Professional Documents
Culture Documents
2021
1
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
I. GIỚI THIỆU
Gây mê hồi sức (GMHS) là một trong các chuyên ngành non trẻ của y học. Do lịch sử
chuyên ngành bắt đầu từ thế kỷ XIX, đây cũng là một trong các chuyên ngành có sự ghi nhận
rõ ràng và chi tiết nhất về sự phát triển cũng như các đặc điểm của mình. Sau ngày ra đời của
GMHS hiện đại, chuyên ngành có một quá trình phát triển mạnh mẽ và rất rộng trong rất nhiều
các lĩnh vực sinh lý, thực hành và đào tạo.
Các phương pháp vô cảm có thể đã tồn tại từ thời cổ đại (các nền văn minh Babylon, Hy
Lạp, Trung Quốc và Inca). Tuy nhiên, sự ghi nhận chi tiết nhất xuất hiện vào khoảng đầu thế
kỷ XIII tại châu Âu. Đó là công trình sử dụng bọt biểm thấm á phiện (opium) và chất lỏng lấy
từ cây khoai ma (mandragora) để giảm đau trong phẫu thuật, được ghi trong sách của
Theodoric de Cervica. Việc sử dụng á phiện, rượu, lá coca và các biện pháp cơ học để giữ
người bệnh nằm im khi phẫu thuật khiến việc này trở nên giống một cuộc tra tấn do không thể
loại trừ hoàn toàn cảm giác đau.
II. SỰ RA ĐỜI CỦA GÂY MÊ HỒI SỨC HIỆN ĐẠI
Trong các thành tựu của y học hiện đại, chế ngự cơn đau trong phẫu thuật là một trong
những mốc son ảnh hưởng rất lớn lên nhân loại. Trước đây, rất nhiều loại phẫu thuật khác
nhau đã được thực hiện trong thời gian nhiều thế kỷ, nhưng ngày 16/10/1846 là ngày mang
tính cách mạng. Đó là ngày BS William T.G. Morton (1819 – 1868) đã thực hiện thành công
ca gây mê toàn diện đầu tiên bằng ether cho người bệnh tên là Abbott, để phẫu thuật viên John
Warren lấy một khối u mạch máu vùng cổ. Ca mổ này được thực hiện tại Bệnh viện đa khoa
Massachusetts tại Boston, Hoa Kỳ.
Gây mê toàn diện hiện đại gắn liền với các loại thuốc mê bốc hơi như ether và chloroform.
BS Morton là một nha sĩ và ông là người ứng dụng ether trong nhổ răng để giảm đau với mục
đích làm tăng thu nhập từ sự hài lòng của người bệnh. Mặc dù BS Horace Wells đã sử dụng
N2O trước đó trong nhổ răng khôn, thử nghiệm được xem là không thành công do người bệnh
(một sinh viên tình nguyện) đã kêu la và cử động trong khi mổ, dù tác dụng giảm đau tốt. Việc
sử dụng ether của BS Morton vào ngày lịch sử trên được ghi nhận là một phương pháp vô cảm
làm người bệnh mất tri giác và không cảm nhận được cuộc mổ, do đó được xem là cột mốc
của sự ra đời chuyên ngành mới. Thuật ngữ “anesthesia” (vô cảm, gây mê) được Oliver
Wendell Holmes đề cập đến trong lá thư riêng trao đổi với Bs Morton. Holmes đã định dùng
các thuật ngữ khác như antineurotic (kháng thần kinh), aneuric (hủy thần kinh), neuroleptic
(liệt thần kinh), neurolepsia (tương tự neuroleptic) và neurostasis (đông thần kinh) nhưng ông
cho rằng các từ này “quá giải phẫu” trong khi thay đổi do ether mang lại có tính chất sinh lý.
2
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
3
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
BS William Macewen (1848 – 1924) được xem là người đầu tiên sử dụng ống nội khí quản
qua đường miệng để gây mê với chloroform trong phẫu thuật vùng miệng. Mục đích sử dụng
của ông là tránh máu chảy vào đường thở, được xem là người đầu tiên đưa ra khái niệm “bảo
vệ đường thở”. Ống nội khí quản sau đó được BS Ivan W. Magill (1888 – 1986) và Edgar S.
Rowbotham (1890 – 1979) cải tiến bằng cách thay đổi chất liệu bằng cao su, khít với đường
thở theo yêu cầu của phẫu thuật hàm mặt. Bóng chèn ống nội khí quản được Arthur Guedel
(1883 – 1956) và Ralph M. Waters (1883 – 1979) thêm vào trên ống vào năm 1932.
Do nhu cầu cải thiện hiệu quả đặt ống nội khí quản, nhất là sau khi thuốc giãn cơ bắt đầu
sử dụng rộng rãi, BS GMHS Chevalier Jackson (1865 – 1958) đã sáng tạo ra dụng cụ soi
thanh quản cầm tay dùng trong đặt ống nội khí quản. Chính ông cũng là người đã thêm bóng
đèn vào dụng cụ này về sau để cải thiện việc nhìn rõ thanh quản khi đặt. Sau đó, các loại lưỡi
đèn khác nhau được BS Robert A. Miller và GS Robert Macintosh (1897 – 1989) sáng tạo ra.
GS Macintosh chính là người đã cải tiến việc nâng sụn nắp lên bằng lưỡi đèn cong mang chính
tên của ông.
IV. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG GÂY MÊ
Từ đầu thế kỷ XX, nhiều hệ thống gây mê (anesthesia delivery systems) được phát triển để
thực hiện gây mê thông qua phương pháp bơm khí. Hệ thống này ban đầu là 1 catheter đặt gần
carina (chỗ chia đôi phế quản) để bơm khí mê (ether và chloroform) và oxy liên tục. Hệ thống
này không can thiệp lên hô hấp của người bệnh. Phát kiến quan trọng đầu tiên là Boyle
Machine do Edmund G. Boyle (1875 – 1941) và James T. Gwathmey thiết kế. Máy có 1 lưu
lượng kế kiểu cột nước để ước lượng lưu lượng khí mê thông qua đếm bao nhiêu bọt khí lọt
qua các lỗ của thang đo bên trong cột nước này.
4
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
việc người bệnh phải nhận nồng độ quá cao gây chết người. Nguyên lý của Morris vẫn còn
được ứng dụng cho các loại bình bốc hơi dành cho máy gây mê hiện đại ngày nay.
V. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC LOẠI THUỐC MÊ TĨNH MẠCH
Trong những năm đầu tiên sau khi ra đời, gây mê bằng khí mê được xem là một điều kỳ
diệu của y học. Tuy nhiên, việc hít khí mê khiến nhiều người không cảm thấy thoải mái. Gây
mê tĩnh mạch với chloral hydrate được thực hiện lần đầu tiên vào năm 1872 bởi BS Pierre-
Cyprien Oré (1828 – 1891). Phương pháp này về sau không được phổ biến như mong ước của
tác giả. Rất nhiều loại thuốc đã được thử nghiệm nhưng đa số bị loại bỏ do nhiều tác dụng phụ.
Trong khoảng thời gian của Đại chiến Thế giới lần 1, phối hợp morphine và scopolamine tĩnh
mạch dần được phổ biến và được xem là loại thuốc mê mang lại “giấc ngủ chạng vạng”
(Twilight Sleep). Phác đồ này được dùng nhiều trong gây mê sản khoa, nhưng sau đó cũng bị
loại bỏ do tác dụng phụ.
Đến năm 1932, barbiturates bắt đầu được dùng như thuốc mê tĩnh mạch. BS John Lundy
của Mayo Clinic (cũng là người đầu tiên nói về “gây mê cân bằng”) là người đã miêu tả việc
sử dụng natri thiopental trong gây mê và thuốc trở nên phổ biến. Việc sử dụng thuốc này gặp
trở ngại với biến cố Trân Châu Cảng vào cuối năm 1941 do nhiều trường hợp thương binh tử
vong khi sử dụng thuốc để khởi mê. Với nhu cầu tìm ra các loại thuốc mê tĩnh mạch mới, các
thuốc như ketamine (1962), etomidate (1973) và propofol (1977). Trong các thuốc này,
etomidate nổi trội như là một thuốc ít ảnh hưởng lên tim mạch nhất, còn propofol là thuốc gắn
liền với khái niệm “gây mê tĩnh mạch hoàn toàn” (total intravenous anesthesia, TIVA).
VI. THUỐC GIÃN CƠ
Gây mê đã được thực hiện trong vòng khoảng 100 năm trước khi thuốc giãn cơ được sử
dụng. Điều này gây ra không ít thách thức cho phẫu thuật viên vì đáp ứng với thuốc mê của
người bệnh không giống nhau. Nhiều quan sát cho thấy tăng thêm thuốc mê có thể đạt được
một mức độ giãn cơ thích hợp, nếu người bệnh có thể dung nạp được. Trong y văn có nhắc
đến “Định luật Jones” cho rằng thần kinh cảm giác nhạy cảm hơn thần kinh vận động nên sẽ bị
ức chế với lượng thuốc ít hơn. Nhiều BS GMHS đã mơ ước đến một loại thuốc giãn cơ đơn
thuần. Phải đến năm 1942 thì thuốc giãn cơ mới bắt đầu được sử dụng trên lâm sàng, và trở
thành một phần không thể tách rời của gây mê hiện đại.
Harold R. Griffith (1894 – 1985) và học trò là G. Enid Johnson là những BS đầu tiên sử
dụng và ghi nhận tác dụng của thuốc giãn cơ tại Montreal, Canada. Họ đặt tên thuốc là
Intocostrin (chiết xuất từ curare không xác thực). Quá trình tìm ra thuốc giãn cơ phải ghi tên
của Benjamin Brodie (1783 – 1862) và Charles Waterton (1783 – 1865) là những người đã thử
nghiệm loại thuốc độc sử dụng trong săn bắn của người bản địa Guiana thuộc Anh trên 1 con
lừa. Con lừa đã hấp hối vì tác dụng giãn cơ của thuốc độc này nhưng được giúp thở bằng một
ống thổi nên đã tỉnh lại sau đó và tiếp tục sống thêm 24 năm. Claude Bernard (1813 – 1878) là
người đã tìm ra cơ chế của loại thuốc này là tác dụng lên tiếp hợp thần kinh cơ. Từ đó đến nay,
nhiều loại thuốc giãn cơ khác nhau đã được tổng hợp và sử dụng trên lâm sàng, nhưng sau đó
bị loại bỏ do nhiều tác dụng phụ lên hệ thần kinh tự chủ.
VII. PHÁT MINH RA GÂY TÊ VÙNG
Quá trình phát minh ra gây tê vùng gắn liền với tên tuổi nhà phân tâm học nổi tiếng là
Sigmund Freud (1856 – 1939). Ông là người đã đánh giá việc sử dụng cocaine trong một số
5
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
trường hợp điều trị cho người bệnh của mình và ghi nhận tác dụng gây tê lưỡi của thuốc. Sau
đó, Carl Koller (1858 – 1944), là một bác sĩ nhãn khoa, với mong muốn tìm một loại thuốc để
sử dụng trong mổ mắt, đã thử nghiệm cocaine trên chó và chính bản thân. Ông phát hiện thuốc
làm cho giác mạc không còn cảm nhận với kích thích. Bài công bố các thử nghiệm của Koller
do Josef Brettauer (1835 – 1905) trình bày vào ngày 15/09/1884 gây ấn tượng mạnh mẽ tại hội
nghị Nhãn khoa tổ chức tại Heideberg, Đức.
Việc chuyển các thử nghiệm của Koller thành ứng dụng lâm sàng chỉ mất có 8 tuần. Alfred
Hall và William Halsted (1852 – 1922) là những phẫu thuật viên đã sử dụng cocaine trong
phẫu thuật và báo cáo các thành công trên tạp chí New York Medical Journal vào ngày
06/12/1884. Cocaine về sau không còn được sử dụng làm thuốc tê vì nhiều tác dụng phụ nguy
hiểm, trong đó có gây nghiện (Hall và Halsted cũng là những người bị lệ thuộc cocaine). Các
loại thuốc tê nhanh chóng được tổng hợp và đưa vào sử dụng rộng rãi trên lâm sàng với nhiều
phương thức gây tê đa dạng.
VIII. CÁC LOẠI KHÍ MÊ MỚI
Trong những thập niên đầu thế kỷ XX, hàng trăm loại khí mê đã được thử nghiệm.
Cyclopropane là một thuốc có thể dùng gây mê nhưng lại có khả năng gây cháy quá cao.
Chloroform và N2O không gây cháy nhưng chloroform có quá nhiều tác dụng phụ còn N2O có
thể gây hỗn hợp gây giảm oxy máu. John C Krants Jr của trường đại học Maryland là người đã
đưa ra khái niệm halogen hóa hợp chất hydrocarbon để giảm tính gây cháy. Với suy nghĩ này,
ông đã tạo ra trifluoroethyl vinyl ether (Fluroxene) từ ethyl vinyl ether (Vinamar). Fluroxene
được nhiều BS sử dụng nhưng sau đó sớm bị loại bỏ do gây buồn nôn và nôn ói sau mổ quá
nhiều.
Charles Suckling, một nhà hóc học, đã tổng hợp ra halothan vào năm 1954. Thuốc được
đưa vào sử dụng trên lâm sàng vào năm 1956 và đạt được sự ủng hộ cao trong vài năm đầu
tiên. Sau đó, nhiều trường hợp hoại tử gan được cho là liên quan đến sử dụng halothane. Mặc
dù đều tra năm 1964 cho thấy tỷ lệ suy gan không khác nhau giữa halothane và các loại thuốc
mê khác cùng thời, tâm lý sợ halothane vẫn bị duy trì.
Thập niên 1960 đánh dấu sự ra đời của một khái niệm rất có giá trị là áp lực riêng phần
cuối kỳ thở ra của thuốc mê bốc hơi. Seymore S. Kety (1915 – 2000) cho rằng tại thời điểm
cân bằng, áp lực riêng phần của khí mê cuối lỳ thở ra sẽ bằng với áp lực riêng phần của khí mê
tại não. Từ đó, khái niệm nồng độ phế nang tối thiểu (minimum alveolar concentration) được
thiết lập, giúp BS GMHS hiểu rõ hơn mức độ vô cảm với lượng khí mê đưa vào người bệnh.
Các năm sau đó đánh dấu sự ra đời của isoflurane, enflurane, desflurane và sevoflurane.
Sevoflurane hiện đang là thuốc mê bốc hơi được sử dụng rất nhiều do đặc tính tỉnh mê nhanh
của thuốc (Xem thêm bài Thuốc mê bốc hơi).
IX. LỊCH SỬ GMHS TẠI VIỆT NAM
Các ghi chép về lịch sử chuyên ngành GMHS trước năm 1975 bị thất lạc nhiều do nguyên
nhân chiến tranh. Trong giai đoạn chiến tranh, gây mê thường do phẫu thuật viên thực hiện.
Các trường hợp còn lại có thể do các BS GMHS được các BS chuyên khoa người Pháp và Mỹ
đào tạo. Cũng trong giai đoạn chiến tranh, các BS GMHS trong quân đội Mỹ đã rút ra nhiều
kinh nghiệm và thay đổi trong thực hành lâm sàng, đặc biệt là về truyền máu trong sốc chấn
thương.
6
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Sau chiến tranh, các BS Việt Nam bắt đầu quá trình chuyên khoa hóa về GMHS theo thời
gian. Đến năm 1979, Hội GMHS Việt Nam được thành lập tại Hà Nội với 100 thành viên và
PGS Tôn Đức Lang là chủ tịch đầu tiên. Số lượng các thành viên tiếp tục tăng theo thời gian
và hiện nay Hội có khoảng 1000 BS GMHS trên toàn Việt Nam. Vào năm 1980, với sự giúp
đỡ của BS J.Beiboer từ Hà Lan, Hội GMHS Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội GMHS Thế giới
(World Federation of Societies of Anaesthesiologists) và nhiều Hiệp hội chuyên khoa khác.
Phương pháp vô cảm chủ yếu trong giai đoạn trước thập niên 1990 tại Việt Nam là gây mê
với khí mê ether, sau đó là halothane. Một số thuốc mê tĩnh mạch cũng được sử dụng để khởi
mê như thiopental và ketamine. Các phương pháp gây tê trục thần kinh trung ương cũng phổ
biến. Từ năm 1990 đến nay, trách nhiệm của BS GMHS tại Việt Nam đã được mở rộng đáng
kể trong các lĩnh vực chuyên khoa như tuần hoàn ngoài cơ thể trong mổ tim hở, ghép tạng, gây
tê vùng dưới hướng dẫn siêu âm, điều trị đau mạn tính, đánh giá trước mổ và cả các hoạt động
ngoài phòng mổ như giảm đau ngoài màng cứng trong chuyển dạ, gây mê trong thủ thuật nội
soi và chẩn đoán hình ảnh. Các loại phương tiện, thiết bị và thuốc hiện đại cũng được sử dụng
tương đối rộng rãi tại Việt Nam.
Quá trình đào tạo chuyên khoa GMHS dành cho BS tại Việt Nam cũng ngày càng được
chuẩn hóa với mục tiêu tiếp cận tiêu chuẩn của khu vực và thế giới. Hiện nay, BS đa khoa sau
khi tốt nghiệp có thể học tiếp chuyên khoa GMHS thông qua các chương trình đào tạo Sau đại
học (nội trú, chuyên khoa cấp 1 và cấp 2) để có chứng chỉ hành nghề chuyên khoa. Các BS
GMHS có thể tham gia nhiều chương trình đào tạo chuyên khoa GMHS tổ chức tại Pháp và
các nước Đông Nam Á khác.
7
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
I. ĐẠI CƯƠNG
Sự thức tỉnh được duy trì bởi sự toàn vẹn của 3 thành phần: vỏ não, hệ thống lưới hoạt hóa
và thân não. Chỉ cần 1 trong 3 yếu tố bị ức chế thì cơ thể sẽ không còn ở trạng thái tỉnh táo.
Các thuốc mê khi vào cơ thể sẽ ức chế theo thứ tự vỏ não – hế thống dưới vỏ (hệ thống lưới và
thân não) - tủy sống. Trong quá trình gây mê, mục tiêu của người gây mê là duy trì ức chế ở
vỏ não và hệ thống lưới hoạt hóa. Khi ức chế đến mức tủy sống là gây mê rất sâu sẽ dẫn đến
mạch chậm và tụt huyết áp.
Thuốc mê tĩnh mạch được định nghĩa là thuốc gây ra sự mất tri giác khi tiêm một lượng
thuốc vừa đủ vào vòng tuần hoàn. Một thuốc mê tĩnh mạch được xem là lí tưởng khi đáp ứng
đầy đủ các tiêu chuẩn sau:
Khởi mê nhanh và nhẹ nhàng mà không kèm theo các cử động bất thường, tăng
trương lực cơ hoặc gây kích thích vật vã.
Chỉ ảnh hưởng tối thiểu lên chức năng tuần hoàn và hô hấp
Có đặc tính giảm đau
Có tác dụng hồi tỉnh nhanh khi kết thúc mê không kèm theo các tác dụng phụ như khó
chịu, vật vã, ảo giác, nôn và buồn nôn.
Không giải phóng histamin
Không kích thích tĩnh mạch và các tổ chức xung quanh mạch máu
Hòa tan trong nước và giữ tính ổn định trong môi trường hòa tan
8
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Hình 1. Cấu trúc hóa học của một số thuốc mê tĩnh mạch
Thuốc điều chế ở dạng bột màu vàng, khi pha với nước cất hoặc nước muối 0.9% tạo
thành dung dịch kiềm pH 10.8, có khả năng giữ được 24g, do đó thuốc có khả năng gây hoại
tử mô và phản ứng với các dung dịch có tính acide khác. Thuốc có pKa = 7.6 nên phần lớn ở
dạng không ion hóa trong môi trường sinh lý. Nồng độ thuốc khuyến cáo là 2.5% ở người lớn
và 1% ở trẻ em.
Thuốc tác động trên receptor của GABA (gamma-aminobutyric acid), là một protein
xuyên màng với năm đơn vị dưới nhóm bao quanh một kênh ion chỉ cho Cl- đi qua. Trên
receptor này có sự hiện diện của phức hợp phân tử nhỏ là chỗ bám của benzodiazepin,
barbiturat, steroid và một số thuốc chống co giật. GABA là vị trí ức chế dẫn truyền thần kinh
chủ yếu ở não và cả những vị trí trung gian trước hoặc sau synap của hơn 50% số synap trong
cơ thể. GABA tác động trên receptor làm tăng lượng Cl- đi vào trong tế bào gây tăng phân cực,
giảm tính kích thích thần kinh cơ và ức chế sau synap. Thiopental và một số barbiturat khác
làm tăng thời gian tác dụng của GABA trên kênh Cl-.
2. Tác dụng trên hệ thần kinh trung ương
Ảnh hưởng của thiopental trên hệ thần kinh trung ương liên quan chặt chẽ với liều lượng
và tốc độ tiêm thuốc. Sau liều khởi mê thông thường, bệnh nhân mất tri giác rất nhanh và ít bị
kích thích bởi 2 lý do: não được nhận một lượng máu rất lớn và do thiopental rất tan trong mỡ
ở pH sinh lý nên thuốc được hấp thu nhanh qua hàng rào máu não.
Thiopental làm giảm chuyển hóa ở não và giảm tiêu thụ oxy não nên làm giảm áp lực nội
sọ. Thay đổi lưu lượng máu não, thể tích máu não và áp lực tưới máu não liên quan đến giảm
sản xuất CO2.
9
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Thiopental được sử dụng rộng rãi trong khởi mê và duy trì mê nhờ tính ưu việt trên thần
kinh trung ương. Ngoài ra, thuốc còn được lựa chọn để điều trị cơn động kinh khi những thuốc
chống co giật khác không còn tác dụng.
3. Tác dụng trên hệ tim mạch
Thiopental ức chế co bóp cơ tim tương ứng với liều thuốc sử dụng , thuốc còn làm giãn hệ
tĩnh mạch , làm giảm hồi lưu tĩnh mạch về tim nên làm tụt huyết áp, giảm cung lượng tim. Sức
cản mạch máu ngoại vi ít bị thay đổi.
Thuốc làm tăng nhịp tim, gây tăng đáng kể tiêu thụ oxy cơ tim, làm tăng nguy cơ thiếu
máu cơ tim ở những bệnh nhân có suy vành. Thuốc ảnh hưởng lên huyết động ở những bệnh
nhân có giảm thể tích tuần hoàn và suy tim mất bù
4. Tác dụng trên hệ hô hấp
Thuốc gây ngưng thở thoáng qua sau liều bolus khởi mê (80% bệnh nhân), làm giảm tần
số thở và thể tích thường lưu, giảm độ nhạy với CO2 và O2 , ức chế nhẹ phản xạ thanh quản.
5. Sử dụng trên lâm sàng
Dùng để khởi mê ở liều 5 – 7 mg/kg
Do thuốc có nguy cơ tích tụ và thải trừ chậm nên thiopental không được coi là thuốc
tốt nhất để duy trì mê
Thuốc được dùng để gây mê trong phẫu thuật thần kinh nhưng do thuốc tích lũy nên
khó làm hồi tỉnh nhanh để đánh giá thần kinh khi cần. Thuốc có tác dụng bảo vệ não,
tránh các tổn thương não do thiếu oxy , dùng để phòng ngừa các biến chứng thần kinh.
Tác dụng phụ
o Tụt huyết áp
o Ức chế hô hấp
o Hoại tử mô nếu chích thuốc ra ngoài mạch máu
o Chích vào ĐM gây co thắt, thiếu máu, đau
o Viêm tắc tĩnh mạch
o Gây co thắt thanh quản, phế quản
o Dị ứng
Chống chỉ định
o Tắc nghẽn đường thở
o Bệnh porphyrie
o Dị ứng
III. PROPOFOL
1. Đặc điểm
Công thức hóa học của thuốc là 2.6 di-isopropylphenol, không hòa tan trong nước ở pH 7,
rất tan trong nước. Hiện nay, propofol được sản xuất dưới dạng dung dịch 1% chứa 10% dầu
đậu nành, lecithin lòng đỏ trứng gà và glycerol. Dung dịch 2% được sử dụng cho dạng truyền
liên tục. Cả 2 dạng nồng độ trên đều có nguy cơ nhiễm khuẩn nên ống thuốc propofol cần phải
được sử dụng ngay sau khi mở. Dung dịch đệm EDTA hoặc sodium metabisulphite có vai trò
làm giảm nguy cơ nhiễm trùng. Dung dịch propofol – lipuro có chứa triglycerid chuỗi dài và
trung bình làm hạn chế sự tăng triglycerid trong máu và giảm tỉ lệ đau khi tiêm.
10
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
máu não và giảm tiêu thụ oxy não nên làm giảm áp lực nội sọ. Áp lực tưới máu não còn tùy
thuộc vào huyết áp trung bình. Thuốc có tác dụng chống động kinh và có thể gây ra các cử
động bất thường.
Sau khi tiêm tĩnh mạch, nồng độ thuốc trong máu giảm nhanh do thuốc khuếch tán vào các
mô ngoại vi. Khi nồng độ thuốc trong máu giảm, thuốc khuếch tán ngược từ hệ thần kinh
trung ương trở lại tuần hoàn chung.
3. Tác dụng trên hệ hô hấp
Propofol gây ức chế hô hấp phụ thuộc liều, làm giảm thể tích thường lưu và tần số thở, gây
ngưng thở thoáng qua ở liều khởi mê bolus, ức chế phản xạ thanh quản, có tác dụng dãn phế
quản. Mặc dù những ảnh hưởng này có thể phục hồi nhưng nó có thể kéo dài khi sử dụng
propofol với liều cao hơn khuyến cáo hoặc khi phối hợp với các thuốc ức chế hô hấp khác.
4. Tác dụng trên hệ tim mạch
Thuốc làm giảm tiền tải, hậu tải và sức co bóp cơ tim dẫn đến tụt huyết áp và giảm cung
lượng tim, đặc biệt ở những bệnh nhân có giảm thể tích tuần hoàn, mức độ hạ huyết áp tùy
thuộc liều và tốc độ tiêm. Do có tác dụng ức chế phản xạ áp lực nên không gây tăng nhịp tim.
5. Tác dụng khác
Đau khi tiêm: thường xuất hiện khi tiem vào những tĩnh mạch nhỏ ở cổ tay hay bàn tay,
tỉ lệ đau giảm khi tiêm thuốc vào các tĩnh mạch lớn
Tác dụng kích thích: các triệu chứng như co cứng cơ, co giật có thể xuất hiện khi dùng
propofol , thường gặp ở giai đoạn hồi tỉnh.
Không ảnh hưởng đến chức năng gan – thận
Không gây sốt cao ác tính
Không tăng cường tác dụng của thuốc dãn cơ
Không gây tăng tiết histamine
11
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
12
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Thời gian khởi phát tác dụng của ketamin lâu hơn các thuốc mê tĩnh mạch khác, thường
khoảng 2 phút, có thể kéo dài đến 8 phút. Thời gian tác dụng của ketamin phụ thuộc vào liều,
ở liều 2 – 3 mg/kg thường gây mất tri giác trong khoảng 10 – 20 phút.
2. Tác dụng trên hệ thần kinh trung ương
Ketamin không gây ngủ nhưng gây ra một tình trạng mê phân ly được đặc trưng bởi an
thần, ức chế vận động , gây quên, giảm đau nông và thờ ơ với ngoại cảnh .
Ketamin làm tăng lưu lượng máu lên não, tăng nhu cầu oxy não và dẫn đến tăng áp lực nội
sọ.
Thuốc gây nói sảng khi tỉnh mê, mất định hướng và bứt rứt, co giật. Ảo giác khi tỉnh mê
có thể kéo dài 24g, có thể hạn chế bằng cách tránh các kích thích, phối hợp với thuốc phiện,
midazolam
3. Tác dụng trên hệ tim mạch
Ketamin gây nhịp nhanh, tăng cung lượng tim và tăng nồng độ noradrenalin trong máu.
Huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương và sức cản mao mạch phổi đều tăng từ 20 – 40%.
4. Tác dụng trên hệ hô hấp
Thuốc làm tăng nhẹ tần số thở, làm giảm phản xạ hô hấp với sự thay đổi PaCO2 và PaO2
nhưng ít hơn benzodiazepin. Phản xạ ho và co thắt phế quản hiếm gặp nên sử dụng an toàn
trên bệnh nhân có hen phế quản.
5. Sử dụng trên lâm sàng
Liều khởi mê: 2 – 3 mg/kg TM hoặc 5 – 10 mg/kg TB, trẻ dưới 3 tháng dùng liều 1 – 2
mg/kg TM và 5 – 10 mg/kg TB
Liều giảm đau ở người lớn: bolus TM chu phẫu 0.1 – 0.3 mg/kg, truyền sau mổ 0.1 –
0.2 ug/kg/phút
Những chỉ định khác: thông tim, thay băng vết bỏng hoặc những can thiệp nhỏ. Vì
thuốc ít ức chế hô hấp nên đuọc lựa chọn đầu tiên cho những trường hợp cấp cứu chưa
kiểm soát được đường thở.
13
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
THUỐC MÊ HÔ HẤP
MỤC TIÊU:
1. Phân biệt được các loại thuốc mê hô hấp thường dùng
2. Phát biểu được các đặc điểm dược lý của thuốc mê hô hấp
3. Phân tích và so sánh các tác dụng lên hệ cơ quan của các thuốc mê bốc hơi nhóm
halogen khác nhau
1. MỞ ĐẦU:
Thuốc mê hô hấp dùng để chỉ các loại thuốc được đưa vào cơ thể dưới dạng khí. Các thuốc
này bao gồm N2O (là khí ở nhiệt độ phòng) và các thuốc mê bốc hơi (tồn tại ở dạng lỏng ở
nhiệt độ phòng). Các thuốc mê bốc hơi hiện đại bao gồm các thuốc nhóm halogen như
halothane, enflurane, isoflurane, sevoflurane và desflurane. Thuốc mê hô hấp là loại thuốc
thường dùng nhất trong duy trì mê vì dễ dàng trong sử dụng và theo dõi cũng như cách tính
toán tác dụng lâm sàng tương ứng với nồng độ cuối kỳ thở ra đáng tin cậy.
Trong thực hành, nồng độ thuốc mê cuối kỳ thở ra thường được sử dụng để đánh giá nồng
độ thuốc mê trong phế nang. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng trong điều kiện không có khoảng
14
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
chết và shunt tại phế nang, vì hai tình trạng này sẽ làm nồng độ thuốc mê tại phế nang và cuối
kỳ thở ra khác nhau.
MAC tỷ lệ nghịch với độ mạnh và tính tan trong lipid của thuốc mê. Trong khi đó, hệ số
hoàn tan máu – khí (blood:gas partition coefficient) cho biết tính tan trong máu (hay trong
nước) của thuốc mê, không liên quan đến MAC và có ảnh hưởng lên tốc độ khởi mê (hay thời
gian tiềm phục) và thức tỉnh. MAC là giá trị trung bình thu thập trong dân số, không cho phép
dự đoán đáp ứng của một cá nhân đối với thuốc.
Trong thực hành lâm sàng, có một số loại MAC khác nhau:
- MAC thức tỉnh: Giá trị MAC mà tại đó, người bệnh xuất hiện trở lại đáp ứng với y
lệnh lời nói, xảy ra trong quá trình tỉnh mê. Với đa số các thuốc mê hô hấp, MAC thức
tỉnh ở vào khoảng 0,33 MAC. Điều đáng lưu ý là việc chuyển từ thức tỉnh sang mất tri
giác đòi hỏi giá trị 0,4 – 0,5 MAC.
- MAC đặt nội khí quản: Giá trị MAC mà tại đó người bệnh không có cử động hoặc ho
khi đặt ống nội khí quản. MAC đặt NKQ có giá trị khoảng 2,0 MAC
- MAC-BAR (block the autonomic response) là giá trị MAC mà tại đó chúng ta phong
bế đáp ứng giao cảm (không tăng huyết áp, nhịp tim hoặc giải phóng catecholamine)
khi rạch da. MAC-BAR có giá trị vào khoảng 1,6 – 1,7 MAC
15
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Hình 1. Sự thay đổi FA/FI của các thuốc mê hô hấp khác nhau (FA: phân suất của thuốc mê
hô hấp trong phế nang; FI: phân suất thuốc mê hô hấp trong khí hít vào)
16
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
tán này trong 1 nhịp thở, thể tích thường lưu hít vào trong nhịp thở kế tiếp sẽ tăng để bù đắp
thể tích đã mất. Hiện tượng này làm tăng thông khí phế nang trong giai đoạn khí khuếch tán
nhanh vào máu (rapid uptake). Hiệu ứng nồng độ cao thường chỉ dùng để mô tả động học của
N2O do đây là khí duy nhất an toàn khi cho qua đường hô hấp ở nồng độ cao.
2.2.6. Hiệu ứng khí thứ 2
Hiệu ứng khí thứ 2 mô tả ảnh hưởng của sự hiện diện một khí có nồng độ cao như N2O lên
đường cong FA/FI của khí thứ 2 có nồng độ thấp hơn (ví dụ isoflurane trong Hình 2)
Hình 2. Hiệu ứng khí thứ 2 cho thấy sự gia tăng của FA/FI của isoflurane khi sử dụng kèm
theo N2O nồng độ cao (70%) so với không có N2O.
Việc hấp thu của N2O có thể tích và nồng độ cao sẽ làm gia tăng nồng độ của isoflurane
trong phế nang. Quá trình hấp thu này cũng làm tăng thông khí phế nang trong phổi do tăng
thể tích thường lưu hít vào như đã mô tả trong hiệu ứng nồng độ. Đối với các thuốc mê ít tan
trong nước hơn như sevoflurane hoặc desflurane, hiệu ứng khí thứ 2 ít có ảnh hưởng hơn trong
thực hành lâm sàng.
2.2.7. Chuyển hóa
Cytochrome P450 của gan (CYP2E1) chuyển hóa liên kết giữa carbon (ký hiệu C) và
halogen trong thuốc mê để phóng thích ion halogen (F-, Cl-, Br-), có thể gây độc gan và thận.
Liên kết C – F là liên kết bền nhất và chỉ bị chuyển hóa ở mức tối thiểu trong khi các liên kết
C – Cl, C- Br và C – I kém bền hơn và dễ bị chuyển hóa hơn.
Bảng 3. Chuyển hóa của các thuốc mê hô hấp
Thuốc mê % bị chuyển hóa Chất chuyển hóa
N 2O < 0,01 (N2)
Halothane 20 Acid trifluoroacetic, Cl-, Br-
Sevoflurane 3,5 Muối fluorides vô cơ và hữu cơ
Chất A trong trường hợp có vôi lime soda và nhiệt
độ cao (chất B, C, D và E)
Enflurane 2 Muối fluorides vô cơ và hữu cơ
Isoflurane 0,2 Acid trifluoroacetic và F-
Desflurane 0,02 Acid trifluoroacetic
17
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
dùng kèm O2 với nồng độ 50% (hỗn hợp Entonox), kết hợp với thuốc mê bốc hơi hay thuốc
mê tĩnh mạch khác. Cơ chế hoạt động chính xác của N2O chưa rõ, giả thuyết hiện nay là N2O
tác dụng lên thụ thể NMDA (N-methyl-D-aspartate) trong hệ thần kinh trung ương.
N2O khuếch tán nhanh vào các khoang chứa không khí gây tăng áp lực (tai giữa) hay tăng
thể tích các khối khí trong cơ thể (lòng ruột hay khối khí thuyên tắc) Chống chỉ định sử
dụng N2O trên người bệnh bị tràn khí màng phổi chưa dẫn lưu hoặc sau khi lặn.
Các tác dụng của N2O
Hô hấp: Gây giảm nhẹ thế tích thường lưu nhưng thường được bù trừ bằng tăng nhịp
thở nên thông khí phút và PaCO2 thường không thay đổi
Tim mạch: Mặc dù N2O có tác dụng ức chế cơ tim trực tiếp, thuốc cũng làm tăng hoạt
tính giao cảm thông qua tác động lên thần kinh trung ương. Do đó, thuốc làm thay đổi
chức năng tim mạch rất ít. Tuy nhiên, trên người bệnh suy tim và không có khả năng
huy động hoạt tính giao cảm nội tại, tác dụng ức chế cơ tim của N2O có thể làm giảm
cung lượng tim. Thuốc không làm tăng tính nhạy cảm của tim với các catecholamines
Thần kinh trung ương: N2O làm tăng lưu lượng máu não và có thể cần tránh sử dụng
trong một số trường hợp tăng áp lực nội sọ
N2O có thể gây ra hiệu ứng giảm oxy (O2) máu do khuếch tán. Hiện tượng này xảy ra vào
cuối cuộc gây mê khi hỗn hợp N2O/O2 được thay thế bằng khí (gồm có N2/O2). Do N2O
khuếch tán ngược vào phế nang từ máu có thể tích lớn hơn thể tích N2 khuếch tán vào mao
mạch phổi nên xảy ra tình trạng pha loãng các khí trong phế nang, gây giảm áp suất riêng phần
của oxy trong phế nang, dẫn đến giảm oxy máu. Hiện tượng này có thể tránh được nếu thay
hỗn hợp N2O/O2 bằng O2 100% vào cuối cuộc gây mê.
Do gia tăng nồng độ N2O trong khí hít vào có thể làm giảm nồng độ oxy trong khí hít vào,
tạo ra hỗn hợp gây giảm oxy máu nên các van điều chỉnh lưu lượng N2O trên các máy gây mê
đều có bộ phận an toàn kết nối với van điều chỉnh lưu lượng oxy. Điều này sẽ làm cho việc
tăng lưu lượng N2O đến một giá trị ngưỡng sẽ làm tăng tương ứng lưu lượng oxy trong khí hít
vào.
N2O gây oxy hóa ion cobalt hiện diện trong vitamin B12, khiến cho vitamin này ức chế
men methionine synthetase. N2O cũng ức chế trực tiếp men này. Hậu quả là giảm tổng hợp
methionine, thymidine, tetrahydrofolate và ADN. Tiếp xúc với N2O trong vài giờ có thể gây
thay đổi nguyên bào khổng lồ (megaloblast) của tủy xương trong khi thời gian tiếp xúc kéo dài
hơn (vài ngày) có thể gây mất bạch cầu hạt. Sự phục hồi có thể mất vài ngày, thời gian cần
thiết để tổng hợp mới men methionine synthetase hoặc thông qua bổ sung acid folinic, nguồn
để tổng hợp tetrahydrofolate. Do đó, tiếp xức lâu dài với N2O có thể gây các hội chứng thần
kinh là hậu quả của việc mất hoạt tính của vitamin B12.
Các nghiên cứu thực nghiệm trên động vật cho thấy N2O có thể gây quái thai trên chuột
nhưng độc tính này được phòng ngừa khi bổ sung acid folinic. Mặc dù chưa bao giờ chứng
minh được điều này trên người, N2O vẫn không được sử dụng trên phụ nữ có thai ở 3 tháng
đầu thai kỳ.
18
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Hình 3. Cấu trúc hóa học của các thuốc mê bốc hơi nhóm halogen
4.1.Halothane
Halothane là một hydrocarbon có chứa nguyên tố halogen, kém bền với ánh sáng. Thuốc
có thể tan trong cao su và phóng thích trở lại hệ thống ống thở ngay cả khi đã tắt bình bốc hơi
(thiết bị cung cấp thuốc). Thuốc ngày càng ít được sử dụng và đang bị thay thế bằng
sevoflurane.
Tác dụng của halothane (xem thêm bảng 4):
- Hô hấp: Thuốc có mùi ngọt và không gây kích thích nên phù hợp để sử dụng trong khi
khởi mê. Thuốc gây giảm thông khí phút khi dùng ở nồng độ cao. Do đặc tính gây giãn
phế quản, thuốc là chọn lựa tốt cho người bệnh bị hen phế quản.
- Tim mạch: halothane có rất nhiều ảnh hưởng lên tim mạch. Thuốc làm tăng trương lực
đối giao cảm và ức chế cơ tim trực tiếp nên làm giảm cung lượng tim. Ngoài ra, thuốc
còn làm cơ tim tăng nhạy cảm với catecholamine nên phải hết sức lưu ý việc sử dụng
thuốc tê có pha adrenaline và các catecholamine ngoại sinh.
- Thần kinh trung ương: halothane làm tăng lưu lượng máu não nhiều nhất trong các
thuốc mê nhóm halogen, dẫn đến tăng đáng kể áp lực nội sọ khi nồng độ > 0,6 MAC.
Thuốc cũng làm giảm nhu cầu oxy của não.
Trên 25% halothane được oxy hóa bởi cytochrome P450 để cho ra acid trifluoroacetic và
các ion Cl-, Br-. Halothane có độc tính trên gan với 2 dạng tổn thương:
- Dạng có hồi phục với biểu hiện dưới lâm sàng (subclinical), chủ yếu là tăng men
transaminases của gan .
- Dạng hoại tử gan tối cấp (viêm gan do halothane). Trifluoroacetyl chloride là 1 chất
chuyển hóa của halothane, có thể gắn với các protein của gan, kích hoạt sản xuất kháng
thể. Chẩn đoán viêm gan do halothane dựa vào loại trừ tất cả các trường hợp tổn
thương gan khác. Các yếu tố nguy cơ của tình trạng này là: tiếp xúc nhiều lần, béo phì,
độ tuổi trung niên và giới nữ. Cần tránh sử dụng halothane nếu đã sử dụng trước đây
19
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
trong vòng 3 tháng, có tiền căn có tác dụng không mong muốn của halothane hoặc có
bệnh gan từ trước. Về lý thuyết, tất cả các thuốc mê halogen đều có thể gây phản ứng
tương tự viêm gan do halothane nhưng do tỷ lệ chuyển hóa thuốc quá thấp nên khả
năng xảy ra cũng rất hiếm.
4.2.Isoflurane
Isoflurane là một methyl ethyl ether, là đồng phân hóa học của enflurane (Hình 3), được sử
dụng rộng rãi trong gây mê.
Tác dụng của isoflurane (xem thêm Bảng 4):
- Hô hấp: Isoflurane ức chế thông khí nhiều hơn halothane nhưng kém hơn enflurane.
Thông khí phút sẽ giảm trong khi nhịp thở và PaCO2 tăng. Thuốc ít khi được sử dụng
trong khởi mê do có mùi khó chịu, có thể gây tăng kích thích đường thở trên, ho và
nhịn thở (breath-holding). Tuy nhiên, dù có mùi khó chịu, isoflurane có tác dụng giãn
phế quản
- Tim mạch: Thuốc làm giảm kháng lực mạch máu hệ thống và gây tăng nhịp tim phản
ứng (phản xạ xoang cảnh được bảo tồn). Thuốc gây giảm nhẹ sức co bóp cơ tim và
cung lượng tim. Mặc dù có ý kiến cho rằng thuốc gây cướp máu mạch vành, các
nghiên cứu gần đây cho thấy nếu vẫn duy trì được tưới máu mạch vành thì hiện tượng
này không xảy ra. Thuốc có thể có tính chất bảo vệ cơ tim thông qua tác dụng trên
kênh K+ phụ thuộc ATP.
- Thần kinh trung ương: Tương tự các thuốc bốc hơi, isoflurane có tác dụng tạo cân
bằng tốt giữa giảm nhu cầu oxy của não và tăng nhẹ lưu lượng máu não. Cơ chế tự
điều hòa của não được bảo tồn khi nồng độ isoflurane đạt giá trị đến 1 MAC.
Chỉ có 0,2% thuốc được chuyển hóa và chất chuyển hóa không có độc tính. Cấu trúc –
CHF2 trong công thức hóa học của isoflurane có thề phản ứng với vôi soda lime tạo ra CO
trong điều kiện sử dụng hệ thống gây mê với không khí khô kéo dài.
Bảng 4. So sánh tác dụng của các thuốc mê bốc hơi nhóm halogen
Chỉ số Halothane Isoflurane Enflurane Desflurane Sevoflurane
Nhịp thở ↑ ↑↑ ↑↑ ↑↑ ↑↑
Thể tích thường ↓ ↓↓ ↓↓↓ ↓↓ ↓
lưu
PaCO2 Không đổi ↑↑ ↑↑↑ ↑↑ ↑
Co bóp cơ tim ↓↓↓ ↓ ↓↓ Tối thiểu ↓
Nhịp tim ↓↓ ↑↑ ↑ ↑ (↑↑ > 1,5 MAC) Không
Kháng lực mạch ↓ ↓↓ ↓ ↓↓ ↓
máu hệ thống
Huyết áp ↓↓ ↓↓ ↓↓ ↓↓ ↓
Hội chứng cướp Không Có thể Không Không Không
máu mạch vành
Lưu lượng máu ↓ Không đổi ↓ Không đổi Không đổi
tạng
Tăng nhạy với ↑↑↑ Không ↑ Không Không
catecholamine
Lưu lượng máu ↑↑↑ ↑ (không nếu < ↑ ↑ ↑
não 1 MAC)
Nhu cầu oxy ↓ ↓ ↓ ↓ ↓
của não
EEG Dạng bùng nổ- Dạng bùng nổ- Hoạt động Dạng bùng nổ-ức Dạng bùng nổ-
ức chế (burst ức chế (burst giống động chế (burst ức chế (burst
20
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
suppression) suppression) kinh (đỉnh suppression) suppression)
nhọn và sóng
3 Hz)
Tác động lên tử Gây giãn ít Gây giãn ít Gây giãn ít Gây giãn ít Gây giãn ít
cung
Khả năng giãn Ít Đáng kể Đáng kể Đáng kể Đáng kể
cơ
Giảm đau Không Ít Ít Ít Ít
4.3.Sevoflurane
Sevoflurane là một isopropyl methyl ether chứa nhiều nguyên tố F, có mùi dễ chịu, MAC
thấp và hệ số hòa tan máu-khí tương đối thấp.
Tác dụng của sevoflurane:
- Hô hấp: sevoflurane là thuốc tốt để sử dụng trong khởi mê do có mùi dễ chịu và đặc
tính vật lý phù hợp. Thuốc gây ức chế hô hấp với giảm thông khí phút và tăng PaCO2.
- Tim mạch: Thuốc làm giảm kháng lực mạch máu hệ thống (kể cả mạch máu não và
mạch vành) và do không tăng nhịp tim nên huyết áp sẽ giảm. Thuốc không làm thay
đổi sức co bóp cơ tim và không làm cho tim tăng nhạy cảm với catecholamine.
- Thần kinh trung ương (xem thêm bảng 4): So với halothane, có bằng chứng cho thấy
trẻ em có tỷ lệ kích động và sảng sau mổ (trong giai đoạn hồi tỉnh) hơn khi sử dụng
sevoflurane.
Thuốc được chuyển hóa tại gan nhiều hơn so với các loại thuốc mê bốc hơi khác (trừ
halothane) để cho ra hexafluoro-isopropanolol và ion F- vô cơ (có thể gây độc thận). Các hợp
chất A, B, C, D và E đã được xác định khi sevoflurane phản ứng với vôi hấp thu CO2. Chỉ có
chất A và B (ít độc hơn) là có tồn tại ở lượng đủ để phân tích. Việc hình thành các chất này
được tạo thuận lợi khi có KOH trong vôi hấp thu CO2 hơn là NaOH. Quá trình phản ứng này
tạo ra nhiệt và gây tiêu thụ sevoflurane. Chất A gây độc trên chuột với nồng độ cao. Tuy nhiên,
các nghiên cứu gần đây cho thấy lượng chất A sinh ra với lưu lượng sevoflurane 0,25L/phút
trong 5 giờ liên tục cũng rất thấp và không liên quan gì đến rối loạn chức năng thận khi thực
hiện xét nghiệm.
4.4.Enflurane
Enflurane là một ethyl methyl ether, đồng phân của isoflurane. Thuốc ngày càng ít được sử
dụng và bị thay thế bằng các thuốc khác. Với nồng độ cao, thuốc gây ra các đỉnh nhọn và các
sóng 3 Hz trên EEG, giống như biểu hiện của động kinh cơn lớn. Không nên sử dụng
enflurane trên người bệnh có suy giảm chức năng thận do chất chuyển hóa là ion F- có thể gây
độc thận.
4.5.Desflurane
Desflurane là một ethyl methyl ether có gắn với nguyên tố F. Thuốc có đặc điểm vật lý là
có điểm sôi là 23,5oC. Tại nhiệt độ này, thuốc bốc hơi rất mạnh nên gây nguy hiểm nếu dùng
bình bốc hơi truyền thống. Bình bốc hơi dành cho desflurane là bình bốc hơi điện tử Tec6 có
thể dùng nhiệt độ 39oC ở 2 atm. Thuốc có hệ số hòa tan máu-khí thấp nên đảm bảo khởi mê và
tỉnh mê nhanh. Thuốc gây hiệu ứng nhà kính nhiều hơn sevoflurane và isoflurane.
Tác dụng của desflurane:
21
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Hô hấp: deaflurane có tác dụng lên hô hấp tương tự các thuốc cùng nhóm. Tăng nồng
độ thuốc gây giảm thông khí phút và tăng PaCO2. Desflurane có mùi khó chịu nên gây
ho và nhịn thở, không thích hợp để khởi mê
- Tim mạch: Một số tác giả cho rằng thuốc có tác dụng tương tự isoflurane. Tuy nhiên,
trên người bệnh có bệnh tim thiếu máu cục bộ, nồng độ > 1 MAC có thể gây kích thích
tim mạch (nhịp tim nhanh và tăng huyết áp). Thuốc không làm cơ tim tăng nhạy cảm
với catecholamine và làm giảm kháng lực mạch máu não và mạch vành.
Chỉ có 0,02% thuốc được chuyển hóa nên khả năng gây độc là rất thấp.
22
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
THUỐC GIÃN CƠ
MỤC TIÊU:
1. Mô tả hoạt động của acetylcholine tại tiếp hợp thần kinh cơ
2. Nêu được cơ chế tác dụng và các tác dụng không mong muốn của thuốc giãn cơ khử cực
3. Phân biệt các đặc điểm dược lý của các nhóm thuốc giãn cơ không khử cực
4. Trình bày nguyên tắc theo dõi giãn cơ
5. Nêu cơ chế tác dụng của các thuốc hóa giải giãn cơ
1. MỞ ĐẦU:
Trong gây mê hồi sức, các thuốc giãn cơ (còn gọi là thuốc ức chế tiếp hợp thần kinh cơ) đã được
sử dụng từ hơn nửa thế kỷ nay với mục đích chủ yếu là tạo thuận lợi cho đặt ống nội khí quản, thông
khí cơ học và phẫu thuật. Các thuốc giãn cơ không có tác dụng gây mất tri giác, không giảm đau và
không gây quên. Do đó, thuốc giãn cơ chỉ được sử dụng khi người bệnh đã được gây mê hoặc trong
trạng thái an thần sâu nhằm tránh việc liệt cơ khi vẫn còn tỉnh táo. Thuốc giãn cơ có tác dụng trên toàn
bộ cơ vân của cơ thể, bao gồm cả các cơ hô hấp, nên sẽ gây liệt cơ, khiến người bệnh mất khả năng tự
thở. Do đó, khi sử dụng thuốc giãn cơ, cần phải chuẩn bị sẵn sàng các phương tiện kiểm soát đường
thở, nguồn oxy và hệ thống hút. Chọn lựa thuốc giãn cơ trên lâm sàng phụ thuộc vào mức độ giãn cơ
cần thiết thay đổi theo từng loại phẫu thuật hoặc từng thời điểm của một loại phẫu thuật, bệnh lý nền
của người bệnh và yêu cầu liên quan đến quá trình gây mê như cần khởi mê nhanh hoặc đặt ống nội khí
quản khó. Việc hiểu biết sinh lý dẫn truyền thần kinh cơ là rất quan trọng để có thể thực hành tốt việc
sử dụng và theo dõi mức độ giãn cơ trong gây mê hồi sức.
23
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Hình 1. Cấu trúc của tiếp hợp thần kinh cơ (A) và hình ảnh phóng thích acetylcholine tại màng
neuron của tiếp hợp này (B). (Nguồn: Textbook of Physiology, Guyton, 2006)
Acetylcholine được tổng hợp và dự trữ trong các vi hạt tại đầu tận sợi trục thần kinh vận động. Mỗi
hạt chứa khoảng 5.000 đến 10.000 phân tử. Acetylcholine trong tiếp hợp thần kinh được chia làm hai
phần. Phần nhỏ được trữ trong các vi hạt hoạt động, có thể sử dụng ngay. Phần còn lại tồn tại trong các
hạt dự trữ và tồn tại tự do trong bào tương. Khi tế bào thần kinh bị kích thích, điện thế hoạt động sẽ
được tạo ra và di chuyển đến đầu tận thần kinh, gây mở kênh ion phụ thuộc điện thế và xuất hiện dòng
Ca2+ đi vào tế bào. Điều này dẫn đến việc có 200 – 400 vi hạt hoạt động hòa nhập vào màng tế bào sợi
trục và phóng thích Acetylcholine vào khe synape (Hình 1). Acetylcholine phóng thích ra sẽ gắn lên
thụ thể của sợi cơ và khử cực sợi cơ qua việc mở các kênh ion. Điều này tạo ra điện thế hoạt động của
sợi cơ và lan đến các sợi cơ kế cận, giúp tạo ra hiện tượng co cơ.
24
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
25
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
thể acetylcholine bị gắn với thuốc giãn cơ phải > 70% thì máy kích thích thần kinh ngoại vi mới có thể
phát hiện tình trạng phong bế.
Dựa theo cấu trúc hóa học, các thuốc giãn cơ không khử cực có thể chia thành 2 nhóm:
- Aminosteroids: vecuronium, rocuronium, pancuronium
- Benzylisoquinolinium: atracurium, cisatracurium, mivacurium, tubocurarine
Các thuốc giãn cơ nhóm aminosteroids có tác dụng hủy đối giao cảm (vagolysis) gây tăng tần số
tim, tăng huyết áp trung bình và tăng cung lượng tim khi dùng thuốc. Các thuốc nhóm
benzylisoquinolinium gây kích thích tiết histamine, tạo ra các tác dụng phụ lên hệ tim mạch như giảm
huyết áp, mạch nhanh và nóng bừng mặt.
Các thuốc trên cũng có thể chia thành các nhóm theo thời gian tác dụng:
- Ngắn: mivacurium
- Trung bình: atracurium, cisatracurium, vecuronium,, rocuronium
- Dài: pancuronium
4.3.1. Rocuronium
Thuốc thuộc nhóm aminosteroids, có thời gian tác dụng trung bình (30 – 40 phút) và thời gian tiềm
phục nhanh (có thể đặt ống NKQ sau 100 – 120 giây với liều 0,6 mg/kg khi khởi mê). Nếu sử dụng liều
cao 0,9 – 1,2 mg/kg khi khởi mê, thuốc có thể dùng thay thế cho succinylcholine trong khởi mê đặt ống
NKQ nhanh, với thời gian tiềm phục rút ngắn còn khoảng 60 giây.
Liều duy trì 0,15 mg/kg, có tác dụng trong 13 phút, có thể sử dụng bơm tiêm tự động truyền TM
liên tục với liều 0,3 – 0,4 mg/kg/giờ.
Thuốc có ít tác dụng không mong muốn và tác dụng hủy đối giao cảm tối thiểu, ổn định huyết
động được duy trì ở liều cao đến gấp 4 lần ED95. Thuốc được bài tiết ở dạng không đổi qua hệ thống
đường mật và một phần nhỏ qua nước tiểu. Khi sử dụng trên người bệnh béo phì, suy gan và suy thận
cần phải giảm liều.
26
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
4.3.2. Vecuronium
Thuốc giãn cơ nhóm aminosteroids, có thời gian tác dụng trung bình (25 - 60 phút), phù hợp với
các phẫu thuật có thời gian trung bình đến dài. Thời gian tiềm phục của thuốc là 3 – 5 phút.
Liều sử dụng trong khởi mê đặt NKQ là 0,05 – 0,1 mg/kg TM.
Liều duy trì: bolus tĩnh mạch 0,025 mg/kg mỗi 20 – 30 phút hoặc truyền TM liên tục 0,06 – 0,1
mg/kg/giờ. Cần giảm liều trên người lớn tuổi, suy gan, suy thận hoặc béo phì.
Thuốc được chuyển hóa tại gan và bài tiết qua đường mật. Thuốc ít tác dụng lên hệ tim mạch
tương tự như rocuronium. Một số tác dụng không mong muốn đã được ghi nhận là hiện tượng tăng
nhạy cảm và các phản ứng dạng phản vệ.
4.3.3. Pancuronium
Thuốc giãn cơ nhóm aminosteroids có thời gian tác dụng dài (85 – 100 phút) và thời gian tiềm
phục là 3 – 4 phút.
Liều sử dụng trong khởi mê đặt NKQ là 0,06 – 0,1 mg/kg TM, duy trì 0,01mg/kg.
27
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Thuốc được chuyển hóa môt phần nhỏ tại gan và thải qua thận dưới dạng không đổi. Thuốc có tác
dụng hủy đối giao cảm, gây mạch nhanh, tăng nhẹ cung lượng tim và có thể gây các phản ứng nhạy
cảm.
Trong thực hành lâm sàng, chỉ nên sử dụng pancuronium trong trường hợp phẫu thuật kéo dài trên
người bệnh không suy thận. Hiện nay thuốc có xu hướng được thay thế bởi các thuốc giãn cơ tác dụng
trung bình.
4.3.4. Atracurium
Thuốc là hỗn hợp benzylisoquinolinium bao gồm nhiều đồng phân khác nhau, có thời gian tiềm
phục khoảng 2 - 3 phút và thời gian tác dụng ở mức trung bình (khoảng 35 – 40 phút).
Liều khởi mê để đặt NKQ là 0,5 – 0,6 mg/kg TM, duy trì 0,1 – 0,2 mg/kg bolus mỗi 20 – 30 phút
hoặc truyền TM liên tục 0,3 – 0,6 mg/kg/giờ.
Một phần ba lượng thuốc được chuyển hóa qua chu trình Hofmann và phần còn lại bị thủy phân
bởi các esterase không đặc hiệu, không phụ thuộc vào lượng cholinesterase huyết tương. Do đó, thuốc
được chọn lựa dành cho trường hợp suy gan, suy thận và không cần thayđổi liều lượng. Thuốc được
thải trừ qua đường mật. Một trong các sản phẩm trung gian của atracurium trong quá trình chuyển hóa
là laudanosin, có thể đi qua hàng rào máu não. Nghiên cứu trên động vật cho thấy lausanosin có khả
năng gây động kinh ở nồng độ cao. Atracurium có thể kích thích tiết histamine, gây mạch nhanh, tụt
huyết áp và co thắt phế quản.
4.3.5. Cisatracurium
Thuốc là một trong các đồng phân của atracurium, với thời gian tiềm phục khoảng 2 – 4 phút và
thời gian tác dụng trung bình khoảng 45 – 90 phút tùy theo liều.
Liều khởi mê để đặt NKQ là 0,15 mg/kg TM, duy trì 0,03 mg/kg bolus TM mỗi 20 – 30 phút hoặc
truyền TM liên tục 0,06 – 0,12 mg/kg/giờ.
Chuyển hóa của cisatracurium tương tự như atracurium nên thuốc có thể sử dụng cho người bệnh
suy gan, suy thận. Tuy nhiên, thuốc không kích thích giải phóng histamine như atracurium nên không
gây các tác dụng không mong muốn về tim mạch.
4.3.6. Mivacurium
Mivacurium là thuốc giãn cơ nhóm benzylisoquinolinium được xếp vào nhóm thuốc có thời gian
tác dụng ngắn. Thời gian tiềm phục của thuốc khoảng 2,5 phút và thời gian tác dụng khoảng 10 – 20
phút.
Liều khởi mê để đặt NKQ là 0,15mg/kg TM, duy trì 0,05 – 0,1mg/kg bolus TM hoặc 0,5 – 0,6
mg/kg/giờ.
Thuốc được thủy phân bởi các pseudo-cholinesterase của huyết tương, sau đó được thải qua thận
và mật. Thời gian giãn cơ sẽ kéo dài gấp đôi khi có suy thận và gấp ba lần khi có suy gan. Thuốc gây
kích thích giải phóng histamine không phụ thuộc liều lượng và tốc độ tiêm thuốc.
5. THEO DÕI GIÃN CƠ TRONG THỰC HÀNH LÂM SÀNG
Theo dõi giãn cơ trong mổ là cần thiết vì một số thủ thuật/phẫu thuật yêu cầu phải đạt mức độ giãn
cơ phù hợp (đặt ống NKQ, phẫu thuật nội sọ, phẫu thuật mắt phức tạp) và phục hồi hoàn toàn giãn cơ
sau mổ giúp bảo vệ đường thở tốt, tránh các biến chứng liên quan đến giãn cơ tồn lưu.
28
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Khi sử dụng thuốc giãn cơ, liêt cơ sẽ xuất hiện theo trình tự sau: cơ hoành, cơ khép dây thanh, cơ
vòng mi và cơ nhai. Tuy nhiên, cơ hoành và cơ thanh quản tương đối đề kháng với các loại thuốc giãn
cơ, điều đó có nghĩa là mặc dù bị ảnh hưởng đầu tiên, thời gian để đạt đến hiệu quả tối đa ở cơ hoành
dài hơn so với cơ khép ngón cái (là vị trí thường sử dụng nhất để theo dõi giãn cơ trong thực hành lâm
sàng). Điều này cũng đúng với quá trình phục hồi chức năng thần kinh cơ. Bằng chứng phục hồi chức
năng co cơ xuất hiện ở nhóm cơ gần, nhưng hồi phục đầy đủ được xác nhận đầu tiên ở cơ hoành.
Mức độ giãn cơ do thuốc được theo dõi bằng phương pháp đánh giá hiệu quả của thuốc đó lên co
cơ sau khi kích thích một dây thần kinh tương ứng. Máy kích thích thần kinh cần phải tạo ra một kích
thích trên mức tối đa (60 – 80mA) để chắc chắn các sợi thần kinh đã được khử cực. Thời gian của 1
kích thích là 0,1ms. Điện cực âm phải đặt trực tiếp lên vị trí thần kinh còn điện cực dương phải đặt ở vị
trí không làm cản trở cơ đang khảo sát.
Có nhiều phương pháp khác nhau để theo dõi và đánh giá mức độ giãn cơ. Các phương pháp
thường dùng nhất trên lâm sàng bao gồm: kích thích đơn (single twitch stimulation), kích thích co cứng
(tetanic stimulation), kích thích và đếm sau co cứng (post-tetanic potentiation and count), kích thích
bùng đôi (double burst stimulation) và kích thích chuỗi 4 (train-of-four, TOF).
Train-of-Four (TOF) là phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong thực hành lâm sàng. Vị trí
thần kinh chọn lựa thường gặp nhất là thần kinh trụ với đáp ứng của cơ khép ngón cái (xem hình 4).
Hình 4. Theo dõi giãn cơ bằng phương pháp Train-of-Four (TOF Watch)
Bốn kích thích 2Hz kéo dài 0,2ms và cách nhau 0,5s sẽ được sử dụng kèm theo ghi nhận đáp ứng
co cơ (xem hình 5). Tỷ số của mức độ đáp ứng thứ 4 chia cho đáp ứng thứ 1 hoặc số đáp ứng (nếu mất
đáp ứng thứ 4) sẽ được ghi nhận và hiển thị trên máy. Mất đáp ứng thứ 4 tương ứng với 75 – 80% các
thụ thể acetylcholine bị phong bế, mất đáp ứng thứ 3 tương ứng với 85% bị phong bế, mất đáp ứng thứ
2 tương ứng với 90% bị phong bế và mất đáp ứng thứ 1 tương ứng với 98 – 100% bị phong bế. Tỷ số
29
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
TOF bằng 0,7 tương ứng với phục hồi chức năng của cơ hoành và > 0,9 tương ứng với phục hồi tốt
chức năng của cơ vùng hầu. Tỷ số TOF > 0,9 là tiêu chuẩn để rút ống nội khí quản.
30
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
sử dụng rocuronium liều cao (hóa giải tức thì trong trường hợp khởi mê nhưng không thông khí được
cho người bệnh).
31
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
THUỐC TÊ
MỤC TIÊU:
1. Mô tả cấu trúc và phân loại thuốc tê theo cấu trúc
2. Phân tích biểu hiện ngộ độc thần kinh của thuốc tê
3. Nêu các bước xử trí ngộ độ toàn thân thuốc tê.
1. MỞ ĐẦU:
Thuốc tê là loại thuốc sử dụng phổ biến trong thực hành lâm sàng giúp làm mất cảm giác đau
có hồi phục dựa trên nguyên tắc phong bế đường dẫn truyền thần kinh.
Thuốc tê được sử dụng lần đầu tiên trong y khoa là cocaine trong nhãn khoa do BS Koller
người Áo sử dụng vào năm 1884. Sau đó, BS Halsted, Hoa Kỳ là người đầu tiên mô tả việc sử
dụng cocaine trong phong bế thần kinh vào năm 1885.
2. PHÂN LOẠI:
Thuốc tê là những muối kiềm yếu, dẫn xuất từ cocaine. Thuốc tê có cấu trúc gồm 2 phần ưa
nước và kỵ nước gắn với 1 cầu nối là esters hay amides, cũng là đặc điểm phân chia thuốc tê thành
2 nhóm khác nhau. Nếu thuốc tê có tính tan trong mỡ cao và pKa thấp, thuốc sẽ ở dạng không ion
hóa nhiều.
Ức chế dẫn truyền thần kinh bằng cách ngăn chặn sự lan tỏa của điện thế động trên trục thần
kinh
Dạng cation gắn trên thụ thể Na+ nên chặn dòng Na+ vào tế bào
32
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Dạng không ion hóa khuếch tán thụ động qua màng tế bào, rồi phân ly thành cation và gắn với
thụ thể kênh Na+
5.2. Bupivacaine:
Thuốc tê nhóm amide, có tính gắn kết mạnh với proteins và pKa lớn hơn Lidocaine nên thời
gian tác dụng và tiềm phục đều dài hơn Lidocaine. Thuốc thường dùng trong phẫu thuật dài, cần
thời gian giảm đau lâu. Thuốc thường dùng gây tê tủy sống, gây tê ngoài màng cứng, gây tê đám
rối thần kinh. Liều lượng tối đa là 150 mg ở người lớn và 2 mg/kg ở trẻ em.
Thuốc có độc tính tim cao hơn lidocaine. Hiện nay có các thuốc tê levobupivacaine và
ropivacaine có đặc tính dược lý gần giống bupivacaine nhưng có độc tính thấp hơn.
5.3. Prilocaine:
33
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Thuốc tê nhóm amide, ít độc tính tim hơn Lidocaine và Bupivacaine. Thuốc hiện nay được
dùng trong kem EMLA (Lidocaine và Prilocaine) để gây tê da hoặc sử dụng gây tê tĩnh mạch. Liều
lượng tối đa là 400 mg ở người lớn và 6 mg/kg ở trẻ em. Liều cao có thể gây methemoglobine.
5.4. Tetracaine:
Thuốc tê nhóm ester với đặc tính tan trong mỡ mạnh và thời gian tác dụng dài. Thuốc hiện
nay thường sử dụng để bôi tê.
Bảng 1. Đặc tính một số loại thuốc tê thường dùng trên lâm sàng
Thuốc tê pKa Tiềm phục Gắn kết Thời gian tác Liều tối đa
protein (%) dụng
Lidocaine 7,7 Nhanh 65% Trung bình 3 mg/kg (7mg/kg nếu pha
thêm adrenaline)
34
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Hình 2. Biểu hiện thần kinh của ngộ độc toàn thân thuốc tê
6.2. Độc tính tim (thường gặp với Bupivacaine)
Thuốc tê gây ức chế kênh Na của tế bào cơ tim, dẫn đến các hậu quả:
- Dẫn truyền
o Chậm dẫn truyền nội thất
o Ức chế dẫn truyền
o Dễ gây nhịp nhanh thất do vòng vào lại
o Tăng ức chế khi nhịp nhanh (phasic block)
- Co bóp cơ tim
- Biểu hiện LS
o Tăng huyết áp tụt huyết áp
o Rối loạn nhịp
o Ngưng tim
6.3. Phòng ngừa ngộ độc thuốc tê
- Không vượt quá liều tối đa
- Giảm liều 30 - 40% đối với người lớn tuổi
- Theo dõi người bệnh sau thủ thuật ít nhất 60 phút (nếu chưa phẫu thuật/thực hiện gây tê sau
phẫu thuật).
- Tiêm thuốc tê chậm, chia nhỏ liều
- Thường xuyên rút ngược bơm tiêm nhẹ nhàng để kiểm tra xem có máu trào ngược hay không
- Tránh giảm Oxy máu, tăng thán hoặc nhiễm toan.
6.4. Xử trí ngộ độc thuốc tê
Ngay khi xuất hiện tiền triệu: dị cảm/tê quanh miệng, ù tai, vị kim loại trên người bệnh được tiêm
thuốc tê liều lớn, thực hiện các bước cấp cứu sau đây thật nhanh và cùng lúc:
Ngưng tiêm thuốc tê ngay lập tức (nếu đang thực hiện thủ thuật)
Gọi hỗ trợ
Đảm bảo cung cấp Oxy cho người bệnh
Bolus dung dịch intralipid 20% với liều 1,5 ml/kg. Sử dụng sớm dung dịch intralipid 20% có
thể ngưng diễn biến nặng của ngộ độc thuốc tê
Nếu ngộ độc nặng (co giật, rối loạn nhịp tim, ngưng tim)
35
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Kiểm soát đường thở của người bệnh /Đặt ống nội khí quản, thông khí nhân tạo cấp cứu với
FiO2 = 100%.
Có thể tăng thông khí để bù trừ nhiễm toan sau co giật (Lưu ý cần làm xét nghiệm khí máu
động mạch để kiểm tra).
Sử dụng thuốc nhóm benzodiazepine (midazolam, diazepam) tiêm tĩnh mạch để cắt cơn co giật
Bolus tĩnh mạch dung dịch intralipid 20% 100 - 200 ml (liều 1,5 ml/kg), có thể truyền tĩnh
mạch 0,2 - 0,5 ml/kg/phút, tổng liều tối đa với người lớn là 10 ml/kg. (Xem thêm Phụ lục số IV,
Thông tư 51/2017/TT-BYT ban hành ngày 29/12/2017).
Thực hiện xoa bóp tim ngoài lồng ngực nếu ngưng tim (thời gian > 1 giờ).
Adrenaline liều thấp 0,05 - 0,1 mg tiêm tĩnh mạch (< 1 μg/kg)
Tránh dùng các thuốc co mạch vasopressin, các thuốc điều trị loạn nhịp tim như thuốc ức chế
calci, ức chế β, lidocaine, amiodarone.
Sau khi phục hồi các rối loạn thần kinh và tim mạch, người bệnh cần được theo dõi tại khoa
Hồi sức tối thiểu 12 giờ.
Lưu ý:
- Nhũ dịch intralipide 20% được xem là thuốc điều trị đặc hiệu ngộ độc toàn thân thuốc tê theo
cơ chế bẫy lipide , được khuyến cáo sử dụng sớm ngay khi có biểu hiện của ngộ độc toàn thân
thuốc tê.
Hình 3. Cơ chế bẫy lipid của nhũ dịch lipid trong điều trị ngộ độc toàn thân thuốc tê
- Adrenaline liều cao gây tăng tần số tim, làm tăng mức độ phong bế kênh natri của mô dẫn
truyền ở tim của thuốc tê (cơ chế use - dependance ). Do đó, sử dụng adrenaline liều thấp dưới 1
μg/kg để duy trì áp lực tưới máu não và tim, mà không làm xuất hiện nhịp tim nhanh hoặc rung
thất.
36
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
MỤC TIÊU
1. Phân tích vai trò của thuốc nhóm á phiện trong gây mê hồi sức
2. Chọn lựa thuốc nhóm á phiện phù hợp trong giảm đau sau mổ
3. Chọn lựa thuốc nhóm á phiện phù hợp trong khởi mê
4. So sánh tác dụng của thuốc nhóm á phiện lên các thụ thể khác nhau
NỘI DUNG
I. ĐỊNH NGHĨA
Thuốc nhóm á phiện là thuốc giảm đau mạnh hay còn gọi là thuốc giảm đau trung ương
dùng trong gây mê toàn thân hay giảm đau sau mổ. Morphine trước đây được dùng tiền mê,
gây mê, nhưng hiện nay, morphine được thay thế bởi các chất thuốc nhóm á phiện có tác dụng
nhanh, ngắn, giảm đau mạnh hơn với ít tác dụng phụ hơn cho phép điều chỉnh dễ dàng và
nhanh chóng trong lúc gây mê. Thuốc nhóm á phiện có nhiều ứng dụng trong thực hành lâm
sàng.
37
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tất cả thuốc nhóm á phiện đều gắn kết với protein huyết tương (albumin và α1-acid
glycoprotein) theo tỷ lệ khác nhau. Do đó, chỉ có dạng không ion hóa và không gắn kết với
protein mới tạo ra chênh lệch nồng độ giữa máu và mô tác dụng. Thời gian tiềm phục sẽ phụ
thuộc vào tính tan trong lipid và tỷ lệ gắn kết với protein huyết tương.
2. Các thuốc nhóm á phiện thường dùng
A. Morphine
Morphine là loại thuốc á phiện lâu đời nhất, có các đặc điểm dược lý khác với các thuốc
trong họ fentanyl do có tính tan trong lipid thấp hơn.
- Hấp thu: thuốc dễ hấp thu qua đường tiêu hóa, chủ yếu ở tá tràng. Chuyển hóa ban đầu
và chủ yếu tại gan nên độ sinh khả dụng thấp khi sử dụng đường uống (20 – 30%) so
với tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch. Morphine hấp thu nhanh sau khi tiêm bắp hoặc tiêm
dưới da. Thuốc lan tốt vào mô thần kinh khi dùng trong khoang ngoài màng cứng hoặc
khoang dưới nhện
- Phân phối: Khoảng 1/3 gắn với protein huyết tương. Morphine thấm vào mô não chậm
hơn so với các thuốc khác
- Chuyển hóa: Chủ yếu tại gan, thông qua quá trình glucuronide hóa tại vị trí gắn nhóm
–OH thứ 3 hoặc thứ 6. Morphine-3-glucuronide (M3G) không có tính giảm đau, có thể
gây động kinh hoặc nhạy đau (allodynia) trên trẻ em. Morphine-6-glucuronide (M6G)
là chất chuyển hóa chiếm 10% tổng lượng morphine, có tính giảm đau mạnh. Thời
gian bán thải của morphine khoảng 2 – 3giờ, của M6G kéo dài hơn.
- Thải trừ: Thải trừ qua thận dưới dạng M3G với tỷ lệ 90%, rất ít bị thải trừ dưới dạng
nguyên chất. Morphine có chu kỳ gan – ruột nên sau nhiều ngày vẫn thấy chuyển hóa
38
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
trong phân và nước tiểu. Trên người bệnh suy thận, tích tụ M6G có thể gây các tác
dụng phụ như suy hô hấp.
B. Fentanyl
Fentanyl là thuốc nhóm á phiện dạng tổng hợp, mạnh gấp khoảng 100 lần so với morphine.
- Tác dụng nhanh với thời gian tiềm phục từ 3 – 5 phút và thời gian tác dụng 1 – 2 giờ
- Thuốc chỉ dùng tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch
- Khoảng 80% thuốc gắn kết với protein huyết tương và khoảng 40% bị hồng cầu bắt
giữ
- Thuốc phân bố rộng trong cơ thể
- Thuốc được chuyển hóa ở gan và mất hoạt tính, được thải trừ qua nước tiểu (trong đó
10% dưới dạng chưa chuyển hóa).
C. Sufentanil
Sufentanil có tác dụng rất chọn lọc trên thụ thể μ (mạnh hơn 100 lần so với thụ thể δ) nên
có tác dụng giảm đau tốt với nồng độ thuốc thấp trong huyết tương (0,01 – 0,56 ng/ml).
- Thuốc dễ tan trong lipid gấp 2 lần so với fentanyl
- Thuốc có thời gian tiềm phục trung bình khi tiêm tĩnh mạch. Thuốc mạnh hơn
morphine khoảng 1000 lần.
- Thời gian tác dụng của thuốc kéo dài từ 30 phút – 1 giờ
- Thuốc có thể tích phân phối thấp hơn fentanyl
- Thời gian bán thải là 164 phút ở người trưởng thành
Chuyển hóa chủ yếu tại gan và ruột non với các cơ chế chuyển hóa chính là N-dealkyl hóa,
O-demethyl oxy hóa và hydroxyl hóa. Chất chuyển hóa chính là N-phenylpropanamide.
D. Alfentanil
Thuốc có chuyển hóa tương tự sufentanil và các chất chuyển hóa có hoạt tính thấp.
Alfentanil gắn với protein huyết tương nhiều hơn so với fentanyl và ở dạng không ion hóa cao
do có pKa = 6,5 tương đối thấp.
E. Remifentanil
Thuốc có cấu trúc đặc biệt với liên kết ester, cho phép bị thủy phân bởi các enzyme
esterase không đặc hiệu trong máu và mô. Điều này giúp cho thuốc có chuyển hóa nhanh và
nồng độ trong máu giảm rất nhanh ngay khi dừng truyền tĩnh mạch liên tục.
Thuốc được bào chế thành công thức có chứa glycine nên không được sử dụng trong gây
tê trục thần kinh trung ương do glycine là chất trung gian dẫn truyền thần kinh dạng ức chế
gây yếu cơ có hồi phục.
Thuốc được thủy phân thành chất chuyển hóa dạng acid carboxylic GR-90291 có hoạt tính
thấp, được thải trừ qua thận. Quá trình thải trừ thuốc phụ thuộc chức năng thanh thải của thận.
3. Tác dụng của thuốc nhóm á phiện
A. Giảm đau
Tại não, thuốc nhóm á phiện sẽ có tác dụng giảm đau thông qua quá trình ức chế trực tiếp
dẫn truyền thông tin đau hướng tâm từ sừng sau tủy sống và kích hoạt đường kiểm soát đau từ
trung não xuống sừng sau tủy sống thông qua nhân bụng giữa. Nghiên cứu hình ảnh học cho
thấy cơ chế giảm đau là quá trình kích hoạt vùng đai trước vỏ não (rostral anterior cingulate
cortex), thùy đảo, vỏ não thị-trán và thân não. Thụ thể á phiện tại các vùng chất xám quanh
cống não cũng được kích hoạt, ảnh hưởng lên nhân bụng giữa của đường kiểm soát đau.
Tương tác giữa các thụ thể μ và κ tại đường kiểm soát đau này có thể là yếu tố quan trọng
trong điều hòa giảm đau.
Tại tủy sống, ngoài cơ chế thông qua đường kiểm soát đau liên quan đến chất xám quanh
cống não và nhân bụng giữa, morphine còn làm tăng giải phóng 5-HT (serotonin) tại sừng sau
39
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
thông qua kích hoạt các neuron serotonergic tại nhân bụng giữa. Ngoài ra, thuốc nhóm á phiện
còn có tác dụng tại chỗ, gây ức chế tiết glutamate và chất P tại chất keo của tủy sống. Các
nghiên cứu còn đang tìm hiểu thêm cơ chế giảm đau tại tủy sống của thuốc nhóm á phiện
thông qua các thụ thể histaminergic tại chỗ.
Tại mô thần kinh ngoại biên, thuốc á phiện được cho là có tác dụng giảm đau với cơ chế
ngoại biên thông qua tác dụng trên các thụ thể á phiện tại neuron cảm giác nguyên phát.
Tác dụng giảm đau của thuốc á phiện thay đổi theo từng cá nhân người sử dụng. Sự biến
thiên này phụ thuộc vào các yếu tố di truyền và môi trường. Các đặc điểm dược động và dược
lực của thuốc nhóm á phiện cũng thay đổi theo thời gian trong ngày. Các đặc điểm này vẫn
còn là đối tượng của các nghiên cứu về cơ chế dược lý của thuốc nhóm á phiện.
B. Tri giác
Acetylcholine có nguồn gốc từ vùng nền của não trước là yếu tố quan trọng trong duy trì
nhận thức và thức tỉnh. Morphine có thể lảm giảm tiết actetylcholine tại thùy trước trán và đây
có khả năng là cơ chế hóa-thần kinh của việc gây thay đổi tri giác do thuốc nhóm á phiện gây
ra. Tuy nhiên, kinh nghiệm lâm sàng cho thấy rằng gây mê hoàn toàn bằng thuốc nhóm á
phiện là không chắc chắn và khó dự đoán. Mặc dù các thuốc nhóm á phiện dạng đồng vận làm
giảm nồng độ phế nang tối thiểu (minimum alveolar concentration, MAC) của thuốc mê bốc
hơi, tác dụng này có mức trần nên thuốc không thể là một loại thuốc gây mê hoàn hảo và cần
phải kết hợp với 1 loại thuốc mê khác trong gây mê toàn diện.
Bảng 2. Khả năng giảm MAC của thuốc nhóm á phiện
Thuốc Nồng độ huyết tương giúp giảm MAC 50% Độ mạnh ước tính
của isoflurane
Fentanyl 1,67 ng/ml 1
Sufentanil 0,14 ng/ml 12
Alfentanil 28,8 ng/ml 1/16
Remifentanil 1,37 ng/ml 1,2
Các loại thuốc fentanyl, sufentanil, alfentanil và remifentanil khi sử dụng kèm cũng gây
mất tri giác với nồng độ propofol thấp hơn tại vị trí tác dụng. Tuy nhiên, sử dụng remifentanil
truyền liên tục không làm thay đổi liều trung vị của propofol cần thiết để duy trì chỉ số BIS
(BiSpectral Index) thấp hơn 50. Điều này cho thấy giả thuyết là thuốc nhóm á phiện có tác
dụng làm giảm tri giác mà không làm thay đổi BIS.
C. Ảo giác
Thuốc nhóm á phiện có thể có gây ảo giác trên thính giác, thị giác hoặc xúc giác (hiếm
gặp). Cơ chế gây ảo giác của thuốc nhóm á phiện chưa rõ ràng và được cho là có liên quan đến
rối loạn điều hòa dopaminergic. Thụ thể κ có thể là nơi xảy ra tác dụng gây ảo giác. Một cơ
chế khác có khả năng tạo ra ảo giác là sự tích tụ morphine-3-glucuronide, là một chất chuyển
hóa của morphine.
D. Điện não (EEG)
Thuốc nhóm á phiện có thể làm biến đổi EEG sau đây:
- Giảm cường độ sóng β1 tần số cao (13,5 – 20 Hz) và sóng β2 (20 – 30 Hz)
- Giảm đồng bộ giữa sóng β2 vùng trán và chẩm
- Thay đổi tính kết nối của vỏ não chức năng
Điểm đáng lưu ý là thuốc nhóm á phiện có tác dụng trần lên EEG, có nghĩa là khi đạt mức
trần, tăng liều thuốc không làm thay đổi thêm sóng EEG.
E. Lưu lượng máu não và mức chuyển hóa của não
Thuốc nhóm á phiện tác dụng hạn chế lên lưu lượng máu não
40
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Sử dụng thuốc nhóm á phiện đơn thuần hoặc kết hợp với thuốc mê gây co mạch máu
não sẽ ít gây ảnh hưởng hoặc chỉ làm tăng nhẹ lưu lượng máu não
- Tác dụng lên lưu lượng máu não thường do kết hợp giữa thuốc nhóm á phiện và các
loại thuốc mê khác
- Thuốc nhóm á phiện có thể gây kích thích thần kinh hoặc động kinh cục bộ làm gia
tăng chuyển hóa não theo vùng.
F. Áp lực nội sọ
Thuốc nhóm á phiện không làm thay đổi đáng kể áp lực nội sọ. Sử dụng an thần bằng
thuốc nhóm á phiện không làm thay đổi áp lực nội sọ trên người bệnh bị chấn thương sọ não.
Tác dụng làm giảm áp lực nội sọ là kết quả của việc kết hợp thuốc nhóm á phiện với các loại
thuốc an thần khác như midazolam hoặc propofol hơn là tác dụng riêng lẻ của thuốc nhóm á
phiện. Tuy nhiên, thuốc có tác dụng giảm áp lực nội sọ khi sử dụng trong đặt ống nội khí quản
trên người bệnh đã có áp lực nội sọ tăng thông qua cơ chế giảm đáp ứng giao cảm với thủ
thuật soi thanh quản.
G. Tác dụng bảo vệ thần kinh
Các nghiên cứu sinh học cho thấy thuốc nhóm á phiện có tác dụng bảo vệ não, đặc biệt là
vùng não bị thiếu máu nuôi, thông qua một số cơ chế:
- Bảo vệ hàng rào máu não
- Giảm chết tế bào theo chương trình (apoptosis)
- Ức chế viêm
Các tác dụng này thông qua kích hoạt thụ thể δ và κ tại não trên mô hình động vật. Tác
dụng bảo vệ não vẫn còn cần thêm bằng chứng rõ ràng hơn trên người.
H. Cứng cơ
Thuốc nhóm á phiện làm tăng trương lực cơ và có thể gây co cứng cơ. Tình trạng co cứng
cơ phụ thuộc vào các yếu tố như độ tuổi người bệnh, liều lượng, tốc độ tiêm thuốc, sử dụng
N2O và thuốc giãn cơ kèm theo. Cứng cơ có thể gây ra các biến đổi lâm sàng quan trọng:
- Tăng áp lực tĩnh mạch trung tâm
- Tăng áp lực động mạch phổi
- Tăng kháng lực mạch máu phổi
- Giảm độ đàn của phổi
- Giảm dung tích cặn chức năng
- Tăng CO2 máu
- Giảm O2 máu
- Tăng tiêu thụ O2
- Tăng áp lực nội sọ
Cơ chế gây cứng cơ của thuốc nhóm á phiện chưa được hiểu rõ. Các nghiên cứu cho thấy
tác dụng này có thể thông qua hệ lưới, nhân đuôi (caudate nucleus) và hạch nền với quá trình
kích hoạt thụ thể μ trung ương. Kích hoạt thụ thể δ1 và κ1 có tác dụng làm giảm tình trạng này.
Trong thực hành lâm sàng, có thể phòng ngừa, làm giảm hoặc điều trị thành công tình trạng co
cứng cơ với đối vận naloxone hoặc sử dụng liều thấp diazepam hoặc midazolam.
I. Hiện tượng kích thích thần kinh
Hiện tượng kích thích thần kinh (neuroexcitatory phenomena) của thuốc nhóm á phiện
được ghi nhận bao gồm:
- Fentanyl có thể gây ra các hoạt động động kinh ghi nhận trên EEG ở động vật.
- Remifentanil gây ra các hoạt động giống động kinh toàn thể trên đối tượng khỏe mạnh
- Morphine gây hoạt động co cứng – giật cơ khi sử dụng trong khoang ngoài màng cứng
hoặc khoang dưới nhện
41
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Liều lớn fentanyl, sufentanil và alfentanil có thể gây các ổ kích thích thần kinh trên
EEG
Cơ chế của hiện tượng này vẫn chưa được hiểu rõ. Các giả thuyết liên quan đến cơ chế của
hiện tượng kích thích thần kinh bao gồm:
- Kích hoạt chuỗi protein kinase hoạt hóa phân bào
- Tăng chuyển hóa và rối loạn mô bệnh học tại hệ viền (limbic system)
Tăng lưu lượng máu não và chuyển hóa khu trú gây tổn thương neuron và/hoặc chết tế bào.
J. Điều hòa thân nhiệt và lạnh run
Thuốc nhóm á phiện sử dụng trong gây mê có thể làm giảm ngưỡng điều hòa thân nhiệt
tương tự như các thuốc mê bốc hơi mạnh
Remifentanil gây tăng tỷ lệ lạnh run sau gây mê (cơ chế có thể thông qua thụ thể N-
methyl-D-aspartate, NMDA) mà không kèm theo hạ thân nhiệt
Meperidine và tramadol có tính chất chống lạnh run, do làm giảm ngưỡng lạnh run (thông
qua thụ thể κ)
K. Ngứa
Ngoài cơ chế gây tăng histamine của morphine, ngứa do thuốc nhóm á phiện còn có các
đặc điểm sau:
- Thuốc không gây tăng histamine cũng có thể gây ngứa
- Kích hoạt thụ thể μ dạng phân nhóm MOR1D sẽ kích thích phospholipase β3 và tăng
calci nội bào trong neuron dẫn đến cảm giác ngứa
Sử dụng thuốc đồng vận 1 phần (nalbuphine hoặc butorphanol) có thể làm giảm ngứa do
có tính kháng vận lên thụ thể μ nhưng kích thích thụ thể κ.
L. Dung nạp – Tăng đau
Dung nạp thuốc là tình trạng cần liều thuốc lớn hơn để đạt tác dụng mong muốn sau khi sử
dụng thuốc nhóm á phiện lặp lại hoặc kéo dài. Tăng đau (hyperalgesia) do thuốc nhóm á phiện
là tình trạng gia tăng cảm giác đau đột ngột với kích thích do sử dụng thuốc. Đây là những
tình trạng gây thách thức trong việc sử dụng thuốc nhóm á phiện trong thực hành lâm sàng.
Các cơ chế chính được biết đến hiện này gây ra dung nạp thuốc:
- Thụ thể á phiện mất nhạy cảm: Hiện tượng này phụ thuộc quá trình phosphoryl hóa thụ
thể, gây giảm chức năng thụ thể và giảm hiệu quả của thuốc
- Chuyển vị thụ thể á phiện vào bên trong tế bào kèm theo điều hòa-giảm thụ thể (down-
regultation) gây ra giảm mật độ thụ thể trên màng tế bào.
- Thông qua thụ thể glutamate, NMDA và AMPA (α-amino-3-hydroxy-5-methyl-4-
isoxazolepropionic acid) với cơ chế chi tiết chưa rõ ràng.
- Tín hiệu protein kinase gây thay đổi biểu hiện gen
- Kích hoạt thụ thể glucocorticoids trung ương (cơ chế phức tạp và nhiều bước)
- Thông qua hệ thống cholecystokinin
- Kích hoạt tình trạng viêm thần kinh (neuroinflammation)
- Điều hòa tăng chemokine CXCL1.
Tình trạng dung nạp thuốc có thể xảy ra ngay cả khi sử dụng thuốc nhóm á phiện trong
giai đoạn cấp tính.
Hiện tượng tăng đau có thể phân biệt rõ với dung nạp thuốc bằng định nghĩa, nhưng sẽ có
biểu hiện lâm sàng tương tự là cảm giác đau gia tăng kèm theo hậu quả là tăng dần liều thuốc
nhóm á phiện. Tăng đau cũng được xem là một trong các nguyên nhân gây ra dung nạp thuốc.
42
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Hình 1. Biểu đồ tương quan giữa tần suất sử dụng thuốc và tăng đau.
Quá trình tăng đau được cho là thông qua các cơ chế:
- Tăng nhạy cảm của tủy sống với glutamate và chất P
- Thông qua kích hoạt thụ thể NMDA và AMPA (tương tự dung nạp thuốc)
- Kích hoạt các tế bào thần kinh đệm dạng microglia và tương bào (mast cell) gây ra
tăng nhạy cảm thụ thể đau và gây viêm-thần kinh (neuroinflammation) tại hệ thần kinh
trung ương.
Các cơ chế này có thể do các chất chuyển hóa của morphine như morphine-3-glucuronide
(không có tác dụng giảm đau) gây ra. Do đó, việc sử dụng thuốc nhóm á phiện ngay từ lần đầu
tiên cũng đã kích hoạt quá trình gây đau (pronociception), nền tảng của các rối loạn đau như
đau mạn tính.
M. Ức chế kênh natri
Meperidine là thuốc có tác dụng ức chế kênh natri của neuron tương tự như tác dụng của
thuốc tê. Tác dụng phong bế của meperidine đã được ghi nhận khi sử dụng để gây tê tủy sống
trong giai đoạn trước đây. Meperidine không còn được sử dụng để gây tê tủy sống do dạng
bào chế không phù hợp và thuốc có độc tính trên hệ thần kinh trung ương.
Hình 2. Tác dụng phong bế kênh natri của meperidine (MEP) so với lidocaine (LIDO).
43
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
₋ Thuốc nhóm á phiện có thể gây rối loạn chức năng vùng hầu và rối loạn nuốt, gia tăng
nguy cơ hít sặc
B. Suy hô hấp
Thuốc nhóm á phiện có tác dụng phụ gây suy hô hấp phụ thuộc liều lượng thông qua cơ
chế kích hoạt thụ thể μ trực tiếp tại trung tâm hô hấp ở thân não. Thuốc gây ra nhịp thở chậm,
tăng ngưỡng ngưng thở, tăng CO2 cuối kỳ thở ra (giảm thông khí) và giảm kích thích thông
khí khi thiếu O2 mô.
Các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp lên suy hô hấp do thuốc nhóm á phiện:
- Liều cao
- Giấc ngủ
- Người bệnh lớn tuổi
- Các thuốc ức chế thần kinh trung ương như thuốc mê bốc hơi, rượu, barbiturates,
benzodiazepine
- Suy thận (tăng tích tụ morphine-3-glucuronide)
- Tăng thông khí, giảm CO2 máu
- Toan hô hấp
- Giảm thanh thải thuốc do giảm lưu lượng máu gan
- Đỉnh nồng độ thứ phát của thuốc nhóm á phiện do tái phóng thích thuốc từ cơ, phổi,
mô mỡ và ruột
- Tình trạng đau
Naloxone là thuốc sử dụng trong điều trị chuẩn của suy hô hấp do thuốc nhóm á phiện gây
ra. Tuy nhiên, cũng có các báo cáo trường hợp bệnh ghi nhận suy hô hấp đề kháng với
naloxone sau khi sử dụng morphine trong khoang dưới nhện.
Một số biện pháp điều trị suy hô hấp khác được hướng đến trong các nghiên cứu về dược
lý bao gồm:
- Ampakine (đồng vận thụ thể AMPA)
- Kích hoạt thụ thể 5-HT1A
Sử dụng GAL01, chất ức chế kênh kali do calci hoạt hóa tại thể cảnh.
o Fentanyl gây ức chế dẫn truyền trực tiếp thông qua thụ thể á phiện (tăng hơn
nếu người bệnh có dùng thuốc ức chế kênh Ca2+ hoặc ức chế β)
o Tác dụng chống loạn nhịp của naloxone, morphine và levorphanol thông qua cơ
chế trực tiếp trên kênh ion cơ tim
- Thiếu máu cơ tim:
o Tác dụng giống tiền thích nghi cơ tim với thiếu máu cục bộ (ischemic
preconditionning) thông qua thụ thể δ và κ của cơ tim
o Hậu thích nghi (postconditionning) cơ tim với thiếu máu cục bộ thông qua thụ
thể á phiện và phosphatidyl-3-kinase
o Bảo vệ cơ tim thông qua giảm stress oxy hóa và chết tế bào cơ tim do kích hoạt
thụ thể δ1, adenosine A1 và proteine kinase C
o Duy trì tưới máu cơ tim và tỷ số cung – cầu O2 cơ tim với liều cao
- Tuần hoàn mạch vành: Thuốc nhóm á phiện không ảnh hưởng nhiều lên động học của
tuần hoàn mạch vành và chuyển hóa cơ tim.
- Phản xạ tim mạch: Fentanyl có thể gây ức chế phản xạ áp lực với liều cao trên mô hình
nghiên cứu thực nghiệm.
C. Tiết histamine
Morphine gây tiết histamine, làm giãn các tiểu động mạch tận và có tác dụng chronotrope
và inotrope dương. Codeine và meperidine cũng có thể gây tăng tiết histamine thông qua kích
hoạt tương bào với cơ chế nằm ngoài thụ thể á phiện. Các thuốc fentanyl, alfentanil, sufentanil
và remifentanil không làm tăng histamine máu.
D. Cơ chế mạch máu
Thuốc nhóm á phiện có thể có tác dụng trực tiếp lên mạch máu thông qua các cơ chế:
- Kích hoạt thụ thể μ3 trên tế bào nội mô làm tăng sản xuất NO
- Tăng sản xuất prostacycline thông qua kênh Ca2+ phụ thuộc điện thế
- Ức chế kênh Ca2+ type L tại tế bào cơ trơn mạch máu
- Giãn mạch phổi thông qua gắn kết và ức chế trực tiếp thụ thể α1B adrenergic.
45
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Bảng 3. Ảnh hưởng lên các hormone của thuốc nhóm á phiện khi sử dụng trong giai đoạn
cấp và sử dụng kéo dài
Hormone Sử dụng thuốc trong giai đoạn Sử dụng thuốc kéo dài
cấp
GH ↑ Không rõ
Prolactin ↑ ↑/không đổi
TSH ↑ Không rõ/không đổi
ACTH ↓ ↓/không đổi
LH ↓↓ ↓↓
FSH Không đổi Không đổi
Estradiol ↓↓ ↓/không đổi
Testosterone ↓↓ ↓↓
Arginin vasopressin ↑/↓ ↑/↓
Oxytocine ↓ ↓/không đổi
Thông qua các đáp ứng tim mạch và nội tiết, chúng ta có thể tóm tắt các cơ chế liên quan
đến khả năng ổn định tim mạch của thuốc nhóm á phiện trong giai chu phẫu bao gồm:
- Giảm trương lực giao cảm
- Tăng trương lực đối giao cảm (thường làm giảm nhịp tim)
- Ít ảnh hưởng lên co bóp cơ tim
- Chống loạn nhịp
- Bảo vệ cơ tim theo kiểu tiền thích nghi
- Ít ảnh hưởng lên tuần hoàn mạch vành
- Thư giãn cơ trơn mạch máu (trừ morphine)
- Giảm đáp ứng với phẫu thuật thông qua cơ chế thần kinh và trục hạ đồi – tuyến yên –
tuyến thượng thận
46
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Bảng 4. Các tác dụng của thuốc nhóm á phiện lên ống tiêu hóa
Tác dụng dược lý Hiệu ứng lâm sàng
Giảm hoạt động và làm trống dạ dày Giảm ngon miệng, tăng trào ngược dạ dày –
thực quản
Giảm trương lực môn vị Buồn nôn và nôn ói
Giảm tiết enzyme Tiêu hóa ứ trệ; phân cứng và khô
Ức chế co bóp ruột non và đại tràng Giảm hấp thu thuốc
Bụng chướng
Táo bón
Tăng hấp thu nước và điện giải Phân khô và cứng
Tăng co thắt Đau quặn bụng
Tăng trương lực cơ vòng hậu môn Cảm giác đi cầu không hết
B. Gan mật
Đồng vận thụ thể á phiện gây tăng áp lực đường mật và tăng trương lực cơ vòng Oddi. Tuy
nhiên, hiệu ứng lâm sàng thường chỉ ở mức tối thiểu.
Thuốc nhóm á phiện ít ảnh hưởng lên chức năng gan nhưng có tác dụng bảo vệ tổn thương
thiếu máu nuôi – tái tưới máu thông qua thụ thể á phiện với cơ chế có thể liên quan đến
interleukin-18 của gan.
C. Buồn nôn và nôn ói
Sử dụng thuốc nhóm á phiện chu phẫu là yếu tố nguy cơ của buồn nôn và nôn ói sau mổ.
Các thụ thể hóa học tại trung tâm nôn (postrema area) của hành não bị kích hoạt thông qua thụ
thể δ gây buồn nôn và nôn ói.
Phòng ngừa và điều trị buồn nôn và nôn ói sau mổ do thuốc nhóm á phiện có thể thực hiện
với việc sử dụng ondansetron (đối vận thụ thể 5-HT3), dexamethasone, droperidol và truyền
naloxone liên tục với liều thấp.
47
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
o Do tác dụng giảm đau thay đổi theo cá nhân người bệnh nên không có phương
pháp PCA tối ưu
o Cần phải có phác đồ cụ thể tại cơ sở y tế thực hiện
o Cần theo dõi dấu hiệu sinh tồn, điểm an thần, điểm đau khi nghỉ và khi di
chuyển
o Nhân viên y tế thực hiện và theo dõi phải được huấn luyện
o Thông tin và giải thích cho người bệnh và người chăm sóc là rất quan trọng[19]
- Giảm đau ngoài màng cứng
o Vị trí tác dụng là tại tủy sống (phân bố vào dịch não tủy), rễ thần kinh gai sống
(tại chỗ) và trên tủy sống (tái phân bố vào hệ thần kinh trung ương sau khi hấp
thu vào máu)
o Thuốc giúp giảm đau mạnh mà không phong bế giao cảm hoặc vận động
o Thuốc càng dễ tan trong lipid càng có khuynh hướng lan tốt về phía đầu trong
khoang ngoài màng cứng và dễ khuếch tán vào dịch não tủy (giúp rút ngắn thời
gian tiềm phục)
o Do dễ hấp thu vào máu nên có thể gây tác dụng phụ của thuốc nhóm á phiện,
đặc biệt là suy hô hấp.
Bảng 5. Các loại thuốc nhóm á phiện sử dụng trong gây tê ngoài màng cứng
Thuốc Liều trung bình Thời gian xuất hiện tác Thời gian giảm đau
dụng tối đa
Morphine 100 μg/kg 60 – 180 phút 12 – 23 giờ
Fentanyl 1,5 – 2 μg/kg 15 – 30 phút 4 – 6 giờ
Sufentanil 0,2 μg/kg 15 phút 4 – 6 giờ
Alfentanil 15 μg/kg 15 phút 1 – 2giờ
Meperidine 2000 μg/kg 15 – 30 phút 4 – 6 giờ
Buprenorphine 3,3 – 6,6 μg/kg 60 phút 12 giờ
2. An thần
- Người bệnh tại Hồi sức thường xuyên bị lo lắng, kích động do nhiều yếu tố bệnh lý
gây stress và gây đau
- Mục đích của an thần tại Hồi sức
o Giảm lo âu
o Giảm đau
o Cải thiện đáp ứng với ống nội khí quản
o Cải thiện độ đàn của hô hấp khi thở máy (giảm chống máy)
49
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Morphine, fentanyl và sufentanil thường được sử dụng trong an thần tại Hồi sức
- Thuốc nhóm á phiện thường được dùng kết hợp với nhóm benzodiazepine hoặc
propofol truyền tĩnh mạch liên tục
50
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Bảng 6. Liều dùng các thuốc nhóm á phiện trong gây mê tĩnh mạch hoàn toàn
Thuốc Liều bolus (μg/kg) Liều duy trì Liều bổ sung (ngắt
quãng)
Alfentanil 25 – 100 0,5 – 2 μg/kg/phút 5 – 10 μg/kg
Sufentanil 0,25 – 2 0,5 – 1,5 μg/kg/giờ 2,5 – 10 μg
Fentanyl 4 – 20 2 – 10 μg/kg/giờ 25 – 100 μg
Remifentanil 1–2 0,1 – 1 μg/kg/phút 0,1 – 1 μg/kg
51
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
52
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
MỤC TIÊU
1. Trình bày về đặc tính dược lý của thuốc paracetamol và thuốc kháng viêm không
steroids
NỘI DUNG
1. PARACETAMOL
Paracetamol (N-acetyl-M-aminophenol) là thuốc không có tác dụng trên cyclo-oxygenase,
tuy nhiên một số tác giả vẫn xếp thuốc này vào nhóm NSAID (non-steroidal anti-
inflammatory drug, kháng viêm không steroids) do có đặc tính giảm đau và hạ sốt. Cơ chế tác
dụng được cho là thông qua ức chế tổng hợp prostaglandin do ức chế enzyme COX-3 (biến thể
của COX-1).
1.1 Dược động
1.1.1 Hấp thu
Paracetamol được hấp thu rất tốt qua ruột non và có độ sinh khả dụng 70 – 90%. Hấp thu
thuốc ở trẻ em chậm hơn người lớn. Không giống với các thuốc NSAIDs khác, paracetamol ít
gây kích thích dạ dày, ít gắn với protein hơn và có thể tích phân phối lớn hơn. Thuốc qua nhau
thai.
1.1.2 Chuyển hóa
Chuyển hóa tại gan thành chất chuyển hóa không hoạt tính, chủ yếu qua gắn kết với
glucoronide (ngoài ra còn gắn kết với sulfate và cysteine). Một ít thuốc < 5% thải qua phân và
nước tiểu. Một lượng nhỏ chất chuyển hóa có độc tính là N-acetyl-amino-benzoquinone imine,
thường được kết hợp với glutathion để thành chất không độc. Nếu thiếu glutathion, chất
chuyển hóa này bị tích tụ và gắn với đại phân tử trong tế bào gan gây hoại tử.
Thời gian bán thải là 2-3 giờ (2-5 giờ ở trẻ sơ sinh). Với liều độc gan, sự tổng hợp
glucuronide của gan bị hư hại nên thời gian bán thải tăng tỉ lệ với mức độ hư hại gan.
53
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
54
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Các thuốc NSAID có tác dụng giảm đau do viêm hay do các chất trung gian gây viêm
trong chấn thương, nhiễm trùng, phản ứng miễn dịch hay phóng thích chất trung gian thần
kinh.
a. Cơ chế tác dụng
Các thuốc NSAID ức chế enzyme cyclo-oxygenase (COX), từ đó ngăn chặn sản xuất cà
prostaglandin (bao gồm prostacyclin) và thromboxanes từ màng phospholipids (xem Hình 1).
Thromboxanes do tiểu cầu tiết ra khi bị ức chế do tiếp xúc với adenosine, collagen hoặc
adrenaline, gây đông máu do co mạch và kết tập tiểu cầu. Prostacyclin do tế bào nội mô tiết ra
có tác dụng ngược lại, gây giãn mạch và ức chế kết tập tiểu cầu.
Aspirin liều thấp phòng ngừa thuyên tắc mạch máu do ức chế chọn lọc quá trình sản xuất
thromboxane của tiểu cầu. Các thuốc NSAID khác ức chế COX có hồi phục, gây giảm PGE2
và PGF2 (đặc tính kháng viêm) và giảm thromboxane (đặc tính chống kết tập và kết dính tiểu
cầu). Giảm tổng hợp prostaglandin tại tế bào niêm mạc dạ dày gây ra loét niêm mạc. Có hai
loại enzyme COX là COX-1 và COX-2. Phần lớn các thuốc NSAID ức chế đồng thời COX-1
và COX-2. Ức chế COX -1 gây ra các tác dụng phụ của NSAID. Các thuốc ức chế COX-2
được coi là ít tác dụng phụ trên dạ dày, thận, mạch máu
Các thuốc NSAID có tác dụng giảm đau do viêm hay do các chất trung gian gây viêm
trong chấn thương, nhiễm trùng, phản ứng miễn dịch hay phóng thích chất trung gian thần
kinh.
55
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
2.3.2 Thận
Quá trình sản xuất prostaglandin tại thận là rất quan trọng để duy trì tưới máu thận tốt khi
nồng độ các chất co mạch (renin, angiotensin, noradrenaline) trong máu đang ở mức cao.
Aspirin và các thuốc NSAID khác có thể làm rối loạn cơ chế sinh lý này do làm giảm sản xuất,
gây giảm tưới máu thận, có thể dẫn đến suy thận cấp (đặc biệt trong các trường hợp mất máu
cấp, tụt huyết áp, xơ gan, suy tim, hội chứng thận hư, viêm cầu thận cấp hoặc đang sử dụng
thuốc lợi tiểu kèm theo).
Nếu sử dụng thuốc NSAID kéo dài, có thể gây hoại tử nhú thận và xơ hóa mô kẽ thận, gây
bệnh thận mạn do thuốc.
NSAID ức chế co thắt tử cung, làm chuyển dạ kéo dài. Ở đàn ông, nồng độ prostaglandine
trong dịch túi tinh tương ứng với khả năng sinh con.
2.3.8 Ống động mạch
PGE2 là chất dãn ống động mạch. Indomethacine gây đóng sớm ống động mạch, đôi khi
được dùng cho trẻ thiếu tháng.
Bảng 1. Các dữ liệu lâm sàng và dược động học của thuốc NSAID
Thuốc Liều tối đa mỗi ngày Thời gian bán thải Gắn kết protein Loét tiêu hóa trên
(giờ) (%)
Aspirin 4g Biến đổi 85 +++
Ibuprofen 1,2/2,4g 2 99 ++/++++
Naproxen 1g 12 – 17 99 ++++
Ketorolac 40mg 5 99 ++++
Diclofenac 150mg 1–2 99 ++
Tenoxicam 20mg 72 99 +
Meloxicam 15mg 20 99 +
Celecoxib 400mg 11 97 +
Etoricoxib 120mg 22 92 +
Parecoxib 80mg 22 phút 98 +
58
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Khoa Gây mê hồi sức là một đơn vị được tổ chức và điều hành rõ ràng, liên kết chặt chẽ
với các đơn vị khác của bệnh viện. Về mặt nhân sự, khoa bao gồm tất cả các thành viên có vai
trò cung ứng quá trình chăm sóc về GMHS cho người bệnh ngoại khoa, sản khoa và các quá
trình chẩn đoán và điều trị khác.
I. CƠ CẤU TỔ CHỨC
Khoa GMHS hoàn chỉnh gồm các bộ phận sau
- Hành chính
- Khám trước gây mê
- Phẫu thuật
- Hồi tỉnh
- Hồi sức ngoại khoa
- Chống đau
Cơ cấu tổ chức của khoa GMHS được qui định rõ trong thông tư số 13/2012/TT-BYT ban
hành ngày 20/8/2012.
II. CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA KHOA GMHS
1. Chức năng:
Khoa gây mê - hồi sức là khoa lâm sàng, có chức năng thực hiện công tác gây
mê - hồi sức trước, trong, sau phẫu thuật và một số thủ thuật đối với người bệnh theo đúng quy
định chuyên môn kỹ thuật được quy định tại Thông tư này.
2. Nhiệm vụ:
- Thực hiện quy trình chuyên môn gây mê - hồi sức đã được người có thẩm quyền phê
duyệt;
- Đào tạo, tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học, chỉ đạo tuyến, hợp tác quốc tế về lĩnh
vực gây mê - hồi sức;
- Tham gia quản lý kinh tế y tế trong đơn vị;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do người đứng đầu cơ sở khám, chữa bệnh phân công
III. NHIỆM VỤ CỦA CÁC BỘ PHẬN TRONG KHOA GÂY MÊ HỒI SỨC
1. Hành chính:
59
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Theo dõi, thống kê, tổng hợp, báo cáo về các hoạt động chuyên môn;
Theo dõi, thống kê, tổng hợp, báo cáo về cấp phát, sử dụng trang thiết bị,
vật tư tiêu hao, thuốc và hóa chất;
- Theo dõi nhân lực và các công tác hành chính khác tại khoa.
3. Phẫu thuật:
- Chuẩn bị nhân lực, bàn phẫu thuật, trang thiết bị, thuốc, vật tư y tế tiêu hao
đầy đủ và sẵn sàng để thực hiện phẫu thuật, thủ thuật cho người bệnh;
- Tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ bệnh án, tình trạng người bệnh và các điều kiện
chuẩn bị bắt buộc để bảo đảm đúng người bệnh và xác định đúng vị trí giải phẫu cần phẫu
thuật, thủ thuật;
- Thực hiện các phương pháp gây mê - hồi sức phù hợp với phẫu thuật, thủ
thuật với sự tham gia của bác sĩ gây mê - hồi sức và các điều dưỡng viên gây mê - hồi sức,
điều dưỡng viên bộ phận phẫu thuật và các nhân viên khác theo yêu cầu của bác sĩ gây mê
- hồi sức;
- Thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn theo quy định.
4. Hồi tỉnh:
- Tiếp nhận và đánh giá tình trạng của người bệnh;
- Xử trí, điều trị tích cực để giúp người bệnh mau chóng hồi tỉnh;
- Điều trị chống đau sau phẫu thuật, thủ thuật;
- Theo dõi, phát hiện, xử trí biến chứng, bất thường nếu có đối với
người bệnh
- Đánh giá tình trạng người bệnh để chuyển về bộ phận hồi sức ngoại khoa
hoặc chuyển đến các khoa liên quan khác.
60
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Đánh giá tình trạng người bệnh để chuyển về khoa lâm sàng hoặc bộ phận
khác hoặc chuyển viện, xuất viện.
6. Chống đau:
- Khám, tư vấn, xử trí chống đau cho người bệnh trước phẫu thuật, sau phẫu
thuật và các trường hợp đau cấp và mạn tính sau mổ khác;
- Trước khi thực hiện kỹ thuật chống đau phải thông báo, giải thích cho người bệnh hoặc
người đại diện hợp pháp của người bệnh về kỹ thuật, phương pháp chống đau sẽ thực hiện;
- Theo dõi, xử trí các biến chứng, tác dụng không mong muốn nếu có của
phương pháp, kỹ thuật chống đau.
7. Ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ quy định nêu trên, các bộ phận của
khoa gây mê - hồi sức phải thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công
của trưởng khoa, ví dụ:
- Tham gia xử trí đau mạn tính phối hợp cùng nghiều chuyên khoa khác.
- Tham gia y học cấp cứu: trước viện, trong viện (Khoa tiếp nhận cấp cứu) tùy theo loại cơ
sở y tế.
- Tham gia chủ động vào an toàn trang thiết bị, an toàn truyền máu, vệ sinh bệnh viện.
- Tham gia chủ động vào các công việc đánh giá và lưu trữ số liệu.
- Xác lập chiến lược quản lý nguy cơ (ghi nhận tỷ lệ biến chứng, định ra các phác đồ xử trí).
- Đào tạo (lý thuyết và thực hành):
o Sinh viên y khoa (gây mê, hồi sức, y học cấp cứu).
o Bác sĩ nội trú, chuyên khoa (5 năm ở Pháp đối với Gây mê hồi sức).
o Điều dưỡng Gây mê hồi sức.
o Các chứng chỉ GMHS trong đào tạo sau đại học.
- Nghiên cứu khoa học: lâm sàng và cơ bản.
61
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Chống đau: tối thiểu gồm 01 (một) bác sĩ gây mê - hồi sức, điều dưỡng viên (số lượng
điều dưỡng tùy thuộc vào số giường bệnh, tỷ lệ 01 (một) (điều dưỡng viên phụ trách 02
giường bệnh) và 01 (một) hộ lý.
- Các chức danh trên có thể làm việc kiêm nhiệm ở các bộ phận khác nhau tùy
thuộc nhân lực thực tế của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhưng phải phù hợp với chứng
chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.
62
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
63
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
64
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Phòng mổ (khu phẫu thuật) là một trong các bộ phận cấu thành khoa Gây mê hồi sức được
qui định rõ trong Thông tư 13/2012/TT-BYT ban hành ngày 20/8/2012.
I. NHIỆM VỤ CỦA PHÒNG MỔ
Chuẩn bị nhân lực, bàn phẫu thuật, trang thiết bị, thuốc, vật tư y tế tiêu hao đầy đủ và
sẵn sàng để thực hiện phẫu thuật, thủ thuật cho người bệnh;
Tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ bệnh án, tình trạng người bệnh và các điều kiện chuẩn bị bắt
buộc để bảo đảm đúng người bệnh và xác định đúng vị trí giải phẫu cần phẫu thuật, thủ
thuật;
Thực hiện các phương pháp gây mê - hồi sức phù hợp với phẫu thuật, thủ thuật với sự
tham gia của bác sĩ gây mê - hồi sức và các điều dưỡng viên gây mê - hồi sức, điều
dưỡng viên bộ phận phẫu thuật và các nhân viên khác theo yêu cầu của bác sĩ gây mê -
hồi sức;
Thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn theo quy định.
65
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
66
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Chịu trách nhiệm về gây mê - hồi sức cho đến khi người bệnh hết tác dụng của phương
pháp gây mê và của thuốc an thần, gây mê, gây tê. Chịu trách nhiệm về y lệnh chuyển
người bệnh ra khỏi phòng mổ, từ bộ phận hồi tỉnh chuyển về bộ phận hồi sức ngoại khoa,
khoa phòng khác hay xuất viện. Khi người bệnh có nguy cơ cao (tuần hoàn không ổn
định, suy hô hấp, đang hỗ trợ hô hấp qua ống nội khí quản hay qua ống mở khí quản,
đang dùng thuốc vận mạch hoặc tình trạng nặngkhác) phải bố trí nhân lực có đủ trình độ
chuyên môn phối hợp vận chuyển người bệnhđể kịp thời xử trí.
67
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Các trang thiết bị phục vụ cho nhu cầu của khu phòng mổ như xe đẩy, dụng cụ dành cho
phòng mổ phải giữ trong phòng mổ. Các loại xe này cũng được phân chia thành xe “sạch” để
chở dụng cụ sạch và xe “bẩn” để chở rác y tế, dụng cụ dơ.
1. Khu nhân viên thay y phục
Bao gồm phòng thay quần áo, tủ áo, phòng vệ sinh, bồn rửa tay, gương để kiểm soát trang
phục, bồn rửa tay/thiết bị phục vụ rửa tay nhanh trước khi vào phòng. Mọi nhân viên khi rời
khu phòng mổ phải để lại các y phục đã mặc trong phòng mổ để tránh lan truyền nhiễm trùng
ra khu vực ngoài.
2. Phòng rửa dụng cụ dơ
Mục đích: rửa, khử khuẩn, tiệt khuẩn dụng cụ y khoa của phòng mổ.
Rộng, có bồn rửa, bàn xếp, lau khô dụng cụ.
Bồn rửa sâu để rửa dễ dàng, tránh văng nước bẩn ra ngoài.
Ống thoát nước thải vào nơi chứa nước thải y tế.
Có lối thông trực tiếp ra phòng chứa rác để tránh rác y tế đi qua vùng sạch.
68
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Sàn xây bằng đá mài dễ chùi rửa. Không dùng sàn gỗ hay xi măng.
Trần phải đảm bảo không rớt bụi xuống, thường được sơn dầu 3 lớp.
Cửa được làm dạng hai cánh, được bọc nhôm ở các cạnh để bảo vệ chống va đập.
69
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Phòng hồi tỉnh là một bộ phận của khoa Gây mê hồi sức, có chức năng nhiệm vụ được qui
định rõ trong Thông tư 13/2012/TT-BYT ban hành ngày 20/8/2012.
Phòng hồi tỉnh, còn gọi là đơn vị chăm sóc sau gây mê (postanesthesia care unit – PACU), là
đơn vị bắt buộc phải có tại bất kỳ cơ sở y tế nào thực hiện vô cảm cho người bệnh trong phẫu
thuật, thủ thuật.
1. MỤC TIÊU CỦA CHĂM SÓC TẠI PHÒNG HỒI TỈNH
Kiểm soát các tác dụng tồn dư của thuốc sử dụng trong gây mê/gây tê và quá trình đào thải
thuốc đó
Phát hiện và chăm sóc/xử trí các biến chứng có liên quan đến phẫu thuật, thủ thuật hoặc
phương pháp vô cảm (tùy theo tình trạng của người bệnh).
Quá trình theo dõi này bắt đầu từ phòng mổ, ngay từ cuối phẫu thuật, thủ thuật và gây mê/gây
tê, không bị gián đoạn trong quá trình vận chuyển người bệnh. Quá trình này sẽ kéo dài cho
đến khi người bệnh phục hồi và duy trì ổn định chức năng hô hấp, tuần hoàn và thần kinh.
Nhiệm vụ của Phòng hồi tỉnh theo Thông tư 13/2012/TT-BYT:
- Tiếp nhận và đánh giá tình trạng của người bệnh;
- Xử trí, điều trị tích cực để giúp người bệnh mau chóng hồi tỉnh;
- Điều trị chống đau sau phẫu thuật, thủ thuật;
- Theo dõi, phát hiện, xử trí biến chứng, bất thường nếu có đối với
người bệnh;
- Đánh giá tình trạng người bệnh để chuyển về bộ phận hồi sức ngoại khoa
hoặc chuyển đến các khoa liên quan khác.
.
2. TỔ CHỨC PHÒNG HỒI TỈNH
- Nhân sự: Tối thiểu gồm 01 (một) bác sỹ gây mê - hồi sức, điều dưỡng viên (số lượng điều
dưỡng viên tùy thuộc vào số giường hồi tỉnh với tỷ lệ 02 (hai) điều dưỡng viên phụ trách
05 giường bệnh) và 01 (một) hộ lý.
- Bộ phận hồi tỉnh được bố trí liền kề với bộ phận phẫu thuật, có số giường bệnh tối thiểu
bằng 1,5 lần số bàn phẫu thuật
- Trang thiết bị y tế của phòng hồi tỉnh
o Khí y tế (oxy, khí nén);
o Máy hút;
70
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
71
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
72
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tỷ lệ bí tiểu tại phòng hồi tỉnh dao động từ 5 – 70% trên người bệnh không có đặt ống thông
tiểu. Bí tiểu xảy ra khi xuất hiện cầu bang quang trên 600ml (định nghĩa qua đo đạc trên siêu
âm kiểm tra) mà không có khả năng tự đi tiểu. Các nguyên nhân có thể gặp trong bí tiểu:
- Gây tê trục thần kinh trung ương
- Tiền căn bệnh lý tuyến tiền liệt
- Phẫu thuật vùng tầng sinh môn
- Phẫu thuật vùng bẹn
Một số yếu tố nguy cơ của bí tiểu bao gồm tuổi > 50 và truyền dịch chu phẫu ≥ 750ml. Một số
trường hợp cần đặt thông tiểu nhằm tránh cầu bàng quang quá to có thể ảnh hưởng lên chức
năng bang quang.
3.7. Chậm tỉnh mê – kích động
Quá trình chậm tỉnh mê có thể do các nguyên nhân:
- An thần quá mức
- Đột quị não (tai biến mạch máu não)
- Động kinh
- Tác dụng tồn dư của các thuốc mê (benzodiazepine tác dụng dài)
Người bệnh cần được thăm khám và đánh giá các yếu tố đi kèm như thân nhiệt, tình trạng thể
tích tuần hoàn để xử trí phù hợp.
Kích động tại phòng hồi tỉnh thường gặp ở trẻ em hơn người lớn, và có nguồn gốc do đau,
sang chấn phẫu thuật, tự rút ống nội khí quản khi chưa tỉnh mê hoàn toàn…
4. THEO DÕI TỐI THIỂU Ở PHÒNG HỒI TỈNH
ECG trên monitor.
Huyết áp không xâm lấn.
SpO2.
Tần số thở.
Thân nhiệt.
Đánh giá đau
Máy đo độ dãn cơ.
(Xem thêm bài “CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH SAU GÂY MÊ VÀ PHẪU THUẬT”
5. NHIỆM VỤ CỦA BÁC SĨ GMHS TẠI PHÒNG HỒI TỈNH
- Tiếp nhận và đánh giá tình trạng người bệnh vừa chuyển đến để có chỉ định
phù hợp;
- Thực hiện các kỹ thuật, phương pháp chống đau cho người bệnh;
- Theo dõi, phát hiện, xử trí biến chứng và bất thường đối với người bệnh;
- Chỉ đạo điều dưỡng viên phòng hồi tỉnh thực hiện các y lệnh điều trị và chăm
sóc người bệnh;
- Xác định người bệnh đủ điều kiện để ra quyết định chuyển về bộ phận hồi
sức ngoại khoa, khoa nội trú, điều trị ngoại trú hoặc xuất viện;
73
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Phối hợp cùng bác sỹ khác để xử trí người bệnh nặng cần hồi sức lưu lại bộ
phận hồi tỉnh.
6. TIÊU CHUẨN RỜI KHỎI PHÒNG HỒI TỈNH
A. Bảng điểm Aldrete
5 tiêu chuẩn cho điểm tử 0 đến 2: vận động, hô hấp, huyết áp, tri giác, màu sắc da niêm.
Điểm = 10: có thể rời khỏi phòng hồi tỉnh.
Bảng điểm Aldrete:
74
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Nhiều 0
.
75
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
KHÁM TIỀN MÊ
CHUẨN BỊ NGƯỜI BỆNH TRƯỚC MỔ
MỤC TIÊU:
1. Nêu mục đích của khám tiền mê
2. Phân tích nguy cơ tai biến tim mạch/hô hấp/thuyên tắc sau mổ
3. Thiết lập được kế hoạch GMHS trong thực hành lâm sàng
I. ĐẠI CƯƠNG:
Thăm khám và đánh giá người bệnh trước phẫu thuật (còn gọi là khám tiền mê) là công
việc quan trọng và mang tính pháp lý trong thực hành lâm sàng của người bác sĩ GMHS, có
vai trò rất quan trọng trong đảm bảo an toàn trong GMHS.
Khám tiền mê giúp bác sĩ GMHS nắm được các vấn đề sức khỏe của người bệnh, từ đó có
chiến lược và kế hoạch GMHS phù hợp. Kết quả khám tiền mê phải được ghi chú rõ ràng dễ
hiểu vào bảng mẫu khám tiền mê.
Mục đích của khám tiền mê:
- Đánh giá tình trạng người bệnh trước phẫu thuật
- Tình trạng bệnh lý kèm theo phương án chăm sóc và điều trị chu phẫu
- Đánh giá nguy cơ liên quan phẫu thuật – cơ địa người bệnh – phương pháp vô
cảm
- Chuẩn bị người bệnh
- Lập kế hoạch GMHS phù hợp
- Giải thích kỹ với người bệnh và/hoặc thân nhân
1. Tiền sử:
Tiền sử bệnh lý nội khoa:
- Các dấu hiệu, triệu chứng
- Độ nặng, giai đoạn của bệnh
- Quá trình điều trị
- Đáp ứng với điều trị
76
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Người bệnh có tiền sử bệnh lý hô hấp (COPD, hen phế quản…) có nguy cơ cao gặp
các tai biến hô hấp chu phẫu.
- Các phương pháp vô cảm, phẫu thuật, giảm đau đều có thể tác động lên hô hấp, gây ức
chế hô hấp, xẹp phổi, ứ đọng đàm, suy hô hấp …
- Người bệnh hen phế quản có nguy cơ co thắt phế quản do kích thích khi thực hiện vô
cảm.
C. Tiền sử bệnh lý thần kinh – cơ
- Cần tìm dấu hiệu tăng áp lực nội sọ nếu có các tổn thương, khối choán chỗ nội sọ
- Đánh giá tiền sử đột quị não (tai biến mạch máu não), di chứng thần kinh, điều trị hiện
tại và đáp ứng điều trị.
- Tiền sử co giật/động kinh và các thuốc đang sử dụng
- Tiền sử tổn thương tủy sống
- Bệnh lý nhược cơ có thể gây đáp ứng bất thường với thuốc giãn cơ.
D. Tiền sử bệnh lý nội tiết
- Tiền sử đái tháo đường cần được đánh giá kỹ về phân loại bệnh, tổn thương các cơ
quan đích, điều trị, kiểm soát đường huyết
- Tiền sử cường giáp cần được điều trị ổn định trước phẫu thuật (trừ phẫu thuật cấp cứu
với mức độ khẩn cấp quá cao)
3. Tiền sử dị ứng:
Các tình trạng dị ứng cần được đánh giá và xử trí theo Hướng dẫn khai thác tiền sử dị ứng,
Phụ lục VI, Thông tư 51/2017/TT-BYT, ban hành ngày 29/12/2017.
4. Tiền sử GMHS:
Nếu người bệnh đã trải qua phẫu thuật – GMHS trước đó, cần tìm hiểu kỹ các tai biến,
biến chứng và khó khăn trong GMHS:
- Dị ứng, phản vệ
- Buồn nôn/nôn ói sau mổ
- Chảy máu
- Đặt ống nội khí quản khó
- Đau đầu, đau lưng sau gây tê trục thần kinh trung ương
- Đau họng, khàn tiếng
- Chậm tỉnh mê
- Tai biến, biến chứng tim mạch/hô hấp/thần kinh…
6. Thói quen
- Hút thuốc lá có thể gây tăng tiết, co thắt phế quản nhỏ. Người hút thuốc nên ngừng hút
thuốc trong thời gian 8 tuần trước phẫu thuật 9 (nếu được), tuy nhiên, ngừng hút thuốc
chỉ 24 giờ trước phẫu thuật cũng có cải thiện chức năng tim mạch và nồng độ
carboxyhemoglobine
- Nghiện rượu là tình trạng cần phải đánh giá kỹ về dinh dưỡng, chuyển hóa, chức năng
gan, thận, tim mạch
- Người bệnh lệ thuộc thuốc nhóm á phiện thường cần liều thuốc cao hơn trong vô cảm
và giảm đau sau mổ
- Nguy cơ rối loạn tâm thần cấp tính chu phẫu với người bệnh sử dụng các loại ma túy
tổng hợp
78
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Một số yếu tố có khả năng đặt nội khí quản khó khác:
o Hạn chế vận động cột sống cổ
o Khối u vùng cổ, hầu họng
o Béo phì, cổ ngắn
- Vùng gây tê có sẹo, dị dạng, nhiễm trùng, mực xăm
- Tổn thương thần kinh ảnh hưởng đến chức năng các vùng: mắt nhắm không kín,
miệng méo, nuốt khó, nuốt sặc, giảm phản xạ ho, yếu liệt chi…
79
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Bảng 1. Nguy cơ biến chứng tim mạch sau mổ theo loại phẫu thuật
80
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
1 điểm Tiền căn đột quị não dạng thiếu máu cục bộ hay cơn thoáng 1 điểm
thiếu máu não
Chúng ta có thể dự đoán tỷ lệ biến chứng tim mạch theo thang đểm Lee nêu trên
ĐIỂM (SỐ LƯỢNG YẾU NHÓM NGUY CƠ NGUY CƠ BIẾN CHỨNG TIM
TỐ NGUY CƠ) MẠCH NẶNG
0 Nhóm I 0,4%
1 Nhóm II 0,9%
2 Nhóm III 7%
Trên 3 Nhóm IV 11%
81
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Ngoài ra, chúng ta có thể đánh giá nguy cơ tim mạch của người bệnh thông qua khả năng gắng sức
hàng ngày của họ (thang điểm Dukes)
Bảng 4. Nguy cơ tim mạch theo mức độ gắng sức
Khả năng thể lực METs VO2 (tiêu Hoạt động thể lực có thể Nguy cơ phẫu
(thang Dukes) (Metabolic thụ Oxy) thực hiện không triệu thuật ước tính
EquivalenTs) Ước tính chứng
(ml/kg/ph)
Hoàn hảo >10 >35 Bơi lội THẤP
Tennis đơn
Trượt tuyết
Điền kinh
Bóng rổ
Rất tốt – Tốt 7 – 10 24,5 – 35 Tennis đôi, bóng đá
Khiêu vũ
Sửa chữa nhà
Chạy quãng ngắn
Leo lên ngọn đồi
Leo lên trên 2 lầu
Đi nhanh trên đường
phẳng
TRUNG BÌNH 4–7 14 – 24,5 Leo 2 lầu
Dọn dẹp nhà
Thấp <4 <14 Đi trên đường thẳng 3 – Trung bình – cao
5km/giờ
Đi lại trong nhà
Tự vệ sinh, thay đồ, ăn
uống
Không đánh giá ? ?
được
82
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
83
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
ĐIỂM TỶ LỆ DỰ PHÒNG
0 10% Không
1 21% Không
84
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
85
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
86
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
87
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
I. ĐẠI CƯƠNG
Vô cảm (anaesthesia) là từ có nguồn gốc tiếng Hy Lạp, có nghĩa là không còn cảm giác, là
phương pháp áp dụng tác dụng tạm thời và có thể đảo ngược của thuốc lên cơ thể để ngăn
không cho người bệnh có cảm giác đau cho phẫu thuật tại một phần hoặc toàn bộ cơ thể.
Cùng với sự phát triển của y học hiện đại, chuyên khoa GMHS đã ứng dụng nhiều phương
pháp vô cảm tiên tiến vừa nhằm mục đích tạo thuận lợi cho cuộc phẫu thuật, vừa đảm bảo chất
lượng chăm sóc, điều trị và an toàn cho người bệnh.
Vô cảm = mất cảm giác ± mất ý thức ± giãn cơ + an toàn.
88
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
o Có thể kéo dài thời gian tác dụng với catheter quanh thần kinh
- Nhược điểm:
o Thời gian tiềm phục lâu
o Có thể phong bế không hoàn toàn
- Chỉ định:
o Phẫu thuật vùng chi trên
o Phẫu thuật vùng chi dưới
o Giảm đau sau phẫu thuật ngực, bụng, chi trên và chi dưới
- Tai biến, biến chứng:
o Ngộ độc thuốc tê
o Một số biến chứng chuyên biệt theo vị trí gây tê (hội chứng Claude – Bernard –
Horner trong gây tê gian cơ bậc thang…)
o Tổn thương thần kinh do sang chấn hoặc độc tính tại chỗ của thuốc tê
92
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
I. ĐẠI CƯƠNG
Gây mê là một trong các qui trình thực hành y khoa có tính an toàn cao nhất nhờ các nỗ
lực đáng kể được thực hiện nhằm làm giảm tai biến – biến chứng và tử vong cho người bệnh.
Chiến lược chăm sóc GMHS được đặc biệt chú ý hướng đến việc đảm bảo an toàn cho người
bệnh. Viện Y khoa (Institutes of Medicine) của Hoa Kỳ, nay là Việc Hàn lâm Quốc gia về
Khoa học (National Academies of Science), ghi nhận tỷ lệ tử vong liên quan đến gây mê đã
giảm từ 2/10,000 xuống còn 1/200,000 trên người khỏe mạnh.
Các tai biến và biến chứng trong gây mê rất đa dạng và có thể xảy ra trong bất kỳ giai đoạn
nào của gây mê. Việc thăm khám tiền mê, tiên lượng, có kế hoạch GMHS cụ thể và chi tiết,
theo dõi và xử trí kịp thời trong gây mê giúp làm giảm tỷ lệ và hậu quả của tai biến – biến
chứng, đảm bảo an toàn cho người bệnh.
93
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Khi xảy ra tình trạng giảm oxy máu, còn đánh giá ngay lập tức các tình trạng và nguyên
nhân sau:
- Hỗn hợp khí cung cấp gây giảm oxy
o Điều chỉnh lưu lượng khí không phù hợp
o Mất oxy nguồn (hệ thống trung tâm hoặc bình oxy)
o Lỗi kỹ thuật của máy gây mê
o Hiệu ứng khí thứ 2
95
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Xử trí giảm oxy máu phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra tình trạng này. Một số nguyên tắc
xử trí ngay khi phát hiện tình trạng giảm oxy máu:
- Bộc lộ người bệnh (lồng ngực), kiểm tra tất cả hệ thống ống nối của máy gây mê và
đường thở
- Cung cấp oxy 100% qua bóp bóng (ambu) bằng tay với 3 – 4 nhịp thở kéo dài (có thể
giúp huy động các phế nang đang xẹp)
- Nếu không cải thiện, kiểm tra oxy trung tâm và thông khí với bình oxy dự trữ (hoặc
nếu nghi ngờ, thông khí với khí trời FiO2 = 21%)
- Kiểm tra vị trí ống NKQ và điều chỉnh
- Nếu do thông khí cơ học, chuyển sang thông khí qua bóp bóng bằng tay cho đến khi
điều chỉnh được vấn đề
- Chẩn đoán nguồn gốc gây xì dò hoặc tắc nghẽn (không quan trọng bằng cung cấp oxy
cho người bệnh). Ổn định tình trạng oxy của người bệnh trước khi tìm nguyên nhân
(thường có thể tìm ra sau khi ngắt kết nối giữa người bệnh và máy gây mê để xác định
vấn đề nằm phía bên nào).
- Shunt phải – trái nặng: Luồng thông từ phải qua trái (bỏ qua tuần hoàn phổi) qua chỗ
khuyết bẩm sinh của tim xảy ra khi kháng lực mạch máu ngoại biên giảm mạnh. Tình
trạng giảm oxy máu sẽ tiếp tục tham gia vào cơ chế sinh lý bệnh bằng cách tăng co thắt
mạch máu phổi do thiếu oxy, gây tăng kháng lực mạch máu phổi và tăng shunt. Điều
trị gồm 2 nguyên tắc: (1) tăng kháng lực mạch máu hệ thống – nâng chân, truyền dịch
và adrenaline và (2) giảm kháng lực mạch máu phổi bằng cách giảm PEEP (positive
end expiratory pressure), tránh tăng áp lực trong lồng ngực và tối ưu hóa FiO2.
96
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Do huyết áp là giá trị có nhiều yếu tố chi phối, chúng ta cần đánh giá các tình trạng lâm
sàng sau khi xảy ra tụt huyết áp:
- Người bệnh
o Giảm thể tích tuần hoàn
o Tắc nghẽn hồi lưu tĩnh mạch
o Tăng áp lực lồng ngực, bao gồm cả tràn khí màng phổi
o Phản vệ
o Thuyên tắc (khí/huyết khối/xi măng/mỡ/dịch ối)
o Suy chức năng bơm của tim/loạn nhịp tim
o Nhiễm trùng huyết/sốc nhiễm trùng
- Kỹ thuật
o Đo lường sai
o Gây mê quá sâu
o Gây tê trục thần kinh trung ương quá cao
o Do thuốc (tăng tiết histamine, độc tính thuốc tê…)
Xử trí tụt huyết áp phụ thuộc vào nguyên nhân và bối cảnh lâm sàng xảy ra tình trạng này.
Một số nguyên tắc chung trong xử trí tụt huyết áp xảy ra trong khi gây mê:
- Kiểm tra thao tác của phẫu thuật viên (chèn ép TM chủ dưới, chảy máu, bơm hơi vào
khoang phúc mạc quá căng)
- Kiểm soát chảy máu ngoài phẫu trường (kẹp hoặc đè ép)
- Cung cấp oxy nồng độ cao
- Mục tiêu là duy trì áp lực tưới máu và cung cấp cho mô hơn là điều chỉnh con số giá trị
của huyết áp
- Tối ưu hóa tiền tải (kèm theo kiểm ra CVP nếu đã đặt) và kiểm tra tình trạng phụ thuộc
tiền tải.
- Tăng co bóp cơ tim: ephedrine, adrenaline, calci
- Thuốc co mạch hệ thống: phenylephrine, adrenaline, noradrenaline
- Điều chỉnh tình trạng toan hóa máu (cải thiện đáp ứng của cơ tim với thuốc inotrope)
- Duy trì truyền tĩnh mạch liên tục các thuốc vận mạch hoặc các thuốc tăng co bóp cơ
tim nếu cần thiết.
2. Tăng huyết áp
Các yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp xảy ra tại phòng mổ:
- Tăng huyết áp “áo choàng trắng” hoặc vô căn kèm theo không điều trị
97
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Phẫu thuật động mạch chủ (kẹp gây tăng kháng lực ngoại biên)
- Các thuốc sử dụng: ketamine, ergometrine
- Tiền căn gia đình có bệnh lý u nhiều tuyến nội tiết, ung thư tuyến giáp, hội chứng
Conn
Tương tự như hạ huyết áp, tình trạng tăng huyết áp cũng do nhiều yếu tố chi phối. Các tình
trạng lâm sàng cần được đánh giá khi gặp tình huống này bao gồm:
- Mức độ vô cảm/giảm đau không phù hợp: kiểm tra thuốc đang dùng, ngửi mùi thuốc
mê bốc hơi, kiểm tra bơm tiêm thuốc mê tĩnh mạch, đường truyền và kim luồn tĩnh
mạch
- Đo lường sai
- Các thuốc đang sử dụng: ngoại khoa? Adrenaline pha trong thuốc tê? Pha loãng thuốc
không đúng?
- Tình trạng tiền sản giật: kiểm tra protein niệu, số lượng tiểu cầu, chức năng đông máu,
chức năng gan trên sản phụ > 20 tuần có nghi ngờ đến chẩn đoán này
- Cơn bão giáp: tăng T3 và T4
- U tủy thượng thận tiết catecholamine (pheochromocytoma): tăng nồng độ các
catecholamine máu
- Tam chứng Cushing trong tăng áp lực nội sọ
Xử trí tăng huyết áp trong khi gây mê cũng phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra tình trạng
này. Các nguyên tắc xử trí tăng huyết áp trong khi gây mê
- Xác định tăng huyết áp không phải là đáp ứng sinh lý với một nguyên nhân có thể điều
chỉnh (đau, kẹp mạch máu…)
- Mục tiêu điều trị là phòng ngừa đột quị não do tăng huyết áp hoặc thiếu máu/nhồi máu
cơ tim dưới nội tâm mạc
- Ngoài việc sử dụng các thuốc mê để tăng mức độ mê, có thể chọn lựa các phương pháp
xử trí trên hệ tim mạch sau (tùy theo bối cảnh lâm sàng):
o Thuốc giãn mạch (lưu ý có thể gây nhịp tim nhanh)
Tăng nồng độ thuốc mê bốc hơi (lưu ý desflurane gây tăng kích thích
giao cảm khi > 1,5MAC)
Hydralazine 5mg TMC
Glycerine trinitrate (50mg/50ml): khởi sự 3ml/giờ và dò liều để đạt
huyết áp mục tiêu
MgSO4 2 – 4g truyền TM trong 10 phút, sau đó duy trì truyền TM
1g/giờ
o Ức chế β (có thể là chọn lựa trong trường hợp có nhịp tim nhanh hoặc loạn
nhịp)
Esmolol 25 – 100 mg bolus TM, sau đó 50 – 200 μg/kg/phút
Labetalol 5 – 10 mg TM
o Ức chế α (có thể là chọn lựa trong trường hợp nhịp tim bình thường hoặc
chậm):
Phentolamine 1mg TM
Uradipil 25-50mg bolus TM, sau đó 0,1 – 1mg/kg/giờ (chỉ định trong
phẫu thuật u tủy thượng thận tiết catecholamine)
- Tăng cường giảm đau với thuốc nhóm á phiện (lưu ý cần dò liều)
- Kiểm tra tổn thương cơ tim với ECG, men tim (CKMB và troponin)
- Kiểm tra chức năng tuyến giáp, nồng độ catecholamine trong nước tiểu 24 giờ
98
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Tăng huyết áp trong bối cảnh tăng áp lực nội sọ cần đánh giá thực hiện chụp CT sọ não
kiểm tra và can thiệp ngoại khoa nếu cần. Xử trí bao gồm duy trì huyết áp trung bình >
80 mmHg, duy trì CO2 bình thường, tư thế đầu cao, tránh chèn ép tĩnh mạch chủ trên,
tránh tăng áp lực đường thở và cung cấp oxy đầy đủ (có thể đánh giá sử dụng mannitol
0,5g/kg)
liều bolus)
o Digoxin 0,125 – 0,25 μg TM
- Kiểm soát nguy cơ thuyên tắc: Sử dụng kháng đông với heparine hoặc warfarine
- Phẫu thuật hoặc loại bỏ các mô gây loạn nhịp bằng nhiệt (cryoablation)
- Tránh ngưng thuốc ức chế β quá đột ngột trong giai đoạn chu phẫu
- Duy trì điện giải đồ bình thường (đặc biệt là K+ và Mg2+)
- Giảm stress
Các biểu hiện của nhịp tim chậm (giảm tưới máu tạng):
- Tụt huyết áp
- Buồn nôn
- Rối loạn ý thức (tri giác)
- Phù phổi
- Đau ngực
- Sử dụng máy tạo nhịp ngay nếu có biểu hiện giảm tưới máu mô
o Máy tạo nhịp qua da
o Tạo nhịp qua tĩnh mạch nếu qua da thất bại
o Máy tạo nhịp vĩnh viễn
- Atropine 0,5mg TM, lặp lại mỗi 5 phút cho đến tổng liều 3mg trong khi chờ tạo nhịp
(atropine tác động lên nút nhĩ thất và có thể không có hiệu quả trên người bệnh ghép
tim hoặc nhịp tim chậm do block dưới bó His)
- Glucagon 3mg bolus TM sau đó duy trì truyền TM 3mg/giờ có thể sử dụng trong
trường hợp nhịp tim chậm do sử dụng thuốc ức chế β.
- Adrenaline 2 – 10 μg/phút hoặc dopamine 2 – 10 μg/kg/phút truyền TM
- Duy trì điện giải đồ bình thường
- Phong bế xoang cảnh bằng lidocaine trong PT bóc mảng xơ vữa động mạch cảnh
- Loại bỏ áp lực lên nhãn cầu
- Cẩn trọng khi sử dụng thuốc đồng vận α
Các xét nghiệm cần thực hiện để chẩn đoán nhịp tim nhanh với phức bộ QRS hẹp bao gồm
101
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Các xét nghiệm cần thực hiện để chẩn đoán nhịp tim nhanh với phức bộ QRS rộng bao
gồm ECG, các test sinh lý điện của tim và siêu âm tim.
Nguyên tắc xử trí nhịp tim nhanh có phức bộ QRS rộng:
- Sốc điện chuyển nhịp nếu huyết động bất ổn hoặc không đáp ứng điều trị nội khoa
- Điều trị nội khoa:
o Nhịp tim đều: Dùng amiodarone 150mg truyền TM trong 10 phút, lặp lại nếu
cần với tổng liều là 2,2g truyền TM trong 24 giờ đầu
o Nhịp tim không đều: Dùng procainamide 20mg/phút TM với tổng liều 17mg/kg
102
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
hoặc lidocaine 1mg/kg TM, có thể lặp lại 0,5mg/kg mỗi 5 phút cho đến tổng
liều 3 mg/kg
- Procainamide ưu tiên sử dụng cho người bệnh có tiền căn hội chứng kích thích sớm (ví
dụ: hội chứng Wolf-Parkinson-White)
- Duy trì điện giải đồ bình thường (lưu ý K+ và Mg2+)
- Có thể có chỉ định thuốc chống loạn nhịp nhóm I và III
- Hội chẩn Nội tim mạch và tim mạch can thiệp về điều chỉnh máy tạo nhịp sẵn có và
chỉ định đặt máy phá rung
103
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Chăm sóc sau gây mê (postanesthesia care) là quá trình mà người bệnh được theo dõi và
chăm sóc cho đến khi các chức năng sinh lý như hô hấp, tim mạch, thần kinh và phản xạ
đường thở phục hồi và ổn định. Phòng hồi tỉnh (recovery room, hay còn gọi là đơn vị chăm
sóc sau gây mê, postanesthesia care unit) là khu vực đặc biệt, nơi các nhân viên y tế được đào
tạo, huấn luyện và thực hành với mục tiêu phòng ngừa, phát hiện và xử trí các biến chứng xảy
ra trong giai đoạn chăm sóc sau gây mê. Đây là nơi thực hiện tiếp nhận và chăm sóc người
bệnh ngay sau phẫu thuật và gây mê cho đến khi họ đạt các tiêu chuẩn để chuyển đến chăm
sóc tại các khoa lâm sàng (chuyển trại) hoặc trong một số trường hợp, chuyển đến khu vực
chăm sóc tích cực hơn nếu cần thiết.
104
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
o Bác sĩ GMHS là người chịu trách nhiệm về quản lý và phối hợp chăm sóc
người bệnh tại phòng hồi tỉnh
o Cần có chính sách và chương trình đào tạo nhằm đảm bảo khả năng thực hiện
việc quản lý biến chứng và hồi sức người bệnh của bác sĩ làm việc tại phòng
hồi tỉnh.
- Bác sĩ GMHS là người chịu trách nhiệm việc chuyển trại cho người bệnh
o Các tiêu chuẩn chuyển trại, chuyển phòng hồi sức tích cực, chuyển khoa điều
trị trong ngày hoặc xuất viện phải được Khoa GMHS đánh giá và thông qua
theo qui trình chuẩn.
o Bác sĩ GMHS phải ghi nhận rõ tiêu chuẩn chuyển người bệnh ra khỏi phòng
hồi tỉnh trong hồ sơ bệnh án.
II. TỔ CHỨC PHÒNG HỒI TỈNH (XEM BÀI “TỔ CHỨC PHÒNG HỒI TỈNH”)
III. THÔNG SỐ CƠ BẢN TRONG THEO DÕI TẠI PHÒNG HỒI TỈNH
- Đánh giá tri giá: các điểm tri giác, đồng tử
- Đánh giá phục hồi thần kinh liên quan đến phẫu thuật, phương pháp vô cảm
- Hô hấp: Tần số thở, biên độ hô hấp, độ bão hòa Oxy (SpO2), màu sắc da, niêm mạc,
EtCO2, thông số thở máy (nếu có thở máy)
- Huyết động: Đo huyết áp động mạch (xâm lấn hoặc không xâm lấn), tần số mạch, áp
lực tĩnh mạch trung ương, đánh giá tình trạng da, niêm mạc, lượng nước tiểu, tổng kê
dịch vào ra (bilan), theo dõi ECG
- Phương pháp vô cảm: Gây mê toàn diện, gây tê trục thần kinh trung ương, gây tê thần
kinh ngoại vi, an thần
- Kiểm tra các đường truyền tĩnh mạch, các đường dùng thuốc khác
- Kiểm tra thân nhiệt
- Đánh giá đau và hiệu quả của các phương pháp điều trị đau
- Nước tiểu: Cầu bàng quang, lượng nước tiểu, màu sắc
- Sonde dạ dày và các ống dẫn lưu: Vị trí, nhãn dán, lượng dịch, màu sắc
- Tình trạng vết mổ
- Các thông số cận lâm sàng cần thiết trong trường hợp cần phải theo dõi: hemoglobin,
đường huyết, điện giải đồ, chức năng thận, Xquang …
105
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Giảm hồi lưu tĩnh mạch Giảm mức lọc cầu thận Đánh giá lượng dịch/máu
(thở máy…) Giảm tưới máu mô mất
Giảm kháng lực (sức cản) Truyền dịch/máu
ngoại vi (giãn mạch trong Thuốc co mạch nếu là
phản ứng viêm, tình trạng nguyên nhân gây giãn
sốc) mạch, không đáp ứng
Giảm sức co bóp cơ tim truyền dịch
(sốc nhiễm trùng, sốc tim)
Ngoại tâm thu Cường giao cảm Nguy cơ loạn nhịp nặng Loại bỏ nguyên nhân
(thường gặp Thiếu oxy rung thất Điều chỉnh điện giải
ngoại tâm thu Giảm thể tích tuần hoàn Sử dụng thuốc ức chế β
thất) Rối loạn chuyển hóa, điện (theo hội chẩn chuyên
giải khoa tim mạch)
Nhịp tim Cường giao cảm Tăng nhu cầu tiêu thụ oxy Loại bỏ nguyên nhân gây
nhanh Thiếu oxy Nguy cơ loạn nhịp nặng mạch nhanh
Giảm thể tích tuần hoàn
Lo lắng, cầu bàng quang,
nôn ói
Nhịp tim chậm Giảm cung lượng tim Giảm tưới máu mô Loại bỏ nguyên nhân gây
Tụt huyết áp Nguy cơ loạn nhịp nặng nhịp chậm
Lo lắng, đau, nôn, phản xạ
vagal
Thiếu máu cơ Do mất cân bằng giữa cung Thiếu máu cơ tim, nhồi Loại bỏ nguyên nhân
tim cấp và vận chuyển O2 đến máu cơ tim Giãn mạch vành
tế bào cơ tim vì các nguyên Can thiệp nội mạch (theo
nhân: Tăng huyết áp, thiếu hội chẩn chuyên khoa tim
oxy, giảm Hb, run cơ, đau, mạch)
co mạch vành, mảng xơ
vữa
106
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
107
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
VI. TIÊU CHUẨN RỜI KHỎI PHÒNG HỒI TỈNH (XEM BÀI “TỔ CHỨC PHÒNG
HỒI TỈNH”).
V. KẾT LUẬN
Giai đoạn tỉnh mê sau mổ là giai đoạn hay xảy ra những biến chứng nguy hiểm về hô hấp,
tim mạch, là nguyên nhân quan trọng chi phối tỉ lệ tử vong sau mổ.
Theo dõi và chăm sóc người bệnh sau mổ nhằm đạt được 3 yêu cầu cơ bản sau:
- Phục hồi các chức năng sinh lý quan trọng
- Duy trì tình trạng cân bằng của cơ thể.
- Ngăn ngừa không để xảy ra các biến chứng, tai biến.
- Chẩn đoán sớm, xử trí kịp thời tình trạng suy các cơ quan quan trọng.
108
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
I. ĐẠI CƯƠNG
Điều trị đau cấp tính góp phần làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong, biến chứng, thời gian nằm
viện và chi phí y tế cho người bệnh. Các hiểu biết về cơ chế và phương pháp điều trị đau cấp
tính đã đạt được nhiều tiến bộ trong thời gian gần đây. Điều trị đau cấp tính sau mổ là vấn đề
mang tính nhân đạo, được coi là quyền con người trong công ước quốc tế Montréal.
109
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
loạn cảm xúc, tự kỷ ám thị về bệnh tật, tâm thần phân liệt…và cần được thăm khám và
điều trị bởi bác sĩ chuyên khoa tâm thần hoặc tâm lý y học.
B. Theo thời gian
- Đau cấp tính (acute pain):
o Là tình trạng đau mới xuất hiện, có cường độ mạnh và giới hạn về thời gian
(thường trong ngắn hạn và tối đa chỉ khoảng 6 tháng). Đau cấp tính có thể xem
là một dấu hiệu báo động có ích, mang tính bảo vệ. Đối với tình trạng này, việc
thăm khám cần xác định đau có nguồn gốc thực thể hay không.
o Đau cấp tính bao gồm đau sau mổ, sau chấn thương, phỏng, do chuyển dạ.
o Đau cấp tính có thể xuất phát từ 1 hoặc hai vị trí đau khác nhau:
Đau thân thể (somatic pain): Là đau do tổn thương mô da, cơ, khớp…
Bao gồm đau bề mặt và đau ở sâu.
Đau nội tạng (visceral pain): Là đau do tổn thương nội tạng, bao gồm
đau ngay tại tạng (true visceral), đau ngay tại thành (true parietal), đau
xuất chiếu (còn gọi là lan xiên) lên tạng (referred visceral) và đau xuất
chiếu lên thành (referred parietal)
o Đau cấp tính là tình trạng thường gặp trong thực hành lâm sàng, vì thế việc
hiểu biết cơ chế và điều trị đau cấp tính rất quan trọng.
- Đau mạn tính (chronic pain): Là tình trạng đau kéo dài, tái đi tái lại trong thời gian > 6
tháng ngay cả khi tổn thương mô đã lành. Đau mạn tính có thể khiến người bệnh phải
điều trị tại nhiều nơi với nhiều phương pháp khác nhau nhưng ít hiệu quả, gây tổn hại
cho cơ thể về cả thể lực, tâm lý và xã hội.
110
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Bó gai – thị: nằm ở cột trắng trước bên, đi lên và tận cùng tại phức hợp bụng – nền của
nhóm nhân sau đồi thị , đây là bó qua trọng nhất.
- Bó gai – lưới: đi lên và tận cùng ở các tổ chức lưới tại hành não, cầu não và não giữa ở
cả hai bên.
- Các bó gai đồi thị cổ: từ tuỷ cùng bên đi lên đồi thị và các vùng khác nhau của vỏ não.
111
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
112
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
đau cấp tính, phương pháp đánh giá theo thang điểm đau bằng nhìn hình đồng dạng (visual
analog scale-VAS) được sử dụng rộng rãi nhất.
Thước đo độ đau VAS là một thước có hai mặt dài 20cm. Mặt quay về phía người bệnh có
hình biểu thị mức độ đau để người bệnh dễ dàng đối chiếu. Mặt đối diện về phía thầy thuốc có
chia vạch quy định số từ 0 đến 10. Người bệnh được yêu cầu định vị con trỏ trên thước phù
hợp với hình biểu thị mức độ đau của mình, người thầy thuốc khi đó có thể dễ dàng xác định
điểm đau VAS bằng cách đối chiếu vị trí con trỏ trên vạch chia ở mặt còn lại của thước. Điểm
VAS 4 là mốc phải điều trị đau cho người bệnh.
113
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Hình 3. Mức độ đau vào ngày thứ 1 sau mổ theo từng loại phẫu thuật (Nguồn:
Gerbershagen HJ và cs).
114
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Giảm đau đa mô thức có thể bao gồm nhiều cách tiếp cận về dược lý học:
- Thuốc giảm đau, bao gồm thuốc nhóm á phiện, thuốc giảm đau không phải nhóm á
phiện (như paracetamol và kháng viêm không steroids, NSAIDs), nhóm gabapentine
(gabapentine và pregabaline), thuốc chống trầm cảm 3 vòng, đối vận thụ thể NMDA và
ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonine-noradrenaline.
- Gây tê trục thần kinh trung ương (tê tủy sống và ngoài màng cứng)
- Gây tê thần kinh ngoại vi
- Gây tê thấm tại vị trí vết mổ
Tất cả các giai đoạn của dẫn truyền cảm giác đau đều có thể là vị trí tác dụng của các
phương pháp giảm đau:
- Nhận cảm đau: Là nơi các thụ thể đau (nociceptor) đang bị kích thích và tạo tín hiệu
điện sẽ bị ngăn chặn bằng NSAIDs và các thuốc ổn định màng tế bào như gabapentine.
- Dẫn truyền: Là nơi các tín hiệu điện được dẫn truyền từ vị trí tổn thương đến tủy sống
và não sẽ bị ngăn chặn bằng thuốc tê và nhóm gabapentine.
- Nhận thức cảm giác đau: Các vị trí nhận thức cảm giác đau tại não có thể được điều
hòa bằng thuốc nhóm á phiện và đối vận thụ thể NMDA.
- Đường ly tâm và điều hòa tại chỗ: Là các quá trình thích ứng gây gia tăng hoặc giảm
các tín hiệu đau tại thần kinh trung ương và ngoại vi, vị trí tác dụng của gây tê trục
thần kinh trung ương, gây tê thần kinh ngoại vi và gây tê thấm tại chỗ.
Các ưu điểm của giảm đau đa mô thức trong điều trị đau cấp tính sau mổ:
- Hiệu quả trong giảm đau sau mổ khi vận động
- Giảm liều morphine sau mổ > 50%
- Giảm tác dụng phụ của các thuốc nhóm á phiện
- Giúp người bệnh dung nạp tốt
- Rút ngắn thời gian nằm viện sau mổ (phẫu thuật ngoại trú)
- Bổ sung cho gây tê vùng.
VII. NGUYÊN TẮC CỦA ĐIỀU TRỊ ĐAU CẤP TÍNH SAU MỔ
- Điều trị đau cấp tính không tốt có thể dẫn đến các ảnh hưởng tâm sinh lý không mong
muốn. Điều trị đau cấp tính hiệu quả giúp giảm biến chứng, thời gian nằm viện và
giảm tỷ lệ đau cấp tính chuyển thành đau mạn tính.
- Điều trị đau cấp tính cần phải phối hợp chiến lược giảm đau đa mô thức, kết hợp ít
nhất 2 phương pháp giảm đau có cơ chế khác nhau.
- Phác đồ điều trị đau cấp tính cần được xác định và ghi nhận rõ ràng trong hồ sơ bệnh
án (phiếu khám tiền mê) và tính toán một cách phù hợp theo các yếu tố sau:
o Dự đoán mức độ đau sau mổ
o Người bệnh
o Cơ chế đau
o Loại phẫu thuật
o Vị trí đau
o Thời gian đau sau mổ dự kiến
- Điều trị đau cấp tính hiệu quả dựa trên mối liên hệ chặt chẽ giữa sự hiểu biết và đào tạo
kỹ năng của đội ngũ nhân viên cũng như giáo dục các yếu tố ảnh hưởng từ phía người
bệnh
115
Bộ môn Gây mê – Hồi sức
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
- Điều trị đau cấp tính cần tiến hành đồng thời với các biện pháp điều trị các tác dụng
phụ như buồn nôn/nôn ói, bí tiểu, ngứa, đặc biệt khi sử dụng các thuốc nhóm á phiện.
- Những người bệnh đang được điều trị đau cấp tính cần được theo dõi nhằm đảm bảo
chống đau hiệu quả (VAS ≤ 4) bằng cách điều chỉnh thuốc, thay đổi phương pháp thích
hợp, hạn chế, phát hiện và điều trị kịp thời các biến chứng của các phương pháp giảm
đau. Việc theo dõi này nên được thực hiện bởi ê-kíp bác sĩ và điều dưỡng chống đau
của khoa GMHS.
116
MỤC LỤC
1. Lịch sử chuyên ngành GMHS hiện đại…………………………..2
2. Thuốc mê TM…………………………………………………….8
3. Thuốc mê hô hấp…………………………………………………14
4. Thuốc giãn cơ…………………………………………………….23
5. Thuốc tê…………………………………………………………..32
6. Thuốc giảm đau nhóm á phiện (OPIOIDS)………………………37
7. Thuốc giảm đau không thuộc nhóm á phiện……………………...53
8. Tổ chức khoa GMHS……………………………………………..59
9. Tổ chức khu phòng mổ……………………………………………65
10. Tổ chức phòng hồi tỉnh…………………………………………..70
11. Khám tiền mê – Chuẩn bị người bệnh trước mổ…………………76
12. Đại cương về các phương pháp vô cảm………………………….88
13. Một số tai biến và biến chứng thường gặp trong gây mê………...93
14. Chăm sóc người bệnh sau gây mê và phẫu thuật………………...104
15. Giảm đau đa mô thức trong điều trị đau cấp tính sau mổ………..109