You are on page 1of 9

MỤC LỤC

I. TÓM TẮT HỒ SƠ VỤ ÁN..............................................................................................2

II. KẾ HOẠCH HỎI ĐỂ BẢO VỆ BỊ CÁO TẠ VĂN TRƯỜNG......................................3

III. LUẬN CỨ...........................................................................................................................6


BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN HỒ SƠ 01

I. TÓM TẮT HỒ SƠ VỤ ÁN

1. Những người tham gia tố tụng:

Bị cáo: Tạ Văn Trường


Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngô Văn Thành, Ngô Thị Yến, Phùng
Thị Kim Liên, Lê Thị Thanh Tâm.
2. Tóm tắt nội dung vụ án:
Ngô Văn Thành – sinh năm 1984, là chủ quán tẩm quất thư giãn Ha Na có địa
chỉ tại khu phố Nguyễn Giáo, phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Khoảng cuối tháng 6/2018, Tạ Văn Trường sinh năm 1988, HKTT: thôn Phú Đa, xã
Công Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đến quán tẩm quất thư giãn Ha Na gặp Thành
để xin việc làm. Hai bên thỏa thuận Thành giao toàn bộ công việc quản lý, điều hành
quán cho Trường. Vào buổi tối hằng ngày, Trường có trách nhiệm quản lý quán và
điều hành nhân viên, thu tiền tẩm quất của khách, không được mua bán, sử dụng ma
túy và hoạt động mai dâm. Thành hứa trả lương cho Trường 4.000.000đ/01 tháng.
Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 05/07/2018, Thành không có mặt tại quán thì có 3
người gồm: Nguyễn Văn Thọ sinh năm 1986, Nguyễn Trần Trung sinh năm 1987 và
Nguyễn Văn Tuấn sinh năm 1990 đều ở thị trấn Chờ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh
đi xe taxi của Nguyễn Văn Huy sinh năm 1983, HKTT thôn Việt Vân, xã Việt Thống,
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đến quản tẩm quất Ha Na ở khu phố Nguyễn Giáo,
phường Đồng Nguyên thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Thọ, Trung, Tuấn đã thỏa thuận
với Trường để mua 3 vé tàu nhanh (tức vé mua dâm). Trường bảo Thọ, Trung , Tuấn
lên phòng 201, 202, 203 để Trường gọi nhân viên đến bán dâm. Trường gọi Phùng Thị
Kim Liên sinh năm 1990 là nhân viên tại quán và bảo Liên vào phòng 203 bán dâm và
tiếp tục gọi điện cho người tên là Bắc (Trường không biết Bắc là ai, chỉ biết có số điện
thoại 0974061663 – theo Trường khai là số điện thoại do Thành cung cấp) bảo cho hai
nhân viên đến quán tẩm quất Ha Na để bán dâm. Một lúc sau có Lê Thị Thanh Tâm
sinh năm 1995 đến, Trường bảo Tâm lên phòng 202 để bán dâm. Tại phòng, Thọ và
Trung đưa tiền cho gái bán dâm là Liên và Tâm mỗi người 500.000đ còn Tuấn vẫn ở
phòng 201 để đợi gái bán dâm đến. Khi Trung với Liên, Thọ với Tâm đang thực hiện
hành vi mua bán dâm thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Bắc Ninh bắt
quả tang thu giữ vật chứng: 02 bao cao su đã qua sử dụng, tiền VNĐ: 1.500.000đ do
Tạ Văn Trường, Lê Thị Thanh Tâm và Phùng Thị Kim Liên giao nộp; 02 điện thoại di
động của Trường và Liên.
1
Ngày 18/10/2018, Viện Kiểm sát nhân dân Tỉnh Bắc Ninh đã ra Cáo trạng truy
tố Tạ Văn Trường về tội “Chứa mại dâm” quy định tại Điều 327 Bộ luật Hình sự.
Ngày 28/12/2018 TAND thị xã Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Binh quyết định đưa vụ án ra
xét xử vào ngày 11/01/2019.

3. Quan điểm của Viện kiểm sát:

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh ra Bản cáo trạng số 118/CT-VKS-P1 truy
tố trước Toà án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh để xét xử bị can Tạ Văn
Trường về tội “Chứa mại dâm”, áp dụng theo điểm d Khoản 2 Điều 327 Bộ luật Hình
sự.

4. Hành vi phạm tội:

Tội chứa mại dâm được quy định tại Điều 327 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ
sung 2017.

II. KẾ HOẠCH HỎI ĐỂ BẢO VỆ BỊ CÁO TẠ VĂN TRƯỜNG

1. Mục đích: Làm sáng tỏ việc Trường chỉ là đồng phạm, là người làm thuê, làm
theo yêu cầu, chỉ đạo, thỏa thuận và chịu sức ép về doanh thu của chủ quán với mục
đích xin giảm nhẹ tội và mức hình phạt.
2. Dự kiến câu hỏi cụ thể:

Hỏi bị cáo Tạ Văn Trường:

- Anh làm việc ở quán tẩm quất Ha Na từ khi nào?


- Anh có được anh Ngô Văn Thành hướng dẫn về công việc quản lý của quán
hay không?
- Anh có nắm rõ công việc của mình được giao gồm những hoạt động gì không?
- Tại sao anh biết từ nóng: “Tàu nhanh” nghĩa là khách có nhu cầu mua dâm hay
anh được sự trao đổi của ai đó từ trước.
- Trước khi làm việc tại quán Hana, anh đã từng làm công việc liên quan đến
karaoke, tẩm quất, matxa hay chưa?

- Khi có khách đến mua dâm tại quán, ai đã chỉ đạo anh gọi những người bán
dâm đến?
- Số điện thoại 0974061663 là ai cho anh? Sao lại dán ở quầy lễ tân?

2
- Giữa anh và anh Ngô Văn Thành có thỏa thuận gì khác với nhau ngoài lĩnh
vực công việc của anh được giao hay không?
- Trong thời gian anh làm việc tại quán Ha Na, anh Thành có thường xuyên có
mặt ở quán hay không? Có trường hợp nào khách hàng thực hiện hành vi bán
dâm trong lúc anh Thành có mặt ở quán hay không?
- Anh có nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật? Có cảm thấy ăn năn,
hối hận?
Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Ngô Văn Thành:

- Anh bắt đầu kinh doanh quán tẩm quất Ha Na từ khi nào?
- Anh cho HĐXX biết thời điểm anh nhận Bị cáo Trường và Phùng Thị Kim
Liên vào làm ở quán từ thời điểm nào ? Làm công việc gì?
- Quán của anh chỉ có chị Liên là nhân viên tẩm quất, vậy khi có nhiều khách
đến quán anh xử lý như thế nào?
- Anh giám sát công việc tại quán như thế nào?

- Anh có hướng dẫn cho Bị cáo Trường khi có khách đến mua dâm thì hướng
dẫn cho khách, sắp phòng cho khách và sắp xếp nhân viên như thế nào không?
- Anh Thành có biết số điện thoại 0974.061.663 là của ai không? Ai là người
dán số điện thoại trên ở quầy?
- Anh có mối quan hệ với anh Tùng, chị Nguyên?
- Ngày 05/07/2018 anh đang làm gì? Ở đâu?

Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Lê Thị Tâm


- Chị đã từng đến quán HaNa bao nhiêu lần rồi?

- Chị có biết anh Trường tại quán Ha Na không?


- Ai là người giới thiệu chị tới thực hiện hành vi bán dâm tại quán Ha Na?
- Chị có quen biết gì với anh Thành – chủ quán Ha Na hay không?

- Anh Trường có bảo chị thu gì từ khách và chia lại cho anh ấy tiền không?
- Ngày 05/7/2018 ai là người gọi chị đến quán Ha Na? Đây có phải lần đầu tiên
chị thực hiện hành vi bán dâm tại quán Ha Na hay không?

- Chị có mối quan hệ như thế nào với chị Nguyên, anh Tùng?
- Chị tự thỏa thuận và thu tiền của khách hay ai?

3
Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Phùng Thị Kim Liên
- Chị Liên cho HĐXX biết thời điểm chị bắt đầu làm việc tại quán HaNa? Công
việc cụ thể của chị ở quán là gì?
- Chị bắt đầu thực hiện việc bán dâm tại quán Ha Na từ khi nào?
- Chị và anh Ngô Văn Thành thỏa thuận công việc và tiền lương như thế nào khi
vào làm việc tại quán Hana?
- Tại Biên bản lời khai ngày 06/07/2018 chị khai rằng chị là gái bán dâm tại thị
xã Từ Sơn, vậy khi chị xin vào làm việc tại quán Hana thì chủ quán là anh Ngô
Văn Thành có viết việc này không?
- Từ trước đến nay Bị cáo Trường đã gọi chị đến bán dâm cho khách ở tại quán
HaNa bao nhiêu lần rồi?
- Ngoài Bị cáo Trường ra còn ai hay liên lạc và gọi chị đến quán HaNa để thực
hiện hành vi mua bán dâm ?
- Số tiền chị thu được từ việc bán dâm được sử dụng như thế nào?
- Bị cáo Trường có bảo chị thu gì từ khách và chia lại tiền cho Bị cáo hay không?

4
II. BẢN LUẬN CỨ BÀO CHỮA

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ ĐT Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
----------------------------- ------------------------------------
Hà Nội, ngày 11 tháng 01 năm 2019

BẢN LUẬN CỨ BÀO CHỮA


V/v: Bào chữa cho bị cáo Tạ Văn Trường trong vụ án hình sự về tội
“Chứa mại dâm” tại Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn.
Kính thưa:
- Hội đồng xét xử;
- Thưa Vị đại diện Viện kiểm sát;
- Cùng tất cả các Quý Vị có mặt tại phiên tòa;

Tôi là Luật sư Đỗ Đăng Thùy thuộc văn phòng Luật sư ĐT – Đoàn luật sư
thành phố Hà Nội.
Hôm nay, tôi có mặt tại phiên toà này với tư cách là người bào chữa cho thân
chủ của tôi là ông Tạ Văn Trường, bị Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh Bắc Ninh truy tố về
tội “chứa mại dâm” áp dụng theo điểm d khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự cáo
trạng số 118/CT-VKS-P1 ngày 18/10/2018. Có mặt trong phiên toà ngày hôm nay tôi
xin trình bày quan điểm bào chữa cho bị cáo như sau:

Theo bản cáo trạng số 118/CT-VKS-P1 của Viện KSND Tỉnh Bắc Ninh, bị cáo
Tạ Văn Trường bị truy tố về tội “chứa mại dâm” theo điểm d Khoản 2 Điều 327 Bộ luật
Hình sự.
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ, lời khai có trong hồ sơ vụ án, quá trình xét hỏi tại
phiên tòa, sự thành khẩn nhận tội của thân chủ tôi Tạ Văn Trường, tôi thấy rằng nội
dung vụ án đã quá rõ ràng nhưng tôi không đồng ý với mức án đại diện VKSND tỉnh
Bắc Ninh đề xuất áp dụng đối với bị cáo. Mức án đại diện VKSND đề nghị như vậy là
quá nặng, việc áp dụng điểm d khoản 2 Điều 327 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Tạ
Văn Trường là chưa phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi ít nghiêm trọng mà bị
cáo đã thực hiện.

5
Tôi kính đề nghị HĐXX xem xét toàn diện sâu rộng về nguyên nhân, hoàn cảnh
phạm tội cũng như đánh giá đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi xem
xét mức hình phạt đối với thân chủ tôi Tạ Văn Trường.
Về nguyên nhân, hoàn cảnh phạm tội:
Chúng ta thấy rõ rằng công việc của thân chủ tôi Tạ Văn Trường là việc quản lý
quán, công việc này Trường mới nhận được chưa đầy 1 tuần (từ cuối tháng 6/2018 đến
5/7/2018) thì toàn bộ quá trình hoạt động của quán đều phải dựa vào sự chỉ đạo của chủ
quán chứ Trường rất khó có thể làm một cách thuần thục, đúng quy trình hoạt động của
quán ngay từ đầu được. Hơn nữa Trường bị áp lực về việc thực hiện các công việc của
chủ quán và áp lực về doanh thu của quán. Động cơ phạm tội của bị cáo xuất phát từ sự
có trách nhiệm hoàn thành công việc được giao, không phải vì lợi ích cá nhân. Bằng
chứng là số tiền có được từ việc cho thuê phòng (150.000đ/phòng) do các đối tượng mua
dâm trả được bị cáo nộp lại đầy đủ cho chủ quán Thành, tiền chuyển vào doanh thu của
quán Ha Na. Không hề tham gia vào việc thỏa thuận mua bán dâm giữa Trung với Liên
và Thọ với Tâm. Số tiền khách trả cho người bán dâm (tối thiểu 300.000đ/lần), người
bán dâm cũng tự giữ lấy, Trường không có yêu cầu trích phần trăm hoa hồng hay thu
thêm bất kỳ một khoản nào từ người bán dâm. Điều này khẳng định chắc chắn động cơ
phạm tội của bị cáo hoàn toàn không phải ý chí chủ quan của mình. Mặt khác, bản thân
thân chủ tôi Tạ Văn Trường không hề mong muốn làm công việc này, do áp lực của
hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ là dân lao động thuần nông, tuổi cao sức yếu, lại
thường xuyên đau ốm nên không thể lao động kiếm sống. Là con thứ 2, con trai duy nhất
trong gia đình nên gánh nặng kinh tế, trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ đặt lên vai
Trường ... Nhận thức được việc làm của mình là sai trái, nhưng cuộc sống mưu sinh thúc
ép đã buộc phải làm công việc nêu trên. Thân chủ tôi Trường không có ý định làm công
việc này lâu dài, bằng chứng là không đặt vấn đề ký kết hợp đồng lao động với Thành,
hai bên không ràng buộc nhau, khi tìm được công việc khác phù hợp hơn Trường sẽ từ
bỏ công việc này.
Về việc định khung hình phạt, tội danh: Căn cứ vào các tài liệu có trong Hồ sơ
vụ án, cụ thể: Bản kết luận điều tra số: 54/KLĐT-PC02 ngày 17/09/2018 của Cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Ninh; Căn cứ bản Cáo trạng số: 118/CT-VKS-P1
ngày 18/10/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh, trong quá trình nghiên cứu
hồ sơ vụ án thì tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 05/07/2018 và qua quá
trình tham gia xét hỏi tại phiên tòa ngày hôm nay thì tất cả chứng cứ của vụ án đều thể
hiện rằng số lượng người bán dâm là 02 người (Phùng Thị Kim Liên và Lê Thị Thanh
Tâm), số lượng người mua dâm là 03 người (Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Trần Trung và
Nguyễn Văn Tuấn).
6
Vì vậy tôi không đồng ý với quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh
truy tố bị cáo về tội chứa mại dâm theo điểm d khoản 2 Điều 327 của Bộ luật hình sự
2015, quy định tại điểm d, khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự 2015 nêu rất rõ:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm
đến 10 năm:
….
d. Chứa mại dâm 04 người trở lên.”

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo về tội chứa mại
dâm từ 04 người trở lên theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự là
không đúng với thực tế. Tôi đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chuyển khung hình phạt
từ điểm d khoản 2 Điều 327 về khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự. Bởi lẽ bị cáo không
chứa mại dâm từ 04 người trở lên.
Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tôi kính đề nghị HĐXX xem xét cho thân chủ tôi Tạ Văn Trường được hưởng
các tình tiết sau:
Thứ nhất: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải – quy định tại điểm s khoản 1 điều
51 Bộ luật hình sự 2015 là tình tiết giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự thứ nhất: ý thực được
hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có dấu hiệu che
giấu. Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo luôn bày tỏ sự ăn năn, hối cải,
thành khẩn khai báo các hành vi mà mình đã thực hiện, giúp Cơ quan điều tra sớm kết
thúc vụ án. Và theo bản cáo trạng số 118/CT-VKS-P1 ngày 18/10/2018 của VKSND
tỉnh Bắc Ninh với nội dung: “…Quá trình điều tra, truy tố bị can Trường đã thành khẩn
khai nhận hành vi phạm tội nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS”.
Thứ hai: Hành vi của bị cáo chưa để lại hậu quả xấu cho xã hội. Bị cáo cũng
không thu về khoản lợi bất chính nào cho bản thân mình, không gây thiệt hại về tinh
thần hay vật chất cho tổ chức, cá nhân nào khác. “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại
hoặc gây thiệt hại không lớn” là tình tiết giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự thứ hai theo quy
định tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS 2015.
Thứ ba: Người phạm tội là người chưa từng có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu,
trình độ văn hóa 12/12, Trường còn thiếu nhận thức về công việc mình làm và chỉ làm
theo điều hành chỉ đạo của chủ quán.

Việc bị bắt quả tang tại quán Ha Na vào tối ngày 05/07/2018 là lần đầu tiên
thân chủ tôi Tạ Văn Trường thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, Kính đề nghị HĐXX
ghi nhận thân chủ tôi Tạ Văn Trường được hưởng tình tiết “Phạm tội lần đầu và thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng” là tình tiết giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự thứ ba theo quy
định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS 2015.
7
Thứ tư: theo quy định tại Nghị quyết số 02/2018 ngày 15/5/2018 của Hội đồng
thẩm phán TANDTC về Hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS năm 2015 về chế định án
treo thì trường hợp của bị cáo Tạ Văn Trường không có tình tiết tăng nặng TNHS, có
nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS nên hoàn toàn đủ điều kiện được áp dụng quy định
nhân đạo này, cụ thể:
- Bị cáo Tạ Văn Trường là người có nhân thân tốt, chưa từng có tiền án, tiền sự,
bản thân bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ của công dân.
- Bị cáo Tạ Văn Trường có 3 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại
khoản 1 điều 51 của BLHS 2015 và không có tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1
Điều 52 của Bộ luật Hình sự 2015.
Từ những căn cứ, chứng cứ, những tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo
Trường như trên, Căn cứ theo Khoản 1 Điều 54 (Quyết định hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt được áp dụng) của Bộ luật tố tụng hình sự ; Tôi kính đề nghị
Hội đồng xét xử xem xét chuyển khung hình phạt từ điểm d khoản 2 Điều 327 Bộ luật
hình sự 2015 sử đổi bổ sung năm 2017 về khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự năm 2015
sử đổi bổ sung năm 2017. Đồng thời áp dụng Nghị quyết số 02/2018 ngày 15/5/2018
của Hội đồng thẩm phán TANDTC về Hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS năm 2015
về chế định án treo.
Trên đây là toàn bộ quan điểm của tôi. Kính mong HĐXX anh minh xem xét,
đưa ra một bản án chính xác, công tâm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho thân
chủ tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn Hội đồng xét xử và quý vị đã chú ý lắng nghe!

You might also like