You are on page 1of 33

Trần Gia Lộc

Dàn ý chi tiết


ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Một số từ viết tắt


BCH TW: Ban chấp hành Trung ương HCM: Hồ Chí Minh
CM: cách mạng KH: khoa học
CN: công nhân KHKT: khoa học kĩ thuật
CNCS: chủ nghĩa cộng sản KT: kinh tế
CNĐQ: chủ nghĩa đế quốc KTTT: kinh tế thị trường
CNH: công nghiệp hoá NAQ: Nguyễn Ái Quốc
CNH–HĐH: công nghiệp hoá – hiện đại hoá ND: nông dân
CNML: chủ nghĩa Marx–Lenin PK: phong kiến
CNTB: chủ nghĩa tư bản TBCN: tư bản chủ nghĩa
CNTD: chủ nghĩa thực dân TS: tư sản
CNXH: chủ nghĩa xã hội TT: tư tưởng
CSVC–KT: cơ sở vật chất – kĩ thuật TWĐ: Trung ương Đảng
CT: chính trị XHCN: xã hội chủ nghĩa
DT: dân tộc VH: văn hoá
ĐCS: Đảng Cộng sản VN: Việt Nam
ĐQ: đế quốc VS: vô sản

1
Trần Gia Lộc

Vấn đề 1:
Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị tư tưởng chính trị và tổ chức cho việc thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ý nghĩa việc thành lập Đảng.

I. MỞ BÀI
– NAQ là vị lãnh tụ đáng kính của dân tộc VN. Người có công lao to lớn trong việc dẫn dắt đưa CMVN đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Công lao to lớn đầu tiên mà chúng ta không thể không nhắc đến đó là
vai trò của Người trong việc thành lập ĐCSVN. Có thể nói, NAQ là người đầu tiên đã chuẩn bị chu đáo
các điều kiện về TTCT và tổ chức cho sự thành lập Đảng.
II. THÂN BÀI
1. Quá trình tìm đường cứu nước
– Người sinh ra tại Nghệ An trong một gia đình nho học giàu lòng yêu nước. Ngay từ nhỏ, Người đã có ý
chí đuổi thực dân, giải phóng đồng bào.
– Người rất khâm phục các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, … nhưng không nhất trí với con đường
cứu nước mà các cụ đã chọn. Người hướng đến các nước phương Tây, nơi được cho có TT tự do, dân
quyền, dân chủ và KHKT hiện đại, để xem họ làm như thế nào mà quốc gia họ độc lập hùng cường, rồi trở
về nước giúp đỡ đồng bào thoát khỏi xiềng xích nô lệ.
– 5/6/1911, từ bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên Nguyễn Tất Thành bắt đầu cuộc hành trình vạn dặm
trên con tàu Đô đốc Latouche–Tréville để tìm đường cứu nước.
– Trong suốt quá trình bôn ba (1911–1917), Người đã đến nhiều nước châu Âu, châu Phi và Mĩ Latin.
Người tham gia lao động, đấu tranh trong hàng ngũ giai cấp CN và nhân dân lao động đủ màu da. Người
nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn CM trên thế giới như CM Mĩ, CM Pháp. Người nhận thấy các
cuộc CM này là “chưa đến nơi”, là nửa vời, vì quần chúng nhân dân lao động vẫn bị bóc lột, đói khổ.
– Bước đầu Người rút ra kết luận quan trọng: ở đâu CNTB cũng tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu giai cấp CN
và nhân dân lao động cũng bị áp bức bóc lột dã man. Do đó, Người nhận rõ giai cấp CN và nhân dân lao
động các nước đều là bạn, CNĐQ ở đâu cũng là kẻ thù.
– Cuối 1917, Người trở lại Pháp. Trong những ngày hoạt động CM sôi nổi tại đây, cuộc CMT10 Nga bùng
nổ làm chấn động toàn cầu. Với sự nhạy cảm CT đặc biệt, Người hướng đến ánh sáng của CMT10 và chịu
ảnh hưởng sâu sắc TT của cuộc CM vĩ đại đó.
– 1919, Người gia nhập ĐXH Pháp, tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực các DT thuộc địa và theo đuổi lý
tưởng Tự do – Bình đẳng – Bác ái.
– 6/1919, thay mặt những người VN yêu nước tại Pháp, Người với tên gọi là NAQ đã gửi đến Hội nghị
Versailles Bản yêu sách của nhân dân An Nam. Bản yêu sách đòi chính phủ Pháp và các nước đồng minh
thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của nhân dân An Nam.
– Bản yêu sách đó không được Hội nghị Versailles chú ý đến, nhưng được báo chí tiến bộ Pháp công bộ
rộng rãi và gây ảnh hưởng CT vang đội. Sự kiện này đã giúp Người nhận thức rõ hơn bản chất thật của
CNĐQ, đó là những lời hứa của bọn ĐQ về việc trao quyền tự quyết cho các DT thuộc địa chỉ là trò lừa
bịp, muốn cứu nước, giải phóng DT thì tự chúng ta phải đứng lên giành lấy.
– 7/1919, NAQ đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề DT và thuộc địa của Lenin. Người rất
cảm động, phấn khởi. Bản Luận cương của Lenin đã đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết mà Người đang
ấp ủ: độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào. Từ đây, Người hoàn toàn tin theo Lenin, dứt khoát đứng
về Quốc tế III.
2
Trần Gia Lộc

– 12/1920, tại Đại hội ĐXH Pháp họp ở Tours, NAQ bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế III và tham
gia thành lập ĐCS Pháp, trở thành người CS đầu tiên của VN. Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, không
những NAQ từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận CM của thời đại là CNML, mà còn đánh dấu bước
chuyển quan trọng của con đường giải phóng DTVN: “muốn cứu nước và giải phóng DT không có con
đường nào khác con đường CMVS”.
– Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào CS quốc tế, NAQ xúc tiến mạnh mẽ việc
truyền bá CNML về nước, từng bước chuẩn bị về mặt TTCT và tổ chức để cho ra đời một chính đảng CS,
kịp thời dẫn dắt phong trào CM trong nước.
2. Quá trình chuẩn bị tư tưởng chính trị
– NAQ nhấn mạnh: CM muốn thành công phải có đảng CM chân chính lãnh đạo; đảng phải có hệ TT tiên
tiến, CM và KH dẫn đường, đó là hệ TT Marx–Lenin.
– 1921–1923, Người hoạt động tại Pháp. Tờ báo Người cùng khổ do Người chủ nhiệm kiêm chủ bút đã
vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của CNĐQ, thức tỉnh các DT bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự
giải phóng. Bên cạnh đó, Người còn viết nhiều bài đăng trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, …
Những sách báo của Người mặc dù bị kiểm soát nghiêm ngặt nhưng vẫn được bí mật đưa về nước, góp
phần thúc đẩy phong trào DT trong nước phát triển mạnh mẽ hơn.
– 6/1923, NAQ rời Pháp sang Liên Xô tham dự Hội nghị Quốc tế ND. Tại đây, Người có điều kiện trực
tiếp nghiên cứu lý luận CNML một cách có hệ thống, đi sâu nghiên cứu kinh nghiệm CMT10 Nga, cách
thức tổ chức và hoạt động của ĐCS. Người viết nhiều bài cho báo Sự thật, tạp chí Thư tín Quốc tế.
– 1924, tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần V, NAQ trình bày lập trường quan điểm của mình về vị trí chiến
lược của CM các nước thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong trào CN ở các nước ĐQ với phong trào CM
ở các nước thuộc địa, về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp ND ở các nước thuộc địa.
– 1925, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của NAQ được xuất bản. Bằng những dẫn chứng cụ thể,
sinh động, Bản án chế độ thực dân Pháp đã đanh thép tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân Pháp đối với
các nước thuộc địa. Bản án chế độ thực dân Pháp đã đánh thức tinh thần DT, hướng nhân dân các nước
thuộc địa đến con đường giải phóng DT của thời đại CMVS. Nhờ tác phẩm đó và các bài viết khác của
NAQ, nhân dân ta, trước hết là những người trí thức tiểu TS yêu nước, tiến bộ đã hướng về và tiếp thụ
CNML.
– 1927, những bài giảng của NAQ cho lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu được tập hợp thành cuốn sách
Đường Kách mệnh. Trong tác phẩm quan trọng này, NAQ nêu ra những TT cơ bản về chiến lược và sách
lược của CMVN.
– Đường Kách mệnh nêu rõ những hạn chế của CMTS ở Mỹ (1776), ở Pháp (1789) và khẳng định chỉ có
CMT10 Nga là cuộc CM triệt để nhất.
– Đường Kách mệnh nhấn mạnh rằng CM là sự nghiệp của quần chúng. Nêu rõ lực lượng CM bao gồm
“sỹ, nông, công, thương”, trong đó công–nông là “chủ cách mệnh”.
– Đường Kách mệnh còn xác định rõ CMVN là một bộ phận của CM thế giới. Phải thực hiện sự liên minh
đoàn kết giữa các lực lượng CM ở thuộc địa và chính quốc.
– Đường Kách mệnh khẳng định muốn đưa CM đến thắng lợi trước hết phải có đảng lãnh đạo, và đảng đó
cần lấy CNML làm kim chỉ nam.

3
Trần Gia Lộc

3. Quá trình chuẩn bị tổ chức


– Cũng trong thời gian này, Người tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và đào tào các cán bộ Đảng.
– 1921, được sự giúp đỡ của ĐCS Pháp, NAQ cùng các chiến sĩ CM ở nhiều nước thuộc địa của Pháp lập
ra Hội liên hiệp thuộc địa. Hội liên hiệp thuộc địa được thành lập nhằm tập hợp tất cả những người ở thuộc
địa sống trên đất Pháp đấu tranh chống CNTD.
– 11/1924, NAQ đến Quảng Châu (Trung Quốc). Người cùng các nhà CM ở Trung Quốc, Ấn Độ, Thái
Lan, Triều Tiên, … thành lập Hội liên hiệp các DT bị áp bức. Đây là tổ chức đoàn kết các DT thuộc địa ở
châu Á, cùng nhau đứng lên đánh đổ CNĐQ, giành lại độc lập DT.
– Đặc biệt vào 6/1925, NAQ cùng với các đồng chí CMVN ở tại Quảng Châu thành lập nên Hội VNCM
thanh niên nhằm đạo tạo đội ngũ cán bộ CMVN. Trong đó nồng cốt là Cộng sản đoàn, cơ quan tuyên
truyền là tuần báo Thanh niên. Hội VNCM thanh niên được xem là tổ chức tiền thân của ĐCSVN
– 1928, Hội VNCM thanh niên thực hiện chủ trương “vô sản hoá”, đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ,
đồn điền cùng sống và lao động với CN để tự rèn luyện, đồng thời truyền bá CNML.
– Như vậy, đến cuối những năm 1929, phong trào CMVN đã phát triển lên đến đỉnh cao, bao gồm cả chất
và lượng. Đã có rất nhiều cuộc bãi công, biểu tình của CN liên tiếp nổ ra trong nước. Trước sự phát triển
đó, Hội VNCM thanh niên đã không còn đủ sức lãnh đạo phong trào CM. Tình hình CM lúc này đòi hỏi
bức thiết phải thành lập một ĐCS để tiếp tục lãnh đạo phong trào CMVN tiến lên.
– Chỉ trong vòng 4 tháng (6/1929 – 9/1929), cả nước lần lượt đã ra đời 3 tổ chức CS: ĐD CSĐ (6/1929),
An Nam CSĐ (8/1929) và ĐD CS Liên đoàn (9/1929). Sự xuất hiện của 3 tổ chức CS đánh dấu sự phát triển
vượt bậc của CMVN, chứng tỏ xu thế tất yếu của việc thành lập ĐCS trong phong trào DTVN.
– Nhưng trong một nước có 3 tổ chức CS cùng hoạt động riêng rẽ, thậm chí công kích lẫn nhau, gây nên
một trở ngại lớn cho phong trào CM. Tình hình đó nếu để kéo dài sẽ có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. Vì
vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải thống nhất các tổ chức CS thành một ĐCS duy nhất.
4. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
– Cuối 1929, những người CMVN trong các tổ chức CS đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải
thành lập một ĐCS thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào CS ở VN.
– Nhận được tin về sự chia rẽ của những người CS, NAQ rời Xiêm đến Hương Cảng (Trung Quốc).
– 6/1 – 7/2/1930, NAQ triệu tập hội nghị để hợp nhất các tổ chức CS tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung
Quốc). Tại hội nghị, Người phân tích sâu sát tình hình thế giới, đặc biệt phê phán sự chia rẽ và gạt bỏ mọi
hiểu lầm giữa các tổ chức CS. Hội nghị nhất trí hợp nhất các tổ chức CSVN thành đảng duy nhất, lấy tên
là ĐCSVN.
– Nhân dịp thành lập Đảng, NAQ viết Lời kêu gọi toàn thể nhân dân lao hãy gia nhập Đảng, đi theo Đảng
để đánh đổ ĐQ Pháp, PK An Nam và TS phản CM “làm cho nước An Nam được độc lập”.
– Hội nghị thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, và Chương trình tóm tắt do
NAQ soạn thảo. Tất cả các tài liệu này được xem là Cương lĩnh CT đầu tiên của Đảng ta.
– ĐCSVN ra đời đã gắn liền với vai trò vĩ đại của lãnh tụ NAQ, thể hiện rõ ở các vấn đề sau đây:
+ NAQ là người VN đầu tiên tiếp thu học thuyết CNML, đồng thời hướng CMVN đi theo con đường
CMVS và giúp CMVN thoát khỏi bế tắc đường lối cứu nước. Người đầu tiên gắn chặt ngọn cờ độc
lập DT với CNXH cho sự nghiệp CMVN.
+ Bằng phương pháp CM KH, sáng tạo và tinh thần cống hiến quên mình, NAQ đã tạo ra hệ thống
giao thông liên lạc bí mật, rất chặt chẽ, đa chiều từ nước ngoài về VN và ngược lại. Kết quả là Người
đã truyền bá thành công CNML, đánh lùi các TT cứu nước sai trái.

4
Trần Gia Lộc

+ Bằng uy tín và sự chuẩn bị chu đáo của mình, NAQ đã thống nhất thành công các tổ chức CS ở
VN, thành lập ra ĐCSVN. Tạo sự thống nhất về TTCT và tổ chức trong phong trào đấu tranh CM.
Đây là những điều kiện thiết yếu để đưa CMVN đi đến thành công.
+ ĐCSVN ra đời, đồng nghĩa với việc NAQ đã phá tan sự đơn độc tồn tại lâu đời, thiết lập nên sự
đoàn kết, thống nhất hành động giữa CMVN với CM thế giới.
5. Cương lĩnh Hồ Chí Minh
Cương lĩnh HCM đã xác định các vấn đề cơ bản của CMVN, cụ thể:
– Về phương hướng chiến lược của CMVN, Cương lĩnh đã xác định là “làm TS dân quyền CM và thổ địa
CM để đi tới XHCS”. Thực chất đó là một cuộc CM có 2 giai đoạn: CMTS dân quyền và CMXHCN. CMTS
dân quyền có mục đích là đánh đổ ĐQ và PK, giành độc lập DT và dựng nên chính quyền dân chủ, đưa
ruộng đất cho dân cày. CMXHCN là cuộc CM kế tiếp, có mục đích là xây dựng CNXH, CNCS để giải
phóng XH, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Qua đó, ta thấy rằng ngay từ đầu, Đảng đã nhận thức
rõ con đường phát triển tất yếu của CMVN là kết hợp và gương cao hai ngọn cờ độc lập DT và CNXH.
Đây là điều hoàn toàn đúng đắn vì nó phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của lịch sử nước ta.
– Về CT, Cương lĩnh xác định nhân dân ta phải đánh đổ ĐQCN Pháp và bọn PK, làm cho nước Nam được
hoàn toàn độc lập; dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông. Điều này thể hiện
tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Cương lĩnh đã giải quyết đúng 2 mâu thuẫn cơ bản của XHVN:
mâu thuẫn giữa DTVN với thực dân Pháp xâm lược; mâu thuẫn giữa ND với địa chủ PK. Trong đó, mâu
thuẫn giữa DTVN với thực dân Pháp là mâu thuẫn bao trùm, chi phối việc giải quyết các mâu thuẫn khác,
vấn đề giải phóng DT là vấn đề bức xúc nhất. Vì vậy, nhiệm vụ đánh đổ ĐQ giành độc lập DT được đặt
lên hàng đầu.
– Về KT, Đảng chủ trương tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của bọn ĐQ giao cho Chính phủ công nông,
tịch thu ruộng đất của bọn ĐQ để làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông
nghiệp, miễn thuế cho dân cày ngheo, thi hành luật ngày làm 8 giờ.
– Về VH–XH, dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công
nông hoá.
– Về lực lượng CM, Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp CN, thu phục được đa số dân cày; phải làm
sao lôi kéo tiểu TS, trí thức, trung nông, … theo giai cấp VS; bộ phận chưa rõ phản CM như phú nông,
trung tiểu địa chủ thì lợi dụng ít lâu cho họ đứng trung lập; bộ phận rõ mặt phản CM thì phải đánh đổ. Chủ
trương trên phản ánh TT đại đoàn kết DT của HCM.
– Cương lĩnh khẳng định lãnh đạo CM là giai cấp VS, Đảng là đội tiên phong. Đảng lấy CNML làm nền
tảng TT. Đảng là khối thống nhất ý chí và hành động. Đảng phải thường xuyên liên lạc với các giai cấp,
tầng lớp, lôi kéo, thu phục họ làm CM.
– Cương lĩnh nhấn mạnh CMVN là một bộ phận của CM thế giới. Đầu TK XX, CNTB đã chuyển sang
CNĐQ cho nên giai cấp TS và giai cấp VS đã trở thành 2 lực lượng đối kháng có tính quốc tế. Do đó giai
cấp VS VN muốn đánh đổ ĐQ Pháp phải thực hiện đoàn kết quốc tế, liên lạc với các DT bị áp bức và giai
cấp VS trên toàn thế giới, nhất là VS Pháp.
– Qua những nội dung cơ bản mà Cương lĩnh CT đầu tiên đã đề cập có thể thấy rằng, mặc dù còn sơ lược,
Cương lĩnh cũng đã nêu được những nội dung cơ bản của CMVN, thể hiện tính đúng đắn sáng tạo trong
việc vận dụng CNML trong phong trào CMVN. Vì vậy, Cương lĩnh thực sự có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn. Cụ thể:
+ Về lý luận, Cương lĩnh đã đóng góp vào kho tàng lý luận cho CMVN. Đó là lý luận về 2 giai đoạn
CM, lý luận về tính chất và nhiệm vụ CM, lý luận về vai trò lãnh đạo của ĐCS.
+ Về thực tiễn, Cương lĩnh đã xác định sớm và đúng đắn đường lối CMVN trong điều kiện Đảng vừa
mới ra đời và nắm quyền lãnh đạo CM. Đề ra được chiến lược tập hợp đại bộ phận DT vào trong cuộc
5
Trần Gia Lộc

đấu tranh CM để tạo thành sức mạnh toàn dân nhằm thúc đẩy quần chúng đứng lên đấu tranh dẫn đến
những thắng lợi CM to lớn về sau.
– Cương lĩnh CT ra đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối CM nước ta, đưa CMVN đi theo đúng
quĩ đạo CMVS thế giới.
– Cương lĩnh CT đầu tiên là ngọn đuốc soi đường cho CMVN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Và
đến nay đường lối CM cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn không có gì thay đổi so với Cương lĩnh
HCM, điều đó đã thể hiện tính đúng đắn của Cương lĩnh trong thực tế.
6. Ý nghĩa việc thành lập Đảng
– Sự kiện ĐCSVN ra đời là sự kiện lịch sử trọng đại, một bước ngoặt trong lịch sử CMVN, đánh dấu một
mốc son chói lọi trên con đường phát triển của DT ta.
– ĐCSVN ra đời là một tất yếu khách quan, là kết quả của quá trình đấu tranh DT và giai cấp VN lâu dài
trong thời đại mới. Sự ra đời của ĐCSVN còn khẳng định sự trưởng thành của giai cấp CNVN. Họ đã đủ
sức trở thành lực lượng lãnh đạo CM.
– Đảng là sản phẩm của sự kết hợp CNML với phong trào CN và phong trào yêu nước của nhân dân VN.
Chủ tịch HCM là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp
và DT, DT và quốc tế, độc lập DT với CNXH.
– ĐCS ra đời đã chấm dứt thời kì bế tắc, khủng hoảng về đường lối giải phóng DT, giai cấp lãnh đạo CM
kéo dài mấy chục năm đầu TK XX. Các phong trào CM trước đó nổ ra thiếu đường lối đúng đắn, thiếu KH,
thiếu giai cấp lãnh đạo, thiếu hệ TT rõ ràng, thiếu tổ chức tiên phong lãnh đạo. Đảng ra đời đã đưa giai cấp
CN lên lãnh đạo CM, đưa ra con đường cho CMVN là độc lập DT gắn liền với CNXH.
– Hội nghị hợp nhất các tổ chức CS thành một ĐCS duy nhất ở VN theo đường lối CT đúng đắn đã tạo nên
sự thống nhất về TTCT và hành động của phong trào CM cả nước. Chính đường lối CMVS này là cơ sở
đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn DT cùng chung TT và hành động
để tiến hành cuộc CM vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định
phương hướng phát triển, bước đi của CMVN trong suốt 84 năm qua.
– Với chủ trương CMVN là một bộ phận của phong trào CM thế giới, ĐCSVN đã tranh thủ được sự ủng
hộ to lớn của CM thế giới, kết hợp sức mạnh DT với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ
vang. Đồng thời CMVN cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hoà bình, độc lập DT và tiến bộ XH.
III. KẾT LUẬN
Đọc Giáo trình

6
Trần Gia Lộc

Vấn đề 2: Nội dung Luận cương Chính trị tháng 10/1930 của Đảng Cộng sản Đông Dương. Sự
đúng đắn và hạn chế của Luận cương.
I. MỞ BÀI
– Cương lĩnh đầu tiên của ĐCSVN do hội nghị thành lập Đảng (2/1930) thông qua mới chỉ phác ra những
nét cơ bản nhất về đường lối CMVN. Yêu cầu khách quan đòi hỏi Đảng phải có một cương lĩnh đầy đủ,
toàn diện hơn.
– Sau khi ĐCSVN ra đời, cao trào CM rộng lớn của quần chúng diễn ra ngày càng sôi nổi và đang trên đà
phát triển mạnh.
– 4/1930, đồng chí Trần Phú sau một thời gian học ở Liên Xô, được Quốc tế Cộng sản cử về nước hoạt
động và bổ sung vào BCH TWĐ lâm thời, được giao nhiệm vụ soạn thảo Luận cương CT.
– Hội nghị lần thứ nhất của BCH TWĐ lâm thời họp tại Hương Cảng (Trung Quốc) vào 10/1930. Hội nghị
quyết định đổi tên đảng thành ĐCS ĐD, cử ra BCH TW chính thức, đồng chí Trần Phú được cử làm Tổng
bí thư. Hội nghị đã thông qua Luận cương CT.
II. THÂN BÀI
1. Nội dung Luận cương Chính trị
Về tổng thể, Luận cương CT trình bày những vấn đề chiến lược, sách lược của CMVN.
– Luận cương CT chỉ rõ tính chất XH của 3 nước ĐD là XH thuộc địa nửa PK. Ở ĐD, mâu thuẫn ngày
càng diễn ra gay gắt. Cơ bản vẫn là mâu thuẫn DT và giai cấp, giữa “một bên thì thợ thuyền, dân cày và
các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, PK, tư bổn và ĐQCN”.
– Luận cương CT nêu rõ cuộc tính chất CM ở ĐD bước đầu là CMTS dân quyền do giai cấp CN lãnh đạo.
Lấy đây làm thời kỳ dự bị, tiền đề chuẩn bị cho CMXH. Sau khi CMTS dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục
phát triển, bỏ qua thời kỳ TBCN phát triển tiến thẳng lên CNXH.
– Trong luận cương, nhiệm vụ cốt yếu CMĐD được thể hiện qua tính chất CM “thổ địa và phản đế”, tức
là đánh đổ thực dân Pháp giành độc lập DT, đánh đổ PK mang lại ruộng đất cho dân cày. Hai nhiệm vụ ấy
có mối quan hệ khăng khít và không thể tách rời nhau: có đánh đổ ĐQCN thì mới đánh đổ PK, có phá tan
chế độ PK thì mới đánh đổ được ĐQCN. TT đó góp phần ngăn ngừa những khuynh hướng tách rời quyền
lợi DT với giai cấp, tách rời độc lập DT với CNXH, những khuynh hướng không thể đưa CM đi lên.
– Luận cương CT xác định giai cấp VS vừa là động lực chính vừa là giai cấp lãnh đạo CM, giai cấp ND là
lực lượng đông đảo nhất, là động lực mạnh của CM. Luận cương CT còn nhận định TS thương nghiệp đứng
về phe ĐQ và địa chủ chống CM. Trong bộ phận tiểu TS, bộ phận thủ công nghiệp có thái độ do dự, thành
phần thương gia thì không tán thành CM, tiểu TS trí thức chỉ hăng hái tham gia chống ĐQ thời kỳ đầu. Chỉ
có các phần tử lao khổ ở thành phố như người bán rao, thủ công nghiệp nhỏ do đời sống cực khổ mới tham
gia CM.
– Luận cương CT còn vạch rõ một cách đúng đắn về phương pháp CM. Theo luận cương, vấn đề này phải
tùy xét kỹ tình hình trong nước và thế giới, thái độ các hạng người, từ đó mà định ra chiến lược đúng đắn.
Cụ thể, khi chưa có tình thế CM, Đảng đưa ra những khẩu hiệu “phần ít” đòi quyền lợi hàng ngày như tăng
lương, giảm giờ làm, giảm sưu thuế, ... kết hợp với khẩu hiệu CT như đánh đổ ĐQ và PK, giành độc lập
dân chủ, người cày có ruộng, ... mà phát động và giác ngộ quần chúng. Khi có thời cơ CM, giai cấp thống
trị lung lay, giai cấp trung gian muốn ngả về phía CM, giai cấp VS sôi nổi đấu tranh, thì Đảng phải lập tức
lãnh đạo quần chúng để giành chính quyền.
– Luận cương CT khẳng định để đạt mục tiêu của CM phải tiến hành con đường “võ trang bạo động”. Võ
trang bạo động không phải việc thường mà phải theo “khuôn phép nhà binh”, tức là có nghệ thuật, tuân
theo qui luật khách quan. Thực chất đây là con đường tiến lên giành chính quyền bằng bạo lực của quần
chúng. Điều này hoàn toàn phù hợp trong hoàn cảnh nước thuộc địa.

7
Trần Gia Lộc

– Luận cương CT khẳng định nhân tố quyết định thắng lợi của CM là sự lãnh đạo của Đảng. Luận cương
nêu rõ điều kiện của một ĐCS trong cuộc CM. Đó là đảng phải có đường lối CT đúng, có kỷ luật tập trung,
mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải trong đấu tranh CM. Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp
VS và lấy CNML làm gốc.
– Luận cương CT chỉ rõ CMĐD và CM thế giới phải có liên lạc chặt chẽ với nhau. Giai cấp VSĐD phải có
quan hệ mật thiết với giai cấp VS trên thế giới, trước hết là giai cấp VS Pháp, phải mật thiết liên hệ với
phong trào CM ở các nước thuộc địa.
– Như vậy, trên cơ sở phân tích các mâu thuẫn cơ bản của XHĐD, Luận cương CT đã chỉ ra con đường
phát triển của CMĐD; chỉ rõ mục tiêu, tính chất, nhiệm vụ CM, vai trò của các giai cấp và liên minh giai
cấp quốc tế, so sánh lực lượng và phương pháp đấu tranh; khẳng định vai trò lãnh đạo của ĐCS trong
CMĐD.
2. Hạn chế của Luận cương
Từ thực tiễn CM nước ta, có thể nhận thấy một số hạn chế mang tính lịch sử của Luận cương CT
– Luận cương CT không vạch ra được mâu thuẫn chủ yếu của một XH thuộc địa là mâu thuẫn giữa DT với
ĐQ Pháp và bè lũ tay sai của chúng, do đó không nêu được vấn đề DT là vấn đề hàng đầu, mà nặng về vấn
đề đấu tranh giai cấp, không phù hợp với thực tiễn nước ta.
– Về CM ruộng đất, Luận cương CT không đề ra được một liên minh DT và giai cấp rộng rãi trong cuộc
đấu tranh chống lại thực dân Pháp và tay sai.
– Luận cương CT mới chỉ nhìn nhận các tầng lớp giai cấp khác từ giác độ lý luận chung về giai cấp, mà
còn thiếu một cái nhìn cụ thể từ quan hệ DT. Có nghĩa là, luận cương chưa đánh giá đúng vai trò CM của
một bộ phận TSDT, phủ nhận khả năng CM ở các tầng lớp thợ thủ công, thương gia, trí thức, tiểu TS, ...
do đó không lôi kéo được bộ phận có tinh thần yêu nước, chưa phát huy được tinh thần đoàn kết, mở rộng
lực lượng đoàn kết toàn dân để tiến hành CM.
3. Nguyên nhân hạn chế
– Chưa nắm đầy đủ tình hình đặc điểm của XH, giai cấp và DT ở ĐD, thiếu trải nghiệm CM sâu sắc.
– Do nhận thức giáo điều, vận dụng CNML một cách máy móc, dập khuôn về mối quan hệ giữa DT và đấu
tranh giai cấp.
– Trần Phú được cử đi học ở Liên Xô dưới thời Stalin, vốn là con người sùng bái cá nhân và đặt nặng vấn
đề đấu tranh giai cấp.
– Chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi khuynh hướng “tả” của Quốc tế Cộng sản, quá đề cao vấn đề giai cấp, chưa
coi trong vấn đề DT.
III. KẾT BÀI
– Nối tiếp và kế thừa những định hướng được vạch ra rõ từ Cương lĩnh HCM, Luận cương CT 10/1930 đã
xác định những vấn đế rất cơ bản trong đường lối chiến lược của Đảng ta. TT lớn bao trùm của luận cương
vẫn là quán triệt định hướng gắn liền độc lập DT với CNXH.
– Song bên cạnh đó, luận cương vẫn còn hạn chế trong việc chỉ ra được mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa,
chưa xác định nhiệm vụ giải phóng DT là nhiệm vụ hàng đầu. Trong khi nhấn mạnh vai trò của công nông,
luận cương chưa được chú ý đúng mức đến vai trò, vị trí và khả năng CM của giai cấp và tầng lớp khác.
Nói một cách cụ thể là đã nhấn mạnh một chiều đến đấu tranh giai cấp, chưa quan tâm thích đáng đến vấn
đề DT. Những hạn chế nói trên, sau đó ít lâu, đã được các hội nghị BCH TWĐ tiếp theo khắc phục, bổ
khuyết và đưa đến CM thành công.

8
Trần Gia Lộc

Vấn đề 3:
Sự chỉ đạo chiến lược của Đảng qua các Nghị quyết Trung ương 6, 7, 8 (Đại hội I) dẫn đến thắng
lợi Cách mạng Tháng 8/1945.
Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của Cách Mạng Tháng 8.

I. MỞ BÀI
– 1939, tình hình quốc tế và ở ĐD có nhiều biến đổi sâu sắc. Chuẩn bị cho CMT8/1945, Đảng ta liên tiếp
tổ chức 3 cuộc Hội nghị TW: lần 6 (11/1939), lần 7 (11/1940) và lần 8 (5/1941), bàn việc chuyển hướng
chiến lược, khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của CMVN là đánh đuổi ĐQ xâm lược, giải phóng
DT, giành chính quyền về tay nhân dân.
II. THÂN BÀI
– 7/1936, BCH TWĐ họp Hội nghị tại Thượng Hải (Trung Quốc). Hội nghị xác định CMĐD vẫn là CMTS
dân quyền, lập chính quyền công nông, đi tới CMXHCN.
– Vận dụng Nghị quyết Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị đã xác định mục tiêu chủ yếu trước
mắt của CM là đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh, chống bọn phản động và tay sai, đòi tự do, dân
chủ, cơm áo và hòa bình. Để tập hợp rộng rãi quần chúng nhân dân nhằm thực hiện được mục tiêu đó, Đảng
chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế.
– Hội nghị quyết định thay đổi các hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh của quần chúng, từ tổ chức
bí mật, đấu tranh bất hợp pháp chuyển sang tổ chức và đấu tranh công khai hợp pháp và nửa hợp pháp, chủ
yếu bằng thơ ca, hò vè, báo chí, …
1. Nghị quyết Trung ương lần 6
– Trước khi chiến tranh thế giới nổ ra, Đảng đã chỉ đạo các lực lượng CM kịp thời rút về hoạt động bí mật.
11/1939, Hội nghị TWĐ lần 6 diễn ra tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định), do Nguyễn Văn Cừ chủ trì.
– Hội nghị đã phân tích sâu sắc tính chất và chiều hướng của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai: ĐD sẽ bị
cuốn vào guồng máy chiến tranh trên thế giới. Nhật xâm lược ĐD, Pháp sẽ hàng Nhật. Nhận định đúng đắn
này của Đảng ta có tác động rất lớn đến việc hoạch định đường lối CMĐD.
– Hội nghị đặt vấn đề giải phóng DT lên nhiệm vụ hàng đầu và là nhiệm vụ cấp bách của CM D lúc này.
Khẩu hiệu “CM ruộng đất” tạm thời gác lại, chỉ thực hiện các chính sách chống tô cao lãi nặng, tịch thu
ruộng đất của thực dân ĐQ và địa chủ phản bội DT để đem chia cho dân cày nghèo. Không nêu khẩu hiệu
lập chính quyền công nông, hội nghị thay đổi sang khẩu hiệu thành lập chính phủ Liên bang Cộng hoà dân
chủ ĐD.
– Để thực hiện nhiệm vụ trung tâm ấy, Hội nghị thành lập Mặt trận DT thống nhất phản đế ĐD. Mặt trận
đã đoàn kết rộng rãi các DT, các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước ở ĐD, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù
chủ yếu trước mắt là ĐQCN, phát xít và bọn tay sai phản động, nhằm giành độc lập hoàn toàn cho các DT
ở ĐD.
– Hội nghị chủ trương chuyển hướng tổ chức, sinh hoạt bí mật tại nông thôn, dự kiến khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền. Hội nghị đặc biệt coi trọng công tác củng cố xây dựng Đảng. Đảng phải biết tự phê
bình, đấu tranh chống “tả khuynh” và “hữu khuynh” để đảm bảo Đảng vững mạnh.
– Hội nghị TWĐ lần 6 đánh dấu sự trưởng thành của Đảng, cụ thể hoá một bước đường trong chiến lược
và phương pháp CM đã được cương lĩnh vạch ra. Đây là sự chuyển hướng từ đấu tranh đòi quyền dân chủ
sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của ĐQ và tay sai, từ công khai hợp pháp sang hoạt động bí
mật và bất hợp pháp. Nghị quyết đã góp phần tạo điều kiện để tiến tới khởi nghĩa vũ trang, thực hiện CMT8
thắng lợi.

9
Trần Gia Lộc

2. Nghị quyết Trung ương lần 7


– Sau Hội nghị TWĐ lần 6, BCH TWĐ họp Hội nghị lần 7 tại Từ Sơn (Bắc Ninh) vào 11/1940. Hội nghị
nhận định việc Pháp đầu hàng Nhật làm cho ĐD rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”, vừa bị thực dân Pháp
đàn áp, vừa bị phát xít Nhật hành hạ. Kẻ thù mà nhân dân ĐD cần phải đánh đổ trong lúc này là thực dân
Pháp và phát xít Nhật.
– Hội nghị xác định tính chất của CMĐD vẫn là CMTS dân quyền với nhiệm vụ đánh đổ ĐQ, diệt trừ PK,
làm cho ĐD hoàn toàn độc lập và người cày có ruộng.
– Hội nghị khẳng định nhiệm vụ trước mắt vẫn là chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, giương cao ngọn cờ giải
phóng DT.
– Hội nghị đã phân tích, đánh giá khởi nghĩa Bắc Sơn và quyết định duy trì đội du kích Bắc Sơn làm cơ sở
cho xây dựng lực lượng vũ trang CM, vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển lực lượng
CM, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn – Võ Nhai làm trung tâm.
– Về xem xét đề nghị khởi nghĩa ở Nam Kỳ, Hội nghị nhận định điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi, nên
đình chỉ phát động khởi nghĩa. Tuy vậy, Nghị quyết TWĐ chưa được triển khai thì khởi nghĩa ở Nam Kỳ
đã nổ ra nhưng mau chóng bị ĐQ Pháp và tay sai đàn áp đẫm máu.
– Hội nghị TWĐ lần 7 đã bổ sung nội dung chuyển hướng chiến lược CM được đề ra trước đó, xác định rõ
thực dân Pháp và phát xít Nhật là kẻ thù của nhân dân ĐD. Hội nghị đã có cái nhìn đúng đắn về thời cơ
CM chín muồi, góp phần thúc đẩy khởi nghĩa trong nước phát triển.
3. Nghị quyết Trung ương lần 8
– Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra ngày càng quyết liệt. Mâu thuẫn giữa các DTĐD với Pháp – Nhật trở
nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Vận mệnh DT nguy vong, yêu cầu giải phóng dân trở thành nhiệm vụ cấp
bách hàng đầu.
– NAQ quyết định trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh CM. 28/1/1941, sau 30 năm hoạt
động ở nước ngoài NAQ bí mật về nước và ở lại Pác Bó (Cao Bằng).
– 5/1941, NAQ đại diện Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì Hội nghị TWĐ lần 8 tại Pác Bó.
– Phân tích tình hình thế giới, Hội nghị đã nhận định chính xác: chiến tranh thế giới đang lan rộng, phát xít
Đức đang ráo riết chuẩn bị tấn công Liên Xô, chiến tranh Thái Bình Dương sẽ bùng nổ. Chiến tranh sẽ làm
cho các nước ĐQ suy yếu, Liên Xô nhất định chiến thắng và CM nhiều nước nhân đó mà thắng lợi. Nhận
định chính xác này của TWĐ mà đứng đầu là Chủ tịch HCM đã tạo nên quyết tâm cho toàn DT thống nhất
ý chí, biết gác lại những khác biệt để đồng hành cùng DT, đặt lợi ích của DT lên trên hết.
– Phân tích tình hình ĐD, Hội nghị nhận thấy mâu thuẫn giữa DT CM với Pháp – Nhật cũng như bè lũ tay
sai của chúng là mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết một cách cấp bách. Như vậy, kẻ thù của
DT ta phải đối phó lúc này là ĐQ Pháp và phát xít Nhật cùng tay sai phản CM. Việc xác định đúng mâu
thuẫn chủ yếu của XHĐD đã giúp Hội nghị nhận định đúng đắn về tình hình giữa ta và địch, cũng như xác
định đúng mối quan hệ cần giải quyết trước là quan hệ DT.
– Từ nhận định trên, Hội nghị xác định lại tính chất của CMĐD. CMĐD lúc này không còn là cuộc CMTS
dân quyền, mà là cuộc CMDT giải phóng. CMĐD không phải giải quyết hai nhiệm vụ chống ĐQ và chống
PK, mà phải tập trung giải quyết một nhiệm vụ cần kíp: đánh Pháp đuổi Nhật giành độc lập DT.
– Vì vậy, Hội nghị tiếp tục đặt nhiệm vụ giải phóng DT lên hàng đầu, quyền lợi của bộ phận giai cấp đặt
dưới sự sinh tử tồn vong của DT. Hội nghị tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân
cày”, tiến hành tịch thu ruộng đất của bọn ĐQ và Việt gian chia lại ruộng đất công, giảm tô thuế.

10
Trần Gia Lộc

– Dựa trên nguyên lý của CNML về vấn đề DT, Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề DT không phải
chung trên toàn ĐD mà trong phạm vi từng nước ở ĐD cốt để thức tỉnh tinh thần DT ở các nước ĐD. Đây
là cơ sở cho sự đổi mới hình thức các mặt trận DT: tên gọi mặt trận có “tính DT” hơn, có sức hiệu triệu
đồng bào hơn.
– Xuất phát từ điều kiện riêng mỗi nước, Hội nghị thành lập các mặt trận VN độc lập đồng minh, Ai Lao
độc lập đồng minh (Lào) và Cao Miên độc lập đồng minh (Campuchia). VN độc lập đồng minh, gọi tắt là
Mặt trận Việt Minh, là mặt trận DT thống nhất rộng rãi, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, giai
cấp, DT, tôn giáo, ..., nhằm đoàn kết tập hợp mọi lực lượng yêu nước chống ĐQ, giành độc lập cho DT.
– Hội nghị nhấn mạnh các DTĐD phải đoàn kết, thống nhất lực lượng đánh đuổi kẻ thù chung ĐQ Pháp –
Nhật. Song, Đảng cũng phải hết sức tôn trọng quyền tự quyết của mỗi DT. Cụ thể, sau khi hoàn thành sự
nghiệp giải phóng DT, các DT trên bán đảo ĐD có quyền đứng chung trong một liên bang hay đứng riêng
một quốc gia tuỳ ý. Riêng đối với VN, Hội nghị chủ trương thành lập nước VN dân chủ cộng hoà theo tinh
thần tân dân chủ.
– Hội nghị quyết định phải xúc tiên ngay công tác chuẩn bị vũ trang, dự kiến hình thức khởi nghĩa là đi từ
khởi nghĩa từng phần giành chính quyền địa phương tiến lên tổng khởi nghĩa toàn quốc. Hội nghị khẳng
định “cuộc CMĐD phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”. Để đưa khởi nghĩa vũ trang đến thắng
lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng CM và xây dựng căn cứ địa.
– Vấn đề xây dựng Đảng được Hội nghị đặc biệt chú trọng. Hội nghị chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ,
nhất là cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn về công nông, dân vận, … Đảng bộ miền Nam, Đảng bộ miền
Trung phải giúp đỡ việc xây dựng Đảng ở Campuchia, Lào nhằm làm cho Đảng có đủ năng lực lãnh đạo
sự nghiệp giải phóng DT đi đến toàn thắng. Hội nghị đã cử BCH TW chính thức do đồng chí Trường Chinh
làm Tổng Bí thư.
– Hội nghị TWĐ lần 8 đã phát triển, hoàn chỉnh sự thay đổi chiến lược CM được vạch ra từ Hội nghị TWĐ
lần 6 và 7. Nghị quyết Hội nghị TW 5/1941 đã phát triển sáng tạo lý luận về CMVS ở một nước thuộc địa,
tiến hành công cuộc giải phóng DT; có tác dụng quyết định trong việc vận động toàn Đảng, toàn dân tích
cực chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
5. Đãnh lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945
– Đầu 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Trên chiến trường châu Âu, quân đội
Liên Xô đã giành được những thắng lợi quan trọng. Ở ĐD, phát xít Nhâ ̣t lâm vào tình thế khố n quẫn. Để
trừ mối họa bị quân Pháp đánh vào sau lưng khi quân Đồng minh tiến vào ĐD, phát xít Nhật buộc phải làm
cuộc đảo chính hất cẳng Pháp, độc chiếm ĐD. Đêm 9/3/1945, Nhật nổ súng lất đổ Pháp trên toàn cõi ĐD,
lập chính phủ tay sai bù nhìn do Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Đây là vấn đề mà từ lâu Đảng ta đã dự
đoán trước, vì vậy chúng ta không bị động.
– 12/3/1945, Ban thường vụ TWĐ họp Hội nghị mở rộng để đánh giá tình hình cuộc đảo chính và nêu ra
những chủ trương CM thời kì mới. Hội nghị ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”. Chỉ thị đã xác định kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân ĐD là phát xít Nhật, vì vậy phải
thay khẩu hiệu “đánh Pháp đuổi Nhật” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”. Chỉ thị chủ trương phát
động cao trào “kháng Nhật cứu nước” làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.
– Để thực hiện chủ trương, cần phải tuyên truyền xung phong có vũ trang, tổ chức quần chúng “phá kho
thóc, giải quyết nạn đói”, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc, tổ chức bộ đội, phát động chiến tranh
du kích nhằm giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa. Đây là phương pháp duy nhất của DT để đóng
vai trò chủ động trong việc đánh đuổi quân Nhật và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có
đủ điều kiện.
– Chỉ thị 12/3/1945 thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó là kim chỉ nam cho
mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cứu nước, trực tiếp dẫn đến thắng lợi
của cuộc tổng khởi nghĩa 8/1945.
11
Trần Gia Lộc

– 8/1945, Nhật thất trận ở Thái Bình Dương, đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh. Tình thế CM trực
tiếp xuất hiện.
– 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của ĐCS ĐD họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) nhận định cơ hội cho nhân
dân ta giành quyền độc lập đã tới, những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa ở ĐD đã chín muồi. Hội nghị quyết
định tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, giành chính quyền trước khi quân đồng minh vào ĐD tước khí giới
quân đội Nhật.
– 16/8/1945, Đại hội quốc dân họp ở Tân Trào, nhất trí tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng,
thông qua các chính sách lớn của Việt Minh, lập Ủy ban DT giải phóng do HCM làm Chủ tịch. Có thể nói,
Quốc dân đại hội Tân Trào là một tầm nhìn chiến lược với nhãn quan CT sắc bén của HCM, chuẩn bị
những tiền đề vững chắc khi CM thắng lợi để tránh bị động trong xây dựng chính thể dân chủ nhân dân.
– Ngay sau Đại hội quốc dân Tân Trào, Chủ tịch HCM đã ra lời hiệu triệu đồng bào và chiến sĩ cả nước
nổi dậy giành chính quyền. Chủ tịch HCM kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh DT đã đến. Toàn quốc
đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta …”. Hưởng ứng chủ trương Tổng khởi nghĩa
của Đảng và lời hiệu triệu của HCM, hơn hai mươi triệu nhân dân ta từ Bắc đến Nam đã đồng loạt vùng
dậy tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa oanh liệt, giải phóng toàn bộ đất nước.
– 19/8, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành được thắng lợi rực rỡ ở thủ đô Hà Nội. Thắng lợi của cuộc Tổng
khởi nghĩa ở Hà Nội đã làm cho toàn bộ chính quyền bù nhìn thêm tê liệt, góp phần cổ vũ mạnh mẽ cho
các địa phương gấp rút nổi dậy giành chính quyền.
– 23/8, cuộc khởi nghĩa đã giành thắng lợi ở thành phố Huế. 25/8, hơn một triệu nhân dân thành phố Sài
Gòn và các tỉnh lân cận đánh đổ chính quyền bù nhìn, lập ra chính quyền nhân dân. Cuộc khởi nghĩa ở Sài
Gòn thắng lợi đã có tác dụng quyết định đối với cuộc khởi nghĩa ở các tỉnh Nam Bộ.
– 30/8/1945, hàng vạn người đến cửa Ngọ Môn, thành phố Huế, chứng kiến vua Bảo Đại đọc lời thoái vị,
trao ấn kiếm cho Chính phủ lâm thời. Ông trở thành “công dân Vĩnh Thuỵ”. Người công dân Vĩnh Thuỵ
tuyên bố: “Thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ”.
– Như vậy, chỉ trong vòng 15 ngày, cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công. 2/9/1945, ta ̣i quảng trường Ba
Đình, Hà Nô ̣i, thay mă ̣t Chính phủ lâm thời, Chủ tịch HCM đo ̣c bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước
toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới: Nhà nước VN dân chủ cô ̣ng hòa ra đời. Lịch sử VN đã sang trang
mới đó là độc lập DT gắn liền với CNXH.
6. Nguyên nhân thắng lợi
– CMT8 nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật
đã bị Liên Xô và các nước Đồng minh đánh bại, quân đội Nhật tại ĐD tan rã, chính phủ bù nhìn Trần Trọng
Kim tê liệt hoàn toàn. Chớp thời cơ đó, ĐCS ĐD đã phát động toàn dân nổi dậy, mau chóng giành thắng
lợi và ít đổ máu.
– Thắng lợi của CMT8 là sự vận dụng thời cơ CM chín muồi, lực lượng CM đã được chuẩn bị chu đáo
cộng với sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng, biết nắm lấy thời cơ, biết sử dụng lực lượng CM đúng
lúc, kết hợp CT và vũ trang, lấy lực lượng CT của nhân dân giữ vai trò quyết định, kết hợp nông thôn và
thành thị, kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp, từ thấp lên cao, từ khởi nghĩa từng
phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu đưa cuộc Tổng
khởi nghĩa CMT8 đến thắng lợi.

12
Trần Gia Lộc

– CMT8 thành công là do tập hợp sức mạnh đại đoàn kết DT vì mục đích chung của DT, là tinh thần yêu
nước, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất
nước. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao
đồng bào, chiến sĩ ta không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập DT.
7. Ý nghĩa lịch sử
– Với thắng lợi của CMT8, nhân dân ta đã tập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp trong gần một thế
kỷ, xoá bỏ chế độ PK nghìn năm, lập nên nước VN Dân chủ Cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên trong
lịch sử nước ta và cũng là nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Châu Á. Lần đầu tiên trong lịch sử,
nhân dân VN từ thân phận nô lệ vươn lên trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của
mình. Đảng ta từ một đảng hoạt động bí mật, trở thành một đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước. Nước
VN từ một nước thuộc địa nửa PK trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Từ đây, DT VN bước
sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập DT gắn liền với CNXH.
– CMT8 thành công là một bước nhảy vọt vĩ đại, đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử CMVN.
Đây là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử DT trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật
cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của DT hòa quyện với những TT CM và KH của CNML
và HCM, với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ XH, vì độc lập DT và CNXH.
– Thắng lợi của CMT8 còn khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của CMVS, cuộc CM do một đảng
của giai cấp CN lãnh đạo hoàn toàn có khả năng thành công ở ngay một nước thuộc địa. Đây là sự phát
triển đầy sáng tạo CNML vào điều kiện cụ thể của nước ta.
– CMT8 thành công đem lại niềm tin tự giải phóng, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của các DT bị áp bức
chống ách nô dịch của CNĐQ. Nó như một quả bom có sức công phá mạnh làm sụp đổ một mảng thành trì
CNTD kiểu cũ, báo hiệu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH.
8. Bài học kinh nghiệm
CMT8 thành công để lại cho Đảng và nhân dân VN nhiều kinh nghiệm quý báu, góp phần làm phong phú
thêm kho tàng lý luận về CM giải phóng DT:
– Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập DT, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống ĐQ và chống PK.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã giương cao ngọn cờ độc lập DT, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống
ĐQ và chống PK để đưa CM đi đến thắng lợi. Đảng đã xác định nhiệm vụ chống ĐQ và chống PK không
thể tách rời nhau, trong đó nhiệm vụ chống ĐQ là chủ yếu, mang tính quyết định, nhiệm vụ chống PK phải
phục tùng nhiệm vụ chống ĐQ và phải thực hiện từng bước với những bước đi, cách làm phù hợp. Việc
giải quyết đúng đắn mối quan hệ này đã giúp Đảng ta thu phục, tập hợp và đoàn kết các lực lượng chống
ĐQ để làm CM thành công.
– Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công – nông.
CMT8 thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước của hàng chục triệu người dân VN. Thành công của Đảng
là đã tổ chức nên mặt trận yêu nước rộng rãi với chủ trương thu phục đại bộ phận CN, ND đồng thời tranh
thủ đoàn kết với tiểu TS, trí thức, lôi kéo trung tiểu địa chủ, TS vừa và nhỏ đi với CM. Với chủ trương này,
chẳng những Đảng ta đã giương cao ngọn cờ đại đoàn kết DT, tập hợp hết thảy các lực lượng yêu nước,
chống ĐQ mà còn xác lập quan điểm đúng đắn là xây dựng lực lượng CM lấy hạt nhân là khối liên minh
công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng
– Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
Đánh giá đúng kẻ thù, kết hợp với những dự báo, tiên liệu chính xác những chuyển biến cũng như những
mâu thuẫn trong hàng ngũ địch, thắng lợi của CMT8 là kết quả của việc chúng ta đã khai thác mâu thuẫn
giữa CNĐQ thực dân và CNĐQ phát xít, giữa CNĐQ và một bộ phận thế lực địa chủ PK, mâu thuẫn trong
hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và Nhật, từ đó cô lập cao độ kẻ thù chính là ĐQ – phát xít và bọn
13
Trần Gia Lộc

tay sai phản động, tranh thủ được hoặc trung lập những phần tử lừng chừng để tạo thêm lực lượng ủng hộ,
tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa giành chính quyền được tiến hành nhanh, gọn, ít đổ
máu và giành thắng lợi to lớn.
– Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực CM và biến sử dụng bạo lực CM một cách thích hợp để đập tan bộ máy
nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.
CMT8 là bài học kinh điển về sử dụng bạo lực CM trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh CT với đấu
tranh có vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang ở cả nông thôn và
thành thị.
Kiên trì chuẩn bị lực lượng và khi thời cơ chín muồi thì biết sử dụng lực lượng để giành thắng lợi quyết
định, đó là một trong những điểm khác biệt mà CMT8 tạo ra. Đó là mẫu mực của sử dụng bạo lực CM để
đánh bại bạo lực phản CM mà sau này Đảng ta đã áp dụng thành công trong trong công cuộc kháng chiến
chống Pháp, Mỹ và chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ Tổ quốc vào cuối thập niên 70 của thế kỷ XX.
– Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ.
Mấu chốt quan trọng nhất trong thắng lợi của CMT8 là Đảng ta đã nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa giành
chính quyền. Vận dụng nguyên lý của CNML và kinh nghiệm của CM thế giới, tổng kết kinh nghiệm qua
thực tiễn đấu tranh 1930 – 1941 đã làm sâu sắc thêm nhận thức của Đảng về tầm quan trọng của nghệ thuật
khởi nghĩa và vấn đề chọn thời điểm thích hợp nhất để tổ chức khởi nghĩa.
Vấn đề chọn đúng thời cơ đã được thực hiện trên cơ sở kết hợp lý luận CNML và thực tiễn để nhận diện
sự xuất hiện đầy đủ 3 nhân tố:
+ Kẻ thù không thể cai trị như trước, đó là lúc bọn cầm quyền phát xít ở ĐD hoang mang, rệu rã đến
cực điểm sau khi Nhật đầu hàng đồng minh;
+ Nhân dân ta không thể sống như trước, đó là lúc nhân dân đã quyết một phen sống chết với chúng,
sẵn sàng cầm vũ khí đứng lên đấu tranh để thay đổi vận mệnh;
+ Đội tiên phong đã sẵn sàng lãnh đạo, đó là lúc mà Đảng ta đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương,
lực lượng và cao trào kháng Nhật cứu nước làm điều kiện chủ quan cần thiết nhất cho cuộc tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
– Sáu là: Xây dựng một Đảng Marx–Lenin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Thắng lợi của CMT8 đã khắc ghi vào lịch sử DT như một bài học sáng ngời vai trò mang tính quyết định
về sự lãnh đạo của Đảng đối với mọi thắng lợi của CM. Đảng ta ngay từ đầu đã hoạch định đường lối chiến
lược và sách lược đúng đắn, vận dụng sáng tạo nguyên lý của CNML vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta,
kịp thời tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn để bổ sung và phát triển lý luận lãnh đạo. Coi trọng việc quán
triệt đường lối, chủ trương của Đảng trong đảng viên và quần chúng, không ngừng đấu tranh khắc phục,
sửa chữa khuyết điểm, uốn nắn những khuynh hướng lệch lạc. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo
dục rèn luyện cán bộ, đảng viên ý chí, bản lĩnh, phẩm chất CT và đạo đức CM. Với những phẩm chất nói
trên và được tôi luyện trong thực tiễn 15 năm đấu tranh kiên cường, với chỉ 5000 đảng viên, Đảng đã lãnh
đạo CMT8.
III. KẾT LUẬN
Đọc Giáo trình

14
Trần Gia Lộc

Vấn đề 4: Đường lối kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945 – 1954.

I. MỞ BÀI
– CMT8 thành công, nhân dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần một trăm năm để giành độc lập cho
nước VN, nhân dân ta đã đánh đổ chế độ PK mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà. Thắng
lợi của cuộc CMT8 đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử DTVN – kỷ nguyên đất nước được độc lập, thống
nhất, nhân dân lao động làm chủ XH và tạo ra những tiền đề cần thiết, từng bước đưa đất nước phát triển
theo con đường XHCN.
II. THÂN BÀI
1. Tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”
– Sau CMT8, nhân dân ta tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước với những thuận lợi mới.
– Trên thế giới, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, lực lượng ĐQ không còn giữ ưu thế như trước. Hệ thống
XHCN do Liên xô đứng đầu được hình thành, phong trào CM giải phóng DT có điều kiện phát triển, trở
thành một dòng thác CM. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ.
– Ở trong nước, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ TW đến cơ sở. Đảng đã nắm
được quyền lãnh đạo CM trong cả nước và dành được quyền hoạt động hợp pháp.
– Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh của đất nước, bước đầu được hưởng quyền lợi do CM mang lại.
Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ chính phủ VN Dân chủ Cộng hòa do HCM làm Chủ tịch.
– Song, điều đó không có nghĩa là VN lúc bấy giờ không khỏi vướng bận bởi những khó khăn, mà ngược
lại nhân dân ta và chính quyền VN Dân chủ cộng hòa mới chào đời đã phải đối mặt với muôn vàn mối lo,
hiểm họa bởi cảnh đất nước đói nghèo, dân tình khổ cực, lại bị các thế lực bên ngoài ồ ạt tràn vào hòng bóp
chết nhà nước công nông đầu tiên của chúng ta ngay từ trong trứng nước.
– Các thế lực ĐQ, phản động quốc tế và trong nước đã cấu kết, bao vây, chống phá hòng thủ tiêu mọi thành
quả CM của nhân dân ta, đặt lại ách thống trị của chúng, xoá bỏ nền độc lập mà DT ta vừa giành được.
– Cuối 8/1945, theo hiệp định Posdam, từ vĩ tuyến 16 trở ra, gần 20 vạn quân của chính quyền Tưởng Giới
Thạch, đồng minh của ĐQ Mỹ, kéo vào miền Bắc dưới danh nghĩa quân đội Đồng minh vào tước vũ khí
quân Nhật, nhưng âm mưu của Quốc dân đảng Trung Hoa là: “Tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, giúp
bọn phản động VN đánh đổ chính quyền nhân dân, để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng”.
– Ở phía Nam vĩ tuyến 16, cũng với danh nghĩa lực lượng Đồng minh, quân đội Anh vào tước vũ khí quân
Nhật. Nhưng trên thực tế, ĐQ Anh đã giúp cho thực dân Pháp trở lại chiếm VN và cả ĐD.
– 23/9/1945, được quân Anh và quân Nhật giúp sức, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc
xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp hòng đặt lại ách thống trị ở VN và ĐD.
– Sự chống phá CM của các thế lực phản động ở trong nước cũng là một thách thức lớn. Quân Tưởng kéo
theo lực lượng phản động VN quốc dân đảng (Việt Quốc) và VNCM đồng chí hội (Việt Cách). Được quân
Tưởng khuyến khích, hỗ trợ, các lực lượng phản động này củng cố chỗ đứng và ngày càng tǎng cường
chống phá chính quyền CM và chiếm giữ một số địa phương.
– Chưa thời kỳ nào CM nước ta phải đối đấu với nhiều thế lực, nhiều đảng phái phản động như trong những
nǎm 1945 – 1946. Giặc ngoài, thù trong cấu kết chặt chẽ với nhau hòng tiêu diệt chính quyền CM non trẻ,
trong khi các nước bạn bè chưa có điều kiện trực tiếp giúp đỡ CMVN.

15
Trần Gia Lộc

– Do hậu quả của sự vơ vét, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp từ cuộc khai thác thuộc địa để khôi phục lại
nước Pháp sau chiến tranh, người dân VB đã phải chịu một đời sống vô cùng khổ cực, XH bị phân hóa sâu
sắc. Hơn thế, việc phát xít Nhật tiến vào ĐD năm 1940 khi Pháp vẫn còn ở đó đã đặt nhân dân ta vào cảnh
“một cổ hai tròng”. Sự áp bức bóc lột đối với nhân dân ta tăng lên gấp bội. Hậu quả là nạn đói mà thực dân
Pháp và quân phiệt Nhật đã gây ra làm chết 2 triệu người và hàng triệu người bị nạn đói đe dọa.
– Nạn đói đã làm cho sự yếu kém của nền KT trở nên trầm trọng. Hơn 50% ruộng đất ở các tỉnh Bắc Bộ bị
bỏ hoang. Nạn lụt lớn, thiên tai tàn phá khắp nơi. Công nghiệp chỉ có không quá 200 nhà máy nhỏ bé, trang
bị cũ kỹ, đang lâm vào đình đốn. Hàng hoá thì khan hiếm, giá cả lại tăng vọt, ngoại thương đình trệ. Vào
thời điểm này, quốc khố gần như trống rỗng, chỉ vẻn 1,2 triệu đồng mà quá nửa là tiền rách. Thêm vào đó,
chính sách vơ vét của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã làm cho lạm phát ngày càng tăng do tiền cung cấp
cho Nhật tăng lên. Trong khi đồng bạc ĐD mất giá như vậy thì quân Tưởng tung quan kim và quốc tệ làm
lũng đoạn thị trường miền Bắc.
– Tàn dư VH lạc hậu do chế độ thực dân và PK để lại hết sức nặng nề. Có tới hơn 95% số dân nước ta bị
mù chữ. Hầu hết số người được đi học chỉ ở bậc tiểu học và vỡ lòng, trên 3 vạn dân mới có một học sinh
cao đẳng hoặc đại học. Suốt thời kỳ 1930 – 1945 số công chức có trình độ cao đẳng và đại học chỉ gồm vài
trǎm người. Các tệ nạn XH như nghiện thuốc phiện, nghiện rượu, nạn cờ bạc, trộm cắp, mê tín dị đoan, ...
thì tràn lan.
– Nạn dốt kết hợp với bối cảnh ở VN lúc đó có ít nhất 3 đảng phái tham gia chính quyền đó là ĐCS ĐD,
Việt Quốc, Việt Cách sẽ làm người dân không có đủ trình độ để nhận thức rõ những luận điệu mị dân, phản
động của các lực lượng chống phá CM, gây ra sự chia rẽ DT sâu sắc. Điều này gây khó khăn cho chính phủ
VN Dân chủ Cộng hòa trong việc tập hợp mọi tầng lớp nhân dân đi theo con đường CM để tiến hành cuộc
đấu tranh chống thù trong giặc ngoài.
– Mặt khác, khi người dân không biết chữ, họ khó có thể thực hiện được quyền công dân của mình như
tham gia tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội, thành lập chính phủ VN Dân chủ Cộng hòa và xây dựng hiến pháp
sẽ gặp nhiều trở ngại. Đây là một điều vô cùng bất lợi đối với sự tồn tại của chính phủ VN Dân chủ Cộng
hòa về mặt ngoại giao.
– Thực tế đó làm cho việc tổ chức, hoạt động của chính quyền mới gặp không ít khó khǎn, lúng túng.
Những khó khǎn, thử thách to lớn cả về quân sự, CT, KT và XH trên đây, đặt chính quyền CM và vận
mệnh đất nước ta trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Tình hình trên đòi hỏi Đảng và chính quyền CM có
đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, phát huy sức mạnh của toàn dân mới có thể bảo vệ và phát
triển thành quả CM.
2. Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc
– 25/11/1945, BCH TW ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị là tuyên bố quan trọng của Đảng trong
việc giải quyết tình hình đất nước và vạch ra con đường đi lên cho CM trong giai đoạn mới.
– Về bối cảnh thế giới, Chỉ thị chỉ rõ 4 mâu thuẫn lớn của thế giới hiện thời là mâu thuẫn giữa Liên Xô và
các nước ĐQ, giữa giai cấp TS và giai cấp VS, giữa các DT bị áp bức và CNĐQ, giữa các nước ĐQ với
nhau. 4 mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn còn và ngày càng sâu sắc, song mâu thuẫn giữa các DT bị áp
bức với CNĐQ gay go hơn hết ở Đông Nam Á.
– Về tình hình trong nước, Chỉ thị nhận định chính quyền nhân dân đã được thành lập trên khắp đất nước
nhưng đang ở trong tình thế vô cùng gay go, phức tạp. Đó là không những phải đối phó với thực dân Pháp
xâm lược mà còn phải đối phó với quân Anh, quân Tưởng, với bọn phản CM, với nạn đói và các khó khăn
về KT, VH, XH.
– Chỉ thị đánh giá âm mưu, ý đồ của từng ĐQ. Mỗi kẻ thù ấp ủ những mưu đồ riêng, nhưng đều có chung
dã tâm tiêu diệt Đảng Cộng sản, thủ tiêu nền độc lập non trẻ của nhân dân ta.

16
Trần Gia Lộc

+ Mĩ nói dối là giữ thái độ trung lập với ĐD, nhưng vẫn ngắm ngầm cho Pháp mượn tàu chiến. Một
mặt Mĩ muốn tranh giành quyền lợi với Anh, Pháp ở ĐD châu Á, một mặt Mĩ muốn hoà hoãn với
Anh, Pháp để cùng lập mặt trận bao vây Liên Xô và chính vì mục đích ấy, Mĩ có thể hi sinh quyền
lợi ĐD.
+ Thực dân Anh giúp Pháp biến ĐD thành thuộc địa của Anh, đồng thời dập tắt phong trào đòi độc
lập ở ĐD.
+ Quân Tưởng vẫn ý định lật đổ chính quyền nước ta. Song Đảng ta đã dự báo trước sau thì quân
Tưởng cũng bằng lòng cho Đông Dương về tay Pháp, miễn là Pháp nhượng cho Tưởng nhiều quyền
lợi quan trọng.
+ Đối với thực dân Pháp, rất có thể Pháp thừa nhận độc lập ĐD nhằm giữ thể diện quốc tế và cứu vãn
quyền lợi KT của Pháp ở ĐD.
– Dựa vào những phân tích âm mưu của kẻ thù, Đảng chỉ rõ kẻ thù chính bây giờ là thực dân Pháp xâm
lược, cần phải tập trung “ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Đây là một chủ trương mấu chốt, một quyết sách
đúng đắn nhằm giải nguy cho Tổ quốc trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” bấy giờ. Với chủ trương này
chúng ta đã loại bỏ được 3 kẻ thù xâm lăng (Mĩ, Anh, Tưởng), chỉ phải đối phó với kẻ thù chính trước mắt
là thực dân Pháp.
– Rõ ràng, TWĐ đã nhận rõ bộ mặt của kẻ thù, xác định đúng đối tượng của CM. Từ những nhận định,
phân tích ấy, Đảng vạch ra những chỉ đạo, phương hướng nhiệm vụ cụ thể.
– Về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định mục tiêu CMVN lúc này vẫn là cuộc CMDT giải phóng vì đất
nước chưa được thống nhất hoàn toàn. Vẫn còn bóng quân thù trên Tổ quốc, vì vậy nhân dân ta phải đồng
lòng đánh đuổi mọi kẻ thù khỏi bờ cõi. Để thống nhất lòng dân, thể hiện khẩu hiệu “DT trên hết, Tổ quốc
trên hết”, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận DT thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược, mở rộng
mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân, không phân biết giai cấp hay tôn giáo. Khi nước
nhà lâm nguy, hễ ai là người dân VN đều có thể tham gia CM đánh đuổi kẻ thù.
– Đảng ta còn thống nhất mặt trận Việt – Miên – Lào. Chủ trương náy thể hiện tầm nhìn bao quát của Đảng
ta: một mặt không cho thực dân Pháp lợi dụng Miên – Lào làm bàn đạp đàn áp phong trào CM ở những
nước khác, mặt khác có thể tạo thành 3 mũi tấn công khiến chúng tiêu tán lực lượng. Tinh thần và sức mạnh
đại đoàn kết giữa các DT ở 3 nước ĐD được phát huy tối đa: “1 cây làm chẳng nên non – 3 cây chụm lại
nên hòn núi cao”.
– Về phương hướng nhiệm vụ, Đảng nêu lên 4 nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương thực hiện
là: củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản và cải thiện đời sống cho nhân
dân. Trong những nhiệm vụ đó, nhiệm vụ bao trùm là củng cố chính quyền. Để củng cố chính quyền CM,
thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ “kháng chiến” và “kiến quốc”, Chỉ thị vạch ra những biện pháp toàn diện
và cơ bản để thực hiện:
– Về CT, Đảng chủ trương tăng cường khối đoàn kết toàn dân chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng
đất nước, củng cố chính quyền nhân dân bằng cách kiên quyết trừng trị bọn phản quốc, tiến hành tổng tuyển
cử để bầu Quốc hội, lập Chính phủ chính thức và ban hành Hiến pháp.
– Về quân sự, chính phủ động viên toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu
dài, dùng lối đánh du kích cùng với phương pháp bất hợp tác triệt để của nhân dân ở vùng địch chiếm đóng,
mở rộng chiến tranh du kích ở Miên và phát triển tuyên truyền vũ trang trên đất Lào.
– Về ngoại giao, Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “Hoa – Việt
thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và “độc lập về CT, nhân nhượng về KT” đối với Pháp.

17
Trần Gia Lộc

– Về KT, chúng ta mở lại các nhà máy do Nhật bỏ, khai thác các mỏ, cho tư nhân được góp vốn vào việc
kinh doanh, khuyến khích các giới công thương mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia kiến thiết lại
nước nhà. Tu bỏ đê điều, khuyến nông phát triển, đẩy mạnh tăng gia sản xuất theo khẩu hiệu “Tấc đất tấc
vàng”. Thành lập ngân hàng, phát hành giấy bạc. Định lại ngạch thuế, lập ngân quỹ toàn quốc. Mở cuộc
lạc quyên “Hũ gạo cứu đói”, “Sẻ cơm nhường áo”, … trên tinh thần “một miếng khi đói bằng một gói khi
no”, kêu gọi nhân dân đùm bọc lẫn nhau “lá lành đùm lá rách”, lập quỹ cứu tế “Tuần lễ vàng”, …
– Về VH, nhà nước tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở các trường đại học và trung
học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy nhồi nhét, cổ động VH cứu quốc, kiến thiết nền
VH mới theo nguyên tắc: khoa học hoá, đại chúng hoá, DT hoá.
– Về Đảng, phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật và công khai của Đảng, trong đó coi hoạt động bí mật là
gốc. Tích cực phát triển đảng viên, chú trọng các cơ sở trong xí nghiệp. Mở rộng các tổ chức nghiên cứu
CNML; giữ sinh hoạt Đảng đều đặn; thành lập đảng đoàn trong các cơ quan hành chính và các đoàn thể
quần chúng; xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội.
– Những nội dung của chủ trương kháng chiến kiến quốc được Đảng tập trung chỉ đạo thực hiện trên thực
tế với tinh thần kiên quyết, khẩn trương, linh hoạt, sáng tạo, trước hết là trong giai đoạn từ 9/1945 đến cuối
1946.
– Cuộc đấu tranh thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng giai đoạn 1945 – 1946 đã diễn ra
rất gay go, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực CT, KT, VH, quân sự, ngoại giao và đã giành được những kết
quả hết sức to lớn.
– Về CT, nhân dân ta đã xây dựng được nền móng của một chế độ mới – chế độ dân chủ nhân dân với đầy
đủ các yếu tố cấu thành cần thiết. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua phổ
thông bầu cử. Hiến pháp dân chủ nhân dân được Quốc hội thông qua và ban hành. Bộ máy chính quyền từ
TW đến làng, xã và các cơ quan tư pháp, tòa án, các công cụ chuyên chính như Vệ quốc đoàn, công an
nhân dân thiết lập và tăng cường. Các đoàn thể nhân dân như mặt trận Việt Minh, Hội liên hiệp quốc dân
VN, Tổng Công đoàn VN, Hội Liên hiệp phụ nữ VN được xây dựng và mở rộng. Đảng Dân chủ VN, Đảng
XHVN được thành lập.
– Về KT, Đảng phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ,
ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ quốc gia. Các lĩnh vực sản xuất được hồi phục. Cuối 1945,
nạn đói cơ bản được đẩy lùi. 1946, đời sống nhân dân được ổn định và có cải thiện. 11/1946, giấy bạc “cụ
Hồ” được phát hành.
– Về VH, cuộc vận động toàn dân xây dựng nền VH mới đã bước đầu xóa bỏ được nhiều tệ nạn XH và tập
tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối 1946, cả nước đã có thêm
2,5 triệu người biết đọc biết viết.
– Về bảo vệ chính quyền CM, ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng phạm
vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam Bộ, Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến và
phát động phong trào Nam tiến chi viện Nam Bộ, ngăn không cho quân Pháp đánh ra Trung bộ. Ở miền
Bắc, bằng chủ trương lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, Đảng và Chính phủ thực hiện sách lược nhân
nhượng với quân đội Tưởng và tay sai của chúng để giữ vững chính quyền, tập trung lực lượng chống Pháp
ở miền Nam. Khi Pháp – Tưởng ký Hiệp ước Trùng Khánh (2/1946) thỏa thuận mua bán quyền lợi với
nhau, cho Pháp kéo quân ra miền Bắc, Đảng mau lẹ chỉ đạo chọn giải pháp hòa hoãn, dàn xếp với Pháp để
buộc quân Tưởng phải rút về nước. Hiệp định sơ bộ (3/1946), cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở Fontainebleau,
Tạm ước (9/1946) đã tạo điều kiện cho quân dân ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
– Ý nghĩa của những thành quả đấu tranh nói trên là bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ vững chính
quyền CM; xây dựng được những nền móng đầu tiên và cơ bản cho một chế độ mới, chế độ VN Dân chủ
cộng hòa; chuẩn bị được những điều kiện cần thiết trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc sau đó.

18
Trần Gia Lộc

– Có được những thắng lợi quan trọng đó là do Đảng đã đánh giá đúng tình hình nước ta sau CMT8, kịp
thời đề ra chủ trương kháng chiến kiến quốc đúng đắn; xây dựng và phát huy được sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn DT, lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù v.v…
– 16 tháng kháng chiến và kiến quốc (9/1945 – 12/1946) đã cho nhân dân ta thời gian xây dựng lực lượng
mọi mặt và đã cho Đảng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Đó là phát huy sức mạnh đại đoàn kết DT, dựa vào
dân để xây dựng và bảo vệ chính quyền CM. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi
nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh CM
cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể. Tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền
nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước khi kẻ thù
bội ước.
– Trong tình thế CM như “ngàn cân treo sợi tóc”, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch HCM, Đảng ta đã có
những chỉ đạo chiến lược và sách lược đúng đắn, phân hoá và cô lập kẻ thù, tổ chức và phát huy cao độ sức
mạnh đoàn kết DT, tận dụng tối đa khả năng hoà bình, vừa chuẩn bị mọi điều kiện sẵn sàng ứng phó với
khả năng chiến tranh. Vì vậy, Đảng và nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc với tư thế chủ
động, được chuẩn bị chu đáo về vật chất và tinh thần, đường lối và tổ chức lực lượng để bước vào cuộc
kháng chiến với niềm tin tưởng vô cùng mãnh liệt: “Kháng chiến nhất định thắng lợi”.
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần II của Đảng tháng 2/1951
– Sau 16 năm kể từ Đại hội lần thứ I của Đảng, tình hình có những chuyển biến căn bản. Thắng lợi của
CMT8 đã đưa nhân dân ta từ người mất nước lên người làm chủ đất nước. Nhưng do dã tâm xâm lược của
thực dân Pháp, nhân dân ta lại phải tiếp tục cầm súng đứng lên đánh giặc để bảo vệ nền tự do, độc lập. Qua
hơn 5 năm chiến đấu, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã liên tiếp thu được nhiều
thắng lợi, thực dân Pháp ngày càng sa lầy vào cuộc chiến khó tránh khỏi thất bại. Tuy nhiên, cuộc kháng
chiến bước sang giai đoạn mới lại có những yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng ta phải giải quyết những vấn đề lý
luận và thực tiễn cấp bách để đưa CM tiến lên.
– Nhằm đáp ứng những đòi hỏi bức thiết đó, Đại hội đại biểu lần II được triệu tập tại Tuyên Quang (11 –
19/2/1951). Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận kỹ Báo cáo CT của Chủ tịch HCM, Báo cáo Bàn về CMVN
của Tổng Bí thư Trường Chinh, Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng của đồng chí Lê Văn Lương, cùng
nhiều báo cáo bổ sung về Mặt trận DT thống nhất, Chính quyền dân chủ nhân dân, Quân đội nhân dân,
KT tài chính và về VH, … và những tham luận khác.
– Báo cáo CT đã khẳng định những thắng lợi to lớn của CM, kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng và những
bài học kinh nghiệm của các thời kỳ vận động CM của Đảng. Căn cứ vào sự phân tích cụ thể tình hình thế
giới và trong nước, Báo cáo CT nêu khẩu hiệu chính của ta là tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại
bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hoà bình thế giới. Báo cáo CT cũng nêu lên
2 nhiệm vụ chính trong nhiệm vụ mới của CMVN, đó là: đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và tổ
chức Đảng Lao động VN.
– Báo cáo CT chỉ rõ Đảng cần phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang về mọi mặt (từ quân đội đến
dân quân du kích, từ nâng cao giác ngộ CT đến nâng cao chiến thuật, từ tổ chức, huấn luyện đến chỉ đạo,
chiến đấu), củng cố và phát triển Mặt trận DT thống nhất (Mặt trận Liên Việt – Việt Minh), phát huy tinh
thần yêu nước toàn dân (trước hết là bộ đội thi đua giết giặc lập công, thứ đến là nhân dân thi đua tăng gia
sản xuất), triệt để xoá tô giảm tức, tịch thu ruộng đất của thực dân và Việt gian chia cho dân cày nghèo,
tăng cường đấu tranh trên lĩnh vực VH, tích cực giúp đỡ anh em Miên – Lào trong kháng chiến, củng cố
tình thân thiện giữa nước ta và các nước bạn, giữa nhân dân VN và nhân dân tiến bộ trên khắp thế giới.

19
Trần Gia Lộc

– Để thực hiện những yêu cầu trên cần phải có 1 đảng hoạt động công khai, tổ chức phải phù hợp với tình
hình thế giới và trong nước. 1 đảng của giai cấp CN và nhân dân lao động, 1 đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc
chắn, trong sạch, CM triệt để để lãnh đạo toàn dân kháng chiến đến thắng lợi. Đảng đó lấy tên là Đảng Lao
động VN.
– Sau khi thảo luận Báo cáo CT của Chủ tịch HCM, Đại hội đã thông qua Nghị quyết khẳng định: đường
lối đoàn kết toàn dân, kháng chiến trường kỳ giành độc lập, dân chủ là hoàn toàn đúng. Đảng cần kiện toàn
thêm sự lãnh đạo kháng chiến, tập trung lực lượng lớn hơn nữa để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi
hoàn toàn; phải xây dựng Đảng Lao động VN có chính cương và điều lệ thích hợp với hoàn cảnh VN và sẽ
xây dựng những tổ chức thích hợp với hoàn cảnh Cao Miên và Lào.
– Báo cáo Bàn về CMVN do Tổng bí thư Trường Chinh trình bày đã kế thừa và phát triển đường lối CM
trong các cương lĩnh CT trước đây của Đảng thành đường lối CMDT dân chủ nhân dân. Đường lối đó được
phản ánh trong Chính cương của Đảng Lao động VN.
– Báo cáo nêu rõ 3 tính chất XHVN lúc bấy giờ là dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa PK. 3 tính
chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. Nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ
nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của DTVN
chống thực dân Pháp và bọn can thiệp.
– Vì vậy, cuộc kháng chiến của nhân dân ta phải giải quyết được mâu thuẫn giữa chế độ dân chủ nhân dân
và thế lực phản động. Thế lực phản động chính là CNĐQ xâm lược, ngoài ra di tích PK cũng làm XHVN
đình trệ. Cho nên Báo cáo xác định có 2 đối tượng CM: đối tượng chính là ĐQ Pháp và bọn can thiệp Mỹ,
đối tượng phụ là PK phản động.
– Báo cáo khẳng định nhiệm vụ cơ bản của CM là tiêu diệt bọn ĐQ, giành độc lập và thống nhất thật sự
cho DT, xoá bỏ hết tàn dư PK, làm cho người cày có ruộng, phát triển dân chủ, tiến lên CNXH. Nhiệm vụ
chống ĐQ và nhiệm vụ chống PK khăng khít với nhau. Nhưng trọng tâm của CM trong giai đoạn hiện tại
là giải phóng DT, kẻ thù trước mắt của CM là CNĐQ xâm lược và bè lũ tay sai. Vì vậy lúc này cần phải
tập trung kháng chiến quyết thắng quân xâm lược.
– Báo cáo nêu rõ lực lượng CM bao gồm giai cấp CN, ND, tiểu TS, TSDT, ngoài ra còn có thân sĩ địa chủ
yêu nước và tiến bộ. Nền tảng là công, nông và lao động trí thức. Giai cấp CN là giai cấp lãnh đạo CM.
– Cuộc CM nhằm đánh đổ ĐQ và PK do nhân dân tiến hành, trong đó, công nông là động lực chủ yếu và
do giai cấp CN lãnh đạo, vì thế cuộc CM này là cuộc CMDT dân chủ nhân dân. CMDT dân chủ nhân dân
VN nhất định sẽ đưa VN tiến tới CNXH.
– Căn cứ vào tình hình thế giới và tình hình trong nước, căn cứ vào nhiệm vụ và tính chất của CM nước ta,
Báo cáo Bàn về CMVN vạch ra nhiều chính sách lớn của Đảng nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân,
gây mầm mống cho CNXH và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi: từng bước thực hiên chính sách ruộng
đất, tiến tới thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng; xây dựng, củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân
dân về KT, CT, VH, chuẩn bị tiến lên giai đoạn CMXHCN; xây dựng và phát triển quân đội nhân dân; thi
hành các chính sách về DT, tôn giáo, ngoại kiều; ra sức ủng hộ CM Miên – Lào, góp phần vào cuộc đấu
tranh hoà bình trên thế giới …
– Báo cáo Bàn về CMVN đã bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển 1ý luận của Đảng ta về CMDT dân chủ. Nó
là kim chi nam cho những chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng trong CMDT dân chủ, và phương hướng
phấn đấu cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đưa sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
– Đại hội cũng thảo luận và nhất trí thông qua Điều lệ mới của Đảng Lao động VN. Đảng Lao động VN là
Đảng của giai cấp CN và của nhân dân lao động VN. Đảng lấy CNMT làm nền tảng TT và xây dựng Đảng
theo nguyên tắc một Đảng VD kiểu mới, lấy tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt căn bản
của Đảng; phê bình, tự phê bình là quy luật phát triển của Đảng; phục vụ nhân dân là mục tiêu hoạt động
của Đảng.
20
Trần Gia Lộc

– Đại hội bầu ra BCH TW mới gồm 19 uỷ viên chính thức và 10 uỷ viên dự khuyết, bầu đồng chí HCM là
Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh là Tổng Bí thư. Đây là lần đầu tiên BCH TW của Đảng được bầu
hợp thức trong một Đại hội có đầy đủ đại biểu toàn quốc.
– Đại hội đại biểu toàn quốc lần II của Đảng đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo và
trưởng thành của Đảng ta. Đại hội đã nêu và phân tích đầy đủ, chuẩn xác nội dung khái niệm CMDT dân
chủ nhân dân VN, chỉ rõ con đường phát triển đúng đắn của CMVN, của nhân dân VN, là cơ sở để đoàn
kết toàn Đảng, toàn dân chiến đấu đưa sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi và xây dựng Đảng Lao động
VN vững mạnh. Đường lối do Đại hội vạch ra đã đáp ứng yêu cầu trước mắt của kháng chiến và yêu cầu
lâu dài của CM, và thực sự là những đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận CM nước ta.
– Dưới ánh sáng của đường lối Đại hội lần II của Đảng và các nghị quyết hội nghị TW, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân ta tiến hành cải cách ruộng đất ngay trong chiến tranh, đẩy mạnh cuộc kháng chiến, giành nhiều
thắng lợi trên các chiến trường cả nước trong chiến dịch Đông – Xuân mà đỉnh cao là chiến thắng Điện
Biên Phủ chấn động địa cầu, đưa đến thắng lợi hội nghị Genéve, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo tiền
đề vững chắc để tiếp tục cuộc CMDT dân chủ nhân dân ở miền Nam.
4. Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi, bài học kinh nghiệm
Ý nghĩa lịch sử:
– Đối với nước ta: việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được ĐQ Mỹ giúp sức ở mức độ cao,
buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước ĐD; đã làm thất bại âm
mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của ĐQ Mỹ, kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở ĐD; giải phóng
hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên CNXH làm căn cứ, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh
ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào DT cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của VN trên trường quốc tế.
– Đối với quốc tế: Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng DT trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực
lượng cho CNXH và CM thế giới cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của CNTD
kiểu cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.
– Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh nói: “Lần
đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một
thắng lợi vẻ vang của nhân dân VN, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ
và XHCN trên thế giới”.
Nguyên nhân thắng lợi:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên
nhân, trong đó nổi bật là:
– Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, với đường lối kháng chiến đúng đắn đã huy động được sức mạnh
toàn dân đánh giặc. Có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tâp hợp trong mặt trận DT thống nhất rộng rãi
– Mặt trận Liên Việt, được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công nông và trí thức vững chắc.
– Có lực lượng vũ trang gồm 3 thứ quân do Đảng trực tiếp lãnh đạo ngày càng vững mạnh, chiến đấu dũng
cảm, mưu lược, tài trí, là lực lượng quyết định tiêu diệt địch trên chiến trường, đè bẹp ý chí xâm lược của
địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc.
– Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng cố và lớn mạnh, làm
công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
– Có sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa 3 DT VN, Lào, Campuchia cùng chống 1 kẻ thù chung.
Đồng thời có sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Trung Quốc, Liên Xô, các nước XHCN, các DT yêu chuộng
hòa bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp.
Bài học kinh nghiệm:
21
Trần Gia Lộc

Trải qua quá trình lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến kiến quốc, Đảng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm
quan trọng.
– Thứ nhất, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó cho toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân thực hiện. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân; kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính.
– Thứ hai, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống PK và xây dựng chế
độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho CNXH, trong đó nhiệm vụ tập trung hàng đầu là chống ĐQ, giải
phóng DT, bảo vệ chính quyền CM.
– Thứ ba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương ngày
càng vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
– Thứ tư, quán triệt TT chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài. Đồng thời tích cực, chủ động đề ra và
thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với
đấu tranh ngoại giao, đưa kháng chiến đến thắng lợi.
– Thứ năm, tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng
trong chiến tranh.
III. KẾT BÀI
Đọc Giáo trình

22
Trần Gia Lộc

Vấn đề 5: Công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước trong thời kì đổi mới. Kết quả, ý nghĩa.

I. MỞ BÀI
– CNH–HĐH là chủ trương xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đi lên xây dựng CNXH,
nhằm tạo ra tiền đề vật chất để đưa nước ta phát triển trình độ cao hơn, hội nhập KT và hợp tác quốc tế.
II. THÂN BÀI
1. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hoá
– Trước thời kỳ đổi mới (1960 – 1985), Đảng ta đề ra mục tiêu cơ bản của CNH là xây dựng một nền KT
XHCN cân đối và hiện đại, bước đầu xây dựng CSVC–KT của CNXH.
– Để hoàn thành mục tiêu cơ bản ấy, Đảng vạch ra các phương hướng chỉ đạo và phát triển công nghiệp:
ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý; kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển
nông nghiệp; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng;
tích cực phát triển công nghiệp TW đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương.
– Kết quả là so với năm 1955, số xí nghiệp tăng 16,5 lần. Nhiều khu công nghiệp lớn hình thành, nhiều cơ
sở đầu tiên của công nghiệp nặng quan trọng như điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng. Có
hàng chục trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề đào tạo được đội ngũ cán bộ KHKT
xấp xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so với năm 1960 là thời điểm bắt đầu CNH. Những kết quả đạt được trên
đây có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo cơ sơ ban đầu để nước ta phát triển nhanh hơn trong các giai đoạn
tiếp theo.
– Bên cạnh những kết quả đạt được, CNH thời kỳ trước đổi mới còn nhiều hạn chế. CSVC–KT nước ta
còn hết sức lạc hậu. Những ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa
đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền KT quốc dân. Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mới chỉ bước
đầu phát triển, nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho XH. Đất nước vẫn
trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, rơi vào khủng hoảng KT–XH.
– Nguyên nhân là do chúng ta tiến hành CNH quá nóng vội trong điều kiện nước ta hết sức thiếu thốn, từ
một nền KT lạc hậu, nghèo nàn và chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không thể tập trung sức
người sức của cho CNH. Chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu, bước
đi về CSVC–KT, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, … Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy
ý chí trong nhận thức và chủ trương CNH.
– Trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội VI (12/1986) đã nghiêm
khắc phê bình những khuyết điểm, chỉ rõ những hạn chế của đường lối CNH thời kỳ trước đổi mới.
– Đó là sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng CSVC–KT, cải tạo XHCN và quản lý
KT; trong việc bố trí cơ cấu KT, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ xuất phát từ lòng mong
muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp
lý; đồng thời không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lần V.
– Từ việc chỉ ra những sai lầm khuyết điểm, Đại hội VI cụ thể hoá nội dung chính CNH trong chặng đường
đầu tiên thời kì quá độ là thực hiện cho bằng được 3 chương trình mục tiêu: lương thực thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu. 3 chương trình này liên quan chặt chẽ lẫn nhau. Phát triển lương thực thực
phẩm và hàng tiêu dùng nhằm đảm bảo nhu cầu ăn – mặc – ở thiết yếu cho đời sống nhân dân sau chiến
tranh và trong bối cảnh hàng hoá thiếu hụt nghiêm trọng, góp phần ổn định KT–XH. Phát triển hàng xuất
khẩu là yếu tố quyết định để khuyến khích sản xuất, đầu tư trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ để nhập
khẩu máy móc thiết bị còn thiếu phục vụ cho sản xuất.
– Thực chất, đây là sự thay đổi lựa chọn mô hình chiến lược CNH ở nước ta, đổi mới toàn diện các hoạt
động KT–XH theo 3 hướng chính sau đây:
– Một là, chuyển đổi từ chính sách hạn chế KT tư nhân sang nền KT nhiều thành phần với sự tồn tại của
nhiều loại hình sở hữu, nhằm phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả của nền KT, trong đó KT tư nhân
được khuyến khích phát triển.
23
Trần Gia Lộc

– Hai là, từ cơ chế Nhà nước trực tiếp điều khiển các hoạt động của nền KT bằng kế hoạch pháp lệnh, gắn
liền với chế độ bao cấp sang cơ chế KTTT có sự quản lý của Nhà nước ở tầm vĩ mô, bảo đảm quyền tự chủ
kinh doanh của mọi doanh nghiệp, mọi đơn vị KT.
– Ba là, từ cơ cấu KT khép kín, mang nặng tính tự cấp tự túc tách biệt với KT khu vực và KT quốc tế,
chuyển sang nền KT với hệ thống mở, cả đối với trong nước và ngoài nước.
– Đại hội được đánh dấu như một bước ngoặt mang tính lịch sử trong đổi mới tư duy và đường lối phát
triển đất nước trong thời kỳ mới, trước hết là đổi mới tư duy KT, mà nội dung cốt lõi là phát triển KT hàng
hóa nhiều thành phần, xóa bỏ cơ chế KT tập trung quan liêu bao cấp.
– 1/1994, Hội nghị TW 7 khóa VII đã có bước đột phá mới trong nhận thức về CNH. Hội nghị xác định:
CNH–HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản
lý KT, XH từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học– công nghệ, tạo ra năng suất XH cao.
– Trước đây, trong thời kỳ CM công nghiệp, CNH thường được hiểu đơn giản chỉ là quá trình thay thế lao
động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Như vậy TT về CNH của Đảng ta có sự đột phá mới mẻ.
CNH không chỉ bó hẹp trong phạm vi trình độ phát triển lực lượng sản xuất hay kĩ thuật lao động đơn
thuần, mà còn bao hàm tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về ngành dịch vụ và quản lí KT–XH,
được sử dụng các phương tiện máy móc tiên tiến, phương pháp KH công nghệ cao. Bên cạnh đó, quá trình
CNH phải hoàn thiện cơ cấu tổ chức và vận hành XH, nâng cao chất lượng sống cho người dân, phấn đấu
tăng mức thu nhập bình quân đầu người cả nước.
– 6/1996, Đại hội VIII của Đảng nhìn nhận lại đất nước sau 10 năm đổi mới. Đại hội nêu ra 6 quan điểm
về CNH–HĐH. Đó là gắn liền CNH với HĐH, với sự phát triển của KT tri thức; gắn với sự phát triển của
nền KT thị trường theo định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; lấy nguồn lực con người làm yếu tố trung
tâm; coi KH – công nghệ làm động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH–HĐH; việc phát triển KT phải nhanh,
hiệu quả, bền vững, đảm bảo công bằng XH, bảo vệ tài nguyên và môi trường.
– Đại hội VIII định hướng những nội dung cơ bản của CNH–HĐH trong những năm còn lại của thập kỷ
90. Cụ thể Đại hội điều chỉnh chính sách CNH theo hướng lấy nông nghiệp làm khâu đột phá, coi nông
nghiệp kết hợp công nghiệp chế biến là mặt trận hàng đầu. Tiếp tục thực hiện rộng rãi hơn chính sách mở
cửa, phát triển nền KT nhiều thành phần, nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh. Phát triển mạnh sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, KH và công nghệ
– Đến Đại hội IX (4/2001) và Đại hội X (4/2006), Đảng tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới
về tư duy CNH–HĐH. Đó là con đường CNH–HĐH ở nước ta có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi
trước. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức lớn. Cơ hội cho ta có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm,
thành tựu KHKT, thành quả các nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại hội nhập quốc tế để rút ngắn
thời gian. Thách thức cho ta phải tiến hành khéo léo sự nghiệp CNH–HĐH vừa tuần tự vừa có bước nhảy
vọt, phát huy hết lợi thế của đất nước. Việc đẩy mạnh CNH–HĐH nước ta phải đảm bảo xây dựng nền KT
độc lập tự chủ, chủ động hội nhập KT quốc tế, phải tính toán đến yêu cầu phát triển bền vững trong tương
lai.
– Tóm lại, từ sau Đại VI năm 1986, đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng ta đã được quán triệt và xuyên
suốt trong quá trình nghiên cứu xây dựng kế hoạch phát triển KT–XH và chỉ đạo thực hiện kế hoạch. Nền
KT nước ta từng bước được vận hành theo cơ chế thị trường, phát triển KT hàng hóa nhiều thành phần, có
sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
– Những tư duy đổi mới của Đảng về phát triển KT–XH đã không ngừng được hoàn thiện, là bước tiến
quan trọng, tạo ra những động lực mới đưa đất nước vượt qua nhiều khó khăn thách thức; đạt được những
thành tựu quan trọng về phát triển KT–XH trong suốt 20 năm qua.
2. Mục tiêu công nghiệp hoá – hiện đại hoá
– Mục tiêu lâu dài của CNH–HĐH là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có CSVC–KT hiện đại,
có cơ cấu KT hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức
24
Trần Gia Lộc

sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, văn
minh.
– Theo tinh thần của Đại hội X, chúng ta phải ra sức phấn đấu để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ở đây, cần phải hiểu nước công nghiệp hiện đại là một nước có nền
KT mà trong đó lao động công nghiệp phổ biến nhất trong các ngành và lĩnh vực KT, có tỉ trọng công
nghiệp và dịch vụ vượt trội hơn so với nông nghiệp.
3. Quan điểm công nghiệp hoá – hiện đại hoá
– CNH gắn với HĐH; CNH–HĐH gắn với phát triển KT tri thức.
Hiện nay, tác động của cuộc CMKH–công nghệ và xu thế hội nhập toàn cầu hoa đã tạo ra nhiều cơ hội
và thách thức đối với đất nước. Nước ta cần phải và có thể tiến hành CNH theo kiểu rút ngắn thời gian,
không trải qua các bước phát triển tuần tự từ KT nông nghiệp lên KT công nghiệp rồi mới phát triển KT tri
thức. KT tri thức là nền KT trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất
đối với sự phát triển KT, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
– CNH–HĐH gắn với phát triển KT thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập KT quốc tế
Công nghiệp hoa, hiện đại hoa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đo kinh tế
nha nước giữ vai trò chủ đạo. Phương thức phân bổ nguồn lực để cong nghiệp hoa được thực hiện chủ yếu
bằng cơ chế thị trường; trong đó, ưu tiên những ngành, những lĩnh vực có hiệu quả cao.
Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thac thị tr ường thế giới để tiêu thụ những sản phẩm ma nước ta co
nhiều lợi thế, thu hut vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản ly tiên
tiến của thế giới.
– Kết hợp sức mạnh DT với sức mạnh thời đại để phát triển KT và đẩy nhanh CNH–HĐH.
– Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. CNH–HĐH
không chỉ đòi hòi phải có vốn, nguồn tài nguyên, kĩ thuật, … mà còn cần phải phát triển một cách tương
xứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó. Nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu CNH–HĐH
đó chính là Họ là những người có đức, có tài, ham học hỏi, cần cù, thông minh, năng động, sáng tạo, làm
việc quên mình vì nền độc lập và sự phồn vinh của Tổ quốc. Họ phải được chuẩn bị tốt kiến thức VH, được
đào tạo thành thạo tay nghề, huấn luyện kĩ năng nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn KHKT vươn
lên tầm thế giới.
Để có nguồn lực con người phù hợp yêu cầu CNH–HĐH, cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục và
đào tạo, phải tạo ra một cơ cấu nhân lực đồng bộ, từ lĩnh vực KH tự nhiên đến KHXH, từ lực lượng cán bộ
nghiên cứu KH và triển khai công nghệ đến đội ngũ cán bộ quản lý nghiệp vụ và những thợ CN lành nghề.
Đi đôi với việc đào tào, bồi dưỡng nhân lực, cần phải phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình
lao động sáng tạo của họ để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả KT cao, đóng góp xứng đáng vào
sự nghiệp CNH–HĐH.
– Coi phát triển KH và công nghệ là nền tảng, là động lực của CNH–HĐH. Thời đại ngày nay, khi mà KH
thế giới phát triển như vũ bão, KH trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nhân tố quyết định đến chất lượng
và số lượng sản phẩm, chi phí sản xuất, khả năng cạnh tranh hàng hoá trên thị trường, … Do đó, KH và
công nghệ là động lực cho sự nghiệp CNH–HĐH. Đồng thời muốn đẩy nhanh quá trình CNH–HĐH gắn
với phát triển KT tri thức thì phát triển KH–công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc.
Để phát triển KH và công nghệ, cần chú ý kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, phải
đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh. KH và
công nghệ cùng với giáo dục đào tạo được xem là quốc sách hàng đầu.
– Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng KT đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
Mục tiêu của CNH–HĐH xét cho cùng là vì con người, vì dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ,
văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết KT phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Có như
vậy mới có thể xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần người dân, phát triển VH,
giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền, DT với nhau. Mặt khác, tăng trưởng
25
Trần Gia Lộc

KT và tiến bộ, công bằng XH có quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Mỗi bước tăng trưởng KT là một
bước điều kiện thực hiện tiến bộ, công bằng XH cao hơn nữa. Điều đó đòi hỏi phải kết hợp mục tiêu KT
với mục tiêu XH trong phạm vi cả nước, từng lĩnh vực, địa phương, gắn quyền lợi và nghĩa vụ về cống
hiến, hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển KT–XH.
Bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn sự đa dạng sinh học chính là bảo vệ điều kiện sống của con người
và cũng là nội dung của sự phát triển bền vững. Nếu môi trường bị ô nhiễm, tài nguyên bị cạn kiệt, rừng
cây bị tàn phá, đất bị xói mòn, nước bị nhiễm độc, thú vật bị săn bắt trái phép, … dẫn biến đổi khí hậu,
hiệu ứng nhà kính toàn cầu, mất cân bằng sinh thái, … Không gian sinh tồn và phát triển của con người bị
thu hẹp, chẳng những thế tương lai các thế hệ còn bị đe doạ. Vì vậy phát triển KT trong quá trình CNH–
HĐH phải gắn chặt với việc bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học là lẽ đó.
4. Kết quả và ý nghĩa
a) Kết quả thực hiện đường lối và ý nghĩa:
– CSVC–KT của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng độc lập tự chủ của nền KT được nâng cao.
– Cơ cấu KT chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt được những kết quả quan trọng
– Những thành tựu của CNH–HĐH đã góp phần quan trọng đưa nền KT đạt tốc độ tăng trưởng khá cao.
Ý nghĩa: Những thành tựu trên có ý nghĩa rất quan trọng là cơ sở phấn đấu để sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
b) Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế:
– Tốc độ tăng trưởng KT vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực thời kỳ đầu công
nghiệp hóa. Quy mô nền KT còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp.
– Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao; tài nguyên, đất đai và các nguồn vốn của
nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Nhiều nguồn lực trong dân chưa được phát huy.
– Cơ cấu KT chuyển dịch còn chậm. Trong công nghiệp các ngành sản phẩm có hàm lượng tri thức cao
còn ít.
– Các vùng KT trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào cơ cấu KT hiện đại. KT vùng
chưa có sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả thấp và chưa được quan tâm đúng mức.
– Cơ cấu thành phần KT phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa tạo được đầy đủ môi trường hợp
tác, cạnh tranh bình đẳng và khả năng phát triển của các thành phần KT.
– Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Công tác quy hoạch chất lượng thấp, quản lý kém, chưa phù hợp với cơ chế
thị trường.
– Nhìn chung, mặc dù đã cố gắng dầu tư nhưng kế cấu hạ tầng KT – xã hội vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển KT – xã hội.
Nguyên nhân:
– Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng được tốt nhất các nguồn lực, cả nội
lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển KT – xã hội.
– Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả. Công tác tổ chức, cán bộ chậm đổi mới, chưa đáp ứng
yêu cầu.
III. KẾT LUẬN
Đọc Giáo trình

26
Trần Gia Lộc

Vấn đề 6: Kinh tế thị trường là gì? Quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

I. MỞ BÀI
II. THÂN BÀI
1. Khái niệm “kinh tế thị trường”, “kinh tế theo trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
– KTTT là nền KT … (tự làm)
– Nền KTTT theo định hướng XHCN là nền KT hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
– Nó là một kiểu tổ chức KT vừa tuân theo quy luật của KTTT vừa dựa trên cơ sở và chịu sự chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của CNXH. Trong nền KT đó, các thế mạnh của thị trường được sử dụng
CSVC–KT của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân, thúc đẩy sản xuất phát triển.
– Còn tính định hướng XHCN được thể hiện trên cả 3 mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý
và phân phối. Cụ thể đó là chế độ công hữu tự liêu sản xuất chủ yếu làm nền tảng và KT nhà nước giữ vai
trò chủ đạo trong nền KT quốc dân; Nhà nước tổ chức quản lý nền KTTT dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN;
kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó chủ yếu là phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả KT,
thực hiện tốt chính sách XHCN.
– Tất cả đều nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiên tiến hiện đại trong XH do dân làm
chủ, nhân ái, có VH, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc”.
2. Quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
– Để thực hiện các mục tiêu về đảm bảo nền KT phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững theo định hướng
XHCN, Nghị quyết Đại hội X đã nêu 5 quan điểm cần quán triệt trong việc hoàn thiện thể chế KTTT định
hướng XHCN ở nước ta trong những năm tới là:
– Một là, nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của KTTT, thông lệ
quốc tế, phù hợp với điều kiện của VN, bảo đảm định hướng XHCN của nền KT. Thực hiện quan điểm này
nhằm khắc phục TT chủ quan, duy ý chí, vi phạm sự vận động của quy luật khách quan, cũng như khắc
phục chủ nghĩa giáo điều, rập khuôn, máy móc, bắt chước nước ngoài, không tính tới đặc điểm và trình độ
phát triển của nền KT; chạy theo các chỉ tiêu KT thuần túy, coi nhẹ định hướng XHCN, định hướng phát
triển của nền KT nước ta.
– Hai là, bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế KT. Theo quan điểm này cần bảo
đảm đồng bộ giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế KT với thể chế CT, XH; giữa
Nhà nước, thị trường và XH. Gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng KT với tiến bộ và công bằng XH, phát triển
VH và bảo vệ môi trường.
– Ba là, kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển KTTT của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn
đổi mới ở nước ta, chủ động và tích cực hội nhập KT, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ
vững an ninh CT, trật tự an toàn XH.
– Bốn là, chủ động tích cực giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải
có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết rút kinh nghiệm. Quan điểm này xuất phát từ thực tế của quá
trình xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT ở nước ta là công việc mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm,
vừa tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm. Nhưng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền
vững trong giai đoạn mới, không cho phép chúng ta lừng chừng, trù trừ khi đã có nhận thức đúng đắn quá
trình phát triển của đất nước.

27
Trần Gia Lộc

– Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, phát huy sức
mạnh của cả hệ thống CT trong quá trình hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN. Quan điểm này
xuất phát từ bài học kinh nghiệm qua 20 năm đổi mới, xác định đổi mới là sự nghiệp của toàn dân, do nhân
dân thực hiện và vì lợi ích của nhân dân. Do vậy, hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN phải huy
động được sự tham gia của toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn DT. Sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố quyết định thắng lợi của CM nước ta.
III. KẾT LUẬN
Đọc Giáo trình

Vấn đề 7: Mục tiêu, quan điểm và chủ trương xây dựng hệ thống chính trị trong thời kì đổi mới.
Trình bày hoạt động của hệ thống chính trị nước ta hiện nay.

I. MỞ BÀI
– Sau 1975, miền Nam được giải phóng, non sông VN được thống nhất, lịch sử DT sang một trang mới: cả
nước cùng tiến lên CNXH. Cùng với việc xây dựng đường lối CNH–HĐH đất nước, xây dựng nền KTTT
theo định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước ta cũng hết sức chú trọng đến việc xây dựng hệ thống CT
thống nhất, vững mạnh, xứng tầm và toàn diện.
II. THÂN BÀI
1. Khái niệm hệ thống chính trị
– Hệ thống CT là 1 chỉnh thể các tổ chức CT trong XH, bao gồm Đảng CT, Nhà nước và các tổ chức CT–
XH hợp pháp liên kết với nhau nhằm tác động vào đời sống XH để củng cố, duy trì và phát triển chế độ
đương thời phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
– Theo khái niệm trên, hệ thống CT mang bản chất của giai cấp cầm quyền. Hệ thống CT không chỉ gồm
1 hay vài tổ chức mà nó là cả 1 hệ thống to lớn, thống nhất từ TW đến địa phương, được phân cấp và phục
vụ lợi ích, hay nói đúng hơn là phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Chính giai cấp cầm quyền có
quyền và khả năng xây dựng nên 1 hệ thống CT phù hợp với XH đương thời và tương thích với lợi ích của
mình.
– Hệ thống CT ở nước ta là 1 cơ chế và công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hệ thống
CT này gồm có Đảng CSVN, Nhà nước CHXHCNVN, Đoàng Thanh niên CSHCM, Tổng Liên đoàn Lao
động VN, Hội ND VN, Hội Liên hiệp Phụ nữ VN, Hội Cựu chiến binh VN, … cùng với nhiều tổ chức CT–
XH hợp pháp khác của nhân dân. Hệ thống CT nước được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh công
nông và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN, thực hiện và đảm bảo đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân lao động.
2. Mục tiêu xây dựng hệ thống chính trị
– Mục tiêu chủ yếu của việc xây dựng hệ thống CT là nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ XHCN, phát huy
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH do
Đại hội VII thông qua xác định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống CT ở nước ta trong giai đoạn
mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.
– Trung tâm của mục tiêu này, xét đến cùng vẫn là phát huy tối đa và giữ vững quyền làm chủ của nhân
dân trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Mấu chốt của vấn đề là làm sao xây dựng các tổ chức
CT trong hệ thống CT nước ta có sự tham gia tích cực của nhân dân, thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ
của mình trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Điều đó không chỉ thể hiện ở khẩu hiệu, lời nói mà
phải đi vào thực tiễn hành động, tạo cho kỳ được những chuyển biến tích cực. Nghĩa là phát huy dân chủ
toàn diện, thực chất trong XH mà không phải kiểu dân chủ hình thức.
28
Trần Gia Lộc

– Muốn làm được điều đó thì các tổ chức trong hệ thống CT phải không ngừng nâng cao vai trò, vị trí, sức
chiến đấu và ảnh hưởng của mình, đặc biệt là ĐCS, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc.
3. Quan điểm xây dựng hệ thống chính trị
– Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới KT với đổi mới CT, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời
từng bước đổi mới CT. Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy CT thể
hiện trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì
không có mọi sự đổi mới khác. Trong những năm đầu, Đảng tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ đổi mới KT, khắc phục khủng hoảng KT–XH, tạo điều kiện để giữ vững ổn định CT, xây
dựng, củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống XH, đồng thời
từng bước đổi mới CT. Quá trình phát triển của sự nghiệp đổi mới đã khẳng định sự kết hợp nhuần nhuyễn
và bước đi đúng đắn đó. Đến Đại hội X, Đảng đã xác định đổi mới toàn diện, bao gồm đổi mới KT và đổi
mới CT theo những nguyên tắc xác định.
– Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống CT không phải là hạ thấp hoặc thay đổi bản chất
của nó mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Đó là quá trình làm cho hệ thống CT hoạt động năng động, có hiệu quả hơn, phù
hợp với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay là để phát triển
nền KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh sự nghiệp CNH–HĐH gắn với KT tri thức, chủ động, tích cực
hội nhập KT quốc tế.
– Đổi mới hệ thống CT một cách toàn diện, đồng bộ, có kế hoạch, có bước đi, hình thức và cách làm phù
hợp. Điều này đòi hỏi mỗi tổ chức và cả hệ thống CT phải tự mình tìm ra con đường, cách làm cho riêng
mình trên cơ sở thực tiễn đường lối chủ trương chung. Việc đó khó nhưng không thể không làm và tất
nhiên làm được. Nó đòi hỏi các tổ chức và mỗi cá nhân trong tổ chức phát huy sức sáng tạo, tư duy và sự
đổi mới mình để góp phần cùng toàn bộ hệ thống CT làm nên những đột phá và những thắng lợi mới trong
tình hình mới.
– Đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống CT với nhau và với XH, tạo ra sự vận
động cùng chiều theo hướng tác động, thúc đẩy XH phát triển; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
4. Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị
– Xây dựng Đảng trong hệ thống CT. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ
sung và phát triển 2011) khẳng định: “ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp CN, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của DTVN; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp CN, nhân dân lao
động và của DT”.
– Đảng phải lãnh đạo hệ thống CT, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng phải gắn bó mật thiết
với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng, chịu sự
giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều đó là cơ sở của sự gắn bó
giữa xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống CT, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong hệ thống CT.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về CT, TT, tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, ra sức nâng cao trình độ, trí tuệ, bản lĩnh CT, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững
truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ, kỷ luật trong hoạt động của Đảng.
Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu,
tham nhũng, lãnh phí và hành động chia rẽ, bè phái.
– Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp CN với giai cấp ND và đội ngũ trí thức, do ĐCSVN lãnh đạo. Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức quản lý XH bằng pháp luật và không
ngừng tăng cường pháp chế XHCN.

29
Trần Gia Lộc

– Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thựuc hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân, tôn trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế biện pháp, kiểm
soát ngăn chặn, trừng phạt tệ quan liêu, tham nhũng lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền
làm chủ của nhân dân; giữ vững kỷ cương XH; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm đến lợi ích của Tổ
quốc, của nhân dân. Tổ chức và hoạt động bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân
công phân cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
– Xây dựng Mặt trận Tổ quốc VN và các tổ chức CT–XH trong hệ thống CT. Các đoàn thể nhân dân có
vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn DT, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đại diện và bảo
vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; chăm lo lợi ích cho các hội viên, đoàn viên, xây
dựng XH lành mạnh, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước.
– Mặt trận Tổ quốc VN là tổ chức liên minh CT, tổ chức CT–XH và các nhân tố tiêu biểu trong các giai
cấp, các tầng lớp XH, các DT, các tôn giáo và người VN định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc VN là cơ
sở CT của chính quyền nhân dân. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối
hợp thống nhất hành động giữa các thành viên.
– Các đoàn thể nhân dân tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định, giáo dục, vận động các
đoàn viên, hội viên chấp hành chính sách, pháp luật, chăm lo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho
đoàn viên, hội viên, giúp họ nâng cao trình độ về mọi mặt, xây dựng cuộc sống mới, tham gia quản lý Nhá
nước, quản lý XH.
– ĐCSVN tôn trọng tính tự chủ, sáng tạo và ủng hộ mọi hoạt động của các tổ chức CT–XH; lắng nghe ý
kiến đóng góp của Mặt trận và các thành viên.
5. Hoạt động của hệ thống chính trị nước ta hiện nay
– Hệ thống CT của nước CHXHCNVN bao gồm: ĐCSVN, Nhà nước, Công đoàn, Hội NDVN, Đoàn Thanh
niên CSHCM, Hội Liên hiệp Phụ nữ VN.
– ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp CN, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp CN, nhân dân lao động
và của cả DTVN. Đảng là một bộ phận của hệ thống CT nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ
thống CT. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới và xây dựng CNXH, vị trí hạt nhân và vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống CT lại càng thể hiện một cách rõ nét và đầy đủ.
Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ trương phát triển KT–XH;
đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo XH chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan
điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính
sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy
của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo XH thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng
lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán
bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức
CT–XH.
Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương, làm công tác vận động
quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ, ...

30
Trần Gia Lộc

– Nhà nước là trụ cột của hệ thống CT ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân
dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống XH.
Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo
của giai cấp CN, thực hiện đường lối CT của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, Nhà nước XHCN vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy CT,
hành chính, vừa là tổ chức quản lý KT, VH, XH của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp.
– Công đoàn là tổ chức CT–XH rộng lớn của giai cấp CN và nhân dân lao động VN tự nguyện lập ra dưới
sự lãnh đạo của ĐCHCM, là thành viên trong hệ thống CT của XHVN, cùng với các cơ quan nhà nước,
công đoàn chăm lo đời sống và bảo đảm quyền lợi của công nhân viên chức.
– Hội NDVN là tổ chức đoàn kết, giáo dục nâng cao ý thức và năng lực làm chủ của ND nhằm hướng dẫn
những người sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội. Hội NDVN kiến nghị với nhà nước những vấn đề cần
thiết trong chính sách nông nghiệp, giúp đỡ nhà nước trong việc xây dựng pháp luật quản lý nông nghiệp,
cải thiện đời sống nhân dân.
– Đoàn Thanh niên CSHCM là tổ chức giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ, là đội hậu bị, là cánh tay đắc lực
của Đảng, đồng thời cũng là nguồn cung cấp cán bộ trẻ cho các cơ quan nhà nước và các tổ chức quần
chúng.
– Hội Liên hiệp Phụ nữ VN là tổ chức đoàn kết rộng rãi, động viên giáo dục các tầng lớp phụ nữ, thực hiện
sự bình đẳng của mình với nam giới đồng thời nhận thức rõ vai trò đặc biệt của phụ nữ trong việc làm mẹ
và giáo dục các thế hệ thanh thiếu niên.
III. KẾT LUẬN
Đọc Giáo trình

Vấn đề 8: Quan điểm cơ bản chỉ đạo quá trình phát triển văn hoá trong thời kì công nghiệp hoá
– hiện đại hoá đất nước tại Nghị quyết Trung ương Đảng lần 5, khoá 8 (tháng 7/1998).

I. MỞ BÀI (tự làm)


II. THÂN BÀI
– Khái niệm VN (tự làm)
– Nghị quyết TW 5 khoá VIII (7/1998) đã nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo quá trình phát triển VH trong
thời kì CNH–HĐH đất nước. Cụ thể là:
1. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế – xã hội. Quan điểm này xác định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hoá trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay.
– VH được tạo thành bởi một hệ các giá trị tạo nên bản sắc của mỗi DT, các giá trị này thấm nhuần trong
mỗi cá nhân, con người, gia đình, tập thể, và cả cộng đồng. VH được lưu truyền, tiếp nối và phát huy qua
các thế hệ, được “vật chất hoá” bền vững trong cấu trúc KT–XH. Nó tác động hàng ngày đến đời sống vật
chất tinh thần của mỗi con người trong XH. Vì vậy chúng ta phải làm cho VH thấm sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống XH. Đó là con đường để các giá trị VH trở thành nền tảng tinh thần bền vững của XH
–VH là nguồn lực nội sinh cho sự phát triển của DT. Thật vậy, VH biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, sức
mạnh tiềm tàng và vị thế, tầm vóc DT. Thực tế đã chứng minh, một quốc gia muốn phát triển bền vững,
ngoài dựa vào các “yếu tố cứng” như tài nguyên thiên nhiên, tiền vốn, cơ sở vật chất, … thì cần phải biết

31
Trần Gia Lộc

tận dụng, khai thác “yếu tố mềm”, đó chính là nguồn nhân lực con người với vai trò là nhân cách VH năng
động, sáng tạo nhất, đóng góp quyết định nhất đến sự hùng mạnh, phồn vinh của XH.
– VH còn đóng vai trò động lực và điều tiết trong KTTT. VHVN đương đại sẽ là một tiền đề quan trọng
đưa nước ta hội nhập sâu hơn và toàn diện hơn vào nền KT thế giới. VH cổ vũ, hướng dẫn cho một lối sống
hài hòa và chừng mực với hành tinh của chúng ta, vì sự phát triển bền vững cho thế hệ hôm nay và thế hệ
mai sau. Nói cách khác, VH là một động lực lớn lao và đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy KT phát triển và làm
“hài hòa hóa” các mối quan hệ XH và “lành mạnh hóa” môi trường XH.
– Mục tiêu lâu dài của VH chính là hướng đến “dân giàu nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh”.
Chiến lược phát triển KT–XH 1991 – 2000 xác định mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con
người, do con người. Đó là chiến lược phát triển bền vững. Trong thực tế nhận thức và hành động, mục
tiêu KT vẫn thường lấn át mục tiêu XH. VH vẫn thường bị xem là đứng ngoài KT. Hệ quả là KT có thể
tăng trưởng nhưng VH bị suy giảm. Chúng ta phải chủ trương phát triển VH gắn kết chặt chẽ và đồng bộ
hơn với phát triển KT–XH, khai thác tiềm năng KT của VH.
– VH có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng XH mới.
Nhiều tài nguyên thiên nhiên có hạn mà nguy cơ cạn kiệt càng cao, trong khi đó chỉ có tri trức con người
mới là vô hạn. Vì vậy trí tuệ loài người giữ vai trong quyết định chính trong thời đại ngày nay. Quốc gia
nào đạt thành tựu giáo dục cao, có vốn trí tuệ toàn dân nhiều thì quốc gia đó vó khả năng tăng trưởng dồi
dào. VH trực tiếp tạo dựng và nâng cao vốn “tài nguyên người”.
2. Nền văn hoá mà ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm này xác
định phương hớng và đặc trưng của nền văn hoá Việt Nam mà chúng ta tập trung xây dựng. Trình
độ tiên tiến của nền văn hoá phải thống nhất với bản sắc văn hoá dân tộc và khẳng định tầm vóc, vị
thế của văn hoá dân tộc trong giao lưu và hợp tác quốc tế.
– Thế nào là nền VH tiên tiến? Nền VH tiên tiến đó chính là nền VH yêu nước và tiến bộ với nội dung cốt
lõi là lý tưởng độc lập DT và CNXH. Đó cũng là nền VH nhân văn vì con người, vì hạnh phúc và sự phát
triển phong phú, tự do, toàn diện của con người, trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng,
giữa XH và tự nhiên, hướng đến cái chân – thiện – mỹ của nhân loại.
– Tiên tiến không chỉ về nội dung TT mà cả trong hình thức biểu hiện, trong phương tiện chuyển tải nội
dung. Từ trong phong cách văn chương đến điện ảnh, từ kiểu dáng kiến trúc đến
– Thế nào là nền VH đậm đà bản sắc DT? Bản sắc DT là tất cả những giá trị VH truyền thống bền vững
của DT. Bản sắc DT thể hiện sức sống bên trong của DT, đậm nét trong các hình thức biểu hiện mang tính
DT độc đáo, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống. Bản sắc DT cũng phát triển theo thể chế KT, XH và
CT của quốc gia, theo quá trình hội nhập, giao lưu, tiếp nhận văn minh nhân loại.
– Vì vậy, nền VH đậm đà bản sắc DT là nền VH gìn giữ và phát huy được những giá trị bền vững, tinh hoa
của VH cộng đồng các DTVN được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường quật khởi, tinh thần đoàn kết vững chắc của một DT;
là đức tính cần cù, khả năng sáng tạo trong lao động; là lòng nhân ái bao la, trọng tình quý nghĩa trong đạo
lý; là giản dị trong cử chỉ, mộc mạc ở lối sống; là tinh tế lời nói, khéo léo ứng xử trong các mối quan hệ
XH; …
– Tuy nhiên, không nên đồng nhất bản sắc DT với “cái cũ”, “cái nguyên gốc” do dân tộc tạo ra mà nó bao
hàm cả các giá trị tinh hoa của VH nhân loại được DT tiếp nhận một cách sáng tạo, biến nó thành nguồn
lực bên trong để xây dựng và bảo vệ đất nước.
– Để xây dựng nền VH tiên tiến, đậm đà bản sắc DT, chúng ta chủ trương vừa bảo vệ bản sắc DT, vừa mở
rộng giao lưu, tiếp thu VH nhân loại; xây dựng VN thành một địa chỉ giao lưu VH khu vực và quốc tế.

32
Trần Gia Lộc

3. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc. Quan
điểm này nhấn mạnh tư tưởng nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về đảm bảo tính thống nhất và tính
đa dạng của nền văn hóa Việt Nam hiện đại.
– Đất nước VN ta có 54 DT sống trên dãi đất hình chữ S đều có những phong tục tập quán tốt đẹp từ rất
lâu đời, nhiều lễ hội đặc trưng mang ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng, cùng niềm tin bền vững trong tín ngưỡng
thờ cúng đặc sắc riêng … Đó là … (tự kể). Những giá trị và sắc thái VH riêng đó bổ sung cho nhau làm
phong phú nền VHVN.
– Nền VHVN là nền VH thống nhất. 54 DT anh em ta đều cùng sống trên 1 lãnh thổ, cùng sát cánh kề vai
nhau trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước suốt hành trình lịch sử DTVN. Do đó, dù là DT nào, lòng yêu
nước nồng nàn và tinh thần đoàn kết đã thấm sâu trong từng DT, bao trùm mọi lĩnh vực đời sống.
– Thống nhất cả bao hàm tính đa dạng, đa dạng trong sự thống nhất, không có sự đồng hóa hoặc thôn tính,
kỳ thị bản sắc VH các DT. Bảo vệ bản sắc DT, chống lạc hậu lỗi thời, mở rộng giao lưu tiếp thu tinh hoa
VH nhân loại là nhiệm vụ của chúng ta.
– Để xây dựng nền VHVN đa dạng mà thống nhất, Đảng ta chủ trương bình đẳng các DT trong nước, đoàn
kết giúp đỡ nhau cùng phát triển mọi mặt, trong đó có cả VH.
4. Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí
thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm này xác định vai trò chủ thể xây dựng và phát triển sự nghiệp
văn hóa dân tộc.
– CM là sự nghiệp của quần chúng nhân dân thì xây dựng VH là công việc do mọi người cùng thực hiện.
Mỗi người dân VN cần nhận thức được trách nhiệm của bản thân trong quá trình này. Làm cho VH thẩm
thấu trong mọi lĩnh vực của đời sống XH, thực hành VH là hoạt động hàng ngày của mỗi người dân
– Đội ngũ tri thức, văn nghệ sĩ gắn bó với nhân dân, với tư cách là ngững người có tri thức KH, có tiềm
năng sáng tạo rất lớn nên giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng
và phát triển VH.
5. Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi
hỏi ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Quan điểm này nhấn mạnh tới phương pháp xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
– VH là một mặt trận của CMVN, quan trọng và gian khổ không kém mặt trận KT, mặt trận CT. Đó là
“xây” phải đi đôi với “chống” và lấy “xây” làm chính. Hoạt động xây và chống trong VH là quá trình CM lâu
dài, khó khăn, phức tạp và cần có ý chí CM có tính chiến đấu tính kiên trì thận trọng, đòi hỏi nhiều thời
gian. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản VH quý báu của DT, tiếp thu những tinh hoa VH nhân loại,
phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, tệ nạn XH.
III. KẾT LUẬN
– Mỗi người dân VN và đặc biệt là thế hệ thanh niên, trí thức trẻ càng phải nhận thức được vai trò của bản
thân trong xây dựng và phát triển nền VHVN tiên tiến, đậm đà bản sắc DT theo định hướng đã đề ra. Chúng
ta hãy cố gắng học tập, rèn luyện bản thân thật tốt để mỗi người đều trở thành một bông hoa đẹp có ích,
qua đó thể hiện được bản sắc VHDT trong từng lời nói, hành động. Làm được điều đó có nghĩa là chúng
ta đã góp phần xây dựng hình ảnh đất nước VN thân thiện và đẹp đẽ trong mắt bạn bè quốc tế.

33

You might also like