You are on page 1of 54

Trần Ngọc Thảo (LG3, LG4)

LG3 Phân biệt giữa các hình thức tín dụng tài khoản mở khác nhau.
LG4 Đăng ký, nhận, và quản lý các hình thức tín dụng mở.

6-2 THẺ TÍN DỤNG VÀ NHỮNG LOẠI TÍN DỤNG TÀI


KHOẢN MỞ KHÁC
LG3
tín dụng tài khoản mở Tín dụng tài khoản mở là một hình thức tín dụng được cấp
Một hình thức tín dụng cho người tiêu dùng trước bất kỳ giao dịch nào. Thông
được cấp cho người tiêu thường, một cửa hàng bán lẻ hoặc ngân hàng đồng ý cho
dùng trước bất kỳ giao người tiêu dùng mua hoặc vay đến một số tiền nhất định
dịch nào. trong tài khoản mở. Tín dụng được cấp miễn là người tiêu
giới hạn tín dụng dùng không vượt quá giới hạn tín dụng được thiết lập và

Một số tiền nhất định vượt thanh toán theo những điều khoản nhất định. Tín dụng tài

quá mà khách hàng có thể khoản mở do một cửa hàng bán lẻ phát hành, chẳng hạn như

không vay hoặc mua bằng một cửa hàng bách hóa hay công ty dầu mỏ, thường chỉ có

tín dụng thể được áp dụng tại cơ sở kinh doanh đó hoặc một trong các
địa điểm của cơ sở đó. Ngược lại, tín dụng tài khoản mở do
bảng sao kê tín dụng
các ngân hàng phát hành, chẳng hạn như tài khoản
Một báo cáo hàng tháng
MasterCard và Visa, có thể dùng để mua hàng ở đa dạng các
tóm tắt các giao dịch, lãi
doanh nghiệp. Trong phần còn lại của chương này, chúng ta
suất, phí và các khoản
sẽ đi chú tâm vào các loại và đặc điểm khác nhau của tín
thanh toán trong tài khoản
dụng tài khoản mở; trong Chương 7, chúng ta sẽ xem xét các
tín dụng tiêu dùng.
hình thức khác nhau của thanh toán một lần và vay trả góp.
Sở hữu tín dụng tài khoản mở cũng giống như sở hữu
một hạn mức tín dụng cá nhân - nó luôn có sẵn khi bạn cần.
Nhưng không giống hầu hết những loại nợ khác, người tiêu
dùng sử dụng hình thức tín dụng mở có thể tránh được việc
phải trả lãi nếu họ thanh toán kịp thời toàn bộ số dư tài
khoản của mình. Ví dụ, giả sử trong một tháng nhất định bạn
chi 75.58 đô la trong một tài khoản mở tại một cửa hàng bách
hoá. Một lúc nào đó trong tháng sau, bạn sẽ nhận được một
bảng sao kê tín dụng từ cửa hàng tóm tắt các giao dịch gần
đây trên tài khoản của bạn. Bây giờ, nếu không còn khoản
phí nào khác và tổng số dư tài khoản là 75.58 đô la, bạn
(thường) có thể tránh bất kỳ khoản phí tài chính nào bằng
cách thanh toán đầy đủ số tiền trước ngày thanh toán tiếp
theo.
Tín dụng tài khoản mở thường có sẵn từ hai nguồn
được xác định khái quát: (1) tổ chức tài chính và (2) cửa
hàng/nhà bán lẻ. Tổ chức tài chính phát hành thẻ tín dụng đa
năng, cũng như các hạn mức tín dụng quay vòng được bảo
đảm và không được bảo đảm và các hạn mức bảo vệ thấu chi.
Những ngân hàng thương mại từ lâu đã là những nhà cung
cấp tín dụng tiêu dùng chính; từ khi bãi bỏ quy định, ta có
các hiệp hội tín dụng, các tổ chức tín dụng, các công ty môi
giới chứng khoán lớn, và các công ty tài chính tiêu dùng.
Cửa hàng và nhà bán lẻ góp phần vào nguồn tín dụng tài
khoản mở trọng yếu khác. Họ cung cấp dịch vụ này như một
cách để thúc đẩy sản lượng bán hàng của mình, và hình thức
tín dụng chủ yếu của họ là thẻ thanh toán (hay thẻ tín dụng).
Giờ hãy nhìn vào hai hình thức tín dụng này, cùng với thẻ
ghi nợ và hạn mức tín dụng quay vòng.
Bảng tính 6.1 Đánh giá tín dụng của bạn
Một bảng tính như thế này sẽ giúp một hộ gia đình kiểm soát được các khoản thanh toán hàng
tháng bằng thẻ tín dụng và khoản vay tiêu dùng cũng như tỷ lệ an toàn nợ của họ - một thước
đo quan trọng về uy tín tín dụng. Điều quan trọng là giữ tỷ lệ an toàn nợ ở mức thấp nhất (hợp
lý) có thể, điều này có thể được thực hiện bằng cách giữ các khoản thanh toán khoản vay hàng
tháng phù hợp với số tiền mang về nhà hàng tháng.
6-2a Thẻ Tín Dụng Ngân Hàng
thẻ tín dụng ngân hàng Có lẽ hình thức phổ biến nhất của tín dụng tài khoản mở là
Một thẻ tín dụng được phát thẻ tín dụng ngân hàng được phát hành bởi ngân hàng
hành bởi ngân hàng hoặc thương mại hoặc tổ chức tài chính khác – Visa và
tổ chức tài chính khác cho MasterCard là hai loại nổi trội. Những thẻ này cho phép chủ
phép chủ sở hữu mua hàng sở hữu của chúng mua hàng trên toàn thế giới tại hàng triệu
tại bất kỳ cơ sở nào chấp cửa hàng, nhà hàng, cửa hiệu, và trạm xăng cũng như tại
nhận nó. chính quyền tiểu bang và thành phố, cao đẳng và đại học, các
nhóm y tế, và các cửa hiệu bán hàng qua đường bưu điện –
chưa đề cập đến Internet, nơi chúng đã trở thành loại tiền tệ
được lựa chọn. Chúng có thể được sử dụng để thanh toán hầu
như mọi thứ. Khối lượng thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ được
dùng để mua bán đã vượt qua giao dịch bằng tiền mặt và séc
vào năm 2003. Hàng nghìn ngân hàng, hiệp hội tín dụng, tổ
chức tín dụng, công ty môi giới, và những tổ chức dịch vụ tài
chính khác phát hành Visa và MasterCard; và mỗi nhà phát
hành, với những giới hạn hợp lý, có thể đặt ra các điều khoản
và điều kiện tín dụng của riêng mình.
Thẻ tín dụng ngân hàng có thể được dùng để vay tiền
cũng như mua hàng hoá và dịch vụ bằng tín dụng. Bởi tiềm
năng của việc sử dụng chúng cho hàng nghìn doanh nghiệp
và ngân hàng, chúng có thể đem lại tiện ích và giá trị lớn cho
ngườ tiêu dùng. Tuy nhiên, những cá nhân sử dụng chúng
nên hoàn toàn quen thuộc với các tính năng cơ bản của
chúng.
Khủng hoảng tài chính năm 2008 – 2009 khiến các
tiêu chuẩn tín dụng thắt chặt hơn đối với hoạt động kinh
doanh thẻ tín dụng ngân hàng. Nó bao gồm tiêu chuẩn cao
hơn cho lịch sử tín dụng cá nhân. Những tiêu chuẩn có xu
hướng thắt chặt nhanh chóng trong một cuộc khủng hoảng,
và có thể mất vào năm trước khi chúng trở lại mức độ trước
khủng hoảng. Kết quả là, người tiêu dùng cảm thấy khó khăn
hơn trong việc có được thẻ tín dụng mới, và hạn mức đối
những chiếc thẻ cũ giảm đi rõ rệt.
Hạn mức tín dụng
hạn mức tín dụng Hạn mức tín dụng được cung cấp cho người sở hữu thẻ tín
Số tiền tín dụng tối đa mà dụng ngân hàng do nhà phát hành quy định đối với mỗi thẻ.
một khách hàng được phép Nó là số tiền lớn nhất mà chủ thẻ có thể nợ ở bất kỳ thời
có tại bất kỳ thời điểm điểm nào. Kích thước của thẻ tuỳ thuộc vào cả yêu cầu của
nào. người nộp đơn xin cấp thẻ và kết quả điều tra của nhà phát
hành về tình trạng tín dụng và tài chính của người nộp đơn.
Hạn mức tín dụng được cung cấp bởi những nhà phát hành
thẻ ngân hàng có thể lên đến 50000 đô la hoặc hơn, nhưng
phần lớn dao động trong khoảng từ 500 đô la đến 2500 đô la.
Mặc dù nhà phát hành thẻ hoàn toàn trông đợi bạn giữ tín
dụng của mình trong giới hạn quy định, hầu hết lại khôn có
hành động gì trừ khi bạn mở rộng số dư tài khoản của mình
theo một tỷ lệ phần trăm nhất định vượt quá mức tối đa đã
nêu của tài khoản. Ví dụ, nếu bạn có giới hạn tín dụng 1000
đô la, bạn có lẽ sẽ không thấy thông tin gì từ nhà phát hành
thẻ cho đến khi số dư tài khoản chưa thanh toán của bạn vượt
quá, chẳng hạn, 1200 đô la (tức là 20 phần trăm trên hạn mức
tín dụng 1000 đô la). Mặt khác, đừng nghĩ đến việc hưởng
lợi miễn phí, vì hầu hết các công ty phát hành thẻ đều tính
phí vượt quá giới hạn bất cứ khi nào bạn vượt quá giới hạn
tín dụng của mình.
Tạm ứng tiền mặt
tạm ứng tiền mặt Ngoài việc mua hàng hóa và dịch vụ, chủ thẻ tín dụng ngân
Một khoản vay mà chủ thẻ hàng có thể nhận được khoản tạm ứng tiền mặt từ bất kỳ
tín dụng ngân hàng có thể ngân hàng tham gia nào. Tạm ứng tiền mặt là những khoản
nhận được tại bất kỳ ngân vay mà tiền lãi bắt đầu tích lũy ngay lập tức. Chúng được
hàng hoặc tổ chức tài giao dịch như cách mua hàng hoá, ngoại trừ việc chúng diễn
chính tham gia nào. ra ở một ngân hàng thương mại hoặc một số tổ chức tài chính
khác và liên quan đến việc nhận tiền mặt (hoặc một tấm séc)
thay vì hàng hoá và dịch vụ. Một cách khác để nhận tạm ứng
tiền mặt là sử dụng “séc tiện lợi” mà bạn nhận từ nhà phát
hành thẻ để chi trả cho việc mua sắm. Bạn thậm chí có thể sử
dụng thẻ tín dụng của mình để rút tiền mặt từ máy ATM, bất
kỳ lúc nào trong ngày hay đêm. Thông thường, lượng tiền
ứng trước từ máy ATM được giới hạn ở một số lượng không
đáng kể (số tiền thông dụng là 500 đô la trở xuống), mặc dù
số tiền bạn có thể nhận được từ quầy giao dịch tại ngân hàng
chỉ bị giới hạn bởi khoản tín dụng chưa sử dụng trong tài
khoản của bạn. Do đó, nếu bạn chỉ sử dụng 1000 đô la trong
hạn mức tín dụng 5000 đô la, bạn có thể rút tạm ứng tiền mặt
lên tới 4000 đô la.
Chi phí tiền lãi
Lãi suất trung bình hằng năm được tính trên thẻ tín dụng
ngân hàng có lãi suất cố định tiêu chuẩn là 13,01 phần trăm
vào giữa năm 2015, trong khi lãi suất trung bình trên thẻ có
lãi suất biến đổi tiêu chuẩn là 15,76 phần trăm. Bạn sẽ nhận
thấy rằng hầu hết thẻ ngân hàng đều có một tỉ lệ tiền lãi cho
việc mua hàng hóa và một tỉ lệ cao hơn nhiều cho các khoản
tạm ứng tiền mặt. Ví dụ, lãi suất của việc mua hàng hoá là 12
phần trăm, trong khi lãi suất của tạm ứng tiền mặt có thể là
19 hay 20 phần trăm. Và khi mua thẻ tín dụng, hãy chú ý
những mức lãi suất giới thiệu thấp đặc biệt mà nhiều ngân
hàng đưa ra. Được gọi là “lãi suất chào mời”, chúng thường
chỉ có lợi trong khoảng 6 đến 12 tháng. Sau đó, ngay khi giai
đoạn giới thiệu kết thúc, mức lãi suất thấp cũng kết thúc theo.
lãi suất cơ bản Hầu hết các thẻ này đều có lãi suất biến đổi gắn với
Lãi suất mà một ngân hàng một chỉ số biến động theo lãi suất thị trường. Phổ biến nhất
dùng làm cơ sở cho vay là lãi suất cơ bản: lãi suất mà một ngân hàng dùng làm cơ sở
đối với cá nhân và những cho vay đối với cá nhân và những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những thẻ này điều chỉnh lãi suất hàng tháng hoặc hàng quý
và thường có mức lãi suất tối thiểu và tối đa. Do việc sử
dụng rộng rãi của lãi suất biến động, chủ thẻ ngân hàng nên
biết rằng - cũng giống như lãi suất giảm làm giảm lãi suất
trên thẻ tín dụng - lãi suất thị trường tăng chắc chắn sẽ dẫn
đến chi phí lãi suất cao hơn nhiều!
Ví dụ: Lãi suất chỉ số thẻ tín dụng ngân hàng
Hãy xem xét một thẻ ngân hàng có kỳ hạn gốc cộng thêm 7,5
phần trăm, với mức tối thiểu là 10 phần trăm và tối đa là
15,25 phần trăm. Nếu lãi suất cơ bản là 3,25 phần trăm, thì
lãi suất tính trên thẻ này sẽ là 3,25 phần trăm + 7,5 phần trăm
+ 10,75 phần trăm.
Nói chung, lãi suất trên thẻ tín dụng cao hơn bất kỳ
hình thức tín dụng tiêu dùng nào khác. Tuy nhiên, do sự cạnh
tranh ngày càng trở nên khốc liệt, ngày càng có nhiều ngân
hàng sẵn sàng thương lượng mức phí như một cách để giữ
chân khách hàng. Dẫu xu hướng này có ảnh hưởng đáng kể
đến việc giảm vĩnh viễn lãi suất và phí hay không, nhưng ít
nhất hầu hết người tiêu dùng đều đồng ý rằng đây là một
bước đi đúng hướng.
thời gian ân hạn Nhà phát hành thẻ tín dụng ngân hàng phải công bố chi phí
Một khoảng thời gian lãi suất và các thông tin liên quan cho người tiêu dùng trước
ngắn, thường khoảng 20 khi cấp tín dụng. Trong trường hợp mua hàng hóa và dịch vụ,
đến 30 ngày, trong thời lãi suất quy định có thể không áp dụng cho các khoản phí
gian này ban có thể trả đầy cho đến sau thời gian ân hạn. Trong khoảng thời gian ngắn
đủ hoá đơn tín dụng và này, thường từ 20 đến 30 ngày, bạn có thể thanh toán đầy đủ
không phải chịu bất kỳ hóa đơn thẻ tín dụng của mình và tránh mọi khoản lãi suất.
khoản lãi suất nào. Một khi bạn có số dư – tức là, khi bạn không thanh toán đầy
đủ thẻ của mình trong thời gian ân hạn – lãi suất thường
được áp dụng cho mọi số dư chưa thanh toán có từ các kỳ
trước, cũng như cho bất kỳ giao dịch mua mới nào được thực
hiện. Tuy nhiên, lãi suất đối với tạm ứng tiền mặt bắt đầu
được tính từ ngày tiền tạm ứng được rút ra.
Chi phí khác
Bên cạnh lãi suất đối với thẻ tín dụng ngân hàng, có một vài
chi phí khác bạn nên biết. Trước hết, nhiều (mặc dù không
phải tất cả) thẻ ngân hàng tính phí hàng năm chỉ vì “đặc
quyền” được sử dụng thẻ. Trong hầu hết trường hợp, phí vào
khoảng 25 đô la đến 40 đô la một năm, dù số tiền có thể
nhiều hơn với thẻ uy tín. Thỉnh thoảng, phí thường niên này
được miễn trong năm đầu, nhưng bạn sẽ mắc kẹt với nó vào
năm thứ hai và mỗi năm khi bạn còn giữ thẻ. Như một quy
luật, ngân hàng hoặc hiệp hội tín dụng càng lớn, càng có
nhiều khả năng tính phí hàng năm cho thẻ tín dụng của mình.
Hơn nữa, nhiều nhà phát hành thẻ cũng tính phí giao dịch
cho mỗi tạm ứng tiền mặt (không qua ATM); phí này thường
khoảng 5 đô la mỗi lần tạm ứng tiền mặt hoặc 3 phần trăm số
tiền nhận được từ giao dịch, tuỳ theo số tiền nào nhiều hơn.
Trước đây, nhà phát hành thẻ nghĩ ra nhiều cách để
thu thêm doanh thu từ bạn. Chúng bao gồm phí thanh toán
trễ, phí vượt mức thanh toán giới hạn, phí giao dịch nước
ngoài , và phí chuyển số dư. Ví dụ, nếu bạn thanh toán trễ
một chút, thì một vài ngân hàng sẽ bắt bạn trả phí thanh toán
trễ, đây thực sự là một khoản phí dư thừa vì bạn đã phải trả
lãi cho số dư chưa thanh toán. Tương tự, nếu bạn vô tình
vượt quá giới hạn tín dụng của mình thì bạn cũng sẽ phải trả
một khoản phí cho việc đó (một lần nữa, khoản phí này cộng
thêm vào khoản lãi bạn đã trả). Nhà phát hành thẻ đã biện
minh cho những khoản phí này bằng cách nói rằng việc phát
hành và quản lý những thẻ này sẽ tốn tiền, vì vậy họ có
quyền tính các khoản phí này nếu bạn không sử dụng thẻ của
họ. Tất nhiên, bạn có quyền cho nhà phát hành biết bạn nghĩ
gì về những khoản phí này bằng cách hủy thẻ của bạn! Bất kể
khi nào hoặc tại sao những khoản phí này được thu, thì tác
động thực sự là chúng sẽ làm tăng thêm chi phí thực của việc
sử dụng thẻ tín dụng ngân hàng.
Những hoạt động phức tạp của các nhà phát hành thẻ
tín dụng và các khoản phí bổ sung này đã dẫn đến việc thông
qua Đạo luật thẻ tín dụng năm 2009. Trong quá khứ, các
công ty cấp thẻ tín dụng có thể thay đổi lãi suất và những
khía cạnh khác của thoả thuận mà không thông báo trước. Họ
thậm chí có thể thay đổi các điều khoản có hiệu lực trở về
trước để họ áp dụng hai tháng trước khi bạn được thông báo.
Luật mới yêu cầu các công ty cấp thẻ tín dụng gửi thông báo
trước khi thay đổi thoả thuận của bạn 45 ngày. Tương tự,
công ty cấp thẻ tín dụng có thể tăng lãi suất trước nếu báo
cáo tín dụng của bạn xấu đi hoặc nếu bạn chậm thanh toán dù
chỉ một lần. Luật mới cho phép các công ty cấp thẻ tín dụng
chỉ áp dụng lãi suất mới cho số dư mới sau khi tài khoản của
bạn quá hạn 60 ngày. Và điều quan trọng không kém là số dư
cũ của bạn chỉ có thể bị tính lãi suất cũ. Hình 6.4 tóm tắt một
số quy định chính của đạo luật. Một năm sau khi đạo luật có
hiệu lực năm 2010, số dư thẻ tín dụng đã giảm, các khoản
thanh toán trễ giảm, các khoản nợ không thanh toán được
giảm, và việc sử dụng thẻ ghi nợ qua thẻ tín dụng ngày càng
tăng.
Chuyển nhượng số dư
chuyển nhượng số dư Một tính năng của thẻ tín dụng ngân hàng mà một số người
Một chương trình cho dùng thấy hấp dẫn là khả năng chuyển số dư từ thẻ này sang
phép chủ thẻ dễ dàng thẻ khác. Được gọi là chuyển nhượng số dư, nhà phát hành
chuyển số dư tín dụng từ thẻ rất quan tâm đến việc cho phép bạn chuyển số dư từ một
thẻ này sang thẻ khác. hay nhiều thẻ (cũ) sang thẻ (mới) của họ. Ý tưởng là loại bỏ
(các) thẻ cũ bằng cách đặt mọi thứ, bao gồm số dư hiện tại,
vào thẻ (mới) của nhà phát hành. Có hai lợi ích tiềm năng
của những chương trình chuyển nhượng số dư này. Đầu tiên,
có sự tiện lợi khi có thể tổng hợp các khoản thanh toán bằng
thẻ tín dụng của bạn. Thứ hai, có khả năng tiết kiệm được
tiền lãi đi kèm với việc chuyển tiền, vì những giao dịch như
vậy thường đi kèm với lãi suất (chào mời) rất thấp. Nhưng
những lần chuyển nhượng này cũng có nhược điểm của
chúng. Đối với những người mới bắt đầu, mặc dù bạn có thể
hưởng lợi (ban đầu) từ mức lãi suất thấp đối với tất cả các
khoản tiền được chuyển nhưng nhà phát hành thường sẽ tính
mức lãi suất cao hơn nhiều đối với các giao dịch mua mới.
Ngoài ra, khoản thanh toán hàng tháng của bạn thường được
áp dụng cho số dư đã chuyển trước chứ không phải cho các
giao dịch mua mới, vốn phải chịu mức phí cao hơn. Thêm
vào đó, một số ngân hàng sẽ tính một khoản phí cố định đối
với tất cả số tiền được chuyển.

Ví dụ: Chi phí của việc chuyển nhượng số dư thẻ tín dụng
Giả sử bạn chuyển số dư 5000 đô la sang thẻ tín dụng mới
với phí chuyển khoản là 4%. Điều này sẽ dẫn đến khoản phí
200 đô la, và cộng thêm vào bất kỳ khoản lãi suất nào khác!
Mặc dù nhiều chương trình chuyển khoản số dư đưa ra lãi
suất chào mời tương đối thấp, nhưng lãi suất thấp đó thường
không kéo dài lâu.
Hình 6.4 Cách Đạo luật thẻ tín dụng năm 2009 ảnh hưởng đến bạn
Đạo luật thẻ tín dụng năm 2009 cung cấp sâu rộng và đáng kể các cải tiến của thẻ tín dụng.
Mặc dù nó cung cấp một số biện pháp bảo vệ nhưng nó không thể thay thế thói quen sử dụng
thẻ tín dụng có trách nhiệm. Dưới đây là một số quy định chính của luật mới:
Các chi phí tài chính và tăng lãi suất
• Các công ty cấp thẻ tín dụng phải gửi thông báo trước 45 ngày khi tăng lãi suất
hoặc thay đổi thỏa thuận. Trước khi luật mới được thông qua, yêu cầu chỉ là thông
báo trước 15 ngày. Mức giá khuyến mại phải kéo dài ít nhất sáu tháng.
• Các chi phí tài chính không còn được tính toán bằng cách gấp đôi hóa đơn tiếp
cận, không chỉ tính đến số dư trung bình hàng ngày của chu kỳ thanh toán hiện tại
mà còn tính đến số dư trung bình hàng ngày của kỳ trước. Phương pháp thanh toán
này có thể làm tăng lãi suất đáng kể đối với người tiêu dùng có số dư trung bình
thay đổi nhiều qua từng tháng.
• Nếu công ty phát hành thẻ tăng lãi suất của bạn, một lãi suất mới chỉ được thêm
vào số dư, chứ thêm không vào số dư có sẵn trước đó.
Sự phân bổ các khoản thanh toán và chi phí.
• Các chi phí cho việc thanh toán thẻ tín dụng bị cấm trừ khi chi trả phút chót
bằng điện thoại khi khoản thanh toán của bạn đã đến hạn.
• Nếu số dư của bạn có lãi suất khác nhau, bất kỳ khoản thanh toán nào vượt quá
mức đến hạn tối thiểu trước tiên phải được phân bổ vào số dư có lãi suất cao nhất
của bạn.
• Các khoản phí quá hạn không thể được thanh toán trừ khi bạn yêu cầu công ty
tín dụng xử lý giao dịch vượt hạn mức. Chỉ có một khoản phí quá hạn có thể thanh
toán theo chu kì thanh toán.
Bảng sao kê giao dịch và quá trình thanh toán
• Bảng sao kê thẻ tín dụng cần phải được gửi đi 21 ngày trước ngày đáo hạn.
• Các khoản thanh toán nhận được vào ngày làm việc tiếp theo sau ngày nghỉ lễ
hoặc cuối tuần được coi là đúng hạn.
Thẻ tín dụng cho trẻ vị thành niên và sinh viên đại học
• Trẻ vị thành niên dưới 18 tuổi không thể có thẻ tín dụng trừ khi họ không còn bị
kiểm soát hoặc được phép sử dụng thẻ của cha mẹ hoặc người giám hộ.
• Sinh viên đại học không có thu nhập có thể xác minh được sẽ không được cấp
thẻ tín dụng.
Khai báo thẻ tín dụng
• Bảng sao kê giao dịch phải bao gồm thông tin hoàn trả, bao gồm số tháng cần
thiết để thanh toán hết số dư trong khi chỉ thực hiện các khoản thanh toán tối thiểu.
• Việc gạ gẫm thẻ tín dụng phải giải thích rằng nhiều yêu cầu về báo cáo tín dụng
có thể làm giảm điểm tín dụng của bạn.

6-2b Những Loại Thẻ Tín Dụng Ngân Hàng Đặc


Biệt
Ngày nay, ngoài thẻ ngân hàng tiêu chuẩn, thẻ ngân hàng đơn
giản, bạn có thể nhận được thẻ cung cấp các khoản giảm giá
và chương trình khuyến khích đặc biệt, thẻ được tài trợ bởi
các tổ chức phi lợi nhuận, thậm chí cả thẻ tín dụng dành
riêng cho sinh viên đại học và trung học. Bây giờ chúng ta sẽ
xem xét một số loại thẻ tín dụng ngân hàng đặc biệt này, bao
gồm thẻ thưởng, thẻ ái lực, thẻ tín dụng có bảo đảm và thẻ tín
dụng sinh viên.
Thẻ thưởng
thẻ tín dụng phần thưởng Một trong những phân khúc phát triển nhanh nhất của thị
(liên kết thương hiệu) trường thẻ ngân hàng là thẻ tín dụng phần thưởng (liên kết
Một thẻ tín dụng ngân thương hiệu), kết hợp các tính năng của thẻ tín dụng ngân
hàng tích hợp các tính hàng truyền thống với ưu đãi: tiền mặt, giảm giá hàng hóa,
năng của một thẻ tín dụng vé máy bay hoặc thậm chí là đầu tư. Khoảng một nửa số thẻ
ngân hàng truyền thống tín dụng là thẻ giảm giá, và các loại thẻ mới hầu như được
với ưu đãi bổ sung, chẳng giới thiệu mỗi ngày. Dưới đây là một số trong rất nhiều
hạn như giảm giá và số chương trình khuyến khích.
dặm bay.  Chương trình khách bay thường xuyên: Trong
chương trình này, chủ thẻ kiếm được số dặm bay
thường xuyên miễn phí cho mỗi đô la tính trên thẻ tín
dụng của mình. Những dặm bay thường xuyên này
sau đó có thể được sử dụng với các chương trình liên
kết với hãng hàng không để nhận vé miễn phí, nâng
hạng vé lên hạng nhất và các lợi ích liên quan đến du
lịch khác. Các ví dụ bao gồm Thẻ Delta Sky Miles và
Thẻ Visa United Airlines Mileage Plus; với các
chương trình American Express và Chase Travel Plus,
số dặm có thể được sử dụng trên bất kỳ hãng hàng
không nào trong số rất nhiều hãng hàng không.
 Chương trình giảm giá phương tiện bốn bánh: Một
số thẻ tín dụng cho phép chủ thẻ nhận được giảm giá
hàng năm lên tới 5% khi mua hoặc thuê ô tô mới cũng
như mua xăng và bảo dưỡng ô tô đến giới hạn quy
định. Ví dụ, Thẻ ThankYou Preferred của Citibank
cung cấp các khoản giảm giá có thể áp dụng cho việc
mua bất kỳ thương hiệu xe nào, xe mới hay đã qua sử
dụng. Chủ thẻ có thể kiếm được 1 phần trăm trong
hầu hết các giao dịch mua hàng (đặc biệt là không bao gồm gas) và 6
phần trăm trong năm. Hầu hết các công ty ô tô lớn đều
cung cấp một số loại thẻ tín dụng liên quan đến phần
thưởng có thể được sử dụng để mua ô tô hoặc các mặt
hàng liên quan.
 Giảm giá hàng hoá khác: Ngày càng có nhiều công
ty tham gia vào các chương trình thưởng thẻ ngân
hàng, chẳng hạn như Norwegian Cruise Line,
NASCAR, Starbucks, Marriott Hotels và Hard Rock
Café. Một số công ty dầu mỏ lớn cũng cung cấp thẻ
giảm giá, trong đó chủ thẻ kiếm được tín dụng có thể
được áp dụng cho việc mua xăng của công ty. Một số
công ty điện thoại trong khu vực thậm chí còn cung
cấp giảm giá cho các cuộc gọi điện thoại. (Một trang
web tốt để tìm thông tin về những ưu đãi này và các
ưu đãi thẻ giảm giá khác là http://www.cardtrak.com.)
Thẻ giảm giá có phải là món hời không? Chà, có và
không. Để xem chúng có ý nghĩa với bạn hay không, hãy
đánh giá các thẻ này một cách cẩn thận bằng cách xem xét
cách sử dụng của bạn và tính toán chi phí hàng năm của thẻ
trước và sau khi giảm giá. Đừng quá chú tâm vào mánh lới
quảng cáo mà quên mất tổng chi phí. Hầu hết các thẻ ưu đãi
đều có lãi suất cao hơn thẻ ngân hàng thông thường. Những
thẻ này hoạt động tốt nhất cho những người có thể sử dụng
các khoản giảm giá, tiêu nhiều và không có số dư hàng tháng
cao.
Thẻ ái lực
thẻ ái lực “Thẻ tín dụng có nguyên nhân” là cách mô tả thẻ ái lực.
Một thẻ tín dụng ngân Những thẻ này không gì khác hơn là Visa hoặc MasterCard
hàng tiêu chuẩn được phát tiêu chuẩn được phát hành cùng với một nhóm tài trợ - phổ
hành cùng với một số tổ biến nhất là một số loại tổ chức từ thiện, chính trị hoặc nghề
chức từ thiện, chính trị nghiệp. Được đặt tên như vậy vì sự gắn kết giữa nhóm tài trợ
hoặc phi lợi nhuận khác. và các thành viên của nhóm, thẻ ái lực được tài trợ bởi các tổ
chức phi lợi nhuận như Các bà mẹ chống việc say rượu lái xe
(MADD), Hiệp hội các nhà đầu tư cá nhân Hoa Kỳ, Quỹ
Động vật hoang dã Hoa Kỳ, AARP và Thế vận hội đặc biệt .
Ngoài ra, chúng còn được cấp bởi các nhóm cựu sinh viên
cao đẳng và đại học, các tổ chức lao động, các nhóm tôn giáo
và huynh đệ cũng như các hiệp hội nghề nghiệp. Trong nhiều
trường hợp, tất cả những gì bạn phải làm là ủng hộ mục tiêu
để có được một trong những thẻ này (như trường hợp của
MADD). Trong các trường hợp khác, bạn sẽ phải thuộc một
nhóm nhất định để nhận được một trong các thẻ của họ (ví
dụ, phải tốt nghiệp trường hoặc thành viên của một nhóm
chuyên môn cụ thể để đủ điều kiện).
Tại sao lại phải bận tâm đến một trong những thẻ này?
Chà, không giống như thẻ ngân hàng truyền thống, thẻ ái lực
kiếm tiền cho nhóm ủng hộ thẻ cũng như cho ngân hàng, bởi
vì các nhóm tài trợ nhận được một phần lợi nhuận (thường là
0,5 phần trăm đến 1 phần trăm giao dịch mua bán lẻ được
thực hiện bằng thẻ). Vì vậy, đối với chủ thẻ tín dụng, đó là
một hình thức “từ thiện dễ dàng”. Nhưng để trang trải số tiền
chuyển đến tổ chức tài trợ, chủ thẻ thường phải trả phí cao
hơn hoặc lãi suất cao hơn. Mặc dù vậy, một số người có thể
xem những tấm thẻ này như một cách tuyệt vời để đóng góp
cho một mục đích xứng đáng. Tuy nhiên, những người khác có thể cảm thấy
sẽ hợp lý hơn khi sử dụng thẻ tín dụng truyền thống và sau
đó viết séc cho tổ chức từ thiện yêu thích của họ.
Bạn Có Thể Làm Điều Đó Ngay Bây Giờ
Liệu thẻ tín dụng của bạn có phải là một món hời không?
Mặc dù thẻ tín dụng của bạn có thể là một món hời khi bạn mới nhận được nó, nhưng điều đó
có thể không còn đúng nữa. Truy cập trang Internet về thẻ tín dụng như
http://www.creditcards.com, trang này cho phép bạn đánh giá nhiều thẻ tín dụng theo loại. Ví
dụ, bạn có thể tập trung vào 0% APR, phần thưởng, hoàn tiền, du lịch & hãng hàng không, thẻ
dành cho sinh viên và nhiều loại thẻ khác. Đáng để xem thử - bạn có thể làm điều đó ngay
bây giờ.

Vấn đề hành vi
Thành kiến hành vi và việc sử dụng thẻ tín dụng
Hãy cảnh giác với khoản thanh toán tối thiểu trong bảng sao kê thẻ tín dụng hàng tháng của
bạn. Nhiều người tập trung quá mức hoặc “neo” vào khoản thanh toán tối thiểu đã nêu và kết
quả là, phải trả số tiền thấp hơn mức họ có thể trả. Và hiệu quả là hiển nhiên - cuối cùng họ
phải trả lãi nhiều hơn.
Một xu hướng khác là trở thành nạn nhân của “sự tính toán tinh thần”, tức là việc xem
các quyết định phụ thuộc lẫn nhau là độc lập một cách không thích hợp. Ví dụ, một số người
nắm giữ các khoản đầu tư ngắn hạn, lợi nhuận thấp và nợ thẻ tín dụng tốn kém cùng một lúc.
Rõ ràng là sẽ hợp lý nếu thanh lý các khoản đầu tư và sử dụng số tiền thu được để trả nợ thẻ tín
dụng, giúp giảm lãi suất. Nhưng nhiều người không làm điều này vì họ coi đây là những giao
dịch riêng biệt, không liên quan.
Bạn phải luôn xem xét mối liên hệ giữa các quyết định tài chính của mình với nhau và
tính đến những thành kiến hành vi phổ biến như neo đậu và tính toán cảm tính, đặc biệt khi
chúng liên quan đến việc quản lý nợ thẻ tín dụng.
Thẻ tín dụng có bảo đảm
thẻ tín dụng có bảo đảm Có thể bạn đã thấy quảng cáo trên TV trong đó người phát
(thế chấp) ngôn nói rằng dù tín dụng của bạn tệ đến đâu, bạn vẫn có thể
Một loạt thẻ tín dụng được đủ điều kiện nhận một trong các thẻ tín dụng của họ. Câu nói
bảo đảm bằng một số hình nghe có vẻ rất tốt nhưng không có thật; và ở một số khía
thức thế chấp, chẳng hạn cạnh thì đúng như thế, bởi vì có một nhược điểm. Cụ thể,
như chứng chỉ tiền gửi khoản tín dụng được “bảo đảm” - nghĩa là bạn phải thế chấp
ngân hàng. để có được thẻ! Đây được gọi là thẻ tín dụng có bảo đảm
hoặc thế chấp, trong đó số tiền tín dụng được xác định bằng
số lượng tài sản thế chấp thanh khoản mà bạn có thể đưa ra.
Những thẻ này nhắm đến những người không có lịch sử tín
dụng hoặc tín dụng xấu, những người không đủ điều kiện
được cấp thẻ tín dụng thông thường. Được phát hành dưới
dạng Visa hoặc MasterCard, chúng giống như bất kỳ thẻ tín
dụng nào khác ngoại trừ việc thế chấp. Để đủ điều kiện,
khách hàng phải gửi một số tiền nhất định (thường là 500 đô
la trở lên) vào chứng chỉ tiền gửi có thời hạn 12 đến 18 tháng
mà ngân hàng phát hành giữ làm tài sản thế chấp. Chủ thẻ
sau đó sẽ nhận được hạn mức tín dụng bằng số tiền gửi. Nếu
khách hàng không trả được nợ, ngân hàng sẽ có chứng chỉ
tiền gửi để bù đắp tổn thất. Bằng cách thanh toán đúng hạn,
người ta hy vọng rằng những chủ thẻ này sẽ thiết lập (hoặc
thiết lập lại) lịch sử tín dụng để có thể giúp họ đủ điều kiện
sử dụng thẻ tín dụng thông thường (không có bảo đảm). Mặc
dù được bảo mật hoàn toàn, những thẻ này vẫn có phí hàng
năm và phí tài chính bằng hoặc lớn hơn thẻ tín dụng thông
thường.
Thẻ tín dụng sinh viên
thẻ tín dụng sinh viên Một số ngân hàng lớn, thông qua các chương trình Visa và
Một thẻ tín dụng được MasterCard, có thẻ tín dụng đặc biệt nhắm đến sinh viên đại
dành riêng cho sinh viên học (trong một số trường hợp, thậm chí cả học sinh trung
đại học. học). Những thẻ tín dụng sinh viên này thường đi kèm với
các chương trình khuyến mại đặc biệt nhằm thu hút phân
khúc thị trường này - chẳng hạn như âm nhạc miễn phí, vé
xem phim và những thứ tương tự. Một số thậm chí còn cung
cấp giảm giá đặc biệt cho pizza, quần áo, phần mềm máy
tính, v.v. . Ngoài những tính năng này, thực sự không có gì
đặc biệt về những thẻ này hoặc điều khoản của chúng. Đơn
giản nhất là yêu cầu bạn phải đăng ký vào một trường cao
đẳng hoặc đại học hai hoặc bốn năm và có một số nguồn thu
nhập, bất kể nguồn thu nhập đó là gì. Đặc biệt, họ thường
không yêu cầu bất kỳ sự bảo đảm nào của cha mẹ hoặc người
giám hộ, cũng như không yêu cầu bạn phải có một công việc
toàn thời gian (hoặc thậm chí là bán thời gian).
Vậy nhà phát hành thẻ nhận được lợi ích gì? Mặc dù
họ biết rằng hầu hết sinh viên đại học không kiếm được
nhiều tiền nhưng họ cũng biết điều đó có thể thay đổi sau khi
họ tốt nghiệp - đó là lý do tại sao họ rất sẵn lòng cung cấp
thẻ. Logic của họ có vẻ là sinh viên rõ ràng có một số nguồn
thu nhập và dù sao cũng sẽ tiêu tiền, vậy tại sao không tiêu
số tiền đó bằng một trong các thẻ tín dụng của họ? Từ quan
điểm của sinh viên, những thẻ này không chỉ mang lại sự tiện
lợi mà còn rất tốt cho việc xây dựng lịch sử tín dụng vững
chắc. Chỉ cần nhớ sử dụng chúng một cách có trách nhiệm;
đó là cách để tận dụng tối đa những thẻ này - hoặc cũng thế
với bất kỳ hình thức tín dụng nào khác!
Mẹo lập kế hoạch tài chính
Chọn thẻ tín dụng
Bạn sẽ nhận được thẻ tín dụng tốt nhất cho mình bằng cách xem xét các yếu tố sau:
 Thói quen chi tiêu. Bạn dự định sử dụng thẻ như thế nào? Nếu bạn trả hết số dư trong thẻ
hàng tháng thì lãi suất không thành vấn đề. Vì vậy, chỉ cần tìm một thẻ không có phí
thường niên và thời gian gia hạn giúp bạn dễ dàng cập nhật thẻ. Ngược lại, nếu bạn định
mang theo số dư, hãy tìm một thẻ có lãi suất thấp nhất và lãi suất chào mời thấp. Nếu bạn
chỉ sử dụng thẻ trong trường hợp khẩn cấp, hãy nhận mức lãi suất thấp nhất có thể và mức
phí thấp hoặc miễn phí.
 Loại lãi suất. Lãi suất phần trăm hàng năm (APR) có thể cố định hoặc biến đổi, có nghĩa
là được điều chỉnh tương ứng với lãi suất khác, chẳng hạn như lãi suất cơ bản. Bạn có
thoải mái với viễn cảnh lãi suất bạn phải trả có thể biến đổi không?
 Giới hạn tín dụng. Lịch sử tín dụng của bạn sẽ quyết định số tiền mà thẻ sẽ cho phép bạn
vay. Hãy cẩn thận để không mua thẻ có giới hạn tín dụng thấp đến mức bạn thường xuyên
có thể sử dụng tối đa, điều này có thể ảnh hưởng đến điểm tín dụng của bạn.
 Lệ phí và hình phạt. Các tổ chức phát hành thẻ thường tính phí chuyển nhượng số dư,
tạm ứng tiền mặt, vượt quá giới hạn tín dụng của bạn hoặc thanh toán qua điện thoại. So
sánh phí trên thẻ để đảm bảo bạn nhận được thẻ với mức phí hợp lý. Và đừng trả thêm
tiền cho các chương trình phần thưởng, chúng thường có thể được cung cấp miễn phí.
 Phương pháp tính toán cân bằng. Nếu bạn định mang theo số dư, điều quan trọng là
phải biết cách tính phí tài chính. Cách tiếp cận phổ biến nhất là số dư bình quân hàng
ngày (ADB), cộng số dư hàng ngày và sau đó chia cho số ngày trong chu kỳ thanh toán.
Tránh các thẻ tính toán số dư bằng hai chu kỳ thanh toán vì cách tiếp cận đó làm tăng phí
tài chính.
 Ưu đãi. Một số tổ chức phát hành thẻ đưa ra các chương trình thưởng để khuyến khích
khách hàng sử dụng thẻ. Nếu bạn vẫn dự định mua hàng và không phải trả thêm tiền cho
thẻ thì đây có thể là một lợi ích hữu ích. Đảm bảo chương trình mang lại sự linh hoạt,
chẳng hạn như tiền mặt hoặc du lịch, các phúc lợi mà bạn sẽ thực sự sử dụng và các phúc
lợi dễ kiếm và có thể đổi. Hãy chú ý đến các hạn chế của chương trình và lưu ý xem phần
thưởng có hết hạn hay không và liệu có giới hạn về lợi ích mà bạn có thể kiếm được hay
không.

6-2c Thẻ Thanh Toán Bán Lẻ


thẻ thanh toán bán lẻ Thẻ thanh toán bán lẻ là loại thẻ tín dụng lớn thứ hai và
Một loại thẻ tín dụng do được phát hành bởi các cửa hàng bách hóa, công ty dầu mỏ,
các nhà bán lẻ phát hành đại lý cho thuê ô tô, v.v. . Những thẻ này phổ biến với người
cho phép khách hàng chi bán vì chúng tạo dựng lòng trung thành của người tiêu dùng
trả cho hàng hóa và dịch và nâng cao doanh số bán hàng; người tiêu dùng thích chúng
vụ lên đến số tiền được vì chúng đem lại một phương thức mua sắm tiện lợi. Những
xác định trước. thẻ này có giới hạn tín dụng đặt trước - hạn mức tín dụng -
thay đổi tùy theo mức độ tin cậy của chủ thẻ.
Hình thức tín dụng này phổ biến nhất ở các cửa hàng
bách hóa và quần áo cũng như các cửa hàng có số lượng lớn
khác, nơi khách hàng có thể mua hàng nhiều lần mỗi tháng.
Hầu hết các công ty dầu mỏ lớn cũng cung cấp thẻ thanh
toán cho phép khách hàng mua các sản phẩm dầu và khí đốt,
nhưng họ phải thanh toán đầy đủ cho những giao dịch mua
đó sau khi nhận được hóa đơn hàng tháng. Tuy nhiên, để
thúc đẩy việc bán các sản phẩm giá cao hơn của mình, các
công ty dầu mỏ thường xuyên cung cấp tín dụng quay vòng
để sử dụng trong việc mua các mặt hàng như lốp xe, pin, và
phụ kiện. Nhiều gia đình có - và thường xuyên sử dụng -
năm hoặc sáu thẻ thanh toán bán lẻ khác nhau. Lãi suất trên
hầu hết các thẻ thanh toán bán lẻ thường được cố định ở mức
1,5 đến 1,85 phần trăm hàng tháng hoặc 18 đến 22 phần trăm
mỗi năm. Những thẻ này thường đắt hơn thẻ tín dụng ngân
hàng.

6-2d Thẻ Ghi Nợ


Nó trông giống như một thẻ tín dụng, hoạt động giống như
một thẻ tín dụng, thậm chí nó còn có ký hiệu thẻ tín dụng
MasterCard và Visa quen thuộc. Nhưng nó không phải là thẻ
tín dụng - đúng hơn, là thẻ ghi nợ. Nói một cách đơn giản,
thẻ ghi nợ cho phép việc truy cập trực tiếp vào tài khoản séc
của bạn và do đó hoạt động giống như việc viết séc. Ví dụ,
khi bạn sử dụng thẻ ghi nợ để mua hàng, số tiền giao dịch sẽ
được tính trực tiếp vào tài khoản séc của bạn. Sử dụng thẻ
ghi nợ không giống như mua bằng tín dụng. Có vẻ như bạn
đang trả phí nhưng thực tế là bạn đang thanh toán bằng tiền
mặt. Theo đó, không có chi phí tài chính phải trả.
Thẻ ghi nợ đang trở nên ngày càng phổ biến hơn, đặc
biệt với những người tiêu dùng muốn sự tiện lợi của thẻ tín
dụng nhưng không muốn chi phí lãi suất cao đi kèm với
chúng. Trên thực tế, vào năm 2006, lần đầu tiên việc sử dụng
thẻ ghi nợ đã vượt quá mức sử dụng thẻ tín dụng. Thẻ ghi nợ
được chấp nhận ở hầu hết các cơ sở có logo Visa hoặc
MasterCard nhưng có chức năng thay thế cho việc viết séc.
Nếu bạn sử dụng thẻ ghi nợ để mua hàng tại cửa hàng bách
hóa hoặc nhà hàng, giao dịch sẽ hiển thị trên bảng sao kê tài
khoản séc hàng tháng tiếp theo của bạn. Không cần phải nói,
để giữ cho hồ sơ của bạn luôn rõ ràng, bạn nên nhập trực tiếp
các giao dịch thẻ ghi nợ vào sổ cái séc khi bạn dùng thẻ và
coi chúng là các khoản rút tiền hoặc séc bằng cách trừ chúng
khỏi số dư tài khoản séc của bạn. Thẻ ghi nợ cũng có thể
được sử dụng để truy cập vào tài khoản của bạn thông qua
máy rút tiền 24 giờ hoặc máy ATM - phương thức gần nhất
với tạm ứng tiền mặt mà các thẻ này cung cấp.
Tất nhiên, nhược điểm lớn của thẻ ghi nợ là nó không
cung cấp hạn mức tín dụng. Thêm vào đó, nó có thể gây ra
vấn đề thấu chi nếu bạn không nhập đúng tài khoản séc của
mình hoặc vô tình sử dụng nó khi bạn cho rằng mình đang sử
dụng thẻ tín dụng. Ngoài ra, một số tổ chức phát hành thẻ ghi
nợ tính phí giao dịch hoặc phí cố định hàng năm; và một số
người bán thậm chí có thể tính phí bạn chỉ vì bạn sử dụng thẻ
ghi nợ. Về mặt tích cực, thẻ ghi nợ cho phép bạn tránh được
các vấn đề tín dụng tiềm ẩn và chi phí cao đối với thẻ tín
dụng. Hơn nữa, nó tiện lợi để sử dụng như thẻ tín dụng. Trên
thực tế, nếu sự tiện lợi là lý do chính khiến bạn sử dụng thẻ
tín dụng, bạn có thể cân nhắc chuyển sang thẻ ghi nợ cho ít
nhất một số giao dịch, đặc biệt là tại các cửa hàng như trạm
xăng có giảm giá khi mua hàng bằng tiền mặt và xem xét sử
dụng thẻ ghi nợ cũng đem lại lợi ích như dùng tiền mặt.
Một điểm khác biệt giữa thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng
liên quan đến mức độ bảo vệ người dùng khi thẻ bị mất hoặc
bị đánh cắp. Khi thẻ tín dụng bị mất hoặc bị đánh cắp, luật
ngân hàng liên bang quy định rằng chủ thẻ không chịu trách
nhiệm về bất kỳ khoản phí gian lận nào nếu việc mất hoặc
trộm được báo cáo trước khi sử dụng thẻ đó. Nếu được báo
cáo sau khi thẻ được sử dụng, trách nhiệm tối đa của chủ thẻ
là 50 đô la. Thật không may, sự bảo vệ này thường không áp
dụng cho thẻ ghi nợ. Thay vào đó, trách nhiệm pháp lý của
bạn do thẻ ghi nợ bị mất hoặc bị đánh cắp được giới hạn ở
mức từ 50 đến 500 đô la, “tùy thuộc vào trường hợp mất
mát”. Trên thực tế, hầu hết các ngân hàng đều cung cấp mức
độ bảo vệ cho thẻ ghi nợ giống như thẻ tín dụng, nhưng hãy
kiểm tra ngân hàng của bạn để chắc chắn.
Thẻ trả trước
thẻ trả trước Bạn mệt mỏi vì phải mò mẫm tìm tiền lẻ để mua một thanh
Một thẻ nhựa có dải từ kẹo từ máy bán hàng tự động hoặc để sử dụng điện thoại
hoặc vi mạch lưu trữ số công cộng? Mua thẻ trả trước và túi của bạn sẽ không còn
tiền người mua phải bỏ ra leng keng tiếng tiền xu nữa. Hoặc bạn có thể sử dụng ứng
và từ đó trừ đi giá trị mỗi dụng trên điện thoại thông minh cung cấp thẻ trả trước một
lần mua hàng. cách hiệu quả để mua hàng tại chuỗi quán cà phê và những
nơi tương tự. Những “thẻ thông minh” này hiện có thể được
sử dụng để mua nhiều loại mặt hàng - gọi điện thoại, cà phê,
bữa ăn tại một số căn tin của nhân viên, đồ ăn nhẹ ở máy bán
hàng tự động - và việc sử dụng chúng ngày càng tăng. Bạn
trả một số tiền cố định, số tiền này sau đó được lưu trữ trên
dải từ hoặc vi mạch có thể sạc lại trên thẻ. Mỗi lần bạn mua
hàng, số tiền sẽ được trừ điện tử vào thẻ. Sự phổ biến của
những “ví điện tử” này ngày càng tăng vì người tiêu dùng
cũng như người bán đều thấy chúng tiện lợi. Và chúng có thể
sẽ trở nên phổ biến hơn nữa, vì các vi mạch hiện được gắn
trong những thẻ thông minh này có thể được sử dụng không
chỉ để thực hiện các giao dịch mà còn để lưu trữ những thứ
như vé máy bay điện tử hoặc vé xem phim. Việc kiểm soát
gian lận trên Internet cũng dễ dàng hơn vì thẻ có đầu đọc
điện tử dễ dàng cắm vào máy tính của bạn để xác minh tính
xác thực.
Thẻ trả trước và các ứng dụng trên điện thoại thông
minh tương tự rất giống thẻ ghi nợ. Mỗi lần bạn sử dụng một
thẻ, bạn thực sự đang ghi nợ số tiền đã mua vào số tiền bạn
đã lưu trên thẻ (hoặc trong tài khoản séc của bạn). Nhưng
đừng nhầm lẫn thẻ trả trước với thẻ tín dụng trả trước, loại
thẻ mà bạn có thể sử dụng nhiều lần. Với thẻ trả trước, sau
khi sử dụng hết thẻ, bạn có thể vứt thẻ hoặc nạp tiền - không có hạn
mức tín dụng, và không có hóa đơn hàng tháng với khoản thanh toán hàng tháng tối thiểu.
Mẹo lập kế hoạch tài chính
Những địa điểm có rủi ro khi sử dụng thẻ ghi nợ của bạn
Đúng vậy, thẻ ghi nợ rất thuận tiện khi sử có thể cho thấy rằng một thiết bị thu
dụng và được hầu hết các cơ sở chấp nhận. thập thông tin đã được thêm vào. Điều
Nhưng không giống như thẻ tín dụng, thẻ đáng ngạc nhiên là các máy ATM ngoài
ghi nợ cung cấp cho kẻ trộm quyền truy cập trời lại là một trong những nơi nguy
trực tiếp vào tài khoản séc của bạn. Nếu bạn hiểm nhất khi sử dụng thẻ ghi nợ. Các
phát hiện khoản phí gian lận trên hóa đơn địa điểm công cộng cung cấp cho bọn
thẻ tín dụng của mình, bạn có thể từ chối tội phạm điều kiện tốt để gắn thiết bị thu
hoặc tranh chấp khoản phí đó. Ngược lại, thập thông tin, hướng camera vào máy
vào thời điểm bạn phát hiện khoản phí gian ATM hoặc thậm chí theo dõi các giao
lận trên thẻ ghi nợ của mình, tiền của bạn - dịch bằng ống nhòm. Sẽ an toàn hơn
không phải tiền của ngân hàng - đã biến mất nhiều khi sử dụng máy ATM bên trong
và bạn có trách nhiệm lấy lại số tiền đó chứ các cửa hàng bán lẻ hoặc các khu vực có
không phải ngân hàng. Trong khi thường ánh sáng tốt, nhiều người qua lại.
chỉ mất vài ngày để xử lý các giao dịch thẻ  Bảo mật mã số định danh cá nhân
tín dụng gian lận thì lại có thể mất vài tháng (PIN) tại trạm xăng. Trạm xăng là một
để bạn lấy lại được tiền từ các giao dịch ghi địa điểm nhạy cảm khác khi sử dụng thẻ
nợ gian lận. ghi nợ. Do không có nhiều sự giám sát
Bạn dễ bị gian lận thẻ ghi nợ nhất trong các nên tội phạm rất dễ lắp đặt thiết bị thu
trường hợp sau: thập thông tin hoặc chĩa camera vào máy

 Thận trọng khi sử dụng máy ATM bơm xăng. Sử dụng thẻ tín dụng sẽ an

ngoài trời. “Skimming” là việc thu thập toàn hơn nhiều.

thông tin thẻ bằng đầu đọc dải từ.  Internet là một nơi nguy hiểm đối với

Những thiết bị thu thập thông tin như việc sử dụng thẻ ghi nợ. Thông tin thẻ

vậy có thể được đặt trên các khe cắm thẻ ghi nợ của bạn rất dễ bị thu thập ở nhiều

thật tại máy ATM. Để ý những máy điểm: phần mềm độc hại có thể có trên

ATM có vẻ tồi tàn hoặc cũ kỹ, điều này máy tính của bạn, dữ liệu của bạn có thể
bị chặn do nghe lén không dây trên
đường đến nhà cung cấp hoặc cơ sở dữ thường xuyên lấy thẻ của bạn ra khỏi
liệu người bán của bạn có thể bị xâm tầm mắt của bạn để xử lý giao dịch, điều
phạm. Trang web có thể nói rằng nó an này tạo cơ hội cho ai đó giữ thông tin
toàn, nhưng vậy thì sao? Bạn không biết một cách không phù hợp. Dù có đạo đức
có bao nhiêu người đang xử lý dữ liệu hay không, rất ít doanh nghiệp nhỏ thực
thẻ ghi nợ riêng của bạn, hoặc họ là ai. hiện các bước thích hợp để bảo vệ dữ
 Một số nhà hàng lưu dữ liệu thẻ ghi liệu riêng tư của bạn.
nợ trong tệp tin. Và các nhà hàng

6-2e Hạn Mức Tín Dụng Quay Vòng


hạn mức tín dụng quay Hạn mức tín dụng quay vòng được cung cấp bởi các ngân
vòng hàng, công ty môi giới, và các tổ chức tài chính khác. Những
Một loại tín dụng tài khoản hạn mức tín dụng này thường không liên quan đến việc sử
mở được cung cấp bởi các dụng thẻ tín dụng. Đúng hơn, chúng được truy cập bằng cách
ngân hàng và các tổ chức viết séc trên các tài khoản séc thông thường hoặc các tài
tài chính khác có thể được khoản hạn mức tín dụng được chỉ định đặc biệt. Chúng là
truy cập bằng cách viết séc một hình thức tín dụng tài khoản mở và thường mang lại một
đối với tiền gửi không kỳ giao dịch có lợi hơn nhiều so với thẻ tín dụng, không chỉ vì
hạn hoặc các tài khoản hạn chúng cung cấp nhiều tín dụng hơn mà còn vì chúng có thể
mức tín dụng được chỉ rẻ hơn rất nhiều. Và thậm chí có thể có lợi thế về thuế khi sử
định đặc biệt. dụng một trong những loại tín dụng khác này. Về cơ bản,
những hạn mức này cung cấp cho người dùng quyền truy cập
luôn sẵn sàng vào tiền vay (tức là tiền ứng trước) thông qua
hạn mức tín dụng quay vòng. Ba hình thức tín dụng mở
(không phải thẻ tín dụng) chính là hạn mức bảo vệ thấu chi,
hạn mức tín dụng cá nhân không bảo đảm và hạn mức tín
dụng tài sản nhà ở.
Mẹo lập kế hoạch tài chính
Giao dịch chữ ký thẻ ghi nợ: Tuyệt nhất cho đôi bên
Khi đưa thẻ ghi nợ vào đầu đọc, bạn không thông qua hệ thống chuyển tiền điện tử
cần phải nhấn nút “ghi nợ” và nhập mã PIN không cung cấp biện pháp bảo vệ trách
(giao dịch mã PIN). Thay vào đó, bạn có nhiệm pháp lý.
thể chọn “tín dụng” và ký vào biên nhận Nếu bạn sử dụng giao dịch ghi nợ,
(giao dịch có chữ ký). Lợi ích của việc làm tiền của bạn sẽ được rút khỏi tài khoản của
này là: bạn ngay trong ngày. Tuy nhiên, nếu bạn sử
 Tránh phí. Mặc dù một số ngân hàng dụng tín dụng, tiền của bạn sẽ không bị trừ
tính phí giao dịch mã PIN nhưng họ trong hai hoặc ba ngày.
thường không tính phí giao dịch chữ ký. Vậy tại sao bạn lại thực hiện giao
 Điểm thưởng. Bạn có nhiều khả năng dịch ghi nợ bằng mã PIN? Nếu muốn hoàn
nhận được điểm thưởng trên chữ lại tiền, bạn nên sử dụng giao dịch ghi nợ
 Bảo vệ trách nhiệm pháp lý. Các giao PIN thay vì sử dụng ATM của ngân hàng
dịch chữ ký đi qua mạng lưới thẻ tín khác. Nếu không, cả ATM và ngân hàng
dụng cung cấp một số biện pháp chống của bạn sẽ tính phí cho bạn nhiều hơn mức
gian lận. Giao dịch mã PIN được xử lý đủ để bù đắp bất kỳ lợi ích nào từ việc ký
giao dịch.
Bảo vệ thấu chi
hạn mức bảo vệ thấu chi Hạn mức bảo vệ thấu chi chỉ đơn giản là một hạn mức tín
Một hạn mức tín dụng dụng được liên kết với tài khoản séc cho phép người gửi tiền
được liên kết với tài khoản rút thấu chi tài khoản séc của mình đến một giới hạn được
séc cho phép người gửi xác định trước. Những hạn mức này thường được thiết lập
tiền rút thấu chi tài khoản với giới hạn tín dụng từ 500 đô la đến 1000 đô la, nhưng
đến một số tiền nhất định. chúng có thể lên tới 10000 đô la trở lên. Người tiêu dùng sử
dụng hạn mức tín dụng này bằng cách viết séc. Nếu séc cụ
thể đó được viết để rút tiền tài khoản, đường dây bảo vệ thấu
chi sẽ tự động ứng trước số tiền cần thiết để đưa tài khoản trở
lại trạng thái đen đủi. Trong một số trường hợp, bảo vệ thấu
chi được cung cấp bằng cách liên kết thẻ tín dụng của ngân hàng với tài
khoản séc của bạn. Những thỏa thuận này hoạt động giống
như hạn mức thấu chi thông thường, ngoại trừ khi tài khoản
bị thấu chi, ngân hàng sẽ tự động dùng đến hạn mức thẻ tín
dụng của bạn và chuyển tiền vào tài khoản séc của bạn. Nó
được coi là khoản tạm ứng tiền mặt từ thẻ tín dụng của bạn,
nhưng kết quả cũng giống như hạn mức bảo vệ thấu chi
thông thường; nó tự động bao gồm các séc rút tiền thấu chi.
Nếu không cẩn thận, bạn có thể nhanh chóng dùng
cạn kiệt loại tín dụng này bằng cách viết nhiều séc thấu chi.
Giống như bất kỳ hạn mức tín dụng nào, sẽ có giới hạn về số
tiền bạn có thể nhận được. Hãy cẩn thận với hạn mức tín
dụng như vậy và bằng mọi cách, Đừng sử dụng nó thường
xuyên để rút tiền từ tài khoản của bạn! Làm như vậy một
cách thường xuyên là một tín hiệu cho thấy bạn có thể đang
quản lý sai tiền mặt và/hoặc sống vượt quá ngân sách của
mình. Tốt nhất bạn nên xem hạn mức bảo vệ thấu chi là một
nguồn tín dụng khẩn cấp - và bất kỳ khoản tiền ứng trước
nào cũng phải được hoàn trả càng nhanh càng tốt.
Hạn mức cá nhân không đảm bảo
hạn mức tín dụng cá Một hình thức tín dụng quay vòng khác là hạn mức tín dụng
nhân không đảm bảo cá nhân không bảo đảm, về cơ bản cung cấp hạn mức tín
Một hạn mức tín dụng dụng cho một cá nhân trên cơ sở cấp thiết. Về bản chất, đó là
được cung cấp cho một cá một cách vay tiền từ ngân hàng, hiệp hội tín dụng, ngân hàng
nhân trên cơ sở cấp thiết. tiết kiệm, hoặc công ty môi giới bất kỳ lúc nào bạn muốn mà
không phải trải qua những rắc rối khi thiết lập một khoản vay
mới.
Đây là cách nó hoạt động. Giả sử bạn đăng ký và
được chấp thuận hạn mức tín dụng cá nhân tại ngân hàng của
bạn. Khi bạn đã được phê được thiết lập, bạn sẽ được cấp séc mà bạn có thể viết lên nó.
duyệt và hạn mức tín dụng Nếu bạn
cần tạm ứng tiền mặt, tất cả những gì bạn cần làm là
viết séc (đối với tài khoản hạn mức tín dụng của bạn) và gửi
vào tài khoản séc của bạn. Hoặc, nếu bạn cần tiền để mua
một số mặt hàng có giá trị cao - chẳng hạn như một thiết bị
điện tử cá nhân đắt tiền - bạn có thể chỉ cần thanh toán hạn
mức tín dụng cho đại lý, và khi chắc chắn, số tiền đó sẽ
được tính vào hạn mức tín dụng cá nhân không bảo đảm của
bạn như một khoản tạm ứng. (Mặc dù các séc hạn mức tín
dụng này trông và “chi trả” giống như séc thông thường,
nhưng chúng không được chuyển qua tài khoản séc thông
thường của bạn). Hạn mức tín dụng cá nhân thường được
thiết lập ở mức tối thiểu từ 2000 đô la đến 5000 đô la và
thường lên tới 25000 đô la trở lên. Giống như hạn mức bảo
vệ thấu chi, sau khi tạm ứng, khoản hoàn trả sẽ được thiết
lập trên cơ sở trả góp hàng tháng. Tùy thuộc vào số tiền còn
tồn đọng, việc trả nợ thường được thực hiện trong khoảng
thời gian từ hai đến năm năm; để giữ khoản thanh toán hàng
tháng ở mức thấp, số nợ lớn hơn thường có thời gian trả nợ
dài hơn.
Mặc dù các hạn mức tín dụng này đưa ra các điều
khoản hấp dẫn cho người tiêu dùng, nhưng chúng cũng có
một số vấn đề, có lẽ vấn đề lớn nhất là việc có thể nhận
được tạm ứng tiền mặt dễ dàng như thế nào. Những hạn
mức này cũng thường liên quan đến số lượng tín dụng
trọng yếu và gần như dễ sử dụng như thẻ tín dụng. Sự kết
hợp này có thể gây ra tác động nghiêm trọng đến ngân sách
của một gia đình nếu nó dẫn đến bội chi hoặc phụ thuộc quá
nhiều vào tín dụng. Để an toàn, những hạn mức này chỉ nên
được sử dụng cho mục đích khẩn cấp hoặc để thực hiện chi
tiêu tín dụng theo kế hoạch. Việc trả nợ có hệ thống nên
được đưa vào ngân sách và phải nỗ lực hết sức để đảm bảo
rằng việc sử dụng loại tín dụng này sẽ không gây quá căng
thẳng cho tài chính gia đình.

Sự thật hay ảo tưởng về tài chính?


Bạn sử dụng séc thay vì thẻ tín dụng để nhận tiền từ hạn mức tín dụng cá nhân không bảo đảm.
Sự thật: Thẻ tín dụng không được phát hành với hạn mức tín dụng cá nhân không bảo đảm.
Thay vào đó, nếu bạn muốn vay tiền thông qua hạn mức như vậy, bạn chỉ cần viết séc trực tiếp
cho số tiền đó.
Hạn mức tín dụng tài sản nhà ở
hạn mức tín dụng tài sản Đây là một tình huống quen thuộc. Một cặp vợ chồng mua
nhà ở một căn nhà với giá 285000 đô la; khoảng 10 năm sau, nó trị
Một hạn mức tín dụng giá 365000 đô la. Cặp đôi hiện có tài sản trị giá 365000 đô la
được phát hành dựa trên mà tất cả những gì họ nợ là khoản thế chấp ban đầu, hiện có
vốn sở hữu hiện có trong thể có số dư là 220000 đô la. Cặp vợ chồng này rõ ràng đã
một ngôi nhà. tích lũy được một lượng vốn đáng kể cho ngôi nhà của họ:
365000 đô - 220000 đô = 145000 đô. Nhưng làm thế nào họ
có thể khai thác số vốn sở hữu đó mà không phải bán nhà?
Câu trả lời là hạn mức tín dụng tài sản nhà ở. Những hạn
mức như vậy rất giống với hạn mức tín dụng cá nhân không
bảo đảm ngoại trừ việc chúng được bảo đảm bằng khoản thế
chấp thứ hai đối với ngôi nhà. Những hạn mức tín dụng này
cho phép bạn khai thác tới 100 phần trăm (hoặc hơn) vốn chủ
sở hữu trong nhà của bạn chỉ bằng cách viết séc. Mặc dù một
số ngân hàng và tổ chức tài chính cho phép khách hàng vay
đến 100 phần trăm vốn sở hữu căn nhà của họ - hoặc, trong
một số trường hợp, thậm chí nhiều hơn - hầu hết những
người cho vay đều đặt hạn mức tín dụng tối đa ở mức 75 đến
80 phần trăm giá trị thị trường của căn nhà. nhà, điều này làm giảm số tiền họ sẽ cho
vay.
Đây là cách những hạn mức này hoạt động. Hãy nhớ
lại cặp vợ chồng trong ví dụ của chúng tôi đã tích lũy được
vốn sở hữu trị giá 145000 đô la trong ngôi nhà của họ - vốn
sở hữu mà họ có thể vay thông qua hạn mức tín dụng tài sản
nhà ở. Giả sử rằng họ có hồ sơ tín dụng tốt và sử dụng tỷ lệ
khoản vay trên giá trị thị trường là 75 phần trăm, ngân hàng
sẽ sẵn sàng cho vay lên tới 273750 đô la; nghĩa là, 75 phần
trăm giá trị của ngôi nhà là 0,75 x 365.000 đô = 273750 đô.
Trừ đi 220000 đô la còn phải trả cho khoản thế chấp đầu tiên,
ta thấy rằng cặp vợ chồng có thể đủ điều kiện nhận hạn mức
tín dụng tài sản nhà ở là 53750 đô la. Lưu ý, trong trường
hợp này, nếu ngân hàng sẵn sàng cho cặp vợ chồng này vay
100 phần trăm vốn sở hữu căn nhà của họ thì họ sẽ được cấp
hạn mức tín dụng (cao hơn nhiều) là 145000 đô la, đây là sự
khác biệt giữa giá trị của căn nhà và những gì họ vẫn nợ trên
đó. Hầu hết người cho vay không làm điều này vì nó dẫn đến
hạn mức tín dụng rất lớn và quan trọng hơn là nó mang lại
cho người cho vay ít khoản dự phòng hơn nếu người đi vay
vỡ nợ. Tệ hơn nữa, từ quan điểm của người đi vay, nó mang
lại khả năng tiếp cận rất nhiều khoản tín dụng tương đối rẻ,
điều này có thể khiến một số chủ nhà chi tiêu quá mức và do
đó gặp phải các vấn đề nghiêm trọng về dịch vụ nợ - thậm
chí phá sản hoặc mất nhà!
Hạn mức tín dụng tài sản nhà ở cũng có một đặc điểm
về thuế mà bạn cần lưu ý: lãi suất hàng năm trên những hạn
mức đó có thể được khấu trừ hoàn toàn đối với những người
chia từng khoản. Đây là loại khoản vay tiêu dùng duy nhất
vẫn đủ điều kiện để được hưởng mức thuế như vậy. Theo quy
định mới nhất của bộ luật thuế, chủ sở hữu nhà được phép
khấu trừ toàn bộ chi phí lãi vay đối với khoản vay mua nhà
lên tới 100000 đô la, bất kể giá gốc của căn nhà hay cách sử
dụng số tiền thu được. Thật vậy, hạn chế duy nhất là tổng số
nợ của ngôi nhà không được vượt quá giá trị thị trường hợp
lý của nó, điều này rất khó xảy ra vì chủ nhà thường không
thể vay nhiều hơn 75 đến 80 phần trăm giá trị thị trường của
ngôi nhà. (Trên thực tế, lãi suất của phần khoản vay vượt quá
100000 đô la - hoặc 100 phần trăm giá trị thị trường của ngôi
nhà, nếu số tiền này thấp hơn - không thể được coi là chi phí
được khấu trừ thuế.)
Ví dụ: Khấu Trừ Thuế Đối Với Lãi Suất Hạn Mức Tín
Dụng Tài Sản Nhà Ở
Các chủ sở hữu nhà trong cuộc thảo luận trước đó có thể rút
toàn bộ số tiền trong hạn mức tín dụng của họ (53750 đô) và
mỗi xu họ trả lãi sẽ được khấu trừ thuế. Nếu họ trả 3225 đô la
tiền lãi và nếu họ ở trong khung thuế 28 phần trăm thì tính
năng này sẽ giảm nghĩa vụ thuế của họ khoảng 903 đô la (tức
là 3225 đô x 0,28) - tất nhiên, giả sử rằng họ chia các khoản
khấu trừ của mình thành từng khoản.
Hạn mức tín dụng tài sản nhà ở không chỉ cung cấp
nơi nấp khỏi thuế mà còn là một trong những hình thức tín
dụng tiêu dùng rẻ nhất. Ví dụ, trong khi lãi suất trung bình
trên thẻ tín dụng có lãi suất cố định tiêu chuẩn vào giữa năm
2015 là khoảng 13,01 phần trăm thì lãi suất trung bình trên
hạn mức tín dụng thế chấp giá trị căn nhà lại thấp hơn đáng
kể, ở mức khoảng 4,00 phần trăm tùy thuộc vào số tiền hạn
mức và điểm tín dụng của người vay. Để xem điều đó có
nghĩa gì đối với bạn với tư cách là người đi vay, giả sử bạn
có 10000 đô la nợ tiêu dùng. Nếu bạn vay số tiền đó thông
qua khoản vay tiêu dùng tiêu chuẩn với lãi suất 13,01 phần
trăm thì bạn sẽ phải trả lãi 1301 đô la mỗi năm - không khoản
nào trong số đó được khấu trừ thuế. Nhưng hãy vay số tiền
tương tự thông qua hạn mức tín dụng tài sản nhà ở với mức
4,00 phần trăm và bạn sẽ chỉ phải trả 400 đô la tiền lãi. Và
bởi vì tất cả đều được khấu trừ thuế, nếu bạn ở trong khung
thuế 28 phần trăm, thì chi phí sau thuế đối với bạn sẽ là 400
đô x (1 - 0,28) = 288,00 đô la. Đấy chỉ khoảng một phần năm
chi phí của khoản vay khác! Vì vậy, bạn muốn trả khoản vay
10000 đô la nào: 1301 đô la hay 288,00 đô la? Thực sự
không phải là một quyết định khó khăn và nó giải thích tại
sao những hạn mức này trở nên phổ biến và ngày nay là một
trong những hình thức tín dụng tiêu dùng phát triển nhanh
nhất.
Hạn mức tín dụng tài sản nhà ở được cung cấp bởi
nhiều tổ chức tài chính, từ ngân hàng và hiệp hội tài chính
cho đến các công ty môi giới lớn. Tất cả các loại điều khoản
tín dụng và hạn mức tín dụng đều có sẵn, và hầu hết chúng
đều có thời hạn trả nợ từ 10 đến 15 năm hoặc lâu hơn. Tuy
nhiên, có lẽ đáng ngạc nhiên nhất là số tiền tín dụng tối đa có
sẵn theo những hạn mức này - thực sự, con số 100000 đô la
không hề bất thường. Và chính vì số tiền khổng lồ hiện có
nên hình thức tín dụng này nên được sử dụng một cách thận
trọng. Sự thật là việc bạn có vốn sở hữu trong nhà không
nhất thiết có nghĩa là bạn có dòng tiền cần thiết để trả khoản
nợ mà hạn mức tín dụng đó quy định. Hãy nhớ rằng ngôi nhà
của bạn là tài sản thế chấp. Nếu bạn không thể trả được
khoản vay, bạn có thể mất nhà! Ở mức tối thiểu, việc thanh
toán các khoản chi tiêu lớn thông qua hạn mức tín dụng tài
sản nhà ở chỉ nên được thực hiện sau khi bạn xác định rằng
bạn có đủ khả năng mua và các khoản thanh toán hàng tháng
bắt buộc sẽ phù hợp thoải mái với ngân sách của bạn. Điều
quan trọng không kém là đừng cố sử dụng hạn mức tín dụng
tài sản nhà ở 15 năm để mua cho một chiếc ô tô mới mà bạn
có thể chỉ lái trong 5 hoặc 6 năm - điều cuối cùng bạn muốn
làm sẽ là trả tiền cho chiếc ô tô đó trong 8 đến 10 năm sau
khi bạn thực hiện giao dịch. Nếu khoản vay 15 năm là cách
duy nhất để bạn có thể mua được chiếc ô tô, thì hãy đối mặt
với điều đó: bạn không đủ tiền mua ô tô!

BIỂN BÁO GIAO THÔNG TÀI CHÍNH


Và sau đó ta có những người cho vay…
Nhiều người cho vay “ngầm” tồn tại bên ngoài hệ thống ngân hàng truyền thống. Thường sử
dụng phổ biến nhất bởi những người tiêu dùng có thu nhập thấp, những người không có lịch sử
tín dụng đủ tốt để vay tiền từ những người cho vay truyền thống. Những người cho vay thay
thế này có xu hướng có hai đặc điểm chung đáng lo ngại: lãi suất và phí cao. Dưới đây là một
số ví dụ về các khoản vay:
 Khoản vay ngắn hạn
Trong khoản vay trung bình, một người tiêu dùng vay 350 đô la trong 14 ngày và viết cho
người cho vay một tấm séc trị giá 402,50 đô la. Người cho vay đồng ý giữ séc cho đến
ngày trả lương tiếp theo sau hai tuần. Mặc dù điều này có vẻ giống như lãi suất 15 phần
trăm, nhưng lãi suất hàng năm thực sự là gần 400 phần trăm! Người đi vay trung bình thực
hiện việc này 10 lần một năm và mắc nợ người cho vay trong 199 ngày. Vì vậy, người đi
vay thông thường đang giữ nguyên khoản vay thay vì trả hết sau hai tuần đầu tiên. Khoảng
12 triệu hộ gia đình vay tiền theo hình thức vay ngắn hạn.
 Cửa hiệu cầm đồ
Các hiệu cầm đồ cung cấp các khoản vay được bảo đảm bằng tài sản cá nhân làm tài sản
thế chấp. Người tiêu dùng không thể vay vốn từ ngân hàng thường sẽ vay đồ trang sức, đồ
điện tử và kim loại quý. Các khoản vay thường kéo dài từ 30 đến 45 ngày và thường có giá
dưới 100 đô la. Nếu khoản vay và phí được thanh toán đúng thời hạn, tài sản sẽ được trả
lại. Tuy nhiên, chi phí tài chính dao động từ 5 đến 25 phần trăm mỗi tháng, tùy thuộc vào
quy định của tiểu bang. Lãi suất hàng năm 100 phần trăm không phải là bất thường.
 Các khoản cho vay thế chấp quyền sở hữu ô tô
Các khoản vay thế chấp quyền sở hữu ô tô sử dụng ô tô của bạn làm tài sản thế chấp để
đảm bảo khoản vay ngắn hạn với một phần nhỏ giá trị của chiếc ô tô. Nếu người đi vay
không trả được tiền, không trả phí hoặc không trả lãi và gốc của khoản vay khi hết thời
hạn, chiếc xe có thể bị bán hoặc bị thu hồi. Khoản vay trung bình kéo dài khoảng 30 ngày
và lãi suất hàng năm có thể lên tới 300 phần trăm!
Phí và chi phí lãi suất cao khiến các nguồn vay thay thế trên trở nên vô cùng đắt đỏ. Việc lập kế
hoạch phù hợp và xây dựng lịch sử tín dụng tốt sẽ giúp bạn tránh được chúng.

Tự kiểm tra
6-5 Tín dụng tài khoản mở là gì? Kể tên một số loại tín dụng tài khoản mở khác nhau.
6-6 Thẻ thưởng có sức hấp dẫn gì?
6-7 Lãi suất thường được ấn định trên thẻ tín dụng ngân hàng như thế nào?
6-8 Nhiều nhà phát hành thẻ ngân hàng áp dụng các loại phí khác nhau; mô tả ngắn gọn ba
trong những khoản phí này.
6-9 Thẻ ghi nợ là gì? Nó giống với thẻ tín dụng như thế nào? Nó khác như thế nào?
6-10 Mô tả cách hạn mức tín dụng quay vòng cung cấp tín dụng cho tài khoản mở.
6-11 Các đặc điểm cơ bản của hạn mức tín dụng vốn chủ sở hữu nhà là gì?

6-3 THU THẬP VÀ QUẢN LÝ CÁC HÌNH THỨC TÍN


DỤNG MỞ
LG4
Người tiêu dùng thích sử dụng thẻ thanh toán của họ. Năm
2014, riêng Visa đã xử lý khoảng 7,3 nghìn tỷ đô la giao
dịch. Người tiêu dùng nhận thấy thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ
thuận tiện hơn tiền mặt hoặc séc và nhiều lợi ích khác (ví dụ:
giảm giá và dặm bay thường xuyên) tiếp tục tăng lên.
Để thuận tiện, người ta thường duy trì nhiều loại tín
dụng mở khác nhau. Ví dụ, gần như mọi hộ gia đình đều sử
dụng tài khoản trả phí 30 ngày để thanh toán hóa đơn tiện
ích, hóa đơn điện thoại, v.v. Ngoài ra, hầu hết các gia đình
đều có một hoặc nhiều thẻ thanh toán bán lẻ và một vài thẻ
ngân hàng. Và đó không phải là tất cả - các hộ gia đình cũng
có thể có hạn mức tín dụng quay vòng dưới hình thức bảo vệ
thấu chi hoặc hạn mức tín dụng tài sản nhà ở. Khi tất cả các
thẻ và hạn mức này được cộng lại với nhau, một gia đình có
thể có hàng chục ngàn đô la tín dụng sẵn có. Dễ hiểu tại sao
tín dụng tiêu dùng lại trở thành một phương thức phổ biến để
thực hiện các giao dịch mua hàng thường ngày. Mặc dù tín
dụng tài khoản mở có thể làm tăng nguy cơ quá tải ngân
sách, những tài khoản này cũng có thể trở thành một cách
hữu ích để theo dõi chi tiêu.

6-3a Mở một tài khoản


Thẻ thanh toán bán lẻ, thẻ tín dụng ngân hàng và hạn mức tín
dụng quay vòng điểm chung nào? Trả lời: Tất cả đều yêu cầu
bạn phải làm đơn xin cấp tín dụng chính thức. Bây giờ chúng
ta hãy xem cách bạn thực hiện để nhận được các hình thức
tín dụng mở, bao gồm quy trình đăng ký tín dụng thông
thường, điều tra, và quyết định. Chúng ta sẽ tập trung thảo
luận về thẻ tín dụng, nhưng hãy nhớ rằng các thủ tục tương
tự cũng áp dụng cho các hạn mức tín dụng quay vòng khác.
Đơn xin cấp tín dụng
Đơn xin cấp tín dụng thường có sẵn tại các cửa hàng hoặc
ngân hàng liên quan. Đôi khi chúng có thể được tìm thấy tại
các doanh nghiệp chấp nhận các loại thẻ này hoặc được lấy
theo yêu cầu từ các công ty phát hành. Hình 6.5 cung cấp
một ví dụ về đơn xin cấp thẻ tín dụng ngân hàng. Như bạn có
thể thấy, loại thông tin được yêu cầu trong đơn xin cấp tín
dụng thông thường bao gồm các vấn đề cá nhân/gia đình, nhà
ở, việc làm và thu nhập cũng như các tài khoản phí hiện có.
Những thông tin như vậy nhằm mục đích cung cấp cho người
cho vay cái nhìn sâu sắc về uy tín tín dụng của người nộp
đơn. Về bản chất, người cho vay đang cố gắng xác định xem
người nộp đơn có đủ tư cách và năng lực để xử lý khoản nợ
một cách nhanh chóng và kịp thời hay không.
Điều tra tín dụng
điều tra tín dụng Khi đơn xin cấp tín dụng đã được hoàn thành và gửi lại cho
Một cuộc điều tra liên cơ sở phát hành thẻ, nó sẽ trải qua một cuộc điều tra tín
quan đến việc liên hệ với dụng. Mục đích là để đánh giá loại rủi ro tín dụng mà bạn
người giới thiệu tín dụng gây ra cho người cho vay (bên phát hành thẻ tín dụng hoặc
hoặc liên hệ với văn phòng thẻ thanh toán). Vì vậy, hãy nhớ điền đơn xin cấp tín dụng
tín dụng để xác minh của bạn một cách cẩn thận. Dù bạn có tin hay không, họ thực
thông tin trên đơn đăng ký sự xem xét những chúng một cách kỹ lưỡng. Các mục chính
tín dụng. mà người cho vay xem xét là bạn kiếm được bao nhiêu tiền,
bạn còn nợ bao nhiêu và bạn xử lý nó tốt như thế nào cũng
như mức độ ổn định của bạn (ví dụ, tuổi tác, quá trình làm
việc, bạn sở hữu hay thuê nhà, v.v.). Rõ ràng, thu nhập của
bạn càng cao và lịch sử tín dụng của bạn càng tốt thì cơ hội
đơn xin cấp tín dụng của bạn được chấp thuận càng cao.
Trong quá trình điều tra tín dụng, người cho vay cố
gắng xác minh nhiều thông tin bạn đã cung cấp trong đơn xin
cấp tín dụng. Rõ ràng, thông tin sai lệch hoặc gây hiểu lầm
gần như chắc chắn sẽ dẫn đến việc đơn đăng ký của bạn bị từ
chối hoàn toàn. Ví dụ, người cho vay có thể xác minh nơi
làm việc của bạn, mức thu nhập, số nợ hiện tại, lịch sử dịch
vụ nợ, v.v. Nếu bạn đã sống ở khu vực này được vài năm và
đã thiết lập quan hệ với ngân hàng để xác nhận uy tín tín dụng của bạn. Nếu bạn chưa
một ngân hàng địa thiết lập những mối quan hệ như vậy với ngân hàng - và hầu
phương, có thể bạn chỉ cần hết những người trẻ tuổi đều chưa thiết
gọi điện cho nhân viên
lập - người cho vay có thể sẽ chuyển sang văn phòng tín
dụng địa phương để lấy báo cáo tín dụng về bạn.

Hình 6.5 Đơn xin cấp thẻ tín dụng trực tuyến
Bạn có thể đăng ký nhiều loại thẻ tín dụng ngay hôm nay ngay trên Internet. Đơn xin cấp tín
dụng này, giống như hầu hết những đơn khác, tìm hiểu thông tin về nơi làm việc, thu nhập hàng
tháng, nơi cư trú, lịch sử tín dụng và các vấn đề tài chính khác của người nộp đơn nhằm giúp
người cho vay quyết định có nên cấp tín dụng hay không.
Văn phòng tín dụng
văn phòng tín dụng Văn phòng tín dụng là một loại cơ quan báo cáo thu thập và
Một tổ chức thu thập và bán thông tin về cá nhân người vay. Nếu, như thường lệ,
lưu trữ thông tin tín dụng người cho vay không biết cá nhân bạn, thì họ phải dựa vào
của những người vay cá một cách tiết kiệm chi phí để xác minh lịch sử việc làm và tín
nhân. dụng của bạn. Sẽ rất tốn kém và tốn thời gian để các chủ nợ
cá nhân tự mình xác nhận đơn xin cấp tín dụng của bạn, vì
vậy họ chuyển sang các văn phòng tín dụng để lưu giữ các
hồ sơ tín dụng khá chi tiết về bạn. Thông tin trong hồ sơ của
bạn đến từ một trong ba nguồn: chủ nợ đăng ký với văn
phòng, các chủ nợ khác cung cấp thông tin theo yêu cầu của
bạn và các tài liệu tòa án được ghi lại công khai (như thế
chấp thuế hoặc hồ sơ phá sản).
Trái ngược với quan điểm thông thường, hồ sơ tín
dụng của bạn không chứa mọi thứ mà bất kỳ ai muốn biết về
bạn - không có gì về lối sống, bạn bè, thói quen hoặc quan
điểm tôn giáo hoặc chính trị của bạn. Thay vào đó, hầu hết
thông tin đều là những thông tin khá nhàm chán và bao gồm
những thứ như tên, số an sinh xã hội, tuổi, số người phụ
thuộc, hồ sơ việc làm và dữ liệu tiền lương, hồ sơ công khai
về các vụ phá sản và tên của những người gần đây đã yêu
cầu bản sao giấy tờ hồ sơ của bạn.
Mặc dù một khoản thanh toán bằng thẻ tín dụng trễ có
thể sẽ không tạo ra nhiều khác biệt với một hồ sơ tín dụng
sạch, nhưng chắc chắn sẽ có một số trường hợp nợ quá hạn
(thường xuyên bị trễ từ 30 đến 60 ngày với các khoản thanh
toán của bạn) hoặc phá sản cá nhân chắc chắn sẽ xảy ra. Thật
không may, những đặc điểm tín dụng kém sẽ đeo bám bạn
trong một thời gian dài, bởi vì các khoản nợ quá hạn vẫn còn
trong hồ sơ tín dụng của bạn tới 7 năm và phá sản trong 10
năm. Một ví dụ về báo cáo thực tế của phòng tín dụng (hoặc ít
nhất là một phần của báo cáo) được cung cấp trong Hình 6.6.
Nó hiển thị loại thông tin có thể bạn mong rằng sẽ tìm thấy ở
một trong những báo cáo này.

Hình 6.6 Một ví dụ về báo cáo của văn phòng tín dụng
Các báo cáo của văn phòng tín dụng đã được sửa đổi và giờ đây dễ hiểu hơn. Lưu ý rằng, ngoài
một số thông tin cơ bản, báo cáo còn đề cập nghiêm ngặt đến thông tin tín dụng - bao gồm hồ
sơ thanh toán, tình trạng quá hạn và các loại tín dụng.
Bạn Có Thể Làm Điều Đó Ngay Bây Giờ
Báo cáo tín dụng của bạn trông như thế nào?
Lần cuối bạn kiểm tra báo cáo tín dụng của mình là khi nào? Bạn nên xem xét nó ít nhất mỗi
năm một lần để biết mình đang ở đâu và đảm bảo rằng không có sai sót nào. Đạo luật báo cáo
tín dụng công bằng (FCRA) yêu cầu mỗi công ty báo cáo tín dụng quốc gia - Experian, Equifax
Credit Information Services và TransUnion - cung cấp bản sao báo cáo tín dụng miễn phí của
bạn mỗi năm một lần. Ba công ty này đã thiết lập một trang Internet nơi bạn có thể nhận báo
cáo thường niên miễn phí tại https://www.annualcreditreport.com. Hãy cẩn thận khi sử dụng
các trang Internet khác cung cấp báo cáo tín dụng miễn phí, giám sát tín dụng miễn phí hoặc
điểm tín dụng miễn phí. Những trang web như vậy không được phép đáp ứng các yêu cầu pháp
lý của FCRA và thường có các ràng buộc kèm theo. Chỉ cần truy cập trang web được ủy quyền
- bạn có thể làm điều đó ngay bây giờ.
Các văn phòng tín dụng địa phương (có khoảng một
nghìn văn phòng như vậy) được thành lập và sở hữu chung
bởi những người bán và ngân hàng địa phương. Họ thu thập
và lưu trữ thông tin tín dụng của những người sống trong
cộng đồng và cung cấp thông tin đó với một khoản phí cho
các thành viên yêu cầu. Các văn phòng địa phương được liên
kết với nhau trên toàn quốc thông qua một trong “ba văn
phòng quốc gia lớn” - TransUnion, Equifax Credit
Information Services và Experian - mỗi văn phòng cung cấp
cơ chế thu thập thông tin tín dụng từ hầu như mọi nơi ở Hoa
Kỳ. Theo truyền thống, các văn phòng tín dụng không làm gì
nhiều ngoài việc thu thập và cung cấp thông tin tín dụng; họ
không phân tích thông tin cũng như không sử dụng nó để đưa
ra quyết định tín dụng cuối cùng. Tuy nhiên, vào năm 2006,
ba văn phòng tín dụng lớn đã thông báo rằng họ đã cùng phát
triển một hệ thống chấm điểm tín dụng mới, được gọi là
VantageScore, sẽ kết hợp dữ liệu từ cả ba văn phòng -
Equifax, Experian và TransUnion. Vì vậy, lần đầu tiên, mỗi
cơ quan trong số ba văn phòng quốc gia bắt đầu ấn định xếp
hạng tín dụng thống nhất cho các hồ sơ tín dụng riêng lẻ. Hệ
thống VantageScore được cho là sẽ đơn giản hóa và nâng cao
quy trình cấp tín dụng, bởi vì cả ba văn phòng hiện nay sẽ
báo cáo, cùng với những nội dung khác, cùng một điểm tín
dụng - mặc dù họ vẫn có nghĩa vụ báo cáo các điểm tín dụng
khác, chẳng hạn như điểm tín dụng được sử dụng rộng rãi
FICO. Tất nhiên, việc thêm một điểm tín dụng khác vào bốn
hoặc năm điểm đã tồn tại có thực sự đơn giản hóa vấn đề hay
không vẫn còn phải xem xét. (Chúng tôi sẽ kiểm tra điểm tín
dụng và điểm FICO chi tiết hơn ở phần sau của phần này.)
Các cơ quan tín dụng trước đây đã bị chỉ trích nặng nề
vì họ mắc phải rất nhiều sai sót trong báo cáo và hiệu quả
kém trong việc sửa chữa những sai sót này một cách kịp thời
và hiệu quả. May mắn thay, mọi thứ đã thay đổi đáng kể
trong những năm gần đây khi các văn phòng tín dụng lớn đã
thực hiện cách tiếp cận hướng tới người tiêu dùng hơn. Theo
Đạo luật báo cáo tín dụng công bằng đã sửa đổi, các cơ quan
tín dụng phải cung cấp cho bạn bản sao báo cáo tín dụng của
chính bạn với chi phí thấp và họ phải có đường dây điện
thoại miễn phí. Tranh chấp phải được giải quyết trong 30
ngày và phải tính đến hồ sơ của người tiêu dùng, không chỉ
của chủ nợ.
Tất cả người Mỹ đều có quyền nhận bản sao báo cáo
tín dụng miễn phí mỗi năm một lần. Để nhận báo cáo miễn
phí, hãy truy cập trang Internet do Ủy ban Thương mại Liên
bang (FTC) tại http://www.annualcreditreport.com. Bạn
nên đảm bảo rằng báo cáo tín dụng của bạn phản ánh chính
xác lịch sử tín dụng của mình. Cách tốt nhất để làm điều đó
là lấy một bản sao báo cáo tín dụng của riêng bạn và sau đó
xem xét nó một cách cẩn thận. Nếu bạn phát hiện ra sai sót,
hãy báo cho văn phòng tín dụng biết ngay lập tức - và bằng
mọi cách, hãy viết nó ra. Sau đó yêu cầu một bản sao của hồ
sơ đã sửa để đảm bảo rằng lỗi đã được loại bỏ. Hầu hết các
cố vấn tiêu dùng khuyên bạn nên xem lại hồ sơ tín dụng của
mình hàng năm. Dưới đây là các trang Internet của ba văn
phòng tín dụng quốc gia:
• Equifax Credit Information Services
http://www.equifax.com
• TransUnion LLC Consumer Disclosure Center
http://www.tuc.com
• Experian National Consumer Assistance Center
http://www.experian.com

6-3b Quyết định tín dụng


điểm tín dụng Sử dụng dữ liệu do người nộp đơn xin cấp tín dụng cung cấp,
Một phương pháp đánh giá cùng với bất kỳ thông tin nào thu được từ văn phòng tín
mức độ tín nhiệm của dụng, cửa hàng hoặc ngân hàng phải quyết định có cấp tín
người nộp đơn bằng cách dụng hay không. Rất có thể, một số loại chương trình chấm
gán giá trị cho các yếu tố điểm tín dụng sẽ được sử dụng để đưa ra quyết định. Điểm
như thu nhập, các khoản tín dụng tổng thể được chấm cho bạn bằng cách ấn định giá
nợ hiện tại và nguồn tham trị cho các yếu tố như thu nhập hàng năm của bạn, bạn thuê
khảo tín dụng. hay sở hữu nhà, số lượng và loại thẻ tín dụng bạn sở hữu,
mức nợ hiện tại của bạn, liệu bạn có tài khoản tiết kiệm hay
không và nguồn tham khảo tín dụng chung. Mười lăm hoặc
20 yếu tố khác nhau có thể được xem xét và mỗi yếu tố sẽ
nhận được điểm dựa trên một số tiêu chuẩn được xác định
trước. Ví dụ, nếu bạn 26 tuổi, độc thân, kiếm được 32500 đô
la một năm (với công việc bạn mới làm được hai năm) và
thuê một căn hộ, bạn có thể nhận được số điểm sau:
1. Tuổi (25–30) 5 điểm
2. Tình trạng hôn nhân (độc thân) 22 điểm
3. Thu nhập hàng năm (30–35000 đô) 12 điểm
4. Thời gian làm việc (2 năm hoặc ít hơn) 4 điểm
5. Thuê hay sở hữu nhà (thuê) 0 điểm
19 điểm
Dựa trên thông tin thu được từ đơn xin cấp tín dụng của bạn,
điểm tương tự sẽ được ấn định cho 10 đến 15 yếu tố khác.
Trong mọi trường hợp, đặc trưng hoặc đặc điểm cá
nhân của bạn càng mạnh thì điểm bạn nhận được càng cao.
Ví dụ, nếu bạn 46 tuổi (chứ không phải 26), bạn có thể nhận
được 18 điểm cho yếu tố tuổi tác của mình, kết hôn thay vì
độc thân sẽ cho bạn 9 điểm và kiếm được 75000 đô la một
năm rõ ràng sẽ có giá trị hơn rất nhiều so với việc kiếm được
32500 đô la! Bạn được coi là càng ổn định, càng kiếm được
nhiều thu nhập, hồ sơ tín dụng của bạn càng tốt, v.v., bạn sẽ
nhận được điểm càng cao. Về bản chất, các nghiên cứu thống
kê đã chỉ ra rằng một số đặc điểm cá nhân và tài chính nhất
định có thể được sử dụng để xác định mức độ tín nhiệm của
bạn. Thật vậy, toàn bộ hệ thống chấm điểm tín dụng đều dựa
trên các nghiên cứu thống kê sâu rộng nhằm xác định các đặc
điểm cần xem xét và điểm số để ấn định.
Cho đến nay, nhà cung cấp điểm tín dụng lớn nhất là
Fair Isaac & Co. - công ty đưa ra điểm FICO được sử dụng
rộng rãi. Không giống như một số nhà cung cấp điểm tín
dụng, Fair Isaac chỉ sử dụng thông tin tín dụng trong tính
toán của mình. Trong đó không có thông tin gì về tuổi tác,
tình trạng hôn nhân, tiền lương, nghề nghiệp, quá trình làm
việc hoặc nơi bạn sống. Thay vào đó, điểm FICO được lấy từ
năm thành phần chính sau, được liệt kê cùng với trọng số
tương ứng của chúng: lịch sử thanh toán (35%), số tiền nợ
(30%), thời lượng lịch sử tín dụng (15%), tín dụng mới
(10%), và loại tín dụng được sử dụng (10%). Điểm FICO,
được báo cáo bởi cả ba văn phòng tín dụng lớn, dao động từ
mức thấp 300 đến tối đa là 850. Một đại diện đã báo cáo sự
phân bổ điểm FICO như sau:
300–499
5.8%
500–549
8.4%
550–599
9.8%
600–649
10.2%
650–699
12.7%
700–749
16.3%
750–799 18.4%
800–850
18.6%
Điểm FICO nhằm mục đích biểu thị rủi ro tín dụng
của người đi vay; điểm càng cao thì rủi ro càng thấp. Mặc dù
rất ít, nếu có, các quyết định tín dụng chỉ dựa trên điểm
FICO, nhưng bạn có thể chắc chắn rằng điểm cao hơn có thể
dẫn đến lãi suất cho vay thấp hơn và kết quả là thanh toán
khoản vay thấp hơn. Ví dụ, vào giữa năm 2015, nếu bạn vay
thế chấp có lãi suất cố định 30 năm, bạn có thể phải vay với
lãi suất khoảng 3,664 phần trăm nếu bạn có điểm FICO là
760–850, so với 5,253 phần trăm nếu điểm của bạn nằm
trong khoảng 620–639. Điều đó có nghĩa là khoản thanh toán
thế chấp hàng tháng vào khoảng 1.375 đô/tháng so với 1.657
đô/tháng. Đúng là quyết định tín dụng có nhiều điều cần cân
nhắc hơn là chỉ xem xét điểm tín dụng đơn giản. Nhưng như
bạn có thể thấy, việc giữ điểm FICO của bạn càng cao càng
tốt là điều chắc chắn.
BIỂN BÁO GIAO THÔNG TÀI CHÍNH
Gia tăng điểm FICO của bạn
Việc gia tăng điểm FICO của bạn cần có thời gian và không có cách làm nhanh chóng. Nhưng
đây là một số mẹo mà bạn có thể muốn làm theo để đạt được điểm cao hơn:
 Thanh toán hóa đơn đúng hạn.
 Nếu bạn đã bỏ lỡ các khoản thanh toán, hãy cập nhật và duy trì hiện tại.
 Nếu bạn gặp khó khăn trong việc cân đối thu chi, hãy liên hệ với chủ nợ và lập kế
hoạch thanh toán.
 Giữ số dư thẻ tín dụng ở mức thấp.
 Trả hết nợ thay vì xoay chuyển nợ.
 Đừng mở thẻ tín dụng mới chỉ để tăng tín dụng hiện có của bạn.
 Thiết lập lại lịch sử tín dụng của bạn nếu trước đây bạn gặp vấn đề.

6-3c Chi Phí Tài Chính Tính Toán


lãi suất phần trăm hàng Vì tổ chức phát hành thẻ không biết trước bạn sẽ tính phí bao
năm (APR) nhiêu vào tài khoản của mình nên họ không thể chỉ định số
Lãi suất thực hoặc thực tế tiền lãi bạn sẽ phải trả. Nhưng họ có thể - và phải, theo Đạo
được trả trong suốt thời luật Trung thực trong Cho Vay - tiết lộ mức lãi suất mà họ
hạn của khoản vay; bao tính và phương pháp tính phí tài chính của họ. Đây là lãi
gồm tất cả các khoản phí suất phần trăm hàng năm (APR), lãi suất thực hoặc thực tế
và chi phí. được trả, phải bao gồm tất cả các khoản phí và chi phí và
được tính theo quy định của pháp luật. Hãy nhớ rằng, với tư
cách là người tiêu dùng, bạn có quyền biết - và nghĩa vụ của
người cho vay là phải cho bạn biết - số tiền tính phí (nếu có)
và APR đối với bất kỳ khoản tài chính nào mà bạn xem xét.
phương pháp dư nợ bình Số tiền lãi bạn phải trả cho tín dụng mở phụ thuộc một
quân hàng ngày (ADB) phần vào phương pháp mà người cho vay sử dụng để tính
Một phương pháp tính phí toán số dư mà họ áp dụng phí tài chính. Hầu hết các tổ chức
tài chính bằng cách áp phát hành thẻ tín dụng ngân hàng và bán lẻ sử dụng một
dụng lãi suất cho số dư trong hai biến thể của phương pháp dư nợ bình quân hàng
bình quân hàng ngày ngày (ADB), áp dụng lãi suất cho ADB của tài khoản trong
(ADB) của tài khoản trong thời hạn thanh toán. Phương pháp phổ biến nhất (được ước
thời hạn thanh toán. tính khoảng 95 phần trăm các tổ chức phát hành thẻ ngân
hàng sử dụng) là ADB, bao gồm cả các giao dịch mua mới.
Các tổ chức phát hành thẻ cũng có thể sử dụng phương pháp
của ADB để ngoại trừ các giao dịch mua mới. Tính toán số
dư theo từng phương pháp này như sau:
 ADB, bao gồm cả các giao dịch mua mới: Đối với mỗi
ngày trong chu kỳ thanh toán, lấy số dư chưa thanh toán,
bao gồm cả các giao dịch mua mới, trừ đi các khoản
thanh toán và tín dụng; sau đó chia cho số ngày trong chu
kỳ thanh toán.
 ADB, ngoại trừ các khoản mua mới: Tương tự như
phương pháp đầu tiên, nhưng loại trừ các khoản mua
mới.
Những tính toán khác nhau này rõ ràng có thể ảnh
hưởng đến số dư tín dụng của thẻ và do đó ảnh hưởng đến số
phí tài chính bạn sẽ phải trả. Ngoài ra, hãy lưu ý rằng phí tài
chính trên hai thẻ có cùng APR nhưng các phương pháp tính
số dư khác nhau có thể khác nhau đáng kể. Điều quan trọng
là phải biết phương pháp mà tổ chức phát hành thẻ của bạn
sử dụng. Những so sánh trong Hình 6.7 cho thấy phương
pháp được sử dụng để tính toán ADB ảnh hưởng như thế nào
đến số phí tài chính bạn phải trả. Trong tình huống được
minh họa ở đây, chi phí tài chính hàng tháng là từ 66 USD
đến 132 USD. Rõ ràng là việc ghi số dư trên thẻ tín dụng có
thể tốn kém và cách tính phí tài chính có thể rất quan trọng.
Ví dụ: Tính số dư và phí tài chính bằng phương pháp
ADB
Xem xét cách tính toán số dư và chi phí tài chính theo
phương pháp phổ biến nhất, ADB bao gồm cả các khoản mua
mới. Giả sử rằng bạn có thẻ Visa FirstBank với lãi suất hàng
tháng là 1,5 phần trăm. Bảng kê của bạn cho kỳ thanh toán
kéo dài từ ngày 10 tháng 10 năm 2017 đến ngày 10 tháng 11
năm 2017 - tổng cộng 31 ngày - cho thấy số dư ban đầu của
bạn là 1582 đô la, bạn đã mua hàng 750 đô la vào ngày 15
tháng 10 và 400 đô la vào ngày 22 tháng 10 và bạn đã thực
hiện thanh toán 275 đô la vào ngày 6 tháng 11. Do đó, số dư
chưa thanh toán trong 5 ngày đầu tiên của kỳ (từ ngày 11 đến
ngày 15 tháng 10) là 1582 đô la; trong 7 ngày tiếp theo (16
đến 22 tháng 10), số tiền là 2332 đô la (1582 đô la + 750 đô
la); trong 15 ngày tiếp theo (23 tháng 10 đến 6 tháng 11), là
2732 đô la (2332 đô la + 400 đô la); và trong 4 ngày qua (từ
ngày 7 tháng 11 đến ngày 10 tháng 11), số tiền là 2457 đô la
(2732 đô la trừ đi khoản thanh toán 275 đô la). Bây giờ
chúng ta có thể tính toán ADB bằng cách sử dụng quy trình
được trình bày trong Hình 6.8. Lưu ý rằng số dư chưa thanh
toán được tính theo số ngày tồn tại số dư và sau đó được tính
trung bình (chia) cho số ngày trong kỳ thanh toán. Bằng cách
nhân số tiền 2420,71 đô la của ADB với lãi suất 1,5 phần
trăm chúng ta nhận được khoản phí tài chính là 36,31 đô la.

6-3d Quản Lý Thẻ Tín Dụng Của Bạn


Chúc mừng! Bạn đã đăng ký và được cấp thẻ tín dụng ngân
hàng cũng như thẻ thanh toán bán lẻ từ cửa hàng bách hóa
yêu thích của bạn. Bạn đã xem xét cẩn thận các điều khoản
của hợp đồng tín dụng và có ít nhất sự hiểu biết cơ bản về
cách tính phí tài chính cho mỗi tài khoản. Bây giờ bạn phải
quản lý tài khoản của mình một cách hiệu quả, bao gồm việc
sử dụng bảng sao kê hàng tháng để giúp bạn thực hiện các
khoản thanh toán cần thiết đúng hạn cũng như theo dõi các
giao dịch mua và hàng hoàn.

Sự thật hay ảo tưởng về tài chính?


Các nhà phát hành thẻ tín dụng được yêu cầu bởi Đạo luật Trung thực trong Cho Vay về việc
sử dụng số dư bình quân hàng ngày trong tài khoản của bạn khi tính toán số phí tài chính mà
bạn nợ. Ảo tưởng: Đạo luật Trung thực trong Cho Vay chỉ yêu cầu người cho vay tiết lộ đầy đủ
mức lãi suất thực tế được tính và phương pháp được sử dụng để tính phí tài chính. Người cho
vay có thể chọn phương pháp cụ thể được sử dụng để tính số dư mà họ áp dụng phí tài chính.
Phương pháp phương pháp dư nợ bình quân hàng ngày được sử dụng rộng rãi nhất.
Bảng sao kê
Nếu bạn sử dụng thẻ tín dụng, bạn sẽ nhận được bảng sao kê
hàng tháng tương tự như bảng sao kê thẻ ngân hàng mẫu
trong Hình 6.9, cho thấy chu kỳ thanh toán và ngày đến hạn
thanh toán, lãi suất, khoản thanh toán tối thiểu và tất cả hoạt
động tài khoản trong giai đoạn hiện tại. Thẻ thanh toán bán lẻ
có bảng sao kê hàng tháng tương tự, nhưng không có tạm
ứng tiền mặt. (Hạn mức tín dụng quay vòng của người cho
vay cũng sẽ gửi cho bạn một bản sao kê hàng tháng cho biết
số tiền đã vay, các khoản thanh toán và chi phí tài chính.)
Bản sao kê tóm tắt hoạt động tài khoản của bạn: số dư trước
đó (số dư tín dụng vào đầu tháng - không để bị nhầm lẫn với
các khoản thanh toán quá hạn hoặc trễ); các khoản phí mới
được thực hiện (bốn, trong trường hợp này) trong tháng qua;
mọi khoản phí tài chính (lãi suất) trên số dư chưa thanh toán;
số tiền nộp kỳ trước; bất kỳ khoản tín dụng nào khác (chẳng
hạn như khoản tín dụng để trả lại); và số dư mới (số dư trước
đó cộng với các khoản mua hàng mới và phí tài chính, trừ đi
bất kỳ khoản thanh toán và tín dụng nào).
Mặc dù các giao dịch hàng hóa và tiền mặt được tách
riêng trên báo cáo, phí tài chính trong mỗi trường hợp được
tính ở mức 1,5 phần trăm mỗi tháng (18 phần trăm mỗi năm).
Quy trình này hoạt động tốt với việc minh họa nhưng nó hơi
khác thường, bởi vì hầu hết các nhà phát hành thẻ đều tính lãi
đối với tạm ứng tiền mặt cao hơn so với mua hàng. Lưu ý
rằng phương pháp của ADB được sử dụng để tính phí tài
chính trong báo cáo này.
Bạn nên xem lại báo cáo của mình kịp thời mỗi tháng.
Lưu biên lai của bạn và sử dụng chúng để xác minh các mục
sao kê cho việc mua hàng và trả lại trước khi thanh toán. Nếu
bạn phát hiện bất kỳ lỗi nào hoặc nghi ngờ thẻ của mình bị sử
dụng gian lận, trước tiên hãy sử dụng đường dây miễn phí
của nhà phát hành để báo cáo mọi vấn đề. Sau đó luôn theo
dõi bằng văn bản trong vòng 60 ngày kể từ dấu bưu điện trên
hóa đơn.

Hình 6.7 Phí tài chính cho các phương pháp tính toán số dư khác nhau
Cách nhà phát hành thẻ tín dụng tính toán ADB mà người tiêu dùng thanh toán phí tài chính có
ảnh hưởng lớn đến số tiền lãi bạn thực sự phải trả, như bảng này minh họa. Lưu ý rằng Đạo luật
Thẻ Tín dụng năm 2009 cấm sử dụng phương pháp hai chu kỳ.
Ví dụ: Một người tiêu dùng bắt đầu tháng đầu tiên với số dư bằng 0 và tính phí 1000 đô la,
trong đó anh ta chỉ thanh toán số tiền đến hạn tối thiểu (1/36 số dư đến hạn). Tháng tiếp theo,
anh ta tính thêm 1000 đô la. Sau đó anh ta thanh toán toàn bộ số dư đến hạn. Mô hình tương tự
này được lặp lại ba lần nữa trong năm. Lãi suất là 19,8 phần trăm.

Hình 6.8 Tìm số dư trung bình hàng ngày và phí tài chính
Số dư bình quân hàng ngày bao gồm cả các giao dịch mua mới là phương pháp được các nhà
phát hành thẻ tín dụng sử dụng rộng rãi nhất để xác định phí tài chính hàng tháng trên tài
khoản.
Thanh toán
khoản thanh toán tối Người dùng thẻ tín dụng có thể tránh các khoản phí tài chính
thiểu hàng tháng trong tương lai bằng cách thanh toán tổng số dư mới hiển thị
Trong tín dụng tài khoản trên bảng sao kê của họ mỗi tháng. Ví dụ, nếu tổng số dư
mở, một tỷ lệ phần trăm mới là 534,08 đô la thể hiện trong Hình 6.9 được thanh toán
tối thiểu được chỉ định trên trước ngày đến hạn là ngày 21 tháng 9 năm 2017 thì sẽ
số dư tài khoản mới phải không phát sinh thêm phí tài chính. (Tuy nhiên, chủ thẻ vẫn
được thanh toán để duy trì phải chịu trách nhiệm về khoản phí tài chính 4,40 đô la phát
hiện tại. sinh cho đến nay.) Nếu chủ thẻ không thể thanh toán tổng số
dư mới, họ có thể thanh toán bất kỳ số tiền nào bằng hoặc
lớn hơn khoản thanh toán hàng tháng tối thiểu được chỉ định
trên bảng sao kê. Tuy nhiên, nếu họ làm điều này, họ sẽ phải
chịu thêm phí tài chính Hình 6.9 có khoản thanh toán tối thiểu là 5 phần trăm số dư
trong tháng tiếp theo. Lưu mới, được làm tròn đến số đô la đầy đủ gần nhất. Như được
ý rằng tài khoản trong hiển thị ở cuối
bảng kê, khoản thanh toán tối thiểu của tháng này là 27,00 đô
la (tức là 534,08 đô x 0,05 = 26,70 đô la ≈ 27,00 đô la). 27,00
đô này tính ra là khoản thanh toán gốc là 22,60 đô la; nghĩa
là, 27,00 đô - 4,40 đô (lãi suất) = 22,60 đô la. Đó thực sự là
khoảng 4,25 phần trăm của “số dư mới”. Bây giờ, nếu số dư
mới nhỏ hơn 200 đô la, ngân hàng sẽ yêu cầu thanh toán 10
đô la (là khoản thanh toán bằng đô la tối thiểu tuyệt đối) hoặc
tổng số dư mới, nếu dưới 10 đô la. Chủ thẻ không thực hiện
khoản thanh toán tối thiểu được coi là không trả được nợ trên
tài khoản của họ và ngân hàng phát hành thẻ có thể thực hiện
bất kỳ hành động pháp lý nào mà họ thấy cần thiết.

Hình 6.9 Bảng sao kê thẻ tín dụng ngân hàng hàng tháng
Mỗi tháng, chủ thẻ tín dụng ngân hàng nhận được một bản sao kê cung cấp danh sách chi tiết
các khoản phí và tín dụng, cũng như bản tóm tắt về hoạt động và phí tài chính trước đó.

You might also like