You are on page 1of 14

ĐỀ TÀI: Sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ và những vấn đề cần lưu ý

đối với các doanh nghiệp Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Thương mại là một thành phần thiết yếu của nền kinh tế toàn cầu, cho phép các quốc gia
trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Quá trình tiến hành các hoạt động thương mại quốc tế dẫn đến nhu
cầu chi trả, thanh toán giữa các chủ thể ở các nước khác nhau và ngân hàng là cầu nối trung gian
giữa các bên. Tuy nhiên do tính rủi ro của những thương vụ buôn bán toàn cầu, trong hoạt động
thương mại quốc tế nói chung và hoạt động dịch vụ thanh toán qua ngân hàng nói riêng đã làm
xuất hiện những phương thức thanh toán hiệu quả như nhờ thu, chuyển tiền, tín dụng chứng
từ...Trong số đó, tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến hơn cả với
khoảng 11-15% giao dịch thương mại quốc tế sử dụng phương thức tín dụng chứng từ, đem lại
tổng trị giá hàng năm lên đến hàng tỷ đô la Mỹ. Tín dụng chứng từ không chỉ là một công cụ
thanh toán được đảm bảo mà còn là một công cụ tài chính linh hoạt cho giao dịch thương mại
quốc tế.

Tín dụng chứng từ được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như: Letter of Credit (L/C),
Credit, Document Credit. Đây là một thoả thuận, không thể huỷ bỏ và do đó là một cam kết chắc
chắn của ngân hàng phát hành về việc thanh toán cho một xuất trình phù hợp. Nhìn chung, tín
dụng chứng từ có thể hiểu là sự thỏa thuận mà Ngân hàng phát hành Thư tín dụng (L/C) sẽ cam
kết trả một số tiền nhất định hoặc chấp nhận Hối phiếu do người thụ hưởng ký phát, nếu người
này xuất trình bộ chứng từ thanh toán hợp lệ với nội dung quy định của Thư tín dụng. Trong
đó “Ngân hàng phát hành thư tín dụng là ngân hàng phát hành L/C theo yêu cầu của người xin
mở L/C hoặc nhân danh chính mình”. Và “Bên thụ hưởng là bên mà vì quyền lợi của bên đó mà
Thư tín dụng được phát hành.”

Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng thương mại quốc tế, nguy cơ xảy ra các hoạt động gian
lận là rất lớn. Khi tham gia vào hoạt động tanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ, Các
ngân hàng và thương nhân có thể gặp phải một số rủi ro. Vì vậy, việc nắm vững bản chất của
thanh toán tín dụng chứng từ là vô cùng quan trọng nhằm phòng ngừa rủi ro khi tham gia vào
hình thức thanh toán này.

Và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ trong chuỗi thương mại quốc tế. Trong hơn 20
năm trở lại đây, Việt Nam hoạt động rất tích cực trên phương diện hội nhập, nhiều giao dịch
thương mại với nước ngoài đã thực hiện. Phương thức tín dụng chứng từ là một hình thức thanh

1
toán được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm. Có kiến thức và chuẩn bị các biện pháp phòng
ngừa rủi ro sẽ là một lợi thế cho doanh nghiệp khi tham gia giao dịch thương mại quốc tế thanh
toán bằng phương thức tín dụng chứng từ.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu

4.2. Phạm vi nghiên cứu

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

5.2. Phương pháp nghiên cứu

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

7. Kết cấu của bài khóa luận

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN BẰNG TÍN DỤNG CHỨNG TỪ

1.1. Khái niệm về tín dụng chứng từ

1.1.1. Định nghĩa tín dụng chứng từ

Khái niệm tín dụng chứng từ (hay thư tín dụng) được thể hiện dưới những góc độ khác
nhau. Trong thực tiễn pháp lý, tín dụng chứng từ được định nghĩa không hoàn toàn giống nhau
giữa pháp luật quốc gia và thông lệ quốc tế.

Căn cứ Điều 2 Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (viết tắt là UCP
600) đây là “một sự thỏa thuận bất kỳ, cho đủ được gọi tên hay mô tả thế nữa, thể hiện một cam
kết chắc chắn và không hủy ngang của ngân hàng phát hành về việc thanh toán khi xuất trình phù
hợp".

2
Tại đây khái niệm đã được định nghĩa khá toàn diện, phản ánh tính không hủy ngang của
thư tín dụng và sự cam kết của ngân hàng đối với thư tín dụng do mình phát hành.

Trong pháp luật Việt Nam tín dụng chứng từ được định nghĩa tại Điều 16 Quyết định
226/2002/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán: “Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được ngân hàng mở theo
yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng), theo đó ngân hàng
thực hiện yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng) nhằm mục
đích:

- Trả tiền hoặc uỷ quyền cho ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của người thụ hưởng
khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện của thư tín dụng; hoặc

- Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc trao quyền cho ngân hàng khác trả tiền theo lệnh của người
thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù
hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín dụng.

Đây là định nghĩa trực tiếp về tín dụng chứng từ duy nhất trong hệ thống văn bản pháp
luật của Việt Nam. Qua đó đã phản ánh được bản chất của tín dụng chứng từ là cam kết của ngân
hàng phát hành về việc trả tiền hoặc ủy nhiệm ngân hàng khác trả tiền cho người thụ hưởng theo
các điều kiện đã thỏa thuận với người xin mở thư tín dụng.

Từ định nghĩa trên có thể thấy L/C mang bản chất là một cam kết thanh toán có điều kiện
và các bên có thể thoả thuận để lựa chọn các điều kiện L/C, từ đó khi xuất trình bộ chứng từ đáp
ứng điều kiện thì việc thanh toán sẽ được đảm bảo.

1.1.2. Đặc điểm tín dụng chứng từ

Dựa vào định nghĩa tín dụng chứng từ có thể thấy, dù căn cứ và hướng tới những chuẩn
mực khác nhau trong thanh toán quốc tế nhưng đều làm rõ các vấn đề mang tính bản chất đó là:

- Thứ nhất, tín dụng chứng từ là sự thỏa thuận giữa ngân hàng phát hành và bên yêu cầu
mở thư tín dụng.

Trong mối quan hệ này, mở thư tín dụng là việc cung ứng dịch vụ của ngân hàng, theo đó
ngân hàng phát hành L/C trên cơ sở xem xét hợp đồng mua bán hàng hóa được ký giữa người yêu
cầu mở và người thụ hưởng. Người yêu cầu mở L/C sẽ phải ký quỹ khoản tiền mở L/C và trả phí
dịch vụ. Việc phát hành thư tín dụng hay không là kết quả của sự thỏa thuận giữa ngân hàng với
người yêu cầu mở thư tín dụng, thông qua việc ngân hàng thẩm định các điều kiện mở thư tín
dụng. Khi sử dụng thư tín dụng như một phương tiện thanh toán đồng nghĩa với việc người yêu

3
cầu mở thư tín dụng sử dụng một dịch vụ do ngân hàng cung cấp. Đặc điểm này thể hiện tính
trung gian tích cực của ngân hàng trong thực hiện cung ứng dịch vụ.

- Thứ hai, tín dụng chứng từ là cam kết đơn phương của ngân hàng về việc trả tiền cho
bên thụ hưởng thư tín dụng.

Thư tín dụng là cam kết đơn phương của ngân hàng về việc trả tiền cho người thụ hưởng
thư tín dụng nghĩa là trong quan hệ với người bán, ngân hàng sẽ là người trực tiếp trả tiền cho
người thụ hưởng. Cam kết trả tiền của ngân hàng không liên quan đến mối quan hệ giữa ngân
hàng và người yêu cầu mở thư tín dụng. Ngân hàng phát hành L/C tiến hành thanh toán cho
người thụ hưởng từ một khoản tiền được bên mua lưu ký hay ký quỹ trước tại ngân hàng khi bên
bán xuất trình đầy đủ các chứng từ hợp lệ. Về nguyên tắc chính ngân hàng sẽ là người trực tiếp
thanh toán tiền với bên bán, sau đó sẽ yêu cầu hoàn trả lại từ phía bên mua trên cơ sở số tiền ký
quỹ của bên mua khi mở thư tín dụng. Như vậy ngay cả khi người yêu cầu mở thư tín dụng mất
khả năng thanh toán thì nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng vẫn không chấm dứt. Đây là điểm
khác biệt so với phương thức thanh toán bằng séc, bởi trong phương thức thanh toán bằng séc,
ngân hàng chỉ đơn thuần trích tiền trong tải khoản tiền gửi của khách hàng trả cho người thụ
hưởng.

- Thứ ba, tín dụng chứng từ độc lập với hợp đồng cơ sở phát sinh ra nó

Trong phương thức tín dụng chứng tử, người nào nằm chứng từ sở hữu hàng hóa thì người đó có
quyền sở hữu hàng hóa. Vì chỉ cần nắm chứng từ là có thể đi nhận hàng. Các bên giao dịch chỉ
căn cứ vào chứng từ để xem xuất trình đó đã phù hợp chưa? để quyết định có thanh toán hay chấp
nhận thanh toán không? Chính các chứng từ xuất trình là căn cứ duy nhất để ngân hàng quyết
định trả tiền hay từ chối thanh toán cho người được hưởng lợi, đồng thời cũng là căn cứ duy nhất
cho người nhập khẩu hoàn trả hay từ chối hoàn trả tiền cho ngân hàng.

Về bản chất, tín dụng chứng từ là một giao dịch hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán là cơ sở
để hình thành giao dịch tín dụng chứng tử. Điều này thể hiện ở chỗ, sau khi phát hành thư tín
dụng hợp lệ, ngân hàng phát hành chỉ bị rằng buộc với thư tín dụng do chính minh phát hành chứ
không bị chi phối, liên quan hoặc bị ràng buộc với các hợp đồng mua bán vẫn là cơ sở để phát
sinh nhu cầu phát hành thư tín dụng, thậm chí ngay cả trong thư tín dụng có bất kỳ sự dẫn chiếu
nào đến hợp đồng đó. Trong quá trình thanh toán, ngân hàng chỉ cần dựa trên chứng từ,

hồ sơ hợp lệ được các bản xuất trình mà không cần phải dựa vào thực tế giao nhận hàng hóa, tên
hàng, số lượng, trọng lượng, chất lượng, trạng thái, bao bì, giá trị hoặc sự hiện hữu của hàng
hóa... - Các phương thức tín dụng chứng từ: liên quan đến 3 quan hệ hợp đồng

+ Hợp đồng mua bán giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu
4
a. Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức liên quan đến ba quan hệ hợp đồng:

• Hợp đồng mua bán giữa người xuất khẩu với người nhập khẩu :

Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa người mua và người bán, trong đó người bán
có trách nhiệm giao hàng đúng và đủ còn người mua có trách nhiệm trả tiền. Trong hợp đồng
mua bán, các bên tham gia thỏa thuận phương thức thanh toán tiền hàng : chuyển tiền, nhờ thu,
ghi số, tín dụng chứng từ. Trong trường hợp lựa chọn tín dụng thư là phương thức thanh toán thì
thư tín dụng sẽ được mở. Có thể nói hợp đồng mua bán làm cơ sở cho phương thức tín dụng
chứng từ.

Mặc dùng tín dụng chứng từ ra đời dựa trên cơ sở hợp đồng mua bán giữa người xuất khẩu và
người nhập khẩu nhưng tín dụng lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Bất cứ sự dẫn
chiếu nào tới điều khoản trong hợp đồng mua bán đều không được coi là bộ phận cấu thành của
tín dụng thư và đều không được ngân hàng xem xét đến.

• Hợp đồng giữa người yêu cầu phát hành thư tín dụng (người nhập khẩu) và ngân hàng phát

hành:

Muốn thanh toán bằng tín dụng thư thì thư tín dụng phải được mở. Để thư tín dụng được mở thì
người nhập khẩu hàng hóa ( người trả tiền ) phải làm đơn ( Đơn yêu cầu phát hành thư tín dụng )
gửi đến ngân hàng phát hành xin mở L/C. Căn cứ vào đó ngân hàng sẽ phát hành thư tín dụng
cho người được hưởng lợi, và người nhập khẩu sẽ phải chịu một khoản phí để mở L/C.

Theo đó ngân hàng dùng uy tín và khả năng tài chính của mình để đảm bảo thanh toán cho người
xuất khẩu khi họ xuất trình phù hợp và thu phí người nhập khẩu. Ngân hàng chịu trách nhiệm
kiểm tra bộ chứng từ cho người xuất khẩu xuất trình trước khi quyết định thanh toán hay từ chối
thanh toán.

Thư tín dụng ra đời dựa trên cơ sở ngân hàng phát hành và người nhập khẩu. Ra đời dựa trên cơ
sở hợp đồng mua bán nhưng lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Do đó các ngân hàng
thanh toán thường khuyên khách hàng không nên dẫn chiếu hợp đồng mua bán vào thư tín dụng.
Người nhập khẩu căn cứ vào hợp đồng mua bán để yêu cầu phát hành thư tín dụng. Người xuất
khẩu căn cứ vào thư tín dụng để giao hàng và lập chứng từ.

+ HĐ giữa người yêu cầu phát hành thư tín dụng và ngân hàng phát

+ Thư tín dụng

5
- Các bên tham gia giao dịch căn cứ vào chứng từ chứ không căn cứ vào hàng hóa

b. Trong phương thức tín dụng chứng từ các bên giao dịch căn cứ vào chứng từ chức không căn
cứ vào hàng hóa:

Bởi quan hệ trong hợp đồng mua bán là quan hệ giữa người bán và người mua còn quan hệ thanh
toán theo thư tín dụng lại phát sinh giữa ngân hàng phát hành với người thụ hưởng thư tín dụng
(người bán). Nếu xảy ra rủi ro thực tế về giao nhận hàng hóa, việc giải quyết sẽ do hai bên mua,
bản thực hiện theo điều kiện của hợp đồng, ngân hàng không phải chịu trách nhiệm về hàng hóa.
Đây chính là một điểm ưu việt mà các phương thức thanh toán quốc tế khác không có nhằm hạn
chế rủi ro đối với các ngân hàng thương mại trong giao dịch bằng tín dụng chứng từ.

Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng tử của ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Letter of Credit-L/C) được cho là phương thức thanh
toán quốc tế an toàn nhất cho người bán và người mua theo đó ngân hàng cam kết thanh toán cho
người bán nếu người bán xuất trình tại ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp với các quy
định của L/C, và người mua được ngân hàng đảm bảo hàng sẽ được giao theo đúng yêu cầu của
người mua thể hiện trong văn bản yêu cầu mở L/C mà người mua gửi cho ngân hàng.

Rủi ro chỉ xảy ra đối với người mua khi người bán làm giả các chứng từ giao hàng mà ngân hàng
không phát hiện ra. Và rủi ro chỉ xảy ra đối với người bán khi người mua cố tình gài bẫy bằng
cách đưa vào các quy định của L/C một hoặc một số yêu cầu mà người bán không thể thực hiện
được.

1.2. Phân loại tín dụng chứng từ

Thư tín dụng thương mại (Letter of Credit. L/C) là một chứng thư (điện hoặc chứng chỉ), trong đó
Ngân hàng phát L/C sẽ cam kết trả tiền cho Người xuất khẩu nếu họ xuất trình được các chứng từ
phù hợp với các điều kiện và điều khoản quy định trong L/C.

Thư tín dụng thương mại hình thành trên cơ sở của hợp đồng cơ sở,nhưng sau khi được phát
hành, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng cơ sở. Đây là tính chất quan trọng của L/C. Tính chất
của L/C được quy định rất chặt chẽ trong UCP 500 1993 ICC “Về bản chất, L|C là những giao
dịch riêng biệt với các hợp đồng mua bán, hoặc các hợp đồng khác mà các hợp đồng này có thể
làm cơ sở của L/C và các Ngân hàng không bị liên can đến, hoặc bị ràng buộc vào các hợp đồng
như thế thậm chí ngay cả trong L/C có bất cứ sự dẫn chiếu nào đến các hợp đồng đó.”

a. Theo hiệu lực cam kết

- Thư tín dụng có thể hủy ngang (Revocable L/c)

6
L/C có thể huỷ bỏ (Revocable L/C) là loại L/C mà sau khi được phát hành thì Ngân hàng phát
hành có quyền sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ nó mà không cần có sự đồng ý của Người hưởng lợi
L/C. L/C loại này là một lời hứa trả tiền không chắc chắn cho Người hưởng lợi. Do đó, nó ít được
giới thương gia sử dụng.

- Thư tín dụng không thể hủy ngang (Irrevocable L/c)

Thư tín dụng không thể huỷ bỏ (irrevocable L/Ct) là loại thư tín dụng sau khi đã được phát hành
thì Ngân hàng phát hành L/C không được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ toàn phần hay từng phần
nội dung trong thời hạn hiệu lực của nó. L/C không thể huỷ bỏ là một sự cam kết trả tiền chắc
chắn của Ngân hàng phát hành đối với Người hưởng lợi L/C. Vì vậy, L/C này được áp dụng rất
phổ biến trong thanh toán Quốc tế.

Khi sử dụng loại L/C không thể huỷ bỏ cần chú ý những điểm sau đây:

- Thư tín dụng không hủy ngang có xác nhận (Confirmed irrevocable L/c)

Thư tín dụng xác nhận (Confirmed L/C) là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ được một Ngân
hàng khác xác nhận trả tiền theo yêu cầu của Ngân hàng phát hành L/C. L/C loại này đã được 2
Ngân hàng cùng cam kết trả tiền cho Người hưởng lợi, do vậy, độ an toàn trong thanh toán của
nó rất cao.

Trong đa số trường hợp, trách nhiệm của Ngân hàng xác nhận giống như Ngân hàng phát hành
L/C, do đó Ngân hàng phát hành L/C phải trả thủ tục phí xác nhận, có khi còn phải đặt cọc tiền
tới 100% trị giá L/C tại Ngân hàng xác nhận (full cash cover).

Ngân hàng xác nhận là một Ngân hàng khác, Ngân hàng này có thể ở nước thứ 3, cũng có thể là
Ngân hàng khác ở nước Người hưởng lợi L/C, trong nhiều trường hợp, có thể ngay là Ngân hàng
thông báo L/C.

Mọi tu chỉnh L/C xác nhận đều phải có sự đồng thuận của Ngân hàng xác nhận thì sự tu chỉnh
mới có giá trị thực hiện.

- Thư tín dụng không hủy ngang miễn truy đòi (Irrevocable without recourse L/c)

Thư tín dụng miễn truy đòi (Irrevocable without recourse L/C) là loại L/C mà sau khi Người
hưởng lợi đã được trả tiền thì Ngân hàng phát hành L/C không còn quyền đòi lại tiền Người
hưởng lợi L/C trong bất cứ trường hợp nào.

7
Khi dùng loại L/C này Người hưởng lợi phải ghi lên hối phiếu câu “Miễn truy đòi lại người kí
phát”, (Without recourse to draw er) và trong L/C cũng phải ghi như vậy. LC miễn truy đòi cũng
er) và trong L/C cũng phải ghi như vậy. L/C miễn truy đòi cũng được sử dụng rộng rãi trong
thanh toán Quốc tế.

b. Theo cách thức thực hiện

- Thư tín dụng có thể chuyển nhượng

Đây là L/C không thể hủy ngang, theo đó người thụ hưởng hiện hành có thể yêu cầu ngân hàng
mở L/C chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện L/C cho một hay nhiều người
khác trong thời gian hiệu lực của thư tín dụng. Thư tín dụng có thể chuyển nhượng chỉ được
chuyển nhượng một lần, chi phí chuyển nhượng do người thụ hưởng đầu tiên chịu, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác. Việc chuyển nhượng chứng từ không có nghĩa là chuyển nhượng hợp đồng
mua bán, người thụ hưởng ban đầu vẫn chịu trách nhiệm về việc thực hiện các nghĩa vụ của mình
đối với người mua theo hợp đồng mua bán.

Thư tín dụng chuyển nhượng (transferable L/C) là thư tín dụng trong đó qui định quyền của
Người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu Ngân hàng phát hành L/C, hoặc là Ngân hàng chỉ định
chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện L/C cho một hay nhiều người khác. L/C
chuyển nhượng chỉ được chuyển nhượng một lần. Chi phí chuyển nhượng thường do Người
hưởng lợi đầu tiên chịu.

Khi sử dụng loại L/C chuyển nhượng cần chú ý những điểm sau đây:

(i) Người hưởng lợi thứ nhất ra lệnh cho Ngân hàng chuyển nhượng L/C bằng Đơn yêu cầu
chuyển nhượng L/C:

- Thư tín dụng không thể chuyển nhượng

Thư tín dụng không thể chuyển nhượng (Nontransferable letter of credit) Trong trường hợp thư
tín dụng không quy định rõ là “transferable" (có thể chuyển nhượng) thì thư tín dụng luôn được
coi là không thể chuyển nhượng. Việc một thư tín dụng không ghi là có thể chuyển nhượng sẽ
không ảnh hưởng tới quyền của người thụ hưởng chuyển nhượng mọi khoản tiền mà mình có thể
có quyền được hưởng theo thư tín dụng (Điều 39 UCP 600).

8
- Thư tín dụng tuần hoàn

Là thư tín dụng không thể huỷ ngang mà sau khi đã sử dụng hết giá trị của nó hoặc đã hết thời
hạn hiệu lực thì nó lại có giá trị như cũ và vẫn tiếp tục được sử dụng một cách tuần hoàn trong
một thời hạn nhất định cho đến khi tổng giá trị hợp đồng được thực hiện. Trong quá trình thanh
toán, L/C tuần hoàn cần ghi rõ ngày hết hiệu lực cuối củng, số lần tuần hoàn của thư tín dụng và
là L/C tuần hoàn có tích lũy hay không. Loại thư tín dụng này thường được dùng khi các bên tin
cậy lẫn nhau, khi mua hàng thưởng xuyên, định kỳ, khối lượng lớn và trong thời hạn dài. Việc sử
dụng thư tín dụng tuần hoàn có những thuận lợi đổi bên mua như không bị ứ đọng vốn, giảm
được chi phí mở L/C nhiều lần. Còn đối với bên bản, họ không phải chờ đợi L/C mới, đồng thời
khi giao hàng có thể nhận được ngay tiền trong cùng một L/C.

- Thư tín dụng dự phòng

Loại thư tín dụng này được sử dụng nhằm bảo đảm quyền lợi cho người mua hàng trước nguy cơ
vi phạm hợp đồng của người bán. Đây loại thư tín dụng được mở theo yêu cầu của người thụ
hưởng, trong đó quy định nghĩa vụ của ngân hàng mở L/C cam kết sẽ thanh toán cho người yêu
cầu mở thư tín dụng số tiền đã đặt cọc, tiền ứng trước... trong trường hợp người thụ hưởng không
hoàn thành nghĩa vụ giao hàng mà L/C đã quy định, cũng như ngân hàng mở L/C sẽ bồi thường
thiệt hại

do mình gây ra cho người mở LC.

- Thư tín dụng giáp lưng

Sau khi nhận được một thư tín dụng (gốc) của ngân hàng phát hành, người thụ hưởng sử dụng thư
tín dụng này để thế chấp mở một thư tín dụng khác cho người thụ hưởng khác hưởng với nội
dung tương tự như thư tin dụng ban đầu, thư tín dụng mở sau gọi là thư tín dụng giáp lưng. Thư
tín dụng giáp lưng không thể chuyển nhượng.

Người hưởng lợi một L/C dùng L/C này như là một tài sản thế chấp để yêu cầu phát hành một
L/C khác cho người hưởng lợi khác hưởng, L/C phát hành sau gọi là L/C giáp lưng.

Về đại thể, L/C gốc và L/C giáp lưng giống nhau, nhưng xét riêng, chúng nó có những điểm cần
phân biệt:

- Hai L/C gốc và giáp lưng là hoàn toàn độc lập với nhau.

9
- Số chứng từ của L/C giáp lưng phải nhiều hơn L/C gốc.

- Kim gạch L/C giáp lưng phải nhỏ hơn L/C gốc, khoản chênh lệnh này do người trung gian
hưởng dùng để chi trả phí mở L/C giáp lưng và phần hoa hồng của họ.

- Thời hạn giao hàng của L/C giáp lưng phải sớm hơn L/C gốc. Nghiệp vụ thư tín dụng giáp lưng
rất phức tạp, nó đòi hỏi phải có sự kết hợp khéo léo và chính xác các điều kiện của L/C gốc với
L/C giáp lưng, nhất là các vấn đề có liên quan đến vận tải và các chứng từ hàng hoá khác.

L/C giáp lưng dùng trong mua bán thông qua trung gian khi mà người trung gian không muốn sử
dụng L/C chuyển nhượng, bởi vì họ không muốn lộ bí mật khách hàng của họ.

- Thư tín dụng đối ứng

Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C) là loại thư tín dụng chỉ bắt đầu có hiệu lực khi thư tín
dụng kia đối ứng với nó đã mở ra. Đây là loại L/C được phát hành theo yêu cầu của người bán
cho người mua thụ hưởng, tương ứng với L/C đã được người mua mở trước đó cho người thụ
hưởng là người bán. Để ràng buộc nghĩa vụ đối ứng người mua và người bán thì L/C được phát
hành cho người bán thụ hưởng (gọi là L/C mở trước) sẽ chỉ có hiệu lực khi nào người bán đã mở
ra một LC đối ứng (gọi là L/C mở sau) cho người mua thụ hưởng. Loại thư tín dụng này thường
được sử dụng trong phương thức hàng đổi hàng và trường hợp nhà cung cấp nguyên liệu và nhà
gia công ở hai nước khác nhau.

Trong L/C ban đầu thường phải ghi: “L/C này chỉ có giá trị khi Người hưởng lợi đã mở lại một
L/C khác đối ứng với nó để cho người mở L/C này hưởng “và trong L/C đối ứng phải ghi câu: “
L/C này đối ứng với L/C số... mở ngày... qua Ngân hàng”.

- Thư tín dụng có điều khoản đỏ

L/C điều khoản đỏ (Red Clause L/C) là loại L/C ứng trước một phần tiền cho Người hưởng lợi
L/C trước khi giao hàng. Ngân hàng phát hành L/C điều khoản đỏ quy định, Người hưởng lợi L/C
trước ngày giao hàng x ngày được quyền ký phát một hối phiếu trơn đòi tiền Ngân hàng phát
hành kèm với một LG của Ngân hàng cam kết hoàn trả tiền ứng trước nếu không thực hiện L/C
điều khoản đỏ, hoặc một L/C dự phòng hoặc một Kỳ phiếu có ký bảo lãnh của Ngân hàng.

Tên của L/C điều khoản đỏ có thể khác nhau, nhưng cùng một nội dung như trên. Ví dụ: Advance
L/C. Anticipatory L/C.v.v... Gọi là “Red Clause L/C” bởi vì trong nội dung L/C có một điều
khoản ứng trước tiền in bằng mực đỏ. Ngày nay, người ta thay điều khoản in bằng mực đỏ bằng
dòng chữ in nghiêng và đậm.

10
c. Theo thời hạn thực hiện

- Thư tín dụng thanh toán ngay

Đây là loại tín dụng chứng từ không hủy ngang mà ngân hàng phát hành L/C

cam kết sẽ thanh toán tiền hàng cho người thụ hưởng, ngay khi nhận được bộ chứng từ phù hợp
với L/C trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng. “Việc thanh toán cho người thụ hưởng được
ngân hàng thực hiện ngay trên cơ sở chứng từ được xuất trình và được kiểm tra”

- Thư tín dụng trả chậm

Thư tín dụng thanh toán dần dần về sau (Deferred payment L/C) là loại thư tín dụng không thể
huỷ bỏ, trong đó Ngân hàng phát hành L/C hay là Ngân hàng xác nhận L/C cam kết với người
hưởng lợi sẽ thanh toán dần dần toàn bộ số tiền của L/C trong những thời hạn qui định rõ trong
L/C đó. Đây là một loại L/C trả chậm từng phần.

- Thư tín dụng thanh toán hỗn hợp

d. Theo phạm vi thực hiện

- Thư tín dụng thanh toán nội địa

Là loại thư tín dụng mà giao dịch thanh toán được xác lập, thực hiện và kết thúc trên lãnh thổ một
quốc gia. Thư tín dụng thanh toán nội địa được sử dụng để thực hiện thanh toán đối với những
hợp đồng mua bán trong nước.

- Thư tín dụng thanh toán quốc tế

Là thư tín dụng mà các bên tham gia quá trình mở, thanh toán thư tín dụng có trụ sở ở các quốc
gia khác nhau. Thư tín dụng thanh toán quốc tế được sử dụng để thực hiện thanh toán đối với hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

Như vậy trên thực tế có nhiều loại tín dụng chứng từ khác nhau. Nhu cầu giao dịch phát sinh
ngày càng đa dạng nên các lại thư tín dụng cũng phải điều chỉnh cho phù hợp, để có thể lựa chọn
một L/C thích hợp cho giao dịch thanh toán của mình, bên yêu cầu mở thư tín dụng cần phải nắm
được các mặt mạnh và hạn chế

của mỗi loại L/C, đồng thời phải xác định được loại L/C nào phù hợp với giao dịch thương mại
của mình để từ đó đề nghị ngân hàng phát hành L/C cho người bán hàng của mình. Tuy nhiên,
ngân hàng có thể làm công tác tư vấn loại thư tín dụng

11
nào bảo vệ họ. Vai trò của ngân hàng tham gia trong phương thức này bắt đầu từ việc tư vấn ký
kết các điều khoản hợp đồng phát hành L/C cho đến khi tất toán. Có như vậy mới có thể sử dụng
LC một cách hiệu quả và tránh được những rủi ro không đáng có.

1.3. Tầm quan trọng của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ trong thương mại quốc
tế

1.4. Nguồn luật điều chỉnh quan hệ thanh toán bằng tín dụng chứng từ

1.5. Quy trình thanh toán bằng tín dụng chứng từ

Thanh toán bằng L/C có thể được áp dụng trong các mối quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế.
Hình thức thanh toán bằng L/C không quy định rõ dành riêng cho những trường hợp nào. Tuy
nhiên cần tuân thủ những điều kiện như sau:

- Các bên có thỏa thuận trong hợp đồng về phương thức thanh toán lập L/C (Điều 8 Thông tư
07/2016/TT-NHNN quy định về bảo lãnh ngân hàng “Các bên tham gia bảo lãnh ngân hàng, bảo
lãnh đối ứng, xác nhận bảo lãnh, đồng bảo lãnh được thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại
theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật các tổ chức tín dụng.”)

- Đủ nguồn vốn đảm bảo thanh toán bằng L/C (việc này sẽ do bên ngân hàng phát hành kiểm tra
điều kiện vốn của bên nhập khẩu) (vì bản chất đây là giao dịch dựa trên quan hệ bảo lãnh nên cần
tuân theo điều kiện nhận bảo lãnh của Ngân hàng tại Điều 10 Thông tư 07/2015/TT-NHNN:

“- Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật.

- Nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ tài chính hợp pháp

- Được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cấp bảo lãnh đánh giá có khả năng
hoàn trả lại số tiền mà tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải trả thay khi thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh.”)

Theo giáo trình thanh toán quốc tế của trường đại học ngoại thương thì khi nhận được L/C nhân
viên phụ trách thanh toán quốc tế phải nghiên cứu hết sức cẩn thận nội dung của L/C đến từng
dấu chấm, dấu phẩy. Sau khi xác định tất cả các quy định của L/C đối với bộ chứng từ thanh
toán, nhân viên phụ trách thanh toán quốc tế phải thông báo đến tất cả các bộ phận khác của công
ty để đảm bảo hợp đồng thuê tầu ký với hãng tầu phù hợp với quy định của L/C, hợp đồng bảo
hiểm, giấy chứng nhận giám định, giấy chứng nhận xuất xứ .v.v. cũng phải phù hợp với các quy
định của L/C. Nếu có bộ phận liên quan phản hồi không thể thực hiện quy định của L/C thì nhân
viên phụ trách thanh toán quốc tế phải báo cáo đề xuất Lãnh đạo yêu cầu khách hàng điều chỉnh

12
L/C. Nếu khách hàng không chấp nhận điều chỉnh L/C thì doanh nghiệp buộc phải từ chối giao
hàng nếu không muốn đối diện với nguy cơ bị từ chối thanh toán.

https://cuuduongthancong.com/pvf/2206481/thanh-toan-quoc-te//checl.pdf

Theo Điều 2 Quy tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ (UCP 600) “Tín dụng chứng từ
(Credit) là một thỏa thuận, dù cho được mô tả hoặc đặt tên như thế nào, không thể hủy bỏ và do
đó là một cam kết chắc chắn của ngân hàng phát hành về việc thanh toán toán cho một xuất trình
phù hợp”. Phương thức thanh toán trên gồm những đặc điểm sau:

Tín dụng chứng từ là một cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành

Tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ là sự phù hợp của các chứng từ, tài liệu so với điều khoản trong tín
dụng chứng từ

Tính độc lập của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ so với hợp đồng thương mại quốc tế

Trong trường hợp Bên bán/Nhà xuất khẩu và Bên mua/Nhà nhập khẩu đã kí kết hợp đồng thương
mại quốc tế, thỏa thuận sử dụng tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán của hợp đồng; quy
trình thanh toán sẽ được thực hiện như sau:

(1) Bên mua với tư cách người yêu cầu, yêu cầu một ngân hàng tại nước mình – ngân hành phát
hành mở thư tín dụng nhằm thanh toán cho Bên bán – người thụ hưởng dựa trên các điều khoản
xác định bởi Bên mua.

(2) Ngân hàng phát hành mở thư tín dụng, bằng các điều khoản trong thư tín dụng, cam kết thanh
toán cho người thụ hưởng với điều kiện bộ chứng từ được xuất trình hợp lệ. Theo điều 14a UCP
600, các ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ của hành vi xuất trình dựa trên cơ sở bề
mặt mặt chứng từ. Bên cạnh đó, Điều 14d cũng khẳng định dữ liệu trên bề mặt chứng từ không
cần thiết phải giống hoàn toàn, nhưng không được mâu thuẫn với dữ liệu của chính nội dung
chứng từ, thư tín dụng và tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế. Hoạt động kiểm tra tính hợp lệ
có thể kéo dài tối đa 5 ngày sau ngày xuất trình.

Nhằm cụ thể hóa các tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ và hạn chế việc xuất trình bị từ chối, ICC đã
ban hành Tập quán Ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế về kiểm tra chứng từ (ISBP). Ngoài UCP, ngân
hàng có thể căn cứ vào ISBP để kiểm tra chứng từ và trích dẫn các điều khoản thích hợp của
ISBP làm cơ sở quyết định thanh toán hay từ chối thanh toán. Hơn nữa, từ năm 2002, nhằm tiến
hành hỗ trợ xuất trình chứng từ điện tử, ICC đã ban hành Bản phụ trương Quy tắc và thực hành
thống nhất tín dụng chứng từ đối với xuất trình chứng từ điện tử theo UCP – eUCP

13
(3) Ngân hàng phát hành mở thư tín dụng bằng cách yêu cầu ngân hàng thông báo – ngân hàng
đại lí của mình gửi thông báo cho người thụ hưởng rằng thư tín dụng đã được mở.

(4) Để tăng tính đảm bảo thanh toán, ngân hàng phát hành có thể yêu cầu một ngân hàng khác bổ
sung sự xác nhận vào thư tín dụng. Theo đó, ngân hàng thực hiện hoạt động này (hay còn gọi là
ngân hàng xác nhận) sẽ cùng với ngân hàng phát hành chịu trách nhiệm về cam kết thanh toán
cho người thụ hưởng.

(5) Trong trường hợp cần thiết, ngân hàng phát hành cũng có thể yêu cầu một ngân hàng chỉ định
thực hiện một số công việc nhất định (giao nhận, kiểm tra bộ chứng từ) trong quy trình thanh toán
bằng tín dụng chứng từ.

(6) Người thụ hưởng chuyển hàng hóa và gửi các chứng từ, hóa đơn tới ngân hàng thông báo
hoặc ngân hàng xác nhận. Nếu bộ chứng từ hợp lệ với các điều khoản của thư tín dụng, ngân
hàng xác nhận sẽ thực hiện cam kết thanh toán như thỏa thuận. Tuy nhiên, trong trường hợp bộ
chứng từ không hợp lệ, ngân hàng có thể từ chối cam kết thanh toán.

(7) Do quy trình thanh toán liên quan tới sự tham gia của nhiều ngân hàng, thủ tục hoàn trả cũng
được điều chỉnh riêng bởi Quy tắc thống nhất về hoàn trả giữa các ngân hàng theo thư tín dụng
(URR) do ICC ban hành bên cạnh Điều 13 UCP 600. Cụ thể, ngân hàng hoàn trả sẽ hành động
theo chỉ thị và ủy quyền hoàn trả của ngân hàng phát hành nhằm thực hiện cam kết thanh toán
cho người thụ hưởng. Ngoài ra, cam kết hoàn trả hoàn toàn độc lập với cam kết thanh toán và các
điều khoản khác trong thu tín dụng (theo Điều 3 URR 725)

(8) Cuối cùng, ngân hàng phát hành sẽ yêu cầu được thanh toán trước khi chuyển giao bộ chứng
từ chứng minh quyền sở hữu cho người yêu cầu (và một số giấy tờ khác nếu có). Nếu Bên mua
không thể thanh toán vì chưa xử lý được hàng hóa, ngân hàng phát hành vẫn có thể giao chứng từ
và giấy tờ liên quan cho người mua theo một biên lai ủy thác (trust-receipt). Cụ thể, người yêu
cầu sẽ nhận được bộ chứng từ và có quyền nhận hàng từ bên vận tải. Tuy nhiên, quyền sở hữu
hàng hóa hợp pháp lại thuộc về ngân hàng. Một khi thủ tục hoàn trả được thực hiện, người yêu
cầu sẽ có quyền sở hữu hàng hóa.

14

You might also like