You are on page 1of 8

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TỈNH BẮC NINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


Bản án số:48 /2022/HS-ST
Ngày: 31/5/2022
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đinh Xuân Tuấn
Thẩm phán: Ông Hoàng Tuấn Anh
Các hội thẩm nhân dân: Ông Đinh Minh Hải
Ông Nguyễn Đình Hanh
Ông Trần Văn Hiệu
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng Nhung- Thư ký Tòa án;
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh tham gia phiên tòa:
Ông Đoàn Anh Phương và ông Nguyễn Toán Cường - Kiểm sát viên
Ngày 31 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2022/TLST-
HS ngày 26 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
76/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:
Phạm Văn C, sinh năm 1996; nơi ĐKHKTT: số 7, ngõ 84, đường Nguyễn
Cao, phường Ng, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; Chỗ ở: số nhà 5, ngõ 8 đường
Thánh Thiên, phường L, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lao động tự
do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không;
quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Mậu Ng, sinh năm 1978 và bà Vũ Thị Oa,
sinh năm 1977; gia đình có 3 anh em, bị cáo là con thứ nhất; vợ, con: chưa có;
tiền sự: Không;
Tiền án: Tại bản án số 219/2019/HSST ngày 17/9/2019, Tòa án nhân dân
thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 26 tháng tù về tội “Mua bán trái
phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt ngày 29/4/2021.
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/01/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam
tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh; có mặt.
*Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trần Đình Thống, Luật sư thuộc Công
ty luật TNHH Công Minh - Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh; có mặt.

1
* Người làm chứng:
1. Anh Lý Văn Th, sinh năm 1995; trú tại: thôn Th, xã B, huyện L, tỉnh Bắc
Giang. Vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1994; trú tại: thôn K, xã K, thành phố B,
tỉnh Bắc Ninh. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và cáo trạng truy tố, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Khoảng 10h45 ngày 16/01/2022 Cơ quan CSĐT (PC04) Công an tỉnh Bắc
Ninh phối hợp với Công an xã Phương Liễu bắt quả tang Phạm Văn C có hành
vi vận chuyển trái phép chất ma tuý tại khu vực cổng chào thôn Phương Cầu, xã
Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Thu giữ tại bàn tay trái của C 01
túi nilon màu đen bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa chất tinh thể màu
trắng và 03 túi nilon màu trắng đều chứa các viên nén màu nâu. C khai các chất
để trong các túi nilon bị thu giữ đều là ma túy do một người tên D thuê C vận
chuyển với giá 2.000.000 đồng. Lực lượng Công an đã tiến hành niêm phong số
ma tuý và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với đường trước sự
chứng kiến của anh Lý Văn Th và anh Nguyễn Văn B theo quy định của pháp
luật.
Ngoài ra, C còn tự nguyện giao nộp cho lực lượng Công an 01 điện thoại
Iphone XS Max, màu đen có lắp sim số 0363.956.205. Qua kiểm tra tin nhắn,
Zalo, Facebook và các dữ liệu điện tử khác trong điện thoại đều không có nội
dung liên quan đến ma túy. C chỉ ra số điện thoại của D lưu trong danh bạ điện
thoại là 0978.265.928 được lưu tên “a dung hd”
Cùng ngày 16/01/2022, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Ninh đã ra Lệnh
khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Văn C. Quá trình khám xét không thu giữ,
đồ vật, tài liệu gì.
Trên cơ sở quyết định Trưng cầu giám định của Cơ quan CSĐT Công an
tỉnh Bắc Ninh. Ngày 18/01/2022, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh
đã tiến hành giám định và ban hành bản Kết luận giám định số 168/KLGĐMT-
PC09, kết luận:
“Các viên nén màu nâu bên trong 01 (một) hộp giấy gửi giám định có khối
lượng là 114,6223 gam, là ma tuý, loại ma tuý MDMA; Chất tinh thể màu trắng

2
bên trong 01 (một) hộp giấy gửi giám định có khối lượng là 99,3919 gam, là ma
tuý, loại ma tuý Ketamine;
MDMA, Ketamine là chất ma tuý được quy định tại Nghị định
73/2018/NĐCP ngày 15/5/2018 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma
túy và tiền chất.”
Về nguồn gốc số ma túy CQĐT thu giữ của C, quá trình điều tra ban đầu C
khai nhận: Khoảng 8h ngày 16/01/2022, C nhận được điện thoại của một người
bạn tên là D (không rõ địa chỉ) bảo C xuống xã Phương Liễu, huyện Quế Võ,
tỉnh Bắc Ninh chơi với D. Sau khi nhận điện thoại, C đi xe taxi từ thành phố Bắc
Giang đến xã Phương Liễu gặp D. Tại đây, D bảo C lên xe taxi đi chơi với D, C
đồng ý lên xe taxi và ngồi ở hàng ghế sau cùng D. Khi xe taxi đi đến chung cư
Golden Park ở xã Phương Liễu, huyện Quế Võ thì D bảo người lái xe taxi dừng
lại và bảo C cầm túi nilon chứa ma tuý mang sang đưa cho khách ở xe taxi đỗ
bên kia đường, xong việc D cho C 2.000.000 đồng để tiêu, C đồng ý. Khi C
đang cầm túi nilon chứa ma tuý đi bộ một mình sang xe taxi đang đỗ bên kia
đường để giao ma tuý thì bị lực lượng Công an phát hiện và bắt giữ như đã nêu
trên.
Sau đó C thay đổi lời khai và cho rằng số ma túy bị thu giữ ở trên là do C
mua của D với giá 32.000.000 đồng để sử dụng để sử dụng cho bản thân, C đã
trả cho D 2.000.000 đồng và hẹn D tối đến nhà C trả tiếp số tiền còn lại là
30.000.000 đồng. Khi C mang ma tuý lên xe taxi để đi về nhà thì bị lực lượng
Công an bắt quả tang. Lý do C thay đổi lời khai là do khi đường bị bắt đã hoảng
loạn và khai vận chuyển ma túy cho D. Ngoài ra, C không đưa ra được căn cứ
nào khác.
Ngày 28/2/2022, Cơ quan điều tra đã có văn bản gửi Tập đoàn Công nghiệp
và Viễn thông Quân đội Viettel đề nghị cung cấp thông tin chủ thuê bao và sao
kê thông tin liên lạc của số điện thoại 0978.265.928.
Trước khi xét xử sơ thẩm, Đại diện Viện kiểm sát đã xuất trình thêm tài
liệu thu thập bổ sung, cụ thể: Ngày 30/5/2022, Tập đoàn Công nghiệp và Viễn
thông Quân đội Viettel có văn bản trả lời thông tin chủ thuê bao 0978.265.928 là
Hoàng Văn T, sinh ngày 25/5/1992, địa chỉ: C, C, Hải Dương. Cơ quan điều tra
đã xác minh tại xã C, C, Hải Dương không có công dân nào tên là Hoàng Văn T
có địa chỉ nêu trên.

3
Về vật chứng của vụ án gồm: 01 hộp giấy đựng mẫu vật hoàn lại sau giám
định niêm phong có dấu, chữ ký của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc
Ninh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu đen đã qua sử dụng.
Với nội dung trên, tại Cáo trạng số 29/CT-VKS-P1 ngày 25/4/2022 của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo Phạm Văn C về tội “Vận
chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận: Sáng ngày 16/1/2022, bị cáo đi
từ Bắc Giang xuống Phương Liễu, Quế Võ thì gặp D là bạn của bị cáo, xong bị
cáo bảo D bán cho ma túy Ke và ma túy kẹo để sử dụng. D đồng ý bán với giá
32.000.000 đồng thì bị cáo đã trả cho D 2.000.000 đồng và hẹn D tối đến nhà bị
cáo trả tiếp số tiền còn lại là 30.000.000 đồng. Khi bị cáo mang ma tuý lên xe
taxi để đi về nhà thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Ban đầu bị cáo hoảng
loạn nên đã khai vận chuyển ma túy cho D. Bị cáo nhận thức được hành vi của
mình là vi phạm pháp luật và mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị
cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố
tại phiên tòa phát biểu luận tội đã giữ nguyên Cáo trạng truy tố. Căn cứ vào
hành vi phạm tội; tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi; căn cứ vào nhân
thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị
HĐXX tuyên bố bị cáo Phạm Văn C phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma
túy”.
Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 250; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ
luật hình sự, xử phạt: Phạm Văn C 20 năm tù thời hạn tù tính từ ngày
16/01/2022. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung
đối với các bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng
hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn lại sau giám định.
Tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động Iphone XS Max màu đen. Đối với
người tên D, cơ quan điều tra tách ra khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu quan điểm: Chỉ dựa theo biên bản lời
khai ban đầu mà truy tố bị cáo về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy là không
phù hợp, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do
hậu quả của tội phạm chưa xảy ra, nhận thức pháp luật của bị cáo hạn chế, đề

4
nghị triệu tập người làm chứng để làm rõ cho lời khai của bị cáo, đề nghị trả hồ
sơ điều tra bổ sung để làm rõ hành vi của bị cáo.
Bị cáo nhất trí quan điểm bào chữa của Luật sư và trình bày bị cáo chỉ mua
ma túy để sử dụng.
Đại diện Viện kiểm sát đối đáp giữ nguyên quan điểm truy tố: Ma túy là
chất cấm theo quy định của Nhà nước do vậy không nhất thiết phải có hậu quả
xảy ra. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức điều khiển hành vi, bị cáo
không chứng minh được bị cáo bị hoảng loạn tinh thần. Quá trình điều tra đã có
lời khai rất rõ của những người làm chứng thể hiện nội dung anh Th và anh B
chứng kiến bị cáo khai là Vận chuyển ma túy thuê để được hưởng lợi 2.000.000
đồng. Lời khai ban đầu, lời khai tại biên bản quả tang và lời khai người làm
chứng đều phù hợp, về sau bị cáo mới thay đổi lời khai nhưng không có căn cứ
chứng minh, bị cáo mua với số tiền lớn nhưng lại được nợ 30 triệu đồng, chỉ trả
trước 2 triệu đồng. Bị cáo khai bị cáo bị Điều tra viên đọc lời khai nhưng bị cáo
không có căn cứ chứng minh bị cáo bị đánh đập ép cung. Việc luật sư đề nghị
trả hồ sơ điều tra bổ sung là không có cơ sở.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bắc
Ninh, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh, Kiểm sát viên trong
quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo
không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo không thừa nhận
có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy, bị cáo thay đổi lời khai ban đầu và
trình bày bị cáo chỉ mua ma túy của anh D để sử dụng. Tuy nhiên, tại biên bản
bắt người phạm tội quả tang có sự chứng kiến của anh Lý Văn Th và anh
Nguyễn Văn B, bị cáo hoàn toàn được tự nguyện khai báo và trình bày rất rõ về
hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy cho anh D để lấy 2.000.000 đồng tiền
công. Tại các bản tự khai và biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung (Bút lục
42,43,45,49,51) đều phù hợp với lời khai ban đầu khi bị bắt quả tang. Lời khai

5
của bị cáo tại phiên tòa là không có căn cứ và nhiều mâu thuẫn, bị cáo thay đổi
lời khai nhưng không đưa ra được căn cứ chứng minh nên không có cơ sở chấp
nhận.
Căn cứ vào lời khai của bị cáo khi bị bắt quả tang và giai đoạn đầu quá trình
điều tra ,phù hợp lời khai người làm chứng, bản kết luận giám định, vật chứng
thu giữ được cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, HĐXX thấy
có đủ cơ sở xác định: Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 16/01/2022, tại khu vực cổng
chào thôn Phương Cầu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, tổ công
tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bắc Ninh phối hợp
với Công an xã Phương Liễu phát hiện bắt quả tang Phạm Văn C có hành vi vận
chuyển trái phép 114,6223 gam ma tuý loại MDMA và 99,3919 gam ma tuý loại
Ketamine cho đối tượng tên D để lấy 2.000.000đ tiền công. Do đó, hành vi của
Phạm Văn C đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo
điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự như Cáo trạng truy tố. Luật sư bào
chữa cho bị cáo đưa ra lời bào chữa là không có căn cứ như đối đáp của đại diện
Viện kiểm sát là đúng.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm
phạm tới chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý chất ma túy. Ma túy
còn là nguồn gốc dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây mất trật tự trị
an tại địa phương, do vậy cần có hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo khỏi
đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng
ngừa chung.
Xét về vai trò, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự, HĐXX thấy:
Bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân
thân xấu, đã bị xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma túy mặc dù chưa được
xóa án tích nhưng đến nay lại tiếp tục phạm tội chứng tỏ bị cáo không có ý thức
cải tạo giáo dục bản thân. Lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tăng
nặng “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Bị cáo vận chuyển trái phép chất ma túy nhưng chưa được hưởng lợi, gia
đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu vật còn lại sau giám định;

6
- Đối với 01 chiếc điện thoại Iphone XS Max của bị cáo sử dụng vào việc
liên lạc để vận chuyển trái phép chất ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà
nước.
* Liên quan trong vụ án:
Đối với người tên D theo C khai đã thuê C vận chuyển chất ma túy (lời
khai ban đầu) C không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu và có mối quan hệ với
những ai, do vậy Cơ quan điều tra làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.
Đối với những người lái xe taxi chở C đi, do C không nhớ biển số xe và xe
của hãng nào nên khi nào Cơ quan điều tra làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.
Đối với người sử dụng số điện thoại 0978.265.928, theo C khai là cũng D.
Ngày 15,16,/1/2022 không có cuộc gọi nào từ số của C đến số này. Cơ quan
điều tra đã có văn bản đề nghị Tập đoàn Công nghiệp và Viễn thông quân đội
Viettel cung cấp thông tin xác định số điện thoại này của anh Hoàng Văn T, sinh
ngày 25/5/1992, địa chỉ: C, C, Hải Dương. Cơ quan điều tra đã xác minh tại xã
C, C, Hải Dương không có công dân nào tên là Hoàng Văn T có địa chỉ nêu trên.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn C phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma
túy”.
Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 250; điểm h khoản 2 Điều 52; Điều 38 Bộ
luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Văn C 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn tù tính
từ ngày tạm giữ, tạm giam 16/01/2022.
Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tiếp tục duy trì Quyết định tạm
giam số 102/2022/HSST-QĐTG ngày 11/5/ 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Ninh đối với Phạm Văn C để bảo đảm việc thi hành án.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật
tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 hộp giấy đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định, niêm
phong còn nguyên vẹn. Một mặt ghi chữ” cơ quan CSĐT (PC04) - Công an tỉnh
Bắc Ninh. Mẫu vật còn lại sau giám định kèm theo KLGĐ số 168/KLGĐMT-
PC09 ghi ngày 18/01/2022 phòng PC09-Công an tỉnh Bắc Ninh.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS
Max đã qua sử dụng kèm sim.

7
(Vật chứng có đặc điểm theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số
62/2022 ngày 26/4/2022 giữa Công an tỉnh Bắc Ninh (PC04) và Cục thi hành án
dân sự tỉnh Bắc Ninh).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị
cáo Phạm Văn C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND Cấp cao; VKSND Cấp cao; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Bắc Ninh;
- Phòng ma túy- Công an tỉnh Bắc Ninh;
- Phòng PC 10; PV 26 - CA tỉnh Bắc Ninh; (Đã ký)
- Trại Tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh;
- Cục THADS tỉnh Bắc Ninh;
- Các bị cáo; người tham gia tố tụng; Đinh Xuân Tuấn
- Lưu HS, VP.

You might also like