You are on page 1of 8

CHƯƠNG 3

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


I. Chủ nghĩa xã hội
1. Chủ nghĩa xã hội – giai cấp đoạn đầu của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa
 Vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử để nghiên cứu xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen xây
dựng nên học thuyết hình thái kinh tế xã hội
 Theo các ông, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế – xã hội thấp lên cao là một quá trình lịch sử – tự
nhiên. Tức là nó tuân theo quy luật khách quan
 Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên
– Nguyên thuỷ
– Chiếm hữu nô lệ
– Phong kiến
– Tư bản chủ nghĩa
– Cộng sản chủ nghĩa
 Nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của Mác hay Ăngghen, cũng không phụ thuộc vào ai mà
tuân theo quy luật khách quan. Quy luật cơ bản nhất để dẫn đến sự thay đổi của các hình thái kinh tế – xã
hội là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng
tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng. Chính giải quyết giữa một bên là lực lượng sản xuất tiên tiến với
các bên là quan hệ sản xuấ lỗi thời, lạc hậu làm cho các phương thức sản xuất, các hình thái kinh tế – xã
hội thay thế nhau từ thấp đến cao.
 Nếu chúng ta hiểu, vận dụng, xem xét điều vào chủ nghĩa tư bản, xem xét hình thái kinh tế – xã hội tư
bản chủ nghĩa thì chúng ta thấy được nó không thể đứng yên được. Giống như các hình thái kinh tế xã
hội trước mà chính những sự vận động của những cái mâu thuẫn trong lòng nó, mà hình thái kinh tế – xã
hội chủ nghĩa đã đang và sẽ bị thay thế bằng hình thái kinh tế – xã hội tốt đẹp hơn, đó chính là hình thái
kinh tễ – xã hội cộng sản chủ nghĩa.
 Hình thái kinh tế – xã hội chỉ ra tính tất yếu là sự thay tế hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa
thành hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa  Phải thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa (hay
còn gọi là cách mạng vô sản)
 Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp đến cao
qua hai giai đoạn
SƠ ĐỒ HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA
TBCN TKQĐ CNXH CNCS
Lên CNXH
Giai đoạn thấp Giai đoạn cao
 Để ra được hình thái kinh tế – xã hội mới, đặc biệt là xã hội có giai cấp và có đối kháng giai cấp thì
phải thông qua cách mạng xã hội (Liên quan đến vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp)
 Vận dụng cái đó, hình thái kinh tễ – xã hội cộng sản chủ nghĩa cũng có các giai đoạn phát triển từ thấp
đến cao và trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn thấp và giai đoạn cao. Hình thái kinh tế – xã hội cộng sản
chủ nghĩa bắt đầu từ thời kì quá độ nhưng nó có những nấc thang xác định.
 V.I.Lênin, từ thực tiễn nước Nga (Nga không phải là một nước tư bản phát triển, mà là một nước tư bản
chủ nghĩa trung bình) đối với những nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển cao: “cần có một thời kì
quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”
 Thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản được hiểu theo hai nghĩa
– Đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, cần thiết phải có thời kì quá độ khá lâu
dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội – những cơn đau đẻ kéo dài. Qua đó ta thấy được thời
kỳ quá độ ở Việt Nam chắc chắn phải dài hơn rất nhiều vì bản chất nước ta không phải là nước quá
độ lên từ nước chủ nghĩa tư bản trung bình hay tư bản phát triển, mà là một nước nông nghiệp lạc
hậu, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và thể chế là một nước thuộc địa nửa phong kiến  Thời kì
quá độ kéo dài là một điều đương nhiên. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải làm những
nhiệm vụ mà đáng nhẽ những nhiệm vụ đó phải thuộc về chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản làm.
– Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng
sản có một thời kì cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia, thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội. Về mặt thực tiễn hiện nay, chưa một nước nào là một nước tư bản chủ
nghĩa phát triển cao mà quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ta có thể thấy như nước Nga hay một loạt
những nước ở Đông Âu, cũng chỉ từ những nước tư bản chủ nghĩa trung bình quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, chứ chưa phải là một nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao mà cách mạng xã hội chủ nghĩa
nổ ra và giành được thắng lợi, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội  Chỉ dừng lại ở mức độ dự báo khoa
học.
v Tiểu kết: Cần nắm được chủ nghĩa duy vật lịch sử (học thuyết hình thái kinh tế – xã hội trong đó là
quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế – xã hội), Giai cấp (khái niệm, nguồn
gốc ra đời, đấu tranh/vai trò/đỉnh cao của đấu tranh giai cấp dẫn đến cách mạng xã hội)

2. Điều kiện ra đời chủ nghĩa xã hội


a. Điều kiện kinh tế
 Chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát triển mới của nhân loại: Đầu tiên ta phải đánh giá khách quan,
một cách toàn diện về chủ nghĩa tư bản. Nếu chúng ta đánh giá một cách khách quan, toàn diện về chủ
nghĩa tư bản, hay nói đầy đủ là hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa là một giai đoạn phát triển
mới của nhân loại, là một bước tiến rất dài so với hình thái kinh tế – xã hội phong kiến trên tất cả các
mặt, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Mác thấy được những mặt tích cực của chủ nghĩa tư bản nhưng lại thấy
được những mặt hạn chế không thể vượt qua của chủ nghĩa tư bản.
 Nhờ sự phát triển của công nghiệp cơ khí  Tạo ra sự phát triển của lực lượng sản xuất: Nhờ sự phát
triển của nền đại công nghiệp mà đã tạo ra sự phát triển về lực lượng sản xuất vô cùng đồ sộ. Nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa là do áp lực về mặt khoa học kĩ thuật, bản thân cách nhà tư bản muốn đạt được
những lợi nhuận cao, muốn thu được nhiều giá trị thặng dư thì họ phải tìm mọi cách để cách mạng về lực
lượng sản xuất, đặc biệt là tìm mọi cách để cải tiến và áp dụng khoa học – kĩ thuật phổ biến, cải tiến
công cụ sản xuất, để thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. Chính sự quan tâm của những nhà tư bản mà
đã khiến cho lực lượng sản xuất liên tục phát triển. Qua đó nền đại công nghiệp phát triển rất nhanh,
năng suất lao động ngày càng lớn.
 Qua đó ta thấy được Mác và Ăngghen đánh giá rất cao chủ nghĩa tư bản: “Giai cấp tư sản, trong quá
trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỉ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn
lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Ở đây, Mác chủ yếu nói đến dấu mốc từ khi
bắt đầu các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nổ ra, lần đầu tiên là vào khoảng những năm 1760 đến
những năm 1840, nhờ đó tạo ra một lực lượng sản xuất nhiều hơn, đồ sộ hơn của tất cả các thế hệ trước
kia từ xã hội nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ cho đến phong kiến cộng lại.
 Nhưng chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà tạo ra những mâu thuẫn, chính sự vận động của
những mâu thuẫn ấy mà làm cho chủ nghĩa tư bản đã đang và sẽ bị thay thế bằng hình thái kinh tế – xã
hội mới, đó là hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa. Vậy ta có thể hiểu được rằng mâu thuẫn
trong lòng chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn về mặt kinh tế, và mâu thuẫn này nó quy định về mặt chính trị
– xã hội. Hay nói cách khác, mâu thuẫn về mặt chính trị – xã hội thực ra nó chỉ phản ánh cái mâu thuẫn
kinh tế. Chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những mâu thuẫn, và chính sự vận động của
mâu thuẫn này đòi hỏi phải xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, xoá bỏ hình thái kinh tế – xã hội chủ nghĩa để xác
lập bằng hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa.
 Về mặt kinh tế:
Lực lượng sản xuất Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
mang tính xã hội hoá cao dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân
– Cứ quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mà
lực lượng sản xuất chỉ phát triển khi có quan hệ sản xuất phù hợp.
– Nhưng trong chủ nghĩa tư bản thì quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất vì lực
lượng sản xuất mang tính xã hội, trong khi quan hệ sản xuất này, nếu muốn phù hợp phải mang tính
xã hội. Nhưng trong chủ nghĩa tư bản thì quan hệ sản xuất lại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về điều kiện sản xuất. Chính vì đó quan hệ sản xuất này trở thành lực cản, dần trở nên
lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
– Sự phát triển của lực lượng sản xuất nó đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ đi, để thiết lập một
quan hệ sản xuất mới dựa trên sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất.

b. Điều kiện chính trị – xã hội:


Giai cấp công Giai cấp tư
nhân hiện đại sản lỗi thời
 Giai cấp công nhân hiện đại: Đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến
 Giai cấp tư sản lỗi thời: Đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi thời
 Mâu thuẫn về mặt chính trị xã hội chính là mâu thuẫ giữa giai cấp công nhân hiện đại và giai cấp tư sản
lỗi thời. Mâu thuẫn này diễn ra càng ngày càng gay gắt, và khi diễn ra căng thẳng như vậy nó buộc chủ
nghĩa tư bản phải tiến hành cái điều chỉnh có lợi hơn cho người lao động.
– Trước hết nó không bắt nguồn từ tinh thần nhân đạo của giai cấp tư sản, mà chính vì cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân như vậy mà buộc chủ nghĩa tư bản nếu không điều chỉnh những chính sách
đó thì nó dẫn tới sụp đổ, thậm chí là sụp đổ ngay tức khắc. Cho nên để giảm mâu thuẫn giữa hai giai
cấp thì chủ nghĩa tư bản mà trực tiếp đây là giai cấp tư sản phải tiến hành những điều chỉnh có lợi
hơn cho người lao động. Ví dụ như họ cho những người công nhân có những tư liệu sản xuất phụ để
có thể tiến hành những hoạt động sản xuất, đặc biệt là chế độ cổ phần hoá để cho công nhân có cổ
phần; hay cái lợi nhuận mà tư bản thu được nhiều do cuộc cách mạng mang lại cho nên họ phân
phối lại cho người công nhân, người lao động nhiều hơn trước đây; cho nên đời sống người dân
được nâng cao hơn, dẫn đến xu hướng trung lưu hoá.Chính cuộc đấu tranh của công nhân đã tạo ra
sức ép, sự áp lực buộc chủ nghĩa tư bản phải thay đổi.
– Hơn hết, sức ép từ chính chủ nghĩa xã hội (Chủ nghĩa xã hội hiện thực với những thành tựu rất lớn;
có thể kể đến như Liên Xô với bề dày thành tích, những thành tựu lớn của nước đó. Sau một thời
gian chỉ vài chục năm, Liên Xô đã vươn lên trở thành một nước siêu cường trong nhiều lĩnh vực như
kinh tế, quân sự… đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp, đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Mỹ). Cho nên
sức ép đến từ chủ nghĩa xã hội là rất lớn. Cái sức ép trong nội bộ tư bản đã lớn, nay phải chịu thêm
sức ép từ bên ngoài từ chính những nước đã giành được độc lập, giành được chính quyền đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Và từ những thành tựu mà các nước đó tạo ra đã gây sức ép buộc chủ nghĩa
tư bản phải có những điều chỉnh có lợi hơn cho người lao động.
 Tuy nhiên, ta thấy được những cái điều chỉnh đó chỉ là phương pháp kéo dài, và những điều chỉnh đó
vẫn nằm trong chủ nghĩa tư bản, vẫn không vượt qua cái trật tự của chủ nghĩa tư bản. Theo đó, cái logic
tất yếu là cái sự phát triển của lực lượng sản xuất, chính nhờ điều này mà đạt đến cái trình độ xã hội hoá
cao như này. Chính sự trưởng thành của giai cấp công nhân (bao gồm cả những điều kiện khách
quan/chủ quan, nhân tố chủ quan,…) mà cách mạng vô sản, còn gọi là cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ nổ
ra. Và khi nó nổ ra, nó sẽ dẫn thới sự ra đời của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa và nó là
điều tất yếu.
v Tiểu kết: Cần đánh giá, nhìn nhận sự phát triển của chủ nghĩa tư bản là như thế nào, đó là một thành
tựu rất lớn cho nhân loại. Cho nên những nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội phải kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã tạo ra trong chủ nghĩa tư bản thì mới có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chính mâu thuẫn kinh tế chính là điều kiện kinh tế dẫn tới chủ nghĩa tư bản đã, đang và sẽ bị phủ
định, hơn hết chính mâu thuẫn kinh tế đã quy định cái mâu thuẫn về mặt chính trị, hay nói cách khác
nó quy định điều kiện về mặt chính trị – xã hội. Đó chính là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản, và cái mâu thuẫn này nó sẽ được giải quyết bằng đấu tranh, mà đỉnh cao sẽ dẫn đến
cách mạng vô sản, mà ngày nay ta nói cách khác chính là cách mạng xã hội chủ nghĩa. Và khi cuộc
cách mạng này xảy ra, nó sẽ dẫn tới sự ra đời của hình thái kinh tễ – xã hội mới, đó chính là hình thái
kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa

3. Những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội


 Muốn so sánh chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản thì phải dựa vào đặc trưng bản chất của nó. Phải
hoàn thành thời kỳ quá độ, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc thì mới có những đặc
trưng này, và khi đó nó mới thực hiện đầy đủ.
 Chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo
điều kiện cho con người phát triển toàn diện: Điều này là vô cùng tốt đẹp. Nếu làm được điều này, và có
như vậy thì mới là chủ nghĩa xã hội. Nhìn lại các cuộc cách mạng tư sản cho đến chủ nghĩa tư bản không
hề đặt ra những mục tiêu giải phóng như này; hay có thể kể đến khẩu hiệu “Tự do – bình đẳng – bác ái”
nó chủ yếu mang ra chủ yếu chỉ để mị dân, để tập hợp lực lượng, để xoá bỏ chế độ phong kiến. Nhưng
sau khi đã đạt được mục tiêu, giai cấp tư sản sẵn sàng phản bội những người đã đi cùng với họ để tiếp
tục duy trì chế độ người áp bức, bóc lột người.
 Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế động công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu: Có được điều này thì ta mới có thể xoá bỏ được áp bức, bóc lột, bất
công. Từ đó mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Và có làm được điều này thì mới khắc phục
được mâu thuẫn về bản chất của chủ nghĩa tư bản (biểu hiện ở điều kiện kinh tế, chính trị – xã hội)
 Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ: Nó là chế độ do dân làm chủ. Không
phải nhân dân nói chúng, mà là do nhân dân lao động làm chủ đất nước
 Chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền
lực và ý chí của nhân dân lao động: Nó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Và nhà
nước này thuộc kiến trúc thượng tầng vì cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ công hữu.
 Chủ nghĩa xã hội có nền văn hoá phát triển cao, kế thừa và phát huy những giá trị của văn hoá dân tộc
và tinh hoa nhân loại: Nền văn hoá phát triển cao này phải thoả mãn, phục vụ mục đích của nhân dân,
phải biết cách ứng xử với truyền thống và bên ngoài.
 Chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan hệ hữu nghị, hợp tác với
nhân dân các nước trên thế giới.
 Chủ nghĩa xã hội, không phải do Mác và Ăngghen nghĩ ra, cũng không phải do giai cấp công nhân
sáng tạo nên mà nó có từ khi xã hội nảy sinh phân chia giai cấp, có áp bức bóc lột giai cấp. Người ta đã
mơ đến một xã hội không còn áp bức bóc lột bất công, tất cả mọi người đều được bình đẳng tự do. Phải
đến cuộc Cách mạng Tháng 10 Nga mới đặt được nền móng cho nó, mới có chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Và để có được những điều này, nó là cả một quá trình bằng chính những nội lực của quần chúng nhân
dân, của người lao động và giai cấp công nhân.
 Những đặc trưng này chỉ có được sau khi kết thúc thời kì quá độ, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
một cách vững chắc thì nó mới thể hiện một cách đầy đủ toàn diện. Và để có được những đặc trưng này,
nó là trách nhiệm của Đảng, của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và của toàn thể nhân dân.

II. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội


 Quan niệm: Thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kì cải biến cách mạng sâu
sắc toàn diện các lĩnh vực đời sống của xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình
thành một xã hội mà trong đó, những nguyên tắc căn bản của xã hội chủ nghĩa sẽ được thực hiện.

1. Tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
a. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản khác nhau về bản chất
 Chủ nghĩa xã hội:
– Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
– Không còn tình trạng áp bức và bóc lột
– Không còn đối kháng giai cấp
– Nhà nước của đại đa số trấn áp thiểu số
 Chủ nghĩa tư bản
– Chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
– Áp bức, bóc lột, bất công
– Đối kháng giai cấp
– Nhà nước của thiểu số trấn áp đại đa số

b. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mới tạo ra cơ sở vật chất – kĩ thuật nhất định
 Chính nhờ sự phát triển cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa tư bản thì chủ nghĩa xã hội có tiền đề để
phục vụ cho chủ nghĩa xã hội cần phải có thời gian tổ chức, sắp xếp lại: Những nước đã qua chủ nghĩa tư
bản đã qua thời kì này, đã thuận lợi cho việc phát triển cơ sở vật chất – kĩ thuật, tạo ra nền đại công
nghiệp. Nói cách khác, chính nền đại công nghiệp đã đào tạo cho quần chúng lao động tính tổ chức kỉ
luật tốt. Nhưng để cơ sở vật chất – kĩ thuật phục vụ cho chủ nghĩa xã hội trong khi nó đang phục vụ,
mang lại lợi ích cho thiểu số; muốn nó mang lại lợi ích cho đại đa số thì cần có thời gian tổ chức, sắp xếp
lại cơ sở vật chất kĩ thuật  Chính là thời kì quá độ
 Những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội, cần có một thời gian dài để tiến
hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.

c. Các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội (đặc biệt là quan hệ sản xuất) không thể tự phát ra đời
 Các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội (đặc biệt là quan hệ sản xuất) không thể tự phát ra đời trong
lòng chủ nghĩa tư bản  Cần phải có quá trình cải tạo và xây dựng  Thời kì quá độ
 Quan hệ sở hữu ở đây dựa trên sở hữu công, là quan hệ kinh tế vật chất. Thực chất nó là quan hệ kinh
tế giữa người với người, là quan hệ cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Nó không thể tự phát trong lòng chủ
nghĩa tư bản (Dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân và tư liệu sản xuất).

d. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc mới


 Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc mới, khó khăn và phức tạp, cần phải có thời gian để giai
cấp công nhân từng bước làm quen  Cần có thời kì quá độ
 Bản thân giai cấp công nhân đấu tranh giành được chính quyền chỉ là bước đầu, điều đầu tiên khi có
chính quyền trong tay là sử dụng nhà nước, hệ thống chính trị đó để cải tạo tổ chức xã hội mới. Đó là
một công việc mới, vô cùng khó khăn và phức tạp. Vậy nên nó cần có thời gian để giai cấp công nhân
từng bước làm quen với những công việc, những nhiệm vụ đó.

2. Đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội


 Thực chất của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Là thời kì cải biến cách mạng từ xã hội tiền tư bản
chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã hội của thời kì quá độ là xã hội có sự
đan xen của nhiều tan dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tin thần của chủ nghĩa tư bản và những
yếu tố mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới phát sinh”
 Thực chất, hay còn gọi là đặc điểm nổi bật là sự tồn tại đan xe, đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Nó tồn
tại đan xen, nhưng đã đan xen thì chúng sẽ đấu tranh với nhau. Mới cũ khác nhau, xu hướng cũng khác
nhau, nội dung hình thức khác nhau  Đấu tranh là điều đương nhiên
 Đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ: “Đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời
kì cải tạo cách mạng sâu sắc, triệt để xã hội cũ trên tất cả các lĩnh vực  Thời kì lâu dài, gian khổ bắt
đầu từ khi giành chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”
– Thời kì quá độ bắt đầu từ khi giành chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đó
là thời kì lâu dài, gian khổ. Nó sẽ chỉ kết thúc khi ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, là xây
dựng được những tiền đề về kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hoá, xã hội…
– Đặc điểm nổi bật của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, và cũng là biểu hiện của thực chất – đó
chính là sự tồn dại đan xen và đầu tranh giữa những nhân tố của xã hội mới (chính là của chủ nghĩa
xã hội, của những hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa) và những tàn dư của xã hội cũ trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội
– Thời kì quá độ là thời kì lâu dài và đầy gian khổ. Nó không chỉ ngày một ngày hai, cũng không phải
con đường trải đầy hoa hồng cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động mà thay vào đó là rất
nhiều những chướng ngại vật, trở ngại khó khăn, hơn hết là con đường rất dài để hoàn thành đời thời
kì này.

a. Về kinh tế
 Tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó có cả những thành phần kinh tế đối lập với xã hội chủ nghĩa:
Việc phát triển kinh tế nhiều thành phần vốn không phải do chúng ta hay Đảng ta sáng tạo ra, mà những
nhà kinh điểm Mácxit trong đó có Lênin đã nêu ra từ rất lâu với chính sách kinh tế mới (NEP).
Liên hệ với Đảng ta: Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong dó kinh
tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân, kinh tế tư nhân và trở thành một trong những động lực quan trọng của sự
phát triển (Đại hội XIII): Nước ta là nước kinh tế nhiều thành phần như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài… Trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai
trò nền tảng. Đặc biệt kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo, nắm giữ những lĩnh vực then chốt
của nền kinh tế, để đảm bảo nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó,
những nền kinh tế khác vẫn phải chịu sự quản lý của nhà nước, nếu không có sự quản lý hay định hướng
đó thì sự tự phát đi lên tư bản sẽ xảy ra bất cứ lúc nào, vì nó sẽ chạy theo lợi nhuận mà ảnh hưởng đến
rất nhiều yếu tố khác nhau.

b. Về tư tưởng – văn hoá


 Tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hoá khác nhau. Yếu tố tư tưởng, văn hoá cũ và mới chúng thường
xuyên đấu tranh với nhau  Đảng Cộng sản từng bước xác lập và xây dựng hệ tư tưởng và nền văn hoá
xã hội chủ nghĩa
 Xây dựng hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, chính là xây dựng tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin. Ở Việt
Nam thì chủ nghĩa này chính là tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng Cộng sản và Nhà nước phải từng bước xác
lập, xây dựng được hệ tư tưởng và nền văn hoá này. Và nền văn hoá này chịu sự chi phối của hệ tư tưởng
xã hội chủ nghĩa, vì hệ tư tưởng của một thời đại chính là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội bấy
giờ.
 Muốn xây dựng được nó, ta phải phổ biến thông qua nền giáo dục. Hệ tư tưởng cũ ở đây, có thê kể đến
như nho giáo, phong kiến… nhưng giờ đã không còn.

c. Về chính trị
 Thiết lập và tăng cường chuyên chính vô sản (Những người phản động rất hay dùng từ này)  Thực
hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với thế lực thù địch, chống lại nhân dân, chuyên chính với thế
lực thù địch chống lại nhân dân
 Chuyên chính vô sản ở đây chính là thiết lập hệ thống chuyên chính vô sản, phải củng cố vai trò của hệ
thống chính trị, đặc biệt phải nâng cao được vai trò của nhà nước, nâng cao được chức năng của nhà
nước. Nó phải thực hiện dân chủ với nhân dân, mở rộng dân chủ, thực hiện dân chủ với nhân dân, phải
phát huy được dân chủ thì mới có thể huy động được sức lực và trí tuệ., thực hiện được quyền làm chủ
của nhân dân. Bên cạnh đó vẫn phải thực hiện được chức năng chuyên chính với thế lực thù địch, phản
động; chống phá chế độ đi ngược lại với xã hội chủ nghĩa, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân.
 Liên hệ với Việt Nam: tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường sự quản lý của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Chúng ta thực hiện quyền mở rộng dân chủ, mở rộng quyền dân chủ cho nhân
dân, đổi mới để cho Đảng và Nhà nước làm tốt vai trò quản lý của mình. Sử dụng sức mạnh của nhà
nước để trấn áp các thế lực phản động, thế lực thù địch.

d. Về xã hội
 Tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau, còn khác biệt thành thị
và nông thôn… Đấu tranh chống bất công, xoá bỏ tàn dư cũ, thiết lập công bằng xã hội, nguyên tắc phân
phối theo lao động là chủ đạo
 Nhiều giai cấp khác nhau như giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ tri thức, đội ngũ doanh
nhân… và nhiều giai cấp và những lợi ích khác nhau, vừa có hợp tác mà vừa có đấu tranh với nhau. Do
vậy nó là điều tất yếu.
 Còn sự khác biệt giữa thành thi và nông thôn bằng cách cùng nhau đấu tranh xoá bỏ bất công, đây là
vấn đề xã hội cần xoá bỏ những tàn dư cũ, xoá bỏ những bất công, thực hiện nguyên tắc phân phối lao
động làm chủ đạo.

III. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam


1. Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

2. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII – 1991 (Trong đại hội này nêu ra 6 đặc trưng) đến Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI – 2011 (Tiếp tục bổ sung cương lĩnh và nêu ra đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
gồm có 8 đặc trưng) đã vạch ra những điều sau:
– Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh: Dân giàu – một khái niệm mà có rất nhiều
người luận bàn về vấn đề này, liên quan rất chặt chẽ với nhau. Vì dân giàu thì nước mới mạnh.
Trước đây chúng ta đặt từ công bằng lên trước, nhưng giờ ta đặt dân chủ lên trước vì có dân chủ thì
mới có công bằng, và hơn hết là văn minh  Mục tiêu tổng quát, nó chính là chủ nghĩa xã hội.
– Do dân làm chủ: Bản chất vẫn là nhân dân lao động như nay đã được mở rộng hơn. Chúng ta phải
mở rộng vì không chỉ nhân dân lao động, mà đội ngũ doanh nhân hay những giai cấp khác, họ có tin
thần dân tộc, họ muốn phấn đấu thực hiện đúng mục tiêu… nên họ cũng có quyền làm chủ. Hơn hết
không chỉ trong nước mà những người dân sinh sống, học tập và làm việc tại nước ngoài.
– Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp: Ta thấy được lực lượng sản xuất của chúng ta còn đang rất thấp kém, còn nhiều trình độ với
nhiều nấc thang khác nhau. Vì vậy ta cần xây dựng, xác lập từng bước quan hệ sản xuất sao cho phù
hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Điều này đã khắc phục những cái thuộc về bản chất
của chủ nghĩa tư bản.
– Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Trong đó cốt lõi của đời sống tinh thần là chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải giữa vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã
hội. Truyền thống có hai mặt: mặt tích cực (hiện đại, tiến bộ) nhưng cũng có những mặt tiêu cực
(bảo thủ, lạc hậu). Chính vì vậy ta phải sử dụng phép biện chứng duy vật, mặt tích cực thì ta phải kế
thừa, phát huy nền văn hoá đậm đà của bản sắc dân tộc; nhưng đối với nền văn hoá nhân loại thì sẽ
phải học hỏi những cái hay, những gì hay và phải phù hợp với chúng ta thì mới có thể kế thừa, còn
không thì sẽ không thể học hỏi
– Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện: Về cơ bản
nhưng ta vẫn có thể thực hiện được đặc trưng này ở những điều kiện cơ bản.
– Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển:
Về cơ bản sự bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ nhau cùng phát triển.
– Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo:
– Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới
 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII – 1991 (Trong đại hội này nêu ra 6 đặc trưng) đến Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI – 2011 (Tiếp tục bổ sung cương lĩnh và nêu ra đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
gồm có 8 đặc trưng) đã chỉ ra những phương hướng sau:
– Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên, môi trường
– Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
– Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
– Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội
– Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế
– Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc thống nhất
– Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
– Xây dựng Đảng trong sạch, vững chắc

You might also like