Professional Documents
Culture Documents
Kinh tế học là môn khoa học xã hội nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào
các nguồn lực để sản xuất ra những hàng hóa cần thiết và phân phối nó cho các
thành viên trong xã hội.
kinh tế học ra đời để trả lời cho ba vấn đề:
1. Sản suất cái gì?
2. Sản xuất như thế nào?
3. Sản xuất cho ai? Dựa trên việc trả lời 3 vấn đề trên có thể giải quyết được vấn
đề kan hiếm nguồn lực từ đó sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả và cân bằng.
Ví dụ: Mẹ đưa cho Mai 200 nghìn VNĐ và yêu cầu Mai nấu 1 mâm cơm cho gia đình. Vì
200 nghìn VNĐ là hữu hạn nên giữa rất nhiều sự lựa chọn Mai phải lựa chọn những món đồ
phù hợp để có thể nấu được 1 mâm cơm và không vượt quá 200 nghìn VNĐ.
Câu 2: Trình bày sự hiểu biết của em về học thuyết " bàn tay vô hình" của
Adam Smith và " bàn tay hữu hình" của John Maynard Keynes? lấy ví dụ
minh họa? nền kinh tế Việt nam hiện nay áp dụng bàn theo lý thuyết nào?
vì sao?
1. Học thuyết bàn tay vô hình của Adam Smith.
Thị trường tự do có khả năng tự điều chỉnh mà không cần sự can thiệp của
chính phủ.
2. Học thuyết bàn tay hữu hình của John Maynar Keynes.
Thị trường không phải lúc nào cũng hoạt động hiệu quả mà có thể gặp phải
trạng thái mất cân bằng, Keynes tin rằng chính phủ cần can thiệp để thúc đẩy
tiêu dùng và đầu tư, từ đó tạo ra việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ví dụ: Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, việc tiêu thụ giảm sút có thể dẫn đến suy giảm sản
xuất và tăng thất nghiệp. Chính phủ có thể can thiệp bằng cách tăng chi tiêu công để tạo ra
việc làm mới và thúc đẩy nền kinh tế.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam thường áp dụng một phần của cả hai lý thuyết
"bàn tay vô hình" của Adam Smith và "bàn tay hữu hình" của John Maynard
Keynes, tùy thuộc vào tình hình kinh tế cụ thể và chính sách của chính phủ.
Câu 3: Dựa vào phạm vi nghiên cứu và cách thức tiếp cận thì kinh tế học
được phân loại như thế nào? Phân biệt giữa kinh tế học vĩ mô và kinh tế
học vi mô thông qua các tiêu chí: Sản lượng, Mức giá, chủ thể, kết quả?
Kinh tế học có thể được phân loại dựa trên phạm vi nghiên cứu và cách tiếp
cận chủ yếu thành hai lĩnh vực: kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô.
Trong tóm tắt, kinh tế học vĩ mô tập trung vào các xu hướng tổng quát và
chính sách kinh tế của chính phủ, trong khi kinh tế học vi mô tập trung vào
hành vi và quyết định của các đơn vị kinh tế cụ thể.
Câu 4: Đường giới hạn khả năng sản xuất là gì? năng suất cận biên là gì?
chi phí cơ hội là gì? tại sao chi phí cơ hội ngày càng tăng và năng suất
cận biên ngày càng giảm?
Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF - Production Possibility Frontier) là
một biểu đồ hoặc đồ thị mô tả các tổ hợp sản phẩm hoặc dịch vụ mà một nền
kinh tế có thể sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định, sử dụng tài
nguyên và công nghệ hiện có một cách hiệu quả. Đường này thường là một
đường cong hạch, biểu thị sự đối ứng giữa việc sản xuất các mặt hàng khác
nhau.
Năng suất cận biên là tỷ lệ tăng sản lượng sản phẩm (hoặc dịch vụ) thêm vào
khi một đơn vị tài nguyên (thường là lao động hoặc vốn) được thêm vào sản
xuất, trong khi các đơn vị khác không đổi. Năng suất cận biên thường giảm khi
đã sử dụng tài nguyên hiện có một cách hiệu quả, do đó, việc thêm một đơn vị
tài nguyên mới không đem lại sự gia tăng sản lượng lớn như ban đầu.
Chi phí cơ hội là giá trị của sự hi sinh của một cơ hội khác khi một quyết định
được đưa ra. Nó thường được hiểu là giá trị của việc tốn mất tài nguyên (thời
gian, tiền bạc, năng lượng, vv.) cho một lựa chọn nhất định, mà có thể là một
lựa chọn tốt nhất so với lựa chọn hiện tại.
Chi phí cơ hội ngày càng tăng khi chúng ta tiến vào việc sử dụng các tài
nguyên có giới hạn. Khi chúng ta sử dụng tài nguyên, như lao động hoặc vốn,
cho một mục đích cụ thể, chúng ta phải hy sinh khả năng sử dụng chúng cho
mục đích khác. Do đó, chi phí cơ hội tăng lên vì mỗi lượng tài nguyên mới
được sử dụng có giá trị hơn so với các lượng tài nguyên đã được sử dụng trước
đó.
Năng suất cận biên giảm là hiện tượng thường gặp khi các tài nguyên được sử
dụng trong sản xuất đạt đến giới hạn của họ. Khi tài nguyên không còn được
sử dụng một cách hiệu quả, mỗi đơn vị bổ sung của chúng không còn tạo ra sự
gia tăng sản lượng đáng kể nữa. Điều này có thể xuất phát từ sự phân chia tài
nguyên không đồng đều, công nghệ kém hiệu quả, hoặc các yếu tố khác làm
giảm hiệu suất của lao động hoặc vốn.