Professional Documents
Culture Documents
Bai 24 4434
Bai 24 4434
BÀI 24
Chất độc đã được sử dụng từ lâu trong chiến tranh, nhưng lần đầu tiên khái
niệm vũ khí hóa học là vũ khí hủy diệt lớn đã được sử dụng quy mô lớn trong
chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914 – 1918. Ở mặt trận phía Tây nước Đức, liên
quân Anh – Pháp bị tập kích bởi 180 tấn khí Clo đã có 15.000 người bị nhiễm độc,
trong đó có 5.000 người chết tại trận.
Vũ khí hóa học tuy không sử dụng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai
nhưng khi chiến tranh kết thúc quân đội Liên Xô đã khám phá ra hàng vạn tấn chất
độc thần kinh trong các kho bí mật của quân đội phát xít Đức. Trước những tác hại
lớn của vũ khí hóa học các nước đua nhau nghiên cứu và tiếp tục đưa vào sản xuất
và sử dụng các loại nhiễm độc tính mạnh hơn như Phốt gien, Yperit, Lovizit… có
những chương trình nghiên cứu được chi hàng tỷ đô la.
Đặc biệt là Mỹ rất tích cực tham gia, ngân sách chi cho việc nghiên cứu vũ
khí hóa học: năm 1946 đến 1957 là 19 triệu USD; 1958 đến 1962 là 50 triệu USD;
1963 đến 1968 là 300 triệu USD; 1969 là 400 triệu USD; 1970 đến 1973 là 450 –
500 triệu USD.
Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc
hóa học với quy mô lớn, thời gian kéo dài. Khoảng 15.000 tấn chất độc CS gây
chảy nước mắt và kích thích đường hô hấp trên hàng chục vạn tấn chất độc diệt cỏ,
chất độc làm rụi lá cây (gọi tên chung là chất độc màu da cam – Dioxin) gây nhiều
thiệt hại cho nhân dân và thiên nhiên Việt Nam, đến nay vẫn còn ảnh hưởng lớn
đến cuộc sống.
Vũ khí hóa học là một trong những loại vũ khí hủy diệt lớn, hoặc làm mất
sức chiến đấu tạm thời hoặc gây trở ngại cho hành động tác chiến của đối phương.
Vũ khí hóa học gồm có chất độc hóa học và phương tiện sử dụng chất độc
đó. Chất độc hóa học là thành phần chủ yếu gây sát thương.
1.2. Đặc điểm của chất độc hóa học chiến tranh (Quân sự)
Chất độc hóa học là một trong những đặc điểm khác với các chất độc hóa
học khác dùng trong công nghiệp, nông nghiệp.
Chất độc hóa học chiến tranh có độc tính rất cao, chỉ một liều lượng nhỏ
cũng gây nhiễm độc cho người. Chất độc hóa học chiến tranh có thể xâm nhập vào
cơ thể qua nhiều đường như qua đường hô hấp, qua da, qua đường tiêu hóa và qua
đường nào cũng có thể gây nguy hiểm chết người. Khi dùng vào mục đích chiến
tranh, các chất độc gây nhiễm độc hàng loạt, có thể hàng ngàn, hàng chục ngàn
người bị nhiễm độc cùng một lúc, rất khó khăn cho việc tổ chức cứu chữa nếu
không được huấn luyện trước cho bộ đội và nhân dân tự cứu và cứu lẫn nhau.
Chất độc dùng trong chiến tranh với số lượng lớn nên phải dễ sản xuất, rẻ
tiền và phải sử dụng dưới dạng vũ khí, khi bom đạn nỗ, chất độc không bị phân
hủy. Các đặc điểm và yêu cầu đó hạn chế khả năng sản xuất nhiều loại chất độc
hóa học chiến tranh.
Tính năng chiến đấu của một số loại vũ khí hóa học của Mỹ.
Hiện tượng ngửi mùi lạ, khó chịu và có dấu hiệu bị trúng độc (ho, khó thở,
chảy nước mắt, co giật, ngất, chạy toán loạn…)
Hiện tượng động vật (chim, súc vật, chuột, cá, côn trùng…) chết hàng loạt
hay chạy lung tung.
Mọi người khi phát hiện các dấu hiệu khả nghi cần phải thông báo, báo động
kịp thời và phải thực hiện các biện pháp phòng tránh ngay.
II. PHÂN LOẠI CÁC CHẤT ĐỘC HÓA HỌC CHIẾN TRANH
Hiện nay, trên thế giới cách phân loại chất độc hóa học chiến tranh chưa
thống nhất, mỗi nơi một khác. Để tiện cho việc nghiên cứu các chất độc chiến
tranh người ta sắp xếp phân loại chúng nhu sau:
Phân loại theo tính chất chiến thuật.
Các chất độc không bền vững. Loại này gồm có: hơi Sarin (GB), HCN,
Clorma Xyanogien, các chất gây ngạt.
Các chất độc bền vững. Loại này gồm các chất VX, Yperit, Yperitnito,
Lovizit.
Các chất độc bán bền vững. Là loại trung gian giữa hai loại trên gồm những
chất độc nguy hiểm vừa gây tác hại nhanh trên người vừa làm nhiễm độc địa hình
tương đối lâu dài, loại này gồm có Soman ở thể hơi.
Phân loại theo độ độc. Có hai nhóm chất độc quân sự sau:
Chất độc gây chết: bao gồm các chất độc có độ độc rất cao gây chết nhanh
như chất độc thần kinh, chất độc toàn thân và các chất độc trúng độc nặng rồi chết
sau vài ba ngày như chất độc loét da, chất độc ngạt thở.
Chất độc gây mất sức chiến đấu: có chất độc kích thích và chất độc tâm
thần.
Chú ý: cách phân chia chỉ là tương đối vì nó còn phụ thuộc vào liều lượng
trúng độc.
Phân loại theo tác dụng sinh lý.
Các chất độc tác hại với người được chia ra như sau:
Chất độc gây kích thích
Chất độc tâm thần;
Chất độc gây ngạt;
Chất độc gây loét nát;
Ký hiệu của
Nhóm chất độc Tên gọi khoa học Ý nghĩa quân sự
quân đội Mỹ
Gây chảy nước mắt Brombenzylxyanit CA Chất độc dự trữ
Chloaxetophenon CN
Gây hắt hơi, rát mũi Diphenyl clorasin DA Chất độc dự trữ
họng Diphenyl xyanszin DC
Diphenylaminclorasin DM Trang bị chính thức
(Adasmsit)
Gây chảy nước mắt, Octoclorobenzyliden CS Trang bị chính thức
hắt hơi và rát da malononitrin
Dibensyl 1,4 ocsazerin CR
Có rất nhiều hợp chất đã được phát hiện có tác dung gây kích thích. Có thể
phân loại chất này theo tác dụng sinh lý hoặc cấu trúc hóa học. Theo tác dụng sinh
lý, chất độc gây kích thích được chia thành 3 nhóm chính:
Nhóm kích thích niêm mạc mũi, đường hô hấp trên.
Nhóm gây chảy nước mắt.
Nhóm vừa gây kích thích đường hô hấp, vừa kích thích niêm mạc,
giác mạc, da.
ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
214
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG
Dưới đây là một số điểm đáng chú ý về các chất độc gây kích thích được
trang bị chính thức trong quân đội Mỹ.
2.1.1. Chất độc CS:
Là một chất ở dạng tinh thể, màu trắng, mùi cay và tan ít trong nước; nhiệt
độ nóng chảy là 900C; nhiệt độ sôi là 3150C, điều đó quyết định tính chất bền vững
ở ngoại cảnh của CS.
CS ở dạng mịn có kích thước rất nhỏ nên khuyếch tán mạnh trong không
khí. Ngoài CS thường, Mỹ còn sản xuất CS – 1 và CS – 2. CS – 1 gồm 95% CS và
5% Silicagen. Bao bọc CS bằng Silion không hút ẩm, không tích điện. CS – 2 lơ
lửng trong không khí lâu hơn và bền vững hơn CS thường.
CS được sử dụng ở dạng bột mịn hoặc dạng khí (gây cháy).
Độc tính:
Nồng độ tối thiểu gây kích thích: 0,1 – 0,3 mg/m3 không khí
Nồng độ trung bình trong chiến đấu: 0,5 mg/m3 không khí
Nồng độ không thể chịu đựng được: 1 – 5 mg/m3 không khí
Nồng độ khó cứu chữa: 20 mg/m3 không khí
Nồng độ gây chết người: 11 - 25 mg/m3 không khí
2.1.2. Adamsit có ký hiệu DM.
Là một chất ở dạng tinh thể màu vàng nâu, không mùi và được sử dụng ở
dạng hạt tinh thể có màu xanh đen, ở dạng khói ở dạng aeresol. Gây kích thích tai,
mũi, họng làm hắt hơi, ho, rát họng sau một thời kỳ tiềm khoảng 5-10 phút và kéo
dài 20-30 phút sau khi ngừng tiếp xúc với chất độc.
Ngoài ra, DM có thể gây nhiễm độc toàn thân Asen trong thành phần phân
tử.
Độc tính của Adamsit:
ICt50: 20mg/phút/m3 (liều lượng tích lũy gây mất sức chiến đấu
50%).
LCt50: 15000mg/phút/m3 (liều lượng tích lũy gây chết 50%).
2.1.3. Chất Dibensyl 1,4 ocsazerin (CR).
Dibensyl 1,4 ocsazerin là một chất ở dạng bột vàng, tan nhiều trong nước và
rất bền vững. gây kích thích mắt, mũi, họng và cả da rất mạnh và ngay lập tức sau
khi tiếp xúc với chất độc. triệu chứng nhiễm độc (giống như CS).
Cảm giác rát trên da có thể bị tái phát khi tiếp xúc với nước hoặc bị cọ xát.
Tác dụng kích thích da mạnh hơn CS khoảng 20 lần và là chất trung gian
giữa chất độc gây kích thích và chất độc gây đau da.
ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
215
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG
2.1.4. Cơ chế gây nhiễm độc của chất độc gây kích thích.
Với nồng độ thường được sử dụng trong chiến đấu, CS chỉ có tác dụng đối
với niêm mạc đường hô hấp trên và chỉ với nồng độ cao mới có tác dụng với phế
nang, gây phù phổi cấp.
Chất độc gây kích thích đã được xác định là những chất có khả năng phản
ứng với nhóm –SH hoặc các nhóm chức năng quan trọng nhất của các đại phân tử
khi chúng tiếp xúc với niệm mạc và làm biến đổi một phần hoặc toàn bộ cấu trúc
của các phân tử này và do đó gây nên phản ứng kích thích.
Cảm giác bỏng da, nhất là vùng quanh miệng và những vùng da ẩm ướt.
triệu chứng rát da xuất hiện chậm hơn so với hắt hơi và chảy nước mắt nhưng lại
tồn tại lâu hơn.
2.1.5. Xử lý cấp cứu (xem phần nội dã chiến) trong chương nhiễm độc chất độc
hóa học chiến tranh.
2.2. Chất độc tâm thần
2.2.1. Đại cương
Trong những năm chín mươi, ở Mỹ bắt đầu nghiên cứu phát triển một chất
độc quân sự mới có tác dụng loại khỏi vòng chiến đấu tạm thời, bằng cách gây
những rối loại tâm thần hoặc thể lực. Nhóm chất độc mới này được gọi tắt là chất
độc tâm thần.
Là những chất độc quân sự, với liều rất nhỏ đã gây ra rối loạn tâm thần, thần
kinh thực vật hoặc rối loạn vận động, làm giảm hay mất khả năng chiến đấu và lao
động trong thời gian nhất định.
Theo các chuyên gia quân sự nước ngoài, việc Mỹ sử dụng chất độc tâm
thần trong chiến tranh có những “thế lợi” sau:
Trốn tránh được sự ràng buộc và phản đối của dư luận và các hiệp ước quốc
tế.
Không gây chết người (với liều vẫn được sử dụng trong chiến đấu) nên có
thể bắt sống được tù binh.
Có thể tiến công vào hậu phương, nơi có nhiều dân thường không có trang bị
phòng hóa đầy đủ.
Về mặt chiến thuật nhằm đạt mục đích sau:
Tiến công vào địa điểm “cài răng lược” hoặc hậu phương.
Làm tê liệt hoạt động của các trung tâm thông tin, sở chỉ huy, đầu mối giao
thông…
Gây rối loạn những đơn vị đã ở trong tình trạng hốt hoảng hoặc kiệt quệ về
mặt thể lực.
Chuẩn bị cho những đợt tiến công bằng vũ khí thông thường hoặc các loại
vũ khí hủy diệt lớn khác.
2.2.2. Phân loại
Số lượng các hợp chất có tác dụng gây rối loạn tâm thần rất nhiều nhưng chỉ
có một số rất ít có thể sử dụng vào mục đích chiến tranh. Có thể phân các chất này
thành 2 nhóm chính:
Các chất gây rối loạn tâm thần, gây nên triệu chứng lâm sàng giống bệnh
tâm thần. một số chất đặc biệt BZ đã được quân đội các nước đế quốc trang bị làm
vũ khí hóa học.
Chất độc BZ:
Là chất gây rối loạn tâm thần mạnh nhất hiện nay. BZ được nạp vào một số
loại bom đạn, trong các loại vũ khí này BZ được trộn với hỗn hợp gây cháy và khi
nổ sẽ giải phóng BZ dưới dạng aerosol. Đám mây chất độc BZ được tạo ra có màu
trắng, tương đối dễ phân biệt.
Ở dạng bụi sương nhỏ li ti, BZ có thể dính bám rất lâu bộ phận lọc độc của
mặt nạ. Ngoài ra BZ còn dùng làm chất đầu độc nguồn nước hoặc thực phẩm cũng
như phối hợp với các loại vũ khí gây thủng mặt nạ để gây nhiễm độc có hiệu quả
hơn.
BZ ở dạng tinh thể, màu trắng, không mùi, vị đắng nhẹ không tan trong
nước và có nhiệt độ nóng chảy (3220C). Độ bền vững với nhiệt độ là yếu tố cần
thiết để sử dụng với hỗn hợp gây cháy, BZ rất bền vững ở ngoại cảnh, thời gian tác
dụng từ 3 – 4 tuần.
BZ có áp lực hơi thấp và khả năng bốc hơi rất nhỏ (0,5mg/m3 ở 700C).
Tốc độ thủy phân rất chậm, ở nhiệt độ 250C và PH7, thời gian thủy phân một
nửa là 3 – 4 tuần và tạo ra axit benzilic và quinuclidinol.
Cũng như các dẫn xuất khác của piperidylbenzilat và glycolat, BZ có thể
phản ứng với axit hữu cơ và vô cơ tạo thành các muối tương ứng, các muối này dễ
dàng tan trong nước, dùng đầu độc nguồn nước và thực phẩm.
Liều gây rối loạn tâm thần của BZ vào khoảng: 0,5 – 3mg/ người.
Triệu chứng lâm sàng, cấp cứu điều trị (xem phần nội khoa dã chiến – bài
24).
2.3. Chất độc gây ngạt (gây phù phổi cấp)
Gồm có chất phốt gien ký hiệu CG, diphotgien ký hiệu DP.
Chất gây nhiễm độc toàn thân có đặc điểm là gây chết rất nhanh qua đường
hô hấp như axit xianhhydirc ký hiệu AC và oxyt cacbon.
vũ khí gây chết người, chất độc loét được xếp vào thứ hai sau chất độc thần kinh.
Nhóm chất độc này có một số đặc điểm sau:
Có tác dụng chậm, gây tử vong muộn.
Bền vững ở môi trường, ít bốc hơi, tương đối ổn định.
Xâm nhập vào cơ thể bằng cả ba con đường có thể dùng hình thức vũ khí
hóa học hoặc dùng đầu độc nguồn nước, lương thực, thực phẩm.
Có khả năng ngấm qua các vật liệu dùng làm phương tiện bảo vệ, đóng gói,
bảo quản. Như cao su, da, nilon, vải nhất là trong điều kiện độ ẩm cao.
Vừa gây nhiễm độc toàn thân, vừa gây tổn thương tại chỗ nên công tác đề
phòng, cấp cứu và điều trị rất khó khăn thời gian điều trị kéo dài.
Đại diện cho nhóm chất độc này là các chất: Yperit (Diclodietyl sulfua),
Yperit nito (Triclotrietylamin) và Lovizit (Clovinyl dicloasin).
Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất các nhà hóa học quân sự tìm những hóa
chất gây tổn thương da. Họ chú ý đến tính chất rộp phồng loét nát của chất độc
này. Sau khi nghiên cứu họ đưa vào sản xuất, ở Đức chất độc có tên là LOST là tên
đầu của hai nhà bác học Đức Lô mi và Stêincôp (Hai nhà bác học đã đưa ra
phương pháp sản xuất Yperit trong công nghiệp).
Ngày 13/07/1917 quân Đức đã sử dụng lần đầu tiên đánh vào quân Pháp ở
thành phố Ypress ở Bỉ và đã gây thiệt hại lớn. Từ đó người Pháp đặt tên cho chất
độc này là Yperit. Xuất phát từ mùi đặc biệt của chất độc này người Anh gọi là khí
mù tạc, ở Đức gọi là chữ thập vàng (vì trên bom có chứa chất độc này có ký hiệu
chữ thập màu vàng). Quân đội Mỹ ký hiệu chất độc này bằng chữ HD, HS, H. Hiện
nay, các nước NATO ngoài chất độc Yperit còn có chất oxy – Yperit, các chất này
bền vững hơn độc tính cao hơn Yperit 2 – 3 lần.
2.4.2. Tính chất
Tính chất lý học:
Yperit tinh khiết là một chất lỏng, sánh, không có màu, ít bay hơi. Loại
thông thường dùng trong chiến tranh có màu nâu đen và mùi tỏi. mũi có thể ngửi
thấy mùi này với nồng độ Yperit từ 0,001 – 0,002 mg trong 1 lít không khí. Yperit
sôi ở 2170C, như vậy Yperit khó hòa tan trong nước (ở 150C chỉ hòa tan được
0,07), dể hòa tan trong dung môi hữu cơ với nhiều chất độc khác. nồng độ tối đa
của Yperit trong không khí phụ thuộc vào nhiệt độ, nhiệt độ càng cao nồng độ
trong không khí càng lớn.
Ví dụ:
Nhiệt độ 5 0C nồng độ là 0,278 mg/l.
Nhiệt độ 300C nồng độ là 2,135 mg/l.