Professional Documents
Culture Documents
D01203 Bài 2 - Liên Đoàn Võ Thuật Cổ Truyền Việt Nam
D01203 Bài 2 - Liên Đoàn Võ Thuật Cổ Truyền Việt Nam
2 Lê Kim Hoà Phó Chủ tịch kiêm Trưởng ban chuyên môn Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam; Phó Chủ tịch
- Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty CP kỹ thuật nền móng và công trình ngầm Fecon
3 Phạm Việt Khoa Phó Chủ tịch
- Phó Chủ tịch kiêm Trưởng ban tài chính Liên đoàn VTCTVN
4 Phạm Xuân Tòng Quán Khí Đạo - QWANKIDO Phó Chủ tịch
5 Yuri Popov Chủ tịch Liên đoàn Võ cổ truyền Việt Nam tại Nga Phó Chủ tịch
6 Mahmood Rashidi Ahmadi Chủ tịch Liên đoàn Võ thuật Iran Phó Chủ tịch
7 Nguyễn Công Tốt Trưởng phái đoàn Việt Vũ Đạo Quốc tế Phó Chủ tịch
8 Khin Maung LWIN Tổng Thư ký NOC Myanmar Phó chủ tịch
-Vụ trưởng Vụ Thể thao thành tích cao I, Tổng cục TDTT
9 Nguyễn Mạnh Hùng Tổng Thư ký
- Phó Chủ tịch kiêm Trưởng ban QHQT Liên đoàn VTCTVN
10 Trần Nguyên Đạo Trưởng phái đoàn Vovinam – Việt Võ đạo Thế giới Chủ tịch Hội đồng cố vấn
11 Valeri Riabov Liên đoàn Võ cổ truyền Việt Nam tại Nga Ủy viên
Phó Tổng thư ký
12 Sengphon Phonamath Vụ trưởng Vụ Thể thao thành tích cao, Ủy ban Olympic Lào.
14 Oliver Barbey Phó Chủ tịch Liên đoàn Võ cổ truyền Việt Nam tại Pháp Phó Tổng thư ký
16 OUEDRAOGO Fernand Chủ tịch LĐ Vovinam-Việt Võ Đạo Phi châu, kiêm Chủ tịch Liên đoàn Burkina-Faso Ủy viên
10/07/2021
Danh sách thường vụ Ban chấp hành Liên đoàn thế giới Võ cổ truyền Việt Nam nhiệm kỳ I
(2015 – 2020)
10/07/2021
10/07/2021
Phó Chủ tịch Ủy ban Olympic châu Á, Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban Olympic Việt Nam, Chủ
tịch Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam Hoàng Vĩnh Giang được bầu làm Chủ tịch Liên đoàn
thế giới Võ cổ truyền Việt Nam - nhiệm kỳ I (2015-2020). Đại hội cũng bầu 7 Phó Chủ tịch và 16
Ủy viên thường vụ.
Liên đoàn thế giới Võ cổ truyền Việt Nam được gọi tắt là WFVV với mục đích nhằm hình thành một
tổ chức điều hành Võ cổ truyền Việt Nam để chuẩn hóa và phát triển rộng khắp trên toàn thế giới.
WFVV với tinh thần võ đạo, văn hóa võ thuật thông qua các giải thi đấu, giảng dạy, huấn luyện đào
tạo cùng những hoạt động khác, nhằm bảo lưu, truyền bá và nghiên cứu phát triển những tinh hoa
của Võ cổ truyền Việt Nam ra khắp thế giới.
Liên đoàn tuân thủ những nguyên tắc chung và cơ bản của Hiến chương Olympic và truyền bá tư
tưởng, tinh thần Olympic. Từng bước giới thiệu Võ cổ truyền Việt Nam trong phong trào Olympic
quốc tế và phong trào Olympic của các châu lục.
BINH KHÍ TRONG VÕ CỔ TRUYỀN
THẬP BÁT BAN BINH KHÍ
Binh Khí Võ Cổ
Truyền Gồm 18 môn tương
ứng với 18 món binh khí:
côn, kiếm, đao, thương,
giáo, kích, xà mâu, đinh
ba, bồ cào, thiết bản, song
tô, song xỉ, song câu, bút,
phủ (búa), chuỳ, cung tên,
lăn khiên,….
Cung đầu tiên là công cụ săn bắn, sau mới thành vũ khí chiến đấu. Thân cung và hai cánh cung làm bằng gỗ cứng, có
khi là gốc tre lâu năm. Giữa thân cung có rãnh lắp tên. Đầu hai cánh cung được khoét lỗ tròn hoặc đính khuy sắt để căng
dây cung. Dây cung thường làm bằng gân trâu hoặc một loại sợi đặc biệt dẻo và cứng, có tính đàn hồi cao, khi kéo mạnh sẽ
làm cánh cung cong lại, tạo sức bật đẩy mũi tên bay xa. Tên làm bằng gỗ cứng hoặc tre già, mũi vót nhọn. Về sau, người ta
bịt kim loại ở đầu mũi tên hoặc đúc tên sắt, tên đồng để tăng hiệu lực xuyên thủng được vật cứng.
Làm bằng gỗ, tre, mây, cũng có khi làm bằng kim loại, chia làm trường côn và đoản côn. Trường côn là roi dài gồm hai
thứ là roi đấu (trường tiên) dài khoảng 3m và roi chiến (trung bình tiên) dài khoảng 1,5m. Roi đấu dùng để đánh trên ngựa.
Roi chiến dùng để đánh dưới đất. Đoản côn là roi ngắn.
Còn có một loại côn nữa là côn nhị khúc, làm bằng hai thanh gỗ cứng hoặc kim loại dài bằng nhau, nối với nhau bởi một
sợi dây dài tết bằng tóc người hoặc bằng lông đuôi ngựa. Loại côn này gọn, mạnh, thích hợp cho lối đánh gần, có thể đổi tay
phải tay trái tùy ý. Khi đánh dùng một thanh làm trụ, đánh bằng thanh kia, phóng ra thu về, biến hoá linh hoạt.
Kiếm thuộc hàng vũ khí thanh nhã, sang trọng, được rèn theo yêu cầu của người sử dụng.
Thường phải đảm bảo ba yếu tố: sắc bén, đẹp, có độ nặng, độ dài phù hợp với sức vóc người
cầm. Kiếm lệnh là kiếm chỉ huy, lược trận, phân biệt với kiếm trận ở chỗ kiếm lệnh lưỡi
cong, còn kiếm trận lưỡi thẳng. Lại tùy theo độ dài ngắn mà phân thành trường kiếm và
đoản kiếm. Trường kiếm độ dài xê dịch trong khoảng 1,2m đến 1,5m, có thể giao tranh trên
mặt đất hoặc trên ngựa đều tiện lợi. Đoản kiếm là kiếm ngắn, từ chuôi đến ngọn dài chừng
năm, bảy tấc, thích hợp với lối đánh cận chiến, giáp chiến. Thường con nhà võ chỉ tuốt kiếm
khỏi bao khi giao đấu.
Đao ngắn
Có cán bằng gỗ cứng, lưỡi đao càng về phía trước càng to bản, được vát
hơi cong dần về phía mũi. Về chủng loại có đơn đao, song đao, đại đao,
phác đao.
Đại đao
Kỹ thuật sử dụng đao phần lớn hai tay phải cầm chắc lấy
đao mà vũ động. Đao pháp chủ yếu có chém, bổ, miết,
khều, xoay, gác, kéo, đẩy …
Trong chiến tranh xưa, đại đao thường dùng cho chiến
tướng làm vũ khí giao đấu ở trên lưng ngựa, uy lực rất lớn.
Cả cây đao do thân đao, cán đao, đĩa đao và vòng kêu là bốn
bộ phận lớn cấu tạo nên.
Thương, giáo, mác
Là vũ khí dài, cán làm bằng gỗ cứng, ở đầu có mũi hình thoi nhọn ở đầu đúc bằng sắt.
Xà mâu
Đây là những loại binh khí có cán dài và mũi
kim loại nhọn gần giống như Thương (biến
thể từ thương mà ra), có hình thù quái lạ,
mũi nhọn thì gọi là Mâu; nếu phần lưỡi
dài được uốn cong như hình con rắn (xà) thì
gọi là Xà mâu.
Bát Xà Mâu vì có chi tiết như chữ Bát giống
hình lưỡi rắn ở phía mũi nên trông dữ tợn và
tính năng đa dạng hơn Xà Mâu. Bát Xà Mâu
có thể móc – cắt chậm chí chặn được vũ khí
đối thủ nhờ đầu mũi hình chữ Bát. Đòn đánh
Bát Xà Mâu cũng linh hoạt uyển chuyển
không kém gì Xà Mâu hay thương (giáo); có
điều người sử dụng Bát Xà Mâu thường có
sức khỏe hơn người mới đủ sức đâm xuyên
được đối thủ.
Kích
Trủy thủ ( dao găm ) là tên gọi của kiếm ngắn, hình thù như một cây kiếm thu gọn và ngắn lại, chủ yếu là đâm,
cũng có thể để chặt, chém….
Yêu cầu sử dụng trủy thủ phải nhanh nhẹn, linh hoạt. Trủy thủ ưu thế trong cận chiến và phòng thân, nhất là
những lúc bất ngờ, đối phương không phòng bị. Trủy thủ đi vào lịch sử cùng tên tuổi của nhiều dũng sĩ báo chúa, xã
thân vì đại nghĩa. Chiều dài trủy thủ khoảng từ 30 đến 45cm.
Khiên, lăn, thuẫn
Khiên là một cái mộc dùng để che tên hoặc đỡ những nhát chém, đâm của địch thủ. Võ cổ truyền đã cải
biến khiên thành một lối đánh lợi hại gọi là lăn khiên.
Thuẫn và khiên cùng một loại hình, thuẫn còn được gọi là cán, thuẫn bài, bành bài, bang bài; là loại binh
khí mang tính phòng thủ. Thuẫn có hình chữ nhật hoặc tròn, dùng che chắn thân thể phòng hộ bị sát
thương vì mũi nhọn, lưỡi sắc của tên, đã, gươm, giáo.
Phủ (rìu)
Phủ ( búa ) là loại binh khí nặng thời cổ, ít thấy, gần giống với rìu chặt cây của tiều phu.
Cán phủ làm bằng gỗ cứng dài chừng một cánh tay. Lưỡi phủ đúc hoặc rèn bằng sắt, thép
tốt, rất nặng.
Kỹ pháp của Phủ có bổ, chặt, chém, vớt, đâm, đỡ, móc, hất, thọc, cứa, đẩy, loang…
Chùy, đại chùy
Là loại vũ khí có tay cầm ở giữa là một thanh gỗ cứng hoặc kim loại, hai
đầu là hai khối kim loại (sắt, thép, đồng) đặc ruột hình thuẫn hoặc hình tròn,
ngoài mặt đúc nổi gai lục giác hoặc xẻ cạnh khế. Bề ngang có đường kính
chừng 10 – 15cm. Chuỳ cũng có chùy đơn và chuỳ đôi (song chùy).
Kỹ pháp của chùy cơ bản có đập, bổ, phang, ngăn, chặn, đỡ, đâm, thọc,
múa, hoa…
Giản
Giản có hình dáng như mô ̣t chiếc roi cứng, nên mang tên gọi là “ngạnh tiên”. Nguyên thủy “chiếc roi cứng” này là công
cụ được con người dùng sinh hoạt trong đời sống để đâ ̣p, nê ̣n, chấn, đè, ép… sau trở thành mô ̣t loại vũ khí tự vê ̣, chống
chọi với muông thú và bảo vê ̣ ấp, làng, gia đình, bô ̣ tô ̣c. Giản có nhiều loại, có loại hình tứ giác (bốn mă ̣t, bốn cạnh),
giản hình lục lăng (sáu mă ̣t, sáu cạnh), giản hình bát giác (tám mă ̣t, tám cạnh), có loại suông tròn và có loại có đốt (bảy
đốt - thất tiết giản, hoă ̣c chín đốt - cửu tiết giản), đầu giản không mũi nhọn. Giản có tay nắm, như đao, kiếm, đốc giản
có gù nhô lên dùng trợ chiến.
Ngãi, tô
Ngày xưa dùng soa phóng ra đâm cá lớn thì ở cán soa có buộc sợi dây thừng, khi sử dụng để tấn công thì phóng soa
ra, sau đó cầm đầu dây thừng kéo giật thu soa trở về. Từ việc làm trong đời sống mưu sinh hay trong chiến đấu mà có tên
gọi là phi soa.
Kỹ pháp cơ bản của soa có đâm, khóa, đập, xoáy, gạt, ngăn, đè…
Câu
Câu là loại binh khí thời xưa, ngắn, có lưỡi sắc gồm
các phần câu, hộ thủ, lưỡi được đúc liền nhau. Phần câu
cong như rựa quéo để móc, hãm vũ khí hoặc một số vùng
trên cơ thể đich thủ như cổ, vai, cổ tay, cổ chân, đùi,
hông…Phần thân giống như lưỡi kiếm. Chuôi cầm được
bọc vải, da hoặc gỗ, có một lưỡi liềm để bảo vệ tay, gọi là
phần hộ thủ. Câu được sử dụng biến ảo linh hoạt, thích
hợp lối đánh vừa công vừa thủ. Độ dài của câu tương
đương độ dài của kiếm.
Kỹ pháp câu có đẩy, đè, nâng, giật, băm, xẻ, đỡ,
móc, hoa, vác, dâng nguyệt…
Bừa cào
“Nhuyễn” là mềm, “tiên” là roi, mô ̣t thứ dùng trong hình phạt ngày xưa để đánh người, roi đánh ngựa
gọi là roi trun, roi là đồ binh rèn bằng sắt, thép gọi là thiết tiên. Nhuyễn tiên có loại bảy đốt (thất tiết kim
tiên), chín đốt (cửu tiết kim tiên), mười ba đốt (thập tam tiết kim tiên) nhưng thường gọi là chín đốt. Kỹ
pháp nhuyễn tiên, ngạnh tiên chủ yếu có: quay tròn, quấn, quâ ̣t, trói, khóa, quét, vẫy, điểm, chặn, ném,
đỡ gạt, múa hoa…
Bạch đả song thủ
Sự tồn tại và lớn mạnh của một quốc gia, một dân tộc là nhờ vào tinh thần yêu
nước, ý chí quật cường, ý thức tôn trọng giá trị lịch sử, văn hoá truyền thống của
chính dân tộc đó.
Võ cổ truyền Viê ̣t Nam là di sản văn hoá, truyền thống, gắn liền với lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tô ̣c Viê ̣t Nam, tính đến nay 4.894 năm (từ thời Hồng
Bàng 2879 trước Công nguyên).
Võ cổ truyền Viê ̣t Nam là môn võ do người Viê ̣t Nam sáng tạo, chắt lọc, tài bồi,
ứng dụng trong đời sống thực tiễn, nhất là trong công cuô ̣c đấu tranh bảo vê ̣ đất
nước qua các triều đại lịch sử Việt Nam.
Qua thăng trầm lịch sử, triều đại nào cũng gánh chịu, đương đầu với các cuô ̣c
chiến chống xâm lăng bảo vê ̣ đất nước, giành quyền đô ̣c lâ ̣p, tự chủ, giữ gìn
bản sắc văn hoá cho dân tô ̣c, từ đó đã có những chiến công hiển hách, vang
danh bờ cõi làm nên Viê ̣t Nam, quê hương rạng ngời, gấm vóc hôm nay.
Ngoài hê ̣ thống kỹ thuâ ̣t, chiến thuâ ̣t, bài bản thâ ̣p bát ban cho đến những lý
luâ ̣n mang tính võ học truyền thống như võ lý, võ kinh, võ nghệ, võ triết, võ y,
võ dưỡng sinh, trâ ̣n đồ, binh thư, binh pháp… và điều quan trọng không kém
là lý luâ ̣n hê ̣ thống màu đai, phẩm trâ ̣t, đẳng cấp của Võ cổ truyền Viê ̣t Nam
trong giai đoạn hiê ̣n tại trên nền tảng lịch sử dân tô ̣c.
Trước đây, khi mới thành lâ ̣p Liên đoàn Võ thuâ ̣t cổ
truyền Viê ̣t Nam, qua các kỳ Hô ̣i nghị chuyên môn
toàn quốc, các võ sư, huấn luyê ̣n viên, các nhà nghiên
cứu dựa vào nền tảng triết học Phương Đông nên Võ
cổ truyền lấy nguyên lý Âm Dương, Ngũ Hành tương
sinh, tương khắc để nói lên dịch sinh biến hóa nối nhau
của các chiêu thức quyền, lấy tương khắc để nói lên
chiêu thức quyền chế ước lẫn nhau và hình thành hê ̣
thống màu đai từ thấp lên cao là Đen, Xanh, Đỏ,
Vàng, Trắng.
Đó là ý niê ̣m quan hệ tương sinh của Ngũ Hành là kim loại bị đốt cháy thành thể lỏng là nước
(Thủy ứng với Màu Đen). Nước là thành phần không thể thiếu để nuôi cây, sinh ra gỗ (Mộc ứng
với Màu Xanh). Gỗ đốt cháy thành lửa (Hỏa: ứng với Màu Đỏ). Lửa thiêu mọi vật thành than tro
biến ra đất (Thổ ứng với Màu Vàng). Đất sinh ra các thể kim loại (Kim ứng với Màu Trắng).
Công viê ̣c trong giai đoạn đầu của Liên đoàn Võ thuâ ̣t cổ truyền Viê ̣t Nam là mô ̣t nỗ lực lớn rất
đáng trân trọng. Tuy Âm Dương, Ngũ Hành là triết lý vi diê ̣u nhưng không phải là khuôn mẫu bất
di bất dịch cho mọi vấn đề trong lịch sử Võ học cổ truyền Viê ̣t Nam, mà Võ cổ truyền Viê ̣t Nam là
dòng chảy xuyên suốt qua mấy ngàn năm của dân tô ̣c, phong phú, đa dạng với nhiều hình thái đă ̣c
thù của từng môn phái võ Viê ̣t Nam.
Ngày nay, đến giai đoạn phát triển Võ cổ truyền Viê ̣t Nam ở mô ̣t quy mô mới, rô ̣ng hơn, vững vàng
hơn và nhất là định nghĩa được giá trị cô ̣i nguồn dân tô ̣c, lịch sử đất nước trong bối cảnh hô ̣i nhâ ̣p
thế giới, võ thuâ ̣t truyền thống nhưng mang tính cô ̣ng đồng, thể thao, hiê ̣n đại, chính vì lẽ đó Liên
đoàn Thế giới Võ cổ truyền Viê ̣t Nam (WFVV) nghiên cứu lịch triều Viê ̣t Nam, chọn Nhà Trần là
triều đại có những điểm sáng nhất trong lịch sử về văn hoá, giáo dục, binh chế, quan chế, quân
sự, đạo đức xã hội, đối ngoại, an dân, mở mang và phát triển nông nghiê ̣p, đă ̣c biê ̣t triều đại có
nhiều vua hiền (minh quân) và tướng giỏi (dũng tướng) văn võ song toàn, trên dưới một lòng.
Bậc học Cấp Mầu đai Thời gian Ghi chú
chuyển cấp
1 Đai đen 72 giờ
2 Đai đen 1 vạch xanh 72 giờ
3 tháng/ 1 cấp
3 Đai đen 2 vạch xanh 72 giờ
4 Đai đen 3 vạch xanh 72 giờ
Học viên
5 Đai xanh 72 giờ
6 Đai xanh 1 vạch đỏ 72 giờ
3 tháng/ 1 cấp
7 Đai xanh 2 vạch đỏ 72 giờ
8 Đai xanh 3 vạch đỏ 72 giờ
9 Đai đỏ 144 giờ
Màu đai, đai Hướng dẫn
viên
10 Đai đỏ 1 vạch vàng 144 giờ 6 tháng/ 1 cấp
Võ sư 24 tháng/ 1
18 Đai trắng có tua 576 giờ
cấp
Ngày 15/04/2021 Liên đoàn VTCT VN
đã có văn bản ban hành quy chế quản lý
chuyên môn mới về đai đẳng theo QĐ
số 58/QĐ-LĐVTCTVN.
Lúc này hệ thống màu đai từ cao xuống
thấp là:
- Màu tía (purple);
- Màu đỏ (red);
- Màu xanh lá cây (green);
- Màu xanh dương (blue);
- Màu nâu (brown)
- Màu trắng (white).
Sự thay đổi hê ̣ thống màu đai của Liên đoàn Thế giới Võ cổ truyền Viê ̣t
Nam (WFVV) so với hê ̣ thống màu đai của Liên đoàn Võ thuâ ̣t cổ
truyền Viê ̣t Nam (VTMAF) hoàn toàn không mang ý nghĩa phủ nhâ ̣n
giá trị triết lý và tính văn hoá của “ngũ hành tương sinh” mà màu đai
trước đây đă ̣t làm nền tảng, ngược lại còn tôn trọng và ghi nhâ ̣n mô ̣t
giai đoạn lịch sử phát triển Võ cổ truyền Viê ̣t Nam trong nước và nước
ngoài của nhiều võ sư, huấn luyê ̣n viên, những nhà nghiên cứu lịch sử,
văn hoá trên khắp miền đất nước tâm huyết cùng mô ̣t quan điểm phát
huy Võ cổ truyền để giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tô ̣c Viê ̣t Nam.
PHÂN BIỆT MÀU ĐAI GIỮA QUY CHẾ CŨ VÀ MỚI
TRANG PHỤC VÕ CỔ TRUYỀN
I. TRANG PHỤC TẬP LUYỆN QUYỀN VÀ
THI ĐẤU QUYỀN THUẬT:
- Võ phục màu sắc tự chọn, áo cổ bâu, cài nút,
quần không gom ống.
- Logo Võ thuật cổ truyền Việt Nam bên ngực
phải của áo; logo của môn phái, võ phái bên
ngực trái (kích cỡ phải nhỏ hơn 20% so với logo
của Liên đoàn).
- Bảng tên hình chữ nhật nền trắng chữ đỏ dài
từ 10 cm đến 12 cm, rộng 3,5 cm trên logo Võ
cổ truyền bên ngực phải. Quyền tật và tập luyện
- Tên đơn vị (tỉnh, thành, ngành) sau lưng áo.
TRANG PHỤC VÕ CỔ TRUYỀN
II. TRANG PHỤC ĐỐI KHÁNG:
- Với giải trong nước: có logo Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam bên ngực
a) Nơ màu đen.
b) Thắt lưng màu đen.
c) Đi giày thể thao mầu trắng.
TRANG PHỤC VÕ CỔ TRUYỀN XƯA
Trích lục về Trang phục thời Trần
“Triều Lý suy vong, triều Trần nối tiếp (1225 - 1400). Đất nước Đại Việt thời Trần, với
một ý chí sắt đá tự lập tự cường của triều đình và của toàn dân, xây dựng trên nền tảng
truyền thống dân tộc, trên những chiến công ba lần chống xâm lược Nguyên - Mông, đã
phát triển mạnh mẽ nhiều mặt: về nghề dệt, thời gian này nhân dân ta đã có nhiều loại
vải bông, vải gai, lụa, lĩnh, sa, the, nái, sồi, đoạn, gấm, vóc... Nghề thêu cũng phát triển.
Các vương triều Lý, Trần, được coi là giai đoạn phục hưng của nền văn hóa Việt cổ bản
địa (văn minh Văn Lang – Âu Lạc) trên nền tảng khôi phục độc lập dân tộc và giữ vững
chủ quyền quốc gia qua những cuộc kháng chiến của Đại Việt chống Tống, Nguyên
thắng lợi. Vị thế độc lập về chính trị – dẫn đến ý thức độc lập về văn hóa “Nam Bắc
đều chủ nước mình, không phải noi nhau” (lời Trần Nghệ Tông).
Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức tìm về cội nguồn đã thấm đậm trong môi
trường văn hóa thời Lý -Trần. Cũng như xã hội, văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần đã
pha trộn và hỗn dung giữa những yếu tố Nam Á và Đông Á trong một vị thế cân bằng
văn hóa. Tất cả những điều này được thể hiện khá rõ nét qua những tiêu chuẩn về trang
phục trong thời kỳ đó.
Trang phục Việt thời Lý – tiền đề của “chuẩn mực thời trang Việt”
Trang phục áo cổ tròn 4 vạt quây thường lấy sắc đen làm chính
của phụ nữ thời Trần
Trang phục dân gian thời Trần
Bản vẽ của lilsuika, đã vẽ khá chuẩn trang phục thời Trần với
áo 4 vạt kết hợp với thường tuy nhiên nét vẽ cổ áo mặc ngoài Cũng là tranh vẽ của lilsuika, bức tranh trên được chú thích là
chưa rõ ràng không đủ để phân biệt là giao lĩnh vạt chéo tranh vẽ từ tượng bà chúa Mạc tức là thế kỷ 15 – 16
Trang phục quân đội thời Lý
Trang phục quân đội thời nhà Trần
Trong nhân dân, trừ phụ nữ không bị cấm, còn không ai được mặc màu trắng. Ai mặc
màu trắng là phạm pháp. Có thể đây là để giành riêng màu trắng cho những người tôi
tớ trong cung, tránh sự lẫn lộn trong xã hội? Các màu xanh, đỏ, vàng, tía, cũng không
dùng (vì đã dùng cho quan lại) ”
THAM KHẢO TRANG PHỤC THỜI LÝ – TRẦN QUA VIDEO
TRANG PHỤC VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
TRANG PHỤC VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ