You are on page 1of 31

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 29, Số 3 (2013) 44-53

Đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa và hàm ý văn hoá của từ chỉ
mùi vị trong tiếng Hán hiện đại

Ngô Minh Nguyệt*


Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Trung Quốc, Trường Đại học Ngoại ngữ,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Đường Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam

Nhận bài ngày 11 tháng 4 năm 2012


Chỉnh sửa ngày 24 tháng 5 năm 2013; Chấp nhận đăng ngày 6 tháng 6 năm 2013

Tóm tắt: Nằm trong trường ngữ nghĩa ẩm thực, các từ chỉ mùi vị trong tiếng Hán hiện đại có số
lượng khá phong phú. Trong bài viết này, chúng tôi tiến hành phân tích đặc điểm cấu trúc và ngữ
酸 甜 苦
nghĩa của các từ chỉ vị cơ bản thuộc “ngũ vị”gồm : (chua), (ngọt), (đắng), (cay), 辣 咸
(mặn). Kết quả phân tích chỉ ra rằng các từ chỉ mùi vị trong tiếng Hán hiện đại không chỉ phản ánh
đặc điểm văn hoá ẩm thực lâu đời của Trung Quốc mà còn thể hiện phương thức tư duy, triết lí,
quan niệm thẩm mĩ cũng như lí tưởng nhân sinh của người Trung Quốc, đồng thời cũng thể hiện
diện mạo kinh tế xã hội của đất nước Trung Quốc.
Từ khóa : từ chỉ mùi vị tiếng Hán, từ chỉ mùi vị, mùi vị

1. Dẫn nhập* Trong đời sống xã hội thì các vấn đề “ăn,
mặc, ở, đi lại” luôn là những tiền đề cơ sở cho
Ngôn ngữ là công cụ truyền tải quan trọng sự tồn tại và phát triển của xã hội. Với riêng đất
của văn hóa. Trong suốt lịch sử phát triển của nước Trung Hoa - một đất nước có nền văn hoá
văn minh nhân loại, ngôn ngữ và văn hóa là hai lâu đời, nền văn minh vĩ đại và số dân kỷ lục
yếu tố không thể tách rời, luôn hỗ trợ và ảnh của thế giới, lại đi lên từ một nền nông nghiệp
hưởng lẫn nhau. Bất kì ngôn ngữ nào cũng chất lạc hậu, thì vấn đề ẩm thực luôn được coi trọng
chứa hàm ý văn hóa rất sâu xa. Cuộc sống xã hơn bao giờ hết. Chẳng thế mà người Trung
hội quyết định nội dung của ngôn ngữ, cũng có Hoa cổ đại đã có câu nói nổi tiếng “dân dĩ thực
nghĩa là, nội dung của ngôn ngữ, đặc biệt là từ vi thiên” (người dân lấy việc ăn uống làm đầu).
vựng – được ví như vật liệu để xây dựng nên Nếu các nước phương Tây coi trọng dinh dưỡng
ngôn ngữ - phản ánh đầy đủ bức tranh về cuộc trong ẩm thực, thì người Trung Quốc lại có
sống xã hội. Mọi hiện tượng xã hội đều được thiên hướng coi trọng mùi vị và hình thức khi
thể hiện sâu sắc trong ngôn ngữ, đặc biệt là từ chế biến món ăn. Bởi trong quan niệm của
vựng. người Trung Quốc, mùi vị của thức ăn có mối
_______ liên hệ nhiều mặt về tâm sinh lí, tinh thần tình
*
ĐT : 84-982500388 cảm cũng như toàn bộ hình thái văn hóa. Chính
E.mail : sanyuehua15@yahoo.com
44
N.M. Nguyệt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 29, Số 3 (2013) 44-53 45

vì vậy mà trong “vị” của ẩm thực Trung Hoa đã 2. Từ chỉ mùi vị dưới góc độ kết cấu
chất chứa một nội hàm văn hóa sâu sắc. Điều
này đã được thể hiện ngay trong các từ ngữ chỉ Các từ chỉ mùi vị khi sử dụng với ý nghĩa
mùi vị của tiếng Hán. ẩn dụ, ngoài dùng một cách đơn lập, chúng còn
có thể kết hợp với các yếu tố khác như :
Các từ chỉ mùi vị trong tiếng Hán không chỉ
1Các yếu tố chỉ mùi vị kết hợp với nhau, ví
thể hiện một trong những đặc trưng quan trọng
của ẩm thực Trung Quốc mà còn chứa nội hàm
dụ : 香甜 (thơm và ngọt) ,酸甜苦辣 (đắng cay
ngọt bùi )
văn hóa rất sâu sắc, phản ánh giá trị tinh thần
2Các yếu tố chỉ mùi vị kết hợp với các yếu
của dân tộc Hán. Trong hệ thống từ vựng tiếng tố chỉ bộ phận cơ thể, ví dụ : 酸心 ,
(đau lòng)
Hán, từ chỉ mùi vị làm thành một trường từ
vựng có số lượng khá phong phú, bao gồm cả
甜心 (thoải mái) ,苦口 (van nài),辣手 (kẻ độc
ác cay nghiệt) ;
từ đơn và từ ghép. Tuy nhiên, từ góc độ sinh Ngoài ra, chúng cũng có thể kết hợp với các
học cũng như triết học thì người ta thường nhắc yếu tố không chỉ bộ phận cơ thể, ví dụ 酸楚
tới “ngũ vị”, đó là những từ chỉ mùi vị cơ bản (khổ sở) ,苦水 (nỗi khổ trong lòng) ,泼辣
bao gồm : 酸 chua, 甜 ngọt, 苦 đắng, 辣
cay, 咸 (đanh đá) ,吃苦 (đau khổ) ,吃苦(chịu vất vả).
mặn. Còn các mùi vị khác đều là những loại Với tư cách là ngữ tố cấu tạo từ, các yếu tố
tổng hợp từ các loại mùi vị cơ bản vừa nêu, ví chỉ mùi vị có thể tạo thành các từ ghép với các
dụ : vị chua ngọt, vị chua cay, vị ngọt mặn... phương thức cấu tạo từ khác nhau. Chúng tôi đã
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ tiến thống kê số lượng và phương thức cấu tạo từ
hành phân tích đặc điểm ý nghĩa và cấu trúc của của các từ ghép có yếu tố chỉ mùi vị trong “Từ
5 từ chỉ mùi vị cơ bản trong tiếng Hán, để từ đó điển tiếng Hán hiện đại”(NXB Thương Vụ -
tìm ra hàm ý văn hóa liên quan. Trung Quốc, năm 2002), cụ thể như sau:

Vị trí của ngữ tố mùi vị


Phương thức cấu tạo từ của từ ghép tạo thành
Ngữ trong từ
Stt Tổng
tố đẳng chính động động chủ phái
Trước Sau
lập phụ tân bổ vị sinh
1 酸 10 4 2 1 1 2 13 7 20
2 甜 5 7 1 3 12 4 16
3 苦 24 29 7 5 37 26 63
4 辣 4 3 1 6 7 7 7
5 咸 2 1 3 3

Nhìn vào bảng trên, chúng ta thấy, trong (đắng) có số lượng nhiều nhất so với các ngữ tố

tiếng Hán, 5 ngữ tố chỉ vị (chua), (ngọt),甜 khác, còn 咸 (mặn) lại có tần suất sử dụng ít
苦 辣 咸
(đắng), (cay), (mặn) đều có thể kết hợp nhất.
với các ngữ tố khác để tạo thành từ ghép với số Phần lớn các từ chỉ mùi vị khi kết hợp với
lượng khá phong phú, trong đó chủ yếu là các các yếu tố khác đều có nghĩa mở rộng. Bởi lúc
từ ghép đẳng lập, chính phụ, phái sinh. Đồng này, từ chỉ mùi vị khi đã có mối liên hệ với các
thời, chúng ta cũng phát hiện ra rằng, trong
tiếng Hán, số lượng từ được tạo thành ngữ tố 苦 sự vật khác thì nó không còn chỉ mùi vị nữa, mà
ý nghĩa của nó đã hoàn toàn chuyển hóa, thể
46 N.M. Nguyệt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 29, Số 3 (2013) 44-53

hiện mối liên hệ giữa hai sự vật khác nhau 2 Nói năng, cử chỉ cổ hủ (của học trò xưa),
thông qua nhận thức về sự liên quan giữa chúng hoặc chỉ tư thế khắc khổ (của học trò xưa). Ví
của người Trung Quốc. dụ: ̣ 穷酸鬼 (̣thư sinh kiết xác)
Các thành ngữ có từ chỉ mùi vị cũng có số 3 Không vui, đau lòng. Ví dụ : 酸楚
(chua
lượng khá phong phú. Trong các thành ngữ, từ xót, đau khổ) ,酸眉苦脸 (mặt nhăn mày nhó)
chỉ mùi vị phần lớn được đứng thành từng cặp 酸 (toan) với nghĩa gốc chỉ cảm giác do cơ
đối xứng trong đó hai yếu tố chỉ mùi vị hoặc quan vị giác của cơ thể cảm nhận được, sau
mang nghĩa đối lập, tương phản nhau hoặc
tương đồng, gần nghĩa. Ví dụ : 含辛茹苦 (ngậm
được ví với sự khó chịu trên các bộ phận khác

đắng nuốt cay), 苦尽甘来 (khổ tận cam lai), 同 của cơ thể hoặc không thoải mái về tâm lí. Hiện
nay 酸(toan) chủ yếu dùng để chỉ cảm giác
甘共苦 (đồng cam cộng khổ). chua xót về mặt tâm lí tình cảm, thể hiện quá
trình nhận thức về các sự vật trừu tượng bằng
phương pháp liên tưởng của người Trung Quốc.
3. Từ chỉ mùi vị dưới góc độ ngữ nghĩa
3.2. 甘 cam (ngọt)
3.1.酸 toan (chua) Vị ngọt là một vị có nhiều mức độ khác
nhau. Trong thực tế, rất nhiều thức ăn có vị
酸 vốn dĩ chỉ một loại quả có vị chua (quả ngọt. Thông thường vị của đường được coi là vị
mơ), sau chuyển thành dấm do con người ngâm. ngọt chuẩn.
Từ “mơ chua” sang “dấm chua”, các chữ “酸,
醋” đều biểu thị ý nghĩa “chua”, nhưng cuối Chữ ghi ý nghĩa “vị ngọt” đầu tiên phải kể

cùng người ta lựa chọn chữ “酸” để biểu thị vị
đến trong tiếng Hán là chữ (cam). Nhưng chữ
甘 (cam) vốn không chuyên chỉ vị ngọt. Bởi 甘
chua. (cam) vốn là một chữ chỉ sự, bao gồm bộ 口
酸 (toan) trong “Thuyết văn” có giải thích 一
(khẩu) và bộ (nhất). Ở đây, 一(nhất) trong
酸 (toan) bao gồm bộ 酉 (dậu) biểu nghĩa và bộ “Thuyết văn giải tự” giải thích là “nhất, đạo dã”
发(phát) biểu âm. Nghĩa gốc của 酸 (toan) chỉ 甘
(nhất là vị). Như vậy, (cam - vị ngọt) vốn chỉ
rượu lên men quá mức. Từ thời xa xưa, người ta một loại đồ ăn có thể ngậm trong miệng để
thường dùng quả mơ xanh để chế thành vị chua, thưởng thức các vị ngọt. Từ nghĩa biểu thị đồ
sau này được gợi mở từ việc chế rượu, người ta ăn có vị ngọt mà mở rộng nghĩa thành vị ngon.
đã tạo ra dấm, vì thế mà 醋
đã trở thành danh từ 甘

chỉ dấm chua, còn làm tính từ chỉ vị chua.
Trong ngũ vị, thì vị (cam - vị ngọt) đối
lập với các vị khác (chua, đắng, cay, mặn), bởi
Bởi ý nghĩa ban đầu của 酸(toan) chỉ vị nó là “vị thuần khiết”, không mang bất kì tính
chua của dấm nên thường dẫn đến liên tưởng về chất kích thích nào. Trong “Xuân thu phồn lộ”
sự nhức mỏi, cổ hủ, đau đớn, ghen ghét, và các có viết: “Cam giả, ngũ vị chi bản dã” (vị ngọt là
ý nghĩa này đã phản ánh ngay trong nội hàm gốc của ngũ vị) [11]. Đời Hán, khi ngũ vị kết
của từ 酸 (toan), cụ thể 酸(toan) có các nét hợp với ngũ hành, người ta cũng thường lấy 土
nghĩa mở rộng sau : thổ (đất) làm trung tâm để phối hợp với 甘
cam
1 Cảm giác khó chịu của cơ thể như đau 甘
(ngọt). (cam - vị ngọt) là vị không có tính
mỏi, ê ẩm. Ví dụ : 腰酸腿疼 (lưng đau, chân tê chất kích thích nên dễ dàng thích ứng với lưỡi
mỏi) ,酸麻 (tê mỏi) và không gây ra bất kì trở ngại nào.
N.M. Nguyệt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 29, Số 3 (2013) 44-53 47

“Khổng truyện” có viết : “Cam vị sinh vu đắng khác nhau. Đồng thời, 苦
(khổ) được sử
bách cốc” (vị ngon sinh ra từ các loại ngũ cốc), dụng từ cụ thể đến trừu tượng. Ngoài chỉ vị
trong ngũ cốc lại có rất nhiều đường mạch nha. đắng của thực vật, còn có thể chỉ vị đắng của
Có thể thấy rằng, người Trung Hoa dùng 甘 mật hoặc hoàng liên (một vị thuốc trong Đông
“cam” để chỉ vị ngọt của đường mạch nha từ y).
thời văn minh Hoa Hạ. Đây là mối liên hệ đầu 苦 khổ (đắng) là một vị không được mọi
甘 甜
tiên giữa cam (ngọt) và điềm (ngọt). người ưa thích, do đó nó khiến người ta liên
Trong “Thuyết văn” có giải thích về chữ 甜 tưởng đến cảm giác đau khổ, bi thương. Vì vậy
điềm như sau: “điềm, mĩ dã” (điềm là mĩ vị). nó có các nghĩa mở rộng là :
Chữ 甜 (điềm) là một chữ hội ý. Kết cấu của
甘 舌
1 Biểu thị sự gian nan và khó khăn trong
chữ này bao gồm bộ (cam) và bộ (thiệt), cuộc sống hoặc lao động. Ví dụ : 吃苦
(vất vả) ,
nghĩa là dùng lưỡi để nếm được vị ngon (mĩ vị). 辛苦 (vất vả),痛苦 (đau khổ) ,劳苦
(lao khổ).
Nghĩa gốc của từ này chỉ vị giống đường hoặc
2 Biểu thị nét mặt hoặc tâm trạng chán
mật. chường, u sầu, đau khổ. Ví dụ : 苦心 (khổ tâm),
Vị ngọt luôn mang lại cho người ta cảm 愁眉苦脸 (mặt mày đau khổ) ,苦海 (biển
giác dễ chịu, do đó người Trung Quốc lại dùng khổ).
nó để liên tưởng đến những gì tốt đẹp và đáng

yêu. Vì vậy, (điềm) có những nét nghĩa mở
3 Biểu thị ý chí không mệt mỏi, ngoan
cường. Ví dụ : 埋头苦干 (vùi đầu làm việc
rộng như sau :
không mệt mỏi)
Các từ có yếu tố 苦 (khổ) với nghĩa mở
1 Biểu thị cảm giác yên ổn, dễ chịu hoặc
cuộc sống hạnh phúc, vui vẻ. Ví dụ : 苦尽甜来 rộng có số lượng khá phong phú. Theo số liệu
thống kê của chúng tôi trong“现代汉语词典”
( khổ tận cam lai)
2 Giọng nói, nụ cười khiến người khác vui.
甜言蜜语 ,笑得很 (Từ điển tiếng Hán hiện đại) và “现代汉语
Ví dụ :

( lời lẽ ngọt ngào)
(cười rất tươi/ nụ cười ngọt ngào)
逆序词典”(Từ điển đảo ngược tiếng Hán)có
khoảng 106 từ và khoảng 190 ngữ cố định (bao
Như vậy, mỗi khi thưởng thức các món ăn gồm thành ngữ, ngạn ngữ, tục ngữ, yết hậu
có vị ngọt, người Trung Quốc thường có cảm ngữ) có chứa yếu tố 苦 (khổ). Từ đó có thể
giác rất hài lòng và thỏa mãn, tâm trạng rất vui
vẻ. Từ đó mà những từ ngữ liên quan đến 甜 苦
thấy, “khổ” được sử dụng rất rộng rãi, tần
suất cao, đặc biệt với nghĩa bóng.
(điềm) thường biểu thị niềm vui, niềm hạnh
phúc hoặc được người khác ưa thích. 3.4.辣 lạt ( cay)
3.3. 苦 khổ (đắng) 辣(lạt) là một loại vị có tính kích thích rất
mạnh. 辣(lạt) còn được gọi là 辛 (tân).
“Thuyết văn” giải nghĩa chữ 苦
(khổ) là
辣(lạt) vốn chỉ vị rượu rất mạnh. Thời Tiên

một chữ hình thanh, gồm bộ (thảo) biểu ý và
Tần vẫn chưa có chữ 辣, mà chỉ dùng chữ 辛

bộ (cổ) biểu âm. 苦( )
Khổ vốn chỉ một loại
(tân) để biểu thị vị cay. Sau khi ớt từ khu vực
thực vật giống cỏ có vị đắng.
nhiệt đới châu Nam Mĩ được đưa vào Trung
Sau này người ta phát hiện ra rằng, các loài 辛 辣
Quốc thì các vị (tân), (lạt) được dùng để
cỏ phần lớn đều có vị đắng, có điều mức độ 辣
chỉ vị của ớt và đều gọi thống nhất là (lạt).
48 N.M. Nguyệt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 29, Số 3 (2013) 44-53

Hiện nay, 辣 (lạt) được dùng để chỉ cảm 咸 苦


hàm (mặn) và khổ (đắng) có mối liên
giác khi ăn các món từ gừng, tỏi, ớt... Bởi khi hệ vô cùng mật thiết. Người Trung Quốc cho
ăn các thức ăn này, người ta đều có cảm giác rằng vị đắng rất gần với vị mặn. Có lúc nếu
nóng, cảm giác nóng này có sự kích thích rất mặn quá thì gọi là đắng, mặn quá sẽ gây ra cảm
mạnh đối với cơ thể. Từ đó, cảm giác về sinh lí giác khó chịu. Trong tiếng Hán, khả năng cấu
đã dẫn đến sự liên tưởng về tâm lí, người ta đã tạo từ của 咸 (hàm) tương đối kém, đồng thời

mở rộng nghĩa của (lạt) thành : cũng ít nghĩa mở rộng, chỉ dùng trong trường
hợp nói bóng gió, ví dụ肉不咸怕烂 (cá không
少吃咸鱼少口干
1 Biểu thị tính cách ghê gớm xảo trá, ngôn
ngữ sắc nhọn gay gắt, thẳng thừng, dứt khoát. ăn muối cá ươn) , (không ăn
Ví dụ : 泼辣 (đanh đá) ,辣妹子 (kẻ đanh đá, mặn thì không khát nước). Ngoài ra cũng có

trường hợp (hàm) được kết hợp với (đạm-淡
sắc sảo)

nhạt) để tạo thành một số thành ngữ, ví dụ :
2 Biểu thị sự nóng nảy, phóng túng, tâm
辣手 咸不淡 (chỉ thái độ lạnh nhạt), 咸吃萝卜淡操
địa độc ác của con người. Ví dụ :
ác cay nghiệt) ,嘴里甜如蜜 ,心里辣似姜
(kẻ độc
心 (chỉ lo lắng cho những việc không liên quan
đến mình). Đồng thời, người Trung Quốc cũng
(khẩu phật tâm xà)
Như vậy có thể thấy rằng, các nghĩa mở
thường dùng danh từ chỉ muối là 盐
để liên
tưởng với những cảm giác về tâm lí, ví dụ như :
rộng đều có mối liên hệ với nghĩa gốc. Người
Trung Quốc luôn liên hệ với kinh nghiệm cuộc
1 加盐 :
(thêm muối) ví với nói chen vào để
tăng thêm mức độ của sự việc
2 撒盐(sát muối ): ví với hành động làm
sống của mình để hình dung những sự vật, ý
niệm trừu tượng thông qua sự vật cụ thể, gần
gũi với con người. tăng thêm sự đau khổ
Hoặc 咸 (hàm) đồng âm với 闲 (nhàn) nên
3.5. 咸 hàm (mặn) được người Trung Quốc sử dụng với nghĩa mở
rộng, ví dụ 吃淡饭(ăn không ngồi rồi),管咸(
Trong cổ văn, 咸 (hàm) là một phó từ chỉ 闲)事( lo chuyện bao đồng).
So với các từ chỉ vị 酸(chua), 甜(ngọt), 苦
phạm vi, tương đương với “tất cả, đều” trong
tiếng Việt. Sau này, 咸
(hàm) mới chuyển đổi
(đắng), 辣(cay) thì 咸 (hàm) có thể có số lượng
thành tính từ. Trong ẩm thực, 咸 (hàm) chỉ vị
của muối. 咸 là một vị thuần nhất, quan trọng
sử dụng ít hơn, vì vậy mà khả năng cấu tạo từ
cũng không đa dạng bằng các từ trên. Có thể là
nhất trong ngũ vị. Bởi người Trung Quốc cổ
cho rằng, chua, ngọt, đắng, cay có thể không có,
do 咸 (hàm) là một vị thuần nhất trong ngũ vị,
chủ yếu chỉ vị của muối, các sự vật khác ít có vị
nhưng vị mặn thì không thể thiếu hàng ngày,
này.
chua, ngọt, đắng, cay có thể tự thành vị, nhưng
mặn thì lại có thể thêm vào ngũ vị, chua, ngọt, Từ việc phân tích ý nghĩa của các từ chỉ
đắng, cay dùng vừa thì ngon, dùng nhiều thì mùi vị nêu trên chúng ta có thể nhận thấy đặc
chán, dùng lâu thì sẽ sinh bệnh, nhưng mặn thì điểm văn hóa ẩm thực Trung Quốc, đồng thời
cả đời ăn cũng không chán, không sinh ra bệnh. cũng biết được sự liên tưởng từ mùi vị sang
Có thể nói rằng, vị mặn có vai trò vô cùng quan cuộc sống. Những mối liên hệ đó đều được thực
trọng nên được mọi người gọi là “bách vị chi hiện bằng phương pháp ẩn dụ, dùng cảm giác
chủ” (chủ của trăm vị). của cơ thể để ví với cảm giác về mặt tinh thần,
cũng có nghĩa là từ cụ thể đến trừu tượng. Đây
N.M. Nguyệt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 29, Số 3 (2013) 44-53 49

chính là bằng chứng chứng minh nhận thức từ các chữ chỉ ngũ vị đều liên quan đến cây cỏ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng của hoặc ngũ cốc. Từ đó cũng chứng tỏ người
người Trung Quốc. Trung Quốc đã biến tận dụng những gì có sẵn
trong thiên nhiên để làm phong phú đời sống
của mình và ngày càng hoàn thiện nó.
4. Hàm ý văn hóa của từ chỉ mùi vị Như vậy, chúng ta cũng có thể thấy, văn
hóa ẩm thực Trung Quốc có lịch sử rất lâu đời.
4.1. Từ chỉ mùi vị thể hiện đặc điểm văn hóa
ẩm thực Trung Quốc Đồng thời cũng nhận thấy người Trung Quốc từ
thời xa xưa đã vô cùng coi trọng vai trò của mùi
Từ thời xa xưa, khi kĩ thuật nấu nướng ra vị trong ẩm thực.
đời, người Trung Hoa cổ đã biết kết hợp các vị
4.2. Từ chỉ mùi vị thể hiện phương thức tư duy
trong chế biến món ăn. Đến thời Nghiêu,
và triết lí của người Trung Quốc
Thuấn, người ta đã bắt đầu hướng tới “mĩ vị”
với mục đích có được cảm giác ngon miệng khi 4.2.1. Dùng những điều đơn giản để liên
thưởng thức các món ăn. Đến thời Chu Tần và tưởng, so sánh với những đạo lí sâu xa
Lưỡng Hán thì người Trung Quốc đã phát hiện
Như trên đã phân tích, phần lớn các từ chỉ
và chế ra gia vị, từ đó kĩ thuật chế biến đã được
mùi vị của tiếng Hán đều nằm trong hệ thống
ra đời. Lúc đầu họ sử dụng gia vị chỉ để giảm
liên tưởng từ mùi vị đến tình cảm. Bởi người
mùi vị khó chịu của thức ăn. Sau này, ngoài
Trung Quốc luôn sử dụng các từ chỉ mùi vị để
việc loại bỏ vị lạ, người ta còn sử dụng gia vị để
ví với những cảm nhận khác nhau về các sự vật
tăng độ ngon. [13] Như vậy, có thể nói rằng,
hiện tượng quanh mình.
nhu cầu nâng cao trình độ ẩm thực đã thôi thúc
con người thay đổi và phát triển các loại gia vị, Sự liên tưởng nói trên đã thể hiện quan
khiến tác dụng của chúng từ mặt tiêu cực đã điểm về mối liên hệ của các sự vật của người
chuyển sang mặt tích cực. Trung Quốc. Người ta thường thông qua các
cảm quan, không chỉ có được khả năng nhận
Kĩ thuật sử dụng gia vị của Trung Quốc đến
biết về sự vật mà còn nhận thức được mối liên
thời Chu đã phát triển đến đỉnh cao và đúc kết
hệ giữa các sự vật. Các từ chỉ mùi vị đều là từ
thành lí luận. Ngay từ thời Ân Thương cũng đã
đa nghĩa, giữa các nghĩa của chúng lại có mối
có sự kết hợp giữa lí luận và thực tiễn trong
việc sử dụng vị mặn và vị chua để chế biến

liên hệ nhất định. Ví dụ từ (cay), bởi vị cay là
vị của gừng, tỏi, có tính kích thích mạnh đối với
canh, đến thời Xuân thu Chiến quốc đã xuất
cơ thể, vì thế mà có sự liên hệ với sự ghê gớm,
hiện nhiều tác phẩm bàn về gia vị, như tác
độc ác. Các từ chỉ mùi vị khác cũng có hiện
phẩm “Lã thị xuân thu”, một công trình vĩ đại
tượng tương tự.
tổng kết thực tiễn và lí luận chế biến thời Tiên
Tần [dẫn theo 9]. Mối liên hệ giữa mùi vị và vạn vật đã thể
hiện ở ngôn ngữ, làm phong phú vốn từ vựng
Đồng thời, từ các từ ngữ chỉ mùi vị, chúng
của người Trung Quốc, tăng khả năng miêu tả
ta cũng có thể thấy rằng, ẩm thực của Trung
thế giới khách quan của tiếng Hán. Cơ sở tâm lí
Quốc có liên quan mật thiết đến nông nghiệp,
của sự liên tưởng này chính là các hiện tượng tu
thể hiện tinh thần “dĩ nông vi bản” (coi nông
từ. Mùi vị trực tiếp ảnh hưởng đến khoang mũi
nghiệp là nền tảng của sự phát triển). Phần lớn
và khoang miệng, từ tác động về mặt sinh lí đã
50 N.M. Nguyệt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 29, Số 3 (2013) 44-53

dẫn đến ảnh hưởng về mặt tâm lí để có được sự 4 từ chỉ mùi vị còn lại cũng thường được liệt kê
đánh giá về sự vật khách quan. Đây là một đặc 含辛茹苦
thành đôi đối lập. Ví dụ : (ngậm đắng
điểm quan trọng trong tư duy của người Trung ,酸眉苦脸
nuốt cay) (mặt ủ mày chau)... Ngoài
Quốc. Nói cách khác, người Trung Quốc đã biết ra, “ngũ vị” cũng được kết hợp với các từ chỉ
dùng những điều đơn giản để liên tưởng, so 说咸道淡
mùi vị khác, ví dụ: , (nói cạnh khóe)
sánh với những đạo lí sâu xa qua phương pháp 酸麻 ,寒腥
(tê đau) ,苦涩 (lạnh và tanh) (đắng
so sánh, liên tưởng. ,鲜甜
chát) ,酸涩
(tươi ngọt) (chua chát). Như
4.2.2. Nhận thức về sự đối lập và tương vậy, chúng ta có thể thấy rằng, cách thức liệt kê
xứng của sự vật hiện tượng từng cặp trong hệ thống từ chỉ mùi vị tiếng Hán
đã thể hiện phương thức tư duy “hai mặt đối
Phương thức tư duy là bộ phận hợp thành
lập” của truyền thống Trung Quốc. Các từ hợp
của văn hóa, cũng là sự tích hợp cao nhất của
thành và các ngữ cố định có yếu tố chỉ mùi vị
văn hóa. Tuy quy luật tư duy của nhân loại về
thường xuất hiện từng cặp những yếu tố chỉ mùi
cơ bản là giống nhau, song trên thế giới gần
vị, đã chứng minh thành quả tư duy trong hoạt
như mỗi dân tộc đều có lịch sử, truyền thống
động nhận thức của người Trung Quốc.
văn hóa đặc thù của mình, do đó cũng hình
thành các phương thức tư duy khác nhau. 4.3. Từ chỉ mùi vị thể hiện quan điểm về cái
Phương thức tư duy của người Trung Quốc có đẹp của người Trung Quốc
đặc thù riêng và được thể hiện sinh động trong Nhiều người cho rằng, cảm nhận về cái đẹp
ngôn ngữ. Trong đó, với vai trò là một yếu tố bắt nguồn từ cảm nhận về vị giác. Trong tiếng
ghi lại nhận thức về ẩm thực – một trong những Hán, chữ 美 mĩ (đẹp) đã thể hiện cụ thể quan
cơ sở của sự tồn tại xã hội - các từ chỉ mùi vị niệm thẩm mĩ nguyên thủy của dân tộc Hán, đó
trong tiếng Hán đã thể hiện phương thức tư duy là cái đẹp liên quan đến ẩm thực, liên quan đến
truyền thống của Trung Quốc. 美
mùi vị. Bởi chữ “ mĩ” trong tiếng Hán có kết
Chúng ta có thể nhận thấy triết lí “hai mặt cấu bao gồm bộ 羊( dương-con dê) và bộ 大
đối lập” của người Trung Quốc được thể hiện (đại - to). Thời xa xưa, thịt dê không chỉ là một
rất rõ thông qua các từ chỉ mùi vị. Do chịu ảnh loại thức ăn hàng ngày của con người mà còn là
hưởng của học thuyết “âm dương ngũ hành” một vật thờ cúng hoặc hy sinh trong hội thề.
nên khi nhắc đến mùi vị người Trung Quốc Thịt “con dê béo” sẽ cho người ta cảm giác

thường nói đến “ngũ vị” bao gồm “ chua, 苦 “hợp khẩu vị”, tức “con dê to thì vị ngon”.
đắng, 辣 cay, 咸 mặn, 甜 ngọt”.Trong ngũ vị, Chính vì thế trong “Thuyết văn” đã giải thích
“cam” (ngọt) là bản vị không có bất cứ sự kích “cam, mĩ dã” (ngọt là ngon, đẹp). Nhà nghiên
thích nào, thích ứng nhất và không gây cản trở cứu Đoàn Ngọc Tải đã chú giải là “Cam giả,
nào với lưỡi. Ngũ hành đã dùng “kim, mộc, ngũ vị chi nhất, nhi ngũ vị chi mĩ giai viết cam”
thủy, hỏa” để đối ứng với “cay, chua, mặn, (vị ngọt đứng đầu trong ngũ vị, cái ngon của
đắng”. Do vây, “cam” thường được liệt kê đối ngũ vị đều ở vị ngọt) [15]. Từ đó có thể thấy

lập với 4 từ chỉ mùi vị khác, tạo thành các từ rằng, quan niệm thẩm mĩ về cái đẹp của người
甘共苦 ,嘴甜心苦
(đồng cam cộng khổ) Trung Quốc xuất phát từ việc nhìn nhận về mùi
,苦尽
(miệng nam mô bụng một bồ dao găm) vị, mà trung tâm là vị ngọt, ngọt chính là đẹp.
甘来 (khổ tận cam lai) ,论甘忌辛 (nói tốt Bởi vị ngọt là vị trung hòa trong tất cả các loại
không nói xấu) ,甘酸 (chua ngọt). Đồng thời, vị, vị ngọt cho người ta cảm giác dễ chịu, xuôi
chèo mát mái.
N.M. Nguyệt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 29, Số 3 (2013) 44-53 51

Chính vì ý thức thẩm mĩ của người Trung này, người Trung Hoa cổ đã chế ra các loại gia
Quốc xuất phát từ vị giác nên trong ẩm thực họ vị thường dùng, đồng thời còn xuất hiện một số
coi trọng vị hơn hình thức món ăn. Trong cuộc gia vị tổng hợp. Thời Chiến quốc, việc xuất
sống, họ coi trọng khí và thần hơn hẳn hình và hiện “Hoàng đế nội kinh” bao gồm toàn bộ lí
thể. Chính vì thế mà Mạnh Tử có thuyết luận y học Trung Quốc đã chính thức khẳng
“Dưỡng khí”, Trang Tử có thuyết “Ninh thần”, định tư tưởng y học và ẩm thực có chung nguồn
quan điểm về thư pháp tiếng Hán cũng cho rằng gốc [dẫn theo 9].
“thần khí là thứ nhất, hình thức là thứ hai”. Ngày nay, những món ăn mà người Trung
Quốc sử dụng thông thường đều có hai loại vị
4.4. Từ chỉ mùi vị phản ánh đặc điểm y học của
trở lên. Đối với người cổ, ngũ vị không chỉ đem
Trung Quốc
lại cảm giác trực tiếp của lưỡi về đồ ăn, mà còn
Trong cuộc sống hàng ngày, các từ 酸 chua, có tác dụng điều tiết quan trọng đối với các bộ
甜 ngọt, 苦 đắng, 辣 cay, 咸 mặn chỉ các vị phận khác của cơ thể. “Hoàng đế nội kinh”
cũng đã nhấn mạnh trong ăn uống, không thể
khác nhau, ví với các cảm nhận khác nhau trong
cuộc sống. Nhưng, từ góc độ y học, nếu có thể quá thiên lệch vị nào. Có nghĩa là ngũ vị mang
điều hòa ngũ vị phù hợp thì có thể có lợi cho cơ lại cho chúng ta cảm giác ngon miệng, nhưng
thể và tâm lí. nếu sử dụng không thích hợp có thể bị phản tác
dụng, thậm chí gây nguy hại cho sức khỏe.
Y học cổ Trung Quốc có nguồn gốc từ ẩm
thực. Từ thời xa xưa, người Trung Quốc còn Căn cứ vào thuyết âm dương, Đông y chia
tưởng tượng ra một số đồ ăn có dược tính. Ví ngũ vị thành hai loại : dương là cay, ngọt ; âm
dụ như ăn thịt tinh tinh có thể đi nhanh, ăn nhân là chua, đắng, mặn. Dung nhan, âm thanh, thần
sâm có thể trường thọ..., rồi có quan niệm về khí của con người đều có liên quan tới ngũ vị.
loại cỏ trường sinh bất lão. Tuy những quan Nếu vị quá chua, sẽ ảnh hưởng đến gan, tì khí,
điểm đó có màu sắc hoang đường, song đã phản nếu vị quá mặn sẽ ảnh hưởng đến xương cốt, cơ
ánh nhận thức trong y học Trung Quốc: ăn hoa bắp, tâm khí, nếu vị quá ngọt sẽ ảnh hưởng đến
quả, cây cỏ có thể điều trị một số chứng bệnh. tâm khí, làm xạm da, ảnh hưởng đến thận, nếu
vị quá đắng, ảnh hưởng đến tì khí, dạ dày, nếu
Do ảnh hưởng của thuyết ngũ hành, ẩm
vị quá cay, sẽ ảnh hưởng đến cơ mạch, tinh
thực Trung Quốc coi trọng sự điều hòa mặn,
thần. Có thể thấy rằng nếu ăn thiên một vị sẽ
cay, chua, đắng, ngọt. Quan niệm ẩm thực ngũ
khiến cơ xương bị tổn thương, tì vị không tốt,
vị điều hòa có thể bắt nguồn từ văn hóa nông
gan thận không điều hòa, sắc mặt không hồng
nghiệp lâu đời, ăn ngũ cốc cần sử dụng các phụ
nhuận, tim mạch không thông, thậm chí ảnh
gia, bởi các vị đa dạng có thể giúp ăn ngon
hưởng đến tính mạng.
miệng hơn. Trong ngũ vị, ít nhất chua, đắng,
cay, mặn không được liệt vào mĩ vị, có thể sau Ngũ vị cũng có tác dụng khác nhau. Người
khi sử dụng lượng thích hợp, sẽ trở thành vị ta thường dựa vào tác dụng khác nhau của ngũ
được mọi người ưa thích, vì vậy mà người vị để chế ra các loại thuốc chữa bệnh.
Trung Quốc cho rằng nên sử dụng ngũ vị mang Có thể nói rằng, quan điểm ăn là để chữa
tính đa trọng, đa biến, khiêm dung. Theo ghi bệnh, phòng bệnh chính là một quan điểm đánh
chép của các tài liệu cổ, đời Thương Chu đã có dấu thành tựu y học vĩ đại của Trung Quốc cổ
lí luận về điều vị tương đối đầy đủ, vào thời kì
52 N.M. Nguyệt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 29, Số 3 (2013) 44-53

đại và cũng là một ưu thế nổi bật trong văn hóa phương thức tư duy, quan điểm thẩm mĩ trong
ẩm thực của Trung Quốc cổ. đời sống ẩm thực, mang ý nghĩa triết học và y
học rõ nét.

5. Kết luận
Tài liệu tham khảo
Ngôn ngữ là kí hiệu của văn hóa, ngôn ngữ
chuyển tải các hiện tượng văn hóa, cũng là hiện [1] Đinh Văn Đức, Từ loại tiếng Việt, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2004.
thân của văn hóa. Sự tồn tại của số lượng lớn [2] Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiêu, Hoàng Trọng
các từ chỉ mùi vị trong tiếng Hán một mặt là Phiến, Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB
bằng chứng chứng minh sự phát triển của đời Giáo dục, Hà Nội, 1997.
[3] Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội -
sống ẩm thực dân tộc Trung Hoa, mặt khác
những vấn đề cơ bản, NXB Khoa học Xã hội, Hà
cũng chất chứa những nội hàm văn hóa rất sâu Nội, 1999.
sắc. Thông qua việc phân tích các từ chỉ mùi vị, [4] Trịnh Thị Kim Ngọc, Ngôn ngữ và văn hoá, NXB
chúng ta nhận thấy rằng, hiện tượng mở rộng Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999.
[5] Nguyễn Kim Thản, Từ điển Hán Việt hiện đại,
nghĩa của các từ chỉ mùi vị chứng tỏ sự phát NXB Thế giới, Hà Nội, 1994.
triển tất yếu của văn hóa. [6] 刘军茹,中国饮食,五洲传播出版社,北京,
Chúng tôi đã tiến hành phân tích ngữ nghĩa 2004.
[7] 董莉,透视汉语中的饮食文化,长沙铁道学院
của các từ chỉ mùi vị cơ bản trong tiếng Hán, đó
酸 甜 苦 辣 咸 学报(社会科学版) , 3(2005)194.
[8] 苏春梅,‘吃’的寓意 成语中的饮食文化,长春
là chua, ngọt, đắng, cay, mặn.
Trên cơ sở đó, tìm ra phương thức tư duy và 师范学院学报, 4(2004)79.
đặc trưng tâm lí trong văn hóa ẩm thực của dân [9] 王冬梅 赵志强,汉语饮食词语的隐喻转义,
tộc Hán, một lần nữa chứng minh mối liên hệ 内蒙古社会科学(汉文版),5(2003)93.
giữa ngôn ngữ và văn hóa. [10] 赵 守 辉 , 汉 语 与 饮 食 文 化 , 汉 语 学 习 ,
2(1991)22.
[11] 董仲舒,春秋繁露,中州古籍出版社,2010
Sự phát triển của các từ ngữ chỉ mùi vị đã

[12] 阮有求,语言文化,河内国家大学出版社,河
phản ánh quá trình chế biến món ăn của người
Trung Quốc. Từ chỉ mùi vị với vai trò là một 内,1999.
trường từ vựng đặc biệt trong hệ thống từ vựng [13] 荷宏,中国饮食文化,北京大学出版社,北
tiếng Hán đã ghi lại đặc điểm nhận thức về mùi 京,2006.
vị của con người, bản thân nó đã bao hàm việc [14] 常敬宇,汉语词语与文化,中国人大出版社,
nhận thức và phản ánh thế giới khách quan của 北京,1993.
dân tộc Hán. Ngoài ra, việc sử dụng rộng rãi từ [15] 许慎撰 段玉裁注,说文解字注 ,上海古籍出
chỉ mùi vị, đặc biệt là với nghĩa hàm ẩn đã thể
版社,上海,1988.
hiện sâu sắc dấu ấn văn hóa Trung Hoa cả về
N.M. Nguyệt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 29, Số 3 (2013) 44-53 53

Compositional, Semantic and Cultural Characteristics of


Words Denoting Tastes in Modern Chinese

Ngô Minh Nguyệt


Chinese Department, University of Languages and International Studies,
Vietnam National University, Hanoi, Phạm Văn Đồng street, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam

Abstract: In the semantic field of gastronomy, modern Chinese is abundant in words denoting
tastes. In this article, the compositional, semantic and cultural characteristics of 5 basic words
denotting tastes (sour, sweet, bitter, hot and salty) in modern Chinese are analyzed. The final result
shows that words denoting tastes in Chinese not only reflect Chinese traditional culinary culture but
also reveal ways of thinking, philosophy, aesthetic concepts and humanity ideals of Chinese people.
Moreover, these words aslo show economic and social properties of China.
Keywords: words denoting tastes in Chinese, words denoting tastes, tastes
http://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2021.04.229

SO SÁNH ẨN DỤ TRI NHẬN CỦA TỪ VỊ GIÁC“辣”(LẠT) – CAY


TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT
Tạ Thị Lê Thu(1)
(1) Trường Đại học Công nghệ Đồng Nai
Ngày nhận bài: 16/6/2021; Ngày gửi phản biện: 20/6/2021; Chấp nhận đăng: 30/7/2021
Liên hệ Email: tathilethu1985@gmail.com
https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2021.04.229

Tóm tắt
Ẩn dụ vị giác đóng một vai trò quan trọng trong quá trình nhận thức của con người.
Nhiều khái niệm trừu tượng được xây dựng thông qua ẩn dụ vị giác. Từ góc độ ngôn ngữ
học tri nhận, bài báo nghiên cứu các ẩn dụ khái niệm về vị 辣 lạt (cay) trong tiếng Hán và
tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu cho thấy các ẩn dụ về 辣 lạt (cay) trong tiếng Hán và tiếng
Việt có những điểm tương đồng và khác biệt. Điều này phần nào phản ánh sự tương đồng
và khác biệt trong phương thức tư duy và kinh nghiệm văn hoá của hai dân tộc. Các phép
chiếu ẩn dụ khái niệm của 辣 lạt (cay) trong tiếng Hán và tiếng Việt gần như giống nhau,
chủ yếu bao gồm: miền thính giác/xúc giác, miền tính cách, miền tâm lí. Nhưng theo
nghĩa ẩn dụ, vị 辣 lạt (cay) trong tiếng Hán và tiếng Việt thể hiện nhiều điểm khác biệt,
nguyên nhân có thể là do sự khác biệt về các nền văn hoá mỗi dân tộc.
Từ khoá: ẩn dụ khái niệm, so sánh, vị giác 辣 lạt (cay)
Abstract
COMPREHENSION CONFIDENTIAL METHODS OF THE FLAVOR
VOCABULARY “LAT” – SPICY IN CHINESE AND VIETNAMESES
The taste metaphor plays an important role in human cognitive processes. Many
abstract concepts are constructed through taste metaphors. From the perspective of
cognitive linguistics, the article studies the conceptual metaphors of 辣 lat (spicy) in
Chinese and Vietnamese. Research results show that the metaphors of 辣 lat (spicy) in
Chinese and Vietnamese have similarities and differences. This partly reflects the
similarities and differences in thinking methods and cultural experiences of the two
ethnic groups. The conceptual metaphorical projections of spicy in Chinese and
Vietnamese are almost the same, mainly including: auditory/tactile domain, personality
domain, and psychological domain. But in a metaphorical sense, the taste of spicy in
Chinese and Vietnamese shows many differences, which may be due to differences in
cultures of each ethnic group.

104
Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 4(53)-2021

1. Đặt vấn đề
Ngôn ngữ học nhận thức đương đại cho rằng ẩn dụ không chỉ là một hiện tượng tu
từ theo nghĩa ngôn ngữ học truyền thống, mà còn là một phương thức cơ bản của tư duy,
nhận thức và khái niệm về thế giới của con người (Ungerer & Schmid, 2001). Những tư
duy và hành động hằng ngày của chúng ta, về cơ bản là có tính ẩn dụ (Lakoff &
Johnson, 1980), nói cách khác, ẩn dụ là một công cụ nhận thức mạnh mẽ để khái niệm
hoá tất cả các khái niệm trừu tượng. Phép ẩn dụ giúp mọi người sử dụng một miền
nguồn quen thuộc và dễ hiểu để hiểu một miền đích khác lạ và khó hiểu, cũng chính là
“lấy một miền khái niệm để hiểu một miền khái niệm khác” (Kovecses, 2002).
Quy luật nhận thức xác định rằng cơ thể con người và những trải nghiệm của nó là
cơ sở để con người nhận thức về thế giới. Có thể thấy rằng cơ thể con người và kinh
nghiệm về giác quan đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc hình thành ý nghĩa
ẩn dụ và hình thành khái niệm của con người. Là một trong năm giác quan của con
người, vị giác đóng vai trò quan trọng trong quá trình nhận thức của con người. Chúng
ta thông qua vị giác để cảm nhận thế giới, trải nghiệm thế giới, đồng thời thông qua vị
giác để biểu đạt thế giới. Hiện tại các nghiên cứu về ẩn dụ khái niệm vị giác trong tiếng
Hán và tiếng Việt vẫn đang trong giai đoạn khám phá, đặc biệt là nghiên cứu cụ thể
từng từ vị giác vẫn còn rất ít. Là một trong những vị cơ bản của con người, nghĩa gốc
của 辣 lạt (cay) là dùng để chỉ những vị cay nồng như gừng, tỏi, tiêu. Từ góc độ ngôn
ngữ học tri nhận, bài viết tiến phân tích cụ thể những điểm tương đồng và khác biệt
trong cách thức biểu đạt của từ vị giác 辣 lạt (cay) trong hai ngôn ngữ Hán – Việt.

2. Phương pháp nghiên cứu


Bài viết sử dụng phương pháp tổng hợp quy nạp. Trên cơ sở tổng hợp dữ liệu của
các tác giả đi trước nghiên cứu về vị giác, bài viết dựa trên cơ sở lý luận ẩn dụ tri nhận
lấy 辣 lạt (cay) ở trong tiếng Hán và tiếng Việt làm đối tượng nghiên cứu, sau đó tiến
hành phân tích so sánh để làm nổi bật đặc trưng ẩn dụ khái niệm của 辣(lạt) trong tiếng
Hán, trên cơ sở đó tìm ra được sự tương đồng và khác biệt về cách tri nhận về vị giác
trong cộng đồng sử dụng hai ngôn ngữ.
Ngữ liệu của bài viết chủ yếu lấy từ cuốn Từ điển tiếng Hán hiện đại, từ điển trực
tuyến Baidu, kho ngữ liệu tiếng Hán (CCL 北大语料库) và trong các cuốn Từ điển tiếng
Việt có tính chính xác cao, có giá trị khoa học, đặc biệt là trong kho cơ sở dữ liệu tiếng
Việt của Phòng Từ điển Ngữ văn, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam.

3. Kết quả và thảo luận


3.1. Ẩn dụ của 辣 lạt (cay) trong tiếng Hán và tiếng Việt
Các từ chỉ vị trong tiếng Hán và tiếng Việt cũng giống như hầu hết các ngôn ngữ
trên thế giới đều có thể định nghĩa được thông qua sự cảm nhận của cơ quan vị giác. Xét

105
http://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2021.04.229

về ngữ nghĩa, các nghĩa gốc (nghĩa đen) của các từ chỉ vị thường cụ thể nhờ mối liên hệ
giữa vị với các vật đại diện cho nó, chẳng hạn như: 辣(lạt) trong tiếng Hán được định
nghĩa: 像姜、蒜、辣椒等有刺激性的味道 (có vị cay nồng như gừng, tỏi, tiêu) (Trương Văn
Giới và cs., 2006) hay “cay” trong tiếng Việt: như vị của ớt (Hoàng Phê, 2017). Chính vì
vậy, nghĩa đen của các từ này thường được vận dụng rất nhiều trong đời sống xã hội cũng
như tinh thần của con người. Tuy nhiên, ngoài nghĩa gốc, các từ chỉ vị còn có thêm các
nghĩa mở rộng, tạo nên hệ thống nghĩa phong phú của từng từ. Việc có thêm các nghĩa
mở rộng như vậy là vì khi vận dụng các nghĩa gốc trong thực tế đời sống, con người
thường có thêm những liên tưởng mới dựa trên những thuộc tính sẵn có của chúng.
Nhận thức của con người được hình thành trong quá trình tương tác giữa con người
với thế giới, và ẩn dụ là một dạng đặc biệt của mô hình nhận thức, đó là cách để con
người nhận biết và miêu tả thế giới. Vị giác với tư cách là một khả năng cơ bản của con
người, có tính thống nhất và phổ biến đối với tất cả các dân tộc. Xét về mặt sinh lí thì các
cơ quan cảm giác của con người là hoàn toàn giống nhau nên sẽ có cùng cảm nhận đối với
thế giới khách quan, vì vậy các ẩn dụ khái niệm của 辣 lạt (cay) trong tiếng Hán và tiếng
Việt chắc chắn có những điểm tương đồng. Tuy nhiên, do sự khác biệt về xã hội văn hoá
và cách tư duy của mỗi dân tộc nên cùng một ý nghĩa ẩn dụ khái niệm nhưng lại có một
sự khác biệt không nhỏ. Dưới đây, dựa vào những ngữ liệu có liên quan đến từ vị giác 辣
lạt (cay) trong tiếng Hán và tiếng Việt, chúng tôi khái quát được những ẩn dụ như sau:
1. HUNG ÁC, TÀN NHẪN LÀ CAY
Tiếng Hán Tiếng Việt
手段毒辣 (thủ đoạn nham hiểm) Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.
下辣手 (hạ độc thủ) Dòng họ Vũ này nổi tiếng chua cay ác độc.
这个家伙心狠手辣, 做事一点儿不考虑后果(cái
lão này thật là độc ác, làm việc gì cũng không
nghĩ đến hậu quả)
2. LỜI NÓI CAY ĐỘC, NHAM HIỂM LÀ CAY
Tiếng Hán Tiếng Việt
我从来没听到过这么毒辣的话 (tôi chưa bao giờ Câu nói cay nghiệt của mẹ chồng khiến cô rơi
nghe lời nói nham hiểm như vậy) nước mắt.
来稿是写得好的,我很佩服那辛辣之处 (bản thảo Sơn vẫn vậy, mỗi câu nói đều rất thâm thúy, sâu
viết rất tốt, tôi rất khâm phục những lời văn sâu cay.
cay như vậy)
3. NÓNG NẢY, NỔI CÁU LÀ CAY
Tiếng Hán Tiếng Việt
心性泼辣 (tính tình đanh đá) Không có
她是一个泼辣的女强人 (cô ấy là một người phụ
nữ đanh đá)
近几年里,我也从未看到他如此生气和泼辣 (trong
những năm gần đây, tôi chưa bao giờ nhìn thấy
anh ấy tức giận và nóng nảy như vậy)
4. NHIỆT ĐỘ CAO, NÓNG LÀ CAY
Tiếng Hán Tiếng Việt

106
Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 4(53)-2021

太阳晒得人热辣辣的 (ánh nắng mặt trời làm người Không có


nóng ran lên)
太阳火辣辣的 (mặt trời nóng hừng hực)
5. THÂN HÌNH GỢI CẢM LÀ CAY
Tiếng Hán Tiếng Việt
据智利报纸称 , 身材火辣的名模凯尼塔一直喜欢 Không có
结交名 (Theo tờ báo Chile, Kellita Smith, một
người mẫu có thân hình nóng bỏng, luôn thích kết
bạn với những người nổi tiếng)
她是个火辣辣的金发美人,是吧?
(Cô ấy là một người đẹp tóc vàng nóng bỏng, phải
không?)
6. ĐAU ĐỚN, XÓT XA LÀ CAY
Tiếng Hán Tiếng Việt
Không có Ông khóc than cay đắng cho đứa con trai đã mất.
Tác phẩm nói về nỗi cay cực của người lao động.
7. TỨC TỐI KHI THẤT BẠI LÀ CAY
Tiếng Hán Tiếng Việt
Không có Bị chơi khăm, trong lòng nó cay như ớt quyết tâm
trả thù.
Càng thua bạc, lão càng cay cú.
8. KHẮT KHE, NGHIỆT NGÃ LÀ CAY
Tiếng Hán Tiếng Việt
Không có Quan hệ của tôi với mẹ chồng chưa bao giờ tốt
đẹp, bà luôn cay nghiệt với tôi từ lời nói đến hành
động dù tôi đã luôn cố gắng.
Xã hội vẫn luôn cay độc với phụ nữ.
9. GIÁC QUAN BỊ KÍCH THÍCH LÀ CAY
Tiếng Hán Tiếng Việt
Không có Làm thế nào để thái hành tây không làm cay mắt?
Chương đưa tay che khói, mắt anh cay sè.
3.2. Điểm giống và khác nhau của ẩn dụ 辣 lạt (cay) trong tiếng Hán và “cay”
trong tiếng Việt
3.2.1. Điểm tương đồng
辣 lạt (cay) là vị khó thưởng thức và không phải ai cũng biết ăn, là một vị có tính
kích thích mạnh làm cho con người cảm thấy không thoải mái. Khi chúng ta ăn phải
những thực phẩm có vị 辣 lạt (cay) thì tuyến nước bọt, tuyến lệ bị kích thích mạnh, làm
cho lưỡi bị tê, toàn thân nóng lên, nước mắt, nước miếng chảy ra...làm cho chúng ta có
cảm giác rất khó chịu. Trên thực tế, cảm giác về vị 辣 lạt (cay) mạnh hơn rất nhiều so
với cảm giác các vị khác, nó làm cho con người cảm thấy nóng và đau, làm cho con
người cảm thấy khó chịu và có ác cảm với vị này. Từ sự không thoải mái về mặt sinh lí
dần dần sẽ tạo cảm giác khó chịu về mặt tâm lí. Chính vì sự tương đồng của hai loại
cảm giác này mà người Trung Quốc và Việt Nam đã xây dựng mối quan hệ ánh xạ giữa
hai miền khái niệm NHAM HIỂM ĐỘC ÁC LÀ CAY, LỜI NÓI CAY ĐỘC LÀ CAY trong cả hai

107
http://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2021.04.229

ngôn ngữ. Sự hình thành những ẩn dụ này là có cơ sở bởi vì ngay ý nghĩa ban đầu của
辣 lạt (cay) là dùng để chỉ những vị cay nồng như gừng, tỏi và ớt,...là một sự trải nghiệm
khó chịu về mặt cảm giác hoặc thậm chí là đau đớn. Vì vậy, mà trong tiếng Hán và tiếng
Việt đều dùng 辣 lạt (cay) để nói đến sự khắt khe và nham hiểm.
3.2.2. Điểm khác biệt
辣 lạt (cay) là một loại vị có tính kích thích rất mạnh. Khi ăn những thực phẩm có
vị “cay” con người đều có cảm giác nóng. Từ cảm giác về sinh lí đã dẫn đến sự liên
tưởng về tâm lí nên người Trung Quốc và người Việt đã dùng những đặc điểm này của
từ vị giác 辣 lạt (cay) để hình thành nên khái niệm mới đó là miêu tả tính cách của con
người, và cả hai đều đề cập đến tính cách xấu, không gây được thiện cảm với người tiếp
xúc. Tuy nhiên sự tri nhận của mỗi dân tộc thường dựa vào kinh nghiệm sống, dựa vào
thói quen mà hình thành nên người Việt có cách nói KHẮT KHE, NGHIỆT NGÃ LÀ CAY,
còn người Trung quốc dựa vào kinh nghiệm mà cho rằng NÓNG NẢY, DỄ NỔI CÁU LÀ
CAY. Sự liên tưởng này phần nào phản ánh được tư duy nhận thức khác biệt của hai dân
tộc đối với kinh nghiệm cuộc sống của mình.
辣 lạt (cay) là một trong năm hương vị chủ đạo của nền ẩm thực Trung Quốc. Vị
辣 lạt (cay) làm cho con người có cảm giác tê cay nơi đầu lưỡi, hơi nồng xộc lên mũi và
cái nóng râm ran nơi cuống họng. Khi con người gặp phải các kích thích từ bên ngoài
mà có nhiệt độ cao như ánh nắng mặt trời, nước sôi, dầu thô hay pháo hoa, thành phần
hóa học của hành tây,... sẽ tạo ra cảm giác khó chịu giống như ăn thực phẩm có vị cay.
Từ những đặc điểm của 辣 lạt (cay) đã ánh xạ lên khái niệm NHIỆT ĐỘ CAO, NÓNG LÀ
CAY trong tiếng Hán. Nhờ lối tư duy ẩn dụ mà người Trung Quốc đã xây dựng nên mối
quan hệ ánh xạ xúc giác là vị giác, làm cho các khái niệm vốn dĩ trừu tượng, vô hình lại
trở thành những khái niệm cụ thể hơn, dễ hiểu hơn. Trong tiếng Việt “cay” cũng được
ánh xạ từ miền vị giác sang miền xúc giác. Tuy nhiên, khác với 辣 (lạt) trong tiếng Hán
dùng để miêu tả nhiệt độ cao, ánh nắng mặt trời làm cho da bỏng rát và đau đớn thì
“cay” trong tiếng Việt được dùng để diễn tả cảm giác cay mắt do kích ứng của các chất
bên ngoài như thành phần hoá học từ hành hoặc khói lò, vì vậy mà hình thành ẩn dụ
GIÁC QUAN BỊ KÍCH THÍCH LÀ CAY trong tiếng Việt.

辣 lạt (cay) là vị có tính kích thích mạnh. Trên thực tế, cảm giác về vị 辣 lạt (cay)
mạnh hơn rất nhiều so với cảm giác các vị khác, nó làm cho con người cảm thấy nóng
và đau. Từ góc độ trải nghiệm của cơ thể, có thể thấy rằng con người khi ăn cay, toàn
thân sẽ nóng lên, khuôn mặt sẽ chuyển từ nóng sang đỏ. Tương tự cảm giác khi chúng ta
nhìn thấy một vẻ đẹp gợi cảm, một thân hình nóng bỏng cũng làm cho chúng ta nóng
bừng trong người, dễ bị kích thích. Chính vì sự giống nhau giữa hai cảm giác này mà
người Trung Quốc đã dùng từ vị giác 辣 lạt (cay) để nói về THÂN HÌNH GỢI CẢM. Sự
tương đồng trong quá trình ánh xạ ẩn dụ này là có cơ sở. Trong tiếng Hán hiện đại, 火辣
身材 (thân hình nóng bỏng), 火辣美女 (mỹ nhân gợi cảm), ... đều là những từ được sử
dụng phổ biến. Nguồn gốc của nó có lẽ là do dịch trực tiếp từ từ “hot” (một tính từ miêu

108
Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 4(53)-2021

tả thân hình gợi cảm trong tiếng Anh). Ẩn dụ này không tìm thấy trong tiếng Việt.
“Cay” về mặt khoa học không phải là một vị giác mà là cảm giác đau và nóng.
Nhưng do văn hóa và thói quen mà người Việt Nam từ lâu đã coi “cay” như là một từ chỉ
vị giác, thậm chí là từ chỉ vị giác cơ bản. “Cay” là vị khó thưởng thức và không phải ai
cũng biết ăn, là một vị có tính kích thích mạnh làm cho con người cảm thấy không thoải
mái. Từ sự không thoải mái về mặt sinh lí dần dần sẽ tạo cảm giác khó chịu về mặt tâm lí.
Cảm nhận này đối với vị “cay” đã ánh xạ lên cả lĩnh vực trạng thái tâm lí, cảm xúc của
con người và điều này thể hiện qua những ẩn dụ được tìm thấy trong tiếng Việt: ĐAU ĐỚN,
XÓT XA LÀ CAY, TỨC TỐI KHI THẤT BẠI LÀ CAY. Hơn nữa, điều đáng chú ý là để nói về
đau khổ, bi thương, thất bại hay thua thiệt thì từ chỉ vị giác “cay” trong tiếng Việt sẽ phối
hợp với từ chỉ vị giác “đắng” và “chua” để tạo ra những từ ngữ biểu thị những khái niệm
vốn dĩ khó giải thích, khó định tính như trạng thái tâm lí, cảm xúc của con người được cụ
thể hóa và được định tính hóa. Không tìm thấy những ẩn dụ này trong tiếng Hán.
Có thể thấy vị 辣 lạt (cay) có tần suất sử dụng cao trong quá trình nhận thức các
khái niệm mới ở cả hai ngôn ngữ Hán – Việt. Trung Quốc nằm ở vùng lãnh thổ thuộc
khí hậu ôn đới, mùa đông khá lạnh. Vào mùa đông, con người tiêu thụ nhiều calo nên
rất thèm ăn. Đồng thời để giữ ấm, người Trung Quốc thường ăn những thực phẩm động
vật có giàu protein, đặc biệt là những thực phẩm có tính nóng như thịt cừu, thịt chó,
lẩu,...và các món ăn có xu hướng nhiều dầu mỡ và cay. Trong món lẩu của Trung Quốc,
mặt trên bao giờ cũng có một lớp dầu dày và ớt đỏ tươi. Đặc biệt là phía Tây Nam ở
Trung Quốc vì mùa đông lạnh và ẩm ướt nên người dân địa phương thích ăn ớt để đẩy
lùi cái lạnh và chống lại bệnh thấp khớp. Có lẽ chính vì vậy mà những ẩn dụ với miền
nguồn là 辣 lạt (cay), miền đích là những khái niệm trừu tượng khác trong đời sống xã
hội đã được sử dụng rộng rãi trong tiếng Hán. Còn Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt
đới, người Việt cho rằng thức ăn cay khiến con người đổ mồ hôi, nên có thể giúp người
ăn thấy mát dịu hơn. Hiệu ứng giảm nhiệt bốc hơi khi chúng ta đổ mồ hôi thực sự tốt để
cân bằng nhiệt độ trong cơ thể. Vì vậy, người vùng nhiệt đới rất ưa chuộng các món ăn
có vị cay kết hợp với vị chua thanh mát để giải nhiệt. Có lẽ vì vậy này mà “cay” cũng
được sử dụng rộng rãi trong tiếng Việt.
Tóm lại, từ những phân tích so sánh trên, không khó để thấy rằng từ 辣 lạt (cay)
trong tiếng Hán và tiếng Việt thông qua phép ẩn dụ đã hình thành nên những khái niệm
mới khá phong phú. Những ẩn dụ của 辣 lạt (cay) trong tiếng Hán và tiếng Việt có
những điểm giống và khác nhau. Sự giống nhau ở đây có thể là do hệ thống vị giác là
chung cho tất cả mọi người. Hệ thống chung này làm cho con người về cơ bản có cùng
sự trải nghiệm, vì cùng dựa trên một trải nghiệm vật lý nên việc ánh xạ các phép ẩn dụ
của 辣 lạt (cay) trong tiếng Hán và tiếng Việt giống nhau âu cũng là điều tự nhiên.
Nhưng đồng thời chúng tôi cũng nhận thấy rằng, các ẩn dụ của 辣 lạt (cay) trong tiếng
Hán và tiếng Việt cũng có sự khác biệt, nguyên nhân có thể là do sự khác biệt đặc trưng
về văn hoá của mỗi dân tộc. Ngôn ngữ là một bộ phận quan trọng của văn hoá. Văn hoá
ảnh hưởng đến phương thức tư duy của con người và ảnh hưởng đến sự phát triển của

109
http://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2021.04.229

ngôn ngữ. Từ xa xưa, đất nước Trung Hoa đã trải qua nhiều đau thương do thiên tai, chế
độ xã hội,...điều này cũng gây ra một sự ảnh hưởng nhất định đến ngôn ngữ.

4. Kết luận
Từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận có thể thấy 辣 lạt (cay) trong tiếng Hán và “cay”
trong tiếng Việt không chỉ có ý nghĩa liên quan đến “vị giác” mà thông qua tri nhận, con
người đã mang 辣 lạt (cay) từ khái niệm quen thuộc ánh xạ sang lĩnh vực trừu tượng, và
dùng 辣 lạt (cay) để thể hiện tính cách, tâm lý, lời nói, của mình. Từ kết quả phân tích so
sánh cho thấy 辣 lạt (cay) trong tiếng Hán và tiếng Việt có nhiều nét tương đồng, song
cũng có những nét khác biệt nhất định. Con người có cấu tạo cơ thể và các cơ quan cảm
giác giống nhau, đối mặt với thế giới vật chất giống nhau, có nhận thức và khả năng nhận
thức giống nhau nên có thể có được những cấu trúc khái niệm giống nhau, đây là cơ sở
cho sự hình thành tính chung. Tuy nhiên, do sự khác biệt đặc trưng về văn hoá nên dẫn
đến những tri nhận về các lĩnh vực hay khái niệm trừu tượng khác thông qua ý niệm vị
giác 辣 lạt (cay) là khác nhau. Bất kể những ẩn dụ về vị giác 辣 lạt (cay) là chung hay
riêng thì việc hình thành những khái niệm mới đều dựa trên kinh nghiệm của con người
về các chức năng, đặc điểm và hoạt động của vị 辣 lạt (cay). Do đó, việc con người dựa
trên kinh nghiệm vốn có của bản thân về vị giác để hình thành những khái niệm mới là
một sự liên tưởng rất tự nhiên của con người thuộc bất cứ dân tộc nào. Đây là minh chứng
cho sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ, đồng thời cũng phản ánh được đời sống,
tinh thần, vật chất của con người ngày càng được nâng cao. Khả năng liên tưởng, tư duy
của con người cũng đã góp phần tạo nên vốn từ vựng phong phú cho tiếng Hán và tiếng
Việt, đồng thời cũng thể hiện được văn hóa đặc sắc riêng của mỗi nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1] Hoàng Phê (2017). Từ điển tiếng Việt. NXB Hồng Đức.
[2] Kovecses, Zoltan (2002). Metaphor: A Practical Introduction. Oxford: Oxford University Press.
[3] Lakoff, G. & Johnson, M. (1980). Metaphors We Live By. Chicago: The University of
Chicago Press.
[4] Trương Văn Giới - Lê Khắc Kiều Lục (2006). Từ điển Hán Việt hiện đại. NXB Tổng hợp
TPHCM.
[5] Ungerer, F. & Schmid, H.J. (2001). An Introduction to Cognitive Linguistics. Beijing:
Foreign Language Teaching and Research Press.

110
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 58, Số 6C (2022): 200-207

DOI:10.22144/ctu.jvn.2022.259

ẨN DỤ TỪ CHỈ VỊ GIÁC “苦 (KHỔ) - ĐẮNG” TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT

Tạ Thị Lê Thu
Trường Đại học Công nghệ Đồng Nai
*Người chịu trách nhiệm về bài viết: Tạ Thị Lê Thu (email: tathilethu1985@gmail.com)
ABSTRACT
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 10/08/2022 Taste metaphors play an important role in human cognitive functioning,
Ngày nhận bài sửa: 04/10/2022 and many abstract concepts are constructed through taste metaphors.
Ngày duyệt đăng: 11/10/2022 From the perspective of cognitive linguistics, the article is to
systematically study the metaphor of the taste word 苦 (suffering) - bitter
Title: in Chinese and Vietnamese. Research results show that the taste metaphor
Taste metaphor苦 (sufering)- 苦 (suffering) - bitter in two languages mainly focuses on five areas:
bitter in Chinese and visual/tactile, emotional, physical world, social life, and level. Further
Vietnamese comparative analysis showed that the metaphor of taste word (suffering)-
bitter in Chinese and Vietnamese has similarities, which can be attributed
Từ khóa: to the similarity in human cognitive patterns, but there are also differences
苦, ẩn dụ, so sánh, vị giác that can be attributed to cultural differences.
TÓM TẮT
Keywords:
Ẩn dụ vị giác đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức của
苦, comparison, metaphor,
con người và nhiều khái niệm trừu tượng được xây dựng thông qua ẩn dụ
taste vị giác. Dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận, bài viết nhằm nghiên cứu một
cách có hệ thống về ẩn dụ của từ chỉ vị giác 苦 (khổ) - đắng trong tiếng
Hán và tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu cho thấy ẩn dụ vị giác 苦 (khổ) -
đắng trong hai ngôn ngữ chủ yếu tập trung vào năm lĩnh vực: thị giác/xúc
giác, cảm xúc, thế giới vật chất, đời sống xã hội và mức độ. Phân tích so
sánh sâu hơn cho thấy ẩn dụ của từ chỉ vị giác 苦 (khổ) - đắng trong Hán
và tiếng Việt có những điểm giống nhau, điều này có thể được cho là do
sự tương đồng trong các mô hình nhận thức của con người, nhưng cũng
có những khác biệt có thể được cho là do sự khác biệt về văn hóa.

1. GIỚI THIỆU trừu tượng. Phép ẩn dụ giúp con người sử dụng một
miền nguồn quen thuộc và dễ hiểu để hiểu một miền
Ngôn ngữ học nhận thức đương đại cho rằng ẩn
đích khác lạ và khó hiểu, cũng chính là: “lấy một
dụ không chỉ là một hiện tượng tu từ theo nghĩa ngôn
miền khái niệm để hiểu một miền khái niệm khác”
ngữ học truyền thống, mà còn là một phương thức
Zoltan (2002).
cơ bản của tư duy, nhận thức và khái niệm về thế
giới của con người (Ungerer & Schmid, 2001). Quá trình nhận thức của con người thường là từ
Những tư duy và hành động hằng ngày của chúng đơn giản đến phức tạp, và từ cụ thể đến trừu tượng.
ta, về cơ bản là có tính ẩn dụ (Lakoff & Johnson, Khi nói đến hoạt động nhận thức, con người chủ yếu
1980), nói cách khác, ẩn dụ là một công cụ nhận thường dựa vào cảm nhận của cơ thể, nhất là ngũ
thức mạnh mẽ để khái niệm hoá tất cả các khái niệm giác quan để cảm nhận và nhận biết thế giới xung

200
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 58, Số 6C (2022): 200-207

quanh. Là một trong năm giác quan của con người, của từ chỉ vị giác 苦 (khổ) - đắng trong cả hai ngôn
vị giác đóng một vai trò quan trọng trong quá trình ngữ. Kết quả nghiên cứu được kỳ vọng góp thêm tài
nhận thức các khái niệm mới. Chúng ta thường liệu tham khảo trong dạy học, đối chiếu, nghiên cứu
thông qua vị giác để nhận biết, trải nghiệm, và miêu ngôn ngữ và văn hóa nước ngoài tại Việt Nam.
tả thế giới như Yin (2008) từng nói: “Dùng cơ thể 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
để cảm nhận, đánh giá thế giới khách quan là một
kinh nghiệm và thói quan tự nhiên, thường thấy của Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng
con người”. gồm:
Ở Trung Quốc đã có nhiều công trình nghiên cứu − Phương pháp thống kê: thống kê số lượng từ
về ngữ nghĩa của từ vị giác tiếp cận theo nhiều ngữ có chứa yếu tố 苦 (khổ) - đắng trong hai ngôn
hướng nghiên cứu khác nhau. Nghiên cứu theo ngữ Hán - Việt.
hướng tri nhận có thể kể đến các công trình Xiong, − Phương pháp miêu tả phân tích: phân tích
Zheng (2009), “汉语味觉词 “ 甜 ” 的认知隐喻研 ngữ nghĩa nhằm chỉ ra nghĩa gốc, nghĩa phái sinh,
究”(nghiên cứu ẩn dụ tri nhận từ vị giác “ngọt” nghĩa ẩn dụ của từ chỉ vị giác 苦 (khổ) - đắng trong
trong tiếng Hán), Cui (2019), “汉语基本味觉形容 tiếng Hán và tiếng Việt.
词的概念隐喻分析”(phân tích ẩn dụ ý niệm của − Phương pháp so sánh - đối chiếu: sau khi tìm
tính từ vị giác cơ bản trong tiếng Hán),... Theo hiểu, phân tích ngữ nghĩa của từ chỉ vị giác苦 (khổ)
hướng so sánh đối chiếu có các nghiên cứu Wang - đắng trong tiếng Hán, tiến hành so sánh đối chiếu
(2008),“英汉味觉范畴隐喻对比研究”(nghiên với cách biểu đạt tương đương trong tiếng Việt, trên
cứu đối chiếu phạm trù ẩn dụ từ vị giác trong tiếng cơ sở đó tìm ra được sự tương đồng và dị biệt về đặc
Hán và tiếng Anh), Zhang (1999),“日汉语基本味 trưng ngữ nghĩa, nghĩa phái sinh, nghĩa ẩn dụ trong
觉词引申义之比较”(đối chiếu nghĩa mở rộng từ vị hai ngôn ngữ Hán - Việt.
giác cơ bản trong tiếng Hán và tiếng Nhật), Liang Ngữ liệu của bài viết chủ yếu lấy từ quyển Từ
(2011), “中韩味觉形容词比较研究”(nghiên cứu điển tiếng Hán hiện đại, từ điển trực tuyến Baidu,
đối chiếu tính từ vị giác trong tiếng Hán và tiếng kho ngữ liệu tiếng Hán (CCL北大语料库). Tư liệu
Hàn),... tiếng Việt dùng để đối chiếu được thu thập từ cuốn
Tại Việt Nam cũng có một số nghiên cứu liên Từ điển tiếng Việt có tính chính xác cao, có giá trị
quan đến vị giác, tiêu biểu có Phạm Thị Nhàn khoa học và kho cơ sở dữ liệu tiếng Việt của Phòng
(2017), “Ẩn dụ từ vị giác “ngọt” trong tiếng Hán Từ điển Ngữ văn, Viện từ điển học và Bách khoa
hiện đại”, Ngô Minh Nguyệt (2013), “Đặc điểm cấu thư Việt Nam.
tạo, ngữ nghĩa và hàm ý văn hóa của từ chỉ mùi vị 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
trong tiếng Hán hiện đại”, Võ Thị Mai Hoa (2016),
“Nghiên cứu sự giống nhau về ẩn dụ ý niệm “vị 3.1. Sơ lược về từ chỉ vị giác 苦 (khổ) - đắng
giác” trong ba ngôn ngữ Việt – Hán – Anh”, Phạm Theo Shen (1988), nghĩa gốc của 苦 (khổ) - đắng
Thu Hà (2015), “Nghiên cứu ý nghĩa ẩn dụ của các
dùng để chỉ một loại cây có vị đắng. Sau đó, 苦 (khổ)
tính từ chỉ vị giác ngọt, mặn, đắng, chua trong tiếng
- đắng dần dần được trừu tượng hóa, ngoài chỉ vị
Anh và tiếng Việt”... Tuy nhiên, cho đến nay chưa
đắng của thực vật, còn có thể chỉ vị đắng của mật
thấy có công trình nào nghiên cứu về ẩn dụ vị giác
hoặc hoàng liên (một vị thuốc trong đông y). Nhưng
苦 (khổ) - đắng trong tiếng Hán như là một ngoại
cùng với sự phát triển của ngôn ngữ và sự trải
ngữ, có sự liên hệ với ngôn ngữ mẹ đẻ của người
nghiệm của con người, 苦 (khổ) - đắng cũng đã được
học. Thêm nữa, trong quá trình dạy học ngoại ngữ,
sử dụng để hiểu các khái niệm trừu tượng khác.
nghiên cứu nhận thấy rằng từ chỉ vị giác 苦 (khổ) -
Dưới đây, bài viết dựa trên dữ liệu khảo sát được,
đắng trong tiếng Hán có hiện tượng chuyển nghĩa rất tiến hành phân tích một cách có hệ thống về ẩn dụ
phong phú, trong đó lại có những trường hợp cách
vị giác 苦 (khổ) - đắng trong tiếng Hán và tiếng Việt.
diễn đạt trong tiếng Hán khác với trong tiếng Việt,
điều này làm cho sinh viên lúng túng và mắc lỗi sai 3.2. Ẩn dụ vị giác 苦 (khổ) - đắng trong tiếng
khi sử dụng và dịch thuật song ngữ. Hán
Với những lý do nêu trên, bài viết từ góc độ ngôn Các từ có yếu tố 苦 (khổ) - đắng với nghĩa mở
ngữ học tri nhận, lấy từ vị giác 苦/kǔ/ nghĩa Hán rộng có số lượng khá phong phú. Theo số liệu thống
Việt là “khổ”, nghĩa thuần Việt là “đắng” làm đề tài kê mà nghiên cứu khảo sát được, trong số 98 từ và
nghiên cứu, để từ đó khai thác cách thức biểu đạt cụm từ thường dùng có chứa yếu tố 苦 (khổ) - đắng,

201
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 58, Số 6C (2022): 200-207

có khoảng 12 từ mang nghĩa cơ bản như: 苦瓜 (khổ (chịu khổ) 、苦练 (khổ luyện),苦累 (khổ cực)、
qua, mướp đắng)、苦水 (nước đắng)、苦涩 (đắng 苦寒 (lạnh lẽo)...Từ đó có thể thấy, 苦 (khổ) - đắng
chát)、苦头 (vị đắng)、苦菜 (rau đắng)...và được sử dụng rộng rãi, tuần suất cao, đặc biệt với
khoảng 86 từ mang nghĩa phái sinh như: 艰苦 (gian nghĩa chuyển.
khổ)、痛苦 (đau khổ)、苦笑 (cười gượng)、吃苦
Bảng 1. Nghĩa ẩn dụ của từ chỉ vị giác 苦 (khổ) - đắng trong tiếng Hán
Từ phái sinh Nghĩa tiếng Việt
Stt Hàm ý Ví dụ
trong tiếng Hán tương đương
Nỗi khổ, gian khổ, Nói đến sự gian nan và Những ngày gian nan khổ cực đã qua
疾苦、困苦、劳
1 vất vả khó khăn trong cuộc (困苦的日子过去了)
苦 sống
Thể hiện tâm trạng đau Mắc loại bệnh này vô cùng đau khổ
痛苦、苦楚、苦 Đau khổ, khổ sở,
2 khổ, đau đớn thấm thía (得了这种病,非常痛苦)
闷 khổ não
về mặt tinh thần
Đau khổ, cười Anh ta cười miễn cưỡng rời đi
苦相、苦笑、苦 Thể hiện sắc mặt đau
3 gượng, nét mặt đau (他苦笑着离开)
脸 khổ, u sầu.
khổ
Bần cùng, nghèo Nói đến sự nghèo nàn, Quần chúng lao khổ (劳苦大众)
4 穷苦
khổ bần cùng
Khổ luyện, làm hết Tính cách nhẫn nại, Suốt đêm chiến đấu gian khổ(通宵
苦练、苦干、苦
5 sức, chiến đấu gian nghị lực kiên cường 苦战)

khổ của con người
Mấy năm nay, cô ấy lên rừng đốn
củi, nấu cơm nuôi lợn, chịu nhiều vất
苦累、苦车、苦 Vất vả và mệt mỏi, Thể hiện sự mệt mỏi,
6 vả
船 say xe, say sóng bệnh tật
(十几年来,她上山打柴,做饭喂
猪,受尽了苦累)
Nói đến sự lạnh lẽo, rét Khí hậu lạnh khủng khiếp
7 苦寒 Lạnh lẽo
buốt (气候苦寒)
苦 (khổ) - đắng với nghĩa gốc chỉ cảm giác do cơ rộng vốn từ và đáp ứng được nhu cầu ngôn ngữ của
quan vị giác của cơ thể cảm nhận được, sau được ví con người, từ vị giác “đắng” ngoài nghĩa cơ bản đã
với sự đau khổ, đau đớn thấm thía về mặt tinh thần được mở rộng thêm, theo số liệu mà nghiên cứu
hoặc sự nghèo nàn, bần cùng. Có lẽ vì 苦 (khổ) - khảo sát được, trong số 25 từ và cụm từ thường dùng
đắng là một vị không được ưa thích, thường mang chứa yếu tố “đắng”, có khoảng 11 từ mang nghĩa cơ
lại cảm xúc tiêu cực. Do đó, trong quá trình nhận bản như: mướp đắng, đắng chằng, đắng chát,... và
thức các khái niệm mới, người Trung Quốc thường khoảng 14 từ mang nghĩa phái sinh như: đắng lòng,
dùng nó để liên tưởng đến những tiêu cực và bi quan mặn đắng, đắng họng, đắng cay, quả đắng,...
trong cuộc sống nhưng cũng có thái độ quyết tâm Từ ngữ liệu khảo sát, có thể thấy, nghĩa của vị
vươn lên và hướng về phía trước. Điều này phần nào “đắng” trong tiếng Việt đa phần là nghĩa xấu. Điều
thể hiện quá trình nhận thức về các sự vật trừu tượng này cũng dễ lí giải vì vị “đắng” là vị khó thưởng
bằng phương pháp liên tưởng của người Trung thức, thường mang lại cảm xúc tiêu cực, do đó nó
Quốc. khiến người ta liên tưởng đến những đau khổ, khó
3.3. Ẩn dụ vị giác “đắng” trong tiếng Việt khăn, thất bại về tinh thần hay những gian truân,
thăng trầm trong cuộc sống.
“Đắng” là một vị không được mọi người ưa
chuộng, thường mang lại cảm xúc tiêu cực. Để mở

202
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 58, Số 6C (2022): 200-207

Bảng 2. Nghĩa ẩn dụ của từ chỉ vị giác “đắng” trong tiếng Việt

Từ phái sinh
Stt Hàm ý Ví dụ
trong tiếng Việt
Thể hiện cảm giác đau Nhiều đêm đi làm về tới nhà trọ tối mịt, ăn vội chén cơm
đắng ngắt, đắng
1 đớn, thấm thía về tinh nguội mà lòng thấy đắng ngắt vì nhớ nhà. (kho cơ sở dữ
lòng
thần liệu tiếng Việt của Phòng Từ điển Ngữ văn)
Người Pháp bây giờ mới nếm phải quả đắng của chính
quả đắng, trái Nói đến những thất bại,
2 sách thiển cận của mình. (kho cơ sở dữ liệu tiếng Việt của
đắng tổn thất
Phòng Từ điển Ngữ văn)
Sau vài vụ được mùa, được giá, thì đột nhiên giá mỳ mùa
Nói đến những trắc trở, này rớt thê thảm khiến hàng nghìn nông dân ở Krông Pa
3 đắng họng
khó khăn phải đắng họng vì thua lỗ. (kho cơ sở dữ liệu tiếng Việt
của Phòng Từ điển Ngữ văn)
Nó còn giàu chán so với cuộc sống khốn khổ của người
khốn khổ, nghèo
4 Cuộc sống nghèo khó dân trong vùng. (kho cơ sở dữ liệu tiếng Việt của Phòng
khổ
Từ điển Ngữ văn)
khổ luyện, khổ Khổ luyện là chìa khóa thành công của vận động viên.
5 Nhẫn nại, nỗ lực
công (kho cơ sở dữ liệu tiếng Việt của Phòng Từ điển Ngữ văn)
3.4. Sự tương đồng và khác biệt của ẩn dụ vị sống mà con người gặp phải. Sự cảm nhận trong nội
giác苦 (khổ) - đắng trong tiếng Hán và tâm con người đồng nhất với sự cảm nhận vị đắng
tiếng Việt bởi các giác quan. Vì vậy, trong quá trình nhận thức
khái niệm mới cả hai dân tộc Hán- Việt đều dùng 苦
3.4.1. Điểm tương đồng
(khổ) - đắng để chỉ sự gian nan, khó khăn trong cuộc
Cơ thể con người là chủ thể của nhận thức, sống.
những trải nghiệm và kinh nghiệm trong quá trình
CHỈ TÂM TRẠNG ĐAU KHỔ, ĐAU ĐỚN
cơ thể tương tác với thế giới bên ngoài là cơ sở để
THẤM THÍA VỀ MẶT TINH THẦN
con người hiểu biết về thế giới khách quan. Mặc dù
địa lý và môi trường xã hội mà người Trung Quốc (4) 我的生活中为什么有那么多痛苦? (cuộc
và người Việt sinh sống là khác nhau, nhưng con đời tôi sao lắm đau khổ)
người vẫn có nhiều điểm chung trong suy nghĩ và
điểm chung này được thể hiện trong nhận thức của (5) 为此事他苦恼了好几天。 (vì việc này mà
hai dân tộc về từ chỉ vị giác苦 (khổ) - đắng. Vì vậy, anh ấy buồn mấy ngày trời)
ẩn dụ vị giác苦 (khổ) - đắng trong tiếng Hán và tiếng (6) Chết đắng cả người.
Việt có nhiều điểm giống nhau.
(7) Nhiều đêm đi làm về tới nhà trọ tối mịt, ăn
CHỈ SỰ GIAN NAN, KHÓ KHĂN THĂNG vội chén cơm nguội mà lòng thấy đắng ngắt vì nhớ
TRẦM TRONG CUỘC SỐNG nhà.
(1) 困苦的日子过去了。(những ngày gian nan Vị đắng là vị nhạy cảm nhất trong các vị, là
khổ cực đã qua) một vị không được mọi người ưa chuộng. Nó không
chỉ khiến con người cảm thấy khó chịu về mặt sinh
(2) 艰苦的岁月。(những ngày tháng gian khổ) lí mà còn mang lại cho con người cảm giác khó chịu
(3) Sau vài vụ được mùa, được giá, thì đột về mặt tâm lí. Trong cuộc sống, khi con người gặp
nhiên giá mỳ mùa này rớt thê thảm khiến hàng nghìn phải những bất hạnh, thất vọng và nghịch cảnh thì
nông dân ở Krông Pa phải đắng họng vì thua lỗ. tâm trạng sẽ cảm thấy khó chịu, không vui, cảm giác
này tương tự như khi ăn những thức ăn có vị đắng.
Kinh nghiệm của con người đối với những trải
Con người chủ yếu dựa vào vị giác để nhận biết
nghiệm về thế giới khách quan luôn được bắt đầu từ
thức ăn, từ đó dẫn đến việc nhận biết thế giới, rồi
các cơ quan cảm giác khác nhau trên cơ thể. Những
sau đó thông qua sự liên tưởng và lối tư duy ẩn dụ
thực phẩm có vị đắng không chỉ khiến cho toàn bộ
để phản ánh, diễn đạt mọi sự vật và hiện tượng của
hệ thống khoang miệng của con người cảm thấy rất
thế giới khách quan. Quá trình nhận thức các khái
khó chịu, mà còn mang đến cho con người cảm nhận
niệm mới hoàn toàn phù hợp với quy luật nhận thức
không vui. Nếm những thực phẩm có vị đắng cũng
từ sinh lý đến tâm lý, cũng có nghĩa là từ cụ thể đến
giống như những gian truân, thăng trầm trong cuộc

203
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 58, Số 6C (2022): 200-207

trừu tượng. Vì vậy, trong cả tiếng Hán và tiếng Việt từ trải nghiệm của bản thân. Con người khi nếm phải
苦 (khổ) - đắng được dùng để chỉ tâm trạng đau khổ, những thực phẩm có vị 苦 (khổ) - đắng thì cơ quan
không vui. vị giác bị kích thích khiến cho chúng ta cảm thấy
khó chịu, không vui; và khi làm việc vất vả, cơ thể
CHỈ SỰ NGHÈO NÀN, BẦN CÙNG
cũng sẽ có một số cảm giác khó chịu. Chính vì sự
(8) 改革开放以来,穷苦的农民逐渐过上了 giống nhau giữa hai cảm giác này đã xuất hiện ngữ
好日子。 (từ sau khi cải cách mở cửa, những nông nghĩa mới trong quá trình
dân nghèo khổ dần dần có cuộc sống tốt) Tóm lại, con người dù thuộc cộng đồng văn hóa
nào thì đều có cùng cơ quan vị giác hay nói cách
(9) 他为人善良,时常接济一些穷苦的人。 khác là giữa các giác quan có cùng chức năng vật lí,
(anh ta là người tốt, thường luôn giúp đỡ những có cùng sự cảm nhận, hơn nữa các giác quan này lại
người nghèo khổ) không bị chi phối bởi điều kiện địa lí và điều kiện
Trong quá trình phát triển lịch sử, do nhiều khí hậu. Do đó việc lấy kinh nghiệm vốn có của bản
nguyên nhân như thiên tai, dịch bệnh và chế độ xã thân về vị giác để phóng chiếu lên các phạm trù khác
hội phong kiến mà cuộc sống của người dân gặp là một sự liên tưởng rất tự nhiên, rất phổ biến của
không ít khó khăn ở một số giai đoạn phát triển. Từ con người thuộc bất cứ dân tộc nào.
sự trải nghiệm của bản thân, người Trung Quốc nhận 3.4.2. Điểm dị biệt
ra sự tương đồng giữa cuộc sống nghèo đói và cảm Phân tích trên cho thấy, ẩn dụ vị giác của từ 苦
giác khi ăn những thực phẩm có vị 苦 (khổ) - đắng (khổ) - đắng trong cả hai ngôn ngữ Hán- Việt, tồn
là như nhau. Chính vì sự giống nhau giữa hai loại tại sự tương đồng, điều này phản ánh rằng hai dân
cảm giác này mà đã hình thành nên một khái niệm tộc có sự nhất quán trong việc sử dụng ẩn dụ vị giác
mới; và vị 苦 (khổ) - đắng đã được dùng làm yếu tố 苦 (khổ) - đắng để hiểu các khái niệm trừu tượng
cấu tạo từ, để tạo ra từ mới biểu thị ý nghĩa nghèo liên quan. Tuy nhiên, do sự khác biệt về xã hội văn
khổ, bần cùng. hoá và cách suy nghĩ của mỗi dân tộc nên các ẩn dụ
Trong tiếng Việt, “đắng” và “khổ” đều có thể vị giác 苦 (khổ) - đắng trong cả hai ngôn ngữ cũng
dùng để biểu đạt vị 苦(khổ) - đắng. Trong đó, tồn tại những điểm khác biệt.
“đắng” là từ thuần Việt, còn “khổ” là từ Hán - Việt. Ẩn dụ vị giác苦 (khổ) - đắng trong tiếng Hán
Vì vậy, để biểu đạt biểu đạt nghĩa ẩn dụ này người
Việt dùng “nghèo khổ”, “nghèo khó”, “khốn khổ”. CHỈ SẮC MẶT ĐAU KHỔ, U SẦU
(10) Đừng vì nghèo khổ mà đánh mất tự trọng và (16) 他一脸苦相。(nét mặt đau khổ)
lương tri.
(17) 他整天一幅愁眉苦脸的样子,让人看
(11) Nó còn giàu chán so với cuộc sống khốn 了难受。(anh ấy cả ngày mặt nhăn mày nhó, khiến
khổ của dân trong vùng. người khác thật khó chịu)
CHỈ SỰ KIÊN NHẪN, CỐ GẮNG HẾT SỨC Vị 苦 (khổ) - đắng giống như vị của mật hoặc
CỦA CON NGƯỜI
hoàng liên (một vị thuốc trong Đông Y), là vị không
(12) 勤力苦练。(chăm học khổ luyện) được mọi người ưa thích. Con người khi ăn những
thực phẩm có vị “đắng” thì trên nét mặt tự nhiên
(13) 通宵苦战。(suốt đêm chiến đấu gian biểu hiện sự khó chịu, không vui. Từ sự khó chịu về
khổ) mặt sinh lí mà người Trung Quốc cũng thường dùng
苦 (khổ) - đắng để miêu tả một người nào đó có nét
(14) Khổ luyện là chìa khóa thành công của vận mặt âu sầu, nhăn nhó, không vui. Nhờ lối tư duy ẩn
động viên. dụ đã xây dựng được mối liên hệ giữa thị giác và vị
(15) Anh kỹ sư Việt khổ công làm vườn rau ở giác, khiến cho những khái niệm vốn dĩ trừu tượng,
xứ sa mạc Dubai. khó miêu tả đã trở thành những khái niệm cụ thể
hơn, dễ cảm nhận hơn. Sự tương đồng trong quá
Mặc dù 苦 (khổ) - đắng biểu thị sự đau khổ, vất trình liên tưởng này là có cơ sở.
vả, song đối với người Trung Quốc và người Việt
nhận thức.
Nam, đó không hoàn toàn là sự bế tắc, bi quan, đôi
khi cũng thể hiện ý chí kiên cường, thái độ lạc quan CHỈ SỰ MỆT MỎI, BỆNH TẬT
của con người. Sự liên tưởng này có thể bắt nguồn

204
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 58, Số 6C (2022): 200-207

(18) 十几年来,她上山打柴,做饭喂猪, lối tư duy ẩn dụ đã xây dựng được mối liên hệ giữa
受尽了苦累,像山洞边那架水车一样,无休止 xúc giác và vị giác. Sự liên tưởng này phần nào phản
地转动不歇。(mấy năm nay, cô ấy lên rừng đốn ánh được tư duy nhận thức của người Trung Quốc
củi, nấu cơm nuôi lợn, chịu nhiều vất vả, giống như đối với kinh nghiệm cuộc sống của mình.
máy quay nước, quay mãi không dừng) Từ việc phân tích nghĩa ẩn dụ của 苦 (khổ) -
(19) 为了免受皮肉之苦,我只好给了他们 đắng nêu trên, nghiên cứu nhận thấy vị 苦 (khổ) -
10元钱。(để tránh sự đau đớn về thể xác, tôi đành đắng trong tiếng Hán với nghĩa mở rộng có số lượng
phải đưa cho bọn họ 10 nhân dân tệ) khá phong phú, được sử dụng rất rộng rãi, tần suất
cao. Tuy nhiên trái với vị ngọt thì các lớp nghĩa của
Trong năm mùi vị, thì có lẽ vị 苦 (khổ) - đắng là vị 苦 (khổ) - đắng đa phần mang nét nghĩa xấu. Có
vị ít được mọi người ưa thích nhất. Vị 苦 (khổ) - lẽ vì 苦 (khổ) - đắng là một vị không được ưa thích,
đắng sau khi vào miệng gây ra cảm giác rất khó chịu, thường mang lại cảm xúc tiêu cực. Do đó, trong quá
khó nuốt, vì vậy 苦 (khổ) - đắng về cơ bản đều có trình nhận thức các khái niệm mới, người Trung
nghĩa tiêu cực. Ở Trung Quốc cổ đại, người ta sử Quốc thường dùng 苦 (khổ) - đắng để liên tưởng đến
dụng vị 苦 (khổ) - đắng để chỉ sự mệt nhọc, cực khổ những tiêu cực và bi quan trong cuộc sống nhưng
hay ốm đau, bệnh tật của cơ thể. Do thông tin thu cũng có thái độ quyết tâm vươn lên và hướng về phía
được từ não bộ của con người thông qua cơ quan xúc trước.
giác sản sinh cảm giác tương tự như cảm nhận khi
Ẩn dụ vị giác “đắng” trong tiếng Việt
nếm phải vị 苦 (khổ) - đắng; vì vậy 苦 (khổ) - đắng
từ từ biểu thị vị giác đã được liên tưởng đến trạng CHỈ NHỮNG THẤT BẠI, TỔN THẤT
thái sinh lý của con người. Đây là một phép ẩn dụ (22) Người Pháp bây giờ mới nếm phải quả
cho sự đau khổ về thể xác và tinh thần của con người đắng của chính sách thiển cận của mình.
khi họ bị bệnh. Ngoài ra, để biểu đạt ý nghĩa tương
tự, trong tiếng Hán còn có các từ như: 苦车, 苦... chỉ (23) Thua trận 1-2 này khiến Arsenal lần đầu
cảm giác chóng mặt, nôn mửa khi say tàu xe hoặc tiên trong mùa giải phải chịu trái đắng.
say sóng. Vị “đắng” vừa là vị kích thích vừa là vị khó chấp
CHỈ SỰ LẠNH LẼO, RÉT BUỐT nhận. Do đó, “đắng” trong tiếng Việt còn được dùng
để nói đến những kết cục thất bại, tổn thất nặng nề.
(20) 气候苦寒。(khí hậu lạnh khủng khiếp) Thông qua sự liên tưởng của người Việt, “đắng” từ
là từ chỉ vị giác khó chấp nhận được kéo dài đến
(21) 在苦寒的大草原上, 他们进行着惨烈
những sự vật khó mà có thể chấp nhận được.
的战斗。(trên thảo nguyên lạnh lẽo, họ đang chiến
đấu quyết liệt) Từ những phân tích so sánh trên, có thể thấy rằng
苦 (khổ) - đắng là một trong những vị cơ bản nhất
Con người đối với cảm nhận về cái lạnh căn bản
là một cảm nhận về xúc giác nhưng lại nếm nó từ của con người, và 苦 (khổ) - đắng đã được cả hai
trong vị 苦 (khổ) - đắng. Lạnh thuộc cơ quan xúc dân tộc Trung Quốc và Việt Nam liên tưởng đến các
phạm trù khác thông qua phương thức chuyển nghĩa
giác và 苦 (khổ) - đắng thuộc cơ quan vị giác. Nhờ ẩn dụ.

Bảng 3. So sánh ẩn dụ vị giác苦(khổ) - đắng trong tiếng Hán và tiếng Việt


Stt Ẩn dụ vị giác Tiếng Hán Tiếng Việt
1 Gian nan, khó khăn trong cuộc sống + +
2 Tâm trạng đau khổ, đau đớn, thấm thía về mặt tinh thần + +
3 Nghèo nàn, bần cùng + +
4 Nhẫn nại, nghị lực của con người + +
5 Mệt mỏi, bệnh tật + -
6 Lạnh lẽo, rét buốt + -
7 Sắc mặt đau khổ, u sầu + -
8 Thất bại, tổn thất - +
Từ Bảng 3, có thể thấy có tổng cộng 8 nghĩa ẩn tiếng Việt, trong đó có 4 nghĩa ẩn dụ vị giác là chung
dụ vị giác của từ 苦 (khổ) - đắng trong tiếng Hán và cho cả hai ngôn ngữ, 3 nghĩa ẩn dụ vị giác là của
tiếng Hán và 1 nghĩa ẩn dụ vị giác là của tiếng Việt,

205
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 58, Số 6C (2022): 200-207

điều này thể hiện mối quan hệ tương đồng và khác cả tiếng Hán và tiếng Việt đều có nghĩa là “làm cho
biệt cùng tồn tại. Bằng cách nghiên cứu về ẩn dụ vị khó chịu”. Trong tiếng Việt, “đắng” có vị làm cho
giác của từ 苦 (khổ) - đắng, nghiên cứu thấy rằng ẩn khó chịu như vị của bồ hòn, mật cá. Trong tiếng Hán
dụ vị giác của từ 苦 (khổ) - đắng trong tiếng Hán 苦 (khổ) - đắng giống vị đắng của mật hoặc hoàng
phong phú hơn so với tiếng Việt. Những điều này liên (trái ngược với vị “ngọt”). Từ định nghĩa cho
phản ánh rằng người Trung Quốc sử dụng khái niệm thấy 苦 (khổ) - đắng chủ yếu diễn tả cảm giác khó
vị giác苦 (khổ) - đắng để hiểu và mở rộng các khái chịu trong cả hai ngôn ngữ. Từ đó có thể thấy rằng
niệm trừu tượng hơn so với người Việt. nghĩa ẩn dụ của “làm cho khó chịu, khó chịu” của từ
苦 (khổ) - đắng không phải ngẫu nhiên mà là sự mở
Từ kết quả phân tích trên, nghiên cứu nhận thấy
rộng đặc điểm ngữ nghĩa từ nghĩa gốc.
rằng bằng phép ẩn dụ của từ chỉ vị giác 苦 (khổ) -
đắng trong tiếng Hán và tiếng Việt đã được dùng để 4. THẢO LUẬN
liên tưởng đến những phạm vi khác trong cuộc sống, Từ phân tích so sánh trên không khó để nhận
cụ thể là: dùng từ chỉ vị giác để chỉ cảm giác về thị
thấy rằng từ chỉ vị giác 苦 (khổ) - đắng trong tiếng
giác/xúc giác, cảm xúc, thế giới vật chất, đời sống
Hán và tiếng Việt có nhiều điểm giống và khác nhau,
xã hội, mức độ. Ngoài ra, theo quan điểm chung,
có thể tóm tắt nghĩa ẩn dụ của 苦 (khổ) - đắng trong
nghĩa ẩn dụ của từ chỉ vị giác 苦 (khổ) - đắng trong
hai ngôn ngữ Hán- Việt như sau:

Hình 1. Nghĩa ẩn dụ của 苦 (khổ) - đắng trong hai ngôn ngữ Hán- Việt
Hình 1 cho thấy nghĩa ẩn dụ của 苦 (khổ) - đắng nhau trong cảm xúc thẩm mỹ. Xét từ góc độ sinh lí,
trong tiếng Hán và tiếng Việt có những điểm giống các cơ quan cảm giác do bên ngoài kích thích sẽ
và khác nhau. Sự giống nhau ở đây có thể là do cơ truyền thông tin đến não thông qua hệ thần kinh để
quan vị giác của cơ thể cảm nhận giống nhau. Vị gây hưng phấn ở vỏ não, từ đó sinh ra các hiện tượng
giác đề cập đến cảm giác do thức ăn tạo ra trong tâm lý. Con người nhận thức thế giới khách quan
miệng con người bằng cách kích thích hệ thống cảm dựa trên kinh nghiệm vật lý, việc ánh xạ các phép ẩn
thụ hóa học của cơ quan vị giác, tức là chất gây kích dụ của苦 (khổ) - đắng trong hai ngôn ngữ dựa trên
ứng khoang miệng, các thụ thể vị giác sau đó được cùng một trải nghiệm vật lý, vì vậy chúng có những
truyền đến trung tâm vị giác của não bộ thông qua nghĩa ẩn dụ tương tự là lẽ tất yếu.
hệ thống thần kinh cảm giác thu thập và truyền
Nguyên nhân khác nhau có thể là do sự khác biệt
thông tin, và cuối cùng thông qua phân tích hệ thống
trong môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của
trung tâm thần kinh toàn diện của não bộ để tạo ra
hai ngôn ngữ. Theo (Lakoff & Johnson, 1980), các
vị giác. Về bản chất, sự liên tưởng từ vị giác sang
giá trị cơ bản nhất trong một nền văn hóa thì đồng
khứu giác, thị giác và thính giác là kiểu ẩn dụ độc
nhất với cấu trúc ẩn dụ khái niệm cơ bản nhất trong
đáo, nó dùng để chỉ hiện tượng tâm lý của năm giác
nền văn hoá đó. Bin (2006) chỉ ra rằng ý nghĩa của
quan chuyển dịch, chuyển hóa và thấm nhuần vào
các từ bắt nguồn từ một mảnh đất màu mỡ văn hóa

206
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 58, Số 6C (2022): 200-207

cụ thể. Một số nghĩa của từ có nghĩa chung với các 5. KẾT LUẬN
từ tương ứng trong các ngôn ngữ khác, đó là vì đối
tượng mà con người nhận biết thường là những thế Từ chỉ vị giác 苦 (khổ) - đắng trong tiếng Hán
giới khách quan giống nhau, nhưng đôi khi nó có và tiếng Việt không chỉ có ý nghĩa liên quan đến vị
một tính cách riêng biệt và thường được hình thành giác mà từ những cảm giác được cảm nhận qua vị
trong một nền văn hóa cụ thể. Ngôn ngữ là một phần giác, theo con đường ẩn dụ, từ chỉ vị giác 苦 (khổ) -
quan trọng của văn hóa, văn hóa ảnh hưởng đến cách đắng trong hai ngôn ngữ đã mở rộng trường liên
suy nghĩ của con người và ảnh hưởng đến sự phát tưởng đến các phạm vi khác nhau, từ chỉ cảm giác
triển của ngôn ngữ. Từ xa xưa, đất nước Trung Hoa thuộc giác quan chuyển sang mô tả cảm xúc, thế giới
gặp bao tai họa do thiên tai và chế độ xã hội, điều vật chất, đời sống xã hội và mức độ. Thông qua so
này cũng ảnh hưởng đến ngôn ngữ ở một mức độ sánh có thể thấy 苦 (khổ) - đắng trong tiếng Hán và
nào đó, chính vì vậy mà 苦 (khổ) - đắng trong tiếng tiếng Việt có nhiều điểm tương đồng, song cũng có
Hán được người Trung Quốc sử dụng để mở rộng những điểm khác biệt nhất định. Những ẩn dụ vị
các khái niệm trừu tượng hơn so với người Việt. giác, dù giống nhau hay khác nhau, đều dựa trên
Những khái niệm trừu tượng này được quyết định kinh nghiệm sống hằng ngày và cảm nhận của con
dựa trên nền văn hoá đặc trưng của mỗi dân tộc. người đối với vị 苦 (khổ) - đắng. Điều này không
Cảm nhận ban đầu của con người về vị giác là giống chỉ cho thấy khi con người lần đầu tiên hiểu thế giới,
nhau nhưng do quá trình xây dựng khái niệm bị hạn họ luôn sử dụng những thứ quen thuộc, hữu hình và
chế bởi các yếu tố khác nhau như suy nghĩ, nhận cụ thể để hiểu những thứ xa lạ, vô hình và trừu
thức và văn hóa nên có sự khác biệt trong nghĩa mở tượng, cũng là khẳng định quan điểm của Lakoff &
rộng của từ chỉ vị giác 苦 (khổ) - đắng. Như vậy, Johnson (1980): “Ẩn dụ là sự xây dựng của con
dựa trên cùng một hiện tượng khách quan nhưng do người về những khái niệm phức tạp, trừu tượng từ
ngôn ngữ bắt nguồn từ hai nền văn hoá khác nhau những trải nghiệm rõ ràng, cụ thể.”
thì việc mở rộng nghĩa ẩn dụ khác nhau là một hiện
tượng tất yếu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Bin, W. W. (2006). A Survey on Western Ungerer, F., & Schmid, H. J. (2001). An Introduction
Perspectives Taken in Metaphoric Studies. to Cognitive Linguistics. Foreign Language
Journal of Ningbo University (Liberal Arts Teaching and Research Press.
Edition), 19(2), 25-33. Yin, W. (2008). Cognitive Linguistics. Shanghai
Lakoff, G., & Johnson, M. (1980). Metaphors We Foreign Languages Education Press.
Live by. The University of Chicago Press. Zoltan, K. (2002). Metaphor: A Practical
Shen, X. (1988). Shuowen Jiezi. Shanghai Ancient Introduction. Oxford University Press.
Books Publishing House.

207

You might also like