You are on page 1of 5

TAND huyện Hải Hậu, Nam Định vừa đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án “Đánh bạc”.

Bằng chứng kết tội


bị cáo Đinh Xuân Phong chỉ dựa vào lời khai, không có bằng chứng chứng minh việc giao dịch số
tiền 2 triệu đồng cá độ giữa bị cáo với các bên liên quan.

Trận cầu định mệnh

Theo cáo trạng của Viện KSND huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, khoảng 0g30 phút ngày 12-7-2018,
Đinh Xuân Phong đi bộ từ khách sạn Sơn Hằng đến ki ốt Tuấn Kiệt ở khu du lịch Thịnh Long của
Nguyễn Văn Quân, SN 1985 (hộ khẩu thường trú tại thị trấn Cát Thành, huyện Trực Ninh, Nam Định)
thì Quân nhờ Phong trông coi ki ốt để đi công việc. Phong đồng ý và bật ti vi xem trực tiếp trận đấu
bóng đá giữa đội tuyển Anh và đội tuyển Croatia trong khuôn khổ Vòng chung kết Cúp bóng đá thế
giới năm 2018 (Wold cup 2018) được phát sóng trên Đài truyền hình Việt Nam.

Tại đây Quân góp 3 triệu đồng và Phong 2 triệu đồng để tham gia cá cược bóng đá. Sau đó Quân liên
hệ với Trần Văn Tân. Đến 01g 40 phút cùng ngày, Tân đang xem trận bóng đá giữa đội tuyển Anh và
Croatia (chưa kết thúc 90 phút chính thức) tại nhà nghỉ Ngọc Linh thì bị CA huyện kiểm tra phát hiện
và triệu tập thêm Nguyễn Văn Quân đưa đến CA thị trấn Thịnh Long, huyện Hải Hậu lập biên bản bắt
người phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng liên quan đến việc phạm tội.

Căn cứ lời khai của Quân, CQĐT triệu tập Đinh Xuân Phong tới làm việc. Sau khi bị khởi tố và bị áp
dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú”, Đinh Xuân Phong đã thay đổi lời khai và cho
rằng không biết việc Nguyễn Văn Quân tham gia cá độ bóng đá với số tiền 3 triệu đồng, bản thân
Phong không góp số tiền 2 triệu đồng. Từ các căn cứ trên, Viện KSND huyện Hải Hậu khẳng định
hành vi của Đinh Xuân Phong phạm vào tội “Đánh bạc”, được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật
Hình sự.

Chứng cứ định tội chỉ là những lời khai

Ngày 25-6-2019, TAND huyện Hải Hậu đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Đinh Xuân Phong bị
Viện KSND huyện Hải Hậu truy tố về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Quân thừa nhận có thỏa thuận cá độ bóng đá với Phong nhưng không cầm tiền của
Phong. Mọi giao dịch đánh bạc chỉ diễn ra giữa Quân và Tân, sau đó toàn bộ tin nhắn trao đổi về tiền
cá cược, tỷ lệ ăn chia đã bị Quân xóa hết. Quân thừa nhận khi nghe CA nói rằng 5 triệu mới bị xử lý
trách nhiệm hình sự thì mới khai ra có Phong nhờ đánh hộ 2 triệu. Có lúc Quân nói mình từng tham
gia trên 60 lần đánh bạc.

Quá trình điều tra, Phong cho rằng đã được cán bộ điều tra định hướng để khai báo. Trong danh
sách những người phải có mặt tại phiên tòa có tên 7 cán bộ điều tra CA huyện Hải Hậu là Nguyễn
Mạnh Đạt, Lã Tấn Thành, Lưu Văn Nghị, Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Hoản, Trần Quang Đại và Phạm
Văn Thế. Hai ông Đạt và Hoản làm đơn xin vắng mặt. Các luật sư của Phong cho rằng, quá trình điều
tra bộc lộ nhiều sai sót về tố tụng, có dấu hiệu CQĐT mớm cung nên lý do vắng mặt của hai điều tra
viên Đạt và Hoản là khó chấp nhận.

Những người tham dự phiên tòa đều muốn nghe các điều tra viên nói rõ lại vụ án một cách chi tiết
nhất cho HĐXX. Tuy nhiên, tất cả đều trả lời ngắn gọn rằng quá trình điều tra tuân thủ đầy đủ quy
định pháp luật. Ông Trần Quang Đại, một trong 3 cán bộ CA tham gia lập biên bản bắt người phạm
tội quả tang không nhớ được tên cũng như có bao nhiêu người bị bắt quả tang. Khi được luật sư bào
chữa cho bị cáo hỏi về nhiều tình tiết của vụ án, ông Đại đã đề nghị HĐXX cho mình được quyền từ
chối trả lời. Luật sư đã phải nhắc nhở, quyền này chỉ dành cho người tham gia tố tụng, không dành
cho ông Đại.

Danh sách người làm chứng có tên hai ông Nguyễn Xuân Thu và Trần Ngọc Sơn nhưng không được
tòa gửi giấy triệu tập.

Ngay từ phần xét hỏi cũng như phần tranh luận giữa các luật sư với đại diện Viện KSND xoáy vào hai
trọng tâm. Phía luật sư cho rằng không thể coi đây là vụ án đánh bạc khi không có bằng chứng vật
chất cụ thể chứng minh việc giao dịch tiền giữa Phong và Quân. Không có hình ảnh, tin nhắn chứng
minh Phong đã tham gia cá độ hay bàn bạc với những người liên quan. Quá trình Quân và Tân bị CA
bắt quả tang vào 2g sáng ngày 12-7-2018 thì lúc đó Phong đang ngủ tại nhà và chỉ bị triệu tập lên
đồn CA Thịnh Long làm việc vào hồi 11g30 cùng ngày. Như vậy, không thể cho rằng Phong bị bắt quả
tang. Hiện trường vụ án cũng không được làm rõ. Lời khai của Quân và Phong về việc cùng bị bắt
phạm tội quả tang sáng ngày 12-7-2018 đã không đúng với sự thật khách quan nên có dấu hiệu
Phong bị mớm cung.

Đại diện Viện KSND vẫn khẳng định, dựa vào các quy định của pháp luật, Phong vẫn được coi là
phạm tội quả tang. Lời khai của Phong cũng như Quân, Tân... chính là bằng chứng khẳng định cho
việc đánh bạc cho dù Phong sau này không công nhận những lời khai của mình tại CQĐT. Viện KSND
yêu cầu Phong phải trả 2 triệu đồng tiền tang vật vụ án cho dù chưa bắt được quả tang tại hiện
trường số tiền này?

Khi được nói lời sau cùng, bị cáo Đinh Xuân Phong một mực kêu oan. Trái với mong muốn của nhiều
người rằng hồ sơ vụ án sẽ bị HĐXX trả lại, yêu cầu điều tra bổ sung, sau khi nghị án, HĐXX tuyên bị
cáo Đinh Xuân Phong phạm tội đánh bạc với mức án 10 tháng 2 ngày cải tạo không giam giữ, không
có hình phạt bổ sung. Thời gian này đúng bằng thời gian Phong đã bị tạm giam từ ngày 13-11-2018
đến 24-2-2019. Trong phần đánh giá, HĐXX cũng đồng ý với căn cứ của các luật sư, quá trình điều tra
vụ án có một số vi phạm về tố tụng nhưng không làm thay đổi nội dung vụ án.

Anh Phong cho biết sẽ kháng cáo. Ngày 26-3-2019, CQĐT, Viện KSND tối cao có Công văn gửi tới Viện
trưởng Viện KSND tỉnh Nam Định đề nghị làm rõ đơn của công dân tố cáo việc các cơ quan tố tụng
huyện Hải Hậu, mặc dù không có căn cứ vẫn khởi tố và truy tố anh Đinh Xuân Phong về tội “Đánh
bạc”. Công văn chỉ đạo, trong hoạt động kiểm sát, nếu phát hiện dấu hiệu tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp thì Viện KSND tỉnh báo cáo lên CQĐT, Viện KSND tối cao để giải quyết theo quy định
của pháp luật.

1. Nội dung vụ án

Khoảng 14 giờ ngày 31/5/2018, bị cáo Lê Văn B đi mua gỗ tại xã I, huyện C, tỉnh G. Do chủ nhà bán gỗ
đi vắng, đồng thời nghe một số người nói, tại khu vực Thủy điện Z thuộc xã Y, huyện S, tỉnh K có
đánh bạc nên bị cáo B đi đến khu vực nêu trên để đánh bạc. Tại đây, bị cáo B nhìn thấy nhiều người
tập trung đánh bạc thắng thua bằng tiền, dưới hình thức “xóc đĩa”. Bị cáo B lấy 2.300.000 đồng trong
số tiền mang theo là 20.300.000 đồng để tham gia đánh bạc. Cùng ngày, bị báo Trần Xuân T mang
theo 20.000.000 đồng, nhờ đối tượng tên “Cu em” (không rõ lai lịch) điều khiển xe mô tô chở bị cáo
T từ thị trấn X, huyện C, tỉnh G vào khu vực Thủy điện Z để đánh bạc.
Đến 16 giờ 30 ngày 31/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an huyện C, tỉnh G phát hiện,
lập biên bản phạm tội quả tang đối với những người đang có mặt tại sòng bạc và khu vực xung
quanh sòng bạc, gồm: Trần Mộng H, bị cáo T, Ngô Văn P, Lê Tùng D, Đỗ Xuân P, bị cáo B, Lê Thành K,
Tạ Ngọc L, Phan Lê V; thu giữ số tiền 94.304.000 đồng. Tuy nhiên, Cơ quan CSĐT không bắt được tất
cả các đối tượng tham gia đánh bạc mà chỉ xác định được bị cáo T và bị cáo B sử dụng 29.300.000
đồng trong tổng số tiền 94.304.000 đồng để tham gia đánh bạc.

Ngày 02/6/2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện C, tỉnh G chuyển hồ sơ và tang vật vụ việc cho Cơ
quan CSĐT Công an huyện S, tỉnh K để điều tra theo thẩm quyền, vì địa điểm đánh bạc thuộc địa bàn
xã Y, huyện S, tỉnh K.

2. Quá trình tố tụng của vụ án

- Kết luận điều tra số 02/KLĐT ngày 20/01/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện S, tỉnh K đề nghị truy
tố Trần Xuân T và Lê Văn B về tội “Đánh bạc” theo Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Đối với các đối tượng: Trần Mộng H, Ngô Văn P, Lê Tùng D, Đỗ Xuân P, Lê Thành K, Tạ Ngọc L, Phan
Lê V dù có mặt tại hiện trường, nhưng chỉ khai nhận là xem đánh bạc nên Cơ quan CSĐT Công an
huyện S, tỉnh K cho rằng không có cơ sở để xử lý.

Đối với các đối tượng khi bị Công an huyện C, tỉnh G phát hiện đã bỏ chạy, không xác định được
nhân thân nên tiếp tục điều tra, xử lý sau.

- Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 31/01/2019, VKSND huyện S, tỉnh K truy tố Trần Xuân T và Lê Văn B về
tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự (với số tiền dùng để đánh bạc là 29.300.000
đồng).

- Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 07/3/2019 của TAND huyện S, tỉnh K quyết định:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo
Trần Xuân T 14 tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 28
tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị
báo Lê Văn B 08 tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16
tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

- Ngày 04/4/2019, VKSND tỉnh K có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 44/QĐ-VKS đối với Bản án
hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 07/3/2019 của TAND huyện S, tỉnh K, đề nghị TAND tỉnh K
xét xử theo thủ tục phúc thẩm, hủy bản án sơ thẩm nêu trên để điều tra lại.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 30/5/2019, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa rút toàn bộ kháng nghị,
nên Hội đồng xét xử phúc thẩm TAND tỉnh K ban hành Quyết định số 09/2019/HSPT-QĐ, đình chỉ xét
xử phúc thẩm đối với vụ án Trần Xuân T và Lê Văn B về tội “Đánh bạc”; bản án sơ thẩm số
02/2019/HS-ST ngày 07/3/2019 của TAND huyện S, tỉnh K có hiệu lực từ ngày 30/5/2019.
- Ngày 21/4/2020, Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số
06/2020/KN-HS, đề nghị Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử theo thủ tục giám đốc
thẩm, hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 09/2019/HSPT-QĐ ngày 30/5/2019 của TAND
tỉnh K và Bản án sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 30/7/2019 của TAND huyện S, tỉnh K để điều tra lại
theo đúng quy định của pháp luật.

- Quyết định giám đốc thẩm số 22/2020/HS-GĐT ngày 07/7/2020 của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp
cao tại Đà Nẵng tuyên xử: Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 06/2020/KN-HS ngày
21/4/2020 của Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng, hủy Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm
số 09/2019/HSPT-QĐ ngày 30/5/2019 của TAND tỉnh K và Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST
ngày 07/3/2019 của TAND huyện S, tỉnh K để điều tra lại theo đúng quy định pháp luật.

3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm

Trong quá trình lấy lời khai ban đầu tại Cơ quan CSĐT Công an huyện C, tỉnh G, bị cáo Trần Xuân T
khai nhận: … Có 35 đến 40 người tham gia đánh bạc; … do bản thân bị cáo T lo tập trung vào “bát
rung” trên chiếu bạc nên chỉ biết một số người tham gia đánh bạc như Phan Lê V, Lê Thành K và Tạ
Ngọc L,… Người đứng ra tổ chức đánh bạc là Lê Thành K, người làm “hồ ly” (chung tiền) có tên là Sáu
Bé, người cung cấp thức ăn là N…

Đối tượng Lê Thành K thừa nhận: Sòng bạc là do chính bản thân K đứng ra tổ chức, phục vụ bán
nước uống, thức ăn và thu tiền 1.000.000 đồng/ngày; những người tham gia đánh bạc có V, T, Sáu
Bé…

Lời khai ban đầu của bị cáo Lê Văn B và đối tượng Đỗ Xuân P đều khẳng đinh: Người tổ chức đánh
bạc tại khu vực Thủy điện Z vào ngày 31/5/2018 chính là Lê Thành K.

Khi vụ việc được chuyển cho Cơ quan CSĐT Công an huyện S, tỉnh K để điều tra theo thẩm quyền, thì
các đối tượng liên quan nêu trên thay đổi lời khai, dẫn đến mâu thuẫn giữa các lời khai và không phù
hợp với các chứng cứ khác của vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ
đồ vật, tài liệu,…; thế nhưng Cơ quan CSĐT Công an huyện S, tỉnh K không tiến hành đối chất để làm
sáng tỏ hành vi của từng đối tượng mà kết luận các đối tượng Trần Mộng H, Ngô Văn P, Lê Tùng D,
Đỗ Xuân P, Lê Thành K, Tạ Ngọc L, Phan Lê V,… không tổ chức đánh bạc và không tham gia đánh bạc
vào ngày 31/5/2018 là chưa đủ căn cứ vững chắc, có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội.

Ngoài ra, cơ quan tiến hành tố tụng huyện S, tỉnh K chỉ căn cứ vào lời khai của bị cáo T và bị cáo B để
xác định số tiền dùng để đánh bạc của các bị cáo là 29.300.000 đồng nên truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với các bị cáo T, B về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là
chưa đủ căn cứ. Bời vì: Theo biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ và bản ảnh hiện trường do
Cơ quan CSĐT Công an huyện C, tỉnh G lập, thể hiện khu vực đánh bạc có 02 chiếu bạc. Bên cạnh đó,
bị cáo T, bị cáo B và các đối tượng liên quan như Trần Mộng H, Ngô Văn P, Lê Tùng D, Đỗ Xuân P, Lê
Thành K, Tạ Ngọc L, Phan Lê V đều khai tại hiện trường có khoảng 30 người tham gia đánh bạc; số
tiền tạm giữ trên chiếu bạc là 94.304.000 đồng. Tuy nhiên, Cơ quan CSĐT Công an huyện S, tỉnh K đã
không điều tra làm rõ tại thời điểm bắt quả tang có mấy chiếu bạc đang hoạt động? Số tiền nêu trên
thu giữ của mấy chiếu bạc? Bị cáo T và bị cáo B tham gia là bao nhiêu? Số tiền trên chiếu bạc có bị
cáo T và bị cáo B tham gia là bao nhiêu? Giả sử số tiền nêu trên chỉ thu giữ tại chiếu bạc có bị cáo T
và bị cáo B tham gia đánh bạc, thì các bị cáo T và B phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng số tiền
của những người cùng đánh bạc được thu giữ trực tiếp tại chiếu bạc là 93.304.000 đồng và phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội “Đánh bạc” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

You might also like