You are on page 1of 6

BẢN LUẬN CỨ

Kính thưa Hội đồng xét xử! Kính thưa vị đại diện Viện kiểm sát! Thưa các Luật sư
đồng nghiệp cùng toàn thể quý vị có mặt tại phiên tòa hôm nay!

Tôi là Luật sư Trịnh Vũ Nhật Mai, hiện đang công tác tại Công ty luật TNHH X,
Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. Hôm nay, tôi có mặt tại phiên tòa này với tư cách là
người bào chữa cho bị cáo là ông Tạ Văn Trường trong vụ án “Chứa mại dâm”.

Lời đầu tiên, tôi trân trọng cảm ơn Hội đồng xét xử vì đã tạo điều kiện cho tôi
được tiếp cận, nghiên cứu hồ sơ vụ án và tham dự phiên tòa hôm nay để bào chữa cho ông
Tạ Văn Trường.

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, các lời khai và chứng cứ đã được thẩm định
tại phiên tòa, sau khi nghe quan điểm của vị đại diện VKS, tôi xin được trình bày quan
điểm của mình như sau:

Theo Cáo trạng số 118/CT-VKS-P1 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh
(“VKSND tỉnh Bắc Ninh”), bị cáo Tạ Văn Trường bị truy tố về tội “Chứa mại dâm” theo
điểm d khoản 2 Điều 327 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
(“BLHS”).

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ, lời khai có trong hồ sơ vụ án, qua quá trình xét
hỏi công khai tại phiên tòa ngày hôm nay, tôi nhận thấy có các vấn đề ảnh hưởng nghiêm
trọng đến việc xác định sự thật khách quan và tính toàn diện của vụ án trong quá trình
điều tra, truy tố của các cơ quan có thẩm quyền, cụ thể như sau:

1. Vi phạm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong hoạt động điều
tra, truy tố

1.1. Điều tra viên vi phạm quy định về đối chất

Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
(“BLTTHS”), biên bản đối chất được xem là nguồn chứng cứ giải quyết vụ án. Theo
khoản 1 Điều 189 BLTTHS, trước khi tiến hành đối chất, Điều tra viên phải thông báo
VKSND cùng cấp để cử Kiểm sát viên đến kiểm sát việc đối chất, nếu Kiểm sát viên vắng
mặt thì phải ghi rõ vào biên bản đối chất.

Tuy nhiên, tại Biên bản đối chất giữa bị cáo Trường và ông Thành ngày
10/08/2018 (BL 48-52), trong số những người tiến hành đối chất không có Kiểm sát viên
và Điều tra viên cũng không ghi nhận sự vắng mặt của Kiểm sát viên tại Biên bản này. Từ
đó dẫn đến biên bản đối chất không có sự kiểm soát của kiểm sát viên. Do dó, Biên bản
đối chất này đã vi phạm nghiêm trọng quy định của BLTTHS về thủ tục, trình tự đối chất
và không thể coi là nguồn chứng cứ để giải quyết vụ án.

Trên đây là quan điểm bào chữa của luật sư, một lần nữa, tôi kính đề nghị HĐXX
xem xét các đề nghị của tôi để từ đó đưa ra một bản án thấu tình đạt lý, thể hiện sự công
minh của các cơ quan có thẩm quyền xét xử, đồng thời thể hiện được tính nhân đạo cao,
giúp cho bị cáo Tạ Văn Trường có điều kiện thay đổi nhận thức, sửa chữa lỗi lầm của
mình, trở thành người con tốt của gia đình, công dân tốt của xã hội.

1.2. Cơ quan cảnh sát điều tra vi phạm quy định về lấy lời khai của anh Nguyễn
Văn Huy

Cụ thể, có 02 Biên bản lấy lời khai của anh Nguyễn Văn Huy cùng được lập vào
lúc 09h00 ngày 15/09/2018 nhưng bởi hai cán bộ điều tra và điều tra viên khác nhau (BL
35-40). Tại Biên bản ghi lời khai thứ nhất được thực hiện bởi cán bộ điều tra Ngô Đức
Hạnh (BL 35-37) ghi nhận địa điểm lấy lời khai là tại quán Karaoke – mát xa Thống
Nhất, không ghi nhận giờ kết thúc việc lấy lời khai. Tại Biên bản ghi lời khai thứ 2 được
thực hiện bởi Điều tra viên Vương Đức Hoàng và cán bộ điều tra Nguyễn Việt Hưng (BL
38-40), không ghi nhận địa điểm lấy lời khai và thời gian kết thúc việc lấy lời khai.

Điều 187 BLTTHS quy định “Biên bản ghi lời khai của người làm chứng được lập
theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này.”

Điều 178 BLTTHS quy định “Khi tiến hành hoạt động điều tra, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.”

Khoản 1 Điều 133 BLTTHS quy định “Biên bản ghi rõ địa điểm, giờ, ngày, tháng,
năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc, nội dung của hoạt động tố
tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc người liên
quan đến hoạt động tố tụng, khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị của họ.”

Theo đó, cơ quan cảnh sát điều tra đã vi phạm quy định về tố tụng, không đủ điều
kiện là nguồn chứng cứ để giải quyết vụ án, do đó ảnh hưởng đến việc xác định sự thật
khách quan trong quá trình điều tra và truy tố.

1.3. Vi phạm của VKSND tỉnh Bắc Ninh trong việc phân công thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử

Theo Quyết định phân công Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc giải quyết vụ án hình sự ngày 07/07/2018, VKSND tỉnh Bắc Ninh là cơ quan thực
hành quyền công tố và kiểm sát giải quyết (sau đây gọi tắt là “thực hành quyền công
tố”).
Theo quy định tại khoản 1 Điều 239 BLTTHS, trường hợp vụ án do VKS cấp trên
thực hành quyền công tố, chậm nhất là 02 tháng trước khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát
cấp trên phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền
xét xử sơ thẩm vụ án để cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án. Tuy nhiên,
trong quá trình điều tra vụ án, VKSND tỉnh Bắc Ninh không có thông báo cho VKSND
thị xã Từ Sơn để xử KSV tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án, cũng như không có quyết
định cử KSV thực hành quyền công tố, dẫn đến việc KSV của VKSND thị xã Từ Sơn
không tham gia nghiên cứu, không tiếp xúc toàn diện với hồ sơ vụ án, ảnh hưởng đến việc
xem xét, đánh giá các tài liệu, hồ sơ, tình tiết khách quan trong quá trình giải quyết vụ án.

2. Cơ quan tiến hành tố tụng chưa điều tra, làm rõ được nội dung vụ án, còn có
những tình tiết chưa rõ ràng, đánh giá chưa đúng sự thật khách quan trong
quá trình lấy lời khai

2.1. Chưa làm rõ được chính xác thời điểm vào làm việc của Liên và Trường

Theo các Biên bản ghi lời khai, ông Thành khai bị cáo Trường đến làm việc vào
giữa tháng 6 năm 2018, Liên đến làm việc vào cuối tháng 6 năm 2018 (BL 42-44). Tuy
nhiên, tại BL 88- 90, Liên lại khai khi đang làm thì Trường xin vào làm quản lý. Từ đó,
có sự mâu thuẫn giữa lời khai Liên và Thành về mốc thời gian vào làm việc. Cơ quan tiến
hành tố tụng chưa làm rõ được tình tiết này để xác định Liên hay Trường vào làm trước.
Ngoài ra, Liên còn khai mình là gái bán dâm tự do (BL 89).

Từ đó, việc không xác định được việc được chính xác thời điểm bắt đầu làm việc
của bị cáo Trường và Liên tại quán Ha Na gây ảnh hưởng đến việc xác định liệu có hành
vi mại dâm diễn ra tại quán Ha Na trước khi Trường vào làm việc tại đây hay không.

2.2. Chưa làm rõ việc Thọ đã từng đến quán Hana mua dâm trước đó

Tại BL 77, Thọ khai thỉnh thoảng có đến quán Hana mua dâm. Trong khi đó Liên
khai Liên bán dâm lần đầu tại quán Ha Na và ông Thành là chủ quán nhưng lại khai
không biết về việc mua dâm. Tình tiết này có ý nghĩa quan trọng để xác định xem quán
Hana có hoạt động chứa mại dâm trước khi bị cáo Trường đến làm việc hay không. Do bị
cáo Trường chỉ làm ngươi làm thuê cho ông Thành, nếu quán đã có hoạt động chứa mại
dâm từ trước thì Trường chỉ đang thực hiện theo các chỉ đạo và hướng dẫn của ông
Thành.

2.3. Chưa làm rõ vai trò của người phụ nữ tên Bắc và mối liên hệ của Bắc với bị
cáo Trường

Theo biên bản lấy lời khai, ông Thành khai không biết Bắc là ai và không có số
điện thoại của Bắc, cũng không dán số điện thoại tại quầy của quán Ha Na. Tuy nhiên, bị
cáo Trường khai số diện thoại của Bắc là do bị cáo thấy được dán trên quầy lễ tân và được
ông Thành hướng dẫn là nếu có khách vào mua dâm thì gọi vào số điện thoại này (BL 94-
96). Cơ quan điều tra đã tiến hành việc đối chất giữa ông Thành và bị cáo, tuy nhiên các
bên vẫn giữ nguyên lời khai, không giải quyết được sự mâu thuẫn liên quan đến vai trò và
xuất xứ của người tên Bắc. Tuy nhiên, cơ quan điều tra lại không tiếp tục điều tra, xác
minh về người này để tìm kiếm thêm các tình tiết quan trọng của vụ án.

Do cơ quan điều tra không tiến hành xác minh về thân phận của người tên Bắc, do
đó không làm rõ được lý do tại sao Trường lại có được số điện thoại của người này, tại
sao bị cáo lại biết phải gọi cho người này khi có khách tới mua dâm trong khi đây là lần
đầu tiên bị cáo thấy có khách mua dâm tới quán.

2.4. Chưa làm rõ mối quan hệ giữa chị Nguyên và Tâm; mối quan hệ giữa chị
Nguyên và người tên Bắc

Theo các biên bản lấy lời khai và hồ sơ điều tra, số điện thoại dán tại quầy lễ tân
của quán Ha Na là của một người tên Bắc. Tuy nhiên, chị Nguyên mới là người có mối
liên quan trực tiếp với một trong những người bán dâm là chị Tâm. Chị Nguyên có khai
Tâm là nhân viên quán karaoke của chị Nguyên và dặn Tâm không được đi bán dâm (BL
57-61). Tuy nhiên, Tâm lại khai về việc thỏa thuận với chị Nguyên đi bán dâm, trong đó
có cả thỏa thuận về phân chia tiền bán dâm với chị Nguyên (BL 82-87). Có thể thấy, lời
khai của chị Nguyên và Tâm có mâu thuẫn, tuy nhiên cơ quan điều tra không tiến hành
việc đối chất giữa những người có liên quan này, bỏ sót nhiều tình tiết quan trọng phục vụ
cho việc giải quyết vụ án.

Ngoài ra, cơ quan điều tra không làm rõ được tại sao khi bị cáo Trường gọi cho
người tên Bắc để điều thêm người bán dâm tới quán Ha Na thì nhân viên của chị Nguyên
là Tâm lại đến thực hiện hành vi này. Cơ quan điều tra cũng không làm rõ việc Tâm chỉ
làm việc cho chị Nguyên hay còn làm việc cho ai khác để xác định mối quan hệ giữa Tâm
và Bắc, từ đó xác định được mối quan hệ giữa ông Thành và Bắc để xác định sự tham gia
của những người này trong quá trình phạm tội của bị cáo Trường.

3. Cáo trạng của Viện Kiểm Sát chưa làm rõ được nguyên nhân, động cơ và mục
đích phạm tội của bị cáo Tạ Văn Trường về tội chứa mại dâm theo quy định
Điểm d Khoản 2, Điều 327 BLHS

3.1. Chưa đảm bảo về mặt khách quan của tội chứa mại dâm

Tội phạm chứa mại dâm được thể hiện ở hành vi chứa mại dâm với biểu hiện của
hành vi là cho thuê, cho mượn địa điểm như nơi ở, nơi làm việc, nhà hàng, quán trọ để
thực hiện hành vi mại dâm.Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 178/2004/NĐ-
CP, "cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện để hoạt động mại dâm" là hành vi của tổ
chức, cá nhân có quyền quản lý, chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản cho thuê, cho
mượn để hoạt động mại dâm. Người đứng tên chủ hộ kinh doanh quán Ha Na là ông
Thành, bị cáo Trường hoàn toàn không có quyền chiếm hữu, sử dụng hay định đoạt địa
điểm trên để chứa mại dâm mà chỉ là người làm thuê. Ngoài ra, việc bị cáo Trường thực
hiện các công việc hàng ngày tại quán Ha Na không có văn bản nào ghi nhận cụ thể, do
đó không có căn cứ để xác nhận lời khai của ông Thành trong việc giao toàn bộ quyền
quản lý, quyết định các hoạt động của quán cho bị cáo trong thời gian làm việc. Do đó,
hành vi của bị cáo Trường chưa đạt được mặt khách quan của tội danh chứa mại dâm.

3.2. Chưa làm rõ được động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo

Trong tất cả các lời khai của Trường đã nêu rõ việc bị cáo gọi điện cho Bắc và gọi
Liên ra tiếp khách đều được thực hiện dưới sự hướng dẫn từ trước của Thành. Ngoài ra, bị
cáo chỉ thu phí phòng mát xa là 150.000đ/phòng theo lời dặn của Thành và tiền này sẽ
được nộp lại toàn bộ cho Thành. Bị cáo cũng không hề tham gia vào việc thỏa thuận mua
bán dâm giữa Trung với Liên và Thọ với Tâm. Việc thỏa thuận mua bán dâm giữa 04
người trên là giữa bên mua dâm và bên bán dâm, bị cáo không được phân chia lợi nhuận.

Mặt khác, công việc này Trường mới nhận khoảng 02 tuần, (từ ngày 20/06/2018
đến 05/07/2018), có thể hiểu rằng toàn bộ quá trình hoạt động tại quán đều phải dựa vào
sự chỉ đạo của chủ quán, bản thân Trường rất khó có thể tự làm một cách nhuần nhuyễn,
đúng quy trình hoạt động nếu không có sự hướng dẫn, chỉ đạo từ trước của ông Thành,
nhất là khi bị cáo vào chị Liên, chị Tâm đều không quen biết nhau từ trước và không có
phương thức liên lạc trực tiếp với nhau mà phải thông qua trung gian. Theo lẽ thông
thường, chủ quán phải biết và kiểm soát được hoạt động thường ngày của quán và nhân
viên (ở đây chỉ có 02 nhân viên là Trường và Liên). Vì vậy, lời khai của ông Thành với
vai trò là chủ quán về việc không chỉ đạo cho Trường, không biết việc Liên hành nghề
bán dâm tại quán, có đến quán tại lúc các đối tượng thực hiện mua bán dâm nhưng không
biết gì là không hợp lý.

Như vậy, mặc dù bị cáo đã có hành vi vi phạm pháp luật, tuy nhiên, vụ án xảy ra
không hoàn toàn xuất phát trực tiếp từ ý chí chủ quan của bị cáo. Bị cáo không được
hưởng bất cứ lợi ích nào từ việc chứa mại dâm nói trên mà chỉ đơn giản là hành vi của
người làm thuê thực hiện theo chỉ đạo của chủ quán.

3.3. Tình tiết định khung “chứa mại dâm từ 04 người trở lên” là chưa phù hợp với
tình tiết khách quan của vụ án

Điểm d khoản 2 Điều 327 BLHS quy định như sau:

“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến
10 năm:

d. Chứa mại dâm 04 người trở lên.”
Theo từ điển Tiếng Việt thì “mại” có ý nghĩa là “bán”, còn “mãi” có ý nghĩa là
“mua”, do vậy, “chứa mại dâm” phải được hiểu là “chứa bán dâm”. Theo đó, tình tiết định
khung “chứa mại dâm 04 người trở lên” được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 327 của
BLHS được hiểu là áp dụng đối với người bán dâm. Tức là chỉ áp dụng tình tiết định
khung này đối với hành vi chứa 04 người bán dâm trở lên.
Tuy nhiên, căn cứ vào bản Kết luận điều tra số 54/KLĐT-PC02 ngày 17/09/2018
của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Bắc Ninh; bản Cáo trạng số 118/CT-VKS-
P1 ngày 18/10/2018 của VKSND tỉnh Bắc Ninh cũng như căn cứ vào các tài liệu, chứng
cứ trong hồ sơ vụ án thì tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 05/07/2018 (BL
28-33) và quá trình tham gia xét hỏi tại phiên tòa ngày hôm nay, tất cả hồ sơ, tài liệu và
lời khai của bị cáo và những người có liên quan đều thể hiện rằng số lượng người bán
dâm là 02 người (bao gồm Phùng Thị Kim Liên và Lê Thị Thanh Tâm).

Như vậy, VKS truy tố bị cáo về tội chứa mại dâm từ 04 người trở lên theo quy định
tại điểm d khoản 2 Điều 327 BLHS là không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ
án.

4. Kiến nghị

Từ những nhận định nêu trên, tôi nhận thấy quá trình điều tra, truy tố vụ án có nhiều
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; nguyên nhân, mục đích và điều kiện phạm tội; có
căn cứ cho rằng việc thực hiện hành vi chứa mại dâm còn có sự tham gia của chủ quán Ha
Na là ông Thành. Từ đó, tôi đề nghị Hội đồng xét xử xem xét ra quyết định trả hồ sơ cho
VKS để điều tra bổ sung theo quy định tại điểm a, c, d khoản 1 Điều 280 BLTTHS.

Một lần nữa, tôi kính đề nghị HĐXX xem xét các đề nghị của tôi, từ đó đưa ra một
thực hiện việc điều tra, truy tố đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, thể hiện sự
công minh của các cơ quan có thẩm quyền xét xử.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

You might also like