You are on page 1of 14

I.

NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH CHẤT LÝ LUẬN VỀ NGHIỆP


VỤ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG.

1.Bảo lãnh ngân hàng và vai trò của bảo lãnh ngân hàng
1.1 Khái niệm, chức năng của bảo lãnh ngân hàng
 Khái niệm bảo lãnh ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của TCTD ( bên bảo lãnh)
với bên có quyền ( bên thụ hưởng bảo lãnh ) về việc thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng ( bên được bảo lãnh ). Khi khách hàng không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên thụ hưởng
bảo lãnh, khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho TCTD số tiền đã được trả
thay.
Như vậy, xét theo các hình thức tín dụng của ngân hàng thì bảo lãnh là
một hình thức tín dụng đặc biệt, “tín dụng chữ ký- signature credit”. Đây là
một hình thức tín dụng mà ngân hàng không trực tiếp cho vay bằng tiền.
Nhưng bằng uy tín (chữ ký) của mình, ngân hàng tạo điều kiện để khách
hàng sử dụng vốn của người khác và đảm bảo thanh toán cho khách hàng.
Tuy cũng là một hình thức tín dụng của ngân hàng nhưng trong quá trình
hạch toán bảo lãnh không làm thay đổi bảng quyết toán tài sản mà được
hạch toán ngoại bảng.
Nghiệp vụ bảo lãnh có thể được thực hiện bởi những tổ chức tài chính,
ngân hàng thương mại, các quỹ, các tổ chức bảo hiểm….
 Chức năng của bảo lãnh ngân hàng

Thứ nhất, bảo lãnh ngân hàng là công cụ bảo đảm ( Security
Instrument)
Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh. Đó là việc ngân hàng
cung cấp cho bên thụ hưởng một khoản bồi thường về tài chính cho những
thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh gây ra. Như
vậy, ngân hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra một sự đảm bảo chắc chắn cho
người thụ hưởng từ đó tạo cho họ lòng tin tưởng, sự yên tâm để thực hiện tốt
hợp đồng. Bảo lãnh là một công cụ đảm bảo chứ không phải là công cụ
thanh toán. Do vậy, bảo lãnh chỉ được dùng cho mục đích đảm bảo an toàn
cho bên thụ hưởng khi có biến cố vi phạm hợp đồng chứ không phải lập ra là
để nhằm thanh toán cho người thụ hưởng. Người được bảo lãnh và người thụ
hưởng bảo lãnh phải cố gắng hết sức có thể để thực hiện tốt những điều đã
được quy định trong hợp đồng. Vì vậy những khả năng xảy ra nghĩa vụ bồi
thường của ngân hàng thường rất nhỏ. Theo thống kê của các nhà ngân hàng

1
Mỹ thì chỉ có 1% trên tổng số các bảo lãnh được phát hành ở nước này bị
người thụ hưởng yêu cầu thanh toán. Qua đó, ta có thể thấy rằng bảo lãnh là
một công cụ đảm bảo chứ không phải là một công cụ thanh toán.
Thứ hai, bảo lãnh ngân hàng là công cụ tài trợ (Financing Instrument)
Đối với người được bảo lãnh, bảo lãnh thực sự là một công cụ tài trợ về
mặt tài chính. Trong nhiều trường hợp, khách hàng bắt buộc phải trả cho
phía đối tác một khoản tiền ứng trước, khoản đặt cọc để đảm bảo nghĩa vụ
thực hiện hợp đồng giữa hai bên. Nhưng sau khi được ngân hàng phát hành
bảo lãnh thì khách hàng ( người được bảo lãnh ) không phải xuất quỹ mà vẫn
có thể thực hiện hợp đồng, thậm chí họ có thể được vay nợ hoặc được kéo
dài thời gian thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ. Như vậy, bảo lãnh ngân hàng
đã tạo điều kiện cho khách hàng được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ
như khi được cho vay thực sự.
Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển như hiện nay thì nhu cầu
vốn tín dụng cũng không ngừng tăng lên. Vì thế, bảo lãnh ngân hàng càng có
ý nghĩa quan trọng, nó đáp ứng được kịp thời các yêu cầu phát triển và mở
rộng sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng làm giảm bớt sự căng thẳng về
vốn cho khách hàng.
Thứ ba, bảo lãnh ngân hàng có chức năng đôn đốc việc thực hiện hợp
đồng.
Trong bảo lãnh ngân hàng, người được bảo lãnh phải trả khoản tiền đã được
đảm bảo trong bất kỳ trường hợp nào có tổn thất xảy ra. Nếu anh ta vi phạm
hợp đồng đã cam kết với ngưòi thụ hưởng bảo lãnh thì chính anh ta phải chi
trả khoản thiệt hại cho ngân hàng sau khi ngân hàng đã thanh toán cho ngưòi
thụ hưởng. Như vậy, người được bảo lãnh luôn ý thức cao trong việc hoàn
thành nghĩa vụ của mình để tránh trường hợp có thể gây tổn hại đến những
cam kết trong hợp đồng.
Ngân hàng bảo lãnh cũng phải chịu áp lực của việc phải thanh toán thay
nếu như người được bảo lãnh không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ. Mặc
dù sẽ nhận được một khoản tiền bồi hoàn từ việc người được bảo lãnh vi
phạm hợp đồng nhưng ngân hàng cũng không muốn tình trạng này xảy ra.
Để giữ vững uy tín của mình, ngân hàng cũng luôn tìm cách để đôn đốc
người được bảo lãnh phải hoàn tất hợp đồng đã ký kết.
Như vậy, bảo lãnh ngân hàng mang ý nghĩa ràng buộc, đốc thúc người
được bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Chức năng này có mối liên hệ rất chặt
chẽ với chức năng bảo đảm vì khi người được bảo lãnh luôn bị đôn đốc thực
hiện tốt hợp đồng thì khả năng được bảo đảm cuả người thụ hưởng sẽ càng
cao.

1.2.Các hình thức bảo lãnh ngân hàng.

2
F. Phân loại theo bản chất của bảo lãnh.
 Bảo lãnh đồng nghĩa vụ ( Accessory Guarantee –Suretyship)
Đây được coi là một loại hình bảo lãnh mang tính truyền thống nếu dựa
trên cơ sở nguồn gốc ra đời của nó. Bảo lãnh đồng nghĩa vụ có đặc điểm là
ngân hàng và người bảo lãnh có cùng nghĩa vụ. Tuy nhiên, nghĩa vụ của
khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên và chỉ khi có sự xác nhận nghĩa vụ này bị vi
phạm thì ngân hàng mới thực hiện nghĩa vụ bổ sung của mình. Đặc điểm này
gây bất lợi cho ngân hàng, ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ của mình
trong trường hợp bất kể vì lý do gì người được bảo lãnh không hoàn thành
nghĩa vụ trong hợp đồng cơ sở. Chính vì thế mà ngân hàng thường xuyên
phải can thiệp khá sâu vào giao dịch hợp đồng giữa người được bảo lãnh và
người thụ hưởng bảo lãnh để tìm hiểu về khả năng hoàn thành nghĩa vụ và
đốc thúc việc hoàn thành nghĩa vụ của người được bảo lãnh, tránh trường
hợp người này không có sự nỗ lực cố gắng hết sức trong việc hoàn thành
nghĩa vụ của mình.
Loại bảo lãnh này thường được dùng chủ yếu trong giao dịch ở phạm vi
nội địa, ít được sử dụng trong quan hệ với nước ngoài.
 Bảo lãnh độc lập ( Independent Guarantee )
Trái với bảo lãnh đồng nghĩa vụ, trong bảo lãnh độc lập, nghĩa vụ của
ngân hàng và của người được bảo lãnh là hoàn toàn độc lập, tách rời. Ngân
hàng chỉ tiến hành thanh toán cho người thụ hưởng khi những điều kiện
thanh toán đã được thoả mãn. Vì vậy, do được tạo ra từ yêu cầu, đòi hỏi
trong thực tiễn nên bảo lãnh độc lập được coi là một dạng bảo lãnh ngân
hàng hiện đại.
Bảo lãnh độc lập đem lại nhiều thuận lợi cho ngân hàng bảo lãnh và
người thụ hưởng, vì vậy nó đang được sử dụng phổ biến hiện nay trong
thương mại quốc tế.
FPhân loại theo phương thức phát hành bảo lãnh:
 Bảo lãnh trực tiếp (Direct Guarantee):
Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng chịu trách nhiệm
bảo lãnh sẽ tiến hành phát hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của người
được bảo lãnh mà không thông qua trung gian nào. Ngân hàng có thể trực
tiếp truy đòi người được bảo lãnh số tiền đã bồi thường cho người thụ hưởng
trong trường hợp người được bảo lãnh không hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Khi người thụ hưởng là người nước ngoài, ngân hàng phục vụ người
được bảo lãnh sẽ thông qua quan hệ đại lý của mình với một ngân hàng tại
nước ngoài thụ hưởng để yêu cầu ngân hàng này chuyển thư bảo lãnh đến
người thụ hưởng.
Loại bảo lãnh này chịu sự chi phối bởi pháp luật được áp dụng ở nước
của người được bảo lãnh. Và ngân hàng phát hành bảo lãnh có thể trực tiếp

3
thanh toán cho người thụ hưởng mà không cần có sự hoàn trả thư bảo lãnh
gốc. Do đó nếu người thụ hưởng thiếu kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế,
thiếu hiểu biết về pháp luật nước ngân hàng phát hành thì sẽ gặp rất nhiều
bất lợi, nhất là khi xảy ra tranh chấp.
Vài trò của ngân hàng thông báo là kiểm tra tính chân thực của bảo lãnh
khi nhận được bảo lãnh từ ngân hàng phát hành, sau đó thông báo và chuyển
nội dung thư bảo lãnh (bằng telex, Swift) cho người thụ hưởng. Sự xuất hiện
của ngân hàng thông báo không làm ảnh hưởng đến quan hệ cũng như nghĩa
vụ giữa người được bảo lãnh, người thụ hưởng bảo lãnh và ngân hàng phát
hành. Ngân hàng phát hành vẫn phải thanh toán cho người thụ hưởng khi
phát sinh rủi ro và yêu cầu bồi hoàn thanh toán từ người được bảo lãnh.
Hình 1: Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp:

NGÂN HÀNG NGÂN HÀNG


PHÁT HÀNH THÔNG BÁO

NGƯỜI ĐƯỢC NGƯỞI THỤ


BẢO LÃNH HƯỞNG BẢO
LÃNH

Ghi chú:
1. Hợp đồng cơ sở được ký kết giữa người thụ hưởng bảo
lãnh và người được bảo lãnh.
2. Người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phát hành bảo
lãnh và cam kết bồi hoàn.
3. Ngân hàng phát hành phát hành bảo lãnh và chuyển trực
tiếp văn bản bảo lãnh cho người thụ hưởng bảo lãnh.
3’. Trong trường hợp người thụ hưởng là người nước ngoài,
ngân hàng phát hành sẽ chuyển văn bản bảo lãnh cho người thụ hưởng
thông qua ngân hàng thông báo.
 Bảo lãnh gián tiếp ( Indirect Gurantee).

4
Bảo lãnh gián tiếp là một loại bảo lãnh mà trong đó ngân hàng bảo lãnh
đã phát hành theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người
được bảo lãnh ( Ngân hàng chỉ thị - Instructing Bank ) dựa trên một bảo lãnh
khác gọi là bảo lãnh đối ứng ( Counter Guarantee ). Vì vậy, trong bảo lãnh
gián tiếp người thụ hưởng không có quyền yêu cầu ngân hàng chỉ thị thanh
toán bảo lãnh cho mình vì giữa ngân hàng chỉ thị bảo lãnh và người thụ
hưởng không có quan hệ ràng buộc gì về nghĩa vụ và trách nhiệm. Ngân
hàng phát hành hoàn toàn cũng không có quyền yêu cầu người được bảo
lãnh bồi hoàn, thậm chí ngân hàng chỉ thị bị phá sản. Ngân hàng chỉ thị mới
là bên phải có nghĩa vụ bồi hoàn cho ngân hàng phát hành.
Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng chủ yếu trong trường hợp người thụ
hưởng là người nước ngoài và ngân hàng phát hành ở ngay tại quốc gia của
người thụ hưởng. Khi đó ngân hàng trong nước (ngân hàng chỉ thị) uỷ quyền
cho ngân hàng phát hành thực hiện phát hành để tạo thuận lợi cho người thụ
hưởng giao dịch hoặc đòi tiền sau này. Trong trường hợp ngân hàng phát
hành và ngân hàng chỉ thị ở cùng nước với người được bảo lãnh thì ngân
hàng phát hành cũng có thể yêu cầu ngân hàng đại lý của mình ở nước người
thụ hưởng thông báo và chuyển văn bản bảo lãnh cho người thụ hưởng như
bảo lãnh trực tiếp.
Bảo lãnh đối ứng chỉ là một công cụ trung gian giữa người bảo lãnh và
người được bảo lãnh. Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh đối ứng là thời hạn mà
ngân hàng phát hành phải xuất trình yêu cầu thanh toán đến ngân hàng chỉ
thị. Thời gian đó cho phép ngân hàng phát hành có đủ thời gian xử lý và gửi
chứng từ xuất trình đến ngân hàng chỉ thị đòi thanh toán bảo lãnh đối ứng,
sau khi đã thanh toán cho bảo lãnh chính. Như vậy, ngân hàng phát hành chỉ
có thể đòi tiền ngân hàng chỉ thị tối đa bắng số tiền bảo lãnh mà ngân hàng
phát hành đã thanh toán cho người thụ hưởng.
Hình 2: Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp:

5
NGÂN NGÂN HÀNG
HÀNG THÔNG BÁO
PHÁT
HÀNH

NGÂN
HÀNG
CHỈ THỊ

NGƯỜI NGƯỜI THỤ


ĐƯỢC HƯỞNG BẢO
BẢO LÃNH
LÃNH

Ghi chú:
1. Hợp đồng cơ sở được ký kết giữa người thụ hưởng bảo lãnh
và người được bảo lãnh
2. Người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chỉ thị
cho ngân hàng phát hành phát hành bảo lãnh
3. Ngân hàng chỉ thị chỉ thị cho ngân hàng phát hành tiến hành
phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng, đồng thời cam kết bồi hoàn
dựa trên bảo lãnh đối ứng
4. Ngân hàng phát hành trực tiếp phát hành bảo lãnh cho người
thụ hưởng
4’. Ngân hàng phát hành phát hành bảo lãnh cho người thụ
hưởng thông qua ngân hàng thông báo
 Đồng bảo lãnh ( Syndicated Guarantee):
Đối với những hợp đồng có giá trị lớn, các ngân hàng muốn bảo lãnh
cho khách hàng thì buộc phải tham gia vào đồng bảo lãnh. Vì theo nguyên
tắc sử dụng vốn của một NHTM, các ngân hàng không được phép thực hiện
bảo lãnh cho một khách hàng vượt qúa giới hạn tối đa(<= 15% vốn tự có của
ngân hàng) để tránh rủi ro, tổn thất cho ngân hàng. Trong loại bảo lãnh này,
các ngân hàng thành viên tham gia trong một nghiệp vụ bảo lãnh sẽ chọn
một ngân hàng đứng ra là ngân hàng đóng vai trò đầu mối (Leading Bank)
để phát hành bảo lãnh chính. Ngân hàng này sẽ phát hành thư bảo lãnh cho
toàn bộ số tiền bảo lãnh, giữ các chứng từ thế chấp, cầm cố, thu phí bảo lãnh

6
từ người được bảo lãnh và chia lại cho các ngân hàng thành viên theo tỉ lệ
tham gia. Các ngân hàng còn lại sẽ cam kết chịu trách nhiệm theo từng phần
đóng góp của mình bằng bảo lãnh đối ứng. Khi ngân hàng chính đã thanh
toán cho người thụ hưởng thì có quyền truy đòi các ngân hàng thành viên
đồng bảo lãnh số tiền mà họ đã cam kết bằng bảo lãnh đối ứng. Đến lượt
mình, các ngân hàng này lại tiền hành truy đòi từ người được bảo lãnh.
Hình 3: Sơ đồ đồng bảo lãnh:

NH 1

NGÂN NGÂN
NH 2 HÀNG HÀNG
PHÁT THÔNG
HÀNH BÁO

NH 3

NGƯỜI NGƯỜI
ĐƯỢC THỤ
BẢO LÃNH HƯỞNG
BẢO LÃNH

Ghi chú:
1.Hợp đồng cơ sở được ký kết giữa người thụ hưởng bảo lãnh và người
được bảo lãnh
2. Người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh
3. Ngân hàng phát hành bảo lãnh yêu cầu các ngân hàng khác cùng tham
gia đồng bảo lãnh với mình thông qua các bảo lãnh đối ứng
4. Ngân hàng phát hành phát hành trực tiếp văn bản bảo lãnh cho người
thụ hưởng
4’. Trong trường hợp người thụ hưởng không cùng nước với ngân hàng
phát hành thì ngân hàng phát hành sẽ phát hành văn bản bảo lãnh cho
người thụ hưởng thông qua ngân hàng thông báo

7
Ngoài ra, theo cách phân loại này, bảo lãnh ngân hàng còn có một số
loại bảo lãnh khác như: bảo lãnh giáp lưng, bảo lãnh xác nhận…Đây là
những loại bảo lãnh được sử dụng thường xuyên trong các quan hệ quốc tế.
F. Phân loại theo mục đích của bảo lãnh:
 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng ( Performance Guarantee).
Đây là cam kết của ngân hàng về việc thực hiện hợp đồng của bên được
bảo lãnh (người cung cấp). Khi người cung cấp không thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ hợp đồng như giao hàng chậm trễ hay không đảm bảo về chất
lượng, số lượng hàng hoá thì ngân hàng chịu trách nhiệm bồi thường mức
thiệt hại mà người thụ hưởng phải gánh chịu.
Loại bảo lãnh này được sử dụng khá phổ biến trong thực tế nhất là
trong các hợp đồng cung ứng thiết bị công nghệ, hợp đồng xây dựng… Bảo
lãnh thực hiện hợp đồng cung cấp một đảm bảo cho người thụ hưởng về việc
thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh trong trường hợp người được
bảo lãnh không thực hiện đúng, đầy đủ những nghĩa vụ đã ghi trong hợp
đồng. Đây là loại bảo lãnh được xem là công cụ đối ứng với tín dụng chứng
từ.
Số tiền bảo lãnh thường chiếm 10-15% giá trị hợp đồng gốc và được
giảm dần theo tiến bộ thực hiện hợp đồng. Thời hạn thư bảo lãnh cũng
thường gắn liền với giá trị lưu hành của hợp đồng cơ sở, vì vậy nó sẽ được
kết thúc khi hoàn thành hợp đồng như hàng hoá vật tư thiết bị đã được giao,
công trình được đưa vào sử dụng đúng với các tiêu chuẩn về số lượng, chất
lượng đã được thoả thuận.
 Bảo lãnh hoàn thanh toán ( Repayment Guarantee )
Trong hầu hết các hợp đồng lớn, nhà cung cấp thường được ứng trước
từ 5-10% giá trị hợp đồng để có nguồn hỗ trợ tài chính thực hiện hợp đồng,
đặc biệt là trong giai đoạn đầu thực hiện dự án. Đổi lại, người mua thường
yêu cầu nhà cung cấp phải có được một thư bảo lãnh hoàn thanh toán của
ngân hàng để trong trường hợp nhà cung cấp không thực hiện đúng hợp
đồng, ngân hàng phải thanh toán khoản tiền ứng trước cho người thụ hưởng.
Như vậy bảo lãnh hoàn thanh toán đã tạo ra sự tin tưởng cho người mua và
đồng thời cũng giúp cho người cung ứng thoát khỏi khó khăn tạm thời về
ngân quỹ.
Bảo lãnh hoàn thanh toán chỉ có hiệu lực khi bên được bảo lãnh ( bên
bán ) đã nhận được tiền ứng trước. Bởi vì nếu bảo lãnh có hiệu lực khi bên
được bảo lãnh chưa nhận được tiền ứng trước thì có khả năng người thụ
hưởng sẽ có hành vi lừa đảo. Họ vẫn tiếp tục đòi thanh toán khoản ứng trước
từ ngân hàng trong khi thực ra họ chưa ứng khoản tiền này cho bên bán
hàng.

8
Mục đích của thư bảo lãnh ứng hoàn thanh toán rộng hơn thư bảo lãnh
thực hiện hợp đồng. Lý do là việc trả tiền theo thư bảo lãnh hoàn thanh toán
được xem như là việc trả lại số tiền người mua đã ứng trước cho nhà cung
cấp, mà số tiền này đã tham gia vào việc thực hiện hợp đồng và nó xem như
một khoản vay. Trong khi đó thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng lại đảm bảo
đền bù cho những tổn thất do vi phạm hợp đồng. Thư bảo lãnh hoàn thanh
toán cũng có thể bị hết hiệu lực khi hợp đồng bị hai bên thoả thuận huỷ bỏ
hay hợp đồng không được thực hiện với lý do khách quan. Bảo lãnh vay nợ
là một dạng bảo lãnh hoàn thanh toán, nó được sử dụng khá phổ biến ở trong
và ngoài nước.
 Bảo lãnh dự thầu ( Tender Guarantee – Bid Bond)
Đấu thầu là hoạt động rất phổ biến trên thế giới, nó được áp dụng trong
mọi lĩnh vực: thương mại, du lịch, đặc biệt là đối với hợp đồng xây dựng
những công trình lớn, khu vực công cộng ….Qua đấu thầu, chủ công trình sẽ
tìm được đối tác có đủ điều kiện tối ưu nhất để ký hợp đồng, tránh rủi ro
trong quá trình đấu thầu. Do đó, điều kiện của quy chế dự thầu là người dự
thầu phải cung cấp một bảo lãnh dự thầu do ngân hàng có uy tín phát hành
để đảm bảo rằng người dự thầu không bỏ dở thầu, không thay hồ sơ dự thầu
trong thời gian đấu thầu và đặc biệt là phải ký hợp đồng sau khi trúng thầu.
Bảo lãnh dự thầu thường có giá trị từ 1- 5% giá trị hợp đồng với điều
kiện thanh toán theo yêu cầu. Đây thực chất là phương tiện thay thế cho việc
ký quỹ của người tham gia dự thầu. Vì vậy, nó giúp cho người dự thầu
không phải chi một khoản tiền nhất định khi dự thầu, đồng thời người chủ
công trình có những khoản tiền bồi thường thoả đáng khi người dự thầu vi
phạm cam kết dự thầu. Thời hạn của bảo lãnh tương đương với thời gian
trúng thầu, trường hợp người dự thầu không trúng thầu thì bảo lãnh dự thầu
cũng tự động hết hiệu lực.
 Bảo lãnh trả chậm ( Deferred Payment Guarantee)
Bảo lãnh trả chậm ( còn được gọi là bảo lãnh thanh toán ) là một bảo
lãnh do ngân hàng phát hành cho bên bán về việc đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả
tiền hàng của khách hàng ( người mua ) theo hợp đồng đã ký kết với bên
bán.
Quan hệ giữa người bán và người mua là quan hệ tín dụng thương mại,
theo đó người mua phải trả tiền hàng như cam kết, dịch vụ theo một kỳ hạn
nợ cụ thể. Nếu người mua trả không trả tiền hàng như đã cam kết, người bán
sẽ đòi tiền theo bảo lãnh. Như vậy, loại bảo lãnh này đã được dùng như là
công cụ bảo đảm của người bán về nghĩa vụ thanh toán của người mua theo
hợp đồng thương mại. Thông thường giá trị của bảo lãnh thanh toán bằng
100% giá trị hợp đồng. Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh này do các bên thoả
thuận và thường kết thúc khi việc thanh toán đã hoàn tất.

9
Bảo lãnh thanh toán hoàn toàn có thể được sử dụng như một phương
tiện đảm bảo thanh toán trong hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê mua tài
chính, hợp đồng đại lý , hợp đồng xây dựng. Đối với loại bảo lãnh này, về
mục đích thì nó cũng giống như một tín dụng thư thương mại thông thường
là bảo
đảm cho nghĩa vụ thanh toán. Tuy nhiên, giữa hai loại vẫn còn có sự
khác biệt về bản chất và cách thức truy đòi khoản tiền thanh toán.
F. Phân loại theo điều kiện thanh toán bảo lãnh .
 Bảo lãnh theo yêu cầu ( Demand Guarantee )
Bảo lãnh theo yêu cầu là một bảo lãnh mà điều kiện thanh toán của nó
là người thụ hưởng chỉ cần xuất trình một văn bản yêu cầu thanh toán cho
ngân hàng phát hành. Văn bản này chỉ do người thụ hưởng đơn phương lập
mà không cần phải có sự xác nhận của người được bảo lãnh hay của bên thứ
ba nào. Đôi khi người thụ hưởng còn đưa ra tờ trình về việc vi phạm hợp
đồng của ngưòi được bảo lãnh . Ngoài ra, người thụ hưởng không cần phải
đưa ra một chứng từ gì để chứng minh sự thiệt hại của bản thân mình.
Như vậy, bảo lãnh theo yêu cầu mang lại cho người thụ hưởng một lợi
thế rất lớn. Ngân hàng cũng gặp thuận lợi trong việc kiểm tra chứng từ vì
chúng khá đơn giản. Tuy nhiên, nó lại gây bất lợi cho người được bảo lãnh ,
loại bảo lãnh này đã tạo ra một áp lực mạnh mẽ, đốc thúc họ hoàn tất nghĩa
vụ hợp đồng của mình đồng thời cũng phải đề phòng trường hợp lừa đảo của
người thụ hưởng.
 Bảo lãnh kèm chứng từ ( Documentary Guarante )
Không giống như bảo lãnh theo yêu cầu , bảo lãnh chứng từ là một loại
bảo lãnh mà điều kiện thanh toán là phải có chứng từ xác nhận của một bên
thứ ba, một bên độc lập có đủ khả năng chuyên môn để xác nhận. Như vậy,
ngoài yêu cầu thanh toán, người thụ hưởng còn phải xuất trình cho ngân
hàng các chứng từ xác nhận hành vi vi phạm hợp đồng của người được bảo
lãnh . Bảo lãnh kèm chứng từ đã bảo vệ được quyền lợi cho người được bảo
lãnh nhưng quyền của người thụ hưởng vì thế cũng bị giảm đi. Và một trong
những nhược điểm của bảo lãnh kèm chứng từ là kéo dài thời gian thanh
toán cho người thụ hưởng. Người thụ hưởng sẽ không nhận được tiền ngay
khi có biến cố vi phạm của người được bảo lãnh mà còn phải đợi cho đến
khi bên thứ ba xác nhận và ngân hàng phát hành kiểm tra xong chứng từ .
 Bảo lãnh kèm phán quyết của trọng tài hoặc toà án.
Loại bảo lãnh này có điều kiện thanh toán là người thụ hưởng phải cung
cấp cho ngân hàng một phán quyết của trọng tài hoặc toà án để khẳng định
việc vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh và trách nhiệm phải bồi
hoàn thiệt hại cho người thụ hưởng. Tuy nhiên, do tính phức tạp và chậm trễ
của mình mà loại bảo lãnh này rất ít được sử dụng trong thực tế.

10
F. Các loại bảo lãnh khác
 Bảo lãnh vận đơn ( Bill of Lading Guarantee )
Loại bảo lãnh này được lập ra nhằm bảo vệ những người có quyền
chính đáng trước sự lợi dụng vận đơn. Nó thường có giá trị từ 100-150% giá
trị hàng hoá để có thể bù đắp những thiệt hại phát sinh. Hình thức bảo lãnh
này có hai loại :
+Người xuất khẩu là người đề nghị phát hành : ngân hàng cam kết với
người nhập khẩu bồi thường thiệt hại phát sinh đối với người này do việc
vận đơn gốc không được xuất trình hoặc xuất trình không kịp thời.
+Người nhập khẩu là người đề nghị phát hành : ngân hàng cam kết với
chủ vận tải sẽ bồi thường mọi thiệt hại nếu hàng hoá được giao không có
chứng từ cho một người không có quyền nhận hàng, do chứng từ thất lạc
hoặc đến chậm hơn tầu, hay do chủ hãng vận tải uỷ nhiệm nhận hàng không
có chứng từ để sử dụng.
 Thư tín dụng dự phòng ( Stand by Letter of credit )
Trong thương mại quốc tế, người nhập khẩu thường phải cung cấp tín
dụng cho người xuất khẩu dưới dạng một khoản tiền đặt cọc, ký quỹ , ứng
trước….Các khoản tiền này chiếm khoảng từ 10-15% tổng giá trị hợp đồng.
Vì vậy, người nhập khẩu cần phải có sự bảo đảm để có thể đòi lại được số
tiền trên khi người xuất khẩu không thực hiện đúng nghĩa vụ giao hàng. Thư
tín dụng dự phòng đã đáp ứng được yêu cầu của người nhập khẩu , nó
thường được sử dụng với mục đích tương tự như bảo lãnh thanh toán. Thư
tín dụng dự phòng sử dụng không phải như một phương tiện cấp vốn hay
phương tiện trả tiền mà là phương thức đảm bảo hợp đồng. Nó được phát
hành và sử dụng theo điều lệ thống nhất và thực hành về tín dụng chứng từ
của phòng thương mại quốc tế Paris.
 Bảo lãnh bảo hành sản phẩm ( Maintenance Guarantee )
Bảo lãnh bảo hành sản phẩm là cam kết của ngân hàng đối với người
mua hàng hoá sẽ thuê công ty khác sửa chữa, bảo hành nếu người bán không
bảo hành máy móc thiết bị.
Ngân hàng bảo lãnh cam kết bồi thường cho người mua theo giá trị của
thư bảo lãnh ( thường từ 5- 10% giá trị hợp đồng) khi người bán không thực
hiện nghĩa vụ bảo hành như đã quy định trong hợp đồng. Với hình thức bảo
lãnh này, đòi hỏi người bán phải chú trọng chất lượng hàng hoá và dịch vụ
cung cấp, vì họ phải chịu trách nhiệm về chất lượng công việc thực hiện
trong khoảng thời gian vận hành thử máy móc thiết bị, kiểm nghiệm công
trình xây lắp.
 Bảo lãnh thuế quan ( Custom Guarantee )
Đây là một loại bảo lãnh ngân hàng lập ra trước những đòi hỏi của cơ
quan thuế để đảm bảo cho người có trách nhiệm nộp thuế khi người này

11
chưa thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Trị giá của thư bảo lãnh thuế quan
do cơ quan thuế ấn định theo từng trường hợp cụ thể. Còn thời hạn của loại
bảo lãnh này không được quy định rõ ràng, nhưng nó sẽ hết hiệu lực khi
người có trách nhiệm nộp thuế đã hoàn tất được nghĩa vụ của mình.
 Bảo lãnh hối phiếu ( Draft Guarantee )
Đây là sự cam kết của ngân hàng trả tiền cho người hưởng lợi, khi hối
phiếu đến hạn trả tiền mà người được bảo lãnh không thực hiện các trách
nhiệm về mặt tài chính của mình như đã quy định. Về hình thức, loại bảo
lãnh này phải ghi rõ nội dung và kèm chữ ký của bên đại diện đứng ra bảo
lãnh. Ngân hàng chịu trách nhiệm như trách nhiệm của người được bảo lãnh
đối với bên thụ hưởng, trừ khi ngân hàng quy định trên hối phiếu.
 Bảo lãnh sai sót chứng từ nhờ thu ( Discrepancy Guarantee )
Trong trường hợp này , theo đè nghị của nhà xuất khẩu, ngân hàng cam
kết với người nhập khẩu là sẽ bù đắp cho họ những thiệt hại phát sinh trong
khuôn khổ phương thức thanh toán nhờ thu. Đó là do việc những giấy tờ,
chứng từ xuất trình không phù hợp hoàn toàn với những điều khoản của hơpj
đồng mua bán hoặc số lượng chứng từ thiếu không được bổ sung.
 Bảo lãnh phát hành chứng khoán ( Underwriting Guarantee )
Khi một công ty chưa có uy tín, tiếng tăm muốn phát hành cổ phiếu để
huy động vốn trên thị trường thì cổ phiếu của công ty đó khó có thể được
người mua chấp nhận. Do vậy công ty sẽ nhờ một ngân hàng có uy tín đứng
ra bảo lãnh cho số cổ phiếu mà họ phát hành ra. Về phía ngân hàng , trước
khi quyết định bảo lãnh cho công ty, ngân hàng cũng phải căn cứ vào mục
đích của đợt phát hành, khả năng tài chính, hiệu quả sử dụng vốn hay quan
hệ của công ty với ngân hàng để quyết định.
Khi cổ phiếu của một công ty được ngân hàng đứng ra bảo lãnh thì các
nhà đầu tư trên thị trường sẽ yên tâm và dễ dàng chấp nhận đầu tư cào cổ
phiếu của công ty. Tải bản FULL (file word 26 trang): bit.ly/2Ywib4t
Dự phòng: fb.com/KhoTaiLieuAZ

1.3. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng


« Đối với các doanh nghiệp
Với bên thụ hưởng bảo lãnh, việc yêu cầu đối tác phải có sự bảo lãnh
của ngân hàng giúp doanh nghiệp còn tiết kiệm được thời gian và chi phí tìm
hiểu bạn hàng để không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Đặc biệt, trong trường hợp
phía đối tác vi phạm hợp đồng đã được ký kết giữa hai bên gây tổn thất cho
doanh nghiệp thì họ chỉ cần xuất trình cho ngân hàng những chứng từ cần
thiết để chứng minh sự vi phạm hợp đồng, ngay lập tức họ sẽ nhận được
khoản bồi thường từ ngân hàng. Như vậy, khi có sự bảo lãnh của ngân hàng,
rủi ro đối với doanh nghiệp sẽ được giảm thiểu tới mức thấp nhất. Đây là

12
điều mà doanh nghiệp rất cần đến nhất là khi quan hệ giữa hai bên chưa
được xác lập một cách vững chắc.
Với bên được bảo lãnh, họ nhận được rất nhiều lợi ích khi sử dụng bảo
lãnh ngân hàng. Về mặt ngân quỹ, khách hàng tiết kiệm được một khoản vốn
đáng kể và có thêm nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động với chi phí nhỏ
hơn so với việc phải vay ngân hàng.Hơn nữa,họ còn được các chuyên gia
ngân hàng giúp đỡ trong phân tích, đánh giá việc sử dụng vốn vay để có
được hiệu quả cao nhất.Bởi vì quyền lợi của ngân hàng đã gắn liền với
quyền lợi của doanh nghiệp và ngân hàng,hơn ai hết,không mong muốn tình
trạng xấu sẽ xảy ra với doanh nghiệp.
Bảo lãnh ngân hàng còn kích thích doanh nghiệp sử dụng vốn đúng
mục đích,có hiệu quả vì trong trường hợp xấu xảy ra,họ vẫn phải trả vốn,lãi
và khoản phí bảo lãnh cho ngân hàng.Nhưng quan trọng hơn hết là bảo lãnh
ngân hàng giúp cho bên được bảo lãnh tăng thêm uy tín với các đối tác do
được uy tín ngân hàng đứng ra đảm bảo nhất là khi doang nghiệp chưa có đủ
khả năng và phương tiện để thực hiện hợp đồng.
Tải bản FULL (file word 26 trang): bit.ly/2Ywib4t
« Đối với ngân hàng bảo lãnh Dự phòng: fb.com/KhoTaiLieuAZ
Trước hế,thông qua việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho khách
hàng,ngân hàng nhận được một khoản phí bảo lãnh. Đây là nguồn thu chiếm
tỷ trọng khá lớn trong tổng thu từ dịch vụ của một ngân hàng thương
mại.Ngoài ra,việc cấp bảo lãnh cho khách hàng không đòi hỏi ngân hàng
phải xuất vốn ra ngay mà ngân hàng bảo lãnh bằng uy tín của bản thân
mình.Như vậy,ngân hàng không phải trả chi phí huy động vốn để tiến hành
bảo lãnh.Thậm chi,do luật pháp quy định,khách hàng muốn được bảo lãnh
thì phải kí quĩ bảo lãnh.Khoản kí quĩ này được gửi vào tài khoản phong toả
tại ngân hàng bảo lánh trong suốt thời gian bảo lãnh.Cho nên đối với ngân
hàng đây là nguồn vốn khá ổn định,ngân hàng có thể sử dụng tuỳ theo mục
đích của mình mà không phải trả lãi.
Bảo lãnh còn làm đa dạng hoá hoạt động cung cấp sản phẩm,dịch vụ
của ngân hàng giúp ngân hàng có thể giảm được rủi ro trong quá trình hoạt
động kinh doanh,Ngày nay xu hướng tăng tỷ trọng nguồn thu từ dịch vụ
đang là xu thế chung của các ngân hàng hiện đại.Hoạt động bảo lãnh có tác
dụng gián tiếp thúc đẩy các hoạt động kinh doanh khác cuả ngân hàng thông
qua việc góp phần nâng cao uy tín và tăng cường quan hệ của ngân hàng
đặc biệt là trên trường quốc tế.

« Đối với nền kinh tế


Với những chức năng của mình ,bảo lãnh ngân hàng có vai trò rất
quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia.

13
Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại có vai trò như một chất
xúc tác tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất và là công cụ tài trợ cho các ngành
kinh tế mũi nhọn phát triển.Nhờ có bảo lãnh mà các bên có thể yên tâm
tham gia ký kết hợp đồng và có trách nhiệm với các nghĩa vụ đã cam
kết.Như vậy,bảo lãnh đã đem lại lợi ích cho tất cả các bên,nhưng điều quan
trọng là nó lại đem lại lợi ích to lớn cho sự phát triển chung của nền kinh
tế,Ngược lại,việc hạn chế cấp bảo lãnh của ngân hàng cho các ngành.lĩnh
vực kinh tế không được khuyến khích phát triển đã tác động gớp phần làm
cân đối lại cơ cấu nền kinh tế.
Đối với những nước như Việt Nam hiện nay ,trong quá trình từng bước
tiến hành công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước,nguồn vốn đóng vai trò
quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế đất nước.Và bảo lãnh cũng góp
phần không nhỏ trong việc giúp doanh nghiệp thu hút vốn cho sản xuất kinh
doanh, đặc biệt là những nguồn vốn rẻ với thời hạn ổn định,lãi suất thấp từ
trong và ngoài nước.Tuy nhiên,doanh nghiệp muốn vay được vốn thông qua
bảo lãnh thì phải tính toán đến các yếu tố như lãi vay,phí bảo lãnh và việc
hoàn trả gốc cùng lãi cho ngân hàng.Doanh nghiệp muốn có lợi cho bản thân
mình thì buộc phải kinh doanh có hiệu quả,tiết kiệm chi phí để có lãi.Vì
vậy,bảo lãnh còn làm tăng cường chế độ hạch toán kinh tế tại các doanh
nghiệp.
Tóm lại,những vai trò trên đã cho thấy việc ngày càng phải hoàn thiện
nghiệp vụ bảo lãnh là yêu cẩu cần thiết để nâng cao chất lượng của hoạt
động thương mại nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung.

1325518

14

You might also like