Professional Documents
Culture Documents
luật Archimedes”.
Bằng cách áp dụng định luật này, ông đã tính
toán được bạc trộn lẫn trong vương miệng
và lượng vàng bị thợ kim hoàng lấy đi.
Vì vậy trường hợp này được coi là khoa học
pháp y được áp dụng trong phát hiện tội
phạm.
Luật Manu của Ấn Độ cổ đại
được đăng
tải năm 1248.
Quyển sách này được dùng như cẩm nang
áp dụng các kiến thức y khoa vào các vấn
đề tội phạm và xét xử.
Gìn giữ nhiều thành tựu y học Trung Quốc
thời sơ khai. Có nhiều hướng dẫn giá trị
trong giải phẫu tử thi.
Ghi nhận nhiều loại vết thương và hung
khí khác nhau.
Cách thức để phân biệt nạn nhân bị xiết cổ
hay ngạt nước.
Cũng nhấn mạnh việc
khám xét kỹ hiện
trường là hết sức cần
thiết.
Its basic attitude may be summed up in the
"Everything may
proverb:
depend on the
difference between two
hairs".
Thời gian sau, ở châu âu quyển sách
tương tự cũng ra đời.
Vào năm 1507 hiến pháp hình sự ở Bamerg, ghi nhận
các trường hợp pháp y liên quan đến giết trẻ con và
hủy hoại thân thể.
Một trong những chức năng chính của bác sĩ
là để quyết định liệu một bị cáo đã đủ sức
khỏe để chịu đựng cuộc tra tấn hay không!.
Vào thế kỷ 18, Giovanni Battista Morgagni
(1682-1771) nhà giải phẫu học người Ý, tiến
hành giải phẫu tử thi và so sánh những thay
đổi thực thể ở các tạng với các triệu chứng
bệnh lý, trên cơ sở đó tìm ra nguyên nhân
gây chết.
Vào 1761 (ở tuổi 80!), ông công bố công
trình nghiên cứu, giải phẫu tử thi 640 trường
hợp.
Vì vậy ông được coi là cha đẻ của ngành giải
phẫu bệnh.
Thế kỷ 19, các nhà giải phẫu
bệnh pháp y bắt đầu sử dụng
hình ảnh và thuật ngữ mô tả sự
thay đổi của tử thi, và giảng
dạy cho sinh viên và đồng
nghiệp.
Ba nhà giải phẫu bệnh pháp y đi tiên
phong trong lãnh vực này:
Mathieu Joseph Bonaventure Orfila
(1787-1853) sinh ra ở Minorca và
Marie Guillaume Alphonse Devergie
sinh ra ở Berlin,
Mathieu Joseph Bonaventure Orfila
(1787-1853)
Ông cho rằng: nếu nghi vấn
về mưu sát bằng độc chất,
nhà độc chất học pháp y
thường phải xét nghiệm các
mẫu tử thiết và thức ăn, để
định lượng và phân loại độc
chất.
vào thời của Orfila, chất đầu tiên
được chiết xuất là arsenic, nhưng
kết quả kết đáng tin cậy.
Orfila sáng tạo ra kỹ thuật mới và
kỹ thuật chiết xuất chất tồn, trong
luận án “Trait des poisons”, làm
tăng độ chính xác đáng kể.
Vào 1840, Marie LaFarge cố đầu độc
chồng của bà ấy bằng arsenic. Một điều
khó giải thích, mặc dù arsenic đã dùng và
có trong thức ăn, nhưng không thể tìm
thấy trong tử thi.
Orfila được tòa án trưng cầu điều tra. Ông
Là người đầu
tiên sử dụng
kính hiển vi xem
xét máu và tinh
dịch.
Vào năm 1835,
Devergie xuất bản
sách Médecine légale,
théorique et pratique,
(Legal medicine in
theory and practice).
Johann Ludwig Casper
cho ra đời quyển sách
Forensic Dissection in
1850, and Practical
Manual of Forensic
Medicine in 1856.
Dạ dày phân hủy,
1864
Medical professor
Johann Ludwig
Casper's richly
colored lithographic
plates illustrate
specific postmortem
examinations, some
of them experiments
on cadavers.
Dấu dây
thắt, 1864
Đầu và tay
của người
chết đuối,
1864
Ba quyển sách này mang lại một cuộc
cách mạng cho sự phát triển của pháp y
thế giới.
những khám phá vĩ đại, cung cấp chi tiết
hàng ngàn trường hợp,qua việc giải phẫu
tử thi, quan sát kỷ lưỡng, mô tả chính xác
và chi tiết, kết hợp với xét nghiệm hóa học
và kính hiển vi.
Họ đã cống hiến cả cuộc
đời của họ cho sự nghiên
cứu và phát triển ngành
pháp y , nhưng họ cũng
phải gánh chịu sự ghét
bỏ của các đồng nghiệp.
Hầu hết các ngành y khoa khác đều
xem bác sĩ pháp y như người không
mời mà đến, hay bươi móc tìm kiếm
sự thật, hoặc đại diện cho ngành
khoa học thứ cấp, bị làm hư hỏng
do tội phạm và cặn bã xã hội.
Pháp y thế giới có những
bước tiến nhanh vào thế kỷ
19 và thế kỷ 20.
Kỹthuật pháp y hiện đại
nhất được phát minh là kỹ
thuật DNA profiling
(DNA fingerprinting) hoàn
chỉnh vào năm 1985, do
giáo sư Alec
Jeffreys
của đại học Leicester.
Kỹthuật này giúp cho các nhà khoa
học giải quyết được rất nhiều vấn
đề như tìm hung thủ, hiếp dâm, tìm
cha con, tử thi phân hủy…
Y ph¸p viÖt nam
N¨m 1919 m«n Y ph¸p ®îc gi¶ng daþ ë trêng §H
Y Dîc Hà Nội, kh«ng cã Bé m«n
N¨m 1927 chÝnh quyÒn thuéc ®Þa Ph¸p cã ®Ò
¸n thµnh lËp ViÖn Y ph¸p trùc thuéc trêng §H Y
Dîc
N¨m 1937, GS Vò C«ng Hße lµm luËn v¨n tèt
nghiÖp BS Y khoa víi ®Ò tµi “Tù tö ë ViÖt
nam”
N¨m 1945 vµ 1954 GS Hße phô tr¸ch Labo Ký
sinh trïng Y ph¸p råi phô tr¸ch Bé m«n GPB – YP.
Nh÷ng n¨m 1960 BS Tr¬ng Cam Cèng – chñ
nhiÖm Bé m«n m« häc vµ gi¶ng d¹y Y ph¸p.
Ngµy 24/7/1977 Tæ Y ph¸p thµnh lËp trong bé
m«n GPB.
Ngµy 19/5/1983 thµnh lËp Bé m«n Y ph¸p.
Ngµy 21/7/1988 Tæ chøc gi¸m ®Þnh Y ph¸p TW
ra ®êi.
Ngµy 17/1/2001, ViÖn Y häc T ph¸p TW ®îc
Thñ tíng chÝnh phñ ký Q§ thµnh lËp.
Phßng Y ph¸p Côc qu©n y thµnh lËp 14/5/1962.
ViÖn Y ph¸p qu©n ®éi thµnh lËp 1988.
Phßng Y ph¸p ViÖn KHHS thµnh lËp 1980.
HiÖn nay
1. Ngêi sèng
- Tæn h¹i søc kháe
- T©m thÇn
- HiÕp d©m
- Søc kháe chÊp hµnh ¸n, truy tè, ©n x¸
- TiÒn h«n nh©n
2. Tö thi
- ¸n m¹ng
- ®ét tö
- Tai n¹n
êi)
Câu hỏi lượng giá
và thời gian.
Dấu hiệu bắt đầu giai đoạn này là ngừng thở, ngừng tim.
Tiếp đó giãn hết đồng tử, mất hoàn toàn các phản xạ.
Trong điều kiện như vậy, do ngừng tuần hoàn và hô hấp, các
tế bào thần kinh và mô não bị mất oxy nuôi dưỡng. Đây là thời
điểm cựu kỳ hệ trọng quyết định khả năng hồi sinh hay không.
Thông thường, khả năng chịu thiếu oxy của não từ 5 đến 7
phút. Trong thời hạn đó nếu phục hồi được tuần hoàn hô hấp,
có khả năng cơ thể được hồi sinh. Nếu quá thời hạn đó, việc
hồi sức để tuàn hoàn và hô hấp phục hồi chỉ mang lại đời sống
thực vật, hoàn toàn không thể hồi sinh. Điều này có ý nghĩa
quan trọng sống còn trong cấp cứu hồi sức tích cực và trong
việc xác nhận chết não.
3. Giai đoạn chết sinh học
Đây là giai đoạn chết thực thể của mô - tế bào:
Quá trình trao đổi chất của cơ thể ngừng lại. Bắt
đầu xuất hiện sự thoái hóa, hoại tử không còn khả
năng hồi phục. Do sự biệt hóa của mô - tế bào,
khả năng chịu thiếu oxy của chúng khác nhau, nên
thời hạn chết sinh học của mô - tế bào dài ngắn
khác nhau.
Trong y pháp học, giai đoạn này có ý nghĩa quan
trọng vì sự biến đổi sau chết bắt đầu hình thành và
diễn biến thành những dấu hiệu đặc trưng giúp
cho việc chẩn đoán thời gian chết.
Chết giả
Thường gặp trong các trường hợp sau:
- Điện giật, ngạt cơ học, ngạt nước.
- Nhiễm độc: Thuốc ngủ, thuốc mê, oxyt carbon (CO), đặc biệt ở
nước ta là bị rắn cắn.
- Mất máu, mất nước cấp tính số lượng lớn.
- Chết giả ở trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ do hệ thần kinh chưa hoàn thiện.
Để loại bỏ sự nhầm lẫn của chết giả, từ xa xưa đã có những
nghiệm pháp để chẩn đoán tử vong đơn giản như đặt gương
trước mũi bệnh nhân, rạch động mạch quay,… Hiện nay, có thể
ghi điện tim, điện não để xác định chính xác sự chết, loại trừ
chết giả.
3. CHẾT NÃO
Đặt vấn đề
Với sự phát triển toàn diện trong nhận thức
xã hội, đồng thời với những thành tựu vượt
bậc của y học, quan điểm về sự chết đã có
những thay đổi theo hướng tích cực và khoa
học. Đã đưa ra khái niệm “ chết não”.
1. Phương tiện hồi sức, điều trị tích cực phát triển có
thể duy trì lâu dài sự sống thực vật nhưng sự lạm
dụng phương tiện gây kéo dài nỗi đau đớn, lo lắng
bất ổn một cách vô vọng cho người bệnh và gia
đình.
2. Gây lãng phí về tài lực y tế mà lẽ ra có thể dành
cho những bệnh nhân còn khả năng cứu chữa.
3. Sự phát triển của kỹ thuật bảo quản mô ( ngân
hàng mô) và phẫu thuật ghép mô - tạng đặt ra
những nhu cầu ngày càng cao với người chết hiến
mô tạng.
4. Đòi hỏi sự thay đổi về quan niệm, nhận thức một
cách đồng bộ trong xã hội (về pháp luật, đạo đức,
y đức, tôn giáo…).
3.2. Sự phát triển của quan niệm chết não
Năm 1959, tại Lyon - Pháp lần đầu tiên dùng thuật
ngữ “chết hệ thống thần kinh”, sau đó Mollaret và
Goulon dùng thuật ngữ “hôn mê quá thời hạn”
(Coma Depasse).
Năm 1966, Hội nghị chuyên đề Ciba - London đưa ra
tiêu chuẩn đầu tiên về chết não.
- Giãn hết 2 đồng tử.
- Mất hết phản xạ tự nhiên.
Khi sự sống chấm dứt, quá trình trao đổi chất và cơ thể điều
hòa trạng thái cân bằng động sinh học ngừng lại, các thành
phần sinh hóa, enzym, hóa học,… nội sinh của cơ thể mất điều
khiển bắt đầu đi vào những chu trình phản ứng phân hủy tự
phát (Autolyse). Thêm vào đó, các loại vi khuẩn, virus, ký sinh
trùng trong ống tiêu hóa bắt đầu phát triển nhanh chóng.
Yếu tố tiếp theo là tác động của môi trường bên ngoài như thời
tiết, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, sự tân công của côn trùng,
động vật các loại… và tấn công vào cơ thể đã chết không còn
bất cứ sự đề kháng nào.
4. BIẾN ĐỔI CỦA TỬ THI
- Thời tiết, vi khí hậu của môi trường xung quanh đặc
biệt lưu ý đến nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, độ thông
thoáng (lưu thông không khí, gió).
- Điều kiện của hiện trường: trong phòng kín, ngoài
hiện trường rộng, phức tạp, môi trường nước…
trong túi nylon kín hay bảo quản trong nhà lạnh, tủ
lạnh.
3. Mất nước
Nước và dịch trong các mô sẽ bay hơi làm tử thi bị mất nước dẫn đến việc
giảm trọng lượng của cả thể, trung bình khoản 1 kg/ngày hoặc 10 -
18g/1kg cân nặng/ngày.
Hiện tượng mất nước có 2 dấu hiệu đáng quan tâm:
1. Mờ đục giác mạc - xẹp nhãn cầu
Chỉ sau vài giờ giác mạc mất độ bóng, nếu mắt mở hé, giác mạc mờ
đục kiểu như cùi nhãn. Nhãn cầu xẹp do nhãn áp giảm dần, sau 7 -8
tiếng không đo được nhãn áp nữa.
2. Dấu hiệu “da giấy”
Sự bay hơi nước ở những vùng da mỏng, không có lớp sừng, hoặc
những nơi bị chấn thương dạng đè ép, chà xát làm lớp da bị khô, dài,
cứng chắc như giấy bìa, thường có mầu sẫm gọi là “Da giấy”.
4. Vết hoen tử thi
Định nghĩa:
Là hiện tượng ứ máu tĩnh mạch tại những
vùng trũng trên cơ thể, tiếp theo có hiện
tượng thoát mạch, tan máu rồi thẩm thấu vào
các mô xung quanh tạo nên những vết
những mảng màu đặc biệt.
Màu sắc:
Hoen tử thi bắt đàu có màu hồng nhạt hay tím nhạt, sau chuyển
màu tím sẫm, màu xanh lục rồi mất dần đi khi quá trình hư thối
bắt đầu.
Màu sắc của vết hoen thực chất là màu của sắc tố máu, sau
chuyển màu thay đổi màu sắc khác nhau tùy điều kiện cụ thể. Ở
tử thi được bảo quản lạnh hoặc xác chết ở nơi có băng tuyết, vết
hoen có màu đỏ sẫm. Tử vong do nhiễm độc oxyt carbon (CO)
hoặc HCN vết hoen có màu đỏ “cánh sen”.
Vết hoen rất nhạt màu hoặc không hình thành trong trường hợp
chảy máu ngoài với số lượng lớn, hầu như không còn máu đọng
đủ để tạo vết hoen.
Cần phân biệt vết hoen tử thi với những mảng sắc
tố bất thường có trước trên da nạn nhân ví dụ
những đám u máu phẳng, vết bớt.
Đặc biệt phải chẩn đoán phân biệt giữa hoen tử thi
và vết bầm tụ máu do chấn thương. Cần rạch qua
vết màu đỏ, rửa nước, lau sạch. Nếu vết máu đó
mất đi, hoặc máu trong tĩnh mạch chảy ra và trôi đi
đó là vết hoen tử thi. Nếu thấy đám chảy máu tụ
máu dưới da, mô dưới da lau rửa không sạch đó
là chấn thương bầm tụ máu.
Diễn biến hoen tử thi xảy ra 3 thời kỳ:
Thời kỳ lắng động máu
Thời kỳ thoát mạch
Thời kỳ thẩm thấu
Thời kỳ lắng động máu:
Khoảng 1 - 2 tiếng đến 12 tiếng sau chết. Một số nguyên nhân chết gây
chết đột ngột, hoen tử thi xuất hiện sớm sau 30 phút.
Trong vòng 6 tiếng đầu sau chết, nếu thay đổi vị trí tư thế tử thi thì các
vết hoen đã hình thành dần dần mất đi. Trong khi đó, ở những vị trí
thấp trũng mới sẽ lại xuất hiện vết hoen tử thi được gọi là sự chuyển
dịch hoen tử thi.
Ngoài 6 tiếng sau khi chết, nêu có thay đổi tư thế tư thi, những vết hoen
đã hình thành không mất đi trong khi ở những vị trí thấp trũng mới sẽ
lại xuất hiện những vết hoen tử thi mới được gọi là hoen tử thi thứ
phát.
Đây là thời kỳ máu đọng vẫn còn nằm trong lòng mạch nên khi ấn ngọn
tay vào vết hoen, màu sắc chỗ đó bị nhạt trắng đi do máu đọng bị áp
lực đè vào đã di chuyển theo mạch máu đi chỗ khác. Nếu rạch dao qua
sẽ thấy máu trong lòng mạch chảy ra liên tục và rửa sạch dễ dàng.
Thời kỳ thoát mạch:
Bắt đầu từ 12 tiếng sau chết, đôi khi bắt đầu sớm hơn (khoảng 8
- 10 tiếng).
Từ thời điểm này có sự thoát mạch của hồng cầu và huyết
tương ra các mô xung quanh đồng thời với hiện tượng dịch của
mô xung quanh ngấm vào lòng mạch.
Đó là nguyên nhân làm cố định vị trí vết hoen và rất khó xuất
hiện hoen tử thi thứ phát khi thay đổi tư thế tử thi. Dấu hiệu ấn
ngón tay cũng không rõ ràng, chỉ thấy vết hoen hơi nhạt màu.
Nếu rạch qua sẽ thấy máu chỉ còn chảy nhỏ giọt.
Thời kỳ thẩm thấu:
Hoen tử thi luôn luôn khu trú ở những vùng thấp trũng của cơ
thể. Thông thường ở tư thế nằm ngửa, hoen xuất hiện ở vùng
sau cổ, lưng , mặt sau tay chân trừ vùng bả vai, mông, mặt sau
của 1/3 trên cẳng chân là những nơi cơ thể bị tỳ ép vào giường.
Đặc biệt ở tư thế chết treo cổ hoàn toàn, hoen tử thi tập trung ở
phần ngọn chi: bàn ngón tay, cẳng tay, vùng bụng dưới và vùng
cẳng bàn chân. Trong trường hợp điển hình, đây là một trong
những dấu vết tin cậy giúp cho chẩn đoán xác định chết treo cổ.
5. Cứng tử thi
Trong quá trình tử vong, xuất hiện trạng thái co cứng
các cơ và các khớp bị cố định được gọi là cứng tử thi.
sự liên quan đến hiện tượng mất dần glucosite
(adenzine triphosphoric) ATP trong cơ. Trong cơ thể
sống, mô sử dụng năng lượng của ATP để duy trì
tính co giãn đàn hồi. Khi cơ thể thiếu oxy, ATP liên
tục bị phân giải không còn khả năng phản ứng thuận
nghịch giữa protein cơ động và protein vòng dẫn đến
tế bào cơ rơi vào trạng thái cố định do kết dính của 2
protein này gây nên hiện tượng co cứng cơ.
Một lý thuyết khác liên quan đến hiện tượng
thiếu oxy tạo nên sự ứ đọng của acide lactic
trong cơ thể. Chính acide này phản ứng làm
đông vón protein của tế bào gây nên sự co
cứng. Cơ chế này tương tự như hiện tượng
“chuột rút” ở người sống khi hoạt động mạnh
về cơ bắp trong trạng thái chưa kịp bù oxy
hay gặp trong hoạt động thể thao.
Đặc tính thời điểm của cứng tử thi
Trung bình, cứng tử thi hình thành trong khoảng 1 đến 3 tiếng
sau chết, sớm nhất khoảng 10 phút và muộn nhất khoảng 7 - 8
giờ. Thời hạn này tùy thuộc vào nguyên nhân gây tử vong, thể
trạng của người bệnh và yếu tố bên ngoài. Những thanh niên
tầm vóc cường tráng, đang khỏe mạnh đột nhiên bị chết sẽ
cứng nhanh và cường độ cứng cao. Những người già, người da
bọc xương hay nằm bệnh lâu ngày sẽ lâu cứng và ít cứng. Nhiệt
độ bên ngoài cao sẽ gây cứng nhanh và hết cứng nhanh. Nhiệt
độ thấp dưới 100C làm chậm cứng và kéo dài đến 10 - 12 ngày
ví như trường hợp bảo quản tử thi trong tủ lạnh.
Thứ tự hình thành cứng gồm 2 loại cứng từ phía
trên xuống và cứng từ dưới lên. Loại thứ nhất bắt
đầu cứng từ các cơ hàm mặt lan dần xuống phía
dưới cơ thể. Loại thứ hai bắt đầu cứng từ chi dưới
rồi lan ngược lên trên.
Ở các khớp lớn sau 4 đến 6 tiếng đã cứng, sau
24 tiếng là cứng nhất.
Từ 4 đến 6 tiếng nếu phá cứng nhưng sau đó
cứng tử thi xuất hiện trở lại những độ cứng yếu hơn
trước. Sau 6 đến 8 tiếng, nếu phá cứng sẽ không
còn cứng trở lại.
Ý nghĩa y pháp học của cứng tử thi
1. Căn cứ vào thứ tự xuất hiện, sự phát sinh phát triển, thời
điểm và mức độ co cứng có thể phán đoán được nguyên nhân
và thời điểm tử vong.
2. Ở một mức độ nhất định, cứng tử thi có thể giữ lại tư thế, vị
trí của nạn nhân giúp ta phán đoán được hoàn cảnh xảy ra sự
việc. Hiện tượng này được giải thích do bị tổn thương đột ngột
của hệ thần kinh trung ương đặc biệt là tổn thương não trung
gian tương tự như triệu chứng “cứng mất não” trong lâm sàng.
3. Hiện tượng này cũng được lý giải bằng trạng thái kích động,
hốt hoảng, hưng phấn hay vận động quá mức đều có thể là
nguyên nhân quan trọng gây ra cái chết co cứng lập tức.
co cứng tử thi
Sớm nhất là 24h sau chết, trung bình 2.3 ngày, tiếp theo những
biến đổi ở giai đoạn sớm, tử thi bắt đầu rữa nát do quá trình
phân giải protein phối hợp với tác dụng của vi khuẩn. Hiện tượng
rữa nát tử thi bao gồm nhiều hiện tượng kể sau:
Mùi tử thi: chủ yếu do khí sulfurhyro (H2S) và amoniac (HNO3)
gây nên mùi thối đặc trưng của tử thi.
Màu xanh lục: H2S kết hợp với huyết sắc tố của máu tạo thành
huyết sắc tố lưu hóa có màu xanh đặc biệt: xanh lục. Khởi đầu
có mảng xanh lục ở vùng hố chậu phải (vùng ruột thừa, manh
tràng) sau đó ra khắp bụng rồi toàn thân.
Bọt khí và nốt phỏng nước: khí phát triển
trong quá trình rữa nát ngấm vào mô da tạo
thành những nốt phỏng nước và hốc nhỏ
chứa khí. Bọt khí còn thấy trong các tĩnh
mạch đẩy máu di động, khi ấn vào sự di
động của bọt khí và máu càng rõ. dễ nhìn
thấy ở mạch máu màng mềm của não hoặc
ở các tĩnh mạch mạc treo ruột.
Bọt xốp của tạng: khí thối rữa sinh ra trong các tạng đặc như gan, thận
thành những bọt xốp, rỗng giống như bọt biển.
Mạng tĩnh mạch hình cành cây: các tĩnh mạch dưới da vừa bị ứ máu
vừa bị khí thối rữa trong cơ thể đẩy căng ra, tạo nên hình ảnh kiểu cành
cây màu xanh lục.
Tử thi trương to: mặt phình to, tròn mất góc cạnh, nhãn cầu lồi ra, hai
môi trương to vều ra, lưỡi đầy bị đẩy ra ngoài. Bụng truơng to, da, mô
dưới da và cơ đều trương to lên làm thể tích của tử thi to hẳn tầm vóc
lúc còn sống, dễ gây nhầm lẫn khi nhận diện nạn nhân.
Trào dịch, chất chứa ra mũi: thường thấy dịch màu đỏ sẫm, bẩn hoặc
máu lẫn dịch trào ra 2 lỗ mũi và miệng. Có thể trào cả chất chứa dạ
dày.
Hậu môn, cơ quan sinh dục: thoát phân ra ngoài, sa trực tràng ra ngoài.
Âm đạo và tử cung sa xuống lộ ra ngoài. Nếu tử cung có thai có thể bị
đẩy ra ngoài. Ở nam giới, bìu căng mọng mất các nếp nhăn của da bìu.
Mức độ rữa nát của các mô - tạng
Chết tự nhiên
Chết liên quan đến điều trị
Chết do bạo lực
Chết nghi vấn
Chết tai nạn rủi ro
Chết tai nạn lao động
Chết tai nạn giao thông
Chết người trong thảm họa
Chết do nhiễm độc
Chết do tự vẫn (tự tử)
Chết đột ngột (đột tử)
1. Chết tự nhiên
1. Bao gồm giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và
đường hàng không
2. Việc nghiên cứu tử vong trong tai nạn giao thông còn có ý
nghĩa lớn trong việc phát hiện những yếu tố gây tai nạn để từ
đó có biện pháp phòng ngừa, hạn chế.
3. Trong những vụ tai nạn giao thông có tính thảm họa gây chết
nhiều người, y học tư pháp còn có chức năng nhận diện tử thi,
xác định chính xác căn cước của nạn nhân để trao trả cho gia
đình.
8. Chết người trong thảm họa
Hiện nay, những thảm họa do thiên tai, do những
vụ cháy nổ, sập nhà, sập lở núi, do khủng bố,
v.v… là những vấn đề nóng bỏng của nhiều quốc
gia và có tính toàn cầu. Việc xử lý khắc phục đòi
hỏi những nỗ lực lớn ở tầm cỡ quốc gia, quốc tế,
liên quan đến nhiều ngành.
Nước ta đã thành lập Ủy ban quốc gia về phòng
chống thiên tai thảm họa và trong ngành Y tế đã
bắt đầu xây dựng ngành Y học thảm họa.
9. Chết do nhiễm độc
Sây sát
Bầm máu
Tụ máu
Vết thủng
Vết đứt
Vết chém hay băm chặt
Dập nát
Sây sát
Tổn thương này có thể thấy ngoài da hay trong nội tạng
dưới hình thức vết hoặc mảng sây sát là tổn thương làm mất
một phần biểu bì da, thanh mạc hoặc vỏ bao các phủ tạng.
Lúc đầu vết sây sát đỏ hồng rớm máu hoặc không, có màu
hơi sẫm có vảy máu khô che phủ, nắn thấy cứng. Qua kính hiển
vi thấy có đọng hồng cầu, phía trên phủ một lớp huyết tương
(vảy). Từ 7 đến 12 ngày bong vảy, nếu không bị bội nhiễm, vết
sây sát sẽ tự lành, không tạo thành sẹo. Đôi khi, có thể để lại vết
sạm màu trên da do vết thương không được làm sạch dị vật gây
nên phản ứng đại thực bào ăn dị vật.
Cơ chế sây sát
Bầm máu
Vết đứt cũng là tổn thương mất tích chất liên tục
của mô như vết thủng nhưng diện rộng hơn, mô bị
tách ra không bị mất đi.
Đặc điểm của tổn thương này là:
- Mép vết đứt thẳng gọn, đôi khi nham nhở do hung
khí cùn.
- Thường không có tụ máu ở mép vết đứt, trừ khi
lưỡi hung khí quá cùn.
- Vết thương há miệng.
Vết chém hay băm chặt
Thương tích do vật diện rộng hoặc có trọng lượng lớn tác động
với lực mạch vào cơ thể: như dao dựa, dao phay, búa, rìu. Tổn
thương có đặc điểm:
- Vết thương dài, diện rộng, đáy hẹp, độ sâu ít.
- Mép vết thương có vết xước da.
- Nếu vết thương sâu, thường thấy phía trên đáy có những thớ
cơ đứt dở dang hoặc có vết mẻ xương.
- Nếu vật có lưỡi cùn, thương tích vừa có hình dáng vật chém
(đứt) vừa có hình dáng vật tày (tụ máu).
Dập nát
Rạn xương
Lún xương
Thủng xương
Gãy xương
Trật khớp
Rạn xương
Là vết nức của xương chưa gây gẫy rời hoàn toàn
với nhiều hình ảnh:
- Đường rạn đơn độc ngắn hoặc dài.
- Đường rạn có nhiều nhánh.
- Đường ranh hình sao có tâm điểm là nơi bị tác
động trực tiếp.
- Đường rạn chặn, cắt đường rạn khác khi xảy ra ở
2 thời điểm trước, sau.
- Đường rạn đi kèm đường vỡ xương hay đường
bai khớp (tách rộng khe khớp).
Lún xương
Thường gặp trong xương sọ: lún bản ngoài khi chỉ
bản ngoài bị vỡ và lõm lún vào phần tủy chưa tổn
thương bản trong. Nếu lún cả bản ngoài và bản
trong sẽ gây đè ép vào màng cứng.
có ý nghĩa đặc biệt vì đặc điểm hình dạng, kích
thước của vết lún như một dấu ấn giữ lại hình dạng
của vật gây thương tích hoặc cho phép nhận định
cơ chế gây thương tích.
Thủng xương
+ Vật tày (tù): với các biến thể: vật này mềm, vật tày
cứng, vật tày có cạnh, vật có diện cứng rộng,
phẳng,…
+ Vật sắc: với các biến thể: vật sắc có một lưỡi một
sống, vật sắc có 2 lưỡi, vật sắc - nhọn, vật có chi
tiết sắc phức tạp.
+ Vật nhọn: với các biến thể mũi nhọn tròn đều, hay
mũi nhọn có cạnh, mũi nhọn thân tròn, mũi nhọn
thân có cạnh.
+ Vật có kết cấu phức tạp
THƯƠNG TÍCH DO CÁC
TÁC NHÂN LÝ, HÓA
3.1. Các thương tích do điện: (xem bài tổn thương do
điện).
Rất nhiều loại hóa chất có thể gây nên những tổn
thương phức tạp, nhiều khi kín đáo với di chứng lâu
dài và nặng nề. Ở đây chỉ kể đến những hóa chất
hay gặp nhất trong y pháp là tổn thương bỏng acid
và bỏng kiềm. Lưu ý đến đặc điểm cháy thủng rất
dễ nhận trên quần áo nạn nhân. Lưu ý đến mức độ
tổn thương sâu do bỏng hóa chất.
Thương tích do súng
Phân loại súng:
- Súng lục hay súng ngắn.
- Súng trường
- Súng quân dụng: có thể bắn phát một hay
bắn liên thanh.
- Súng săn công nghiệp: có thuốc nổ hoặc
không có thuốc nổ (súng hơi).
- Súng săn tự tạo: súng kíp, súng tự tạo thủ
công.
- Súng thi đấu thể thao.
Tử thi có thương tích
Role of the Pathologist
Tử hình và dân sự
Tự tử, bị giết, và tai nạn.
Thời gian hồi sức đối với một trường hợp treo cổ
cần kéo dài đến 15 phút hoặc có thể lâu hơn.
Những trường hợp được cứu chữa có thể gặp
những di chứng sau đây:
- Rối loạn thần kinh: liệt, khàn tiếng, mất tiếng, giảm
trí nhớ, liệt cơ vòng.
- Đau ở vùng cổ, có thể gặp các biến chứng như ho,
khạc ra máu, viêm phổi.
- Vết hằn màu trắng ở vùng cổ sát dưới cằm, tồn tại
từ một vài tuần đến vài tháng.
Cơ chế chết do treo cổ
rªu…
*Níc vµo hÖ tuÇn hoµn:
- C¸c phñ t¹ng xung huyÕt, m¹ch m¸u d·n c¨ng ø
m¸u
- Gan to, c¾t thÊy m¸u lo·ng
hay gặp nhất là những vết sây sát da, bầm tụ máu hoặc rách da
ở cẳng chân hai bên kèm gẫy xương do tác động của chắn sốc
hoặc bảo hiểm đầu xe, có thể gợi lại hình ảnh vật tác động,
nhiều trường hợp dấu vết thương tích bên ngoài không rõ mặc
dù vẫn có tổn thương bên trong.
Werner U.Spitz cho rằng xác định vị trí và đặc điểm
của tổn thương ở cẳng chân nạn nhân có ý nghĩa
quan trọng trong việc nhận định tình huống xảy ra
tai nạn, nếu vị trí các vết thương hoặc điểm gẫy
xương không đều nhau ở cẳng chân hai bên thì
điều đó có nghĩa là nạn nhân đang bước đi hoặc
đang chạy khi xảy ra tai nạn. Đặc điểm ổ gẫy xương
ở cẳng chân hai bên cũng góp phần chứng minh tư
thế nạn nhân và chỉ ra chiều hướng của lực tác
động giúp nhận định chiều hướng chạy xe.
Vị trí tổn thương còn tùy thuộc vào lứa tuổi, loại xe
và tư thế của nạn nhân... nếu nạn nhân là trẻ nhỏ
điểm chạm đầu tiên ở nửa người phía trên làm cho
cơ thể nạn nhân thường bị hất ngã văng ra xa. Với
người lớn, điểm chạm đầu tiên ở nửa người phía
dưới làm cho nạn nhân bị hất lên cao, tùy thuộc vào
tốc độ xe chạy nạn nhân có thể bị va đập tiếp với
mui xe, nóc xe hay thành xe rồi sao đó bị ngã và
đập với mặt đường. Cần kiểm tra dấu vết lông tóc,
vết máu của nạn nhân có thể còn dính ở đầu xe,
trên mui, nóc hoặc thành xe khi tham gia khám xe.
Va đập với đèn pha xe ôtô thương gây ra những vết sây sát da, bầm tụ
máu hoặc rách da ở vùng đùi hoặc vùng mông. Có thể gặp những vết
thương có dị vật như mảnh kính vỡ, vết sơn hoặc vết dầu mỡ... nếu
nạn nhân va đập với thành bên của xe ôtô.
Va đập với những nơi có góc cạnh trên thành xe hoặc đầu xe ôtô (xe
tải) sẽ gây ra những vết thương rách da có chiều hướng rõ ràng,
thường gợi lại hình ảnh bề mặt của vật tác động.
Cần đo khoảng cách từ vị trí vết thương tới mặt đất theo trục đứng của
cơ thể và phối hợp khám xe để xác định điểm va chạm trên xe ôtô.
Tốc độ xe chạy tại thời điểm va chạm là yếu tố
quyết định đến mức độ nặng nhẹ của tổn thương
nguyên phát trên cơ thể nạn nhân, tốc độ xe dưới
20 km/h ít khi gây thương tích nặng có khả năng
gây tử vong cho nạn nhân, nếu xe chạy trong
khoảng 20-40 km/h thì thương vong có thể xảy ra.
Theo Karger, phần lớn các trường hợp tai nạn có
chấn thương cột sống cổ đều xảy ra khi xe chạy với
tốc độ trung bình 65 km/h, chấn thương ngực kèm
vỡ quai động mạch chủ, vỡ tim hoặc tụ máu mô
phổi thường gặp ở tốc độ 85km/h.
Tổn thương do ngã hoặc va đập với vật
cản trên đường
Sau khi bị va chạm với xe ôtô, cơ thể nạn nhân bị văng trượt
trên mặt đường tạo nên những vết sây sát da có bề mặt khô
cứng màu sẫm (còn gọi là vết sây sát da giấy), qua kính lúp có
thể thấy vết sây sát da gồm nhiều vết sượt da nhỏ song song
hoặc đan chéo nhau do va quệt với mặt đường không bằng
phẳng tạo nên, hay gặp ở những vùng lồi của cơ thể hoặc vùng
không có quần áo che phủ.
Có thể gặp những vết thương có dị vật (đất cát) nằm trên vùng
có vết sây sát da. Dấu hiệu chảy máu dưới da ở những vùng
này hiếm gặp ngoại trừ những trường hợp bị bánh xe ôtô lăn
qua hoặc bị va chạm mạnh với các vật trên mặt đường
Trong giám định y pháp, để xác định tổn thương do
va húc trực tiếp hay do bị ngã văng trượt trên mặt
đường cần phải dựa trên những đặc điểm của các
dấu vết thương tích trên thân thể nạn nhân, nhưng
trong nhiều trường hợp việc nhận định lại không
đơn giản vì tổn thương hình thành bởi các pha va
chạm không tách rời nhau, nằm cùng trên một vùng
cơ thể, đặc biệt với các vụ tai nạn có liên quan đến
nhiều phương tiện trong cùng một thời điểm do đó
cần phải phối hợp chặt chẽ với khám nghiệm hiện
trường, khám xe liên quan để tìm hiểu vị trí, tư thế
của nạn nhân khi tai nạn xảy ra.
Theo Charles S. Hirsch, để có thể nhận định thương
tích ở vùng đầu mặt của nạn nhân trong các vụ tai
nạn giao thông là do va đập trực tiếp hay do nạn
nhân bị ngã đầu va đập mạnh với vật cứng, cố định
có diện rộng thì cần dựa trên những đặc điểm vết
thương tích trên da đầu, vị trí, đặc điểm và chiều
hướng của đường vỡ sương sọ, dấu hiệu máu tụ
ngoài màng cứng và tổn thương dập não bên đối
diện. Phải kết hợp với những dấu hiệu lâm sàng
qua lời khai nhân chứng hoặc trên hồ sơ bệnh án
điều trị tại các cơ sở y tế (nếu có).
Cần phân biệt những dấu hiệu lâm sàng của tổn
thương nguyên phát trong chấn thương sọ não (rối
loạn thần kinh chức năng, mất ý thức hoặc rối loạn
hoạt động tự chủ ngay sau khi bị chấn thương) với
dấu hiệu của tổn thương thứ phát của chấn thương
sọ não như dấu hiệu chảy máu thứ phát từ các
mạch máu gây máu tụ ngoài màng cứng hoặc dưới
màng cứng, tình trạng phù não tăng dần sau chấn
thương, ảnh hưởng của các rối loạn toàn thân như
thiếu ôxy máu, tăng CO2 máu, giảm khối lượng tuần
hoàn trong các trường hợp sốc đa chấn thương
hoặc mất máu cấp.
Tổn thương của các tạng trong ngực, bụng
có khi chỉ là vết tụ máu ở gốc những tạng lớn
hoặc gốc mạc treo ruột nhưng cũng có thể là
dập vỡ tạng nếu có va đập mạnh hoặc bị
bánh xe ôtô đè qua sau khi nạn nhân ngã
xuống đường.
Thương tích do bánh xe ôtô đè qua
người
Dấu vết: Dấu vết của bánh xe ôtô lăn qua cơ thể nạn nhân để lại trên
quần áo và cơ thể nạn nhân nhưng có khi chỉ thấy trên quần áo mà
không rõ trên cơ thể hoặc ngược lại.
Trên cơ thể: Tùy từng vùng cơ thể bị bánh xe ôtô lăn qua mà dấu vết để
lại có thể hoặc không rõ, trường hợp bị bánh xe đè qua vùng đầu dấu
vân lốp ôtô thường không rõ, chủ yếu là tổn thương rất nặng như vết
sây sát,rách da, biến dạng đầu mặt, vỡ xương hộp sọ, xương hàm mặt
thành nhiều mảnh, dập nát tổ chức não hoặc có khi toàn bộ não thoát
ra ngoài qua đường vỡ xương.
Bánh xe ôtô đè qua vùng ngực, lưng hoặc chân tay
thường để lại những bầm tụ máu trên da gợi lại hình
ảnh của vân hoa lốp do bề mặt của bánh xe ôtô có
những giãnh và những phần lồi, khi bánh xe lăn qua
người những phần lồi của bánh xe đè ép lên da và
tổ chức dưới da làm máu ở những vùng này bị dồn
vào những vùng không bị đè ép (tương ứng với
phần lõm của bánh xe ôtô) gây chảy máu dưới da
tạo nên hình ảnh vân lốp ôtô.
Sự xuất hiện của dấu vân lốp trên cơ thể nạn nhân
còn phụ thuộc rất nhiều vào độ dày mỏng của quần
áo, độ mài mòn của lốp xe... ở những vùng da
không có quần áo che phủ bên cạnh vết vân lốp có
thể có vết sây sát, rách da, vết bụi cao su... nếu nạn
nhân mặc nhiều quần áo thì dấu vết vân lốp trên cơ
thể không rõ hoặc có khi không hình thành.
Trường hợp bánh xe ôtô chỉ đè ép có thể nạn nhân
bằng mặt bên (má lốp) thì dấu vết trên thân thể nạn
nhân có thể gợi lại đặc điểm hình dạng mặt bên của
lốp xe.
Trong giám định y pháp việc chẩn đoán có dấu vết
vân lốp ôtô trên cơ thể nạn nhân có ý nghĩa rất quan
trọng với công tác điều tra, xét xử....
Dấu vết trên quần áo, trên thân thể nạn nhân nếu rõ
ràng sẽ là căn cứ khoa học vững chắc, nhưng trong
nhiều trường hợp chuẩn đoán dấu vân lốp rất khó
khăn do dấu vết trên quần áo, trên da không rõ
ràng, do đó phải dựa vào đặc điểm và mức độ tổn
thương bên trong và điều quan trọng là phải tìm
được dấu vết lóc da ở vùng nghi ngờ bánh xe ôtô
đè qua.
Vết lóc da: do bánh xe ôtô vừa đè ép, vừa quay tròn
làm tách rời lớp da và tổ chức cân, cơ hoặc xương
ở phía dưới tạo thành những ổ, túi chứa đầy máu,
có khi gây ra những vết rách da rộng nếu bánh xe
đè qua những vùng da sát xương. Dấu hiệu lóc da
có thể dể quan sát nếu ở vùng da ít cơ hoặc sát
xương, ở vùng da cơ dày như vùng lưng, mông dấu
hiệu này khó quan sát đặc biệt khi không có dấu
hiệu vân lốp ở bên ngoài.
Tổn thương lóc da, mô cơ (décollement) có thể gặp
trong tai nạn lao động, thể thao... nhưng trong các
vụ tai nạn giao thông nếu có dấu vết trên quần áo
và thương tích trên da thì tổn thương lóc da sẽ là
những bằng chức quan trong để kết luận dấu hiệu
bánh xe đè qua cơ thể nạn nhân. Tình trạng chảy
máu ồ ạt trong ổ lóc da là nguyên nhân trực tiếp gây
mất máu cấp cho nạn nhân, vùng lóc da căng to,
chứa đầy máu là dấu hiệu quan trọng chứng minh
tổn thương xảy ra khi nạn nhân còn sống.
Vết rạn da: thường gặp ở nếp bẹn hai bên
hoặc những vùng da sát xương do bánh xe
ôtô đè qua làm cho da bị kéo giãn căng quá
mức, tạo nên những vết rách, rạn thành
nhiều vết nhỏ. Thường kèm theo tồn thương
nặng ở phía dưới vùng rạn da như tụ máu
rộng, lóc da, gẫy vỡ xương, dập vỡ tạng.
Tổn thương bên trong: tổn thương do bánh xe ôtô
đè qua cơ thể thường rất nặng, ngoài những tổn
thường ở vùng đầu mặt, trong phần lớn các trường
hợp bánh xe đè qua ngực, bụng hoặc các chi đều
gây ra dập vỡ tạng, gẫy vỡ xương, rách đứ dây
chằng, cân cơ, mạch máu có khi làm vỡ thành
bụng, rách cơ hoành hoặc vỡ thành ngực và nặng
hơn có thể làm đứt rời cơ thể trong những trường
hợp bị nhiều xe tải hạng nặng đè qua. Cần đo kích
thước và vẽ sơ đồ chi tiế vùng cơ thể bị dập nát,
gẫy vỡ xương để nhận dạng kích thước, chủng loại
lốp xe ôtô.
Bánh xe ôtô đè qua vùng hông thường làm biến
dạng khung chậu, gây rách, rạn da vùng nếp bẹn
hoặc tầng sinh môn kèm những ổ lóc da kín đáo ở
vùng mông hoặc mặt sau hai đùi. Bên cạnh những
tổn thương do bánh xe ôtô đè qua có thể gặp nhiều
loại hình thương tích khác như do va húc trực tiếp,
va đập hoặc lê quệt trên mặt đường nhưng cũng có
khi chỉ gặp một loại tổn thương do bánh xe lăn qua
cơ thể nạn nhân.
Người điều khiển và ngồi sau xe máy:
Do đặc điểm cấu tạo của xe máy nên người điều khiển và
người ngồi trên xe máy rất dễ bị chấn thương khi tai nạn xảy ra.
Trên thực tế trong cùng một vụ tai nạn, thương tích có thể rất
nhẹ hoặc không cần phải điều trị đối với người ngồi trên xe ôtô
nhưng với người ngồi trên xe máy thường phải chịu tổn thương
rất nặng, có khi gây tử vong. Trên thế giới nguy cơ tử vong cho
người tham gia giao thông bằng xe máy cao gấp 35 lần so với
người trên xe ôtô. Tại Việt Nam số nạn nhân chết do tai nạn giai
thông liên quan đến xe máy đứng hàng đầu với tỷ lệ từ 60 –
70%.
Hoàn cảnh xảy ra tai nạn: rất đa dạng và phức tạp,
trong một nghiên cứu của chúng tôi trên những nạn
nhân tử vong do tai nạn xe máy cho thấy số vụ tai
nạn xe máy liên quan ôtô chiếm tỷ lệ 61,2%, khoảng
20% số vụ tai nạn xe máy đâm nhau ngược chiều
hoặc tại đường giao nhau, 10% số vụ tai nạn xe
máy tự đâm vào giải phân cách, cột điện, gốc cây...
(thống kê tại Bệnh viện Việt Đức và Tổ chức Giám
định Y pháp trung ương trong thời gian 1999 –
2000).
Cơ chế hình thành thương tích rất đa dạng, phức
tạp, nhiều trường hợp không thể lý giải nhưng hay
gặp nhất là tổn thương do nạn nhân bị ngã văng ra
khỏi xe (với lái xe và người ngồi sau) có thể gặp tổn
thương nguyên phát, thứ phát và tổn thương do
tăng giảm tốc độ đột ngột trên thân thể nạn nhân.
Ngoài việc gây chấn thương với những người
ngồi trên xe máy, người đi bộ dưới lòng đường
hoặc khi sang đường cũng có thể là nạn nhân trong
các vụ tai nạn xe máy mà hay gặp nhất là ở những
người cao tuổi, trẻ em.
Đặc điểm tổn thương
Chấn thương sọ não:
Có thể rõ ràng do đặc điểm tổn thương và liên quan đến dấu vế thương
tích bên ngoài. Theo J. Goosen, có 3 khả năng xảy ra với những trường
hợp tử vong do chấn thương là:
Tử vong trong giây lát: nạn nhân chết ngay sau khi tai nạn với tổn
thương chủ yếu là chấn thương sọ não nặng, chấn thương cột sống cổ,
vỡ tim, mạch máu lớn....
Tử vong trong giờ đầu: tổn thương hay gặp là máu tụ nội sọ, chảy máu
do vỡ tạng trong ổ bụng ngực gây mất máu cấp.... Nếu được cấp cứu
kịp thời ngay tại hiện trường có thể cứu sống nạn nhân, hiện là vấn đề
được nhiều người quan tâm.
Tử vong sau nhiều ngày đến hàng tuần: do nhiễm trùng, suy đa tạng
hậu quả của chấn thương. Một số trường hợp liên quan chỉ định điều
trị, cơ địa của nạn nhân và điều kiện chăm sóc y tế.
Trong giám định pháp y những trường hợp nạn nhân tử vong thuộc nhóm thứ
nhất và thứ hai thường có tổn thương rõ ràng, kết luận giám định không gặp
phải những khó khăn nhưng điều quan trọng là phải tìm hiểu mối liên quan giữa
dấu vết bên ngoài và tổn thương bên trong để đánh giá cơ chế hình thành
thương tích và là căn cứ để nhận định vị trí tư thế nạn nhân khi xảy ra tai nạn.
Trong thực tế, đã có nhiều vụ tai nạn xe máy, nạn nhân bị lao người về phía
trước theo lực quán tính làm ngực va đập mạnh với bảng đồng hồ điều khiển ở
đầu xe gây vỡ tim, nạn nhân chết ngay tại chỗ nhưng dấu vết va chạm trên da
thì hầu như không có vì nạn nhân mặc nhiều áo, vì vật nếu chỉ khám nghiệm
bên ngoài thì không có đủ cơ sở để kết luận nguyên nhân chết cũng như cơ chế
hình thành dấu vết thương tích.
Trường hợp nạn nhân tử vong sau một khoảng thời gian dài nằm điều
trị thì giám định y pháp có ý nghĩa xác định tổn thương chính gây tử
vong cho nạn nhân chủ yếu là tổn thương bên trong vì các dấu vết
thương tích bên ngoài có thể đã hết hoặc chỉ còn lại các vết sẹo. Điều
quan trọng là phải chứng minh cho được tổn thương đó có phải là do
hậu quả của chấn thương hay không? Khoảng thời gian hình thành
thương tích và bệnh lý hoặc biến chứng do chấn thương gây ra.
Rất nhiều trường hợp việc tìm nguyên nhân tử vong của nạn nhân
không đơn giản vì phần cơ thể bị chấn thương đã được can thiệp của y
học ví dụ như quai ruột bị vỡ, tổn thương ở gan, thận, lách... đã được
xử lý hoặc cắt bỏ, khám nghiệm tử thi chỉ có thể xác định nạn nhân chết
vì biến chứng của thương tích như hội chứng nhiễm trùng, nhiễm độc,
hoại tử tắc mạch, suy hô hấp, suy thận, suy đa tạng.vv....
Nhiều trường hợp nguyên nhân tử vong chính của
nạn nhân lại là bệnh lý nặng lên sau chấn thương
như vỡ khối ung thư, tai biến mạch máu não tái
phát,... một số trường hợp phức tạp có thể có liên
quan đến quá trình điều trị của thầy thuốc.
Cũng đã có những trường hợp tử vong do ngạt
nước, sặc bùn do bị ngã xuống nước sau khi xảy ra
tai nạn, do bệnh lý tim mạch hoặc do án mạng trong
những trường hợp ẩu đả sau khi tai nạn xảy ra.
Thực tế đã ghi nhận rất nhiều vụ việc liên quan đến
tai nạn xe máy có tình tiết phức tạp cần phải giám
định y pháp để làm rõ nguyên nhân tử vong, cơ chế
hình thành thương tích, thời gian và đặc điểm của
thương tích hoặc bệnh lý phối hợp....
Xét nghiệm tìm rượu và chất kích thích trong máu
và dịch sinh học của người điều khiển và người ngồi
trên xe cũng như những người điều khiển phương
tiện liên quan là việc cần làm trong khi giám định y
pháp các vụ tai nạn giao thông.
TỰ LƯỢNG GIÁ
Ths.
Ths. Nguyễn
Nguyễn Văn
Văn Luân
Luân
MỤC TIÊU
JOULE’S LAW:
Ba yếu tố cần thiết để thực hiện hành vi hiếp dâm một người là:
đã biết khoái cảm tình dục, bạo lực và không có sự ưng thuần
của người đó.
Hiểu biết về khoái cảm tình dục không chỉ đơn thuần là hành vi
giao cấu với cơ quan sinh dục mà có thể có nhiều hoạt động
khác có ý nghĩa thủ dâm, kích dâm... còn tổn thương rách màng
trinh hoặc vấn đề xuất tinh không phải là những tiêu chuẩn chẩn
đoán. Bạo lực có thể có thể là dùng vũ lực, đe dọa hoặc cưỡng
bức. Trên thực tế số lượng những trường hợp bị hiếp dâm
không thể biết chính xác vì rầt nhiều trường hợp không được tố
cáo.
Nạn nhân là người sống
Nạn nhân chưa có hiểu biết về hành vi tình dục nên rất khó khai
thác sự việc.
Nạn nhân dễ bị tác động sai bảo của người lớn nên lời khai có
thể bị thay đổi, mâu thuẫn. Thực tế đã gặp nạn nhân nhỏ nhất là
3 tuổi, hoàn toàn không có khả năng giao tiếp để khai thác được
sự việc.
Dấu vết, thương tích của hành vi giao cấu và phản ứng chống
cự không rõ ràng do khả năng tự vệ rất yếu và cơ quan sinh dục
chưa phát triển đầy đủ để giao cấu. Hành vi của hung thủ
thường là những đụng chạm của các động tác tạo khoái cảm ít
để lại dấu tích. Ngoại trừ, điều đặc biệt có thể phát hiện được
dấu vết tinh dịch trên người, trên quần áo và hiện trường.
Tổn thương trầm trọng của cơ quan sinh dục ngoài -
tầng sinh môn - hậu môn:
Một số trường hợp hành vi hiếp dâm quá tàn bạo sẽ
có những tổn thương trầm trọng:
Rách toang, chảy máu trầm trọng ở âm hộ, âm đạo.
Rách rộng lan xuống tầng sinh môn.
Rách cơ vòng của âm môn, cơ vòng hậu môn.
Chấn thương tâm lý, tâm thần.
Nạn nhân đã ở tuổi dậy thì
Thầy thuốc cần khéo léo, tế nhị nhưng kiên trì tạo mối quan hệ
tin cậy để đương sự kể lại đầy đủ, chi tiết về:
Tiền sử phát dục (quá trình dậy thì, trưởng thành về tình dục giới
tính).
Tiền sử sản phụ khoa của đương sự nữ.
Tiền sử quan hệ giữa hai bên.
Các yếu tố xã hội, giáo dưỡng, nghề nghiệp, văn hóa (những
yếu tố hình thành nên nhân cách, lối sống của họ).
Tiền sử tâm thần, tâm lý có gì bất thường không.
Khám quần áo, hiện trường
Trạng thái tâm thần, tinh thần: ghi nhận những biểu
hiện đau đớn, hốt hoảng, lo sợ... của nạn nhân;
phát hiện những biểu hiện tâm thần tình dục bất
thường của hung thủ.
Thể trạng chung: chiều cao, tầm vóc, cân nặng... để
có thể đánh giá được sự phù hợp hay không với
tình huống và dấu vết.
Khám cơ quan sinh dục.
Ghi nhận đầy đủ độ phát triển của các cơ quan sinh
dục chính và phụ.
Nhận định chính xác tổn thương ở màng trinh:
- Xác định rõ loại hình màng trinh.
- Đặc điểm của vết rách: chảy máu, tụ máu, sưng,
viêm.
- Vị trí của vết rách (ghi theo mặt số đồng hồ).
- Phân biệt rách mới, rách cũ.
Nhận định các tổn thương ở các bộ phận khác của cơ
quan sinh dục như vú, môi lớn, môi bé, âm đạo,
tầng sinh môn, vùng bẹn đùi.
Khám các bộ phận liên quan:
Những vết cấu xé, cắn, những vết bầm tụ máu sây
sát ở khắp nơi trên cơ thể, đặc biệt vùng đầu cổ,
ngực, mặt trong hai đùi.
Khám dấu vết của sự chống đỡ:
Không được bỏ quên việc khám kỹ người hung thủ
để phát hiện dấu vết do nạn nhân chống cự để lại
như vết cào cấu, đấm, đẩy, đạp, cắn. Có khi là
những vết thương lớn do các loại vật tày sắc gây ra
khi nạn nhân chống cự quyết liệt.
Lấy mẫu bệnh phẩm
Tuyệt đối cần thiết vì đây là dấu vết mới, có giá trị
chẩn đoán giám định cao, sẽ bị mất đi ở những lần
khám sau.
Về mặt tư pháp: những dấu vết, thương tích này có
giá trị chứng cứ pháp lý không gì thay thế được.
Cần lưu ý đảm bảo tôn trọng quyền nhân thân của
đương sự về việc sử dụng hình ảnh theo Điều 31
Bộ luật Dân sự (sửa đổi).
Khám muộn
Sẽ khó khăn rất nhiều trong trường hợp nạn
nhân đến khám muộn vì các dấu vết thương tích bị
thay đổi rất nhiều thậm chí không còn.
Trong đó, cần đặc biệt phát hiện và nhận định
kỹ càng, cẩn thận về dấu hiệu tổn thương màng
trinh - bộ phận sinh dục, dấu hiệu về tổn thương do
hành vi bạo lực và không quên việc khám hung thủ/
nghi can để xác định dấu vết sự chống đỡ của nạn
nhân.
Lấy mẫu bệnh phẩm:
Tìm mẫu tinh dịch, các xét nghiệm máu (nhóm máu, HIV) và
mẫu xét nghiệm vi sinh vật cần thiết phải thực hiện đầy đủ.
Mẫu AND cần được thực hiện khi có dấu hiệu có thai để
truy tìm cha.
Ở nước ngoài, điều kiện trang bị và kinh phí cho phép
thường quy thực hiện kỹ thuật AND cho cả việc xác định hung
thủ/ nghi can dựa trên những vi mẫu nghi ngờ thu được trên
thân thể và hiện trường.
Giám định pháp y
Cho đến cuối những năm 1980, trong những vụ án cưỡng, hiếp
dâm, những phương pháp xét nghiệm huyết thanh vẫn được áp
dụng kết hợp với những phương pháp xét nghiệm sinh hóa
truyền thống.
Xét nghiệm AND – hay còn gọi là phương pháp xét nghiệm dấu
vết nhiễm sắc thể được tiến sĩ Alec Jeffreys 1985 nghiên cứu áp
dụng trong hoạt động giám định pháp y. Theo ông, trong mỗi sợi
nhiễm sắc thể có trình tự giống nhau. Độ dài, cấu trúc và số
lượng của những đoạn lặp lại khác nhau ở mỗi người, việc nhận
dạng và chứng minh tính lặp lại của những đoạn nucleotid là đặc
trưng cho một cá thể là nền tảng của xét nghiệm AND.