You are on page 1of 14

Một số vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau trong Dự thảo Luật Hợp tác xã

22/01/2013
Dự án Luật Hợp tác xã (sửa đổi) nhằm thay thế Luật Hợp tác xã năm 2003 đã được soạn thảo công phu, tổ
chức lấy ý kiến rộng rãi của các Bộ, ngành, địa phương, hệ thống tổ chức hợp tác xã và vừa qua đã được
Quốc hội khóa XIII cho ý kiến bước đầu tại kỳ họp lần thứ 3 diễn ra từ ngày 20/5 đến ngày 21/6/2012 tại Hà
Nội. Theo kế hoạch, tại kỳ họp thứ 4 vào tháng 10 năm nay, Quốc hội sẽ thông qua Dự án Luật này. Dự án
Luật sẽ tạo ra khung pháp luật mới, góp phần bảo đảm quyền, lợi ích cũng như thực hiện nghĩa vụ của thành
viên hợp tác xã; tiếp tục tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, công bằng, bình đẳng cho hợp tác xã trên cơ
sở tổng kết thực tiễn phát triển hợp tác xã ở nước ta và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về phát
triển hợp tác xã. Tuy nhiên, cho đến nay, xung quanh Dự thảo Luật này cũng còn một số vấn đề có ý kiến
khác nhau cần được trao đổi, cân nhắc kỹ để lựa chọn phương án xử lý tối ưu nhất. Trong khuôn khổ bài
viết này, chúng tôi muốn góp một vài suy nghĩ của mình về quan điểm giải quyết các vấn đề còn có ý kiến
khác nhau, cụ thể như sau:
1. Về bản chất của hợp tác xã và ý nghĩa thực tiễn của việc xác định đúng bản chất của hợp tác xã
1.1. Sự khác nhau giữa hợp tác xã với doanh nghiệp
Việc làm rõ bản chất của hợp tác xã là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong Dự thảo Luật Hợp tác xã (sửa đổi),
bởi vì, bản chất của hợp tác xã là yếu tố quyết định nội dung của các vấn đề quan trọng khác liên quan đến hợp tác
xã như quyền, nghĩa vụ của thành viên; quyền, nghĩa vụ của hợp tác xã; cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý hợp tác
xã; xử lý tài sản khi giải thể hợp tác xã… Việc làm rõ bản chất của hợp tác xã còn có một ý nghĩa quan trọng khác là
tạo cơ sở lý luận và thực tiễn để Nhà nước ban hành các chính sách ưu đãi, hỗ trợ có tính chất đặc thù cho hợp tác
xã, khác với các chính sách chung mà Nhà nước đã ban hành để áp dụng cho các loại hình chủ thể kinh doanh khác
đang hoạt động trong nền kinh tế nước ta, trong đó có doanh nghiệp. Hiện nay vẫn còn tồn tại hai loại ý kiến khác
nhau về bản chất của hợp tác xã.
Ý kiến thứ nhất cho rằng, hợp tác xã phải được coi là một loại hình doanh nghiệp, trong khi đó, ý kiến thứ hai lại cho
rằng, một hợp tác xã đích thực thì không thể bao giờ có tư cách ấy.
Chúng tôi cho rằng, giữa hợp tác xã và doanh nghiệp không phải không có điểm gì giống nhau. Ví dụ, giống như
doanh nghiệp, hợp tác xã cũng phải đăng ký kinh doanh, phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp, phải phá sản khi
lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn... Tuy nhiên, không thể vì thế mà coi hợp tác xã
là một loại hình doanh nghiệp vì các lý do chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, xét về mặt thực tiễn lập pháp
Hiện nay, ở nước ta, doanh nghiệp và hợp tác xã được điều chỉnh bởi luật riêng. Các loại hình doanh nghiệp (doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên,
công ty cổ phần và công ty hợp danh) được điều chỉnh trong cùng một đạo luật là Luật Doanh nghiệp năm 2005.
Hợp tác xã cũng có luật riêng của mình là Luật Hợp tác xã năm 2003. Vấn đề đặt ra là, nếu là một loại hình doanh
nghiệp thì tại sao hợp tác xã đã không được đưa vào điều chỉnh trong Luật Doanh nghiệp năm 2005? Như vậy, việc
tồn tại một cách riêng biệt hai hệ thống pháp luật về doanh nghiệp và hợp tác xã (mà nòng cốt là Luật Doanh nghiệp
năm 2005 và Luật Hợp tác xã năm 2003) là một căn cứ về mặt lập pháp cho thấy, không thể coi hợp tác xã là một
loại hình doanh nghiệp theo đúng nghĩa của nó. Sự phân biệt doanh nghiệp với hợp tác xã còn được thể hiện ở chỗ,
trong các luật có liên quan đều tách riêng khái niệm doanh nghiệp và hợp tác xã. Ví dụ, khi quy định đối tượng áp
dụng của Luật Phá sản năm 2004, Điều 2 của Luật này đã xác định đối tượng bị phá sản bên cạnh các loại hình
doanh nghiệp còn có một chủ thể khác là hợp tác xã. Như vậy, trong pháp luật hiện hành của Nhà nước ta đã không
có sự đánh đồng giữa hợp tác xã với doanh nghiệp.
Thứ hai, xét về các đặc điểm của doanh nghiệp và hợp tác xã
Muốn xác định hợp tác xã là gì, có phải là doanh nghiệp hay không, cần phải xuất phát từ các đặc điểm riêng có của
nó. Qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, hợp tác xã khác với doanh nghiệp ở một số đặc thù chủ yếu sau đây:
+ Về lý do ra đời: Nếu như doanh nghiệp ra đời là để đáp ứng nhu cầu của thị trường, tức là nhu cầu của đông đảo
người tiêu dùng trong xã hội, thì hợp tác xã ra đời là để đáp ứng các nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chung của một
nhóm người nhất định – những người đã thành lập ra hợp tác xã. Đặc điểm này đã làm cho hợp tác xã không thể có
đầy đủ các quyền trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong đó có quyền tự do lựa chọn ngành nghề, mặt hàng
kinh doanh như các loại hình doanh nghiệp.
+ Về tư cách pháp lý của thành viên: Nếu như đối với doanh nghiệp, người tham gia thành lập doanh nghiệp chỉ có
một tư cách duy nhất là nhà đầu tư (nhà kinh doanh) thì đối với hợp tác xã, thành viên luôn có hai tư cách: Họ vừa là
người chủ của hợp tác xã lại, vừa là khách hàng của hợp tác xã (người sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã).
+ Về mục đích hoạt động: Nếu như doanh nghiệp được thành lập là để kinh doanh, do đó, mục đích hàng đầu của
doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận thì mục đích hoạt động của hợp tác xã lại hoàn toàn khác. Để đem lại lợi ích cho
thành viên thông qua việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ cho họ thì cũng như các tổ chức kinh tế khác, hợp tác xã phải
lựa chọn phương án đầu tư, sản xuất, kinh doanh thích hợp và có hiệu quả, tức là, mọi hoạt động của hợp tác xã với
thị trường bên ngoài phải được tính toán trên cơ sở lấy thu bù chi và đảm bảo có thu nhập. Tuy nhiên, không phải vì
thế mà cho rằng, hợp tác xã hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Đó là điểm khác giữa hợp tác xã và doanh nghiệp xét
về mục đích hoạt động. Ngoài ra, trên phương diện này, hợp tác xã còn khác doanh nghiệp ở chỗ, bên cạnh mục
đích tối đa hóa lợi ích cho các xã viên, hợp tác xã còn có các mục tiêu cao cả khác mà doanh nghiệp không thể có
được, đó là sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên, sự quan tâm đến sự phát triển của cộng đồng.
+ Về cơ chế quản lý: Nếu như trong doanh nghiệp, đặc biệt là trong các công ty đối vốn như công ty cổ phần, quyền
lực nói chung và quyền lực trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp nói riêng được phân bổ
cho các thành viên theo tỷ lệ vốn góp của họ (ai góp nhiều vốn thì người đó có nhiều quyền lực và ngược lại), thì
trong hợp tác xã, tất cả các thành viên đều có quyền ngang nhau mà không phụ thuộc vào số lượng vốn mà họ đã
góp vào hợp tác xã là nhiều hay ít. Tóm lại, nguyên tắc bình đẳng trong quản lý luôn là đặc điểm nổi trội, giúp hợp
tác xã khác biệt với doanh nghiệp.
+ Về nguyên tắc phân phối thu nhập: Nếu như trong doanh nghiệp, lợi nhuận thu được được phân chia cho các
thành viên chủ yếu theo tỷ lệ vốn góp thì trong hợp tác xã lại áp dụng một nguyên tắc hoàn toàn khác, đó là, nguyên
tắc phân chia thu nhập chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm và dịch vụ của hợp tác xã. Điều này có nghĩa là,
trong hợp tác xã, thành viên nào sử dụng nhiều sản phẩm, dịch vụ do hợp tác xã cung ứng, thì thành viên đó được
hưởng nhiều hơn từ thu nhập do hợp tác xã mang lại. Như vậy, việc phân chia thu nhập theo vốn góp trong hợp tác
xã, nếu có thì cũng chỉ là nguyên tắc có vị trí thứ yếu mà thôi.
1.2. Ý nghĩa thực tiễn của việc xác định đúng bản chất của hợp tác xã
Việc xác định đúng bản chất của hợp tác xã thông qua việc phân biệt nó với doanh nghiệp không chỉ có ý nghĩa về
mặt học thuật mà còn có giá trị thực tiễn to lớn, cụ thể là:
Thứ nhất, góp phần chấm dứt tình trạng đang rất phổ biến hiện nay là nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng tư cách hợp
tác xã để trục lợi thông qua việc hưởng dụng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ mà Nhà nước đã ban hành chỉ để dành
riêng cho hợp tác xã.
Như trên đã phân tích, một hợp tác xã đích thực thì không thể có tư cách là doanh nghiệp. Đó là hai chủ thể tuy có
thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên thương trường nhưng khác hẳn nhau về bản chất. Cũng như đã
trình bày ở phần trên, xuất phát từ các đặc thù riêng của mình nên hợp tác xã ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có
Việt Nam luôn được Nhà nước dành cho những ưu đãi, hỗ trợ nhất định mà các doanh nghiệp không có quyền được
hưởng. Tuy nhiên, thực tế ở nước ta thời gian qua cũng đã cho thấy, không ít chủ thể kinh doanh tuy được gọi là
hợp tác xã nhưng thực chất lại là doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp biết mình không phải là hợp tác xã nhưng vẫn
tự xưng là hợp tác xã cốt để được hưởng các chính sách ưu đãi mà chỉ có những hợp tác xã đích thực mới được
hưởng. Vì vậy, nếu Luật Hợp tác xã (mới) được ban hành với một sự phân biệt rạch ròi hợp tác xã với doanh nghiệp
thì sự “đội lốt” này chắc chắn sẽ không còn cơ sở pháp lý để tồn tại và như vậy Luật này sẽ góp phần to lớn vào việc
chấm dứt một thực tế tiêu cực đã xảy ra trong thời gian qua, đó là, nhiều doanh nghiệp đã giả danh hợp tác xã để
hưởng lợi từ chính sách của Nhà nước.
Thứ hai, việc phân biệt một cách rạch ròi doanh nghiệp với hợp tác xã còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội to lớn, nó tạo
cơ sở lý luận vững chắc để Nhà nước thấy rõ điểm mạnh, điểm yếu của hợp tác xã, giá trị kinh tế, giá trị xã hội của
hợp tác xã so với doanh nghiệp, để trên cơ sở đó mạnh dạn đề ra các chính sách đặc thù có tính chất ưu đãi đối với
hợp tác xã. Cũng cần phải khẳng định rằng, trong thời gian qua, Nhà nước ta cũng đã có không ít chính sách đặc thù
dành cho hợp tác xã, tuy nhiên, do chưa nhận thức được một cách đầy đủ sự khác biệt giữa hợp tác xã với doanh
nghiệp cũng như vai trò và tác dụng to lớn của hợp tác xã đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nên các
chính sách này vẫn chưa được ban hành một cách đầy đủ, có hệ thống và đủ mạnh để đảm bảo cho hợp tác xã
được thành lập và hoạt động một cách có hiệu quả. Hy vọng rằng, với nhận thức mới, đúng đắn về bản chất của hợp
tác xã, thì sắp tới Nhà nước ta sẽ có nhiều chính sách hữu hiệu hơn cho các tổ chức kinh tế đặc thù này.
Thứ ba, việc phân biệt hợp tác xã với doanh nghiệp còn có ý nghĩa to lớn trong việc đưa ra các quy định đặc thù đối
với hợp tác xã, mà từ trước đến nay do không có được sự phân biệt rõ ràng này nên đã không được quy định một
cách đầy đủ trong Luật Hợp tác xã năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể là, trên cơ sở tìm ra các
điểm đặc thù, riêng có của hợp tác xã mà trong Dự thảo Luật Hợp tác xã đã được bổ sung nhiều quy định về các vấn
đề rất cơ bản liên quan đến bản chất đích thực của hợp tác xã sau đây: Về giới hạn vốn góp tối đa của một thành
viên trong vốn điều lệ của hợp tác xã (khoản 1 Điều 18); về sự bắt buộc thành viên phải sử dụng sản phẩm, dịch vụ
của hợp tác xã và nếu vi phạm nghĩa vụ này thì thành viên có thể bị khai trừ khỏi hợp tác xã (điểm g khoản 1 Điều
17); về sự bắt buộc phải có quy định nhằm hạn chế việc hợp tác xã cung ứng sản phẩm, dịch vụ ra ngoài cộng đồng
thành viên (khoản 3 Điều 9); về nguyên tắc, theo đó, một thành viên, bất luận địa vị pháp lý của mình là như thế nào
đều có một phiếu trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hợp tác xã (khoản 4 Điều 15); về sự đề cao nguyên
tắc phân phối thu nhập theo mức độ sử dụng sản phẩm dịch vụ của hợp tác xã so với các nguyên tắc phân phối
khác trong hợp tác xã (khoản 2 Điều 49); về sự cần thiết phải có tài sản chung không chia trong hợp tác xã (khoản 2
Điều 51)
2. Về mức vốn góp tối đa của một thành viên hợp tác xã (khoản 1 Điều 18)
Hợp tác xã là tổ chức được thành lập để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của các xã viên. Muốn thực
hiện được nhiệm vụ này, thì không hợp tác xã nào lại không cần đến vốn góp của các thành viên để xây dựng cơ sở
vật chất – kỹ thuật cho việc thực hiện các hoạt động kinh tế có liên quan. Tuy nhiên, nếu như đối với doanh nghiệp,
vấn đề hạn chế việc góp vốn không bao giờ phải đặt ra thì đối với hợp tác xã, đây lại là vấn đề nóng. Nguyên nhân
cơ bản của tình trạng này xuất phát từ tính chất đối nhân của hợp tác xã, đặc biệt là từ nguyên tắc bình đẳng trong
quản lý của tất cả các xã viên. Về vấn đề này còn hai ý kiến khác nhau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng, cần tiếp tục kế thừa quy định của Luật Hợp tác xã năm 2003, theo đó, “mức vốn góp tối đa
của một thành viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không vượt quá 30% vốn điều lệ của hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã”.
Ý kiến thứ hai, dựa trên khuyến cáo của Liên minh Hợp tác xã Quốc tế, theo đó, Luật Hợp tác xã các nước không
nên cho phép một thành viên góp vốn quá 20% vốn điều lệ của hợp tác xã và trên cơ sở nghiên cứu thực tế giải
quyết vấn đề này ở nhiều nước trên thế giới (thực tế Luật Hợp tác xã các nước đều quy định mức vốn tối đa của một
thành viên trong tổng số vốn điều lệ của một hợp tác xã là từ 5% đến 20%) cho rằng, mức vốn góp tối đa của một
thành viên như quy định trong Luật Hợp tác xã năm 2003 là quá cao. Vì vậy, ý kiến này đề nghị Dự thảo Luật cần
quy định theo hướng mức vốn góp tối đa của một thành viên hợp tác xã không được vượt quá 20% vốn điều lệ của
hợp tác xã; mức vốn góp tối đa của thành viên liên hiệp hợp tác xã không vượt quá 30% vốn điều lệ của liên hiệp
hợp tác xã.
Chúng tôi nhất trí với quan điểm thứ hai, theo đó, cần phải quy định mức vốn góp tối đa của một thành viên hợp tác
xã, liên hiệp hợp tác xã nhằm ghi nhận sự khác biệt giữa hợp tác xã với các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là để
đề cao và bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng trong quản lý hợp tác xã. Ngoài ra, nếu không khống chế số vốn
góp tối đa thì thành viên có mức góp vốn cao sẽ được chia lãi nhiều hơn theo tỷ lệ vốn góp và như vậy sẽ vi phạm
nguyên tắc, theo đó, thu nhập của hợp tác xã được phân chia chủ yếu theo tỷ lệ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp
tác xã. Sự cần thiết phải hạn chế mức vốn góp vào hợp tác xã của các thành viên còn xuất phát từ một nguyên tắc
có tính chất nền tảng của hợp tác xã là một thành viên chỉ có một phiếu biểu quyết. Mục đích của việc thành lập
nguyên tắc này là nhằm đảm bảo tính dân chủ, bình đẳng trong quản lý hợp tác xã, do đó, nếu không hạn chế mức
vốn góp tối đa, để thành viên muốn góp vốn bao nhiêu cũng được, thì nguyên tắc này sẽ bị vô hiệu hóa vì trên thực
tế, người có quá nhiều vốn sẽ có thực quyền hơn so với người góp ít vốn. Mặt khác, nếu để cho một thành viên góp
vốn với tỷ lệ quá cao thì việc rút vốn của thành viên này sẽ làm cho hợp tác xã phải giải thể. Nghiên cứu kinh nghiệm
các nước cho thấy, trong các luật về hợp tác xã đều có quy định hạn chế tỷ lệ góp vốn của thành viên. Trên cơ sở
cân nhắc điều kiện thực tiễn của Việt Nam hiện nay và với việc quy định thêm một số cơ chế mới nhằm giúp hợp tác
xã có thể huy động thêm vốn để hoạt động mà không cần đến phương pháp tăng vốn góp từ các thành viên, Điều 47
Dự thảo Luật Hợp tác xã đã quy định tỷ lệ này là 20% đối với hợp tác xã. Chúng tôi đồng ý với việc hạ tỷ lệ này.
3. Về giới hạn sản phẩm, dịch vụ mà hợp tác xã được cung cấp cho thị trường bên ngoài cộng đồng thành viên
(khoản 1 Điều 9)
Như trên đã trình bày, khác với doanh nghiệp, hợp tác xã được thành lập là để phục vụ các thành viên của mình
thông qua việc đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của các xã viên. Tuy nhiên, trên thực tế, trong nhiều
trường hợp, ngoài việc tập trung năng lực để đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chung của các thành viên thì hợp tác
xã vẫn còn dư năng lực để có thể đáp ứng các nhu cầu của các chủ thể khác không phải là thành viên của hợp tác
xã. Vì vậy, đã đặt ra vấn đề là có nên cho phép hợp tác xã cung ứng sản phẩm, dịch vụ ra bên ngoài hay không và
nếu cho phép thì nên ở mức độ nào là hợp lý. Hiện đang có hai ý kiến khác nhau về vấn đề này.
Ý kiến thứ nhất cho rằng, Nhà nước không nên khống chế trong pháp luật về tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ mà hợp tác xã
được cung cấp cho thị trường bên ngoài mà nên giao cho hợp tác xã tự quy định tỷ lệ này trong Điều lệ của mình.
Ý kiến thứ hai lại cho rằng, Nhà nước cần khống chế tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ mà hợp tác xã được cung cấp cho thị
trường bên ngoài mà không nên giao cho hợp tác xã tự quy định.
Để giải quyết vấn đề này cần xuất phát từ một vấn đề có tính chất nền tảng, đó là lý do ra đời của hợp tác xã. Như
đã khẳng định ở trên, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế do các thành viên lập ra nhằm giúp các thành viên thoả mãn
tốt hơn các nhu cầu, nguyện vọng chung của mình, do đó, về nguyên tắc, mọi năng lực của hợp tác xã trước hết
phải được sử dụng nhằm phục vụ cho các thành viên rồi sau đó nếu còn khả năng thì mới tham gia cung cấp sản
phẩm, dịch vụ cho thị trường bên ngoài. Trên quan điểm như vậy, chúng tôi đồng ý với ý kiến thứ hai, theo đó, việc
khống chế tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ mà hợp tác xã được phép cung cấp cho thị trường bên ngoài cộng đồng thành
viên là vấn đề có tính nguyên tắc, do đó cần phải được quy định trong pháp luật. Vấn đề tiếp theo là cần khống chế
tỷ lệ này bằng văn bản nào (luật hay văn bản dưới luật) và bao nhiêu thì vừa? Về vấn đề này, các nước khác nhau
có cách giải quyết khác nhau. Ví dụ, ở Thái Lan, luật cấm hợp tác xã cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho những đối
tượng không phải là thành viên hợp tác xã. Trong khi đó, pháp luật của nhiều nước, trong đó có Cộng hòa Pháp và
Hàn Quốc thì lại cho phép hợp tác xã có quyền này nhưng ở một mức độ nhất định, thông thường là không quá
20%. Ở Bang Québec (Canada), thì tỷ lệ này được xác định ngay trong luật là không quá 50% tổng số sản phẩm,
dịch vụ mà hợp tác xã cung ứng trong năm. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, chúng tôi nhất trí với quy định của
Dự thảo Luật theo hướng không quy định tỷ lệ hạn chế ngay trong Luật, mà nên giao cho điều lệ hợp tác xã xác định
tỷ lệ cụ thể trên cơ sở hướng dẫn của Chính phủ để bảo đảm tỷ lệ này được xác định phù hợp với từng hợp tác xã
trong các ngành, lĩnh vực và phù hợp với từng giai đoạn nhất định.
4. Về việc hợp tác xã thành lập công ty, góp vốn, mua cổ phần vào doanh nghiệp khác (khoản 8 Điều 9)
Vấn đề hợp tác xã có quyền thành lập công ty, góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp khác hay không cũng có
hai ý kiến khác nhau.
Ý kiến thứ nhất cho rằng, Luật Doanh nghiệp năm 2005 không cấm các pháp nhân, trong đó có hợp tác xã tham gia
góp vốn, mua cổ phần, thành lập doanh nghiệp nên đề nghị Luật Hợp tác xã mới không nên “truất” quyền này của
hợp tác xã.
Ý kiến thứ hai cho rằng, hợp tác xã được tham gia góp vốn, mua cổ phần, thành lập doanh nghiệp theo quy định của
Luật Doanh nghiệp năm 2005 nhưng cần tuân thủ một số yêu cầu và điều kiện nhất định do Chính phủ quy định để
tránh rủi ro cho hợp tác xã, đồng thời bảo đảm cho hợp tác xã luôn giữ được bản chất đích thực của mình.
Chúng tôi nhất trí với chủ trương cho phép hợp tác xã được thành lập doanh nghiệp và góp vốn, mua cổ phần ở các
doanh nghiệp khác theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 nhưng cũng cần có khuôn khổ pháp lý nhất định cho việc
thực hiện các quyền này. Ví dụ, phải có quy định theo hướng hợp tác xã không thể thành lập công ty để kinh doanh
bất cứ ngành nghề, sản phẩm, dịch vụ nào mà chỉ được kinh doanh những ngành nghề, sản phẩm, dịch vụ có liên
quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các thành viên, góp phần giúp hợp tác xã thỏa mãn tốt hơn các nhu
cầu, nguyện vọng chung của họ. Ngoài ra, để hạn chế tình trạng hợp tác xã có thể sử dụng một cách tùy tiện các
quyền này, cần nghiên cứu, bổ sung quy định về việc hạn chế một tỷ lệ vốn góp trên vốn điều lệ của hợp tác xã mà
hợp tác xã được phép sử dụng để đầu tư thành lập công ty trực thuộc hoặc góp vốn, mua cổ phần.
5. Về chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển hợp tác xã
Hợp tác xã là một loại hình tổ chức kinh tế mà các thành viên tham gia thường là những người yếu thế trong xã hội.
Vì vậy, các nước đều có chính sách đặc thù theo hướng dành cho hợp tác xã một số chính sách ưu đãi để hỗ trợ
hợp tác xã phát triển. Ở Việt Nam cũng vậy, sự quan tâm này được thể hiện ở chỗ, trong Dự thảo Luật Hợp tác xã
đã dành hẳn một chương để quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, trong khi nhất trí cao với sự cần thiết phải có
chương này, thì nhiều người lại không đạt được sự thống nhất trong cách thức ghi nhận các chính sách ưu đãi, hỗ
trợ đối với hợp tác xã. Hiện nay, có hai loại ý kiến khác nhau về vấn đề này: Ý kiến thứ nhất cho rằng, cần quy định
cụ thể, chi tiết ngay trong Luật Hợp tác xã các chính sách hỗ trợ đối với hợp tác xã; ý kiến thứ hai cho rằng, Luật này
chỉ cần có các quy định mang tính nguyên tắc về chính sách hỗ trợ hợp tác xã, còn các chính sách cụ thể sẽ do
Chính phủ ban hành căn cứ vào tình hình hoạt động của các loại hình hợp tác xã và nguồn lực của Nhà nước trong
từng giai đoạn.
Chúng tôi cho rằng, đối với các chính sách hỗ trợ, pháp luật càng quy định rõ ràng, cụ thể càng tốt cho hợp tác xã.
Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách này đòi hỏi phải có nguồn lực, phải căn cứ vào tình hình cụ thể của từng
giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của kinh tế hợp tác nói riêng, nên nếu quy định cụ thể
các chính sách trong Luật thì một mặt, dễ dẫn đến tình trạng thiếu khả thi, mặt khác, lại bị cứng nhắc, khó thay đổi
để đáp ứng một cách linh hoạt với tình hình của thực tiễn luôn biến động. Vì vậy, Luật Hợp tác xã chỉ cần đưa ra một
số quy định mang tính nguyên tắc về chính sách hỗ trợ đối với hợp tác xã và giao Chính phủ quy định cụ thể các
chính sách này cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
TS. Dương Đức Chính

Sự khác nhau giữa doanh nghiệp và hợp tác xã là gì? (18/04/2012)


Luật này phải giải quyết được vấn đề rất lớn là hiện nay các hợp tác xã đang gặp khó khăn, hoạt động không có chất
lượng, thậm chí hoạt động hình thức hoặc manh mún. Luật ra đời nhằm đưa hoạt động của hợp tác xã đi vào cuộc
sống là cả một vấn đề thực tiễn đang đặt ra mà luật phải đáp ứng. Thứ hai, luật phải giải quyết được vì hợp tác xã có
rất nhiều loại hình như hợp tác xã nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, tín dụng, các loại dịch vụ khác. Thứ ba,
phải minh chứng được vấn đề là Luật Hợp tác xã này khác gì với Luật Doanh nghiệp, cái đó mới là cái khó.

Hiện nay theo trình bày của Chính phủ, tôi rất băn khoăn khi minh chứng sự khác nhau giữa doanh nghiệp và hợp
tác xã. Đầu tiên nêu rất rõ là mục tiêu tổ chức của hợp tác xã với doanh nghiệp khác nhau ở chỗ nào. Vấn đề này
cũng là câu hỏi của tôi. Thứ hai tôi hiểu chưa hết thì cơ quan soạn thảo hoặc cơ quan thẩm tra có thể nói thêm. Mục
tiêu cao nhất của hợp tác xã ở đây là đáp ứng nhu cầu sản phẩm và dịch vụ của các thành viên khác với mục tiêu
cao nhất của doanh nghiệp là lợi nhuận. Nếu như thế thì phải chăng đây không phải là hợp tác xã sản xuất hàng hóa
mà là hợp tác xã tự cung, tự cấp? Sản xuất hàng hóa là làm ra để bán, nếu chỉ đáp ứng nhu cầu của các thành viên
trong hợp tác xã thì liệu mục tiêu này có hợp lý không trong cơ chế thị trường? Đây là vấn đề tôi rất băn khoăn. Một
trong những điều kiện kiên quyết của hợp tác xã là sản xuất hàng hóa ra có phần tiêu thụ thì đúng rồi, hoặc cơ bản
là tiêu thụ là hàng hóa, nhưng cũng có phần có thể chia cho các thành viên, ví dụ sản xuất ra thóc, dùng không hết
thì một phần chia cho các thành viên, còn một phần phải bán, phải là hàng hóa. Thứ hai, nếu hợp tác xã không vì
mục tiêu lợi nhuận thì khâu quan trọng nhất là hợp tác xã không thể phát triển được, không có lợi nhuận làm sao
phát triển. Không vì mục tiêu lợi nhuận không thể phát triển được, nhất là trong nền sản xuất hàng hóa và kinh tế thị
trường này. Cuối cùng hợp tác xã chỉ nằm trong một khuôn khổ và hạn định nhất định. Tôi sợ là nếu đặt ra mục tiêu
này sẽ đi theo một loạt những vấn đề, vì mục tiêu tổ chức như thế thì đi theo vấn đề sở hữu, đi theo vấn đề phân
phối, đi theo vấn đề là quản lý sẽ bị bó bởi mục tiêu này. Trong này tôi cũng chưa rõ chúng ta xử lý vấn đề này như
thế nào?

Hợp tác xã hay doanh nghiệp?


Tại buổi góp ý dự thảo Luật Hợp tác xã (HTX) sửa đổi (sẽ được trình lên kỳ họp Quốc hội sắp tới),
TS Đinh Xuân Niêm, nguyên Trưởng ban Chính sách và Phát triển HTX (Liên minh HTXVN) cho
biết, Luật HTX đầu tiên năm 1996 và Luật HTX sửa đổi năm 2003 vẫn còn bộc lộ một số hạn chế
cần phải tiếp tục sửa đổi cho phù hợp thực tế để lĩnh vực kinh tế hợp tác có thể phát triển tốt
hơn.
Nhận thức chưa đúng về HTX
TS Nguyễn Minh Tú, Vụ trưởng Vụ HTX Bộ KH-ĐT, cho rằng, 60% dân số
Việt Nam là nông dân và 70% người dân ở nông thôn. Đây là tầng lớp khó
khăn nhất, nhưng lại đảm đương lĩnh vực nông nghiệp, đảm bảo nền an ninh
lương thực cho cả nước. Trong khi phải cạnh tranh với một thị trường ngày
càng khắc nghiệt, đòi hỏi sản phẩm phải chất lượng, đồng đều, có số lượng
lớn và phải an toàn vệ sinh thực phẩm thì bà con nông dân lại sản xuất rời
rạc, đơn lẻ khoảng 64% hộ nông dân chưa vào HTX.
Vì vậy, về nguyên tắc, HTX, nhất là HTX nông nghiệp (NN) có vai trò đặc biệt
ở khu vực nông thôn. Hiện cả nước có trên 14.500 HTX với 7,5 triệu xã viên,
tạo việc làm thường xuyên hơn 300.000 lao động; trong số này có 6.631
HTXNN với 5,3 triệu xã viên, chiếm đến 70% tổng số xã viên HTX các loại.
Các HTX đã đóng góp bình quân 6,38% GDP (giai đoạn 2002-2011). Thời
gian qua chúng ta chưa nhận thấy tác động quan trọng của HTX đối với nền
kinh tế hộ, cá thể xã viên nên chưa tính vào GDP. Điều đáng nói, HTX chỉ
chiếm 0,58% tổng nguồn vốn vay tín dụng các các ngân hàng, hầu hết là từ
vốn tự có. Điều này cho thấy tiềm năng rất lớn của HTX nếu biết tạo điều kiện
để ngành kinh tế hợp tác này phát triển.

Ảnh: KIM NGÂN


Tuy nhiên, Luật HTX ra đời năm 1996, sau đó sửa đổi năm 2003 vẫn chưa
thể hiện rõ vai trò và sự khác nhau về bản chất giữa HTX với doanh nghiệp.
Có thể nói, hạn chế lớn nhất là nhận thức chưa đúng về HTX nên dù đã có
nhiều chính sách hỗ trợ, đào tạo nguồn nhân lực, nhưng HTX vẫn không thể
phát triển như mong muốn.
Kết quả là đóng góp GDP của kinh tế hợp tác 15 năm qua lại giảm liên tục, từ
trên 10% GDP năm 1995 xuống còn 5,22% GDP năm 2011. Tốc độ tăng giá
trị gia tăng thấp, bấp bênh, chỉ bằng tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh
tế, từ 4,4% năm 1995 giảm xuống còn 2,8% năm 2011.
Mô hình HTX hiện nay có vấn đề, có tên nhưng không hoạt động (khoảng
3.700 HTX), có ban chủ nhiệm nhưng không có xã viên. Năm 2011 chỉ còn
hơn 6.000 HTX hoạt động. Hệ quả là xã viên không gắn bó với HTX, chỉ
mang tính hình thức, HTX chưa thật sự hấp dẫn người dân. Tình trạng HTX
nhưng “ruột” lại là doanh nghiệp đang tồn tại ở một bộ phận không nhỏ HTX.
Có trên 4.700 HTX, chủ yếu trên lĩnh vực công nghiệp, xây dựng dù mang tên
HTX nhưng thực chất lại là doanh nghiệp để được hưởng những ưu đãi.
Vẫn là kinh tế tự chủ
Có thể nói, hạn chế của Luật HTX cũng như việc tổ chức thực hiện kém, tâm
lý xã hội còn bị ảnh hưởng mô hình HTX kiểu cũ đã kiềm hãm sự phát triển
của kinh tế hợp tác, nhất là HTX. TS Đinh Xuân Niêm, nguyên Trưởng ban
Chính sách và Phát triển HTX, cho rằng, Luật HTX sửa đổi lần này cần cập
nhật những nguyên tắc mà Liên minh HTX thế giới đã tổng kết tại thành phố
Manchester (Anh) về những thành quả mà các nước có loại hình HTX hoạt
động mạnh, ổn định như Nhật Bản, Canada, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung
Quốc)... HTX có những đóng góp to lớn vào nền kinh tế và sự ổn định xã hội.
Ở Nhật Bản, gần như 100% nông dân trồng lúa và khoảng 80% nông dân
trồng rau quả đều vào các HTX.
Trong lúc HTX phát triển èo uột thì tổ hợp tác lại có sự phát triển vượt bậc,
đáng ngạc nhiên với hơn 350.000 tổ hợp tác, gần 4 triệu thành viên. HTX và
tổ hợp tác có bản chất tương tự nhau.
Dự thảo Luật HTX sửa đổi có gần 2 năm tổ chức góp ý, đã có những tiếp cận
về những nguyên tắc và giá trị của những HTX trên thế giới. Nhưng điều
quan trọng là phải làm rõ sự khác biệt HTX (vì xã viên) với doanh nghiệp (vì
thị trường và muốn tối đa hóa lợi nhuận).
HTX cũng khác biệt với tổ chức từ thiện. Mục tiêu của HTX và doanh nghiệp
khác nhau. HTX là tổ chức kinh tế mà mục tiêu số một là phục vụ xã viên, ra
đời để làm dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của các xã viên. Xã viên có quyền biểu
quyết ngang nhau.
Đồng thời xã viên sử dụng các dịch vụ đó để tạo điều kiện cho HTX phát
triển. Phần lợi nhuận của HTX, sau khi trích vào các quỹ của HTX, phần còn
lại phân phối cho xã viên theo công sức đóng góp, ở đây là mức độ xã viên
hợp đồng sử dụng các dịch vụ với HTX.
Ở Pháp, các HTX phải đảm bảo và thỏa mãn 80% nhu cầu dịch vụ mới được
xem là không đi lệch hướng, và ngược lại nếu xã viên không sử dụng dịch vụ
trong 1 năm sẽ loại ra khỏi HTX. Nếu dịch vụ tồi, chất lượng phục vụ kém, xã
viên có quyền yêu cầu tổ chức đại hội bất thường nếu hội đủ 30% tổng số xã
viên để yêu cầu ban chủ nhiệm giải trình, thậm chí biểu quyết cách chức.
Điều này thể hiện và nâng cao ý thức làm chủ thật sự của xã viên, chứ không
phải hình thức như hời gian qua.
Mô hình HTX mới tác động đến lợi ích nông dân; tạo ra 2 kênh tăng trưởng
kinh tế (bản thân HTX và kinh tế xã viên); nâng cao hiệu quả sản xuất, chất
lượng nông sản thông qua hợp tác và nâng cao sức cạnh trạnh thị trường; kết
hợp sản xuất, chế biến, tiêu thụ; được chia sẻ lợi ích cả chế biến và tiêu thụ...
Điều cần khẳng định, nông dân vẫn là hộ kinh tế tự chủ, không bị “nuốt” mất
như cách nghĩ của không ít bà con. Và mục đích cuối cùng của HTX là giúp
chất lượng sống của nông dân được cải thiện theo hướng ngày càng tốt hơn.
Theo Báo Sài gòn giải phóng online

Bản chất hợp tác xã: Theo quy định của Luật Hợp tác xã (sửa đổi) 2012
Thứ tư, 04 Tháng 9 2013 09:12
Phát triển hợp tác xã là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Luật Hợp tác xã (sửa đổi) số
23/2012/QH13 đã được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2012 tại kỳ họp thứ 4 Khóa XIII,
được Chủ tịch nước ký Lệnh về việc Công bố Luật Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã ngày 03 tháng 12
năm 2012 và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2013.

Luật Hợp tác xã 2012 hướng đến tiệm cận dần với bản chất đích thực của hợp tác xã, làm rõ hơn tính
ưu việt của hợp tác xã nhằm khuyến khích và phát triển mạnh mẽ mô hình hợp tác xã kiểu mới. Đây là
khuôn khổ pháp lý thuận lợi góp phần phát triển hợp tác xã lành mạnh, bền vững góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh của kinh tế hộ thành viên trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện công
bằng xã hội, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.

Luật Hợp tác xã 2012, bao gồm 9 chương 64 điều, đã thể chế hóa rõ ràng bản chất hợp tác xã dưới
nhiều khía cạnh, đặt biệt là mục đích thành lập, quan hệ sở hữu và quyền lực, quan hệ kinh tế và quan
hệ phân phối trong hợp tác xã.

1. Mục đích thành lập: tối đa hóa lợi ích của thành viên

Hợp tác xã là tổ chức do các thành viên tự nguyện hợp tác nhằm tương trợ lẫn nhau, đáp ứng nhu cầu
chung về sản phẩm, dịch vụ cho chính mình và hợp thành khu vực thứ 3 của nền kinh tế, bên cạnh khu
vực công và khu vực tư.

Luật Hợp tác xã đã làm nổi bật tính đặc thù của tổ chức hợp tác xã. Theo đó, hợp tác xã được định
nghĩa như sau: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07
thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo
việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình
đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã.” (Điều 3, khoản 1).

Thành viên thành lập hợp tác xã để mưu tìm cách thức thỏa mãn nhu cầu chung một cách tốt nhất. Nhu
cầu chung của thành viên được định nghĩa như sau: “Nhu cầu chung của thành viên là nhu cầu sử dụng
sản phẩm, dịch vụ giống nhau phát sinh thường xuyên, ổn định từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời
sống của thành viên, hợp tác xã thành viên. Đối với hợp tác xã tạo việc làm thì nhu cầu chung của
thành viên là nhu cầu việc làm của thành viên trong hợp tác xã do hợp tác xã tạo ra” (Điều 4, khoản 1).
Thông qua hoạt động như: mua chung sản phẩm, dịch vụ từ thị trường để phục vụ cho thành viên, bán
chung sản phẩm, dịch vụ của thành viên ra thị trường, chế biến sản phẩm của thành viên, hợp tác xã
thành viên, cung ứng phương tiện, kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ thành viên, tín dụng cho thành viên,
tạo việc làm cho thành viên đối với hợp tác xã tạo việc làm (Điều 4, khoản 6), thành viên tiết kiệm được
chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh của sản phẩm do mình làm ra. Như vậy,
sứ mệnh quan trọng nhất của hợp tác xã không phải là tối đa hoá lợi nhuận, mà là tối đa hóa lợi ích
trước mắt và lâu dài của thành viên bằng cách đáp ứng nhu cầu chung của thành viên về sản phẩm,
dịch vụ, hoặc tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho thành viên một cách hiệu quả hơn - điều mà từng
thành viên đơn lẻ không thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường.

Đặc tính này làm nổi bật sự khác biệt cơ bản giữa bản chất hợp tác xã so với công ty cổ phần (được
điều chỉnh theo Luật doanh nghiệp). Mục đích của công ty là cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho thị trường
đại chúng nhằm tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp và mục tiêu của các thành viên góp vốn vào
công ty cổ phần là để được chia lợi nhuận tối đa theo tỷ lệ vốn góp của mình.

2. Quan hệ sở hữu và quyền lực: Đồng sở hữu hợp tác xã trên nguyên tắc bình đẳng

Thành viên của hợp tác xã góp vốn và trở thành người đồng sở hữu hợp tác xã với mục đích chính là
sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Như vậy trong hợp tác xã, tập hợp thành viên có tính chất rất đặc biệt -
thành viên vừa là người đồng sở hữu, quản lý hợp tác xã theo nguyên tắc dân chủ, vừa là người sử
dụng dịch vụ của hợp tác xã.

Để bảo đảm tính công bằng trong quản lý hợp tác xã và phù hợp với thông lệ quốc tế, mức vốn góp tối
đa của thành viên trong vốn điều lệ của hợp tác xã hạ xuống còn không quá 20% vốn điều lệ (Luật Hợp
tác xã 2003 quy định mức này là 30%).

Thành viên thực hiện vai trò làm chủ của mình bằng cách tham gia vào quá trình ra quyết định. “Đại hội
thành viên có quyền quyết định cao nhất của hợp tác xã” (Điều 30, khoản 1). “Thành viên có quyền bình
đẳng, biểu quyết ngang nhau không phụ thuộc vốn góp” (Điều 7, khoản 3). Trong hợp tác xã, phương
thức thành viên tham gia vào quá trình ra quyết định được mô phỏng từ dân chủ nghị viện. Quyền biểu
quyết của thành viên là bình đẳng theo nguyên tắc “một thành viên, một phiếu bầu”. “Phiếu biểu quyết
có giá trị ngang nhau, không phụ thuộc vào số vốn góp hay chức vụ của thành viên” (Điều 34, khoản 3),
không phụ thuộc vào địa vị xã hội và cũng không phụ thuộc vào mức độ sử dụng dịch vụ của thành viên
đó. Ý nghĩa sâu xa của nguyên tắc “mỗi thành viên, một phiếu bầu” không chỉ đơn thuần là tư tưởng
bình đẳng, mà còn ở chỗ khống chế sự xâm hại của đồng tiền đối với con người. Hợp tác xã mang đặc
tính “trọng nhân”.

Trong khi đó, mô hình công ty mang tính chất “trọng vốn”. Ở công ty cổ phần, các cổ đông thể hiện
quyền làm chủ của mình theo nguyên tắc “mỗi cổ phần, một phiếu bầu”. Điều này có nghĩa là cổ đông
nào càng nắm giữ nhiều cổ phiếu thì càng có nhiều quyền trong biểu quyết. Nơi có tiền là nơi tập trung
quyền lực. Ngược lại, nguyên tắc bình đẳng trong hợp tác xã chia cắt giữa thế lực đồng tiền và quyền
lực trong ra quyết định.

Trong hợp tác xã, một phần (không phải tất cả) vốn chủ sở hữu là tài sản không chia. “Tài sản không
chia là một bộ phận tài sản của hợp tác xã, không được chia cho thành viên khi chấm dứt tư cách thành
viên hoặc khi hợp tác xã chấm dứt hoạt động” (Điều 4, khoản 4). “Tài sản không chia của hợp tác bao
gồm: Quyền sử dụng đất do Nhà nước giao đất, cho thuê đất; Khoản trợ cấp, hỗ trợ không hoàn lại của
Nhà nước; khoản được tặng, cho theo thỏa thuận là tài sản không chia; Phần trích lại từ quỹ đầu tư
phát triển hằng năm được đại hội thành viên quyết định đưa vào tài sản không chia; Vốn, tài sản khác
được Điều lệ quy định là tài sản không chia” (Điều 48).

Tài sản không chia của hợp tác xã mang tính chất bất khả chuyển nhượng nhằm bảo đảm sự tồn tại
liên tục của hợp tác xã và chống lại bất cứ sự mua bán cơ hội nào. Điều này có nghĩa là khi nào hợp tác
xã còn đủ điều kiện để hoạt động thì không ai có thể bán hay chuyển nhượng hợp tác xã được. Tài sản
không chia còn là di sản của hợp tác xã dành cho thế hệ tương lai. Đây là đặc điểm mang tính nhân
văn, đề cao giá trị cộng đồng và tính sở hữu chung của hợp tác xã. Tài sản không chia được hình thành
và phát triển không có mục đích tự thân, mà hướng đến việc phục vụ có hiệu quả nhu cầu chung, lâu
dài của thành viên.
Ngược lại, ở công ty cổ phần, tất cả tài sản thuộc về cổ đông, tương ứng với tỷ lệ số lượng cổ phần mà
cổ đông sở hữu trong tổng vốn sở hữu chủ của công ty. Việc mua bán, chuyển nhượng công ty xảy ra
như là một hiện tượng bình thường và ngày càng trở nên phổ biến.

3. Quan hệ kinh tế: Đồng sở hữu hợp tác xã trên nguyên tắc bình đẳng

Xét dưới góc độ thành viên, thành viên tham gia hợp tác xã để sử dụng dịch vụ và sản phẩm của hợp
tác xã. Khi thành viên không còn nhu cầu sử dụng sản phẩm và dịch vụ của hợp tác xã thì không còn lý
do để duy trì tư cách thành viên. “Chấm dứt tư cách thành viên khi thành viên không sử dụng sản phẩm,
dịch vụ trong thời gian liên tục theo quy định của điều lệ nhưng không quá 03 năm. Đối với hợp tác xã
tạo việc làm, thành viên không làm việc trong thời gian liên tục không quá 02 năm” (Điều 16, khoản 1e).

Xét dưới góc độ hợp tác xã, hợp tác xã được hình thành để đáp ứng nhu cầu của thành viên. Điều này
đi đôi với việc “thành viên có trách nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định của
điều lệ” (Điều 7, khoản 5). Đây là bản chất kinh tế rất quan trọng làm cho hợp tác xã phát triển bền
vững. Chính vì vậy, Luật Hợp tác xã quy định tỷ lệ giá trị giao dịch tối thiểu mà hợp tác xã buộc phải
giao dịch với thành viên chính thức của mình. “Tỷ lệ cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm ra
thị trường cho từng lĩnh vực, loại hình theo quy định của Chính phủ” (Điều 21, khoản 13). Theo Điều 5
tại dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Hợp tác xã 2012, “Tỷ lệ cung ứng
sản phẩm, dịch vụ và việc làm cho thị trường bên ngoài cộng đồng thành viên do Điều lệ hợp tác xã quy
định cụ thể, nhưng không quá 40% tổng giá trị cung ứng sản phẩm, dịch vụ, việc làm của hợp tác xã”.
Lời nhắn nhủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1927 trong tác phẩm Đường Kách mệnh đến nay vẫn
còn nguyên giá trị. “Hạt nhân, trung tâm của hợp tác xã là thành viên; thành viên là chủ đích thực của
hợp tác xã, là mục tiêu mà hợp tác xã phải phục vụ; hợp tác xã là phương tiện để phục vụ thành viên,
phải đảm bảo đem lại lợi ích cho thành viên” (Hồ Chí Minh, Đường Kách mệnh, 1927).

Như vậy, hợp tác xã thực hiện những hoạt động kinh doanh, trong đó thành viên là khách hàng chủ yếu
của hợp tác xã. Nét đặc thù của hợp tác xã thể hiện ở nguyên tắc mở “hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành
viên” (Điều 7, khoản 2).

Xét dưới góc độ kinh tế, cộng đồng thành viên chính là thị trường chính của hợp tác xã. Hợp tác xã có
càng nhiều thành viên thì “doanh nghiệp” hợp tác xã càng có thị phần rộng lớn, lượng khách hàng trung
thành càng cao. Lúc này, hợp tác xã hoạt động càng có hiệu quả hơn nhờ vào lợi thế theo quy mô. Để
gia tăng số lượng thành viên - khách hàng, nhiều hợp tác xã trên thế giới thường mở rộng thị trường nội
bộ bằng cách mở rộng địa bàn hoạt động, thu hút và kết nạp thêm nhiều thành viên mới hoặc bằng
cách liên kết, sáp nhập hoặc hợp nhất các hợp tác xã lại với nhau.

Xét về mặt xã hội, cộng đồng thành viên càng lớn thì hợp tác xã càng có lợi thế trong việc phát huy tinh
thần hợp tác, tinh thần tự quản, mở rộng dân chủ, nâng cao hiệu quả sinh hoạt văn hóa, cộng đồng.
Nguyên tắc “mở” được đưa vào bộ nguyên tắc Rochdale từ năm 1844 và nó luôn được xem là nguyên
tắc quan trọng nhất, đưa lên là nguyên tắc đầu tiên, cùng với “tính tự nguyện” trong suốt thời gian qua.
Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập, “tính mở” của hợp tác xã đã xóa nhòa ranh giới hành chính của hợp
tác xã. Như nhiều loại hình doanh nghiệp khác, hợp tác xã không nhất thiết phải bó hẹp trong địa bàn
dân cư hay vùng lãnh thổ. “Tính mở” của hợp tác xã cũng xóa bỏ tình trạng một người chỉ có thể là
thành viên của một hợp tác xã như trước kia.

4. Quan hệ phân phối: giao dịch nhiều, hưởng lợi nhiều theo nguyên tắc công bằng

Điều 7, khoản 5 quy định “thu nhập của hợp tác xã được phân phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản
phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên hoặc theo công sức lao động đóng góp của thành
viên đối với hợp tác xã tạo việc làm”. Thu nhập là khái niệm chỉ phần tiền chênh lệch giữa doanh thu và
chi phí trong hợp tác xã và khái niệm tương ứng trong doanh nghiệp là “lợi nhuận” hay “lãi”[1]. “Mức độ
sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên là tỷ lệ giá trị sản phẩm, dịch vụ mà từng thành viên sử dụng
trên tổng giá trị sản phẩm, dịch vụ do hợp tác xã cung ứng cho tất cả thành viên. Đối với HTX tạo việc
làm thì mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ được thể hiện bằng tỷ lệ tiền lương của từng thành viên trên
tổng tiền lương” (Điều 4, khoản 7).

Về mặt từ ngữ, một số quốc gia dùng khái niệm “thặng dư” (surplus) để chỉ phần tiền chênh lệch giữa
doanh thu và chi phí trong hợp tác xã và khái niệm tương ứng trong doanh nghiệp là “lợi nhuận” hay “lãi”
(profit). Trong hợp tác xã, khái niệm “thặng dư” phản ánh đúng bản chất hơn, bởi vì đó là khoản chênh
lệch giữa doanh thu và chi phí có nguồn gốc từ giao dịch giữa hợp tác xã với các chủ sở hữu của nó
(thành viên vừa là chủ sở hữu, vừa là người sử dụng dịch vụ của hợp tác xã). Trong Luật Hợp tác xã
2012, khái niệm “thu nhập” được sử dụng để chỉ khoản chênh lệch này.

Nguyên tắc Rochdale vào năm 1844 và sau này các nguyên tắc do Liên Minh Hợp tác xã Quốc tế điều
chỉnh năm 1937, năm 1966 và năm 1995 đều khuyến cáo việc phân phối lại thu nhập theo mức độ sử
dụng dịch vụ (mức độ giao dịch giữa thành viên với hợp tác xã) và nhấn mạnh cần phải hạn chế tối đa
việc chia lãi trên tư bản đầu tư (theo vốn góp). Nguyên tắc này được khởi xướng và khuyến khích áp
dụng nhằm tránh hiện tượng đề cao tính lợi nhuận và làm xói mòn tinh thần hợp tác.

Thành viên cùng góp vốn gây dựng sản nghiệp chung, cùng sử dụng dịch vụ, cùng chia sẻ chi phí, cùng
chịu trách nhiệm và cùng hưởng lợi từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã. Thành quả của
hợp tác xã được phân phối lại một cách công bằng (chứ cũng không phải là cào bằng) cho mọi thành
viên. Thành viên nào giao dịch càng nhiều với hợp tác xã thì nhận được phần phân phối lại càng cao.
Điều này góp phần gia tăng mức độ trung thành của thành viên với hợp tác xã và là tiền đề để hợp tác
xã phát triển bền vững.

Trong hợp tác xã,

bình đẳng là nguyên tắc áp dụng trong chia sẻ quyền lực;

công bằng là nguyên tắc áp dụng trong phân phối thu nhập.

Giá trị bình đẳng và tính công bằng là những đặc tính nguồn cội của hợp tác xã. Giá trị bình đẳng thể
hiện ở việc tổ chức điều hành và chia sẻ quyền lực. Tính công bằng được thể hiện dựa trên cơ sở: thu
nhập của hợp tác xã được phân phối lại cho thành viên theo mức độ sử dụng dịch vụ và chia lãi theo
vốn góp bị giới hạn ở mức tối đa.

Trong hợp tác xã, phân phối lại thu nhập cho thành viên:

Không phải là “mọi người như nhau” theo mô hình tập thể hóa;
Cũng không phải là “mỗi người theo nhu cầu riêng“ theo mô hình hiệp hội thiện nguyện;
Cũng không phải là “mỗi người theo mức độ sở hữu vốn” theo mô hình tư bản;
Mà là “mỗi người theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã” theo mô hình hợp tác xã.

Ở công ty cổ phần, cổ đông là những nhà đầu tư. Họ không cần giao dịch với công ty. Động cơ duy
nhất của cổ đông là cổ tức kỳ vọng. Lợi nhuận được phân phối theo số lượng cổ phiếu mà cổ đông sở
hữu.

Ở Việt Nam, hiện tượng đề cao tính lợi nhuận và phân phối theo vốn góp ở một số hợp tác xã như hiện
nay đang làm xói mòn tinh thần hợp tác. Nếu hợp tác xã áp dụng cách phân chia lợi nhuận giống như ở
công ty cổ phần, tức là lãi được chia theo số lượng vốn góp, thì thành viên sẽ trông chờ vào “phần chia
lợi nhuận” mà không cần giao dịch với hợp tác xã (không sử dụng dịch vụ của hợp tác xã). Điều này
làm cho hợp tác xã đi chệch khỏi bản sắc, hướng đến loại hình công ty thuần túy vì mục tiêu tối đa hoá
lợi nhuận.

Kết luận

Xét cả khía cạnh lý luận lẫn khía cạnh thực tiễn, kinh tế tập thể nói chung và hợp tác xã nói riêng là sản
phẩm tất yếu của nền sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa càng phát triển, sự cạnh tranh trong kinh
tế thị trường càng gay gắt buộc những người lao động riêng lẻ, hộ cá thể, càng phải hợp tác với nhau
để tồn tại và phát triển. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng cấp thiết hơn, hình thức hợp tác
càng đa dạng hơn, nội dung hợp tác trở nên phong phú hơn.

Giống như mỗi cá nhân có diện mạo và tính cách riêng cho phép người ta nhận diện được cá nhân đó,
hợp tác xã cũng có bản sắc riêng để phân định nó với những loại hình tổ chức khác. Ngay từ khi tạo
dựng hình hài hợp tác xã đầu tiên trên thế giới, những nhà sáng lập đã chọn lọc những tinh hoa từ
nguyên tắc hoạt động của hiệp hội tự nguyện và doanh nghiệp, hòa quyện những đặc trưng này vào
nhau để tạo ra mô hình “hợp tác xã” với những đặc trưng riêng biệt.

Một số thành công trong và ngoài nước gợi mở một niềm tin rằng với vai trò kép: vừa là hiệp hội mang
tính kinh tế vừa là doanh nghiệp mang tính xã hội, hợp tác xã có thể hoạt động tốt như bất kỳ doanh
nghiệp nào. Thậm chí hợp tác xã có thể hoạt động tốt hơn mô hình công ty, nếu những thành viên am
hiểu tường tận, tôn trọng bản sắc của hợp tác xã, biết cách sử dụng và khai thác công cụ tập thể độc
đáo này

Nguồn SOCODEVI Việt Nam

HTX không là tổ chức tự cung, tự cấp


Nhu cầu phát triển của đất nước đòi hỏi sự đổi mới và phát triển của tất cả mọi thành phần và
khu vực kinh tế, trong đó có khu vực kinh tế HTX. Những quan điểm đúng đắn từ Nghị quyết
Trung ương V về phát triển kinh tế tập thể, trong đó nòng cốt là kinh tế HTX là hết sức đúng đắn
và còn nguyên giá trị.

Theo luật HTX hiện hành, HTX được nhìn nhận và hoạt động như doanh nghiệp, các HTX có
quyền bình đẳng kinh doanh như các doanh nghiệp khác. Theo đó, HTX có thể tự quyết định thị
trường của mình, làm sao đem lại lợi ích nhiều nhất cho xã viên của mình.

Thế nhưng, theo dự thảo mới nhất của Luật HTX sửa đổi thì những quyền và lợi ích chính đáng
đó của HTX bị tước bỏ. Tại điều 9 của dự thảo, sẽ có những qui định pháp luật hạn chế tỷ lệ
cung cấp sản phẩm của HTX ra ngoài thị trường. Chẳng hạn, theo qui định của dự thảo trước đó
thì hạn chế ở tỷ lệ 40%. Như thế, HTX cứ làm ra 100 sản phẩm thì chỉ được phép bán tối đa ra
ngoài thị trường 40. Còn ít nhất 60 sản phẩm thì phải tiêu thụ trong nội bộ xã viên mình. Và tất
nhiên đây là một qui định bất hợp lí, gây bất lợi rất lớn cho HTX và xã viên.

Với cách suy nghĩ này, HTX không có quyền tự chủ kinh doanh một cách hợp pháp, HTX không
còn bình đẳng như các doanh nghiệp khác. Việc qui định hạn chế tỷ lệ tham gia thị trường của
HTX là làm thiệt hại trực tiếp cho xã viên và cho sự phát triển của HTX trong nền kinh tế thị
trường. Có rất nhiều ví dụ cụ thể và sinh động cho điều này.
Một HTX dịch vụ nông nghiệp ở An Giang mua sắm máy cày để làm dịch vụ đất. Nếu chỉ làm
dịch vụ cho mỗi 150 hộ xã viên trong ấp thì máy cày chỉ “đủ việc” trong một tuần. Vì thế, HTX
nhận làm đất cho 500 hộ không phải là xã viên của 3 ấp khác. Nhờ đó, HTX đã tránh lãng phí
đầu tư máy cày, giảm chi phí khấu hao, tạo việc làm ổn định cho người lao động. Không chỉ thế,
nhờ dịch vụ cho cả người ngoài xã viên mà phí dịch vụ làm đất của HTX được giảm xuống còn
30%. Nếu HTX không quyết định mở rộng thị trường như vậy vô hình chung người bị thiệt là
chính xã viên khi phải chịu phí dịch vụ làm đất lớn.

Một HTX thanh long ở Long An nhận được hợp đồng xuất khẩu thanh long sang Đài loan, với
điều kiện mỗi tuần phải có đủ một container 20 tấn. HTX thu mua hết sản phẩm của cả 16 xã
viên mới chỉ đạt 7-8 tấn mỗi tuần. Và nếu không nhận thu mua 12-13 tấn thanh long của gần 50
hộ ngoài xã viên khác thì HTX không thể nào đáp ứng đủ yêu cầu của nhà nhập khẩu. Lúc này,
nếu từ chối làm đầu ra cho người ngoài xã viên là làm thiệt hại cho chính xã viên của mình, HTX
sẽ không tiêu thụ được thanh long cho xã viên.

Rõ ràng đây không chỉ là sự năng động kinh doanh, là quyền kinh doanh hợp pháp của HTX:
Kinh doanh những gì, ở đâu mà luật pháp không cấm. Vấn đề là, nếu HTX bị hạn chế kinh
doanh, bị hạn chế tiếp cận thị trường thì nhiều khi người chịu thiệt đầu tiên lại chính là các xã
viên. Các xã viên với tư cách là người chủ của HTX sẽ tự quyết định vấn đề kinh doanh và thị
trường sao cho họ có được lợi ích nhiều nhất. Không thể biến HTX kiểu mới ngày nay quay trở
lại thành những HTX tự cung tự cấp trong nền kinh tế kế hoạch tập trung và bao cấp như trước
kia. Nền kinh tế hàng hóa, nền kinh tế thị trường và trên hết chính các xã viên HTX không chấp
nhận như vậy.

Hơn nữa, để HTX tự do tiếp cận thị trường thì HTX không chỉ đem lại lợi ích cho xã viên mà
còn phục vụ cả cộng đồng, nếu có điều kiện. Đây chính là tính xã hội rất cao, tính nhân văn cao
cả của HTX rất đáng trân trọng và rất cần khuyến khích chứ không phải là ngăn cấm.

Hợp tác xã: hành chính hay doanh nghiệp? (17/11/2003)


TT - Xét về thực tế phát triển kinh tế nói chung và hợp tác xã (HTX) nói riêng trong mấy năm qua chứng tỏ Luật HTX
cùng các chính sách phát triển kinh tế hợp tác đã chưa phát huy được tác dụng như mong muốn.
Cũng như loại hình kinh doanh khác, HTX có những điểm lợi và bất lợi riêng của nó. Bản chất của HTX nhấn mạnh
đến “sự bình đẳng” của từng xã viên không phân biệt đóng góp thực tế của họ; không chú trọng nhiều đến mối quan
hệ thuận giữa đóng góp, năng lực và lợi ích được hưởng.
Vì vậy, HTX chưa phải là mô hình phù hợp khuyến khích lợi ích cá Trong khi số lượng HTX, nhất là HTX
nhân, lấy lợi ích cá nhân làm động lực chính để phát triển. HTX có thể dịch vụ nông nghiệp, giảm thì số lượng
phù hợp với các hoạt động kinh tế đã “chuẩn hóa”, độ rủi ro thấp và và qui mô (về vốn, lao động) của trang
không cần nhiều đến nghiên cứu, sáng tạo để phát triển. Mức độ phát trại tăng lên rất nhanh trên nhiều vùng cả
triển kinh tế hiện nay chưa tạo ra nhu cầu xã hội đủ để HTX hình thành nước, và trong thời kỳ 1991-1999 số
và hoạt động đúng với nguyên tắc của nó. lượng doanh nghiệp tư nhân mới được
thành lập hằng năm gấp gần 10 lần số
Trong hơn 17 năm qua, HTX đã và đang chuyển đổi cùng với sự HTX mới thành lập.
chuyển đổi chung sang cơ chế thị trường của cả nền kinh tế. Để định (Hiện nay số doanh nghiệp mới thành lập
hướng cho tiếp tục chuyển đổi, cần xem xét và tính đến một số điểm gấp 30-40 lần so với số HTX; qui mô vốn
sau đây. bình quân của doanh nghiệp mới thành
lập lớn gấp 3-4 lần so với HTX).
Trước hết, HTX phải được khẳng định là một trong nhiều loại hình doanh nghiệp, một trong nhiều hình thức tổ chức
kinh doanh của kinh tế thị trường với những đặc điểm, lợi và bất lợi của nó. Xét về sở hữu thì HTX thuộc sở hữu tư
nhân, của những thành viên.
Vì vậy, HTX cũng như loại hình doanh nghiệp khác tồn tại độc lập, tách biệt không chỉ với các pháp nhân khác mà
còn tách biệt cả với các cấp chính quyền.
Trong xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách HTX cũng phải được đối xử bình đẳng; có nghĩa là không dành ưu
đãi khác (nhiều hơn hoặc ít hơn trên tất cả các mặt: chính trị, tinh thần, kinh tế và xã hội) và riêng biệt cho HTX, xã
viên và những người làm việc trong HTX, đồng thời HTX cũng như loại hình doanh nghiệp khác không bị các cấp
chính quyền “công cụ hóa” thành bộ phận và thực hiện các chức năng của các cấp chính quyền. Trường hợp có yêu
cầu trợ giúp HTX thì đặt nó trong chương trình trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tóm lại, HTX cần được đối xử công bằng, bình đẳng, phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường.
Dù có khác nhau về nguyên tắc tổ chức, nhưng hiệu quả và năng lực cạnh tranh vẫn là yếu tố quyết định thành - bại
của HTX.
Cuối cùng, trong xây dựng luật về HTX, cần phải đa dạng hóa loại hình HTX; đồng thời áp dụng linh hoạt và có chọn
lọc các nguyên tắc cơ bản của HTX cho phù hợp với điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử và xã hội
của nước ta.
Cũng như hầu hết các nước khác, không phải những nguyên tắc cơ bản của HTX đều phải được áp dụng nguyên
vẹn và không thay đổi.
“Dân chủ” trong quản lý HTX không nhất thiết phải là “mỗi xã viên, một phiếu bầu” không tính đến đóng góp cổ phần
của xã viên; “công bằng” không nhất thiết là phải có giới hạn tối đa số vốn góp của từng xã viên và phân chia lợi ích
đồng đều giữa các xã viên mà không tính đến mức độ góp vốn cổ phần và đóng góp khác của họ; như loại hình
doanh nghiệp khác, HTX không nhất thiết phải bó hẹp trong địa bàn dân cư và vùng lãnh thổ...
Kinh nghiệm ở các nước khác cho thấy áp dụng linh hoạt (không cứng nhắc như hiện nay ta đang theo đuổi) sẽ làm
đa đạng hóa loại hình HTX, tạo thêm dư địa và động lực cho HTX phát triển, cạnh tranh được với các loại hình
doanh nghiệp khác. Trên thực tế nguyên tắc tổ chức, hoạt động và quản lý của không ít HTX ở nước ta hiện nay đã
có thay đổi và tách biệt nhất định với nguyên tắc truyền thống của HTX.

You might also like