Professional Documents
Culture Documents
Trong phạm vi quốc gia thì thị trường làm cho các quan hệ sản xuất lưu thông
Trong phạm vi quốc gia thì thị trường làm cho các quan hệ sản xuất lưu thông
phân
phối, tiêu dùng trở thành một thể thống nhất. Thị trường không phụ thuộc vào địa giới
hành chính. Thị trường gắn kết mọi chủ thể giữa các khâu, giữa các vùng miền vào một
chỉnh thể thống nhất. Thị trường phá vỡ ranh giới sản xuất tự nhiên, tự cấp, tự túc để tạo
thành một hệ thống nhất định trong nền kinh tế.
Trong quan hệ với nền kinh tế thế giới, thị trường làm cho kinh tế trong nước gắn liền
với nền kinh tế thế giới. Các quan hệ sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng không chỉ
bó hẹp trong phạm vi nội bộ quốc gia, mà thông qua thị trường, các quan hệ đó có sự kết
nối, liên thông với các quan hệ trên phạm vi thế giới. Với vai trò này thị trường góp
phần thúc đẩy sự gắn kết nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và
trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị. Vì việc sản xuất và trao
đổi hàng hóa phải được tiến hành trên cơ sở của giá trị (hao phí lao động xã hội cần
thiết). Quy luật giá trị có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ,
làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; tác dụng lựa chọn, đánh giá người sản
xuất, bảo đảm sự bình đăng đối với người sản xuất; và cả những tác động tích cực lẫn
tiêu cực.
hình thức lao động có vai trò lớn. Khu vực dịch vụ, các hàng hóa phi vật thể, vô hình
chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế.
2. Hạn chế:
- công nghệ của Việt Nam dù đã được cải tiến nhưng vẫn còn thua kém hơn so với các
nước phát triển, do phần lớn các công nghệ này vẫn còn là công nghệ đã không còn được
sử dụng ở nước ngoài và được bán lại cho thị trường Việt Nam với giá thành rẻ.
- nhiều doanh nghiệp có nguồn lực hạn hẹp, thì sau khi đổi mới công nghệ một lần thì họ
phải chờ một quãng thời gian khá dài mới có thể huy động tiền để tiếp tục đổi mới công
nghệ trong khi khoa học kĩ thuật đang biến đổi từng ngày.
- Nguồn lao động có khả năng đáp ứng yêu cầu tuyển dụng vẫn còn thấp.
3. Giải pháp:
- Các doanh nghiệp trong nước cần cố gắng trong việc thay đổi công nghệ.
+ Hiện nay có nhiều doanh nghiệp trong nước đã tiến hành hợp tác với các doanh
nghiệp nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi, vừa giúp doanh nghiệp nước ngoài làm
quen nhanh chóng hơn với nền kinh tế trong nước, vừa tạo điều kiện giúp doanh nghiệp
trong nước có được những công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất.
- Vấn đề nguồn lực vẫn là vấn đề cần được trọng tâm trong thời gian tới.
- nâng cao chất lượng dạy và học, giảm dần khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế là vô
cùng cần thiết để tránh hiện trạng có cầu mà không có cung như hiện nay.
CÂU 1:
Có ba nhân tố cơ bảnảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hoá.
Thứ nhất, đó là năng suất lao động. Năng suất lao động là năng lực sản xuất của gười lao động.
Nó được đo bằng số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời ian hoặc số lượng thời gian
hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng uất lao động tăng lên tức là thời gian lao
động cần thiết để sản xuất ra một đơn vịản phẩm giảm xuống, tức là giá trị của một đơn vị hàng
hoá giảm và ngược lại.
Vậy, giá trị của hàng hoá tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Mặt khác, năng suất ao động lai
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, trình độ trungình của người công nhân,
mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quảný, quy mô sản xuất… nên để tăng năng
suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố rên.
Thứ hai, đó là cường độ lao động. Cường độ lao động phảnánh mức độ hao phí laoộng trong
một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hayăng thăng của lao động.
Cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khốiượng) hàng hoá sản xuất ra tăng lên và sức
lao động hao phí cũng tăng lên tương ng. Do đó, giá trị của một đơn vị hàng hoá là không đổi vì
thực chất tăng cườngộ lao động chính là việc kéo dài thời gian lao động. Cường độ lao động
phụ thuộcvào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và đặc biệt là hể
chất và tinh thần của người lao động. Chính vì vậy mà tăng cường độ lao động hông cóý nghĩa
tích cực với sự phát triển kinh tế bằng việc tăng năng suất laoộng.
Thứ ba là mức độ phức tạp của lao động. Theo đó, ta có thể chia lao động thành hai oại là lao
động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động màất kỳ một người lao
động bình thường nào không cần phải trải qua đào tạo cũngó thể thực hiện được. Còn lao động
phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đàoạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề
nhất định mới có thể thực iện được. Trong cùng một thời gian lao động thì lao động phức tạp tạo
ra nhiều iá trị hơn lao động giản đơn bởi vì thực chất lao động phức tạp là lao động giảnơn được
nhân lên. Trong quá trinh trao đổi mua bán, lao động phức tạp được quyổi thành lao động giản
đơn trung bình một cách tự phát.