Professional Documents
Culture Documents
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội
dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Văn H do thiếu tiền tiêu xài và trả nợ nên nảy sinh ý định chiếm
đoạt tiền của Phòng giao dịch Ngân hàng Thương mại Cổ phần B - Chi nhánh
B, tỉnh Bình Dương (gọi tắt Ngân hàng B - Chi nhánh B). H chuẩn bị một quẹt
gas có hình khẩu súng, quấn băng keo đen xung quanh để nhìn giống khẩu
súng thật, dùng hai bình điện của quạt sạc đặt chồng lên nhau và quấn băng
keo đen xung quanh tạo thành vật thể giống quả bom nhằm để khống chế, đe
dọa nhân viên Phòng giao dịch chiếm đoạt tiền của Ngân hàng B - Chi nhánh
B. H sử dụng mũ màu đen, áo khoác dài tay màu đen, khẩu trang, túi xách,
tháo biển số xe 61C1-684.44 (hiệu Suzuki) để tránh bị phát hiện khi thực hiện
việc chiếm đoạt tiền. Ngày 24/12/2021, H mang những vật đã chuẩn bị và sử
dụng xe mô tô trên đến Phòng giao dịch của Ngân hàng B - Chi nhánh B để
khảo sát xung quanh, vì sợ bị bắt nên H không thực hiện việc chiếm đoạt tiền
của ngân hàng mà quay về.
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 28/12/2021, H giấu quẹt gas giống súng
trong túi áo khoác bên phải và 02 bình điện quạt sạc trong túi nilon màu xanh
rồi điều khiển xe mô tô hiệu Suzuki đến trước cổng Phòng giao dịch của Ngân
hàng B - Chi nhánh B, H dựng xe quay đầu ra ngoài. Khoảng 13 giờ 30 phút
cùng ngày, Phòng giao dịch Ngân hàng B - Chi nhánh B mở cửa, H mang quẹt
gas và bình điện (hình dáng miêu tả như trên) vào trong ngân hàng ngồi chờ
khoảng 05 phút, khi thấy vắng người, H đi lại trước quầy giao dịch lấy bình
điện và nói lớn “Có bom, đưa tiền đây”, nghe vậy bà Nguyễn Thị Huyền V, bà
Vũ Thị Hoa S, ông Nguyễn Bình Ng là nhân viên ngân hàng hoảng sợ lùi vào
bên trong và ngồi xuống, H tiếp tục lấy quẹt gas trong túi áo khoác chỉ về phía
bà S đe dọa “Mày mở két lấy tiền cho tao, không đưa tiền là tao bắn”. Lúc
này, bà S đi đến ngăn kéo bàn quầy giao dịch số 3 lấy số tiền 400.000.000
đồng (mệnh giá 500.000 đồng) và 41.269.500 đồng gồm nhiều mệnh giá cùng
túi nilon ném về phía H, H nhặt được số tiền 379.727.500 đồng bỏ trong bịch
nilon còn sót lại số tiền 61.542.000 đồng dưới nền nhà trong phòng giao dịch,
H cầm bịch tiền chạy ra xe mô tô, bỏ lại nón bảo hiểm màu trắng, vật giống
bom trước cổng Phòng giao dịch của Ngân hàng B - Chi nhánh B. H điều
khiển xe mô tô chạy vào vườn tràm thuộc khu phố B, thị trấn L, huyện B để
giấu xe mô tô, trên đường bỏ chạy, H làm rơi nhiều tờ tiền mệnh giá khác
nhau. Khi đến vườn tràm, H dừng lại giấu xe, áo khoác, nón, quẹt gas tại vườn
tràm, H bỏ tiền vừa chiếm đoạt vào túi vải màu đỏ có khóa kéo rồi đi bộ ra
đường Quốc lộ 13. H điện thoại cho Nguyễn Văn V làm nghề chạy xe ô tô
dịch vụ đến chở H về tiệm rửa xe VTP của V tại ấp Đ, thị trấn L, huyện B,
tỉnh Bình Dương.
Nguyễn Văn V điều khiển xe ô tô biển số 61A-480.97 đến chở H, H mở
cửa xe ngồi ghế sau và bỏ túi vải màu đỏ đựng tiền dưới ghế ngồi. Khi đến
tiệm rửa xe, H xuống xe vào trong quán thì gặp Trịnh Đình Tr (nhân viên rửa
xe), H nhờ Tr lấy túi vải trong xe đưa cho H, H cầm túi vải vào phòng của
3
tiệm rửa xe ngồi đếm tiền, H lấy tiền riêng trong ví (bóp) cho Tr 3.000.000
đồng uống cà phê và đưa 200.000.000 đồng nhờ Tr ra ngân hàng chuyển
khoản vào tài khoản số 050129676865 của bà Nguyễn Thị H tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần S (tài khoản này do H nhờ bà H đứng tên giúp), H tiếp
tục lấy 30.000.000 đồng để đi trả nợ, số tiền còn lại H bỏ trong cốp xe mô tô
biển số 60B7-059.36 dựng trong phòng của tiệm rửa xe. Sau đó, H nhờ V chở
H về nhà ở xã T, huyện B để trả nợ, trên đường về H bị lượng Công an huyện
B bắt giữ.
Quá trình khám nghiệm hiện trường, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
tỉnh Bình Dương thu giữ: 61.542.000 đồng dưới nền nhà trong Phòng giao dịch
Ngân hàng B - Chi nhánh B, 01 túi nilon màu xanh có quai xách, 01 mũ (nón)
bảo hiểm màu trắng, 01 vật thể màu đen hình trụ gần trụ ATM trước cổng ngân
hàng, 01 xe mô tô, 01 vật kim loại kiểu dáng súng, 01 mũ (nón) lưỡi trai màu
đen, 01 áo khoác dài tay màu đen tại vườn tràm thuộc khu phố B, thị trấn L,
huyện B, tỉnh Bình Dương. Số tiền 130.500.000 đồng H để trong cốp xe mô tô
biển số 60B7-059.36 do Hồ Sỹ Linh (bạn của V) giao nộp; 01 xe ô tô hiệu
Toyota Innova biển số 61A-480.97 của Nguyễn Văn V; 30.000.000 đồng
trong xe ô tô biển số 61A-480.97 của Nguyễn Văn V, 01 biển số xe 61C1-
684.44 do Nguyễn Hoàng L giao nộp khi nhặt được trên đoạn đường thuộc
khu phố Đ, thị trấn L, huyện B do H vứt bỏ trước đó.
Kết luận giám định số 1002/C09B ngày 14 tháng 02 năm 2022 của Phân
Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh - Bộ Công an kết luận 01
vật thể hình khối, có quấn băng keo đen bên ngoài, bên trong có 02 bình ắc quy
và 01 pin sạc dự phòng kết nối với nhau bằng dây dẫn điện gửi giám định
không phải là quả nổ tự tạo và không có khả năng gây nổ.
Kết luận giám định số 1006/KL-C09B ngày 23 tháng 02 năm 2022 của
Phân Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh - Bộ Công an kết luận
01 vật kim loại màu trắng (hình dạng khẩu súng ngắn kiểu ổ xoay) gửi giám
định là hộp quẹt gas hình dạng khẩu súng không phải là vũ khí quân dụng hay
vũ khí có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng.
Kết luận giám định số 37/Kl-KTHS ngày 17 tháng 3 năm 2022 của
Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: xe mô tô hai bánh
(kiểu dáng SPORT) nhãn hiệu SUZUKI, dung tích xi lanh: không, biển số:
không; số khung dưới yên xe MHDBF13BLWJ605680 là số đóng mới trên
thanh kim loại không số; số khung cổ phải xe BE13A-TH187171 là số nguyên
thủy; số máy: ?1??-TH1??75 là số nguyên thủy (dấu ? là chữ số bị mài sâu
không đọc được).
Ngày 27/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương
lập biên bản trả cho ông Nguyễn Phúc Duy A – Phó Giám đốc Ngân hàng B -
Chi nhánh M (đại diện theo ủy quyền) số tiền 222.042.000 đồng.
Ngày 07/3/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương ra
quyết định tạm giữ số tiền 200.000.000 đồng trong tài khoản của Nguyễn Thị H
4
tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần S (S) và ban hành Công văn số 676 ngày
07/3/2022 đề nghị Ngân hàng Thương mại Cổ phần S chuyển số tiền
200.000.000 đồng từ tài khoản của Nguyễn Thị H vào tài khoản của Phòng
Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bình Dương để xử lý theo quy định pháp luật.
Ngày 25/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương
lập biên bản trả cho bà Đinh Thị H1 (vợ của Nguyễn Văn V) chiếc xe ô tô hiệu
Toyota Innova biển số 61A-480.97.
Chiếc xe mô tô (kiểu dáng SPORT) nhãn hiệu SUZUKI do Trần Văn H
sử dụng vào việc phạm tội không xác định được số khung, số máy. H khai mua
chiếc xe này của người rao bán trên mạng xã hội. Xét thấy chiếc xe không rõ
nguồn gốc cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.
Biển số 61C1-684.44 gắn vào xe mô tô hiệu SUZUKI H sử dụng phạm
tội là biển số giả nên tịch thu tiêu hủy.
Về trách nhiệm dân sự: ông Nguyễn Phúc Duy A - Phó Giám đốc Ngân
hàng B - Chi nhánh M (người đại diện theo ủy quyền) yêu cầu Trần Văn H bồi
thường cho ngân hàng số tiền 19.227.500 đồng.
Đối với Nguyễn Văn V chở H đi trả nợ và Trịnh Đình Tr được H giao
tiền đem gửi vào tài khoản của H nhờ bà H đứng tên nhưng không biết đây là
tiền Trần Văn H chiếm đoạt tiền của Ngân hàng B- Chi nhánh B
Tại Cáo trạng số 44/CT-VKSBD.P1 ngày 25/3/2022 của Viện Kiểm sát
nhân dân tỉnh Bình Dương truy tố Trần Văn H về tội “Cướp tài sản” quy định
tại điểm a khoản 3 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2022/HSST ngày 22 tháng 6 năm
2022, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Cướp tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 168; Điều 38; điểm b, s khoản 1 và khoản
2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Văn H 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày
28/12/2021.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý
vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.
Ngày 04/7/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương
ban hành Quyết định số 37/QĐ-VKSBD kháng nghị bản án sơ thẩm theo
hướng tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Văn H.
Ngày 06/7/2022, bị cáo Trần Văn H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm;
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
giữ nguyên Quyết định kháng nghị số 37/QĐ-VKSBD ngày 04/7/2022 của
5
[7] Với các chứng cứ và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm
không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương,
giữ nguyên Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Trần Văn H.
[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đề nghị
chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, tăng hình
phạt đối với bị cáo H lên 12 đến 13 năm tù là không phù hợp với nhận định
của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[9] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Văn H không phải chịu tiền án
phí hình sự phúc thẩm.
[10] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 342; Điều 348 và điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố
tụng Hình sự năm 2015;
1/. Chấp nhận yêu cầu rút kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo
Trần Văn H.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt
của bị cáo Trần Văn H.
2/. Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số 37/QĐ-VKSBD ngày
04/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương.
Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 87/2022/HS-ST ngày 22/6/2022 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Dương về phần quyết định hình phạt đối với bị cáo
Trần Văn H.
Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Văn H 09 (Chín) năm tù về tội “Cướp tài sản”.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/12/2021.
3/. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Trần Văn H không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
4/. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5/. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
8