Professional Documents
Culture Documents
b) Khái niệm về phương thức thanh toán bằng Thư tín dụng
Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng là một sự thỏa thuận, trong
đó một ngân hàng (ngân hàng phát hành thư tín dụng) theo yêu cầu của
khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho
một người khác (người hưởng số tiền của thư tín dụng hoặc chấp nhận hối
phiếu đòi nợ do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này
thực hiện việc xuất trình phù hợp.
Các bên tham gia trong phương thức thanh toán bằng thư tín dụng gồm
có:
- Người yêu cầu (Applicant) phát hành thư tín dụng là người nhập khẩu
hoặc là người nhập khẩu ủy thác cho một người khác.
- Ngân hàng phát hành thư tín dụng (Issuing Bank) là ngân hàng của
người nhập khẩu, nó cấp tín dụng cho người nhập khẩu.
- Ngân hàng yêu cầu (Applicant bank) là chi nhánh của Ngân hàng phát
hành. Ở Việt Nam người yêu cầu thanh phát hành L/C phải thông qua chi
nhánh của Ngân hàng phát hành để đệ đơn yêu cầu phát hành L/C. Ngân
hàng phát hành ủy thác cho chi nhánh của mình thích nhận đơn yêu cầu phát
hành L/C. Chi nhánh này gọi là Ngân hàng yêu cầu .Đây là mấu chốt dẫn đến
sự khác biệt một số thao tác trong quy trình thanh toán tín dụng chứng từ
theo tập quán quốc tế (UCP 600) và theo tập quán của các ngân hàng thương
mại Việt Nam.
- Người hưởng lợi thư tín dụng (Beneficiary) là người xuất khẩu hay bất
cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định.
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng (Advising bank) là ngân hàng đại lý
của Ngân hàng phát hành ở nước người hưởng lợi.
1.1.2. Đặc điểm của phương thức thanh toán bằng Thư tín dụng
– L/C là giao dịch kinh tế hai bên, chỉ giữa ngân hàng phát hành và nhà
xuất khẩu, mọi chỉ thị, yêu cầu của nhà nhập khẩu do ngân hàng phát hành
đại diện.
– L/C độc lập với hợp đồng cơ sở và hàng hóa: L/C thể hiện cam kết
thanh toán của ngân hàng phát hành cho người thụ hưởng khi người này xuất
trình được bộ chứng từ phù hợp, nó hình thành trên cơ sở hợp đồng nhưng
sau đó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng này.
– L/C chỉ giao dịch bằng chứng từ và chỉ thanh toán căn cứ vào chứng
từ: Các ngân hàng chỉ trên cơ sở chứng từ, kiểm tra việc xuất trình để quyết
định xem trên bề mặt chứng từ có tạo thành một xuất trình phù hợp theo yêu
cầu của L/C hay không. Khi chứng từ được xuất trình là phù hợp thì ngân
hàng phát hành phải thanh toán vô điều kiện cho nhà xuất khẩu.
– L/C yêu cầu tuân thủ chặt chẽ của bộ chứng từ: Yêu cầu tuân thủ chặt
chẽ của chứng từ là nguyên tắc cơ bản của giao dịch L/C. Bộ chứng từ phải
tuân thủ chặt chẽ các điều khoản của L/C, bao gồm số loại, số lượng và nội
dung của chúng.
– L/C là công cụ thanh toán, hạn chế rủi ro và đôi khi còn là công cụ từ
chối thanh toán và lừa đảo: Từ bản chất của L/C là chỉ giao dịch bằng chứng
từ và khi kiểm tra lại chỉ xem xét trên bề mặt chứng từ, vì vậy mà L/C có thể bị
lạm dụng thành công cụ từ chối nhận hàng, từ chối thanh toán và là công cụ
để gian lận, lừa đảo.
1.2. Quy trình nghiệp vụ Phương thức thanh toán thư tín dụng theo
tập quán của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
1/ Gửi đơn yêu cầu phát hành thư tín dụng và tiến hành ký quỹ
2/ Phát hành thư tín dụng qua ngân hàng đại lý cho người xuất khẩu
hưởng lợi
3/ Ngân hàng thông báo tiến hành thông báo và chuyển bản gốc thư tín
dụng cho người hưởng lợi
4/ Giao hàng
5/ Xuất trình chứng từ đòi tiền ngân hàng phát hành thư tín dụng
6/ Ngân hàng phát hành thông báo kết quả kiểm tra chứng từ cho người
yêu cầu
7/ Người yêu cầu chấp nhận hay từ chối thanh toán
8/ Ngân hàng phát hành thông báo chấp nhận hay từ chối thanh toán
1.2.1. Quy trình 1: Yêu cầu phát hành thư tín dụng
- Người nhập khẩu cứ vào hợp đồng viết đơn yêu cầu phát hành thư tín
dụng gửi đến ngân hàng chỉ định trong hợp đồng.
- Bản chất pháp lý của đơn yêu cầu phát hành là một loại hợp đồng dịch
vụ ký kết giữa ngân hàng phát hành và người yêu cầu.
- Nội dung của hợp đồng là cơ sở thiết lập đơn yêu cầu phát hành thư tín
dụng
- Người yêu cầu phải ký quỹ phát hành thư tín dụng tại ngân hàng phát
hành.
Có ba hình thức phát hành thư tín dụng do người yêu cầu lựa chọn:
-Phát hành bằng thư
-Phát hành bằng điện
-Phát bằng hỗn hợp: Vừa bằng thư vừa bằng điện
- Kiểm tra bề mặt của chứng từ để quyết định chứng từ thể hiện trên bề
mặt của chúng có tạo thành sự xuất trình phù hợp hay không. Nếu phù
hợp thì thanh toán, nếu xuất trình không phù hợp thì từ chối thanh toán
hay thương lượng thanh toán
- Ngân hàng phát hành không có trách nhiệm kiểm tra hình thức, nội
dung, hiệu lực pháp lý, tính thật giả tính chính xác, sự hoàn bịị của bất
cứ chứng từ nào.
- Ngân hàng phát hành có một thời gian không quá 5 ngày làm việc của
ngân hàng kể từ ngày tiếp theo ngày xuất trình để kiểm tra chứng từ.
Quá hạn đó ngân hàng mất quyền từ chối thanh toán.
- Khi phát hiện chứng từ có sai biệt so với các điều khoản và điều kiện
của thư tín dụng, so với các điều khoản có thể áp dụng của UCP 600
và các quy tắc kiểm tra chứng từ quy định trong tập quán ngân hàng
tiêu chuẩn quốc tế, ngân hàng phát hành:
+ Thông báo không chậm trễ các sai vượt cho người hưởng lợi biết, giữ
chứng từ lại và chờ ý kiến định luật của người hưởng lợi
+ Có thể tranh thủ ý kiến của người yêu cầu bỏ qua về các sai biệt đó
+ Có thể được người hưởng lợi ủy quyền thương thảo về các sai biệt đó
với người yêu cầu
+ Trong trường hợp không thể bỏ qua các sai biệt, ngân hàng phát hành
phải trả lại chứng từ cho người xuất trình chứng từ nếu không sẽ mất
quyền từ chối chứng từ có sai biệt.
1.2.6. Quy trình (6,7,8): Chấp nhận hoặc từ chối thanh toán
Căn cứ vào văn bản trả lời của người yêu cầu chấp nhận hay từ chối
thanh toán, ngân hàng phát hành sẽ tiến hành trả tiền hay từ chối trả tiền bộ
chứng từ của người hưởng lợi xuất trình.