưu Bang ở đất Bái, và Hạng Võ ở đất Ngô, có đủ sức
chống cự với quân Tần. Sau cùng, binh của Lưu Bang chiếm được thành đô Hàm Dương,
tiêu diệt nhà Tần. Tiếp theo, Lưu bang đánh dẹp được Hạng Võ. Vào năm 206 B.C. trước
Thiên Chúa, Lưu bang lên ngôi vua, hiệu là Hán Cao Tổ, lập nên nhà Hán (Tây và Đông
Hán), truyền ngôi được 425 năm. Theo Hán sử, vào triều nhà Hán, các môn Thủ Bác (võ
đánh tay đá chân), Giốc-Để (đấu vật cổ truyền), Đạo Dẫn (nội công hô hấp) và Kiếm Thuật
(kể cả các binh khí khác), đều được vua Hán nâng lên hàng quốc sách, được đặt năng trong
chương trình huấn luyện binh sĩ. Nhà vua chỉ thị mở các kỳ thi võ dũng, tuyển chọn những
người giỏi võ để bổ sung vào tướng lãnh. Cũng như, trong Hán Thư ở mục "Nghệ Văn Chí"
có đề cập đến "Binh Kỹ Xảo", gồm có 13 thiên, ở thiên thứ 6 có ghi nhận về môn thủ Thủ
Bác (võ đánh tay đá chân) được xếp vào "Binh Kỹ Xảo" để áp dụng trongviệc huấn luyện
cho binh sĩ. Ở mục "Vũ Đế Ký" có ghi chép: "... Vào mùa Xuân năm Nguyên Phong thứ ba
(năm 113 B.C trước Thiên Chúa), nhà vua chỉ thị tổ chức hội thi đấu Giốc Để (đấu vật cổ
truyền)..." cũng như ở mục "Phương Kỷ Lược" có chép: "... Hoàng Đế có thuật Tạp Tử Bộ
Dẫn, gồm có mười hai quyển, trong đó đề cập đến phương pháp đạo dẫn". Ngoài ra, trong
sách "Dưỡng Tín Mệnh Lục" có các chương "Phục Khí Liệu Bệnh Đạo Dãn Án Ma" trình
bày về các phương pháp tập luyện hô hấp khí công và nội công tâm pháp. Do đó, môn Đạo
Dẫn (Nội Công Tâm Pháp) đã có từ xưa, các quyền thuật gia đã áp dụng môn này để hổ trợ
cho võ thuật, tăng phần sức mạnh thân tâm. Vào đời Hán Hoàn Đế và Linh Đế (năm 147
A.C, sau Thiên Chúa) quan Hổ Bôn là Vương Việt rất giỏi về kiếm thuật và nổi tiếng ở kinh
sử. Cũng như môn đồ của ông là Sử A, người gốc Hà Nam được sự chân truyền kiếm thuật
của ông. Đến cuối đời Hàn, môn kiếm thuật vẫn còn thịnh hành. Theo sách "Điển Luận" của
Tào Phi có chép "Kiếm pháp ở bốn phương đều khác nhau, duy chỉ kiếm pháp ở kinh sư là
hay nhất". Vào thời Tam Quốc (năm 220 A.C sau Thiên Chúa), y sư Hoa Đà sáng chế
phương pháp thể dục dưỡng sinh "Ngũ Cầm Hí" dựa trên các động tác và tính chất của năm
loài thú rừng như Cọp, Gấu, Nai, Khỉ, Chim. Cũng như môn kiếm thuật vẫn được phổ biến
rộng rãi, và được xem là môn chính yếu căn bản phát sinh ra các môn binh khí khác như
thương, côn, chỉa ba, câu liêm, yển nguyệt đao, đơn đao, kích, ... Lúc bấy giờ các danh
tướng giỏi về các môn binh khí như Lữ Bố giỏi về môn đánh kích, Tào Phi lúc tuổi trẻ giỏi
về môn đánh song kích, cũngnhư Đặng Triển, quan Phân Úy Tướng Quân nhà Ngụy rất giỏi
về kiếm thuật với tay không, Đặng Triển có khả năng đoạt được đao, kiếm, kích... Theo Tấn
Sử (265 A.D. sau Thiên Chúa), Trần A là người giỏi về trường mâu và đại đao. Bỉnh Tiên
giỏi về lối dùng mâu. Sang thời Nam Bắc Triều (năm 420 589 A.D sau Thiên Chúa) vào
năm 520 đến 529 Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa từ Ấn Độ đã khai sáng Thiền Tông và võ
thuật Thiếu Lâm Tự tại Tung Sơn tỉnh Hồ Nam. Võ thuật Thiếu Lâm Tự được người Trung
Hoa xem là một tổ phái ngoại gia quyền, danh trấn giang hồ. Về sau, các đệ tử Thiếu Lâm
đã sáng lập ra nhiều chi phái Thiếu Lâm như Thiếu Lâm Bắc Phái Sơn Đông và các danh
gia Nam Phái như Hồng Gia, Lý Gia, Lưu Gia, Thái Gia, và Mặc Gia. Vào đời vua Lương
nguyên Đế (552 A.D sau Thiên Chúa) Trình Linh Tiển tự Nguyên Điều người phủ Vi Châu
tỉnh Giang Nam sáng chế môn Thái Cực Quyền, truyền xuống cho Trình Cũng Nguyệt, rồi
đến Trình Tất, môn Thái Cực Quyền được đổi tên thành "Tiểu Cửu Thiên" gồm có mười
bốn thế và hai ca quyết "Dụng Công Ngũ Chi" và "Tứ Tính Qui Nguyên". Sau nhà Tùy (589
618 A. D) đến nhà Đường hưng khởi (618 907) tinh thần võ sỉ đạo Trung Hoa lên cao độ,
do bởi chiến công của mười ba vị thiền sư Thiếu Lâm Tự, giúp vua Đường Thái Tông (627
650) dẹp giặc Vương Thế Sung. Từ đó, võ phái Thiếu Lâm Tự vang danh khắp cả Trung
Hoa. Theo Trình Xung Đẩu trong "Thiếu Lâm Côn Pháp Xiểng Tông": "... Lúc đó các nhà
sư có công gồm có mười ba người, chỉ có Đàm Tông được vua phong cho làm Đại Tướng
Quân, còn mười hai vị không muốn làm quan, nên được vua ban cho bốn chục khoảnh đất
đai".3. Thời Cận Cổ: (684 A.C. sau T.C. đến 1,277 A.C. sau T.C.) Vào thời Vũ Tắc Thiên
Hoàng Đế (684 705 A.C. sau T.C.), các kỳ thi võ dũng được mở rộng thường xuyên để
tuyển chọn nhân tài giỏi võ, bổ nhiệm vào chức võ quan. Theo Đường thư, vào đời nhà
Đường, có Hám Lăng giỏi về Lưỡng Nhân Đao (Dao hai lưỡi), nếu dao dài khoảng một
trượng được gọi là Thách Đao. Cũng như, Uất Trì Kính Đức giỏi dùng Giáo (hay còn gọi
Sóc), và với tay không ông ta có thể cướp được Giáo (Sóc) của đối thủ. Theo sách "Thái
Cực Quyền Thế Độ Giải" của Hứa Vũ Sinh, vào đời Đường, Hứa Tuyên Bình có trueỳn dạy
môn Thái Cực Quyền, còn gọi là "Tam Thất Thế", vì nổi tiếng chỉ có 37 thế, liên tục với
nhau, tiếp diên không dứt. Do đó, cũng được gọi là "Trường Quyền". Yếu quyết gồm có
"Bát Tự Ca", "Tâm Hội Luận", "Chu Nhân Đại Dụng Luận", "Thập Lục Quan yếu Luận",
và "Công Dụng Ca". Về sau, môn này được truyền lại cho Tống Viễn Kiều. Ngoài ra, họ Du
cũng có truyền dạy môn Thái Cực Quyền, cũng được gọi là "Tiên Thiên Quyền", hay là
"Trường Quyền". Họ Du học được từ Lý Đảo Tử, ở núi Võ Đang, thời nhà Đường. Theo
Ngũ Đại Sử, vào thời Ngũ Đại (907 955 sat T.C.), Vương Ngạn Chương là người giỏi về
Thiết Thương. Cũng như, vua Đường Trang Tông (923 sau T.C.) rất thích môn Giốc Để
(đấu vật), thường đấu thắng Vương Đô, nên thường tự kiêu. Về phép Đạo Dẫn hô hấp, theo
sách Di Kiên Chí của Hồng Mại có ghi: Năm Chính Hòa thứ bảy (1111.) đời Huy Tông nhà
Tống, Lý Tự Củ làm Khởi Củ Lang thường tập phép hô hấp gọi là "Trường Sinh An Lạc
Pháp".Vào triều đại nhà Tống (950 A.C 1,275 A.C. sau T.C.), theo mục "Quyền Kinh" trong
sách Kỷ Hiệu Tân Thư của Thích Kế Quang, Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn có sáng chế
32 thế Trường Quyền, gọi là Thái Tổ Môn, và các bộ quyền khác như: Lục Bộ Quyền, Hầu
Quyền, Hoa Quyền. Những môn quyền này tuy có tên khác nhau, nhưng nói chung, đều có
những điểm đại đồng và tiểu dị. Ngoài ra, theo trueỳn thuyết, người đời còn cho rằng môn
Hồng Quyền là do Tống Thái Tổ sáng chế(???) Vào đời Tống, danh tướng Dương Nghiệp
rất giỏi về Thương Pháp, và dòng họ Dương đã nổi tiếng về "Lể Hoa Thương:. Theo sách
"Kỷ Hiệu Tân Thư" của Thích Kế Quang, Thương Pháp của nhà họ Dương có thính chất
biến hóa, rất huyền diệu. Cho nên, người đời sau không thể hiểu được ý nghĩa sâu rộng của
nó. Hoặc có người biết đến, nhưng vẫn giữ kín không truyền dạy ra, hoặc có thể có ý dạy sai
lệch với chân truyền. Vì vậy, Thương pháp của nhà họ Dương không được phổ thông bằng
Thương Pháp của hai nhà họ Mã và Sa. Thương Pháp của hai nhà họ Mã và Sa đều có chỗ
hay, nhưng cách dùng đánh xa hay gần đều có nhiều điểm khác nhau. Về Thương Pháp của
nhà họ Dương, với tay cầm đốc thương và đưa thương ra rất dài, vừa có hư có thực, vừa có
lỳ có chính, vừa có hư hư thực thực, vừa có kỳ kỳ chính chính. Lúc tiến lên dũng mạnh, lúc
lui về nhanh nhẹn. Thế thương diêu động rất độc hiểm, lúc bất động vững chắc như núi Thái
Sơn, lúc di động nhanh chóng như điện xẹt. Vì vậy, lúc bấy giờ, ngọn "Lê Hoa Thương" của
họ Dương chưa có ai sánh kịp. Cũng như, theo sách "Trần Kỷ" của Hà Lương Thần nhận
định: "Thương pháp của nhà họ Dươngdùng cả trường lẫn đoản, hư thực đều thích nghi, lúc
tiến lên tinh nhuệkhông thể chống đỡ, lúc lui mau lẹ không nghỉ kịp. Thiên hạ gọi vô địch,
chỉ có thế Hoa Thương pháp của nhà họ Dương mà thôi." Theo Tống sử, Lữ Động Tân,
người ở Quan Tây, giỏi về kiếm thuật. Trương Uy giỏi dùng côn gỗ (gọi là Tử Đại Trùng),
và côn tròn dài khoảng 6 thước. Theo truyền thuyết, Nhạc Phi (Vũ Mục), danh tướng nhà
Tống đã sáng chế ra môn đô vật để dạy cho binh sĩ biết cách đáng cận chiến, với tay không
và sức mạnh của toàn thân, áp dụng kỹ thuật quật ngã đối thủ té nhào xuống đất, cũng như
với đôi tay chân không khóa bắt đối thủ. Môn đô vật được sáng chế từ sự phối hợp các kỹ
thuật của môn Giốc Để cỏ truyền Trung Hoa và các nguyên tắc trong các môn: Câu, Nả,
Tiêu, Khấu,... 4. Thời Cận Đại: (1277 1644 sau T.C) Đến thời nhà Nguyên (1277 1368 sau
T.C), theo Nguyên sử, Vương Anh là người giỏi về song đao, được gọi là Đao Vương. Đặng
Bật giỏi về song kiếm. Theo sách Trần Kỷ của Hà Lương Thần, "Phép Phân Giáo" của Biên
Trang Tử, "Phép Khởi Lạc" của Vương Tu, "Phép Cố Ứng" của Lưu Tiên Chủ, "Phép Thiển
Điện" của Mã Minh Vương, "Phép Xuất Thủ" của mã Khôi. Đó là kiếm pháp của năm nhà
đều có truyền lại đời sau. Năm 1351, Hàn Sơn Đông, người ở Loan Thành, thuộc Hà Bắc,
cùng với cha là Hàn Thế, tự nhận là dòng dõi vua Huy Tông nhà Tống, với mục đíchkháng
chiến chống nhà Nguyên, hai cha con họ hàn sáng lập Bạch Liên Giáo (Hoa Sen Trắng) và
lợi dụng việc truyền bá võ thuật và Phật giáo để tạo thế lực, trong việc tuyển mộ tín đồ đệ
tử, dần dần, Bạch Liên Giáo tạo được uy thế khắpnơi trên đất Trung Hoa. Sau khi hàn Sơn
Đông tạ thế, các vị kế nghiệp lợi dụng tinh thần thấp kém, mê tín dị đoan của quần chúng,
mà đi sai mục đích cách mạng, và lâm vào đường tà đạo, làm nhiều điều hỗn loạn, dâm bôn,
có nhiều thành tích xấu xa, trong chốn giang hồ. Vào thời nhà Minh (1368 1644 sau TC),
môn Bát Phiên Quyền của môn phái Bát Thiển Phiên được truyền dạy rộng rãi trong quần
chúng. Về sau, vào đời Thanh, Trần Tử Chính rất nổi tiếng về môn quyền này, tại vùng Hà
Bắc, cũng như ông đã truyền dạy môn Bát Phiên Quyền tại Tinh Võ Hội, Thượng Hải. Về
môn Đô Vật, lúc bấy giờ, Trần Nguyên Bân là võ sư rất nổi tiếng, đã truyền dạy môn Đô vật
cho một số người Nhật Bản (có lẽ, môn Nhu Thuật Nhật bản đã bị ảnh hưởng từ Đô vật
Trung Hoa từ đời nhà Minh chăng????) Cũng như, Mã lương Thường đã có dịp phát triển
môn Đô vật, khi làm quan Trấn Thủ Sứ ở đất Tế Nam. Ong đã đào tạo ta nhiều nhân tài đô
vật trong nhóm bộ hạ của ông, giỏi nhất gồm có: Vương Chấn Sơn và Doãn Chiếm Khôi.
Về sau, Doãn Chiếm Khôi xuống phương nam phát động, dạy môn này, nhưng rất tiếc, miền
nam Trung Hoa không phải là đất dụng võ của môn Đô Vật. Về kiếm thuật vào đời nhà
Minh, Thạch Diện, tự là Kính Nham, người ở Thường Thục, theo học kiếm thuật với cảnh
Quật. Sau đó, Kính Nham dạy lại cho Lục Thế Nghị, người ở Thái Thượng, và Trần Hồ,
người ở Thông Uy. Ngoài ra, Dũ Đại Du, một danh tướng nhà Minh, đã từng theo Lý Lương
Khâm học lối đánh trường kiếm. Theo sách "Quốc Kỷ Luận Lược" của Từ Triết Động, vào
đời nhà Minh,các danh tướng như Dũ Đại Du, và Thích Đế Quangđều giỏi về côn pháp.
Cũng như, những người thiện dụng côn pháp còn có Lý Lương Khâm, Lưu bang Hiệp, Lâm
Diêm,Ngoài ra còn có lối côn pháp Thanh Điền không được biết xuất xứ từ đâu? Năm 1368,
đạo sĩ Trương Tam Phong sáng lập võ Đang Phái, tại núi Võ Đang Sơn, thuộc Tiêu Anh
Phủ, nằm giữa hai phần đất Giang Tây và Hà Nam. Võ Đang Phái truyền bá môn nội gia
quyền Trung Hoa, một môn võ thuộc nhuyễn thuật khác với cương quyền của phái Thiếu
Lâm Tự (ngoại gia quyền), và nổi danh với môn Thái Cực Quyền. Vào thời Minh Thành Tổ
(1403 1425), Chu Đức Võ Thượng Nhân sáng lập võ phái Côn Luân, tại Côn Luân Sơn, tỉnh
Thanh Hải. Vào thời nhà Minh, một số cao đồ của Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, ở phía đông
thành Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, vào đời Minh thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc (1403) do
Ngũ Chấn Thiền Sư trụ trì huấn võ. Thiếu Lâm Bạch Hạc tại chùa Long Sơn Tự, tọa lạc trên
núi Long Sơn (còn gọi là Bạch Hạc Sơn), thuộc huyện Quan Đồ, phía tây tỉnh Vân Nam, do
Nhứt Khánh Thiền Sư sáng lập. Ngài viên tịch lúc 91 tuổi. Đệ nhất cao đồ của ngài là
Thượng Thái lão Ni Sư Trưởng kế nghiệp, vào thời vua Minh Thành Tổ (1403). Thiếu Lâm
Thái Sơn Bắc Thái (còn gọi là Thiếu Lâm Sơn Đông), tại chùa Bạch Vân Tự, trên núi Mã
Dương Cương, thuộc dãy núi Thái Sơn, tỉnh Sơn Đông, miền Bắc Trung Hoa, do nữ Sáng tổ
Âu Dương Bích Nữ trụ trì, vào thời vua Minh Tuyên Tôn, niên hiệu Tuyên Đức (1426). Họ
Âu Dương nguyên là một ngoại đồ cao cấp rất nổi danh của Tung Sơn Tiếu Lâm Tự. Ngoài
ra, võ phái Nga Mi còn được ra đời vào thời vua Minh Tuyên Tôn (1426), tại núi Nga Mi
Sơn, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, do nữSáng tổ Chu Tú Anh, em gái của Chu Đức Kiệt Chưởng
môn võ phái Côn Luân thời bấy giờ. Cũng như, võ phái Không Động được xuất hiện tại núi
Không Động Sơn, thuộc tỉnh Cam Túc, ít thu nhận môn đồ, và có một lai lịch mù mờ,
không ai biết rõ nguồn gốc và kỹ thuật huấn luyện của võ phái này. Vào đời vua Minh Thần
Tôn, niên hiệu vạn lịch (1573 1616), Trình Xung Đẩu, tự là Tông Du, người ở Tân Đô, theo
học côn pháp với các nhà sư Thiếu Lâm: Hồng Kỷ và Hồng Chuyển Thiền Sư. Trình Xung
Đẩu có soạn ra sách "Thiếu Lâm Côn Pháp". Theo sách "Trần Kỷ" của Hà Lương Thần có
luận về côn pháp như sau: "Côn pháp ở vùng Đông Hải, Biên Thành và của Dũ Đại Du có
nhiều phần giống nhau. Cũng như, cách trueỳn dạy có nhiều điểm rất là giới hạn. Côn pháp
của Thiếu Lâm là Dạ Xoa côn pháp, gồm có Tam Đường: Tiền, Trung và Hậu. Tiền Đường
côn còn gọi là Đơn Thủ Dạ Xoa. Trung Đường Côn còn gọi là Âm Thủ Dạ Xoa, giống như
Đao Pháp. Hậu Đường côn còn gọi là Hiệp Côn Đới Bổng. Các nhà sư ở Ngưu Sơn giỏi về
lối côn pháp này." 5. Thời Hiện Đại (1644 1912) Vào đầu đời vua Thanh Thế Tổ (1644),
Nhan Nguyên, tự Tập Trai, là một bậc đại Nho, vừa giỏi quyền thuật, vừa sành đao pháp.
Có lần, ông bẻ cành trúc làm đao, để đấu võ với Lý Mộc Thiên được vài hiệp, và đâm trùng
vào cổ tay của họ Lý. Lý Mộc Thiên rất giỏi võ, nhưng cũng phải bị thua phục. Nhan
Nguyên còn giỏi về lối đánh song đao đang lúc cỡi ngựa. Nhan Nguyên có những người bạn
rất giỏi võ nghệ như: Nhiễm Hoài Phác, là một quyền sư giỏi về song đao và đơn đao, Ngụy
Tú Thắng có tài nhẩy cao đến nóc nhà, Ngũ Công Sơn Nhân và Dương Dủ Hựu đều giỏi về
đao vàthương pháp. Cả hai dều học ở Lý Cương Chủ, một trong những học trò của Nhan
Nguyên. Vào cuối đời nhà Thanh, Vương Chính Nghị, người vùng Kinh Tân, nổi tiếng về
đại đao, người đời gọi ông là Đại Đao Vương Ngũ. Họ Vương có dạy cho Đàm Tự Đồng.
Vào năm 1900, họ Vương qua đời, trong cuộc loạn Quyền Phỉ. Mê Tung Môn là môn võ gia
truyền của nhà họ Hoắc, truyền đến đời thứ 7 Hoắc Nguyên Giáp. Mê Tung Môn được dạy
tại Tinh Võ Hội, Thượng Hải do Hoắc Nguyên Giáp sáng lập. Về sau, môn quyền thuật
chính được dạy tại Tinh Võ Hội là Nhị Lang Môn do Triệu Chân Quần lãnh đạo. Theo
Thích Kế Quang, Thiên Trật Trương là sáng tổ của môn võ Địa Đường. Ơ miền Bắc Trung
Hoa, Địa Đường Môn thường dùng những kỹ thuật trường Quyền làm căn bản. Trái lại, ở
vùng Giang nam, Địa Đường Môn lại áp dụng kỹ thuật của Đoãn Đả làm nền tảng. Môn
Túy Bát Tiên rất được xem trọng trong phái Địa Được(ường. Vào thời cận đại, ở Hà Bắc,
Trương Cảnh Phúc, tự là Giới Thần, nổi tiếng về Địa Đàng Môn, và đã từng dạy môn võ
này, tại Trung Hoa Thể Dục Hội, Thượng Hải. Hai môn võ Phế Quải và bát Cực đã được
phổ biến, nhưng về nguồn gốc của hai môn này không được biết. Về hình thức và kỹ thuật,
môn Bát Cực có vẻ chậm chạp. Trái lại, môn Phế Quải có vẻ linh hoạt và hữu dụng. Cả hai
có tính chất mềm dẻo nhất trong các loại quyền cương mãnh Bắc phái. Hai môn Bát Quái
Chưởng và Hình Ý Quyền thuộc về nội gia quyền. Vào thế kỷ thứ 17, môn Bát Quái được
phổ biến rộng rãi, tại hai miền Bắc và Nam Trung Hoa, nhưng người ta vẫn chưa được biết
về xuất xứ của môn này. Theo sách "Lam Triều Ngoại Sử" có ghi: "Năm 1798, vua
ThanhGia Khánh năm thứ 2, ở Sơn Đông, huyện Tế Ninh, Hoa Bắc, Vương Trường truyền
dạy quyền pháp cho Phùng Khắc Thiện. Đến mùa xuân Canh Ngọ (năm Gia Khánh thứ 15),
Ngưu Lương Thần theo học với Phùng Khắc Thiện,và nhận thấy quyền pháp nầy có tám
phương bộ, nên gọi là Bát Quái." Môn Hình Ý Quyền xuất xứ từ tỉnh Sơn Tây, Hoa Bắc,
truyền rộng qua Hồ Bắc, Hồ Nam và Bắc Kinh vào thế kỷ 17. Môn Hình Ý dựa vào triết lý
Ngũ Hành, d0ể dẫn đạo kỹ thuật thực hành. Vào thế kỷ 17, đầu đời nhà Thanh, Vương
Lang, người miền Nam Trung Hoa, sáng chế ra môn võ Bọ Ngựa (Ngựa Trời), dựa vào sự
phối hợp môn Hầu Quyền cùng với những động tác của giống Bọ Ngựa. Đến cuối đời
Thanh, môn võ Bọ Ngựa có thêm 3 chi phái, tại miền Hoa Bắc như sau: Bọ Ngựa Lục Hợp
Pháp do Huy Sơn người tỉnh Sơn Đông, Hoa Bắc, biến chế thành nhuyễn thuật, Bọ Ngựa
Bát Bộ Tấn do Trương Hoa Long biến chế dựa vào bát bộ tấn pháp làm nền tảng, và Bọ
Ngựa Thất Tinh Pháp dựa vào lối di chuyển tréo buớc theo hình ngôi sao, phối hợp với lối
đánh tay hình móc ngoéo (như hổ trảo). Giáo Sư Vũ Đức, N.D

VÕ HỌC BÌNH ĐỊNH Ðào Ðức Chương Mảng vui Hương Thủy, Ngự Bình Ai vô
Bình Ðịnh với mình thì vô Chẳng lịch bằng đất kinh đô Nhưng Bình định không đồng khô
cỏ cháy Ba dòng sông chảy Bảy dãy non cao Biển Ðông sóng vỗ dạt dào Tháp xưa làm bút
ghi tiếng anh hào vào mâyxanh... Câu ca dao trên là bức tranh phác họa miền Ðất Võ, xứ
Bình định. Ðó là miền đất cách Kinh thành Huế 407 cây số về phía đông nam, có ba mặt núi
non hiểm trở. Phía tây dựa lưng vào dãy Trường sơn trùng điệp, phải qua đèo An khê dốc
đứng, vượt sông Ba rồi lên đèo Măng giang mới tới được vùng Tây nguyên. Phía bắc có dãy
Thạch tấn nối từ Trường sơn ra tận biển, ngăn cách hai tỉnh Quảng ngãi và Bình định, chỉ
còn thông nhau qua đèo Bình đê. Phía nam có dãy Nam sơn, còn gọi là núi Bình san, với
các ngọn như hòn Ông, hòn Bà (cao 1100 mét), hòn Am, hòn An tượng, ngăn cách Bình
định và Phú yên. Muốn vào nam phải vượt đèo Cù mông. Phía đông giáp biển, trải dài 100
cây số. Bờ biển lại gập ghềnh, lồi lõm với nhiều cửa như Thiện chánh, Cà công, Hà ra, Phú
thứ, Ðề gi, Thị nại. Bình định có hai con sông lớn chắn ngang. Phía bắc là sông Lại giang,
còn gọi là Lại dương, bắt nguồn từ hai vùng núi An lão và Kim sơn, đổ ra biển qua cửa An
giũ. Phía nam cũng có một sông tương xứng: sông Côn, chia làm ba nhánh chảy vào đầm
Thị nại. Ngoài ba dãy núi và hai sông chính, Bình định còn nhiều nhánh núi tẻ ra từ dãy
Trường sơn và có sông La tinh nằm vắt ngang giữa tỉnh. Núi, sông xen kẽ với đồng bằng,
tạo cho miền này một địa hình phức tạp. Các nhà phong thổ học nhìn cuộc đất Bình định
như một cái ngai vàng khổng lồ. Tay vịn phía tả là dãy Thạch tấn. Tay vịn phía hữu là dãy
Nam sơn. Lưng dựa là dãy Trường sơn, mặt quay về hướng đông lồng lộng trời cao biển cả.
Rải rác đó đây là những ngọn tháp Chàm còn sót lại. Ở huyện Phù cát có tháp Phúc Lộc tục
gọi là Phốc Lốc. An nhơn cótháp Cánh Tiên. Tuy phước có chùm tháp Bánh Ít, tháp Thanh
trúc ở Bỉnh lâm, tháp Long triều ở Xuân mỹ. Qui nhơn có tháp Ðôi. Bình khê có tháp Thủ
thiện và chùm tháp Dương long. Những tháp cổ cao vút lên nền trời, trông như những cây
bút khổng lồ "ghi tiếng anh hào vào mây xanh". Với bốn mặt núi sông biển vây phủ, lại
thêm thiên tai bão lụt thường xuyên, người dân miền này muốn sinh tồn phải cần thích ứng
với miền đất hiểm trở, đầy bất trắc. Ðấy là nhân tố để cho võ nghệ Bình định nẩy nở. Rồi
ngành dệt phát triển, nghề chạm cẩn tinh vi, lại có những đặc sản như bánh tráng, bún Song
Thằng, nón Gò Găng, gốm Chợ Gồm, ngói Phú phong... Hải sản Bình định thì quá dư dả,
cần phải thông ra ngoài, tìm thị trường tiêu thụ hoặc trao đổi: Ai về nhắn với nậu nguồn
Măng le gởi xuống, cá chuồn gởi lên (Ca dao) Thời trước buôn bán với "nậu nguồn" là quan
trọng hơn cả. Lượt lên mang cá khô, mắm, muối. Chuyến về chở măng le, trầu nguồn, rễ
nài. Vốn một lời mười. Tổ phụ của Nguyễn Nhạc là Hồ Lang, chuyên nghề buôn bán trầu
nguồn. Ðến thời Hồ Phi Phúc, rồi Nguyễn Nhạc cũng nối nghiệp cha ông. Số người buôn
bán hàng chuyến rất đông. Chở hàng ra Quảng, vào Nam, lên Tây nguyên đều có cả. Vì vậy
võ nghệ cần được phổ biến và phát huy để hộ tống hàng hoá vượt đèo, qua sông, vừa chống
chỏi với mãnh thú, vừa đề phòng nạn trộm cướp dọc đường hoặc ngay tại nhà. Không
những đàn ông mà ngay cả đàn bà, trẻ con cũng phải học võ hộ thân và bảo vệ tài sản, đã trở
thành một truyền thống: Ai về Bình định mà coi Con gái Bình định múa roi, đi quyền (Ca
dao)Tuy vậy, dòng chảy của Võ học Bình định cũng có những thăng trầm, qua các giai đoạn
sau đây: THỜI KỲ MỞ MANG (1470-1558) Năm Canh Thìn (1470), Hồng Ðức nguyên
niên, vua Chiêm là Trà Toàn đem quân đánh phá đất Hóa châu, và sai người sang Tàu cầu
viện nhà Minh. Vua Lê Thánh Tôn tự cầm quân, đem đại binh 20 vạn quân đánh Chiêm
thành, phá được kinh đô là thành Ðồ Bàn (Vijara) và chiếm đất đến đèo Cù mông. Từ đấy,
miền nầy được sát nhập vào đạo Quảng nam, đặt tên là phủ Hoài nhơn gồm ba huyện là
Bồng sơn, Phù ly và Tuy viễn. Dân các tỉnh Bắc kỳ, nhất là người Hà đông và các tỉnh miền
bắc Trung phần vào đây lập nghiệp. Họ đến lắp vào chỗ trống vì có một số người Chiêm
thành đã rút về phía nam. Ðể sinh tồn, họ góp nhóp vốn liếng võ nghệ của cố hương, pha
trộn với các thế võ của dã thú, của gà đá... rồi sửa đổi, sàng lọc, ứng chế cho hoàn toàn thích
hợp với hoàn cảnh, địa thế của quê hương mới. Ðầu tiên, hai thế võ được thông dụng là lối
đánh bằng tay chân gọi là quyền và lối đánh bằng cây gọi là roi. Họ dùng khúc cây vừa làm
đòn gánh vừa là vũ khí hộ thân. Gánh, có thể chịu sức nặng gấp ba lần trọng lượng của
mang xách mà vẫn đi được xa. Ðòn gánh làm bằng gốc tre già, vừa chắc vừa dẻo, tiện cả hai
mặt: gánh thì êm vì đòn nhún theo nhịp đi; đánh lại bền vì cây roi không bị gãy hay giập bể.
Ðó là những năm tháng dài, hình thành một nền võ thuật mới mẻ, độc đáo, được cả nước
quen gọi là võ Bình định. THỜI KỲ PHÁT TRIỂN (1558-1771) Từ cuối năm Mậu Ngọ
(1558), Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận hoá, lập nên xứ Nam Hà, cho đến năm Tân Mão
(1771) TâySơn khởi nghĩa. Trong ngót hai thế kỷ, võ Bình định đã tiến một bước dài, phát
triển đầy đủ các môn binh khí và đi vào nề nếp. Sự kiện chàng Lía xảy ra trong thời kỳ này
còn lưu lại một bài vè dài 1336 câu, chia làm 6 đoạn, đã phản ánh phần nào tình trạng võ
nghệ ở Bình định lúc bấy giờ. Kết hợp nội dung bài vè và lời truyền tụng của dân chúng về
cuộc đời của Liá, nhân vật tiếng tăm ấy có tên thật là Võ văn Ðoan, nhưng người đời quen
gọi thân mật là chú Lía, quê nội ở huyện Phù ly nay là Phù mỹ, cha mất sớm, Lía theo mẹ
về quê ngoại tại làng Phú lạc, tổng Thời hòa, huyện Tuy viễn, sau là thôn Phú lạc, xã Bình
thành, quận Bình khê (nay đổi huyện Tây Sơn). Nhà nghèo, mẹ thường đau yếu, Liá lại còn
nhỏ không làm ra tiền để nuôi mẹ. Nhiều lần Lía đến các nhà phú hộ xin bát cơm thừa hay
xin được họ thuê mướn, nhưng bị từ chối và còn bị mắng nhiếc thậm tệ. Lía tự nhủ: "Dốc
lòng cố giữ lòng thành, Mà trời chẳng giúp phải đành lòng tham" (vè chú Lía) nhỏ nhặt sắn
khoai để cứu sống mẹ qua cơn ngặt nghèo. Một hôm, Lía vào trộm gà vịt của một nhà phú
hộ, bị bắt qủa tang, họ trói và đánh đập tàn nhẫn trước khi giải cho hương chức để chịu một
trận đòn thừa chết thiếu sống khác. Từ đấy Lía nuôi trong lòng mối hận thù kẻ giàu có và
bọn cường hào ác bá. Có một hương sư, thương cho tình cảnh của Lía, bèn mướn chăn trâu.
Ngày ngày Lía thả trâu ăn cỏ trên các sườn đồi. Nhân có các võ sư thường đem môn sinh
đến mé núi dạy võ, Lía ghé mắt học lóm và tiếp thu rất nhanh, thấy đâu nhớ đó. Nhờ có sức
mạnh phi thường, thêm năng khiếu về võ nghệ, lại thông minh sáng tạo, một hôm thấy con
cá lóc nhảy từ dưới thấp lên ruộng cao, Lía học được ngay: Lía ta thấy vậy tức cườiKhen
con cá lóc vô hồi tài ba Chớ chi cá lóc dạy ta Học theo miếng đó, thiệt là mang ơn và chịu
khó tập luyện thành thạo: Nhảy cao như Lía thiệt tài Nóc nhà nhảy khỏi ai ai cũng nhường
Từ ấy bọn chăn trâu trong vùng tôn Lía làm "vua", chỉ có thằng Mướp không chịu phục,
muốn đấu võ với Lía, ai thắng mới chính thức lên ngôi vị: Mướp ta cầm một khúc cây Ðánh
nam đỡ bắc múa may loạn trào Nhưng hắn không đủ sức chống đỡ ngọn roi khốc liệt Ðường
côn toàn vẹn trăm bề Múa lên giông tố tiếng nghe vù vù nên Lía đã lỡ tay đập vỡ đầu thằng
Mướp chết ngay tại chỗ. Lía hoảng sợ, bỏ vào rừng trốn biệt. Bọn lục lâm từng nghe danh
Lía, bèn mời về sơn trại. Sau đó Lía cầm đầu một đảng cướp nổi tiếng. Nhưng Lía chỉ đánh
cướp những nhà giàu có mà gian ác hay những nhà của bọn tham quan ô lại. Nếu chủ nhà
biết điều, nộp tiền của và không chống cự, Lía chỉ lấy hai phần ba của cải, một phần để lại
cho chủ. Tài sản cướp được, Lía đem về sơn trại một nửa, nửa kia phân phát cho dân nghèo
trong vùng. Lía cấm đàn em không được sách nhiễu dân chúng, cấm chận đường cướp giật
bừa bãi hoặc thu tiền mãi lộ. Ðối với bọn cường hào có thành tích hà hiếp dân đen, Lía cho
thủ hạ trừng trị làm gương. Nhờ thế tuy là tướng cướp, Lía vẫn được dân chúng ủng hộ và
che giấu. Chính quyền địa phương tuy tốn nhiều thì giờ và công sức mà vẫn không dẹp được
đảng cướp của Lía. Các nhà giàu trong tỉnh lo sợ, bèn mướn võ sư canh giữ tài sản và tập
luyệnvõ nghệ cho gia nhân, tạo cho tỉnh nhà một số đông người rành võ nghệ và gây thành
phong trào học võ. Nhưng rồi Lía cũng chán đời thảo khấu, nhất là biết được mẹ già qua đời
vì buồn phiền về Lía, Lía buồn bã giã từ sơn trại ở vùng Phú phong huyện Bình khê, đi về
mạn bắc định tìm đến một nơi xa lạ, sống đời lương thiện. Thế nhưng, việc võ nghệ là
nghiệp chướng đeo đuổi mãi. Trên đường ra Quảng ngãi, Lía phải qua Truông Mây dài độ
vài cây số, hai bên mây rừng bao phủ dày đặc. Truông Mây, còn gọi là Hóc Sấu, nằm trên
hai thôn, đầu bắc là Phú thuận, đầu nam là Vĩnh hòa, thuộc Tổng Hạ, huyện Bồng sơn phủ
Hoài nhơn (còn có tên là phủ Qui nhơn và Qui ninh), nay thuộc xã Aân đức, huyện Hoài ân,
tỉnh Bình định. Ðịa thế Truông Mây rất hiểm trở, phía đông và đông nam gặp nhánh sông
Kim sơn chảy từ nam ra bắc, quanh năm nước xanh lè như màu lá, phía tây núi non trùng
điệp và có hòn Núi Một tách ra, sừng sững như chiếc bình phong. Nơi đây Lía bị một bọn
cướp chặn đường nên phải ra tay. Hàng chục tên cướp ngã gục. Chúng hoảng sợ, vội phi
báo với chủ trại là cha Hồ và chú Nhẫn. Lại một phen Lía phải tỉ thí với hai tên đầu sỏ toán
cướp: Cự đương một đánh với hai Tả xung hữu đột bụi bay mù trời Gặp ngọn roi thần của
Lía, bọn chúng phải bái phục: Lía càng sung sức hoành hành Cha Hồ chú Nhẫn thất kinh
đuối rồi Và rước về sơn trại rồi nhường chức thủ lãnh cho Lía. Trong thời kỳ này đã có
những cao thủ thuộc giới nữ lưu: Mụ Mân khoảng độ bốn hai Làu thông võ nghệ ít ai sánh
bìÐến nỗi trình độ võ như cha Hồ chú Nhẫn hiệp sức lại vẫn không thắng nổi: Phút thôi Hồ,
Nhẫn cả hai Ðuối tay kéo chạy như bay khác nào Nhưng khi gặp đường roi của Lía, mụ
Mân không thể áp đảo được: Lía ta bình tĩnh đối đang Mụ Mân tuy giỏi khó toan vẫy vùng
Rồi Lía dùng độc chiêu để hạ địch thủ: Cầm chừng mụ đánh một hồi Lía gạt đao gãy, đá bồi
một chân Và cũng từ ngày được tôn làm chủ soái Truông Mây, Lía đã ra lệnh cho thủ hạ
phải triệt để áp dụng tôn chỉ của mình. Truông Mây không còn là chỗ cướp bóc bừa bãi
khách bộ hành nữa mà trái lại còn bảo vệ người qua đường khỏi bị ác thú hãm hại. Nhờ vậy
đảng cướp được dân chúng có cảm tình, được nhiều người gia nhập và tiếng đồn về Lía
vang dội khắp vùng: Lía ta nổi tiếng anh hào Sơn hà một góc thiếu nào người hay Bạc tiền
thừa đủ một hai Chiêu binh mãi mã càng ngày càng đông Làm cho bốn biển anh hùng Mến
danh đều tới phục tùng chân tay Mục tiêu đánh cướp của Lía nhằm vào những: Kẻ nào tàn
ác lâu nay Lía sai cướp của đoạt tài chẳng dung Nhà giàu mấy tỉnh trong vùng Thảy đều
kinh sợ vô cùng lo toan Nhất nhì những bậc nhà quan Nghe chàng Lía dọa kinh hoàng như
điên Nhà nào nhiều bạc dư tiền Mà vô ân đức, Lía đều đoạt thâu Có binh hùng tướng mạnh,
Lía cho sửasang sơn trại thành đồn lũy, luyện tập đàn em thành thạo các môn quyền, roi,
đao, kiếm, siêu, thương, cung, ná... Lía nay ở chốn sơn trung Ngày đêm luyện tập ung dung
chén nồng Từ một đảng cướp, Lía đã tạo thành một lực lượng vũ trang có tổ chức, biết tự
túc tự cường: Lâu la mấy vạn tụ đông Võ rừng làm rẫy vun trồng bắp khoai Triều đình phái
một đội quân đông đảo đến đánh dẹp Truyền cho mười vạn binh hùng Dưới cờ đại tướng
binh nhung lên đàng Lía đã đón quan binh bằng chiến thuật bất ngờ, nhanh như một đường
roi bí hiểm: Lâu la kén đủ năm ngàn Thình lình cướp trại đánh ngang quân trào... Ðại tướng
thoát trận thoát nàn Về trào chịu tội mất thành binh tan Lần này, không thể xem thường Lía
như đám giặc cỏ, triều đình phải cử một tướng lĩnh tài ba: Ðô đốc võ nghệ vẹn toàn Quân
binh hùng dũng chiến tràng đua tranh Lía bèn giục ngựa ra thành Quyết cùng đô đốc giao
tranh so tài Ðôi bên xáp chiến cả ngày Bất phân thắng bại khen thay anh hào Nhưng rồi Lía
không làm sao giữ nổi thành trong thời gia dài: Tính toan thành khó giữ nào Bởi chưng quân
ít không sao chống kình Lía ngầm muốn tính bỏ thành Ngặt vì binh tướng trào đình phủ vây
Lía đã dùng ngón võ tuyệt vời để thoát thân:Cơn nguy chuyển hết sức thần Dùng miếng "cá
lóc" giậm chân nhảy liền Quân trào vây kín khắp miền Lía vọt ra khỏi rất nên kỳ tài Trên
đây là những câu trích trong vè Chú Lía cho thấy võ học Bình định ở thời kỳ này đã thịnh
hành và đóng vai trò then chốt trong chiến đấu. Chàng Lía là một Robin Hood của Bình
định. Triều đình đã dẹp yên đảng cướp ở Truông Mây, nhưng tình cảm của dân chúng đối
với chú Lía mãi mãi đi vào văn học: Chiều chiều én liệng Truông Mây Cảm thương chú Lía
bị vây trong thành

THỜI KỲ CỰC THỊNH (1771-1802) Từ năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nhạc dựng
cờ khởi nghĩa ở Gò Tô đất Tây sơn đến năm Nhâm Tuất (1802), vua Quang Toản bị bất ở
huyện Phượng nhãn tỉnh Bắc ninh, nền võ học Bình định mở ra một kỷ nguyên mới. Ðó là
võ Tây Sơn. Tam kiệt Tây Sơn gồm Nguyễn Nhạc (?-1793) anh cả, Nguyễn Huệ (1753-
1792) anh thứ, và Nguyễn Lữ (?-1788) em trai út, người làng Kiên mỹ đất Tây sơn, sau này
là thôn Kiên mỹ, xã Bình thành, huyện Bình khê (nay đổi huyện Tây sơn). Họ Nguyễn Tây
Sơn nguyên là họ Hồ, dòng dõi Hồ Qúy Ly. Oâng tổ bốn đời là Hồ Phi Khanh ở huyện
Hưng nguyên tỉnh Nghệ an. Năm Aát Tỵ (1655), Trịnh Nguyễn giao tranh lần thứ năm,
quân Nguyễn tấn công Nghệ an. Hồ Phi Khanh cùng một số dân chúng bị quân Nguyễn bắt
đem vào phủ Qui ninh huyện Tuy viễn để khai hoang. Oâng đến ở làng Bằng châu (nay
thuộc xã Ðập Ðá huyện An nhơn) được họ Ðinh đỡ đầu, gây dựng. Ðời con là Hồ Lang, dời
về làng Phú lạc xã Bình thành. Ðời cháu là Hồ Phi Phúc, dờiqua làng kế cận là Kiên mỹ.
Nơi đây, ba anh em Tây Sơn ra đời, trước theo họ cha, sau đổi ra họ mẹ là họ Nguyễn. Lúc
nhỏ, anh em Tây Sơn được học chữ Hán với thầy giáo Hiến, một bậc tài danh bất mãn vì
chế độ thối nát, nạn Trương Phúc Loan chuyên quyền, tham tàn. Sau đó, anh em Tây sơn
học võ với võ sư Ðinh Văn . Nhưng thường gọi là ông Chảng (hoặc Chẳng?), người làng
Bằng châu. Thầy võ là người bộc trực, gan dạ và ngang ngạnh nhất vùng, chẳng hề kiêng nể
bọn cầm quyền. Oâng tự phong "Chảng chảng ngang thiên". Câu ví von của người đương
thời "Ngang quá ông Chảng" nay đã trở thành tục ngữ. Ba anh em được thầy yêu qúy, dạy
cho nhiều thế võ bí truyền. Thấy được sự lợi hại của võ Bình định, tam kiệt Tây Sơn đã đem
võ thuật vào chiến thuật trong cuộc khởi nghĩa và phát huy võ học Bình định đến mức cực
thịnh. Trong binh đội Tây Sơn, mỗi chiến sĩ là một võ sĩ. Sự huấn luyện quân đội, cơ bản là
tập võ nghệ. Người lính phải biết sử dụng tất cả, hoặc một số các binh khí truyền thống sau
đây: 1.- Quyền: lối đánh võ bằng tay chân, còn gọi là thảo bộ. Quyền gồm nhiều thảo bộ,
chẳng hạn như : thảo bộ Phượng Hoàng, Tứ Hải, Thiền Sư, Ngọc Trản, Thần Ðồng, Lão
Mai, Ðộc Thọ...Hễ quyền giỏi thì roi cũng giỏi. Vì vậy quyền là môn võ tối cần. Quân Tây
Sơn đã dùng chiến pháp sở trường này trong khi xung phong giáp lá cà, thanh toán chiến
trường. 2.- Roi: lối đánh võ bằng gậy, còn gọi là côn. Roi không nên lớn quá hoặc nhỏ quá,
phải vừa cỡ tay nắm người sử dụng thì đường roi mới mạnh và nhanh. Có hai loại: roi
trường và roi đoản. Roi trường là roi trận, dài khoảng 2,50 mét, đầu lớn là đốc roi, đầu nhỏ
là ngọn roi. Người sử dụng roitrường ngồi trên ngựa và chỉ đánh một đầu. Roi đoản là roi
đấu, dài "tề mi" tức là ngang lông mày người sử dụng (chừng 1,60 mét). Roi đấu cầm ở giữa
thân roi nên có thể đánh cả hai đầu. Chẳng hạn đầu roi bổ xuống như trời giáng khiến đối
thủ lo chống đỡ , nhưng đó chỉ là cú đánh hư. Trong lúc ấy, nhanh như chớp đốc roi thúc
mạnh vào hạ thế đối thủ, đó mới là cú đánh thực. Ngày xưa, các võ sĩ thường vắt vai một
khăn lông to và dài, gặp khi bất trắc, có thể dùng khăn thế roi, gọi là roi nhuyễn tiên, không
phải là để đánh mà để "vung roi" che mắt đối thủ rồi xông vào hất tung binh khí. 3.- Song sĩ:
hai cây gỗ cứng kẹp dọc cẳng tay, ló ra ở hai đầu. Khi đấm hay thúc cùi chỏ thì đầu nào của
song sĩ cũng có thể ấn sâu vào cơ thể của đối thủ. 4.- Ðao: để chém và đâm. Nếu đao có lưỡi
bè ra rất lớn thì gọi là đại đao. 5.- Kiếm: gồm độc kiếm và song kiếm, lưỡi dài nhưng không
quá 1 mét. 6.- Siêu: giống như đao, nhưng cán dài. Thế võ kết hợp giữa kiếm và roi. 7.-
Thương, giáo, mác, lao đều có cán dài, dùng để đâm, đánh và phóng. 8.- Xà mâu, đinh ba,
bừa cào đều có cán dài nhưng đầu có nhiều nhánh, đường võ chậm chạp, ít thông dụng. 9.-
Lăng, khiên: tròn dẹp, có tay nắm ở tâm điểm; dùng để che đỡ khi lâm trận. 10.- song chùy:
hình cầu bầu dục, xẻ răng cưa như cạnh khế, có cán nắm, dùng để đánh, cũng ít sử dụng.
11.- Dây xích bằng sắt dùng để quất, lợi thế như một cây roi. 12.- Cung, ná, nỏ dùng để bắn
tên khi đối thủ còn ở xa. Một đặc điểm của võ Tây Sơn là mỗi thế võ đều có bài thiệu đi
kèm, tức là phần lý thuyết được diễn thành thơ có vần, có điệucho dễ đọc, dễ nhớ. Người
học võ, phải thuộc lòng bài thiệu, đọc đến đâu múa đến đó, lý thuyết ăn khớp với thực hành.
Lối học võ này rất tiện cho việc luyện tập nhiều người cùng một lúc, được áp dụng trong
trường huấn luyện quân đội của Tây Sơn. Thời ấy còn sáng chế ra điệu trống trận Tây Sơn.
Người đánh, cùng một lúc sử dụng nhiều trống, tối đa 12 cái, và phải dùng thế võ côn quyền
mới đánh được. Ðánh bằng dùi cả hai đầu, gọi là roi trống, vừa đánh cả hai bàn tay, cổ tay,
cùi chỏ, vai... làm cho tiếng trống phát ra những âm thanh khác nhau, nghe rất hùng tráng.
Lúc ra trận, dùng hai trống lớn, đánh theo võ nhạc trận, âm thanh vang xa, dồn dập, khích
động. Chiến thuật của Tây Sơn là áp đảo đối phương từ tầm xa đến tầm gần. Xa thì có đại
bác đặt trên mình voi. Khi cách mục tiêu chừng 100 mét thì dùng súng trường. Gần thì đến
lượt cung nỏ, rồi hỏa hổ. Cuối cùng là xung phong cận chiến, dùng các thế võ để giải quyết
chiến trường theo nguyên tắc "nhất nhân địch quần nhân". Như vậy, đội quân Tây Sơn
không cần đông mà cốt ở tinh và dũng cảm. Binh đội gọn nhẹ, di chuyển nhanh chóng, thích
hợp với lối tác chiến thần tốc. Ðánh nhanh đánh mạnh, hư thực không rõ, bất ngờ thọc sâu
vào kẽ hở của địch quân. Chiếm mục tiêu thì dùng tượng binh làm lá chắn, vừa là pháo đài
di động cho bộ binh tiến lên. Ðó là kỹ thuật tác chiến của Tây Sơn, ảnh hưởng bởi bản chất
con nhà võ. Tương truyền các tướng Tây Sơn đều là những tay võ xuất chúng. Nguyễn Huệ
sở trường về roi. Nguyễn Lữ xuất sắc về côn quyền, đã sáng chế ra Hùng Kê quyền, lấy từ
các thế võ của gà đá. Võ văn Dũng rất giỏi về đao, người đời có câu truyền tụng Phá sơn
trung tặc, dị Thắng Văn Dũng đao, nan(Phá được giặc trong núi thì dễ, thắng được ngọn đao
của Văn Dũng thì khó) Ðặng văn Long (có sách chép là Mưu) lại quán thông cả cương
quyền (ngạnh công) lẫn miên quyền (nhuyễn công) với đôi tay mạnh và cứng như sắt nên
người đời thường gọi là Ðặng thiết tí. Bùi thị Xuân thì không ai bì kịp về môn kiếm. Tóm
lại, võ Tây sơn là võ truyền thống của Bình định đã được tập hợp và tinh luyện để đưa vào
quốc phòng. Võ trở thành chiến lược độc đáo của Tây Sơn, thời huy hoàng nhất của võ học
Bình định. THỜI KỲ ẨN MÌNH (1802-1867) Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Aùnh dẹp
nhà Tây Sơn và lên ngôi vua, xưng đế hiệu là Gia Long. Không những nhà vua trả thù dã
man đối với Tây Sơn mà còn có cả một kế sách lâu dài, nhằm tận diệt tất cả những gì có liên
quan đến Tây Sơn. Vì vậy võ Tây Sơn không còn được lưu hành nữa. Các nhà võ rút lui vào
bóng tối, chỉ âm thầm truyền dạy cho con cháu. Các bài thiệu cũng phải dấu trong trí nhớ và
chỉ truyền miệng trong phạm vi gia đình. Ðiệu trống Tây Sơn im bặt trong những ngày lễ
hội đông người. Thời kỳ này kéo dài suốt các triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và đầu
đời Tự Ðức. Vì thế nền võ học Tây Sơn đã bị thời gian làm mai một rất nhiều. THỜI KỲ
TRUNG HƯNG (1867-1924) Từ khi vua Tự Ðức lên ngôi (1847), quân Pháp luôn luôn tìm
cách gây hấn với nước ta để có cớ xâm chiếm. Năm 1858, liên quân Pháp và Tây ban nha
đánh chiếm bán đảo Sơn trà, Ðà nẵng. Năm 1859, thành Gia định thất thủ. Năm 1861, mất
Ðịnh tường (Mỹ tho), đảo Côn lôn và Biên hòa. Năm 1867,Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây
Nam kỳ là Vĩnh long, An giang, Hà tiên. Trước tình thế khẩn trương, cần tăng cường quân
đội để bảo vệ những phần đất còn lại. Ðối với Tự Ðức, đề phòng Tây Sơn không còn là việc
thiết thực nhưng họa xâm lăng của Pháp thì sờ sờ trước mắt. Vì thế năm 1867, nhà vua cho
thành lập trung tâm tuyển chọn võ quan ngay trên miền đất võ. Ðó là trường thi Hương võ
Bình định tại thôn An thành, tổng Thời đôn, huyện Tuy viễn phủ An nhơn, nay là thôn An
thành xã Nhơn lộc huyện An nhơn và chỉ cách trường thi Hương Văn (tại Hòa nghi, xã
Nhơn hòa) vài cây số xuyên qua các thôn Trường cửu, Quang châu dọc theo hữu ngạn nam
phái sông Côn. Vốn sẵn truyền thống yêu thích võ nghệ, nay được nhà vua mở trường thi,
tuyển chọn nhân tài, cách mạch võ ẩn tàng hơn sáu mươi lăm năm qua, giờ đây bùng lên trổ
hoa kết trái. Các lò võ ở Bình định mọc lên như nấm. Những đêm trăng, trong sân nhà hay
trên dãy gò hoang vắng, tốp năm tốp ba, võ sinh miệt mài tập luyện. Rồi kinh đô thất thủ
(1885), vua Hàm Nghi bôn đào và xuống chiếu Cần vương. Võ Bình định đã góp phần vào
việc chống Pháp. Lãnh tụ phong trào Cần vương ở Bình định, anh hùng Mai Xuân Thưởng,
là một người văn võ song toàn. Trong bài Ðiếu Mai Nguyên Súy (Mai xuân Thưởng),
Nguyễn Bá Huân, một danh sĩ đương thời, đã hết lòng khâm phục: Ðan tâm chỉ vị cứu
lương dân Hoành sóc ngâm thi hữu kỹ nhân Nhất phó hung khâm hoành vũ trụ Tam niên
cầm kiếm định phong trần... Tống Phước Hổ dịch: Lòng son chỉ muốn cứu lương dân Vung
giáo, ngâm thi mấy kẻ bằngMột tấm lòng trung trùm vũ trụ Ba năm đàn kiếm sạch phong
trần Dưới cờ khởi nghĩa của Mai nguyên soái, ở Bình khê có một dòng võ mà cả ba thế hệ
gồm hàng trăm võ sĩ, võ sinh đã theo thầy đứng trong hàng ngũ nghĩa quân. Ðó là lò võ Lê
Thượng Nghĩa, sư tổ của Hồ Tá Quốc. Hồ Tá Quốc đã ca tụng tay kiếm lợi hại của thầy
trong việc cứu nước, qua bài tặng Lê công Thượng Nghĩa: Lão sư thân thủ nhược du long
Lẫm liệt tu mi khí lực hùng Tích nhật Cần vương đồng tá quốc Tây trù trảm tận hiển hùng
phong Ðào Văn dịch: Nhớ thầy dáng tựa rồng bay Ðường gươm nhát kiếm râu mày xứng
danh Theo vua vì nước quên mình Dẹp tan lũ giặc đinh ninh lời nguyền Trong bài Trường
Uùc sơn quan đại chiến hậu, hựu đại thắng ư Cẩm Văn thôn hữu cảm (cảm xúc sau khi đánh
lớn trên ải Trường úc, lại thắng lớn ở thôn Cẩm văn), sư tổ Lê Thượng Nghĩa cũng đã nói
rõ, thắng lớn là nhờ áp dụng võ thuật vào chiến thuật: Binh nhung hào kiệt vũ Ngô câu
Xung đột trùng vây trảm tặc đầu Trường úc, Cẩm văn tề báo tiệp Nghĩa binh thanh giá chấn
toàn châu Việt Thao dịch: Diệt thù, hào kiệt múa gươm thiêng Xông phá vòng vây chém
giặc liền Trường úc, Cẩm văn đều thắng lớn Nghĩa quân lừng lẫy khắp trong miền Tướng
Ðặng Ðề, cũng người quận Bình khê (tức huyện Tây sơn), một tay võ nghệ nổi tiếng, đã chỉ
huy mặt trận Thủ thiện, choquân xung phong cận chiến, có trống trận yểm trợ tinh thần y
như đạo quân Tây Sơn ngày trước, ông viết: Thủ thiện thôn trung bề cổ động Nghĩa binh
phấn dũng vũ đao thương... Việt Thao dịch: Thủ thiện, trong thôn trống trận rền Nghĩa quân
dũng cảm giáo vung lên Năm 1908, làng võ Bình định lại một lần nữa góp phần chống Pháp
trong phong trào Kháng thuế tại tỉnh nhà. Các võ sĩ ở An vinh và An thái tham gia rất đông.
Họ lãnh trách nhiệm trừng trị bọn tay sai của Pháp và những tên thổ hào dựa vào giặc để
nhiễu hại dân lành. Căn cứ vào các châu bản triều Duy Tân trong quyển Phong Trào Kháng
Thuế Miền Trung năm 1908 của Nguyễn Thế Anh (xuất bản tại Sài gòn năm 1973) thì ở
huyện Bình khê có Hà Khuê, Hồ Cường, Lê Lý, Lê Hữu, Lê Thức, Võ Nghiệp... đã lùng
kiếm các viên chức đấc lực của chính phủ Bảo hộ để trừng trị, tiêu biểu có tên Vinh và Giao
bị nịch sát. Ở vùng An vinh (Bình Khê) và An thái (huyện Tuy viễn) có Nguyễn văn Khải lý
trưởng An vinh, đã chỉ huy toán bắt cóc bọn tay sai cho giặc, tiêu biểu có tên Uẩn đền tội,
xác thả trôi sông. Ơû huyện Phù cát có Nguyễn Hoành đã tổ chức ám sát hai tên gian ác là
Bá và Tường do phủ phái tới. Ơû huyện Bồng sơn có Ðỗ Dương, Nguyễn Ðiềm, Phạm Quế,
Phan Thuần đem thủ hạ khoảng 50 người cầm đao côn đến huyện đường kháng cự với lực
lượng đàn áp. Ngoài ra, toán võ sĩ còn thi hành bản án tử hình đối với thường dân đã tham
tiền làm do thám hay chỉ điểm cho giặc, như trường hợp nịch sát tên thợ Cẩn để làm gương.
Khoảng năm 1920, cả hai tỉnh Bình định và Phú yên mất ăn mất ngủ vì nạn cướp Dư Ðành.
Võ sĩ các phủ, huyện Bình khê, An nhơn, Tuy phước, Phù cát được quan tỉnhđiều động vào
việc bắt cướp. Dư Ðành người làng Kiên ngãi, xã Bình thành huyện Bình khê, giỏi võ nghệ
và có sức mạnh phi thường. Hắn có thể kẹp nách một con bò nghé, nhẹ nhàng như bồng một
đứa bé. Người đương thời ví Dư Ðành "sức đương Hạng Võ, mạnh kình Trương Phi". Dư
Ðành cầm đầu một toán cướp 11 tên. Hựu (quân sư), Phỉ, Cao, Ðen... toàn là những tên
cướp tên tuổi. Chỉ có tay roi Hồ Ngạnh ở Thuận truyền là Dư Ðành né tránh, còn Bảy Lụt
cũng là một tay quyền nổi tiếng ở An vinh, bị Dư Ðành và đồng bọn phục kích đánh bất tỉnh
để cảnh cáo làng võ đang tìm bắt chúng: Dư Ðành sức mạnh quá trâu Vùng lên đánh ngã cả
xâu triều đình (Ca dao) Triều đình khiển trách quan tỉnh, tỉnh nạt xuống huyện. Quan huyện
đổ cáu trút lên đầu làng xã. Khổ cho đám dân đinh phải canh phòng nghiêm nhặt suốt ngày
đêm, lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm mà vẫn không tìm ra tung tích bọn cướp. Tình cờ,
Dư Ðành bị bắt ở vùng Dương an, huyện Tuy phước, lúc đang ngủ say dưới lòng tảng đá
hàm ếch, thuộc núi Phước an. Người ta phải lập thế dùng ba khúc danh mộc "Kiềng kiềng
ba khúc cán ngay yết hầu" (vè Dư Ðành) và có súng bắn thị uy, Dư Ðành mới chịu bó tay.
Xét cho cùng, thời kỳ trung hưng đã trải dài trên nửa thế kỷ, nhưng làng võ Bình định không
thể có lại cảnh huy hoàng rực rỡ như thời Tây Sơn. Tuy vậy võ học Bình định thời kỳ này
cũng đã phục hưng được ý hướng tốt đẹp là dạy võ, học võ để ứng thí, cứu nước và giúp
đời.

THỜI KỲ NGOẠI NHẬP (1924-1945) Từ xưa Bình định đã có câu truyền tụng:
"Roi Thuận truyền, quyền An vinh", và "Trai An thái, gái An vinh" là những địa danh thuộc
tỉnh, đã phát tích những dòng võ nổi tiếng và nối nghiệp cho đến bây giờ. Thôn Thuận
truyền thuộc xã Bình thuận, quận Bình khê. Thôn An vinh thuộc xã Bình an, cùng huyện.
Còn An thái xưa là một thị tứ, nằm trong thôn Mỹ thạnh, xã Nhơn phúc, huyện An nhơn.
"Roi Thuận truyền" trước xa nữa không rõ ông tổ là ai, nhưng đến đời ông Ba Ðề thì truyền
cho Hồ Ngạnh. Hồ Nhu là tên thật của Hồ Ngạnh, sinh năm 1891, mất năm 1976, thọ 85
tuổi. Oâng nguyên quán thôn Háo ngãi, xã Bình an, huyện Bình khê, trú quán ở Thuận
truyền, xã Bình thuận cùng huyện. Cha là ông Ðốc Năm, một võ quan của triều Nguyễn. Mẹ
cũng là con nhà võ. Ngay từ lúc bé, ông đã được cha mẹ dạy võ gia truyền. Lớn lên, ông học
roi của cao sư Ba Ðề, học nội còng của ông Ðội Sẻ, tiếp đến học roi của ông Hồ Khiêm.
Ðường roi kết hợp tinh hoa của nhiều thầy, lại thêm nội công nên cứng cáp và sâu hiểm vô
cùng. Từ roi thế, roi đấu, roi chiến đến roi trận, ông đều tinh thông và độc đáo. Khoảng năm
1932, tiếng tăm ông đã vang dội khắp bốn tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú. Nghe danh, học trò
đến thọ giáo rất đông. Con trai chết sớm, ông truyền nghề cho cháu nội, nay là võ sĩ Hồ
Sừng. Học trò lớp lớn có ông Mười Mỹ (sinh năm 1912) ở Trường úc xã Phước nghĩa huyện
Tuy phước được riêng dạy ngón độc chiêu bí truyền. Học trò lớp sau có Ðinh văn Tuấn ở
Qui nhơn, đang độ sung sức, nối nghiệp làm vẻ vang cho lò võ Thuận truyền. "Quyền An
vinh" có từ lâu, nhưng cũng chỉ biết từ đời ông Hương mục Ngạc. Lò võ này còn có ông
Năm Nghĩa, cũng là bạn đồng môn đồng khóa, nhưng sau lại chuyên về roi. Hương mục
Ngạc học quyền Bình định rồi học thêm quyền Tàu của ông Khách Bút. Sở dĩ ông nổi tiếng
là nhờ tổng hợp được nhiều nguồn võ khác nhau, tạo nên tayquyền xuất sắc nhất trong làng
võ Bình định đương thời. Oâng có ba người con là Bảy Lụt, Tám Cảng (nữ) và Chín Giác
đều tinh thông võ nghệ. Oâng dạy nhiều học trò, có người nổi tiếng như Hai Tửu. Bảy Lụt
chẳng những xuất sắc về võ thuật mà còn gan dạ và có sức mạnh đáng kể, với tay không có
thể vật ngã một con trâu đực đang sung sức. Bảy Lụt truyền nghề cho Phan Thọ. Sau này
Phan Thọ còn học thêm võ trận Tây Sơn với ông Sáu Hà nên đã tiếp thu được cả tinh hoa
quyền An vinh từ mạch võ Hương mục Ngạc lẫn võ chiến của Tây Sơn. Hiện nay lò võ
Phan Thọ ở thôn Thủ thiện huyện Bình khê vẫn đông học trò dù ông nay đã vào tuổi thất
tuần. An thái cũng có những dòng võ nổi tiếng mà câu ca dao nói đến Hội Ðổ Giàn tại chùa
Bà ở vùng này đã đề cập: Tiếng đồn An thái, Bình khê Nhiều tay võ sĩ có nghề tranh heo
Nhưng đến năm 1924, một biến cố xảy đến cho làng võ Bình định nói chung và dòng võ
truyền thống của làng An thái nói riêng. Ðó là sự xuất hiện của môn phái quyền Tàu. Người
sáng lập ra môn phái này là ông Tàu Sáu, tên thật là Diệp Trường Phát, sinh năm 1896 tại
An thái. Tuy là người Tàu nhưng dòng dõi ba đời đều ở An thái, bà nội và mẹ ông đều là
người Việt. Ơû quê mẹ, gia đình và bản thân Tàu Sáu đã hấp thụ tinh thần thượng võ nên
khi được 13 tuổi, ông được gửi về Tàu để học võ từ những cao sư Bắc phái Thiếu lâm. Sau
15 năm ròng rã tầm sư học võ, ông Tàu Sáu lúc bấy giờ đã 28 tuổi, trở lại An thái, mở
trường dạy quyền Tàu . Ông dạy võ gần 50 năm, môn đệ rất đông, không bao lâu phái quyền
Tàu Thiếu lâm của ông đã rải khắp miền đất võ và ở An Thái . Có người vì thế sửa lại câu
truyền tụng từ xưa ra "roi Thuận truyền, quyền An thái". Dân Bình định đến với lò võ Tàu
Sáu, cóngười vì xuất thân chuyên về quyền Tàu như Ðào Hoành, Hải Sơn; có người chỉ để
bổ túc cho tay roi võ truyền thống được cứng cáp thêm như Mười Mỹ. Trong thời kỳ này,
ngoài võ Thiếu lâm của Tàu Sáu còn có võ Thái cực đạo, võ quyền Anh cũng xâm nhập
làng võ Bình định và được người Pháp nâng đỡ để giảm bớt ảnh hưởng của võ truyền thống.
Chính phủ Bảo hộ thường tổ chức những cuộc đấu võ đài đến chết mới thôi. Cảnh tượng
ghê rợn, trên đài có một cỗ quan tài để sẵn. Các lò võ cố luyện cho gà nhà những cú đánh
tàn bạo, độc hiểm để thủ thắng càng nhanh càng tốt, vì thế gây nên sự thù hằn, hiềm khích
giữa các lò võ. Ðó chính là mục đích "chia để trị" của thực dân. Tuy nhiên vẫn có những
nhà võ ý thức được điều đó. Họ khước từ những cuộc thách thức tranh tài, chỉ đóng cửa
truyền võ để khỏi mất dòng và để tự vệ.

THỜI KỲ TRẦM LẮNG (1945 đến nay) Cuộc chiến kéo dài 30 năm với vũ khí tối
tân; côn, quyền, gươm, giáo không còn tính cách quyết định cho cuộc chiến nữa. Số người
học võ để đi thi đã chấm dứt từ lâu. Học võ để phòng cướp hay làm mưa làm gió như Dư
Ðành cũng không còn. Hội Ðổ giàn, tục Tranh Heo đã mai một từ khi khói lửa lan tràn. Số
người học võ tuy dần dần giảm bớt nhưng tinh thần thượng võ đã trở lại với ý nghĩa chân
chính. Trong ý nghĩa tìm về cội nguồn, tưởng nhớ đến người sáng lập võ Tây Sơn, năm
1960, nhân dân toàn quận Bình khê đã chung sức lập xong đền thờ Tam Kiệt Tây Sơn tại
nền đình cũ đã bị phá hủy thời Việt minh. Nguyên khuôn viên ấy là vườn nhà của gia đình
ba anh em Tây Sơn. Vua Thái Ðức (Nguyễn Nhạc) lên ngôi, cho xây dựng thành một nhà từ
đường khang trang. Khi Gia Long diệt Tây Sơn, ra lệnh san phẵng ngôi nhà. Sau dân làng
lập ngôi đình làng Kiên mỹ tại đó và bí mật thờ Tam Kiệt Tây Sơn. Ðền thờ Tây Sơn có ba
gian. Gian giữa thờ Quang Trung Hoàng đế. Hai gian bên thờ vua Thái Ðức và Ðông Ðịnh
vương Nguyễ Lữ. Trước sân đền đặt tượng bán thân của vua Quang Trung và dựng bia ca
tụng ngài. Cũng từ năm 1960, hằng năm cứ vào ngày mùng 5 Tết Nguyên đán, tỉnh Bình
định lại tổ chức trọng thể lễ Ðống đa. Trong ngày lễ hội có biểu diễn võ trận và trống trận
Tây Sơn. Người xem hội từ các nơi đổ về đông nghẹt đường. Năm 1972, hội Võ thuật Bình
định được thành lập, thành phần sáng lập viên gồm có: các võ sư Hà Trọng Sơn, Huỳnh
Liễu, Lý Xuân Tạo, Nguyễn Nghè, Nguyễn Thông, Nguyễn văn Thành, Thanh Hoàng,
Thành Nở, Xuân Sơn Quảng và ba huấn luyện viên là Lý Thành Nhân, Nguyễn Thành
Công, Xuân Trường Tịnh. Thanh Hoàng có tên thật là Nguyễn Bính, sinh năm 1935, người
thôn An phú xã Phước lộc, huyện Tuy phước được bầu làm Tổng thư ký. Tôn chỉ của hội là
bảo tồn và phát triển võ Bình định. Hoan nghênh các phái võ khác hội nhập vào làng võ
Bình định làm phong phú thêm cho nền võ học tỉnh nhà; nhưng cương quyết ngăn chặn các
môn võ ngoại lai đang muốn đồng hóa võ truyền thống. Một điều quan trọng là từ năm 1972
hội võ thuật Bình định được thành lập với đầy đủ các môn võ của Bình định. Trước đó chỉ
có Phân cuộc Quyền thuật Bình định được thành lập mà thôi và trực thuộc vào Tổng cục
Quyền thuật Sài gòn. Lại nữa, võ Bình định cũng được phổ biến rộng rãi qua các võ đường
ở Sài gòn và các tỉnh, như võ đường Sa Long Cương ở Sài gòn do sư trưởng Trương Thanh
Ðăngngười Bình định tổ chức, dạy cả võ Bình định lẫn võ Thiếu lâm. Thời kỳ này có những
nhà sư nổi tiếng về võ Bình định như thượng tọa Bửu Thắng, tuổi ngoài 80, trụ trì chùa
Quang Hoa huyện Tuy phước, là tay roi chiến thượng thặng; sư Hạnh Hòa, khỏang ngũ
tuần, trụ trì chùa Long phước, huyện Tuy phước, một tay võ danh tiếng; sư chú Vạn Thanh,
30 tuổi, cũng ở chùa Long phước, tay roi tay đao đang thời kỳ sung sức. Vào đầu thập niên
1970, một ngôi sao lóe sáng trên vòm trời võ học Bình định: nữ võ sĩ Thanh Tùng của miền
sông Côn. Chưa ai thấy cô thắng trên võ đài hay từng tranh tài cao thấp với ai, người ta chỉ
thấy Thanh Tùng ở điện thờ Quang Trung dịp lễ Ðống Ða biểu diễn các bài quyền như Lão
Mai Ðộc Thọ hay bài roi nhụ Tấn Nhất Ô Du là đã đủ khiếp. Xét cho cùng, điều ấy là lẽ dĩ
nhiên. Thanh Tùng là con nhà võ, đời đời nối nghiệp và thừa hưởng các ngón bí truyền của
một dòng võ cao thủ. Ông nội của Thanh Tùng là một tay roi quỉ khiếp thần kinh, người
đồng thời và xứng tài với Hồ Ngạnh. Thân sinh cô vẫn nối nghiệp nhà, giữ vai trò đứng đầu
hàng võ tại địa phương. Rồi đến Thanh Tùng, tuy là gái, cô vẫn tiếp nối thừa hưởng tinh hoa
của con nhà võ. Học võ thì phải học luôn cả thuốc võ để tự chữa trị những chấn thương do
đánh võ gây nên. Tuy nhiên trong trường hợp thương tích quá nặng thì phải tìm đến các
thầy thuốc võ chuyên môn. Họ cũng trong đội ngũ làng võ Bình định, vì phải xuất thân từ
những lò võ danh tiếng mới học được các bài thuốc bí truyền. Một số danh sư về thuốc võ
như : võ sư Hồ Ngạnh, Hoà thượng Huyền Ân trụ trì chùa Bích Liên huyện An nhơn, Lê
văn Chương ở thị trấn Bình định, Minh Tân Phạm Hà Hải ở Qui nhơn... tiếc rằng Hồ Ngạnh
vàsư Bích Liên đã qua đời, nhưng trong làng thuốc võ Bình định còn biết bao danh sư khác
nối tiếp được chân truyền. Ngày nay, lớp người trên dưới 60 tuổi đang giữ vai trò nòng cốt
cho làng võ Bình định, tuy không nhiều nhưng rải khắp nơi trong tỉnh. Ở Qui nhơn có Ðinh
văn Tuấn, tác giả cuốn Võ thuật Cổ truyền Bình định; Kim Ðình gốc người Hoài nhơn;
Nguyễn Lê Thanh. Ơû Bình khê có Hồ Sừng (cháu nội Hồ Ngạnh), Phạm Thi, Phi Long.
Huyện Tuy phước có Thanh Hoàng (cựu Tổng thư ký hội Võ thuật Bình định) ở Cầu Gành,
Hồng Khanh, Minh Tinh (con võ sư Xã Hào) ở Trường úc, Ðào văn Thanh ở Phước thuận
và Trần Can ở ngả ba Diêu trì, cả hai đều thuộc mạch võ của Hà Trọng Sơn; nhà chùa thì có
các sư Hạnh Hòa, Vạn Thanh ở chùa Long phước, huyện An nhơn có Lý Thành Nhân (con
võ sư Lý Xuân Tạo) ở Ðập Ðá, Vũ Lê Cang. Huyện Phù cát có võ sư Trần Diễn. Và các
huyện phía bắc là Phù mỹ có Kim Hòa, ở Hoài nhơn có Nguyễn văn Chức, Nguyễn Thành
Tín... Mạch võ Bình định như một dòng sông, lúc uốn khúc, lúc bằng phẳng, khi vơi khi
đầy, nhưng với khí thế của đất trời "ba dòng sông chảy, ba dãy non cao, biển đông sóng vỗ
dạt dào, tháp kia làm bút ghi tiếng anh hào vào mây xanh", dòng chảy ấy không bao giờ dứt.
Ðào Ðức Chương.

PHƯƠNG PHÁP TỌA THIỀN H.T THÍCH THANH TỪ


Tên sách: Phương pháp tọa thiền Tác giả: H.T. Thích Thanh Từ Thể loại: Tôn giáo Nhà
xuất bản: TP. Hồ Chí Minh Năm xuất bản: 8/2004 Khổ: 10x15 cm --------------------- Nguồn:
thientongvietnam.net Chuyển sang ebook (TVE): Tovanhung

NgàyTrong các oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, chúng ta phải tập sống trong trạng thái tỉnh
thức,hằng thắp sáng hiện hửu của mình trong mọi hoạt động hàng ngày. Tuy nhiên đối với
người sơ cơ, tọa thiền vẫn là một phương pháp thù thắng hơn các oai nghiNgồi lên bồ đoàn,
xương cùng đúng giữa bồ đoàn, nghiêng qua nghiêng lại cho an ổn mới kéo chân ngồi. Nếu
ngồi bán già, kéo chân trái để lên chân phải hoặc ngược lại. Nếu ngồi kiết già, chân trái kéo
để lên đùi phải, chân Nới rộng dây lưng, cổ áo, sửa thân ngay thẳng. Lấy bàn tay phải để lên
bàn tay trái. Hai bàn tay để lên hai lòng bàn chân,Những ngón tay chồng lên nhau, hai đầu
ngón tay cái vừa chạm nhau, nằm ngay chiều rún. Nếu lòng bàn chân bên nào trũng. Nên
dùng khăn chêm vào cho bằng. Cùi chỏ vừa ôm hông là được.Chuyển động thân 3 lần, ban
đầu mạnh, sau yếu dần. Ngồi lưng thẳng vừa phải, đừng quá ưỡn cũng đừng để cong hoặc
ẹo, đầu hơi cúi (lưng còng và đầu cúi dễ sanh hôn trầm) chiều chóp mũi ngay đầu ngón tay
cái, hai trái taiTrụ Có ba phương pháp dành cho người sơ cơ: 1. Sổ tức quán Sổ là đếm, tức
là hơi thở, sổ tức quán là quán sát hơi thở ra vô, đếm từ một đến mười. Có hai cách Quán Sổ
Tức: Nhặt và Khoan. * Nhặt: Hít hơi vôvào an ổn đôi ba phút, buông hơi thở để tâm an tịnh,
vừa có vọng khởi liền biết vọng không theo, vọng lặng thì tâm thanh tịnh. Vọng dấy liền
biết có vọng, cứ thế cho đến vọng thưa dần và im bặt. Nếu mơ màng ngủ gục thì"Nguyện
đem công đức này Hướng về khắp tất cả Ðệ tử và chúng sanh Ðều
trọn thành Phật đạo". Kế đến, dùng mũi hít vào, dùng miệng thở ra ba hơi (từ nhẹ đến
mạnh). Hít vô tưởng như máu huyết theo hơiÐộng hai bả vai mỗi bên lên xuống 5 lần. Ðộng
cái đầu cúi xuống ngước lên 5 lần. Xoay đầu sang phải.Xoay đầu sang trái mỗi bên 5 lần, rồi
trở lại cúi ngước lên xuống 1 lần nữa cho quân bình. Ðộng hai bàn tay co duỗi 5 lần. Ðộng
thân 7 lần, lần chót dời hai bàn tay úp lên 2 đầu gối, nhấn mạnh xuống.Xoa hai lỗ tai 20 - 30
lần. Xoa đầu 20 -30 lần. Xoa sau gáy 20 -30 lần. Xoa cổ 20 -30 lần.Dùng bàn tay phải xoa
từ vai xuống cánh tay. Bàn tay trái xoa từ nách xuống bên hông, hai bên kết hợp xoa một
lượt mổi bên 10 lần. Lòng bàn tay phải đặt lên ngực, lưng bàn tay xoa lên lưng, hai tay kết
hợpDùng hai bàn tay xoa thắt lưng. Xoa mông. Xoa đùi (xoa đùi tùy theo sự đau nhiều hay
đau ít không có số lượng).Xoa hai ngón tay giữa cho nóng Áp vào mắt mổi bên 5 lần. Một
tay nắm đầu các ngón chân, một tay giơ cổ chân từ từ để nhẹ xuống. Hai bàn tay cùng xoa
mạnh lên xuốngđùi đến bàn chân và xoa nóng 2 lòng bàn chân. Xoa bàn chân này xong rồi
xoa bàn chân kia, xoa tùy thích không có số lượng. Duỗi hai chân ra Thân rướn về phía
trước, các ngón tay vừa chạm đầu các ngón chân 5 lần.Thống nhất Phương Pháp Toạ Thiền
do Hoà Thượng dạy tại Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt ngày 8.2.Kỹ Mão ( 25.03.1999)

You might also like