Professional Documents
Culture Documents
net/publication/342863804
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hóa
thương mại
CITATIONS READS
0 30,056
1 author:
Nguyen Hoang-Tien
WSB Merito University
1,003 PUBLICATIONS 20,385 CITATIONS
SEE PROFILE
All content following this page was uploaded by Nguyen Hoang-Tien on 11 July 2020.
Tóm tắt: Trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế là xu hướng tất yếu đối với tất cả các quốc
gia, kể cả Việt Nam. Bài viết này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những thành tựu và hạn chế của
Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế dựa trên dữ liệu thứ cấp từ các nguồn của các cơ quan
trong và ngoài nước. Bài viết áp dụng các phương pháp như phân tích, tổng hợp và kết luận về các
vấn đề đa dạng của quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hóa
thương mại ngày nay. Từ đó, chúng ta có thể thấy những thành tựu và thách thức (hạn chế) mà
Việt Nam đang phải đối mặt hiện tại và trong tương lai. Bài viết đề xuất các giải pháp phát huy thế
mạnh của Việt Nam để tạo thêm thành tích và khắc phục các hạn chế trong đối mặt với những
thách thức và khó khăn trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và trở thành đối tác tin
cậy trên trường quốc tế.
Từ khóa: hội nhập kinh tế, thành tựu, hạn chế, Việt Nam.
Summary: In the era of globalization, economic integration is an inevitable trend for all countries,
including Vietnam. This article will help us better understand Vietnam's achievements and
limitations in the process of economic integration based on secondary data from domestic and
foreign agencies. The paper applies methods such as analysis, synthesis and conclusions on the
various issues of Vietnam's economic integration in the context of today's trend of globalization
of trade. From there, we can see the achievements and challenges (limitations) that Vietnam is
facing now and in the future. The paper proposes solutions to promote Vietnam's strengths to create
more achievements and overcome constraints in the face of challenges and difficulties in the
process of integration into the world economy and becoming reliable cooperation in the
international arena.
Key words: economic integration, achievements, limitations, Vietnam.
1. Dẫn nhập
Hội nhập kinh tế với nền kinh tế toàn cầu và khu vực gần đây đã là xu hướng rõ rệt ở Việt
Nam. Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN năm 1995 và tham gia Hợp tác kinh tế châu Á-
Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, đồng thời đàm phán tư cách thành viên của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO). Việt Nam cũng đã ký một hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ
vào năm 2000, và đã tham gia vào thỏa thuận thương mại tự do Trung Quốc-ASEAN. Hội nhập
của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới bắt đầu từ chính sách Đổi Mới vào cuối những năm 1980
và tiếp tục cho đến ngày nay (Dana & Dana, 2003; Dana, 2010; Dana, 1994). Hội nhập kinh tế
quốc tế là động lực chính cho sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam (Tien, 2019a).
Đối với Việt Nam, 05 năm tới sẽ là cột mốc quan trọng trong chính sách kinh tế và chiến lược
phát triển. Báo cáo của Ủy ban Tăng trưởng và Phát triển đưa ra một ví dụ về 13 quốc gia thành
công trong phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong thời gian dài sau Thế chiến
II. Mặc dù không nằm trong danh sách 13 quốc gia này, Việt Nam được coi là một nền kinh tế có
tiềm năng duy trì tăng trưởng cao (Batiz & Romer, 1991).
Nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng và thu nhập trung bình đã tăng mạnh trong
hai thập kỷ qua, nhưng trong tương lai nền kinh tế có thể phải đối mặt với nhiều thách thức hơn.
Trong hai thập kỷ qua, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp năng
suất thấp sang chế biến sản xuất thâm dụng lao động (Tien & Ngọc, 2019; Doanh, 2009; Danthine
& Hunt, 1994). Thách thức trong tương lai là làm thế nào để đưa Việt Nam lên nấc thang mới
trong chuỗi giá trị và thậm chí tăng năng suất lao động. Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một
trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế xã hội, củng cố sức mạnh tổng hợp quốc
gia. Việt Nam cần thúc đẩy mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tận dụng nguồn vốn lớn,
công nghệ, kiến thức, chuyển giao kinh nghiệm quản lý và nhập khẩu các nguồn lực quan trọng để
tạo thêm việc làm, các doanh nghiệp duy trì tăng trưởng bền vững đáng kể (Tien và Kuc, 2019;
FM, 2018a ; FM, 2018b).
Hội nhập kinh tế quốc tế cùng với nỗ lực cải cách môi trường đầu tư và kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đang dần khẳng định vị trí đúng đắn của Việt Nam trên trường
quốc tế và trong mắt các nhà đầu tư. Báo cáo kinh doanh năm 2018 của Ngân hàng Thế giới dự
đoán Việt Nam sẽ được xếp hạng 68 trên 190 nền kinh tế, tăng 14 độ so với năm 2017 (82/190 nền
kinh tế) (Tiến, 2017a). Việt Nam cũng đã tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế tài chính và
các hiệp định thương mại. Ngoài ra, Việt Nam tiếp tục đàm phán các hiệp định đối tác toàn diện
trong khu vực như Thỏa thuận toàn diện và tiến bộ về quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP). Cho đến nay, khoảng 60 nền kinh tế trên thế giới đã đàm phán FTA với Việt Nam, bao
gồm các đối tác thương mại quan trọng nắm giữ khoảng 90% thương mại của Việt Nam (Tien,
2018a; Tien, 2018b; Davis, 2011).
Một câu hỏi chính sách quan trọng đối với Việt Nam là làm thế nào để duy trì tăng trưởng kinh
tế cao, cả trong ngắn hạn và dài hạn để duy trì năng suất và lợi tức đầu tư ở mức cao hơn, đồng
thời cải thiện thu nhập bình quân đầu người và tiếp tục giảm tỷ lệ nghèo (Tien, 2019b). Điều này
có liên quan đến việc Việt Nam có thể kế thừa những thành tựu cho đến nay và khắc phục những
hạn chế trên con đường phát triển kinh tế xã hội bền vững. Đây là một mục tiêu chính của phân
tích của chúng tôi trong bài viết này.
2. Cơ sở lý luận
Từ quan điểm kinh tế, theo Jovanovic và Lipsey (1992), hội nhập kinh tế quốc tế là một trong
những phương tiện để tăng phúc lợi. Với cách tiếp cận này, các quốc gia có thể tăng phúc lợi của
một hoặc một số quốc gia trong nhóm, hoặc của thế giới nói chung. Balassa (1973, tr.1) định nghĩa
hội nhập kinh tế quốc tế cả về quá trình diễn biến và thực trạng. Maksimova (1976, tr. 33) cho
rằng hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình phát triển mối quan hệ phân chia lao động sâu sắc
và ổn định giữa các nền kinh tế quốc gia. Marer và Montias (1988, tr. 156) chỉ ra rằng hội nhập
kinh tế theo truyền thống được đánh đồng với sự phân công lao động ở các khu vực địa lý. Gần
đây, hội nhập kinh tế quốc tế được cho là bao gồm sự quốc tế hóa thị trường vốn, lao động, công
nghệ và khởi nghiêp ngoài thị trường hàng hóa và dịch vụ hiện nay. Hội nhập kinh tế quốc tế, theo
nghĩa đơn giản và phổ biến nhất, là nơi các nền kinh tế quốc gia gắn kết với nhau. Theo cách hiểu
này, hội nhập kinh tế quốc tế đã diễn ra hàng ngàn năm khi Đế chế La Mã xâm chiếm thế giới và
mở rộng mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong toàn bộ lãnh thổ rộng lớn của
họ và áp đặt đồng tiền riêng của họ cho toàn bộ vùng đất rộng lớn này. Hội nhập kinh tế là mối
liên kết thể chế giữa các nền kinh tế. Khái niệm này đã được Béla Balassa đề xuất từ những năm
1960 và được chấp nhận trong giới học thuật và chính sách. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá
trình tích cực thực hiện đồng thời hai điều: một mặt, liên kết nền kinh tế và thị trường của mỗi
quốc gia với thị trường khu vực và thế giới thông qua việc mở và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế
quốc gia; mặt khác, tham gia và đóng góp vào việc xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn
cầu. Theo Từ điển kinh doanh, hội nhập kinh tế là một thỏa thuận giữa các quốc gia trong khu vực
địa lý nhằm giảm thiểu và cuối cùng là xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan để đảm bảo
dòng hàng hóa hoặc dịch vụ tự do và các yếu tố sản xuất. Đó là bất kỳ loại thỏa thuận nào trong
đó các quốc gia đồng ý phối hợp các chính sách thương mại, tài khóa và / hoặc tiền tệ của họ được
gọi là hội nhập kinh tế. Rõ ràng, có nhiều giai đoạn (hoặc cấp độ) khác nhau của hội nhập. Hội
nhập kinh tế thường được coi là có sáu cấp: hiệp định thương mại ưu đãi, hiệp định thương mại tự
do, liên minh hải quan, thị trường chung, liên minh tiền tệ và hội nhập toàn diện (Tien, 2019a).
Tuy nhiên, trong thực tế, mức độ tích hợp có thể ngày càng đa dạng hơn.
Trên thực tế, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về khái niệm hội nhập kinh tế quốc
tế. Nói chung, có ba cách tiếp cận chính (Tien, 2019a; ESS, 2018). Cách tiếp cận đầu tiên coi hội
nhập là một thành quả cuối cùng chứ không phải là một quá trình. Thành quả này là sự hình thành
của một quốc gia liên bang như Hoa Kỳ hoặc Thụy Sĩ. Những người theo trường phái này chủ yếu
quan tâm đến các khía cạnh pháp lý và thể chế. Cách tiếp cận thứ hai, với học thuyết của Karl W.
Deutsch là trụ cột, trước hết xem hội nhập như là cách liên kết các quốc gia thông qua phát triển
trao đổi như thương mại, đầu tư, thư tín kinh doanh, thông tin, du lịch, di cư, văn hóa, v.v. và dần
cộng đồng quốc tế được hình thành. Theo ông, có hai loại cộng đồng quốc tế: cộng đồng thống
nhất như Hoa Kỳ và cộng đồng đa văn hóa như Tây Âu. Do đó, cách tiếp cận thứ hai này coi hội
nhập quốc tế là cả một quá trình và thành quả cuối cùng. Cách tiếp cận thứ ba coi hội nhập quốc
tế là một hiện tượng trong đó các quốc gia mở rộng và tăng cường mối quan hệ hợp tác trên cơ sở
phân chia lao động quốc tế có chủ đích của mỗi quốc gia và theo đuổi mục tiêu riêng của họ.