You are on page 1of 2

TÌNH HUỐNG 1:

Bản án số: 65/2021/HS-ST


Ngày: 21 - 9 – 2021

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA HƯNG TỈNH NAM ĐỊNH

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:


Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng
tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện
Nghĩa Hưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng, Kiểm sát viên
trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý
kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng; người bị hại không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng
của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về xác định tội danh: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp
với lời khai của người người bị hại và các tài liệu đã được xác lập có trong hồ sơ vụ án
cũng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng đã truy tố bị cáo
ra trước phiên toà hôm nay. Như vậy đã đủ cơ sở xác định: Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày
18 tháng 6 năm 2021, tại nhà ông Bùi Văn T ở xóm x, xã M, huyện N, Hoàng Văn Q đã
có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc nhẫn tròn trơn kim loại vàng, loại 1, vàng 24K,
bên trong có chữ “ĐN” có khối lượng 0,5 chỉ có giá trị là 2.570.000 đồng; 01 chiếc nhẫn
tròn trơn kim loại vàng, loại 1, vàng 24K, bên trong có chữ “ĐN” có khối lượng 1 chỉ
có giá trị là 5.140.000 đồng và số tiền 700.000 đồng của ông Bùi Văn T. Tổng tài sản
Hoàng Văn Q trộm cắp của ông Bùi Văn T có giá trị là 8.410.000 đồng. Đối chiếu với
quy định của Bộ luật hình sự thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài
sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Hành vi bị cáo đã thực hiện xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác,
là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội trong khu vực, làm ảnh
hưởng đến nếp sống văn hoá của dân tộc. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm
hình, việc đưa bị cáo ra xét xử công khai, lên án xử lý nghiêm là cần thiết nhằm góp
phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị
cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân tốt. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52
Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Bị cáo Hoàng Văn Q
đã tự nguyện bồi thường số tiền 8.410.000 đồng cho bị hại, phạm tội lần đầu và thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi trộm cắp tài sản, Q đã tự thú và tại phiên toà xét xử
bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo Hoàng Văn Q được hưởng các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ
luật Hình sự. Ngoài ra bị hại có đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo
được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51
Bộ luật Hình sự.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng
hình phạt tù có thời hạn nhưng cho bị cáo hưởng án treo cũng có thể cải, giáo dục bị cáo
thành công dân tốt.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại
phiên toà cho thấy bị cáo là người sống phụ thuộc gia đình, có điều kiện kinh tế còn khó
khăn. Vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận bồi thường, không có yêu cầu gì
khác, do vậy không đặt ra xem xét.
[6] Đối với chị Nguyễn Thị Th là người đã mua 02 chiếc nhẫn vàng của Q, nhưng
không biết đó là tài sản do Q trộm cắp mà có nên cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Nghĩa
Hưng không xử lý, xét thấy là phù hợp.
[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với 02 nhẫn vàng và số tiền 700.000 đồng Q trộm
cắp của ông Bùi Văn T ngày 18/6/2021, qua điều tra xác định: Q đã bán cho chị Nguyễn
Thị Th. Chị Th đã bán lại cho một người phụ nữ không biết tên tuổi địa chỉ; số tiền
700.000 đồng Q đã chi tiêu cá nhân hết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Nghĩa
Hưng không thu giữ được.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy
định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 6; Điều 23 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội.
[9] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng là phù hợp.

YÊU CẦU:
Hãy dùng những kiến thức và những chia sẻ từ buổi Đàm thoại trước đó,
Anh/chị hãy phân tích đoạn Nhận định của Tòa án nhân dân huyện Nghĩ Hưng tỉnh
Nam Định và truyền đạt lại những nội dung quan trọng.
(nội dung truyền đạt do BTC quyết định)

You might also like