You are on page 1of 21

MỤC LỤC

DANH SÁCH NHÓM....................................................................................................................2


LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................3
A. VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO: CHẶNG ĐƯỜNG HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN:...4
I. CHÂN DUNG CỐ VÕ SƯ SÁNG TỔ & BƯỚC KHỞI NGHIỆP (1938-1960)..................................4

II. TẠM LẮNG (1960 – 1963)................................................................................................................6

III. KHÔI PHỤC & PHÁT TRIỂN (1964 – 1975)..................................................................................7

IV. HÀM DƯỠNG (1975 – 1990)...........................................................................................................8

V. VƯƠN LÊN TẦM CAO MỚI (từ năm 1991 đến nay).......................................................................9

B. VÕ PHỤC................................................................................................................................12
Hệ thống đai đẳng và thời gian luyện tập:..............................................................................................12

Ý nghĩa màu đai.....................................................................................................................................13

C. VÕ THUẬT:............................................................................................................................14
D. VÕ ĐẠO:.................................................................................................................................16
10 điều tâm niệm khi xưa......................................................................................................................16

10 điều tâm niệm hiện nay.....................................................................................................................17

Ý nghĩa phù hiệu Vovinam....................................................................................................................19

Ý nghĩa lối chào nghiêm lễ……………………………………………………………………………..19

LỜI KẾT.......................................................................................................................................23

1
BỘ MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT TRƯỜNG ĐẠI HỌC FPT

STT Mã nhân viên Họ và tên Vị trí


1 00025731 Vũ Mạnh Tuấn Chủ nhiệm bộ môn
2 00027280 Lưu Văn Hùng Trưởng tiểu ban tài chính
3 00034604 Phùng Thế Lập Trưởng tiểu ban đảm bảo
4 00037183 Đỗ Kinh Kha Trưởng tiểu ban chuyên môn
5 000182320 Vũ Thế Điệp Trưởng tiểu ban NC & PTCT
6 00052602 Nguyễn Thị Hoài Giảng viên
7 00046761 Khuất Thị Hương Giảng viên
8 00150957 Trần Minh Phú Giảng viên
9 00150922 Hà Văn Hiệp Giảng viên
10 00172542 Đỗ Hoài Nam Giảng viên
11 00172536 Phạm Đức Chính Giảng viên
12 00025763 Nguyễn Đức Dũng Giảng viên
13 00045069 Nguyễn Thị Phương Anh Giảng viên
14 00172543 Bùi Tuấn Đạt Giảng viên
15 00182327 Vũ Văn Quý Giảng viên
16 00172539 Nguyễn Bách Tấn Giảng viên
17 00028098 Nguyễn Đức Dũng Giảng viên
18 00172545 Nguyễn Văn An Giảng viên
19 00187035 Lương Văn Nghị Giảng viên
20 00188771 Chu Tiến Sỹ Giảng viên
21 00188775 Nguyễn Công Hưng Giảng viên
22 00187330 Phạm Anh Tuấn Giảng viên
23 00187120 Nguyễn Văn Thuận Giảng viên

2
LỜI MỞ ĐẦU

VOVINAM hay VIỆT VÕ ĐẠO là niềm tự hào và hãnh diện lớn của dân tộc
Việt Nam chúng ta. Là một trong những môn võ của Việt Nam, ngoài VÕ NGHỆ
của miền bắc hay TÂY SƠN BÌNH ĐỊNH thì VOVINAM đang ngày một khẳng định
vị thế của mình trong làng võ Việt Nam, không những phát triển mạnh mẽ trong
phạm vi nước nhà mà nó còn ngày một vươn xa hơn, nó đã đạt được quy mô rộng
lớn nhất với nhiều môn sinh ở nhiều nơi trên thế giới như Ba Lan, Bỉ, Campuchia,
Đan Mạch, Đức, Mỹ, Nga, Pháp…

3
A. VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO: CHẶNG ĐƯỜNG HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN:
Môn phái Vovinam-Việt võ đạo (VVN-VVĐ) do cố võ sư Nguyễn Lộc sáng tạo tại Hà Nội
vào năm 1938 trên cơ sở lấy võ và vật dân tộc làm nòng cốt, đồng thời nghiên cứu tinh hoa các
võ phái khác trên thế giới để dung nạp, thái dụng và hóa giải; nhất là cải tiến nền tảng kỹ thuật
của mình theo nguyên lý Cương Nhu phối triển. Sau khi võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc quá vãng, võ
sư Chưởng môn Lê Sáng và các môn đệ kế nghiệp tổ chức lại bộ máy, từng bước hệ thống, bổ
sung lý thuyết võ đạo, bài bản, đòn thế… và chung tay góp sức đưa môn phái phát triển như
ngày nay…

I. CHÂN DUNG CỐ VÕ SƯ SÁNG TỔ & BƯỚC KHỞI NGHIỆP (1938-1960):

Tỉnh Sơn Tây (nay thuộc thủ đô Hà Nội) được cấu tạo bởi phù sa 3 dòng sông lớn: sông
Nhị (Hồng Hà), sông Đà (Hắc Giang) và sông Lô; 2 nhánh sông nhỏ – sông Con (Tích Giang)
bắt nguồn từ Ba Vì chảy quanh vùng và sông Đáy (Hát Giang) chạy ven địa giới phía Đông của
tỉnh đã góp phần tạo cho Sơn Tây thành một vùng đất phì nhiêu, màu mỡ. Bên cạnh đó, Sơn Tây
còn có ngọn Ba Vì hùng vĩ. Gần Ba Vì là hệ thống núi lửa Đa Chông trùng điệp và một dãy núi
đá vôi lớn ở phủ Quốc Oai (nhiều lần là thủ đô của Việt Nam thời phong kiến, lúc còn mang
danh Phong Châu) chiếm cứ một dãy đất rộng lớn từ bờ sông Đáy đến sông Đà. Tuy thuộc vùng
châu thổ tiếp giáp với đồi núi nhưng khí hậu của Sơn Tây lại gần giống với các tỉnh vùng cao,
nên người dân vừa có tinh thần khoáng đạt của người miền núi, vừa có nếp sống văn minh của
cư dân các tỉnh đồng bằng. Địa linh này đã sản sinh nhiều nhân kiệt như Nguyễn Tuấn (Sơn
Tinh), Bố Cái Đại Vương, Trưng Vương, Ngô Quyền, Từ Đạo Hạnh, Vũ Công Duệ, Phùng Khắc
Khoan, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu… Và tại làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, ngày mồng tám,
tháng tư, năm Nhâm Tý (24/5/1912), ông Nguyễn Lộc đã cất tiếng khóc chào đời.
Ông là trưởng nam trong một gia đình có 5 anh, chị, em
(Nguyễn Thị Thái, Nguyễn Dần, Nguyễn Ngọ và Nguyễn Thị
Sinh). Thân sinh – cụ ông Nguyễn Đình Xuyến và thân mẫu – cụ
bà Nguyễn Thị Hòa. Gia tộc cụ ông từng sinh sống, lâu đời tại
làng Hữu Bằng. Một thời gian sau, vì sinh kế, cụ ông chuyển gia
đình đến ngụ trong một ngôi nhà bình dị ở đường Harmand
Rousseau (phía sau chợ Hôm – Hà Nội). Khi người con trai đầu
lòng cắp sách đến trường, cụ ông đã nhờ một vị lão võ sư khai
tâm cho con mình những thế võ và vật dân tộc để rèn luyện sức
khỏe và phòng thân.
Ông Nguyễn Lộc trưởng thành trong thảm cảnh quê
hương Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ hơn nửa thế kỷ. Thanh
niên Việt Nam lúc bấy giờ đang bị chi phối bởi 2 khuynh hướng:
“một bên là hy sinh dấn thân vào con đường cách mạng cứu
nước; còn một bên là buông mình theo lớp vỏ văn minh hào nhoáng của phương Tây mà những
thú vui sa đọa, những phong trào thể thao của lớp thượng lưu trưởng giả được thực dân Pháp
khuyến khích để ru ngủ các tầng lớp thanh niên”. Là thanh niên, ông rất đau lòng trước thực
trạng quê hương. Tất nhiên, ông không bằng lòng và lên án gắt gao dã tâm của bọn thực dân
thống trị và tay sai. Theo ông, một trong những yếu tố đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc

4
đến thành công là cần xây dựng cho thanh niên lòng yêu nước sâu sắc, tinh thần tự hào dân tộc, ý
thức cách mạng, ý chí quật cường và nghị lực quả cảm; tất cả những điều đó phải được chứa
đựng trong một thân thể khỏe mạnh, đanh thép, sức lực dẻo dai, chịu đựng được mọi gian khổ,
có khả năng tự vệ và chiến đấu. Vì thế, ông có ước vọng góp phần nung đúc và cống hiến cho tổ
quốc những người con yêu có đạo đức, ý chí quyết thắng, đủ năng lực và sức khỏe để vượt thắng
sự hèn yếu, bạc nhược về tâm hồn và thể xác hầu vươn đến một lối sống tốt đẹp hơn: “Sống,
giúp người khác sống và sống vì người khác”.
Mang hoài bão ấy, ngoài việc tu dưỡng đạo đức, trau dồi học vấn, ông còn dành thời gian
sưu tầm, nghiên cứu nhiều môn võ khác. Ngày đêm ông thường bầu bạn với nhiều loại sách báo
khác nhau từ Triết học, Văn học, Sử học… đến cả Y học, Cơ thể học. Tất cả những ý tưởng quan
trọng về võ học và những vấn đề liên quan đều được ông ký chú, phân loại cụ thể. Khu vực bờ
đê sông Hồng từ bến Phà Đen đến Viện Bác cổ, nhà Hát Lớn đều có dấu chân ông chạy nhảy, đi
quyền, múa côn… từ lúc mặt trời chưa tỉnh giấc. Bên cạnh đó, ông còn đến tham quan các võ
đường, dự khán những trận tỉ thí võ đài hoặc mạn đàm cùng một số võ sư thời danh hầu tìm hiểu
thêm các đòn thế hay, đẹp, hiệu quả của các môn võ Trung Quốc, Nhật, Xiêm (Thái Lan), Quyền
Anh… Qua đó, ông nhận thấy môn nào cũng có ưu điểm. Có môn thiên về cương, kỹ thuật cứng
và mạnh; có môn thiên về nhu, kỹ thuật linh hoạt, khéo léo, uyển chuyển, ít dùng sức. Riêng các
môn võ Việt Nam rất độc đáo, không theo cương hay nhu nhất định mà biến hóa, linh động tùy
theo thể tạng mỗi người, mỗi địa phương. Do sáng tạo từ lâu đời, võ Việt Nam cũng có một số
kỹ thuật không còn phù hợp với thời đại mới nhưng ông cũng nhận thấy rằng các kỹ thuật đó vẫn
phát triển được những tố chất của cơ thể như thăng bằng, chính xác, khéo léo… mà con người ở
thời đại nào cũng cần. Vấn đề cốt lỏi là thông qua những bài bản xưa, đào sâu tinh nghĩa, tìm ra
phương pháp huấn luyện mới, đáp ứng được tính khoa học, hiện đại, phù hợp với nếp nghĩ và
sinh hoạt văn hóa thời đại mới mà vẫn giữ được tính dân tộc. Từ việc nhận ra thực chất của
những kỹ thuật, bài võ đi đến việc nhận rõ giá trị đặc thù của từng môn võ, đồng thời đối chiếu
với đặc điểm tâm lý và thể tạng của người Việt Nam; ông nhận thấy cần phải xây dựng một môn
võ mang tính dân tộc, khoa học và hiện đại để giúp thanh niên có một phương pháp rèn luyện
sức khỏe mang danh dân tộc vì trong mọi cuộc chiến đấu, vấn đề tinh thần và danh dự là 2 yếu tố
quan trọng góp phần quyết định sự thành bại.
Với các luận cứ đó, ông Nguyễn Lộc đã lấy môn vật và võ dân tộc Việt Nam làm nền
tảng, khai thác mọi tinh hoa võ thuật đã có trên thế giới để sáng tạo thành môn phái riêng đặt tên
là Vovinam(VVN). Khoảng mùa thu năm 1938, khi công trình nghiên cứu hoàn thành, ông huấn
luyện thể nghiệm cho một số thân hữu cùng lứa tuổi. Trong thời gian này, VVN lại được ông tiếp
tục sửa chữa, bổ sung về lý luận lẫn kỹ thuật. Ngót một năm sau, ông đem lớp môn sinh đầu tiên
ra mắt quần chúng tại nhà Hát Lớn Hà Nội. Cuộc biểu diễn thu hút đông đảo người xem và thành
công rực rỡ. Để thuận lợi trong việc truyền bá và phát triển “người con tinh thần” của mình, ông
nhận lời mời của bác sĩ Đặng Vũ Hỷ – Hội trưởng Hội Thân hữu Thể thao – tổ chức các lớp dạy
VVN dành cho thanh niên. Lớp võ công khai đầu tiên khai giảng vào mùa xuân năm 1940 tại
trường Sư phạm Hà Nội. Sau đó, nhiều lớp võ liên tục được mở ra ở nhiều nơi. Trong khoảng
gần 15 năm (1940 – 1954), VVN đã được quảng bá rộng rải ở Hà Nội và lan dần sang các tỉnh
Sơn Tây, Nam Định, Thanh Hóa… Theo võ sư Chưởng môn Lê Sáng, vào thời kỳ này, tuy
chương trình huấn luyện có phân thành 3 cấp: sơ đẳng, trung đẳng và cao đẳng nhưng không
mấy ai học quá 3 năm vì thời cuộc, vì nhu cầu ứng phó cấp thiết, vì đôi lúc thực dân Pháp cấm
cản, trừ đội ngũ cốt cán tập luyện bí mật. Các lớp võ công khai thường chỉ kéo dài 3 tháng
gồm:bài tập thể dục (10 động tác), luyện tấn, mép tay, bắp tay rắn chắc; bay người, rạp xuống,
trườn bằng khuỷu tay và đầu gối; các lối nhào lộn, tập té ngã; các thế phản đòn cơ bản, các thế

5
khóa gỡ; 4 bài song luyện; các thế tự vệ chống kiếm, gậy (côn), mã tấu; 21 đòn chân không dạy
riêng lẽ mà ghép trong các bài song luyện. Khi luyện tập, biểu diễn, các môn sinh mặc quần đùi,
mình trần.

Năm 1945, ông Nguyễn Lộc lập gia đình cùng cô Nguyễn Thị Minh (con của cụ ông
Nguyễn Ngọc Hoán và cụ bà Bùi Thị Ngọ) và có 9 người con (3 trai, 6 gái).Vóc dáng to khỏe
(trên 90 kg) và tuy là một võ sư nổi tiếng nhưng trong con người ông vẫn tuôn chảy một giòng
máu nghệ sĩ. Bên bình trà nóng, bao thuốc lá, ông mải mê đàm luận thơ văn, hội họa, nghệ thuật
nhiếp ảnh… suốt buổi hoặc trọn đêm với bạn bè, môn đệ. Thân mật, hoà đồng, giản dị, ông thích
và cho phép các môn đệ gọi mình bằng hai tiếng “anh Lộc” thân tình; đây là điều hiếm thấy
trong giới võ lâm. Những học trò sống cạnh ông đều hưởng những tình cảm đôn hậu và sự chăm
lo chu đáo. Tuy vậy, khi bắt tay vào công việc, học tập, ông rất nghiêm túc, cẩn trọng, luôn đặt
yêu cầu cao đối với bản thân và cộng sự. Giao lưu rộng rãi, tính tình hào hiệp, con thiếu sữa vẫn
mang gạo tiền giúp đỡ bạn bè gặp cơn bĩ cực, vì thế ông đã được mọi người chung quanh quý
trọng.

II. TẠM LẮNG (1960 – 1963):

Năm 1954, ông Nguyễn Lộc và một số môn đệ vào Sài Gòn. Sau khi ổn định nơi cư trú,
ông liền sắp xếp kế hoạch phổ biến VVN. Đầu tiên, ông tổ chức cuộc biểu diễn VVN đầu tiên tại
rạp Norodomme (nay là Công ty xổ số kiến thiết, đường Lê Duẫn, TPHCM) rồi mở lớp võ tại
đường Thủ Khoa Huân (Avigateur Garros), Nguyễn Trãi (Frère Louis), Nguyễn Khắc Nhu, và cử
môn đệ huấn luyện ở Thủ Đức (tỉnh Gia Định)… Sau đó, một số lớp tập khác cũng được mở ra ở
đường Sư Vạn Hạnh (gần chùa Ấn Quang), đường Trần Khánh Dư (Tân Định), đường Trần
Hưng Đạo… Trong lúc công việc giới thiệu VVN ở vùng đất mới bắt đầu và còn đầy khó khăn,
thật đáng tiếc thay, ông Nguyễn Lộc lại sớm từ giã cõi đời vào ngày mồng bốn, tháng tư, năm
Canh Tý (29/4/1960) sau mấy năm bị trọng bệnh. Ông ra đi lưu lại biết bao niềm thương tiếc cho
gia đình và môn đệ. Hiện di cốt ông được bảo quản tại CLB Vovinam số 31 đường Sư Vạn
Hạnh, Quận 10, TPHCM.

6
Ngày 11/11/1960, nhân võ sư Phạm Lợi (môn Judo) tham gia cuộc đảo chính của nhóm
Nguyễn Chánh Thi, chế độ Sài Gòn đã hạn chế các võ phái hoạt động. Võ sư Lê Sáng phải tạm
nghỉ dạy võ, lên Buôn Mê Thuộc và Quảng Đức làm đồn điền. Tuy nhiên, một số lớp VVN vẫn
tập luyện tại các trường Hồ Vũ, Thăng Long, Saint Thomas… do võ sư Trần Huy Phong và vài
võ sư khác hướng dẫn…
Ba năm sau, ngày 01/11/1963, cuộc đảo chính do tướng Dương Văn Minh cầm đầu đã hạ
bệ Ngô Đình Diệm. Các võ phái ở Sài Gòn được phép hoạt động trở lại. Trước tình thế mới, võ
sư Lê Sáng đã quay trở lại Sài Gòn, tập hợp một số võ sư cốt cán và thân hữu cùng nhau đề ra kế
hoạch khôi phục VVN từ khoảng đầu năm 1964.

III. KHÔI PHỤC & PHÁT TRIỂN (1964 – 1975):

Võ đường đầu tiên mở đầu thời kỳ khôi phục và phát triển đặt tại số 61 đường Vĩnh Viễn
(Quận 10, Sài Gòn). Lúc đó, võ sư Chưởng môn Lê Sáng, võ sư Trần Huy Phong (1938 – 1997),
võ sư Nguyễn Văn Thư cùng đội ngũ cốt cán đã họp để soạn thảo Quy lệ môn phái, vạch ra
phương hướng củng cố và phát triển môn phái. Dựa trên tư tưởng, kỹ thuật và bài bản của cố võ
sư Nguyễn Lộc truyền lại, võ sư Lê Sáng và một vài võ sư cao cấp đã bổ sung, xác lập chương
trình giảng huấn võ đạo, huấn luyện võ lực, và võ thuật rõ ràng theo từng đẳng cấp: sơ đẳng (đai
xanh, có 3 cấp), trung đẳng (vàng, 3 cấp), cao đẳng (đỏ, 7 cấp) và thượng đẳng (trắng, dành riêng
cho võ sư Chưởng môn). Chiếc áo thun ba lổ (may-ô) và quần đùi mà võ sinh đã mặc trong các
thời kỳ trước được thay thế bằng bộ võ phục màu xanh da trời như hiện nay. Hệ thống kỹ thuật
cũng dần dần được bổ sung thêm các đòn thế, bài bản mới như: 30 thế chiến lược, 28 thế vật căn
bản và 3 bài Song đấu vật, Song luyện dao găm, Thập tự quyền, Long hổ quyền, Xà quyền, Lão
mai, Ngọc trản, Hạc quyền, Việt võ đạo quyền, Tinh hoa lưỡng nghi kiếm pháp, Tứ tượng côn
pháp, Nhật nguyệt đại đao, Thái cực đơn đao, Bát quái song đao, Mộc bản pháp, Thương lê
pháp, Song đấu búa rìu, Song đấu mã tấu.
Bằng hoạt động năng nổ, sáng tạo của võ sư
Chưởng môn Lê Sáng và các môn đệ, VVN đã thu hút
được sự chú ý của nhiều giới và các võ đường khác dần
dần xuất hiện như võ đường Trần Hưng Đạo, Hoa Lư…
Năm 1966, VVN được đưa vào trường học mà công đầu là
của võ sư Phùng Mạnh Chữ tự Mạnh Hoàng (1938 – 1967).
Cũng từ năm này, danh xưng Vovinam bổ sung thành
Vovinam-Việt võ đạo để thanh, thiếu niên chú trọng đến
tinh thần dân tộc khi luyện võ hầu phấn đấu rèn luyện bản
thân cả 3 phương diện: Tâm, Trí, Thể, nhằm phục vụ cho
dân tộc và nhân loại. Nhiều trường công lập và tư thục lớn
tại Sài Gòn lúc bấy giờ như Pétrus-Ký (nay là Lê Hồng
Phong), Gia Long (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), Chu
Văn An, Lê Văn Duyệt (nay là trường THPT Võ Thị Sáu),
Trưng Vương, Cao Thắng, Hưng Đạo, Don Bosco, Phan
Sào Nam, Đức Trí, Taberd, Quốc Việt… đều có lớp tập
chính khóa hoặc ngoại khóa do các võ sư Lê Công Danh, Trần Văn Bé, Trần Văn Trung, Nguyễn
Văn Thông… phụ trách góp phần tạo nên một phong trào rèn luyện sức khỏe sôi nổi và rộng lớn.
Công tác đào tạo đội ngũ cốt cán, nghiên cứu, biên soạn hệ thống lý luận, kiến thức VVN-VVĐ

7
cũng được quan tâm. Nhiều sách, đặc san của môn phái do Ban nghiên cứu Việt võ đạo biên
soạn đã được xuất bản trong giai đoạn này như: Việt võ đạo nhập môn, Việt võ đạo cương yếu,
Tinh hoa Việt võ đạo…
Năm 1968, võ đường 61 Vĩnh Viễn dời đến số 31 Trần Hoàng Quân (nay là 31 Sư Vạn
Hạnh, Quận 10, TPHCM) và là trung tâm điều hành tất cả hoạt động của môn phái. Sau mấy năm
vượt qua thử thách và đạt nhiều thành quả tốt đẹp, VVN được một số ban ngành mời giảng dạy.
Được học tập các lớp đặc huấn (đào tạo HLV) và qua rèn luyện trong thực tiễn, hàng loạt võ sư,
HLV được tung đi các tỉnh, thành phố ở miền Nam để xây dựng và phát triển phong trào như:
Trịnh Ngọc Minh (1939-1998) đến thành phố biển Nha Trang, Trần Tấn Vũ (Phú Yên), Ngô
Kim Tuyền (Bình Dương), Nguyễn Văn Chiếu (Quy Nhơn), Nguyễn Văn Nhàn, Nguyễn Văn
Sen (Cần Thơ), Trần Văn Mỹ (Hậu Nghĩa), Dương Minh Nhơn (Kiên Giang), Nguyễn Tôn Khoa
(An Giang), Nguyễn Văn Vang (Vĩnh Long), Nguyễn Văn Ít (Mỹ Tho)… Hằng năm, vào dịp Lễ
tưởng niệm cố võ sư Sáng tổ, các trưởng đơn vị đều tập trung về Sài Gòn dự lễ, tập huấn, thi cử,
tạo thành truyền thống tốt đẹp. Võ sư Chưởng môn Lê Sáng và một số võ sư cao cấp cũng
thường xuyên đi thăm hỏi, chấm thi ở nhiều nơi để hỗ trợ, động viên phong trào. Bên cạnh việc
quãng bá võ thuật, VVN-VVĐ còn tham gia một số công tác xã hội… Có thể nói, đây là giai
đoạn môn phái trưởng thành về nhiều mặt, võ đường xuất hiện ở hầu hết các tỉnh phía Nam; và
theo chân các du học sinh như: Trần Nguyên Đạo, Nguyễn Thị Huệ, Trần Đại Chiêu, Dương
Quan Việt, Hà Chí Thành…để xuất hiện ở Pháp, Ý, Đức, Thụy Sĩ… vào đầu thập niên 70. Người
có công dựng cột mốc đầu tiên để phát triển VVN-VVĐ ra quốc tế (1973) là Giáo sư Tiến sĩ
Phan Hoàng.

IV. HÀM DƯỠNG (1975 – 1990):

Khoảng gần một năm sau ngày thống nhất đất nước, võ sư Nguyễn Văn Chiếu đã tập hợp
một số võ sư, HLV về Quận 8, (TPHCM) ôn luyện. Sau đó, võ sư Trần Huy Phong cũng tham
gia huấn luyện. Qua một thời gian tập luyện, đội đi biểu diễn tại một số tụ điểm văn hóa ở Quận
8 và vài nơi khác như Quận 3, huyện Bình Chánh.… Ngày 15/12/1978, được sự chấp thuận của
Sở Thể dục Thể thao (TDTT) TPHCM và Ủy ban nhân dân quận 8, lớp VVN-VVĐ chính thức
khai giảng tại tụ điểm hồ bơi Hòa Bình (đường Chánh Hưng – Quận 8) do võ sư Nguyễn Văn
Chiếu hướng dẫn, mở đầu quá trình khôi phục phong trào trong thành phố. Từ thời điểm này đến
đầu những năm 80, các võ sư ở một số tỉnh, thành khác như: Nguyễn Hữu Hạnh (Cần Thơ),
Nguyễn Bá Thuận (Nha Trang), Đinh Văn Hòa (Bình Định)… cũng xin phép ngành TDTT địa
phương mở lớp huấn luyện. Tháng 6/1980, VVN-VVĐ tham dự đợt Hội thao võ thuật do Viện
Khoa học Giáo dục và Trường Cao đẳng Sư phạm TD trung ương 2 tổ chức tại TPHCM. Năm
1985, VVN-VVĐ được mời huấn luyện cho Lớp Nghiên cứu võ thuật phía Nam (khóa tập trung
4 tháng) của Cục Cảnh vệ (Bộ Nội vụ nay là Bộ Công an). Một sự kiện đáng chú ý ở cuối thập
niên 80 là Hội Việt võ đạo TPHCM được thành lập (1989) vì có ảnh hưởng đến công tác chuyên
môn, nhân sự lẫn sự quan tâm của các tỉnh, thành khác đối với bộ môn. Trước sự hồi phục phong
trào ở nhiều nơi, VVN-VVĐ đã được Tổng cục TDTT đưa vào chương trình Hội diễn kỹ thuật
khu vực 3 (1990). Và đến tháng 9 năm này, 4 võ sư Nguyễn Văn Chiếu, Nguyễn Anh Dũng, Lê
Thanh Liêm, Tô Mạnh Hòa đã cùng một số võ sư trong Liên đoàn Võ thuật TPHCM đã sang
biểu diễn tại Belarussia và sau đó võ sư Nguyễn Anh Dũng (1953 – 2007) lưu lại huấn luyện
trong 1 năm. Khi võ sư Nguyễn Anh Dũng về nước, võ sư Trương Quang An được cử sang thay
thế…

8
Về kỹ thuật, thực hiện phương châm “một phát triển thành ba” nghĩa là từ đòn căn bản
(1) ghép lại thành bài đơn luyện (2) và bài song luyện (3) nhằm giúp người tập dễ nhớ, dễ thuần
thục nhờ thường xuyên ôn đi ôn lại, võ sư Chưởng môn Lê Sáng và một số võ sư đã bổ sung vào
hệ thống kỹ thuật, chương trình huấn luyện một số bài quyền tay không và và binh khí như:
Nhập môn quyền, Tứ trụ quyền, Ngũ môn quyền, Viên phương quyền, Thập thế bát thức quyền,
4 bài Nhu khí công quyền (dưỡng sinh), 4 bài Liên hoàn đối luyện (dành cho người cao tuổi),
Song đấu côn, Song dao pháp, Việt điểu kiếm pháp, Tiên long song gươm pháp, Mã tấu pháp,
Âm dương hồ điệp phiến… Sự bổ sung này đã giúp cho hệ thống bài bản, kỹ thuật của môn phái
đa dạng và phù hợp với nhiều đối tượng. Hệ thống đẳng cấp có thêm đai màu đen (sau Lam đai
III cấp) – chuyển tiếp giữa sơ đẳng và trung đẳng dùng để so sánh với đai đẳng của các môn võ
khác (Karatédo, Taekwondo, Judo, Aikido).

V. VƯƠN LÊN TẦM CAO MỚI (từ năm 1991 đến nay):

Nhằm tạo điều kiện cho VVN-VVĐ phát triển, ngành TDTT các địa phương đã tiến hành
giải thi đấu cấp tỉnh, thành. Bên cạnh đó, các võ sư Trần Huy Phong, võ sư Nguyễn Văn Chiếu…
cũng tích cực xây dựng luật thi đấu đối kháng và hội diễn kỹ thuật theo hướng thể thao hóa
VVN-VVĐ. Trên những cơ sở vừa nêu, Tổng cục TDTT đã cho VVN-VVĐ tổ chức giải vô địch
toàn quốc (VĐTQ) lần đầu tiên từ ngày 4 đến 6/12 /1992 tại TPHCM, quy tụ 178 võ sĩ của nhiều
tỉnh, thành, tranh tài 2 nội dung: hội thi kỹ thuật và đấu đối kháng. Và ở giải VĐTQ lần thứ 2,
các võ sư, HLV VVN-VVĐ đã được đón tiếp phu nhân cố võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc đến dự
khán đêm khai mạc…
Tháng 4/1994 Tổng cục TDTT thành lập Ban điều hành lâm thời VVN-VVĐ Việt Nam.
Hằng năm, Ban điều hành đều tổ chức các Hội nghị chuyên môn toàn quốc (ôn luyện kỹ thuật,
từng bước hoàn chỉnh luật thi đấu đối kháng, luật hội diễn, nghiệp vụ Trọng tài, thi thăng cấp cao
đẳng…). Kế đó, chuyến biểu diễn thành công vang dội của VVN-VVĐ tại Lễ hội Văn hóa – Thể
thao truyền thống thế giới lần thứ 2 (52 quốc gia tham dự) tổ chức ở Thái Lan vào tháng 12 năm
1996 đã thu hút thêm sự chú ý của những người yêu thích võ thuật dân tộc. Đến giải VĐTQ lần
thứ 6 (27 – 30/12/1997), với 215 VĐV thuộc 12 tỉnh, thành và 2 ngành (Quân Đội, Thể thao Đại
học) tham dự, VVN-VVĐ Việt Nam đã được khẳng định trong sự nghiệp thể thao của nước nhà
qua việc Ủy ban TDTT phong cấp cho các VĐV đoạt huy chương. Nhằm mở rộng địa bàn, 3 lớp
tập huấn Hướng dẫn viên dành cho các tỉnh phía Bắc lần lượt tiến hành tại Thanh Hóa (1998),
Hà Tây (2000) và Quảng Bình (2001) đã tạo điều kiện cho khu vực này xây dựng bộ môn và
từng bước hòa nhập vào phong trào chung… Từ những nỗ lực trên, VVN-VVĐ đã được Ủy ban
TDTT đưa vào chương trình thi đấu chính thức tại Đại hội TDTT toàn quốc năm 2002.
Đặc biệt, nhân dịp chào mừng 300 năm Sài Gòn – TPHCM và kỷ niệm 60 năm thành lập
môn phái, Hội VVĐ TPHCM đã phát hành huy hiệu lưu niệm và phối hợp cùng Liên đoàn Võ
thuật TPHCM tổ chức Hội diễn VVN-VVĐ quốc tế lần thứ 1 vào ngày 20/7/1998 tại Nhà thi đấu
Phan Đình Phùng, với sự góp mặt của 4 quốc gia: Việt Nam, Pháp, Italia, Tây Ban Nha. Cuộc
Hội diễn quốc tế này đã trở thành truyền thống hằng năm với sự góp mặt thêm các nước
Romania, Đức, Mỹ… Sau một số năm thử nghiệm, giải vô địch thế giới được tổ chức vào các
năm 2003, 2005 và 2007. Riêng giải lần thứ 3 năm 2007 đã quy tụ trên 200 quan chức và võ sĩ
thuộc 21 quốc gia. Kết thúc giải, đại diện 21 đoàn đã phấn khởi tham dự Hội nghị trù bị thành
lập Liên đoàn Vovinam thế giới.

9
Năm 2007 cũng diễn ra một sự kiện quan trọng. Sau nhiều năm chờ đợi, đến tháng 10
cùng năm, Đại hội thành lập Liên đoàn Vovinam Việt Nam đã diễn ra trong 2 ngày 19 và 2/10 tại
TPHCM. Gần 100 khách mời và đại biểu đã thông qua Điều lệ Liên đoàn, phương hướng hoạt
động và bầu Ban chấp hành niệm kỳ I (2007 – 2011) gồm 37 ủy viên (1 nữ). Hội nghị Ban chấp
hành lần thứ I (nhiệm kỳ I) đã bầu Ban Thường vụ gồm 13 thành viên. Ông Lê Quốc Ân – Chủ
tịch Hội đồng quản trị tập đoàn dệt may Việt Nam – được tín nhiệm vào chức vụ Chủ tịch Liên
đoàn. Trong 6 Phó Chủ tịch, võ sư Nguyễn Văn Chiếu đảm nhận nhiệm vụ Phó Chủ tịch phụ
trách kỹ thuật. Chức vụ Tổng thư ký được giao cho võ sư Võ Danh Hải. Đây là cột mốc mới
mang tính lịch sử trong tiến trình phát triển VVN-VVĐ và đưa môn võ này vươn lên tầm vóc cao
hơn trong quá trình thể thao hóa. Tuy mới ra đời chưa tròn 1 năm, nhưng với nỗ lực của các
thành viên Ban chấp hành cùng tất cả võ sư, HL và môn sinh, Liên đoàn tổ chức thực hiện được
một số công việc quan trọng như: phối hợp cùng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du Lịch và Ủy ban
Olympic Việt Nam tiếp tục vận động đưa Vovinam vào chương trình thi đấu chính thức tại Asian
Indoor Games lần thứ 3-2009; vận động Saigon Invest Group tài trợ cho tài khóa 2008; phối hợp
với Văn phòng Tổ đường tổ chức các kỳ thi thăng đai cấp quốc gia (từ Chuẩn hồng đai trở lên),
xây dựng Quy chế hoạt động chuyên môn mới; cập nhật nội dung khảo hạch lý thuyết tinh thần
võ đạo, kỹ thuật Vovinam để in thành sách; phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch mở
lớp tập huấn kỹ thuật Vovinam dành cho các nước châu Á từ ngày 14 đến 28/7/2008; vận động
thành lập Liên đoàn Vovinam thế giới…
Sau trên 30 năm trải qua không ít gập ghềnh, được sự quan tâm của ngành TDTT các cấp,
sự cố vấn, hỗ trợ của võ sư Chưởng môn cùng sự tận tụy, hy sinh của tất cả võ sư, HLV và môn
sinh; hiện nay VVN-VVĐ thu hút khoảng trên 30.000 môn sinh thường xuyên luyện tập tại hầu
hết các tỉnh phía Nam và một số tỉnh ở phía Bắc như :Quảng Bình, Thanh Hóa, Hà Nội, Hòa
Bình, Lai Châu, Yên Bái, Lạng Sơn, Phú Thọ, Hà Tây, Lào Cai… Nhiều tỉnh, thành đã thành lập
Hội Vovinam địa phương, tổ chức các giải vô địch, trẻ, thiếu niên nhi đồng, Hội Khỏe Phù
Đổng… hàng năm cũng như đầu tư đào tạo lực lượng VĐV, HLV… Nhờ vậy, chất lượng chuyên
môn đang từng bước tăng tiến, trong đó có một số đơn vị phát triển khá mạnh như: TP.HCM,
Khánh Hòa, Cần Thơ, Đồng Nai, Vĩnh Long…
Trong quan hệ quốc tế, VVN-VVĐ Việt Nam từng biểu diễn tại các Lễ hội võ thuật
truyền thống khu vực và thế giới ở Thái Lan, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp… và được nhiệt

10
liệt hoan nghênh. Nhiều lớp tập VVN-VVĐ đã được mở ra ở khắp năm châu như: Pháp, Đức,
Thụy Sĩ, Ý, Anh, Tây Ban Nha, Hà Lan, Italia, Nga, Belarussia, Ucraina, Ba Lan, Canada, Mỹ,
Peru, Morocco, Burkina Faso, Senegal, Bờ Biển Ngà, Tunysie, Algerie, Cambodia, Philippines,
Thái Lan, Singapore, Ấn Độ, Australia, Iran, Ấn Độ… và sắp tới có thêm Lào, Brunei… Hằng
năm, các nước Pháp, Ý, Thụy Sĩ… thường tổ chức giải thi đấu quốc tế với sự hiện diện của võ sĩ
các nước lân cận. Trên tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, nhiều đoàn võ sư, HLV, môn sinh
nước ngoài đã về đất tổ viếng cố võ sư Sáng tổ, chào võ sư Chưởng môn Lê Sáng, tập huấn kỹ
thuật, thi thăng cấp và biểu diễn tại TPHCM, Nha Trang, Bình Định, Cần Thơ, Hà Nội…
Kể từ mùa thu năm 1938, trải qua không biết bao nhiêu thăng trầm, từ một môn phái
manh nha tại thủ đô Hà Nội, VVN-VVĐ đang phát triển vượt bậc và mở rộng đến nhiều nơi trên
thế giới, trở thành một môn phái được đông đảo bạn bè khắp năm châu hâm mộ và xem đó là
một triết lý sống mang tinh thần nhân văn và thượng võ. Song song đó, VVV-VVĐ cũng đã trở
thành một môn thể thao được nhiều quốc gia công nhận đồng thời được Ủy ban Olympic châu Á
đồng ý đưa vào chương trình thi đấu chính thức tại Asian Indoor Games lần 3 năm 2009. Năm
2011, Vovinam lần đầu tiên được đưa vào chương trình thi đấu chính thức tại SEA Games 26.
Đạt được những thành quả trên là cả một quá trình phấn đấu, chung vai đấu cật của nhiều thế hệ
võ sư, HLV, môn sinh theo bước chân mở đường của cố võ sư Sáng tổ. Điều đáng quý là tuy có
những giai đoạn phải đối mặt với rất nhiều thách thức do những tác động khách quan lẫn chủ
quan, nhưng với tấm lòng thiết tha, tận tụy phục vụ môn phái, đội ngũ võ sư, HLV và môn sinh
VVN-VVĐ đã khắc phục không ít khó khăn trong cuộc sống để vững tâm xây dựng, duy trì và
phát triển phong trào ở từng nơi, từng thời điểm.
Có thể nói, chặng đường hình thành và phát triển của VVN-VVĐ là chặng đường rất
ngắn so với lịch sử xã hội, nhưng VVN-VVĐ đã có những đóng góp nhất định vào phong trào
TDTT của đất nước và thế giới. Tuy nhiên, để có thể sớm sánh vai cùng các môn võ khác, môn
phái cần nghiêm khắc nhìn lại các hạn chế của mình. Trên tinh thần VVN-VVĐ là một đại gia
đình, tất cả võ sư và HLV cần đoàn kết, thống nhất tư tưởng, ý chí và hành độngï, nhằm góp
phần đào tạo những thanh thiếu niên có lòng yêu nước, tri thức, sức khỏe, đức dũng, lòng nhân,
tinh thần hào hiệp và nếp sống văn minh, lành mạnh. Trong quá trình thể thao hóa môn võ, cần
tích cực và khẩn trương đào tạo đội ngũ HLV, Trọng tài, nhất là lực lượng trẻ (có trình độ tri
thức, ngoại ngữ, vi tính…), chú trọng giáo dục tinh thần thượng võ, tôn sư trọng đạo; sắp xếp
chương trình huấn luyện hợp lý và biên soạn chương trình riêng cho một số đối tượng như: thiếu
nhi, lực lượng vũ trang…; tiếp tục biên soạn và ấn hành sách kỹ thuật; nghiên cứu, cải tiến luật
thi đấu theo tinh thần Olympic, nhất là phương pháp thi đấu đối kháng và hội thi kỹ thuật để tăng
thêm tính hấp dẫn; chấn chỉnh kỷ cương nội bộ, xây dựng phong cách làm việc dân chủ và khoa
học…
Nhìn lại chặng đường hình thành và phát triển trên, từng môn sinh, HLV, võ sư có quyền
tự hào về những thành quả tốt đẹp môn phái đã giành được nhưng không thể mải mê với “ánh
hào quang” mà phải nghiêm túc tự soi rọi lại các ưu, khuyết điểm của bản thân để tiếp tục tu
dưỡng đạo đức, rèn luyện chuyên môn, khiêm tốn, không ngừng học hỏi, nâng cao kiến thức về
mọi mặt; yêu thương, giúp đỡ, tôn trọng, hòa hợp cùng đồng môn nhưng mạnh dạn đấu tranh với
những trì trệ hầu đưa môn phái vững vàng tiến bước cũng như thực hiện ngày một tốt hơn lời dạy
của cố võ sư Sáng tổ môn phái: phục vụ dân tộc và nhân loại.

11
B. VÕ PHỤC:
Từ năm 1938 đến năm 1964, Vovinam không có võ phục chính thức của
mình. Sau cuộc gặp mặt các võ sư Vovinam lần đầu tiên, tổ chức vào năm
1964, màu võ phục chính thức là màu lam. Tuy nhiên phân nhánh ly khai Việt
Võ Đạo Federation dùng võ phục màu đen trong những năm 1973-1990. Từ
năm 1990 cho đến nay, võ phục Vovinam trên toàn thế giới dùng thống nhất
màu lam.
Hệ thống đai đẳng và thời gian luyện tập:
 Tự vệ nhập môn: Có hai cấp là Tự vệ (đai xanh màu da trời) và Nhập môn (Ðai xanh dương
đậm). Thời gian luyện tập mỗi cấp là 3 tháng. Danh xưng: Võ sinh.
 Lam đai: Ðai xanh dương đậm có gạch vàng, ba cấp. Thời gian luyện tập mỗi cấp là 6 tháng.
Danh xưng: Môn sinh.
 Hoàng đai không vạch: Đai vàng trơn. Thời gian luyện tập là 2 năm. Quyết định sử dụng Đai
vàng trơn của Hội Đồng Võ Sư Chưởng Quản Môn Phái được thi hành vào ngày 1 tháng 1
năm 2012 với mục đích thay thế Đai đen (Huyền đai) trước đây. Danh xưng: Hướng dẫn
viên.
 Hoàng đai có vạch: Ðai vàng có gạch đỏ, ba cấp. Thời gian luyện tập mỗi cấp lần lượt là 2
năm, 3 năm, 4 năm. Danh xưng: Huấn luyện viên.
 Chuẩn hồng đai: Ðai đỏ có 2 viền vàng, một cấp. Thời gian luyện tập là 5 năm và trình tiểu
luận võ học khi thi thăng cấp Hồng đai. Danh xưng: Võ sư Chuẩn Cao đẳng.
 Hồng đai: Ðai đỏ có vạch trắng, sáu cấp. Thời gian luyện tập mỗi cấp là ít nhất 6 năm và
trình luận án võ học khi thi thăng cấp, danh xưng: Võ sư Cao đẳng.
 Bạch đai: Ðai trắng có 4 chỉ tứ sắc xanh, đen, vàng, đỏ, có 1 cấp. Thời gian luyện tập: vô
định. Ðây là đai cao nhất dành riêng cho võ sư Chưởng Môn môn phái. Ngày nay do môn
phái không còn chức vị Chưởng Môn nên Đai trắng chỉ còn nằm trong lịch sử môn phái.

12
Ý nghĩa màu đai:
Hiện tại, các màu đai có ý nghĩa như sau:
 Xanh lam: Tượng trưng cho màu hy vọng và biển cả, với ý nghĩa người võ sinh đang nuôi
hy vọng tiến sâu vào ngành võ thuật và tu dưỡng tinh thần võ đạo.
 Vàng: Tượng trưng cho màu Vương đạo của Á Đông, với ý nghĩa người võ sinh đang nuôi
hy vọng tiến sậu vào ngành võ thuât và tu dưỡng tinh thần võ đạo.
 Đỏ: Tượng Trưng cho màu máu, màu của lửa sống hào hùng kiên quyết, với ý nghĩa võ thuật
và tinh thần võ đạo đã ngấm vào máu huyết, đang lưu thông trong thân thể người môn sinh.
 Trắng: Tượng trưng cho màu xương, với ý nghĩa võ thuật và tinh thần võ đạo đã ngấm sâu
vào xương tủy, biến căn cốt con người biểu trưng cho tinh hoa môn phái.
Trong một số giai đoạn lịch sử, màu đai từng có ý nghĩa như sau:
 Xanh lam: Ban đầu là "màu hy vọng" như hiện nay.
 Đen: Màu của nước, với ý nghĩa võ thuật và võ đạo đã chuyển thành bản thể. Ban đầu không
có màu đen cho đai. Nhưng từ khi Vovinam chính thức ra với quốc tế, nên các võ sư đã
thống nhất cho thêm màu đai đen để có một cấp bậc tương đương với đẳng cấp quốc tế.
Nghĩa là môn sinh mang đai đen Vovinam sẽ tương đương đẳng cấp với các môn sinh đai
đen của các võ phái khác đã được quốc tế hóa (như đai đen của Karatedo, Taekwondo,…).
Đến năm 2012, đai đen được thay thế bởi đai vàng trơn do Hội đồng Chưởng quản quyết
định đưa màu đai vàng truyền thống trở lại để thay đai đen cho cấp này, trong bối cảnh
Vovinam đã phát triển rộng khắp và màu đai truyền thống của Vovinam không còn là điều
xa lạ đối với bạn bè 5 châu.
 Vàng: Ban đầu là màu của da, với ý nghĩa võ thuật và võ đạo đã bao trùm thân thể cho người
môn sinh, bảo vệ vững chắc cho người môn sinh. Khi xưa, Vovinam chỉ dạy cho người Việt,
chưa du nhập ra quốc tế, nên màu vàng biểu thị cho màu da của người Việt, là người da
vàng. Đến khi Vovinam trở nên quốc tế hóa với các môn sinh da vàng, da trắng, da đen đến
từ khắp nơi trên toàn thế giới, có một thời gian ý nghĩa màu đai vàng đã sửa thành "màu của
đất". Đến ngày nay thì sửa thành "màu của Vương đạo Á Đông" như trên.
 Đỏ: Ban đầu là màu của máu như hiện nay. Có một thời gian sửa thành màu của lửa, với ý
nghĩa võ thuật và võ đạo đã bốc cao như lửa.
 Trắng: Ban đầu là màu của xương như hiện nay. Có một thời gian sửa thành màu của sự
thanh khiết, với ý nghĩa võ thuật và võ đạo đã trở nên cao độ, chân tịnh, thiêng liêng nhất.
Màu đai này chỉ dành cho Chưởng Môn môn phái.

13
C. VÕ THUẬT:
Cũng như các võ phái khác, kỹ thuật Vovinam Việt Võ Đạo vận dụng các nguyên lý khoa
học vào võ thuật như: lực ly tâm (các thế xoay người, gạt, đỡ, đấm, đá, chỏ… theo hình vòng
cung hoặc vòng tròn); lực đòn bẩy (các thế bẻ, khóa, gài, móc, chặn…); lực xoáy (các thế đấm
thẳng…); lực co gấp và sức bật (các đòn quăng, quật, vật, nhảy…). Nhưng nguyên lý khoa học
này giúp võ sinh Vovinam Việt Võ Đạo ít hao tốn sức lực khi tập luyện cũng như lúc thi triển
đòn thế mà vẫn đạt hiệu quả cao.
Đặc biệt, các đòn chém quét, chém triệt, chỏ triệt (lực tay và chân đánh cùng lúc nhưng
nghịch chiều), triệt ngã (lực tay và lực chân đánh cùng lúc và cùng chiều) cũng có thế đòn chân
tấn côngtung chân bay đạp, quật ngã bằng cách quặp cổ (bất ngờ tung ra khi đối phương bất cẩn,
lảo đảo…).Đòn chân tấn công còn là một đặc trưng kỹ thuật quan trọng của Vovinam Việt Võ
Đạo.
Đòn thế Vovinam được đưa vào hệ thống "Một phát triển thành Ba" nên tất cả các đòn
thế được tập luyện từ thế căn bản (tấn công, phản đòn, khóa gỡ,…), qua đơn luyện (quyền pháp,
chiến lược,…) và đến các dạng đa luyện (song luyện, đối luyện, tam đấu, tứ đấu,…). Võ thuật
Vovinam đa dạng và thức thời, phù hợp với nhiều lứa tuổi.

Từ xưa đến nay Vovinam nổi tiếng với 3 đòn:

* Chỏ (vì thế trong một số cuộc thi song đấu đối
kháng Vovinam, môn sinh không được phép dùng chỏ, vì
Vovinam dùng chỏ rất mạnh)

* Chém quét (chém một bên, dùng chân đá quét chân đối
phương bên kia, 2 lực trái chiều sẽ khiến đối phương ngã)

* Đòn chân tấn công (Sử dụng các kỹ thuật cả 2 chân để


quật ngã đối phương, Vovinam có tất cả 21 đòn chân tấn công)

14
Trong thời gian phong trào "Võ Thuật học đường" (1965), vì không đủ huấn luyện viên
có rất nhiều huấn luyện viên của các môn phái võ nước ngoài và võ cổ truyền tham gia vào
Vovinam. Họ đã mang nhiều kỹ thuật của các môn võ khác bổ sung vào Vovinam.
Ví dụ: Võ sư Nguyễn Hữu Nhạc của võ đường Sa Long Cương đã mang bài Long Hổ
Quyền vào Vovinam. Đây là một trong những bài quyền được coi là rất đặc trưng của Vovinam.
Vì lý do nói trên, hệ thống kỹ thuật của Vovinam sau thời "Võ thuật học đường" đã khác
một cách cơ bản so với hệ thống võ thuật do võ sư Nguyễn Lộc truyền dạy.

15
D. VÕ ĐẠO:

Chủ thuyết "cách mạng tâm thân" là phần thực dụng của vũ trụ quan, nhân sinh quan của
Việt Võ Đạo, nhưng không phải là triết học, và không bị ảnh hưởng của nhị nguyên luận. Chủ
thuyết giáo dục người Việt mới, về tâm và thân. Đó không phải là lý thuyết, mà là ứng dụng thực
tế vào mọi sinh hoạt võ học, với các định lý: tâm thân phối triển, cương nhu phối triển, tri hành
phối triển, việt ngã, độ tha, và thăng hóa, cả tâm hồn và thân chất, để truyền thông, nghị lực mới
với các thế hệ môn sinh kế tục, đòi hỏi tính kiên trì để học, hỏi, hiểu, và hành.
Môn sinh Vovinam luôn tự thực hiện cuộc "cách mạng Tâm Thân" để phát triển toàn diện
về tâm, trí và thể. Ngoài việc luyện tập đòn thế để thân thể cường tráng, dẻo dai và khỏe mạnh,
môn sinh Vovinam còn trau dồi một tâm hồn thanh cao, hiến ích, tự tin, can đảm, cao thượng, bất
khuất và tính nhân bản theo lời dạy của võ sư Nguyễn Lộc "sống cho mình, giúp cho mọi người
khác sống, sống cho mọi người".
Võ đạo của Vovinam còn được xem như một nhân cách sống hay một triết lý làm người.

10 điều tâm niệm khi xưa


1. Đạt tới cao độ của nghệ thuật để phục vụ dân tộc và nhân loại.
2. Trung kiên phát huy môn phái, xây dựng thế hệ thanh niên Việt Võ Đạo.
3. Đồng tâm nhất trí, tôn kính người trên, thương mến đồng đạo.
4. Tuyệt đối tôn trọng kỷ luật, nêu cao danh dự võ sĩ.
5. Tôn trọng các võ phái khác, chỉ dùng võ để tự vệ và bênh vực lẽ phải.
6. Chuyên cần học tập, rèn luyện tinh thần, trau dồi đạo hạnh.
7. Sống trong sạch, giản dị, trung thực và cao thượng.
8. Kiện toàn một ý chí đanh thép, thắng phục cường quyền và bạo lực.
9. Sáng suốt nhận định, bền gan tranh đấu, tháo vát hành động.
10.Tự tín, tự thắng, khiêm cung, độ lượng, luôn kiểm điểm để tiến bộ.

16
10 điều tâm niệm hiện nay
10 điều tâm niệm theo chương trình võ đạo mới nhất do võ sư Nguyễn Văn Chiếu biên soạn và
công bố từ năm 2009:
1. Việt võ đạo sinh nguyện đạt tới cao độ của nghệ thuật để phục vụ dân tộc và nhân loại.
Điều này nói về hoài bão và mục đích học võ. Người học võ trước hết phải có hoài bão lớn
lao là mong đạt tới mức độ siêu việt, tâm nguyện của người học võ là luôn muốn trau dồi nữa,
trau dồi mãi mãi, tới cao độ của nghệ thuật võ. Hơn nữa, Việt Võ Đạo Sinh học võ với mục đích
cao cả hơn đó là: Học võ để có thể giúp ích cho đồng bào nhiều hơn, học võ với ý thức phục vụ
chứ không phải với ý thức đàn áp.
2. Việt võ đạo sinh nguyện trung kiên phát huy môn phái, xây dựng thế hệ thanh niên
dấn thân hiến ích.
Điều này nói về nghĩa vụ đối với môn phái và dân tộc. Nghĩa vụ của người võ sinh đối với
môn phái là trung kiên phát huy môn phái chứ không phải là trung kiên riêng cho cá nhân nào,
chúng ta nên tích cực phát huy môn phái ngay cả những lúc không tập võ, nhất là thực tập tinh
thần võ đạo trong đời sống thường ngày. Còn nghĩa vụ đối với dân tộc là: Xây dựng thế hệ thanh
niên Việt Võ Đạo, cốt yếu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào.
3. Việt võ đạo sinh đồng tâm nhất trí, tôn kính người trên, thương mến đồng đạo.
Điều này nói về tình đoàn kết trong môn phái. Đây là điều quan trọng, vì có tình đoàn kết
chặt chẽ thì làm việc gì cũng nhanh, dễ thành công hơn, cũng chính lẽ đó mà Việt Võ Đạo Sinh
phải luôn giữ vững kỉ cương và không bao giờ chấp nhận một mầm mống chia rẽ nào. Người
dưới phải chân thành, tôn kính người trên và mọi người, tạo nên sức mạng vững chắc. Bên cạnh
đó, cần phải thương mến đồng đạo một cách tích cực, có thế mới đi tới niềm thông cảm sâu xa,
luôn nâng đỡ, dìu dắt nhau trong mọi hoàn cảnh.
4. Việt võ đạo sinh tuyệt đối tôn trọng kỷ luật, nêu cao danh dự võ sĩ.
Điều này nói về võ kỹ và danh dự võ sĩ. Một võ sinh gương mẫu phải là người luôn tôn trọng
kỷ luật tới mức tuyệt đối, đòi hỏi tinh thần tự giác ở mỗi người là trên hết. Người học võ cũng
không nên chú trọng nhiều quá đến danh dự cá nhân mà cũng nên đề cao danh dự của người võ
sĩ, danh dự chung của tập thể, một thứ danh dự vượt ra khỏi những tự ái cá nhân để hòa mình vào
nền võ đạo.
5. Việt võ đạo sinh tôn trọng các võ phái khác, chỉ dùng võ để tự vệ và bênh vực lẽ phải.
Điều này nói về ý thức dùng võ. Việt Võ Đạo Sinh học võ không phải để ganh hơn thua mà
ngược lại, người học võ phải thuần cẩn, lễ độ, giao hòa với các võ phái khác, với mục đích cùng
phát triển, phục vụ cho nền võ đạo dân tộc và nhân loại, thể hiện được phong thái hào hùng, cao
nhã của người võ sĩ chân chính, của Việt Võ Đạo Sinh chân chính. Một là dùng võ để tự vệ trong
đời tư như khi danh dự, quyền sống bị đe dọa… hai là dùng võ để bênh vực lẽ phải trong đời
công như chống bất công…
6. Việt võ đạo sinh chuyên cần học tập, rèn luyện tinh thần, trau dồi đạo hạnh.
Điều này nói về ý hướng học tập và đời sống tinh thần. người học võ phải tập trung tâm trí
vào một việc, một sự nghiệp nhất định, lo và cố gắng thực hiện đến hết sức mình, không quản
ngại khó khăn. Ngoài ra, cần phải rèn luyện, phát triển những đức tính tốt đẹp như: Lối sống
khỏe mạnh về cả thể chất lẫn tinh thần, luôn bao dung, điều hòa bản thân mình, tính cương

17
quyết, thẳng thắn, rèn luyện cho mình sự bình tĩnh để giải quyết sự việc nào đó theo chiều hướng
tốt hơn… Phẩm hạnh Việt Võ Đạo Sinh rất cần thiết cho sự rèn luyện tâm thân trong đời công
lẫn đời tư, người học võ cần biết lúc nào nên mềm, lúc nào nên cứng để thích ứng với mọi hoàn
cảnh.
7. Việt võ đạo sinh sống trong sạch, giản dị, trung thực và cao thượng.
Điều này nói về tâm nguyện sống. Việt Võ Đạo Sinh phải lắng tai, phải nhìn thẳng vào mọi
sự việc để giải quyết và cải thiện nó, đó chính là sự trong sạch, còn giản dị đối với Việt Võ Đạo
Sinh là những người bình thường thì cũng có những nhu cầu thông thường giống như bao người,
miễn sao không gây khó chịu cho một ai cả. Người học võ cần phải trung thực với môn phái, với
người trên và cả mọi người nữa, nhưng, trung thực phải là tự thắng mình để không bị nhiễm tính
gian trá, đó mới là phẩm cách xứng đáng của Việt Võ Đạo Sinh. Cuối cùng là việc rèn luyện đức
tính cao thượng, nên sẵn sàng tha thứ và cho đối phương cơ hội sữa chữa sai lầm, nhưng việc này
phải xuất phát từ cái tâm chứ không thể ép buộc được.
8. Việt võ đạo sinh kiện toàn một ý chí đanh thép, nỗ lực tự thân cầu tiến.
Điều này nói về việc rèn luyện ý chí. Là một Việt Võ Đạo Sinh cần phải tự rèn luyện một ý
chí đanh thép. Trước khi làm việc gì cũng cần suy nghĩ kĩ lưỡng rồi bắt tay vào thực hiện ngay
bằng khả năng sẵn có, bằng chính sức lực của mình, không nên lệ thuộc vào người khác quá
nhiều. Nếu gặp khó khăn, trở ngại thì cũng không được buông xuôi, làm tới cùng để hoàn thành
công việc mới thôi, và quan trọng nhất là không bao giờ để ý chí của mình phải khuất phục trước
cường quyền, bạo lực.
9. Việt võ đạo sinh sáng suốt nhận định, bền gan tranh đấu, tháo vát hành động.
Điều này nói về nếp suy cảm, nghị lực và tính thực tế. Việt Võ Đạo Sinh cần sáng suốt nhận
định để phân biệt và giải tỏa mọi khúc mắc, để biết rõ mặt trái và mặt phải của sự việc. Hơn nữa,
cần phải có nghị lực bền vững, sâu xa và chí khí lớn rộng mới làm nên nghiệp lớn, có thất bại gì
cũng không nản mà cần phải mạnh mẽ vượt qua, ta gọi đó là sự bền gan tranh đấu. Người học võ
phải hành động tháo vát, người đó phải thông minh, chủ động, nhiều sáng kiến hay và luôn yêu
người, kết hợp với người nhưng không dựa dẫm người. Đó cũng chính là ý nghĩa của điều 9.
10.Việt võ đạo sinh tự tín, tự thắng, khiêm cung, độ lượng, luôn luôn tự kiểm để tiến bộ.
Điều này nói về Đức sống và tinh thần cầu tiến. người học võ phải tin ở mình những gì tốt
đẹp nhất mà mình có, như ý chí, đạo đức, danh dự, niềm tin, khả năng võ thuật. phải thắng ở
mình những thoái hư, tật xấu, những vị kỷ yếu đuối trong con người của mình. Phải khiêm
nhường, cung kính với người trên hay người ở độ tuổi hơn mình. Phải đức độ, rộng lượng với
người dưới hay người nhỏ tuổi hơn mình, nó giúp ta dễ dàng gần hơn, thông cảm hơn, chia sẽ
hơn với lớp người trẻ tuổi.
Trong chặng đường tu dưỡng 10 điều tâm niệm trên, sẽ có lúc chúng ta mắc sai lầm, sẽ thấy
tội lỗi, mặc cảm. Nhưng nếu chúng ta cứ suốt ngày nghĩ mình vô dụng, bất tài, thiếu tự tin vào
bản thân thì không thể thành công được. Do đó, hãy luôn lạc quan, tự đứng lên và chinh phục tất
cả. nếu đã đạt được rồi, cũng không cho phép bản thân tự kiêu, tự mãn, mà nên nhìn lại chặng
đường đã qua với mục đích: “luôn luôn kiểm điểm để tiến bộ”.
Cuối cùng, việc tu dưỡng 10 điều tâm niệm này không đơn giản, nó khó hơn ta nghĩ rất
nhiều, không phải là chuyện dễ dàng gì như khi ta đọc nó trên giấy. Việt Võ Đạo Sinh cần phải

18
tu dưỡng không ngừng để diệt trừ những cái xấu xa, dơ bẩn, ngày càng hoàn thiện bản thân hơn,
để trở thành một người học võ chân chính.

Ý nghĩa phù hiệu môn phái :

Về mầu sắc :

- Xanh: biểu thị âm tố, tượng trưng cho biển cả và hy vọng.

- Đỏ: biểu thị dương tố, tượng trưng cho lửa sống và sự tranh đấu hào hung kiên quyết.

- Vàng: tượng trưng cho vương đạo Á Đông, mầu vàng của vinh quang hiển hách.

- Trắng: tượng trưng cho sự tinh khiết, thanh tịnh cao cả và thâm viễn tuyệt vời, với tính triết
không hình không sắc.

Về Hình nét:

- Vành ngoài do nửa hình vuông và nửa hình tròn ghép lại, tượng trưng cho sự phối hợp hài
hòa giữa cương và nhu, biểu thị cổ truyền của sự toàn chân, toàn mỹ.

- Hình tròn xanh đỏ tượng trưng cho Âm và Dương.

- Chữ S ở giữa tượng trưng cho bản đồ Việt Nam.

Ý nghĩ lối chào Nghiêm Lễ:

Khẩu quyết: Bàn tay thép đặt lên trái tim từ ái.

- Ý nghĩa:
Bàn tay thép tượng trưng cho cương, trái tim từ ái tượng trưng cho nhu, ý nói sức mạnh
phải luôn luôn đi đôi với lòng nhân ái,chỉ dung võ để tự vệ và bênh vực lẽ phải, bàn tay thép có
được do việc rèn luyện võ thuật mà tạo lên sức mạnh của người võ sĩ , sức mạnh về thể chất, sức
mạnh về tinh thần, sức mạnh ý chí nghị lực kiên cường không sợ khó không ngại khổ. Trái tim từ
ái có được từ việc thấm nhuần tinh thần võ đạo tư tưởng dụng võ của môn sinh Vovinam. Luôn
canh tân bản thân mình trên cơ sở kế thừa những giá trị có tính chất gốc rễ của đạo lý Việt Nam và
tiếp thu có chọn lọc những giá trị mới hợp với thời đại nhằm mục đích Sống, giúp người khác
sống và sống cho người khác

VI. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN VOVINAM TẠI ĐẠI HỌC FPT


Sau một thời gian nghiên cứu để lựa chon môn GDTC dành cho sinh viên Trường Đại học FPT.
Ngày 2/7/2007 trường Đại học FPT chính thức đưa môn Võ Vovinam vào chương trình giảng dạy
chính khóa cho toàn bô sinh viên khóa 1. Vovinam – Việt võ đạo là môn võ cổ truyền của dân tộc nên
cái đạo trong vovinam và nền tảng kỹ thuật của môn võ này được căn cứ và phát triển dựa trên cơ sở ý
thức hệ và thể trạng phù hợp với người Việt Nam. Do đó sinh viên Đại học FPT không gặp quá nhiều
19
khó khăn và trở ngại khi tiếp cận các triết lý và đòn thế của môn võ này. Việc đưa Vovinam trở thành
bộ môn GDTC cho sinh viên, Đại học FPT tiếp tục khẳng định một trong những cương lĩnh, những
tôn chỉ mục đích quan trọng của Nhà trường ngay từ khi thành lập đó là tôn vinh và xây dựng những
giá trị nhân văn, hướng về dân tộc, cội nguồn, rèn luyện tinh thần, lối sống lành mạnh cho sinh viên.
Với mong muốn sinh viên kế thừa và phát huy những truyền thống và tinh hoa ấy, được phát triển
không chỉ về mặt thể chất mà còn được rèn luyện về tinh thần tôn sư trọng đạo, quan hệ đồng môn “
coi đồng môn như thủ túc”, tính kỷ luật, ý chí tạo nên con người có nhân cách. Ngoài ra sinh viên Đại
học FPT khi ra trường sẽ có cơ hội làm việc tại nhiều môi trường mang tính toàn cầu hóa nên việc
được rèn luyện võ thuật, đặc biệt là môn võ Vovinam sẽ góp phần tạo cho sinh viên tác phong đĩnh
đạc, kỷ luật trong công việc. Khi tham gia vào các buổi giao lưu văn hóa giữa các quốc gia các em có
một nền tảng văn hóa và kiến thức, giới thiệu những nét tinh hoa của dân tộc qua các bài quyền, các
động tác của môn võ Vovinam. Sự khác biệt này đã mang lại rất nhiều giá trị ý nghĩa cho sinh viên
nên ngay từ những ngày đầu thành lập Nhà trường đã được các bậc phụ huynh hết sức tin tưởng khi
gửi gắm con em mình với mong muốn tạo cho các em nếp sống kỷ luật, có ý thức trách nhiệm với bản
thân, gia đình và xã hội. Chính vì thế, Nhà trường rất trú trọng tới việc rèn luyện thể chất và coi đây là
một hướng đào tạo chiến lược cho sinh viên.
Những năm trước đây do Nhà trường đang xây dựng Campus trên Khu công nghệ cao Hòa Lạc
nên điều kiện cơ sở vật chất chưa được đảm bao, chính vì thế địa điểm tập luyện phải đi thuê tại các
trung tâm bên ngoài, chính vì vậy các bạn sinh viên chỉ có thể tập luyện những giờ chính khóa còn
hầu như việc trau dồi kỹ thuật, rèn luyện thêm ngoài giờ gặp nhiều khó khăn. Hiện nay sau khi
Campus Đại học FPT Hòa Lạc được đưa vào hoạt động với các hạng mục công trình thể thao hiện đại
như sân trượt băng, sân bóng đá nhân tao, sân bóng rổ, bóng chuyền và đặc biệt là sân tập Vovinam
đảm bảo thoáng mát, được trang bị đầy đủ 1000m thảm tập, đích đá, găng, giáp, phòng tập thể lực với
các những thiết bị hiện đại. Chương trình môn học được xây dựng và thiết kế khoa học phù hợp với
thể lực và trình độ của sinh viên nên đã mang lại những kết quả hết sức thành công. Cụ thể là sự lực
lượng sinh viên tham gia tập luyện tại CLB Vovinam ngày càng đông đảo, chất lượng chuyên môn
của đội tuyển Vovinam Đại học FPT ngày một nâng cao. Đặc biệt hơn khi ngày 18/11/2018 sinh viên
Trường Đại học FPT đã vinh dự và tự hào khi tạo nên mốc son đáng nhớ trong việc xác lập kỷ luật
Guiness với màn đồng diễn hoành tráng 7000 môn sinh trên toàn hệ thống giáo dục FPT. Điều này
cho thấy sự phát triễn bền vững trong công tác đào tạo và giáo dục của thầy và trò Nhà trường
Tuy nhiên để duy trì và phát triển bộ môn ngày một vững mạnh thì cần sự nỗ lực, cố gắng của
cả thầy và trò trong công tác nghiên cứu và xây dựng chương trình ngày càng hoàn thiện hơn, thực
tiễn hơn, đa dạng hơn. Bên cạnh đó cũng rất mong sự quan tâm hơn nữa từ phía liên đoàn Vovinam
Hà Nội để phong trào tập luyện Vovinam tại Nhà trường cũng như phong trào trên địa bàn Hà Nội
20
được phát triển và nhân rộng, trở thành môn thể thao mang tính xã hội hóa. Vì chỉ có như vậy
Vovinam mới khẳng định được vị thế là môn quốc võ mang những tinh hoa của dân tộc Việt Nam,
sánh ngang với các môn võ thuật của các nước trong khu vực và trên thế giới.

21

You might also like