You are on page 1of 8

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Bản án số: 776/2022/HS-PT


Ngày 12 tháng 10 năm 2022

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Minh Thịnh
Các Thẩm phán: Ông Trần Xuân Minh
Bà Lê Thuý Cầu
- Thư ký phiên tòa: Ông Thái Lê Quỳnh - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Vũ Thanh Sơn - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số
527/2022/TLPT-HS ngày 01 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo Trần Văn H; Do
có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương và
kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2022/HSST ngày
22 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
- Bị cáo: Trần Văn H, sinh năm 1990, tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú:
ấp 5, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa
(học vấn): lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc
tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn B và bà Trần Thị Th; có vợ là Nguyễn Thị
Mỹ L và 02 con; tiền sự: không, tiền án: không, nhân thân: không. Bị cáo bị áp
dụng biện pháp tạm giam từ ngày 28/12/2021 đến nay.
- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Trần Văn H: Luật sư Nguyễn
Hồng Nh, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.
(Trong vụ án còn có người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan không kháng cáo, không liên quan tới kháng cáo nên Tòa án không triệu
tập)

NỘI DUNG VỤ ÁN:


2

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội
dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Văn H do thiếu tiền tiêu xài và trả nợ nên nảy sinh ý định chiếm
đoạt tiền của Phòng giao dịch Ngân hàng Thương mại Cổ phần B - Chi nhánh
B, tỉnh Bình Dương (gọi tắt Ngân hàng B - Chi nhánh B). H chuẩn bị một quẹt
gas có hình khẩu súng, quấn băng keo đen xung quanh để nhìn giống khẩu
súng thật, dùng hai bình điện của quạt sạc đặt chồng lên nhau và quấn băng
keo đen xung quanh tạo thành vật thể giống quả bom nhằm để khống chế, đe
dọa nhân viên Phòng giao dịch chiếm đoạt tiền của Ngân hàng B - Chi nhánh
B. H sử dụng mũ màu đen, áo khoác dài tay màu đen, khẩu trang, túi xách,
tháo biển số xe 61C1-684.44 (hiệu Suzuki) để tránh bị phát hiện khi thực hiện
việc chiếm đoạt tiền. Ngày 24/12/2021, H mang những vật đã chuẩn bị và sử
dụng xe mô tô trên đến Phòng giao dịch của Ngân hàng B - Chi nhánh B để
khảo sát xung quanh, vì sợ bị bắt nên H không thực hiện việc chiếm đoạt tiền
của ngân hàng mà quay về.
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 28/12/2021, H giấu quẹt gas giống súng
trong túi áo khoác bên phải và 02 bình điện quạt sạc trong túi nilon màu xanh
rồi điều khiển xe mô tô hiệu Suzuki đến trước cổng Phòng giao dịch của Ngân
hàng B - Chi nhánh B, H dựng xe quay đầu ra ngoài. Khoảng 13 giờ 30 phút
cùng ngày, Phòng giao dịch Ngân hàng B - Chi nhánh B mở cửa, H mang quẹt
gas và bình điện (hình dáng miêu tả như trên) vào trong ngân hàng ngồi chờ
khoảng 05 phút, khi thấy vắng người, H đi lại trước quầy giao dịch lấy bình
điện và nói lớn “Có bom, đưa tiền đây”, nghe vậy bà Nguyễn Thị Huyền V, bà
Vũ Thị Hoa S, ông Nguyễn Bình Ng là nhân viên ngân hàng hoảng sợ lùi vào
bên trong và ngồi xuống, H tiếp tục lấy quẹt gas trong túi áo khoác chỉ về phía
bà S đe dọa “Mày mở két lấy tiền cho tao, không đưa tiền là tao bắn”. Lúc
này, bà S đi đến ngăn kéo bàn quầy giao dịch số 3 lấy số tiền 400.000.000
đồng (mệnh giá 500.000 đồng) và 41.269.500 đồng gồm nhiều mệnh giá cùng
túi nilon ném về phía H, H nhặt được số tiền 379.727.500 đồng bỏ trong bịch
nilon còn sót lại số tiền 61.542.000 đồng dưới nền nhà trong phòng giao dịch,
H cầm bịch tiền chạy ra xe mô tô, bỏ lại nón bảo hiểm màu trắng, vật giống
bom trước cổng Phòng giao dịch của Ngân hàng B - Chi nhánh B. H điều
khiển xe mô tô chạy vào vườn tràm thuộc khu phố B, thị trấn L, huyện B để
giấu xe mô tô, trên đường bỏ chạy, H làm rơi nhiều tờ tiền mệnh giá khác
nhau. Khi đến vườn tràm, H dừng lại giấu xe, áo khoác, nón, quẹt gas tại vườn
tràm, H bỏ tiền vừa chiếm đoạt vào túi vải màu đỏ có khóa kéo rồi đi bộ ra
đường Quốc lộ 13. H điện thoại cho Nguyễn Văn V làm nghề chạy xe ô tô
dịch vụ đến chở H về tiệm rửa xe VTP của V tại ấp Đ, thị trấn L, huyện B,
tỉnh Bình Dương.
Nguyễn Văn V điều khiển xe ô tô biển số 61A-480.97 đến chở H, H mở
cửa xe ngồi ghế sau và bỏ túi vải màu đỏ đựng tiền dưới ghế ngồi. Khi đến
tiệm rửa xe, H xuống xe vào trong quán thì gặp Trịnh Đình Tr (nhân viên rửa
xe), H nhờ Tr lấy túi vải trong xe đưa cho H, H cầm túi vải vào phòng của
3

tiệm rửa xe ngồi đếm tiền, H lấy tiền riêng trong ví (bóp) cho Tr 3.000.000
đồng uống cà phê và đưa 200.000.000 đồng nhờ Tr ra ngân hàng chuyển
khoản vào tài khoản số 050129676865 của bà Nguyễn Thị H tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần S (tài khoản này do H nhờ bà H đứng tên giúp), H tiếp
tục lấy 30.000.000 đồng để đi trả nợ, số tiền còn lại H bỏ trong cốp xe mô tô
biển số 60B7-059.36 dựng trong phòng của tiệm rửa xe. Sau đó, H nhờ V chở
H về nhà ở xã T, huyện B để trả nợ, trên đường về H bị lượng Công an huyện
B bắt giữ.
Quá trình khám nghiệm hiện trường, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
tỉnh Bình Dương thu giữ: 61.542.000 đồng dưới nền nhà trong Phòng giao dịch
Ngân hàng B - Chi nhánh B, 01 túi nilon màu xanh có quai xách, 01 mũ (nón)
bảo hiểm màu trắng, 01 vật thể màu đen hình trụ gần trụ ATM trước cổng ngân
hàng, 01 xe mô tô, 01 vật kim loại kiểu dáng súng, 01 mũ (nón) lưỡi trai màu
đen, 01 áo khoác dài tay màu đen tại vườn tràm thuộc khu phố B, thị trấn L,
huyện B, tỉnh Bình Dương. Số tiền 130.500.000 đồng H để trong cốp xe mô tô
biển số 60B7-059.36 do Hồ Sỹ Linh (bạn của V) giao nộp; 01 xe ô tô hiệu
Toyota Innova biển số 61A-480.97 của Nguyễn Văn V; 30.000.000 đồng
trong xe ô tô biển số 61A-480.97 của Nguyễn Văn V, 01 biển số xe 61C1-
684.44 do Nguyễn Hoàng L giao nộp khi nhặt được trên đoạn đường thuộc
khu phố Đ, thị trấn L, huyện B do H vứt bỏ trước đó.
Kết luận giám định số 1002/C09B ngày 14 tháng 02 năm 2022 của Phân
Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh - Bộ Công an kết luận 01
vật thể hình khối, có quấn băng keo đen bên ngoài, bên trong có 02 bình ắc quy
và 01 pin sạc dự phòng kết nối với nhau bằng dây dẫn điện gửi giám định
không phải là quả nổ tự tạo và không có khả năng gây nổ.
Kết luận giám định số 1006/KL-C09B ngày 23 tháng 02 năm 2022 của
Phân Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh - Bộ Công an kết luận
01 vật kim loại màu trắng (hình dạng khẩu súng ngắn kiểu ổ xoay) gửi giám
định là hộp quẹt gas hình dạng khẩu súng không phải là vũ khí quân dụng hay
vũ khí có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng.
Kết luận giám định số 37/Kl-KTHS ngày 17 tháng 3 năm 2022 của
Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: xe mô tô hai bánh
(kiểu dáng SPORT) nhãn hiệu SUZUKI, dung tích xi lanh: không, biển số:
không; số khung dưới yên xe MHDBF13BLWJ605680 là số đóng mới trên
thanh kim loại không số; số khung cổ phải xe BE13A-TH187171 là số nguyên
thủy; số máy: ?1??-TH1??75 là số nguyên thủy (dấu ? là chữ số bị mài sâu
không đọc được).
Ngày 27/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương
lập biên bản trả cho ông Nguyễn Phúc Duy A – Phó Giám đốc Ngân hàng B -
Chi nhánh M (đại diện theo ủy quyền) số tiền 222.042.000 đồng.
Ngày 07/3/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương ra
quyết định tạm giữ số tiền 200.000.000 đồng trong tài khoản của Nguyễn Thị H
4

tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần S (S) và ban hành Công văn số 676 ngày
07/3/2022 đề nghị Ngân hàng Thương mại Cổ phần S chuyển số tiền
200.000.000 đồng từ tài khoản của Nguyễn Thị H vào tài khoản của Phòng
Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bình Dương để xử lý theo quy định pháp luật.
Ngày 25/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương
lập biên bản trả cho bà Đinh Thị H1 (vợ của Nguyễn Văn V) chiếc xe ô tô hiệu
Toyota Innova biển số 61A-480.97.
Chiếc xe mô tô (kiểu dáng SPORT) nhãn hiệu SUZUKI do Trần Văn H
sử dụng vào việc phạm tội không xác định được số khung, số máy. H khai mua
chiếc xe này của người rao bán trên mạng xã hội. Xét thấy chiếc xe không rõ
nguồn gốc cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.
Biển số 61C1-684.44 gắn vào xe mô tô hiệu SUZUKI H sử dụng phạm
tội là biển số giả nên tịch thu tiêu hủy.
Về trách nhiệm dân sự: ông Nguyễn Phúc Duy A - Phó Giám đốc Ngân
hàng B - Chi nhánh M (người đại diện theo ủy quyền) yêu cầu Trần Văn H bồi
thường cho ngân hàng số tiền 19.227.500 đồng.
Đối với Nguyễn Văn V chở H đi trả nợ và Trịnh Đình Tr được H giao
tiền đem gửi vào tài khoản của H nhờ bà H đứng tên nhưng không biết đây là
tiền Trần Văn H chiếm đoạt tiền của Ngân hàng B- Chi nhánh B
Tại Cáo trạng số 44/CT-VKSBD.P1 ngày 25/3/2022 của Viện Kiểm sát
nhân dân tỉnh Bình Dương truy tố Trần Văn H về tội “Cướp tài sản” quy định
tại điểm a khoản 3 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2022/HSST ngày 22 tháng 6 năm
2022, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Cướp tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 168; Điều 38; điểm b, s khoản 1 và khoản
2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Văn H 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày
28/12/2021.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý
vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.
Ngày 04/7/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương
ban hành Quyết định số 37/QĐ-VKSBD kháng nghị bản án sơ thẩm theo
hướng tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Văn H.
Ngày 06/7/2022, bị cáo Trần Văn H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm;
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
giữ nguyên Quyết định kháng nghị số 37/QĐ-VKSBD ngày 04/7/2022 của
5

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương.


Bị cáo Trần Văn H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm
quy kết, bị cáo thấy rằng mức hình phạt 09 năm tù là đúng nên bị cáo xin rút
yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên toà
đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Văn H đã có hành vi dùng các vật dụng bom giả,
súng giả đe dọa làm cho nhân viên của Phòng giao dịch Ngân hàng B - Chi
nhánh B lâm vào tình trạng không thể chống cự và bị cáo chiếm đoạt số tiền
441.269.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Cướp tài sản” theo
điểm a khoản 3 Điều 168 Bộ luật hình sự như án sơ thẩm tuyên là có căn cứ.
Tại phiên toà hôm nay bị cáo H rút yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử phúc
thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo.
Xét kháng nghị tăng hình phạt đối với bị cáo thấy rằng: măc dù bị cáo
có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nhưng
số tiền bị cáo chiếm đoạt có giá trị gần đến mức cao nhất của khung hình phạt,
do đó mức án 09 năm tù đối với bị cáo là nhẹ không đảm bảo tính răn đe,
phòng ngừa tội phạm. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, sửa Bản án sơ thẩm, tăng hình phạt
đối với bị cáo. Xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 13 năm tù.
Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu:
Thống nhất tội danh, tình tiết giảm nhẹ của đại diện Viện Kiểm sát đề
nghị áp dụng đối với bị cáo. Bị cáo là người làm ăn chân chính, do làm ăn thua
lỗ, nợ nần nhiều nên bị cáo đã đem xe ô tô đi cầm cố trả nợ. Để có tiền lấy xe
về cho gia đình, bị cáo đã suy nghĩ nông cạn nảy sinh ý định đi cướp tiền tại
ngân hàng. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: tự
nguyện khắc phục hậu quả cho bị hại, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, có
thành tích xuất sắc trong công tác (được tặng chiến sĩ thi đua); phạm tội lần
đầu, tuổi đời còn quá trẻ; bố là thương binh, có ông, bà tham gia cách mạng.
Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự
nên Toà án cấp sơ thẩm xử phạt cáo mức án 09 năm tù là tương xứng với hành
vi phạm tội của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng nghị của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Bị cáo H không tranh luận.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của
mịnh, xin Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên mức hình phạt cho bị cáo.
6

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:


[1] Cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm đã thực hiện đúng
thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Văn H, kháng nghị của Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Bình Dương đúng hình thức, nội dung, nộp trong hạn luật
định nên kháng cáo, kháng nghị hợp lệ được Hội đồng xét xử xem xét theo
trình tự phúc thẩm.
[3] Do cần tiền để trả nợ và tiêu xài cá nhân nên Trần Văn H đã chuẩn
bị xe mô tô hiệu Suzuki, 01 hộp quẹt hình khẩu súng, 02 bình điện quấn băng
keo giống bom để sử dụng khi cướp tài sản. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày
28/12/2021, H điều khiển xe mô tô hiệu Suzuki mang theo các vật dụng trên
đến chờ bên ngoài Phòng giao dịch của Ngân hàng B - Chi nhánh B. Đến 13
giờ 30 phút cùng ngày, khi ngân hàng mở cửa H sử dụng súng giả, bom giả
nêu trên vào bên trong ngân hàng khống chế các nhân viên Ngân hàng và
chiếm đoạt số tiền 441.269.000 đồng.
[4] Quá trình điều tra, xét xử bị cáo đã khai nhận diễn biến hành vi
phạm tội như nêu trên. Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã
xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, ngoài ra còn ảnh hưởng
nghiêm trọng đến trật tự trị an xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân
dân. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” với
tình tiết định khung tăng nặng “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000
đồng đến dưới 500.000.000 đồng” theo điểm a khoản 3 Điều 168 Bộ luật
Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[5] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo xin
giảm nhẹ hình phạt, xét việc rút kháng cáo của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện,
đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử phúc thẩm
đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo.
[6] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề
nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Văn H, Hội đồng xét xử phúc thẩm
thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhân thân tốt chưa có tiền
án, tiền sự, quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo thành khẩn
khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã bồi thường, khắc phục toàn bộ thiệt hại, bị
cáo có thời gian phục vụ trong lực lượng quân đội, đã hoàn thành nghĩa vụ và
xuất ngũ về địa phương; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo
điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có 02 tình tiết
giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Toà án cấp sơ thẩm áp dụng
khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo H dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt với mức án 09 năm tù là đúng pháp luật, không nhẹ. Đảm bảo
tính răn đe và phòng ngừa tội phạm.
7

[7] Với các chứng cứ và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm
không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương,
giữ nguyên Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Trần Văn H.
[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đề nghị
chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, tăng hình
phạt đối với bị cáo H lên 12 đến 13 năm tù là không phù hợp với nhận định
của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[9] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Văn H không phải chịu tiền án
phí hình sự phúc thẩm.
[10] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 342; Điều 348 và điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố
tụng Hình sự năm 2015;
1/. Chấp nhận yêu cầu rút kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo
Trần Văn H.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt
của bị cáo Trần Văn H.
2/. Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số 37/QĐ-VKSBD ngày
04/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương.
Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 87/2022/HS-ST ngày 22/6/2022 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Dương về phần quyết định hình phạt đối với bị cáo
Trần Văn H.
Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Văn H 09 (Chín) năm tù về tội “Cướp tài sản”.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/12/2021.
3/. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Trần Văn H không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
4/. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5/. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
8

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- Tòa án nhân dân tối cao (1); THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND cấp cao tại TP.HCM (1);
- TAND tỉnh Bình Dương (2);
- VKSND tỉnh Bình Dương (1);
- Cục THADS tỉnh Bình Dương (1);
- Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương (1);
- Công an tỉnh Bình Dương (1);
- Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Dương (2);
- Lưu VP(3), HS(2).15b.HDT. Hoàng Minh Thịnh

You might also like