You are on page 1of 21

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

BÀI TẬP NHÓM


(Tài liệu tham khảo )
Pháp luật trong kinh doanh quốc tế
TÊN BÀI TẬP:

UCP-DC & ISBP


NỘI DUNG
Chương 1: THƯ TÍN DỤNG
Chương 2: TỔNG QUÁT VỀ UCP 600 & ISBP 745
Chương 3: TỌA ĐÀM NỘI DUNG CHÍNH CỦA UCP 600

BÀI LÀM
Chương 1: THƯ TÍN DỤNG

I. Khái niệm về phương thức tín dụng chứng từ


Phương thức Tín dụng chứng từ (TDCT) là phương thức thanh toán, trong đó theo yêu
cầu của khách hàng, một ngân hàng sẽ phát hành một bức thư (gọi là thư tín dụng- letter
of credit) cam kết trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu cho một bên thứ ba khi người này
xuất trình cho ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những điều kiện và điều
khoản quy định trong thư tín dụng .
Từ khái niệm trên cho thấy, phương thức tín dụng chứng từ có thể được áp dụng trong
nội thương và ngoại thương. Trong ngoại thương, theo yêu cầu của nhà NK, ngân hàng
phát hành một thư tín dụng cho nhà XK hưởng. Nội dung chủ yếu của thư tín dụng là sự
cam kết của ngân hàng phát hành L/C sẽ trả tiền cho nhà XK khi nhà XK tuân thủ những
điều kiện quy định trong L/C và chuyển bộ chứng từ cho ngân hàng để thanh toán.
Thuật ngữ “tín dụng- credit” ở đây được dùng theo nghĩa rộng, nghĩa là “tín nhiệm”, chứ
không phải để chỉ “một khoản cho vay” theo nghĩa thông thường. Điều này được thể hiện
rõ trong trường hợp khi người NK ký quỹ 100% giá trị của L/C, thì thực chất ngân hàng
không cấp bất cứ một khoản tín dụng nào,mà chỉ cho người NK “vay” sự tín nhiệm của
mình. Ngay cả trong trường hợp nhà NK không hề ký quỹ, thì một khoản tín dụng thực
sự chỉ có thể xảy ra khi ngân hàng phát hành L/C tiến hành trả tiền cho nhà XK và ghi nợ
nhà NK. Như vậy, thuật ngữ “tín dụng” trong phương thức TDCT chỉ thể hiện khoản “tín
dụng trừu tượng” bằng lời hứa trả tiền của ngân hàng thay cho lời hứa trả tiền của nhà
NK, vì ngân hàng có tín nhiệm hơn nhà NK.
Như vậy, trong phương thức TDCT, ngân hàng không chỉ là người trung gian thu hộ, chi
hộ, mà còn là người đại diện cho nhà NK thanh toán tiền hàng cho nhà XK, bảo đảm cho
nhà XK nhận được khoản tiền tương ứng với hàng hoá mà họ đã cung ứng. Đồng thời,
ngân hàng còn là người đảm bảo cho nhà NK nhận được số lượng và chất lượng hàng hoá
phù hợp với bộ chứng từ và số tiền mình bỏ ra.
Rõ ràng là, nhà NK có cơ sở để tin chắc rằng, ngân hàng sẽ không trả tiền trước khi nhà
XK giao hàng, bởi vì điều này đòi hỏi nhà XK phải xuất trình bộ chừng từ gửi
hàng.Trong khi đó, nhà XK tin chắc rằng sẽ nhận được tiền hàng XK nếu anh ta trao cho
ngân hàng phát hành L/C bộ chứng từ đầy đủ và phù hợp theo như qui định trong L/C.

II. Các bên tham gia

1. Người xin mở L/C (Applicant for L/C): là người yêu cầu ngân hàng phục vụ mình
phát hành một L/C, và có trách nhiệm pháp lý về việc trả tiền của ngân hàng cho người
bán theo L/C này. Người xin mở L/C có thể là người mua (buyer), nhà NK (importer),
người mở L/C (opener), người trả tiền (accountee).
2. Người thụ hưởng L/C (Beneficiary): là người được hưởng tiền thanh toán hay sở
hữu hối phiếu chấp nhận thanh toán.Người thụ hưởng L/C có thể có những tên gọi khác
nhau như: người bán (seller), nhà XK (exporter), người ký phát hối phiếu (drawer).
3. Ngân hàng phát hành L/C (Issuing Bank) hay ngân hàng mở L/C (Opening Bank):
là ngân hàng mà theo yêu cầu của người mua, phát hành một L/C cho người bán hưởng.
Ngân hàng phát hành thường được hai bên mua bán thoả thuận và quy định trong hợp
đồng mua bán.
4. Ngân hàng thông báo (Advising Bank): là ngân hàng được ngân hàng phát hành
yêu cầu thông báo L/C cho người thụ hưởng. Ngân hàng thông báo thường là một ngân
hàng đại lý hay một chi nhánh của ngân hàng phát hành ở nước nhà XK.
5. Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): trong trường hợp nhà XK muốn có sự
đảm bảo chắc chắn của thư tín dụng, thì một ngân hàng có thể đứng ra xác nhận L/C theo
yêu cầu của ngân hàng phát hành. Thông thường ngân hàng xác nhận là một ngân hàng
lớn có uy tín và trong nhiều trường hợp ngân hàng thông báo được đề nghị là ngân hàng
xác nhận L/C.
6. Ngân hàng được chỉ định (Nominated Bank): là ngân hàng được ngân hàng phát
hành uỷ nhiệm để khi nhận được bộ chứng từ phù hợp với những qui định trong L/C thì:

• Thanh toán (pay) cho người thụ hưởng


• Chấp nhận (accept) hối phiếu kỳ hạn
• Chiết khấu (negotiate) bộ chứng từ

Trách nhiệm của ngân hàng được chỉ định là giống như ngân hàng phát hành khi nhận
được bộ chứng từ của nhà XK gửi đến.
III. Quy trình nghiệp vụ tín dụng chứng từ
Nội dung và quy trình thực hiện phương thức thanh toán tín dụng chứng từ được mô tả
kết hợp ở sơ đồ dưới đây:

Quy trình thanh toán tín dụng chứng từ


(3)

NH mở L/C (7) NH thông báo L/C


(8)

(2) (11) (10) (9) (6) (4)

(5)

Người nhập khẩu Người xuất khẩu

(1)

(1) Hai bên xuất khẩu và nhập khẩu ký kết hợp đồng thương mại.

(2) Người nhập khẩu làm thủ tục yêu cầu ngân hàng mở L/C cho người xuất khẩu thụ
hưởng.

Muốn mở L/C người nhập khẩu phải trả ngân hàng một khoản phí và phải ký quỹ nhỏ
hơn hoặc bằng giá trị của L/C, mức ký quỹ tùy theo hạn mức mỗi ngân hàng quy định và
mối quan hệ hợp tác, sự tín nhiêm lẫn nhau giữa ngân hàng với nhà nhập khẩu mà người
nhập khẩu có thể được miễn ký quỹ hoặc chỉ ký quỹ một phần trị giá L/C hoặc là phải ký
quỹ 100% trị giá L/C.

Dựa trên cơ sở hợp đồng mua bán, luật áp dụng và UCP 600, khi phát hành L/C cho
người nhập khẩu cần tư vấn cho người nhập khẩu kỹ về các nội dung của L/C như số
lượng và các loại chứng từ, thời hạn giao hàng cụ thể…

Do đó trong bước thứ 2 này thấy rằng người nhập khẩu đã thực hiện nghĩa vụ mở L/C của
mình và sẽ không thể từ chối trả tiền nếu người xuất khẩu hoàn thành đúng nghĩa vụ giao
hàng và cung cấp chứng từ đúng theo yêu cầu L/C.
(3) Ngân hàng mở L/C mở L/C theo đúng yêu cầu của người nhập khẩu và chuyển L/C
sang ngân hàng thông báo để báo cho người xuất khẩu biết về việc thư tín dụng đã được
mở.

(4) Ngân hàng thông báo L/C thông báo cho người xuất khẩu biết rằng L/C đã mở và khi
nhận được bản gốc của thư tín dụng thì chuyển ngay cho người xuất khẩu.

(5) Dựa vào L/C, người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng đó thì tiến hành giao hàng,
còn nếu không thì tiến hành đề nghị ngân hàng phát hành L/C sửa đổi , bổ sung, điều
chỉnh thư tín dụng cho phù hợp với hợp đồng.

(6) Người xuất khẩu sau khi giao hàng lập bộ chứng từ thanh toán gửi vào ngân hàng
thông báo để được thanh toán.

(7) Ngân hàng thông báo chuyển bộ chứng từ thanh toán sang ngân hàng mở L/C xem xét
trả tiền.

(8) Ngân hàng mở L/C sau khi kiểm tra chứng từ nếu thấy phù hợp thư tín dụng thì tiến
hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu không phù hợp thì từ chối thanh toán và gửi trả
lại toàn bộ chứng từ cho người xuất khẩu (tuy nhiên nếu người nhập khẩu chấp nhận
thanh toán thì ngân hàng phát hành thư tín dụng vẫn thanh toán và trừ phí sai sót của bộ
chứng từ)

(9) Ngân hàng thông báo ghi có và báo có cho người xuất khẩu

(10) Ngân hàng mở L/C trích tài khoản và báo nợ cho người nhập khẩu

(11) Người nhập khẩu xem xét chấp nhận trả tiền và ngân hàng mở L/C trao bộ chứng từ
để người nhập khẩu có thể nhận hàng.

Thông qua nội dung và quy trình các bước tiến hành phương thức tín dụng chứng từ như
đã mô tả trên đây, chúng ta thấy rằng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đảm bảo
quyền lợi cho nhà xuất khẩu trong việc được ngân hàng đứng ra cam kết trả tiền còn đối
với nhà nhập khẩu thì được ngân hàng đứng ra xem xét, kiểm tra bộ chứng từ nhằm đảm
bảo cho bên nhập khẩu nhận đủ hàng, đúng thời hạn giao hàng và chính xác hàng hóa đặt
mua trước khi trả tiền.

Trong thực tiễn thanh toán quốc tế, đôi khi cũng xảy ra một số trường hợp không hoàn
toàn giống như quy trình trên. Ví dụ, hàng đã về nhưng nhà nhập khẩu chưa nhận được
bộ chứng từ, trong trường hợp này nếu muốn nhận hàng ngay nhà nhập khẩu phải làm thế
nào? Họ phải thực hiện cam kết đối tịch với ngân hàng rằng sẽ thanh toán vô điều kiện dù
chứng từ có khác biệt. Ngân hàng sẽ bằng sự tín nhiệm của mình đề nghị đại lý tàu biển
giao hàng cho người nhập khẩu dù chưa có vận đơn gốc và cam kết chịu trách nhiệm về điều
đó. Khi ngân hàng nhận được bộ chứng từ, ngân hàng tiến hành ký hậu vận đơn, người nhập
khẩu sẽ mang vận đơn tới đại lý tàu biển đổi lấy cam kết đối tịch để hủy cam kết đó.

Trong phương thức này, ngân hàng đóng vai trò chủ động trong thanh toán chứ không chỉ
làm trung gian đơn thuần như những phương thức thanh toán khác. Để hiểu rõ về phương
thức này và các ưu điểm nổi bật của nó, sau đây chúng ta sẽ phân tích cụ thể các loại thư
tín dụng chủ yếu.

IV. UCP - Văn bản pháp lý quốc tế điều chỉnh phương thức TDCT
Khi thanh toán bằng phương thức TDCT, các bên XNK phải thoả thuận với nhau về việc
sử dụng UCP. UCP (The Uniform Customs and Practice for Documentary credit) là bản
quy tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ do Phòng thương mại quốc tế
(ICC) tại Pari công bố lần đầu tiên vào năm 1933. Từ đó đến nay UCP đã qua 6 lần sửa
đổi, bổ sung vào các năm 1951, 1962, 1974, 1983, 1993, 2007 và có hiệu lực áp dụng từ
01/07/2007.
UCP đã được hơn 175 nước áp dụng trong đó có Việt Nam. Khác với luật quốc gia hay
công ước quốc tế, UCP không tự động áp dụng để điều chỉnh hoạt động thanh toán TDCT
mà mang tính chất pháp lý tuỳ ý. Các bên tham gia có quyền lựa chọn có hay không dùng
UCP để điều chỉnh hoạt động thanh toán TDCT. Nhưng một khi các bên đã đồng ý áp
dụng UCP thì các điều khoản áp dụng của UCP sẽ ràng buộc nghĩa vụ và trách nhiệm của
các bên tham gia.
Một điểm cần lưu ý là UCP ban hành sau không phủ nhận các nội dung của UCP trước
đó. Do đó các bên có thể thoả thuận lựa chọn một UCP nào đó, nhưng điều quy định bắt
buộc là phải dẫn chiếu nó trong L/C. Chỉ UCP bản gốc bằng tiếng Anh mới có giá trị
pháp lý giải quyết các tranh chấp, các bản dịch khác chỉ có giá trị tham khảo.
Hiện nay, UCP bản sửa đổi năm 2007 số 600 được coi là hoàn chỉnh nhất và ngày càng
được nhiều ngân hàng của các nước thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong thanh toán quốc
tế. UCP 600 thực sự được coi là cẩm nang cho nghiệp vụ tín dụng chứng từ.
V. ISBP
ISBP là từ viết tắt tiếng Anh "International Standard Banking Practice for the
Examination of Documents Under Documentary Credits", tiếng Việt gọi là "Tập quán
ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế dùng để kiểm tra chứng từ trong phương thức tín dụng
chứng từ" dùng để kiểm tra chứng từ theo thư tín dụng phiên bản số 681, do ICC ban
hành năm 2007.
Văn kiện này ra đời nhằm cụ thể hóa những quy định của UCP600, thể hiện sự nhất quán
với UCP cũng như các quan điểm và các quyết định của ủy Ban Ngân Hàng của ICC.
Văn bản này không sửa đổi UCP, mà chỉ giải thích rõ ràng cách thực hiện UCP đối với
những người làm thực tế liên quan đến tín dụng chứng từ.

VI. Thư tín dụng (L/C) - Công cụ quan trọng của phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ
Thư tín dụng là một bản cam kết trả tiền do NH phát hành (NH mở L/C) mở theo chỉ thị
của người NK (người yêu cầu mở L/C), để trả một số tiền nhất định cho người XK (người
thụ hưởng) với điều kiện người đó phải thực hiện đầy đủ những quy định trong L/C.
Thư tín dụng có tính chất quan trọng vì tuy được hình thành trên cơ sở hợp đồng ngoại
thương nhưng sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng này. Một khi
L/C đã được mở và được các bên chấp nhận thì cho dù nội dung của L/C có đúng với hợp
đồng ngoại thương hay không cũng không làm thay đổi quyền lợi và nghĩa vụ và của các
bên có liên quan. Có nghĩa là khi thanh toán ngân hàng chỉ căn cứ vào bộ chứng từ, khi
nhà XK xuất trình bộ chứng từ phù hợp về mặt hình thức với những điều khoản quy định
trong L/C thì ngân hàng phát hành L/C phải trả tiền vô điều kiện cho nhà XK.
Như vậy, việc thanh toán L/C không hề căn cứ vào tình hình thực tế của hàng hoá, NH
cũng không có nghĩa vụ xem xét việc giao hàng hoá thực tế có khớp đúng với chứng từ
hay không mà chỉ căn cứ vào chứng từ do người bán xuất trình, nếu thấy các chứng từ đó
bề mặt phù hợp với các điều kiện của L/C thì trả tiền cho người bán.
Chính những tính chất quan trọng của L/C khiến cho phương thức thanh toán TDCT mau
chóng trở thành phương thức thanh toán hữu hiệu đặc biệt trong ngoại thương.
Chương 2: KHÁI QUÁT VỀ UCP 600 & ISBP 745
Phần 1 : UCP 600
I. Khái niệm và lịch sử ra đời
1. Khái niệm về UCP600
UCP là viết tắt của “The Uniform Custom and Practice for Documentary Credit”
(Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ), là ấn phẩm của phòng thương mại
quốc tế (International Chambel of Commerce - ICC). Trong đó quy định quyền hạn của
các bên liên quan trong giao dịch tín dụng chứng từ, nhằm đáp ứng nhu cầu của giới tài
chính, ngân hàng cũng như các doanh nghiệp, các nhà xuất nhập khẩu về một văn bản
quy định đầy đủ, dễ áp dụng và được chấp nhận một cách thống nhất trong việc mở và xử
lý một thư tín dụng (Letter of Credit – L/C).

UCP600 là Bản quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ mới, thay thế cho
Bản quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ cũ (UCP500), đây là bản sửa đổi
lần thứ sáu của ICC sau 3 năm soạn thảo và chỉnh lý. UCP600 chính thức có hiệu lực từ
ngày 1 tháng 7 năm 2007. Điểm mới của UCP600 là quy định cụ thể và chi tiết nghĩa vụ,
trách nhiệm của ngân hàng tham gia thanh toán và trách nhiệm của các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu; giúp hoạt động xuất nhập khẩu thuận tiện hơn.

2. Khái quát về sự ra đời và phát triển của UCP600


2.1. Sự ra đời và phát triển của UCP
Để hiểu rõ hơn về nguồn gốc và quá trình ra đời và phát triển của UCP, trước hết chúng
ta cần tìm hiểu về cơ quan ban hành ra Bản quy tắc thực hành này, đó là phòng thương
mại quốc tế ICC.

Phòng thương mại quốc tế (ICC) là hiệp hội các tổ chức quốc gia của giới kinh
doanh ở các nước trên thế giới nhằm thúc đẩy và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại
giữa các nước với nhau, được thành lập năm 1920 theo sáng kiến của giới thương mại, tài
chính, bảo hiểm của các nước Mỹ, Anh, Pháp, Bỉ, Italia và là một tổ chức không thuộc
chính phủ.

Trụ sở của phòng thương mại quốc tế đặt ở 38 Cours Albert 1er 75008 Paris – Pháp.
Hiện nay, số hội viên của phòng thương mại quốc tế là rất lớn và nằm tại trên 100 nước
trên thế giới. Với vai trò xúc tiến các hoạt động thương mại trong tất cả các lĩnh vực quan
trọng trong đó có lĩnh vực quan hệ buôn bán quốc tế, ngoài ra phòng thương mại quốc tế
còn tạo ra một trật tự kinh tế công bằng và tự do trên phạm vi quốc tế nhằm mục đích duy
trì và phát triển thương mại quốc tế trên tất cả các lĩnh vực.

Phòng thương mại quốc tế đã ban hành các bản điều lệ, quy tắc, tập quán…nhằm
tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tài chính, thương mại. Điển hình phải kể đến
Điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms), Quy tắc thống nhất về nhờ thu (Uniform
Rules for Collections), Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ “The Uniform
Custom and Practice for Documentary Credit), Quy tắc thống nhất về bảo lãnh hợp đồng
(Uniforrm Rules for Contract Guarrantee). Các văn bản luật này do các ủy ban chuyên
môn soạn thảo rồi được phòng thương mại quốc tế thông qua và để phù hợp với sự thay
đổi phát triển từng ngày của nền kinh tế thế giới, các văn bản này thường xuyên được
hiệu chỉnh, sửa đổi, bổ sung, thay thế bởi các văn bản mới thích ứng với điều kiện thực
tế.

Xuất phát từ đòi hỏi phải có những quy định chính xác, rõ ràng để kiểm tra và xử lý
chứng từ trong hoạt động thanh toán quốc tế với phương thức tín dụng chứng từ, năm
1933, lần đầu tiên Phòng thương mại quốc tế (ICC) ban hành một Bản quy tắc và thực
hành thống nhất về tín dụng chứng từ (The Uniform Custom and Practice for
Documentary Credit, gọi tắt là UCP). Cơ quan soạn thảo UCP là uỷ ban Ngân hàng
(Banking Commission) gồm những nhà hoạt động ngân hàng có kinh nghiệm trên khắp
thế giới, mục đích chính của UCP là khắc phục các xung đột về luật điều chỉnh tín dụng
chứng từ giữa các quốc gia, hạn chế các tranh chấp phát sinh trong quá trình thanh toán
bằng phương thức tín dụng chứng từ, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển và ổn
định.

2.2. Sự ra đời và phát triển của UCP600


Để đáp ứng tình hình kinh tế luôn biến động, kể từ khi công bố UCP đầu tiên năm
1933, Phòng thương mại quốc tế (ICC) đã tiến hành sửa đổi 5 lần vào các năm 1951,
1962, 1974, 1983, 1993.

Lần sửa đổi lần thứ ba của UCP (UCP 290 - 1974) đánh dấu một bước ngoặt lớn
trong việc tạo ra những thay đổi chứng từ và thủ tục. Những thay đổi này là để phù hợp
với sự phát triển của cuộc cách mạng trong vận tải đường biển, trong đó phải kể đến cuộc
cách mạng “container hoá” đang trong giai đoạn ngày càng hoàn thiện hơn về kỹ thuật, tổ
chức quản lý, đạt kết quả kinh tế cao và sự phát triển của vận tải đa phương thức.

Tiếp theo là bản sửa đổi UCP400 (1983), ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn
thương mại quốc tế:
• Thời kỳ từ năm 1981 cho đến những năm gần đây đươc xem là giai đoạn hoàn
thiện và phát triển theo chiều sâu của hệ thống vận tải container, là thời kỳ container
được sử dụng ngày càng rộng rãi trong vận tải đa phương thức.
• Sự phát triển các chứng từ mới và các phương thức phát hành chứng từ mới để hỗ
trợ cho các hoạt động buôn bán
• Cuộc cách mạng thông tin liên lạc đánh dấu sự ra đời một loại truyền tải thông tin
mới đó là giao dịch thương mại bằng các phương thức xử lý dữ liệu điện tử (Electronic
data processing EDP)
• Sự phát triển của các loại thư tín dụng mới, như thư tín dụng trả chậm và thư tín
dụng dự phòng.
Bản sửa đổi UCP500 (1993) là kết quả của 5 năm nghiên cứu của các chuyên gia và
uỷ ban quốc gia của ICC. Lần sửa đổi này ngoài mục đích chính là để đáp ứng được sự
phát triển mới trong công nghiệp vận tải và những ứng dụng công nghệ mới còn xuất phát
từ bất cập phần lớn chứng từ xuất trình bị từ chối do không phù hợp với thư tín dụng.

UCP500 bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1994. Để đáp ứng sự phát triển mạnh mẽ
của thương mại điện tử, thanh toán quốc tế cũng phải thay đổi để phù hợp với xu thế phát
triển đó. Do đó, UCP được bổ sung thêm phần về thanh toán điện tử hay gọi là eUCP và
có hiệu lực từ ngày 01/04/2002.

Tuy nhiên, ngay khi công việc xem xét lại được tiến hành, thông qua một số kết quả
điều tra toàn cầu, uỷ ban Kỹ thuật và Nghiệp vụ ngân hàng nhận thấy có tới khoảng 70%
chứng từ xuất trình theo tín dụng thư đã bị từ chối ở lần xuất trình đầu tiên vì có sai sót.
Điều này sẽ làm cho chi phí tăng lên do các trường hợp phải chịu phí chứng từ bất hợp lệ
gia tăng và quan trọng hơn là những sai sót chứng từ lại tỏ ra không mấy rõ ràng, làm ảnh
hưởng không tốt tới phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, vốn dĩ là phương thức
thanh toán quốc tế có nhiều ưu điểm. Do đó, vào tháng 5 năm 2003, phòng thương mại
quốc tế (ICC) đã uỷ quyền cho uỷ ban Kỹ thuật và nghiệp vụ Ngân hàng (ICC
Commission on Banking Technique and Practice) bắt đầu xem xét lại UCP500 để có thể
có những sửa đổi cần thiết đáp ứng với tình hình thực tiễn mới.
Cũng như những lần sửa đổi trước đây, mục đích chính của lần sửa đổi lần này là để
đáp ứng được sự phát triển mới trong hoạt động ngân hàng, vận tải, bảo hiểm. Sau 3 năm
soạn thảo và chỉnh lý, ngày 25 tháng 10 năm 2006, ICC đã thông qua Bản quy tắc thực
hành thống nhất về tín dụng chứng từ số 600 (UCP600), có hiệu lực từ ngày 01/07/2007.

3. Vai trò của UCP600 trong việc điều chỉnh phương thức tín dụng chứng từ
3.1. UCP600 xác định quyền lợi và nghĩa vụ của ngân hàng trong khuôn khổ thư tín
dụng
Sự ra đời của UCP đã đánh dấu một bước đột phá mới trong nghiệp vụ thanh toán
quốc tế, bởi UCP là cơ sở pháp lý duy nhất quy định một cách cụ thể trách nhiệm của các
bên tham gia phương thức tín dụng chứng từ, mà chú trọng nhất là trách nhiệm của ngân
hàng.

UCP600 khẳng định bản chất của thư tín dụng là một cam kết thanh toán có điều kiện của
Ngân hàng phát hành bằng việc quy định trách nhiệm của ngân hàng phát hành trong
điều 7 như đã phân tích ở trên. Điều đó cũng có nghĩa là ngân hàng phát hành có quyền
từ chối trong trường hợp bộ chứng từ xuất trình có sai sót. Mặt khác, ngân hàng xác nhận
với tư cách là ngân hàng thứ 3 đứng ra chịu trách nhiệm trả tiền thay cho ngân hàng phát
hành nếu ngân hàng phát hành không có khả năng thanh toán. UCP600 cũng quy định rõ
trách nhiệm của các ngân hàng có liên quan khác như ngân hàng thông báo, ngân hàng
thương lượng thanh toán, ngân hàng hoàn trả…Trách nhiệm của ngân hàng nói chung là
làm thế nào để phương thức thanh toán tín dụng chứng từ được vận hành an toàn và suôn
sẽ. Ngân hàng làm việc chỉ dựa trên cơ sở bộ chứng từ xuất trình mà không quan tâm tới
hợp đồng nên đây cũng là căn cứ duy nhất để ngân hàng xem xét đồng ý hay từ chối trả
tiền cho người hưởng lợi hay là để người nhập khẩu đồng ý hay từ chối trả tiền cho ngân
hàng. Do đó, trong phương thức tín dụng chứng từ, bộ chứng từ đóng vai trò vô cùng
quan trọng vì nó tượng trưng cho giá trị hàng hoá.

Bằng việc quy định rõ quyền, nghĩa vụ cảu các ngân hàng tham gia vào quy trình tín
dụng chứng từ. UCP600 đã đảm bảo chắc chắn cam kết thanh toán của ngân hàng đối với
người xuất khẩu, tạo lòng tin cho người xuất khẩu trong giao dịch mua bán ngoại thương.
Từ đó, thúc đẩy góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế phát triển.

3.2. UCP600 là nguồn luật cơ sở để xây dựng các điều khoản chính cho thư tín dụng
chứng từ
UCP600 quy định cụ thể về tiêu chuẩn lập các loại chứng từ như chứng từ thương
mại, chứng từ vận tải, chứng từ bảo hiểm,…Nội dung của các loại chứng từ này thể hiện
rõ trách nhiệm của người xuất khẩu trong việc giao hàng đúng hạn và đúng địa điểm đã
thoả thuận (Bill of lading), đảm bảo cung cấp đúng loại hàng hoá (Invoice), bồi thường
rủi ro (Insurance), theo đúng chất lượng, số lượng đã thoả thuận (Certificate of Quality,
Certificate of Quantity), đúng nguồn gốc xuất xứ (Certificate of Origin) và các trách
nhiệm khác. Nếu theo đúng các điều khoản quy định trong UCP600, các ngân hàng có thể
tư vấn cho người nhập khẩu đưa vào nội dung thư tín dụng những điều khoản buộc người
xuất khẩu phải tuân thủ miễn sao nó không mâu thuẩn với các điều khoản của hợp đồng
đã ký giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu.

3.3. UCP600 là tiêu chí chung cho việc kiểm tra bộ chứng từ
Trên cơ sở các quy định của UCP600, người nhập khẩu đã đưa vào nội dung L/C
những yêu cầu đối với hàng hoá và những yêu cầu bắt buộc người xuất khẩu phải thực
hiện thông qua việc xuất trình bộ chứng từ gồm những chứng từ và văn bản pháp lý nhất
định. Người xuất khẩu, để được ngân hàng thanh toán tiền hàng, sẽ phải lập các chứng từ
với nội dung sao cho thể hiện rõ mình đã hoàn thành mọi yêu cầu mà người nhập khẩu
đưa ra. Chính vì vậy, ki kiểm tra chứng từ xuất trình, ngân hàng không chỉ dựa trên L/C
mà còn phải dựa trên UCP để xác định chứng từ có tuân thủ đúng các quy định của
UCP600 hay không. Nếu bộ chứng từ người xuất trình có sai sót thì ngân hàng phải lập
tức thông báo và yêu cầu người xuất khẩu sửa đổi cho phù hợp.

Trước khi UCP ra đời, các ngân hàng thuộc các nước khác nhau phải áp dụng luật
thương mại của nước mình để điều chỉnh các quan hệ trong thanh toán quốc tế nói chung
và thanh toán quốc tế nói riêng. Điều này đã dẫn đến các mâu thuẩn, tranh chấp, xung đột
xảy ra trong thực tiễn sử dụng phương thức tín dụng chứng từ mang tính quốc tế. Điều
này dễ hiểu vì mỗi nước có các nguồn pháp lý khác nhau theo cơ chế chính trị, kinh tế, xã
hội của mỗi nước. Hơn nữa, phương thức tín dụng chứng từ là một quy trình phức tạp đòi
hỏi phải tiến hành một cách chặt chẽ. Vì vậy, chỉ từ khi UCP ra đời thì các vấn đề nêu
trên mới được giải quyết. UCP ra đời với mục đích chính là tinh lược thực tiễn ngân hàng
quốc tế nhằm tiêu chuẩn hoá các thực tiễn chung đang áp dụng

3.4. UCP600 góp phần thúc đẩy hoạt động tín dụng chứng từ tại các ngân hàng ngày
càng thuận tiện và phát triển hơn
Hiện nay, tất cả các ngân hàng kiểm tra chứng từ xuất trình dựa trên các nguyên tắc
của UCP600, và đương nhiên mọi tranh chấp phát sinh cũng được điều chỉnh theo
UCP600. Hơn nữa, là ấn bản mới nhất được sửa đổi dựa trên sự đông thuận của các
chuyên gia tài chính – ngân hàng nên UCP600 giúp cho hoạt động ngân hàng được thuân
tiện hơn, giúp cho hoạt động thanh toán quốc tế nhanh gọn và chuyên nghiệp. Dưới sự
điều chỉnh của UCP600, hoạt động ngân hàng được thống nhất trên phạm vi thế giới,
cùng với sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật tiên tiến, tốc độ xử lý giao dịch được đẩy nhanh,
đáp ứng nhu cầu về đẩy nhanh hoạt động thương mại (trong đó có thanh toán quốc tế).

Ngoài ra, chính UCP cũng hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho
họ trong việc lập các chứng từ thương mại, góp phần thúc đẩy tốc độ hoạt động thương
mại, tốc độ hội nhập toàn cầu của bản thân từng doanh nghiệp và qua đó thúc đẩy hoạt
động thương mại phát triển thịnh vượng.

4. Vai trò của UCP 600 đối với các bên tham gia

Đối với ngân hàng


1. Có cơ sở chung để hành động nhất quán
▪ Khi đóng vai trò phát hành L/C.
▪ Khi đóng vai trò ngân hàng thông báo.
▪ Ngân hàng chiết khấu.
▪ Ngân hàng xác nhận.
Ngân hàng phải làm gì? Thực hiện các chức năng nào?
2. Tăng cường mối quan hệ và hiểu biết giữa ngân hàng và khách hàng vì trong UCP-DC
chỉ dẫn rõ các nhiệm vụ, chức năng của từng bên.
3. Nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng. Nhờ đó mà giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng
khi tổ chức thanh toán qua phương thức L/C, vì trong L/C chỉ dẫn rõ cách thức xử lý các
chứng từ có liên quan đến thanh toán.
4. UCP-DC là cẩm nang hướng dẫn mà ngân hàng dựa vào đó để dịch vụ khách hàng tốt
nhất.
5. UCP-DC được xem như là một một căn cứ pháp lý (khi UCP được dẫn chiếu trong
L/C) giúp mau chóng tháo gỡ và giải quyết tranh chấp (nếu có) có liên quan đến ngân
hàng.
Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu
1. UCP-DC là tài liệu hỗ trợ cho doanh nghiệp giám sát các dịch vụ của ngân hàng
đ/v mình.
2. UCP-DC là căn cứ để DN khiếu nại; kiện (nếu có) đối với ngân hàng nếu như các
nơi này không thực hiện đúng các chỉ dẫn của UCP-DC, gây thiệt hại cho DN.
3. UCP-DC là cẩm nang giúp các DN xuất khẩu, nhập khẩu thực hiện tốt các nhiệm
vụ của mình có liên quan đến thanh toán L/C: xin mở L/C; lập và tham gia kiểm
tra BCT thanh toán.
II . 6 chú ý quan trọng khi áp dụng UCP
1. UCP đã có trên 160 nước công nhận và tuyên bố áp dụng. Tuy nhiên, không mang
tính chất bắt buộc phải áp dụng. Nếu áp dụng UCP thì phải dẫn chiếu điều ấy
trong thư tín dụng của mình.
2. UCP đã 6 lần sửa đổi, nhưng các bản sau không huỷ bỏ các bản trước, nên đều có
giá trị thực hành thanh toán quốc tế. Việc áp dụng UCP nào là do ý nguyện của
các bên quyết dịnh và nhất thiết phải dẫn chiếu vào nội dung của thư tín dụng là áp
dụng UCP số hiệu nào.
3. Việc dẫn chiếu UCP không buộc các bên phải có nghĩa vụ thực hiện theo đúng
từng điều quy định của UCP. Nếu các bên thống nhất có quyết định khác thì phải
ghi rõ trong L/C và có giá trị pháp lí ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ của các
bên tham gia.
4. Chỉ UCP bản gốc bằng tiếng Anh do ICC phát hành mới có giá trị pháp lí giải
quyết các tranh chấp phát sinh giữa các bên tham gia thanh toán L/C. Các loại bản
dịch sang tiếng các nước chỉ mang giá trị tham khảo.
5. UCP chỉ áp dụng trong thanh toán quốc tế, không áp dụng trong thanh toán nội
địa.
6. UCP không phải là văn bản duy nhất điều tiết phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ.
Phần 2 : ISBP
I . Khái niệm và lịch sử ra đời ISBP
1. Khái niệm
• ISBP là Tập quán Ngân hàng theo tiêu chuẩn Quốc tế áp dụng cho việc
Kiểm tra Chứng từ trong Phương thức Tín dụng.
• ISBP là một tài liệu bổ sung mang tính thực tiễn cho UCP.
• ISBP không sửa đổi UCP mà chỉ giải thích chi tiết rõ ràng làm thế nào
những quy tắc này được áp dụng trong giao dịch hàng ngày
2. Sự ra đời
• Khi mà hơn 70% Chứng từ xuất trình đòi tiền theo L/C bị từ chối thanh
toán và UCP bao gồm những điều khoản rất cơ bản, ngắn gọn chứa những
điều khoản tiêu chuẩn L/C , điều này dẫn đến xảy ra nhiều sự tranh chấp
không cần thiết . từ đó ICC thấy cần thiết ban hành một tập quán quốc tế để
diễn giải và hướng dẫn áp dụng các điều khoản của UCP. Đó chính là bản
quy tắc Tập quán Ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế để kiểm tra chứng từ trong
phương thức tín dụng chứng từ (ISBP)
• ISBP đầu tiên ra đời năm 2002 mang số hiệu 645 áp dụng cho việc kiểm tra
chứng từ theo tín dụng chứng từ đã tạo ra một hành lang pháp lý cho các
ngân hàng kiểm tra chứng từ theo L/C, nhờ đó đã giảm thiểu rất nhiều các
tranh chấp.
• Từ đó đến nay ISBP đã trải qua 3 lần sửa đổi bổ sung :
o Năm 2002: ISBP 645
o Năm 2007: ISBP 681
o Năm 2013: ISBP 745
II . Mối quan hệ giữa UCP 600 và ISBP 745
• ISBP 745 và UCP 600 2007 có mối quan hệ gắn liền và không tách rời.
• Khẳng định rằng ISBP 745 2013 đã tạo ra một “hành lang pháp lý” để các
ngân hàng kiểm tra chứng từ xuất trình theo L/C tuân thủ UCP 600 2007
• Mục đích của ISBP 745
• diễn giải và hướng dẫn áp dụng các điều khoản của UCP 600, trong phạm
vi của các điều khoản và điều kiện của thư tín dụng hoặc bất cứ các sửa đổi
thư tín dụng kèm theo.
• Bất cứ điều gì trong tín dụng chứng từ làm ảnh hưởng đến việc áp dụng
UCP đều có thể ảnh hưởng đến ISBP.
III. Lưu ý khi sử dụng ISBP 745
• Nên dẫn chiếu áp dụng UCP 600 và cả ISBP 745 ICC khi phát hành thư tín
dụng.
• Điểm chưa tiến bộ của ISBP 681 là chưa có điều khoản về sự không tách
rời giữa UCP 600 và ISBP 681.
• ISBP 745 đã khắc phục bằng cách đưa vào mục phạm vi sử dụng (Scope of
Publication) sự không thể tách rời của ISBP 745 và UCP 600. Tuy nhiên
có một số điều luật còn đang tranh cãi
Chương 3: TỌA ĐÀM NỘI DUNG CHÍNH CỦA UCP 600
1/ Sau ngày 1/7/2007, các phiên bản UCP trước đó còn được áp dụng trong giao dịch
thanh toán qua phương thức L/C hay không?
Vẫn được áp dụng nếu như trong L/C dẫn chiếu là áp dụng UCP đó. Vì theo điều 1 UCP
600 thì UCP 600 là những điều luật áp dụng cho tất cả các tín dụng chứng từ ( kể cả Thư
tín dụng dự phòng trong chừng mực bản quy tắc có thể áp dụng được) khi nội dung của
Thư tín dụng ghi rõ nó tuân theo bản quy tắc này. Có nghĩa là: L/C chỉ áp dụng UCP 600
khi trong L/C ghi rõ tham chiếu UCP 600. Khi một phiên bản UCP mới ra đời thì các
phiên bản UCP trước đó vẫn còn nguyên giá trị hiệu lực nếu các bên thỏa thuận áp dụng
UCP đó. Vì xét cho cùng thì UCP vẫn chỉ là một tập quán quốc tế. Sự ra đời của một bản
UCP chỉ mang tính chất bổ sung, hoàn thiện những bản trước đó. Vì vậy nếu L/C dẫn
chiếu là UCP nào thì sẽ áp dụng UCP đó. Ví dụ như LC dẫn chiếu là theo UCP 500 thì sẽ
áp dụng theo UCP 500. Nhưng theo xu thế hiện đại, người ta chuyển sang dung UCP 600
ngày càng nhiều vì tính hoàn thiện của nó so với các bản trước.
2/ Nếu một bức L/C quy định áp dụng UCP 600 và kèm theo yêu cầu “ngoại trừ
điều…về…” bức L/C như trên có được chấp nhận hay ko?

Vẫn được chấp nhận. Vì theo điều 1 UCP 600 thì “ Bản quy tắc ràng buộc tất cả các bên
trừ khi Thư tín dụng quy định khác hay loại trừ bớt” có nghĩa là khi bức L/C dẫn chiếu là
áp dụng UCP 600 nhưng có thể loại trừ một số điều khoản cho phù hợp với lợi ích của
các bên liên quan hay theo yêu cầu của bên nào đó.

3/ Trường hợp thanh toán nào sau đây đc thanh toán đúng hạn?

a) Chấp nhận thanh toán nếu L/C có giá trị trả ngay

b) Cam kết trả sau nếu L/C có giá trị trả sau

c) Chấp nhận hối phiếu do người thụ hưởng kí phát và trả tiền vào ngày đáo hạn nếu
L/C có giá trị chấp nhận
C: chấp nhận hối phiếu do người thụ hưởng ký phát và trả tiền vào ngày đáo hạn nếu LC
có giá trị chấp nhận. Vì theo điều 2 UCP 600 Thanh toán ( đúng hạn ) nghĩa là : Trả ngay
nếu Thư tín dụng có giá trị trả ngay. Cam kết trả sau và trả tiền đúng ngày đến hạn thanh
toán nếu Thư tín dụng có giá trị trả sau. Chấp nhận hối phiếu do người thụ hưởng ký phát
và trả tiền vào ngày đáo hạn nếu Thư tín dụng có giá trị chấp nhận.

A sai vì theo điều 2 UCP 600 thì sẽ trả ngay nếu UCP có giá trị trả ngay chứ không phải
là chấp nhận thanh toán. B thiếu vì theo điều 2 UCP 600 thì cam kết trả sau và phải trả
tiền đúng ngày đến hạn thanh toán nếu như Thư tín dụng có giá trị trả sau.

4/ Công ty Phát Tài nhập khẩu xe máy từ công ty Nhật Bản thông qua Vietcombank.
Sau khi Honda giao hàng, ngân hàng Vietcombank đã thông báo rằng L/C đã bị hủy
theo yêu cầu của công ty Phát Tài. Hỏi bên nào sai?

Cả công ty Phát Tài và ngân hàng VCB đều sai. Vì theo điều 3 UCP 600 quy định: Một
thư tín dụng không hủy ngang ngay cả khi nó không ghi rõ điều này. Vì vậy dù trên L/C
không hề ghi rỏ là có hủy ngang hay không thì công ty Phát Tài và ngân hàng VCB cũng
không được tùy tiện hủy ngang L/C. L/C chỉ được hủy khi có được sự đồng thuận của tất
cả các bên tham gia.

5/ Tình huống nào đúng?

a) Một chứng từ không được kí bằng chữ kí đục lỗ

b) Ngân hàng được chỉ định có thể chiết khấu hối phiếu được kí phát cho mình

c) Các chi nhánh của một ngân hàng ở những nước khác nhau được coi là các ngân
hàng phụ thuộc lẫn nhau

d) Người xuất trình chứng từ là người thu hưởng, ngân hàng hay một bên khác và
thực hiện việc xuất trình chứng từ

D vì theo điều 2 UCP 600 Người xuất trình chứng từ là người thụ hưởng, ngân hàng hay
một bên khác mà thực hiện việc xuất trình chứng từ. A sai vì theo điều 3 UCP 600 : Một
chứng từ có thể ký bằng chữ ký tay, chữ ký bằng máy fax, chữ ký đục lỗ, con dấu, ký
hiệu hay bất cứ phương pháp chứng thực bằng điện tử hay máy móc nào. B sai vì theo
điều 2 UCP 600: Chiết khấu nghĩa là việc mua lại hối phiếu của ngân hàng được chỉ định
(Hối phiếu này ký phát cho một ngân hàng khác mà không phải là

ngân hàng chỉ định). Vì vậy Ngân hàng được chỉ định không được chiết khấu hối phiếu
ký phát cho mình. C sai vì theo điều 3 UCP 600 : Các chi nhánh của một ngân hàng ở
những nước khác nhau được coi là những ngân hàng độc lập với nhau.
6/ Công ty Phát Tài nhập khẩu xe máy Honda nhật bản thông qua VCB (có giá trị trả
sau). Công ty Honda Nhật Bản đã giao đúng thời hạn và yêu cầu VCB thanh toán.
Sau đó, VCB đã yêu cầu công ty Phát Tài thanh toán nhưng công ty này đã bị phá sản.
Vậy trong trường hợp này VCB có thanh toán cho công ty Honda khi đến hạn hay
không?

Trong trường hợp này, ngân hàng VCB sẽ áp dụng theo điều 4 khoản a UCP 600 : “ Một
thư tín dụng về bản chất là những giao dịch độc lập với hợp đồng thương mại hay các
hợp đồng khác mà có thể là cơ sở cho thư tín dụng. Ngân hàng không có ràng buộc gì với
hợp đồng như vậy, ngay cả khi trong thư tín dụng dẫn chiếu đến những hợp đồng này... “.
Ta thấy rằng : L/C là một văn bản thể hiện sự cam kết giữa Ngân hàng phát hành và
người thụ hưởng nên mặc dù L/C được lập dựa trên cơ sở hợp đồng ngoại thương nhưng
L/C hoàn toàn độc lập với hợp đồng thương mại. Do đó, việc thanh toán cho thư tín dụng
của ngân hàng là độc lập với người yêu cầu mở L/C. tức là dù cho người yêu cầu mở L/C
có phá sản, mất khả năng thanh toán hay thậm chí ngay cả khi người thụ hưởng vi phạm
hợp đồng thì ngân hàng vẫn phải thanh toán cho giá trị của bức L/C, nếu người thụ hưởng
xuất trình được bộ chứng từ đúng hạn đáp ứng đúng và đầy đủ các điều kiện được quy
định trong L/C. Trong trường hợp này, ngân hàng phát hành VCB sẽ thanh toán cho công
ty Honda, theo như L/C, do công ty Honda đã thực hiện đúng và đầy đủ các điều kiện
như trong L/C.

7/ Sau khi thanh toán tiền cho ngân hàng và nhận bộ chứng từ, công ty PT đã phát
hiện 1 số chứng từ bị làm giả. Công ty PT kiện ngân hàng mở L/C về việc không phát
hiện ra bộ chứng từ giả. Công ty PT làm vậy đúng hay sai?

Công ty Phát Tài hoàn toàn sai. Vì theo điều 5 UCP 600 quy định: “ Chứng từ và hàng
hóa, dịch vụ hay các giao dịch khác ngân hàng chỉ giao dịch bằng chứng từ chứ không
phải hàng hóa, dịch vụ hay giao dịch khác mà chứng từ có thể liên quan.” Điều đó có
nghĩa là ngân hàng chỉ kiểm tra việc xuất trình chứng từ, trên cơ bản chỉ dựa vào chứng
từ để xác định trên bề mặt chứng từ có hợp lệ hay không. Tức là ngân hàng chỉ kiểm tra
sự phù hợp của chứng từ so với các điều khoản và điều kiện của L/C, chứ không chịu
trách nhiệm về các vấn đề khác, kể cả trong việc chứng từ có bị làm giả hay không.

8/ Nong Poy mở L/C tại Vietinbank. Quy định giá trị thanh toán tại ngân hàng ANZ
Thái Lan. Khi ANZ không có khả năng thanh toán thì Viettinbank có thanh toán được
cho Nong Poy hay không?

Nếu ANZ không thanh toán cho Nong Poy thì VietinBank phải có nghĩa vụ thanh toán
cho Nong Poy. Vì theo điều 6 khoản a UCP 600: "một thư tín có gía trị tại ngân hàng chỉ
định thì cũng có giá trị tại ngân hàng phát hành".

9/ Công ty Thành Tín viết đề nghị mở L/C gửi đến ngân hàng Phương Đông, yêu cầu
thanh toán cho công ty Lanina ở TBN. Trong giấy đề nghị mở L/C không ghi rõ cách
thức trả tiền. Vậy đúng hay sai?

Giấy đề nghị mở L/C không ghi rõ cách thức thực hiện trả tiền là sai. Vì theo điều 6
khoản b UCP 600 quy định: “ Một thư tín dụng phải ghi rõ nó có giá trị thanh toán bằng
trả ngay ( sight payment ), trả sau ( deffered payment ), chấp nhận ( acceptance ) hay
chiếu khấu ( negotiation ).

10/ Công ty NK tại Mỹ yêu cầu mở L/C tại HSBC. Ngân hàng thông báo là Vietinbank.
L/C có giá trị trả ngay tại ngân hàng chỉ định là SCB và L/C đã được ngân hàng VCB
xác nhận. Sau đó người thụ hưởng mang bộ chứng từ đến SCB để yêu cầu thanh toán
nhưng SCB không chấp nhận thanh toán. Vậy ngân hàng nào phải thanh toán cho
người thụ hưởng?

Theo điều 8 khoản a(i) UCP 600 quy định: miễn là chứng từ quy định được xuất trình tới
ngân hàng xác nhận hay bất kỳ một ngân hàng được chỉ định nào khác và chúng hợp lệ
thì ngân hàng xác nhận phải thanh toán đúng hạn cho người thụ hưởng khi L/C có giá trị
trả ngay tại ngân hàng chỉ định khác và ngân hàng chỉ định đó không trả Vậy trong
trường hợp này người thụ hưởng có thể mang bộ chứng từ hợp lệ đến ngân hàng
Vietcombank để yêu cầu thanh toán. Hoặc theo điều 7 UCP 600 thì người thụ hưởng còn
có thể mang bộ chứng từ tới ngân hàng phát hành HSBC để xuất trình.

11/ Công ty NK tại Mỹ yêu cầu HSBC mở L/C gửi đến cho công ty XK tại VN thông
qua ngân hàng thông báo Vietinbank, Vietcombank là ngân hàng xác nhận. Sau đó 2
công ty thoả thuận sửa đổi 1 số điều kiện. HSBC đồng ý và phát hành bức điện tu
chỉnh cho công ty XK tại VN mà không thông báo việc tu chỉnh cho ngân hàng xác
nhận là Vietcombank. Sau khi giao hàng công ty xuất khẩu đến VCB xuất trình bộ
chứng từ nhưng đã bị VCB từ chối thanh toán vì cho rằng bộ chứng từ bất hợp lệ so
với các điều kiện trong bức L/C trước đó. Hỏi VCB làm vậy đúng hay sai?

Vietcombank làm vậy là đúng. Vì theo điều 10 khoản a UCP 600 quy định: “Một thư tín
dụng không thể được tu chỉnh hay hủy bỏ mà không có sự đồng ý của ngân hàng phát
hành, ngân hàng xác nhận (nếu có) và người thụ hưởng.” Trong trường hợp này tu chỉnh
đã được ngân hàng phát hành là ngân hàng HSBC và người thụ hưởng là công ty Dung
Pham đồng ý nhưng ngân hàng xác nhận Vietcombank lại không hề được cho biết về tu
chỉnh cho nên tu chỉnh này không có hiệu lực. Vì vậy bộ chứng từ mà công ty Dung
Pham xuất trình đối với ngân hàng Vietcombank là không hợp lệ và ngân hàng này có thể
không chấp nhận thanh toán.

12/ Sau khi gửi hàng cho người NK VN, người XK Singapore đã xuất trình BCT tại
ngân hàng mở L/C ACB. Ngân hàng này đã xác định BCT xuất trình hợp lệ. Ngân
hàng ACB từ chối thanh toán vì trong L/C có ghi “Available with united oversea bank
by payment". Vậy người XK có được xuất trình BCT tại ngân hàng ACB hay không và
việc không chấp nhận của ngân hàng ACB có đúng hay không?

Người xuất khẩu có thể xuất trình bộ chứng từ tại ngân hàng ACB để yêu cầu thanh toán.
Theo điều 15a UCP 600: “Khi ngân hàng phát hành xác định chứng từ xuất trình hợp
lệ thì nó buộc phải thanh toán”. Vì vậy, NH ACB phải thanh toán cho người xuất khẩu.
Như vậy, ngân hàng ACB không chấp nhận là sai.
13/ Giả sử ở trường hợp trên, có thêm sự tham gia của ngân hàng Đông Á với tư cách
là ngân hàng xác nhận, khi người xuất trình chuyển bộ chứng từ đến NH Đông Á và
yêu cầu thanh toán thì bị ngân hàng này từ chối thanh toán do NH ACB phá sản mặc
dù ngân hàng Đông Á đã xác nhận chứng từ xuất trình hợp lệ. Như vậy, việc NH
Đông Á không chấp nhận thanh toán với lí do trên đúng hay sai?

Theo điều 15b UCP 600 có quy định: “Khi ngân hàng xác nhận xác nhận chứng từ
xuất trình hợp lệ thì nó buộc phải thanh toán hoặc chiết khấu và chuyển bộ chứng từ
về ngân hàng xác nhận”. Vậy ngân hàng Đông Á đã sai trong trường hợp này và việc
lấy lí do ngân hàng ACB phá sản để từ chối thanh toán là không được chấp nhận.
14/ Công ty A ở Mỹ có nhu cầu mua hàng của công ty B ở Việt Nam thông qua tín
dụng chứng từ. Vậy ai là người lập hoá đơn thương mại? Và hoá đơn thương mại này
kí phép đòi tiền ai?

Theo điều 18a của UCP- DC 600 ghi rõ Người lập hóa đơn thương mại theo phương
pháp thanh toán tín dụng chứng từ là: người thụ hưởng L/C và được ký phát đòi tiền
người mở thư tín dụng.
Như vậy ở đây người lập hóa đơn thương mại là công ty B ở Việt Nam và hóa đơn ký
phát đòi tiền công ty A ở Mỹ.
15/ Công ty ở Mỹ ở L/C với đơn vị tiền là USD trong khi đó hoá đơn do công ty VN lập
với đơn vị tiền là VNĐ. Hỏi ngân hàng sẽ thanh toán cho công ty VN theo USD hay
VNĐ?

Ở đây ngân hàng sẽ từ chối thanh toán vì theo điều 18a(iii) nêu rõ hóa đơn thương mại
phải được lập trùng với đơn vị tiền tệ nêu trong thư tín dụng nên trong trường hợp này
hóa đơn được xem là bất hợp lệ.

You might also like