Professional Documents
Culture Documents
I. Mục đích
Hình 1: Tàu ‘Prestige’ (26 tuổi) gẫy đôi và chìm 70000 tấn dầu ở
biển tây bắc Tây Ban Nha.
1/9
Bài thí nghiệm: Xác định tốc độ ăn mòn và hiệu quả bảo vệ kim loại.
Hình 2: Năm 2000, tàu Erika (25 tuổi) chìm ở cách bờ biển nước
Anh 40 dặm, gây ô nhiễm nặng nề.
Hình 3: Máy bay nhỏ Harrier bị gãy bánh xe sau khi tham chiến
ở Faltlands (1982).
Quá trình ăn mòn phá huỷ kim loại thường xảy ra theo hai cơ chế
hoá học và điện hoá học, trong đó ăn mòn điện hoá học là phổ biến và
nguy hại hơn cả.
Các giải pháp chống ăn mòn vật liệu gắn liền với việc xác định
tốc độ ăn mòn của vật liệu trong các môi trường khác nhau. Bên cạnh
đó, việc áp dụng các phương pháp bảo vệ chống ăn mòn cũng gắn liền
với các phép đo ăn mòn.
Có thể nghiên cứu tốc độ ăn mòn kim loại trong môi trường sử
dụng (phương pháp phơi mẫu tự nhiên) hoặc môi trường gia tốc (trong
phòng thí nghiệm) bằng nhiều phương pháp khác nhau trong đó cổ điển
nhất là phương pháp khối lượng (dựa trên khối lượng kim loại bị hao
2/9
Bài thí nghiệm: Xác định tốc độ ăn mòn và hiệu quả bảo vệ kim loại.
hụt khi kim loại loại tiếp xúc với môi trường ăn mòn). Tuy nhiên
phương pháp này đòi hỏi thời gian thí nghiệm lâu và không cho biết
thông tin về cơ chế của quá trình ăn mòn. Sự ra đời của các phương
pháp điện hoá giúp khắc phục những nhược điểm trên. Về cơ bản,
phương pháp điện hoá là một kỹ thuật gia tốc ăn mòn để nghiên cứu độ
bền ăn mòn, cơ chế ăn mòn và bảo vệ của chất ức chế được thực hiện
trong phòng thí nghiệm với sự hỗ trợ của các máy đo điện hoá.
3/9
Bài thí nghiệm: Xác định tốc độ ăn mòn và hiệu quả bảo vệ kim loại.
Trong đó, quá thế (η) là độ phân cực thế điện cực so với thế ăn
mòn.
Khi phân cực lớn, thì phương trình (1) có thể đơn giản gần đúng
như sau:
- Nếu độ phân cực dương lớn (phân cực anốt), thì phương trình
catốt có thể bỏ qua. Khi đó:
α nF
icorr exp
i ≈ ia = η hay η = − 2.3RT log icorr + 2.3RT log ia (2)
RT αnF αnF
- Nếu độ phân cực âm lớn (phân cực catốt), thì phương trình anốt
có thể bỏ qua. Khi đó:
− β nF 2.3RT 2.3RT
icorr exp
i ≈ ic = = η hay η log icorr − log ic (3)
RT βnF βnF
Một cách tổng quát, phương trình (2), (3) có dạng chung là:
η = a + b log i
Phương trình này phù hợp với phương trình thực nghiệm Tafel đưa ra
năm 1905. Vì vậy, phần đoạn thẳng của đồ thị η − log(i ) được gọi là
đường thẳng Tafel. Độ dốc của đoạn thẳng gọi là độ dốc Tafel. Chúng
có thể dùng để xác định các thông số động học của phản ứng và hệ số
chuyển điện tích (α).
4/9
Bài thí nghiệm: Xác định tốc độ ăn mòn và hiệu quả bảo vệ kim loại.
khoảng -250 mV so với thế mạch hở (OCP), và tăng dần về phía thế
anốt đến khoảng +250 mV so với OCP.
Hình 6: Đồ thị Tafel với nhánh anốt và catốt trên cùng một phép đo.
III.3. Cách xác định mật độ dòng ăn mòn theo phương pháp ngoại
suy Tafel
Mật độ dòng ăn mòn được xác định trực tiếp từ đồ thị Tafel.
Dòng ăn mòn được xác định là giao điểm của phần nhánh anốt và catốt
tuyến tính ngoại suy đến thế mạch hở.
Hình 6: Cách xác định mật độ dòng ăn mòn theo phương pháp
ngoại suy Tafel.
Từ mật độ dòng ăn mòn, có thể tính tốc độ ăn mòn theo phương
trình sau:
5/9
Bài thí nghiệm: Xác định tốc độ ăn mòn và hiệu quả bảo vệ kim loại.
III.4. Ứng dụng của việc bảo vệ chống ăn mòn kim loại.
Sau đây là một số ứng dụng của việc bảo vệ chống ăn mòn kim
loại trong công nghệp
Hình 7: Nhà máy sản xuất thép có sử dụng chất ức chế chống ăn
mòn kim loại trong hệ thống giải nhiệt.
Hình 8: Ứng dụng việc sử dụng chất ức chế chống ăn mòn trong
nhà máy điện hạt nhân.
6/9
Bài thí nghiệm: Xác định tốc độ ăn mòn và hiệu quả bảo vệ kim loại.
Hình 10: Turbin trong các nhà máy nhiệt điện có sử dụng chất ức
chế chống ăn mòn.
7/9
Bài thí nghiệm: Xác định tốc độ ăn mòn và hiệu quả bảo vệ kim loại.
8/9
Bài thí nghiệm: Xác định tốc độ ăn mòn và hiệu quả bảo vệ kim loại.
IV.4. Kỹ thuật đo
Trong phần thí nghiệm này, chúng ta sử dụng kỹ thuật phân cực
thế động để đo đường cong phân cực trong dung dịch H2SO4 0,1M theo
quy trình sau:
Lắp ráp hệ điện cực vào máy đo Potentiostat như ở hình
12.
Đo thế mạch hở (OCP) theo thời gian cho đến khi đạt giá
trị ổn định.
Quét thế catốt (OCP-250mV) sang anốt (OCP+250 mV).
Tốc độ quét thế là 5 mV/s.
9/9