You are on page 1of 8

Martin Ryle: Nhà tương lai học năng lượng

Sinh vào tháng 9 cách nay 100 năm, Martin Ryle không chỉ là một nhà thiên văn học giành
giải Nobel. Alan Cottey đưa ra một cái nhìn mới về cuộc đời của một nhà khoa học lỗi lạc
và đầy mâu thuẫn, người đồng thời có tầm nhìn xa rộng về tương lai sử dụng năng lượng
của loài người.

Ảnh: Shutterstock/CappaPhoto
Martin Ryle sinh ra cách nay tròn một thế kỉ, vào ngày 27 tháng Chín 1918. Ông là
một trong những nhà khoa học thành công nhất thuộc thế hệ của mình. Trong một sự
nghiệp rực rỡ, ông đã giành được nhiều giải thưởng và tước vị danh giá nhất mà một nhà
khoa học có thể đạt được. Ngoài việc cùng chia sẻ Giải Nobel Vật lí 1974 cùng với người
đồng nghiệp Antony Hewish tại Đại học Cambridge, Ryle còn là uỷ viên Hội Hoàng gia và
giáo sư thiên văn học tại Cambridge. Ông được phong danh hiệu Nhà thiên văn học Hoàng
gia và được tấn phong hiệp sĩ năm 1966.
Những công nhận này là dành cho công trình tiên phong của ông về thiên văn học
vô tuyến, lĩnh vực mà ông cống hiến với sự uyên thâm, nhiệt tình, sáng tạo, lưu loát, tài
lãnh đạo lôi cuốn và kĩ năng thực hành chuyên nghiệp. Ryle nhận ra tiềm năng của kĩ thuật
giao thoa vô tuyến, ông cho xây dựng những giao thoa kế ngày một to hơn, và khai thác
những thiết bị mới đó cho thiên văn vật lí và vũ trụ học. Ông nhận nửa giải Nobel cho “các
quan sát và phát minh, đặc biệt là kĩ thuật tổng hợp khẩu độ”, kĩ thuật kết hợp tín hiệu từ
một ma trận detector nhỏ để thu được hình ảnh có độ phân giải góc ngang ngửa với một
thiết bị có kích cỡ bằng toàn bộ ma trận detector đó.
Tuy nhiên, vì những lí do khác nhau, Ryle đã từ bỏ thiên văn học vào thập niên
1970. Ông trở thành một người phê bình kịch liệt năng lượng hạt nhân và vũ khí hạt nhân,
và là người hết sức ủng hộ năng lượng tái sinh – đặc biệt là năng lượng gió – cũng như
việc trữ năng lượng và cách nhiệt. Dù sức khoẻ không tốt, Ryle và một đội đồng nghiệp
thân cận vẫn cho ra ba bài báo ngắn về việc sử dụng năng lượng. Trong khi những ấn
phẩm này trông như muối bỏ biển so với vô số nghiên cứu R&D được thực hiện trong bốn

1
thập niên sau đó, nhưng tôi tin rằng các ý tưởng của Ryle vẫn quan trọng – và một số
chương trình của ông nên được tiếp tục xúc tiến.
“Thằng nhỏ quá sức tận tuỵ”
Sinh ra ở vùng duyên hải Brighton nước Anh, Ryle xuất thân từ một gia đình trí
thức tự do. Mẹ ông người gốc Ireland nhưng sinh ra ở Nam Phi, và Ryle được mô tả trong
Danh bạ Tiểu sử Hội Hoàng gia là đã hấp thu một phần “dòng máu Ireland tiêu biểu phản
đối Chính quyền” từ mẹ của ông. Người nhà ông còn liên hệ bản tính nóng nảy của Ryle
với huyết thống Celt* trong người ông. Cha của ông là một bác sĩ nổi tiếng và là một người
tôn sùng lí tưởng.

Martin Ryle năm 1968 trước giao thoa kế ba-dặm mà ông giúp phát triển tại Đài thiên văn Vô tuyến
Mullard, Cambridgeshire, Anh. (Ảnh: John T Scott, Bộ sưu tập Physics Today)
Từ lúc còn nhỏ, Ryle đã sớm phát triển các kĩ năng thực hành hữu ích trong nghề
mộc và radio nghiệp dư. Năm 1936, ông vào trường Đại học Oxford, tốt nghiệp ngành vật
lí đứng đầu lớp vào hè năm 1939. Đó là ngay trước lúc Thế chiến Thứ nhất bùng nổ và
Ryle sớm tham gia đóng góp cho nỗ lực quân sự của nước Anh, nghiên cứu về radar tại

2
Cục Nghiên cứu Viễn thông. Radar giữ một vai trò thiết yếu trong cuộc chiến – đặc biệt là
đối với nước Anh – và các khả năng của Ryle được dịp khoe sắc.
Là người lãnh đạo đội lúc mới ở tuổi 23, Ryle là một công nhân đầy sáng tạo, ông
hoàn thành các phát triển kĩ thuật khẩn cấp ở tốc độ cực nhanh. Ông đã truyền nhiệt huyết
sang đội của mình và học cách thu được những cái ông cần từ những người đứng cao hơn
ông – những kĩ năng phục vụ tốt cho ông trong sự nghiệp nghiên cứu hậu chiến đầy lẫy
lừng của ông. Ông căm ghét chiến tranh nhưng cũng hết sức lưu tâm yêu cầu đánh bại chủ
nghĩa phát xít, và dành thời gian làm việc đến gần như kiệt sức. Khi Ryle về thăm bố mẹ
năm 1941, bố ông lo lắng về sức khoẻ cậu con trai đến mức ông đã viết thư riêng cho ông
chủ của con trai, nhà vật lí vô tuyến J A (Jack) Ratcliffe. (Trong thế giới nhỏ bé của giới trí
thức hàng đầu nước Anh khi ấy, mọi người đều biết nhau.) Trong thư, nay lưu trữ trong
tư liệu Ryle tại Trung tâm Học liệu Churchill ở Cambridge, bố ông khuyên rằng Ryle nên
“được nghỉ hai hoặc ba tuần, càng sớm càng tốt”, ông e ngại rằng “thằng nhỏ quá sức tận
tuỵ ấy… có thể càng suy sụp hơn.”
Ở một số phương diện, Ryle nằm ở phe “thắng cuộc” khi xung đột kết thúc, nhưng
ông kiên quyết không muốn tiếp tục nghiên cứu khoa học quân sự. Hầu hết mọi người
tham gia cuộc chiến khốc liệt ấy đều cảm thấy một khát vọng mạnh mẽ muốn gác nó lại
phía sau và xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn (dù rằng hầu như mọi người đều sớm tái
phạm, với chừng mực nào đó, sa vào hành vi thông thường). Đối với Ryle, thiên văn học
đã quá ư xa xôi như ông có thể cảm nhận được.
Cuộc chiến đã kết thúc ư?
Năm 1945 Ryle trở lại Cambridge tiếp tục các nghiên cứu dang dở thời tiền chiến
của ông dưới trướng Ratcliffe. Ban đầu Ratcliffe đề xuất Ryle nên nghiên cứu tầng điện li.
Nhưng Ryle thấy không vui và Ratcliffe sớm đề nghị ông khảo sát sự phát xạ vô tuyến của
Mặt Trời để thay thế. Nhiều món đồ trang thiết bị radar Đức bị thu giữ được cấp cho các
nhóm nghiên cứu ở trường đại học và Ryle biết rõ cái ông muốn có từ các chiến lợi phẩm
– hai radar Würzburg lớn và một ít cáp đồng trục ít thất thoát tín hiệu – cho thấy có lẽ ông
đã có ý tưởng về phép đo giao thoa vô tuyến trong đầu rồi.
Tuy nhiên, bất chấp lí tưởng phản chiến của mình, Ryle vẫn tiếp tục hợp tác với
Cục Nghiên cứu Năng lượng Nguyên tử và Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Điện tử Dịch vụ.
Tương ứng trong tư liệu Ryle cho thấy ông có quan hệ tốt với cả hai cơ quan. Ông còn làm
việc với Cục Vũ khí Mặt nước Hải quân về radar siêu âm (sonar), công việc đưa tới một
trong vô số cách tân quan trọng của Ryle – giao thoa kế chuyển pha. Tuy nhiên, về sau
Ryle rút lui khỏi thế giới quân sự. Năm 1953 ông chấm dứt hẳn các liên hệ với uỷ ban cố
vấn khoa học thuộc Bộ Quân nhu, cơ quan chuyên thiết bị cho lực lượng vũ trang. Ryle
cũng trả lại các tài liệu mật.
Với các kĩ năng được rèn giũa bởi kinh nghiệm thời chiến, Ryle nhanh chóng trở
thành nhà tiên phong hàng đầu thế giới về thiên văn học vô tuyến. Nhóm của ông tại
Cambridge đã phát triển nhiều cơ sở khoa học có liên quan, như trình bày trong quyển
Giới thiệu Thiên văn học Vô tuyến của Bernard Burke và Francis Graham-Smith. Từ góc
nhìn ngày nay, người ta có thể tự hỏi hà cớ gì Ryle lại đặc biệt đến thế. Hẳn là một giao
thoa kế vô tuyến chỉ đơn giản là một giao thoa kế quang học được đổi mới để hoạt động
ở những bước sóng dài hơn? Nói chung, Albert Michelson đã là người đầu tiên xác định
đường kính của một ngôi sao (ngoài Mặt Trời ra) bằng một giao thoa kế quang học tận
hồi 1920.

3
Thật ra, “đổi mới” ấy liên quan đến những nhận thức khoa học quan trọng do Ryle
thực hiện (đáng chú ý là kĩ thuật tổng hợp khẩu độ và tổng hợp chuyển động quay-Trái
Đất có liên quan) và những phát triển đáng kể về viễn thông và xử lí số liệu. Hơn nữa, năm
1945 khi Ryle khởi động phương pháp đo giao thoa cho cái sau này gọi là thiên văn học
vô tuyến, đã có một khoảng trống mênh mông – cả trên khái niệm lẫn thực hành chuyên
nghiệp – giữa “vô tuyến” và “thiên văn học”. Vô tuyến đồng nghĩa với các anten và được
điều hành bởi các kĩ sư điện; thiên văn học đồng nghĩa với kính thiên văn quang học và
được điều hành bởi các nhà thiên văn học.
Tình trạng xung đột
Trong nội bộ nhóm nghiên cứu thiên văn vô tuyến của ông tại Cambridge, Ryle đã
truyền cảm hứng lớn về lòng trung thành và yêu nước. Nhưng sự lỗi lạc, hoài bão và lí
tưởng của ông hoà lẫn với sự nóng vội thường dẫn tới những vụ cãi vã dữ dội – và đôi khi
kịch liệt. Có một lần, lúc chiến tranh, ông được gọi tới dự một họp nhỏ với Lord Cherwell
– một người bạn và là cố vấn khoa học của thủ tướng Winston Churchill – để bàn về một
chiến lược yêu thích của Cherwell. Không hề khuất phục trước các đồng chí cao ngạo của
mình, Ryle thẳng thừng nhận xét rằng ý tưởng đó là “thất nhân thất đức”.
Bản chất đậm tính bộ tộc của nhóm nghiên cứu Ryle đã đưa đến tâm lí “Pháo đài
Cambridge" gây tranh cãi với thế giới bên ngoài. Ryle cũng không thích tham dự hay đi
họp hội, bất chấp vô số tước vị danh giá mà ông giữ khiến ông phải có mặt. Thái độ như
vậy mâu thuẫn với một ghi ghép tìm thấy trong tư liệu Ryle, mở đầu với câu: “Thế giới của
chúng ta là một”. Có lẽ đó là tôn chỉ của ông, nhưng lí tưởng của Ryle không phải lúc nào
cũng phù hợp với thực tế.
Tháng Mười 1957, toàn thế giới, và đặc biệt là Mĩ, đã giật mình trước sự kiện Liên
Xô phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Trái Đất. Ryle chú tâm vào các khả năng kĩ thuật,
ông đưa ra một đề xuất vào năm 1958 với Graham Smith về việc sử dụng vệ tinh nhân tạo
giúp điều hướng đi lại.
Vài năm sau, cặp đôi này đã dẫn dắt các nhà thiên văn phản đối các thí nghiệm
“bom cầu vồng” của Mĩ - những vụ nổ vũ khí hạt nhân trên không. Họ gia nhập cùng lực
lượng thiên văn học vô tuyến trên khắp thế giới phản đối việc làm nhiễu loạn vành đai
van Allen của Trái Đất và sự gián đoạn theo đó của các quan sát thiên văn học vô tuyến.
Tuy nhiên, lần vận động hành lang này khác hẳn với những tố cáo kịch liệt của Ryle ở
những năm tháng sau này.
Vấn đề năng lượng cấp thiết
Các nghi ngại của Ryle khiến ông thoát li khỏi thiên văn học vào thập niên 1970.
Nhưng rồi thiên văn học vô tuyến đã trở thành “nền khoa học lớn” được nghiên cứu rộng
khắp thế giới bởi các nhóm đông đúc và, mặc dù trên nguyên tắc Ryle yêu thích sự hợp
tác quốc tế, nhưng nó không phù hợp với cách làm việc của ông. Nay ở tuổi ngũ tuần, sức
khoẻ của Ryle bắt đầu sa sút và ít nhất ông đã phải một lần phẫu thuật vì ung thư phổi.
Ông dần dần ít dính líu tới thiên văn học vô tuyến và, cùng với một vài đồng nghiệp thân
cận, bắt đầu tiến hành nghiên cứu về năng lượng gió.
Nhìn về thập niên 1970, quan niệm của chúng ta về năng lượng rất khác với ngày
nay. Đặc biệt, đa số người ta tin rằng tài nguyên dầu khí sẽ cạn kiệt trong vòng vài thập
niên. Và trong khi một ít nhà khoa học xem xét sự biến đổi khí hậu do con người một cách
nghiêm túc, thì phần lớn – nếu họ từng nghe nói tới ý tưởng đó – xem nó là quá suy đoán
để mà nói tới. Dẫu vậy, Ryle bước vào cuộc tranh cãi năng lượng với tính cấp bách đặc

4
trưng. Ông thừa nhận rằng việc đốt dầu và khí cho năng lượng (nhiệt, điện hay sức đẩy)
phải nên cắt giảm, mạnh mẽ và nhanh chóng. Ông cho rằng những tài nguyên quý báu này
nên được giữ lại làm nguyên liệu thô để sản xuất các sản phẩm hoá chất, đặc biệt là plastic.

Một anten của Kính thiên văn Một-Dặm, hai anten của Kính thiên văn Nửa-Dặm và phần còn lại của Ma
trận 4C tại Đài thiên văn Mullard vào năm 2014. (Ảnh: SA Cmglee)
Cảm thấy phải hành động cấp thiết, Ryle khuyến nghị ưu tiên hàng đầu của chúng
ta nên là sử dụng năng lượng hiệu quả hơn. Lúc ấy năng lượng được sử dụng ít phần hiệu
quả và Ryle tin rằng sẽ nhanh và dễ dàng thôi đối với việc cải thiện cách chúng ta cách
nhiệt cho các toà nhà, trữ nhiệt và chạy máy móc. Từ góc nhìn ngày nay, chúng ta có thể
nói rằng Ryle đã đúng, nhưng lí do thì không đúng. Những mỏ lớn dầu và khí – mặc dù
khai thác tốn kém hơn – đã được tìm thấy sau đó, nhưng việc đốt chúng, như Ryle tranh
luận, không phải một lựa chọn hợp lí. Xét cho cùng, chi phí môi trường – sự biến đổi khí
hậu – sẽ thật thảm khốc.
Còn với than đá, Ryle không sốt sắng lắm, mặc dù ông không bác bỏ nó hoàn toàn.
Ông xem nó là một điểm dừng cần thiết khi dầu mỏ cạn kiệt. Ông tin rằng một hệ thống
sử dụng than đá hiện đại, với việc cải thiện kiểm soát chất thải hợp chất sulphur và các
hạt nhỏ li ti, có thể sản xuất điện cộng với hệ thống sưởi cấp quận với hiệu suất cao.
Nhưng năng lượng hạt nhân mới là thứ Ryle phản đối mạnh nhất. Ông cảm thấy nó
hoàn toàn không chấp nhận được – tốn kém, nguy hiểm, chịu ảnh hưởng lâu dài và dính
líu không thể tránh khỏi với vũ khí hạt nhân. Ryle phẫn uất khi thấy hàng khối tiền nghiên
cứu đổ vào lĩnh vực này so với những lượng nhỏ giọt dành cho các cải tiến hiệu suất và
năng lượng thay thế. Ông trở thành nhà hoạt động, viết báo trên các phương tiện thông

5
tin đại chúng lên án năng lượng hạt nhân, các kho vũ khí hạt nhân, và các chính sách phi
lí trí của thời đại hạt nhân.
Gió và Mặt Trời
Ryle là một người nhìn xa trông rộng khi đề cập tới năng lượng tái sinh. Vào thập
niên 1970, các nguồn năng lượng gió và Mặt Trời thường bị xem là đắt đỏ và hoạt động
gián đoạn, nghĩa là chúng chỉ có thể góp một phần nhỏ vào nhu cầu năng lượng của chúng
ta. Quyết định của ông muốn đưa năng lượng gió vào kỉ nguyên mới nghiên cứu phân tích
và thực nghiệm là một động thái chắc chắn bị ảnh hưởng bởi tình yêu thuyền buồm mà
ông đã có từ thời thơ ấu. Thật vậy, Ryle từng có thể đóng tàu thuyền với các thiết kế
nguyên bản, cho thấy kĩ năng thực hành của ông không chỉ giới hạn trong việc chế tạo các
mạch điện tử và anten lớn.
Hoạt động tích cực của ông trong nghiên cứu năng lượng gió chỉ kéo dài vài ba năm
nhưng đã đưa đến hai bài báo quan trọng – một bài vào năm 1977 trên tạp chí Nature
(267 111) và bài kia vào năm 1982 trên tạp chí Electronics and Power (28 496). Một số
người có thể tự hỏi phải chăng Ryle có thiên kiến về năng lượng gió và ông bị cáo buộc,
bởi Charles Clement, cùng những người khác, thuộc Cục Nghiên cứu Năng lượng Nguyên
tử, rằng ông đã có những giả định quá lạc quan. Chẳng hạn, ông chủ trương xây dựng số
lượng lớn tuabin gió nội địa ở Anh, với khả năng mỗi tuabin trên mỗi kilo-mét vuông đất
ở.
Quả là một ý tưởng cấp tiến, đặc biệt biết rằng một báo cáo năm 1977 của chính
phủ Anh kết luận rằng năng lượng sóng là nguồn năng lượng thay thế triển vọng nhất.
Nhiệt Mặt Trời xếp thứ hai, sau đó là năng lượng địa nhiệt và năng lượng thuỷ triều. Năng
lượng gió nằm ở cuối danh sách và các ý tưởng táo bạo của Ryle bị đè bẹp dí vào thập niên
1980 bởi phong trào chống xâm hại môi trường.
Tuy nhiên, cuối cùng Ryle đã đúng mặc dù không hoàn toàn vì những lí do hợp lí.
Phần nhiều tăng trưởng về năng lượng gió là từ những cánh đồng gió duyên hải, cái mà
Ryle, giống như nhiều người khác, đã không lường trước hết được. Năng lượng gió chiếm
khoảng 34% trong 161 GW năng lượng tái sinh được lắp đặt mới trên toàn thế giới trong
năm 2016, theo báo cáo quốc tế năm 2917 về năng lượng tái sinh REN21.
Trong khi đó, năng lượng Mặt Trời chiếm 47% tổng sản lượng. Ryle – giống như
đa số những người khác hồi thập niên 1970 – đã không lường trước được sự phát triển
nhanh chóng sẽ diễn ra trong lĩnh vực này. Nhớ lại thời ấy, các tế bào Mặt Trời thường bị
xem là không hiệu quả và đắt đỏ, với pin quang điện thậm chí không có mặt trong danh
sách năm 1977 của chính phủ Anh về những nguồn năng lượng thay thế triển vọng nhất.
Dẫu vậy, Ryle đã nhìn thấy tiềm năng của việc bơm nước bằng năng lượng Mặt Trời ở
vùng sâu vùng xa. Ông cũng là người chủ trương sử dụng các bình đun nước bằng tấm pin
Mặt Trời, cái sau này quan trọng ở những nơi khí hậu nóng ấm.
Ông cảm thấy những hệ thống như thế, khi kết hợp với hệ trữ nhiệt, có thể tăng
cường cho đến khi hệ trữ nhiệt có giá cả phải chăng. Tuy nhiên, sự mất cân đối nghiêm
trọng giữa cung và cầu khiến sức thu hút teo tóp dần đi. Nhưng nó có thể hồi sinh, khi nhu
cầu về các dạng năng lượng hợp lí được hoàn toàn công nhận. Hình như Ryle chẳng nói gì
về việc tập trung nhiệt Mặt Trời bởi các gương phản xạ parabol, thật là bất ngờ khi mà
trước đây ông đã triển khai các bộ thu sóng vô tuyến, mặc dù chẳng có lí do gì để cho rằng
có lẽ ông nghĩ những hệ thống như thế là không khả thi. Có lẽ đơn giản là ông không có
thời gian.

6
Năm 2009, Bưu điện Hoàng gia Anh đã kỉ niệm 10 danh nhân Briton, trong đó có Martin Ryle. (Ảnh:
Royal Mail Group Ltd)
Di sản năng lượng của Ryle
Dựa trên những nghiên cứu năng lượng đa dạng của mình, Ryle kết luận rằng con
đường duy nhất đáp ứng được trước mắt là sử dụng kết hợp vô số dạng năng lượng tái
sinh. Tăng cường hiệu suất và hệ trữ nhiệt (xử lí sự mất cân đối giữa cung và cầu) cũng là
những yếu tố chính trong chương trình của ông. Mặc dù các đề xuất của Ryle thường bị
xem là quá lạc quan, nhưng ngày nay chúng đã được chứng minh rộng rãi ở cấp độ chuyên
môn, mặc dù chính sách cho sự thay đổi nhanh vẫn hãy còn yếu. Tính bổ sung cục bộ của
năng lượng gió và năng lượng Mặt Trời, cùng với việc dự báo thời tiết được cải thiện, kết
hợp với nhiệt và điện lưới, các mạng lưới thông minh và các kiểu dự trữ thông minh, đã
biến tầm nhìn về một tương lai năng lượng hoàn toàn tái sinh trở thành thực tiễn.
Công trình của Ryle về năng lượng ngày nay vẫn có sức thu hút và cảm giác cấp
thiết mà ông nói với chúng ta vẫn còn đó. Người ta cố giải quyết bài toán điện năng và các
vấn đề có liên quan nhưng vẫn không hiệu quả lắm, đặc biệt đối với việc dự trữ và cách li.

7
Sự thành công của các toà nhà hiệu quả-năng lượng đáp ứng hoặc vượt chuẩn
“Passivhaus” đã chứng thực cho tầm nhìn của Ryle. Những cải tiến triệt để trên quy mô
lớn hơn cũng được biết là khả thi, kể cả việc sưởi cấp quận. Những công trình thi công
được điều phối nghèo nàn, khét tiếng với Tháp Grenfell ở London, toà tháp cháy rụi vào
năm 2017 cùng với sự ra đi của 72 sinh mạng, chắc chắn sẽ khiến Ryle điên tiết.
Công trình của ông cũng có nghĩa vì nó tập trung vào một vài năm ngắn ngủi giao
chéo giữa cuối phong trào môi trường cuối thập niên 1970 và đầu phong trào phản công
thập niên 1980. Nó minh hoạ cho thấy suy nghĩ của chúng ta có thể thay đổi nhanh như
thế nào và tại sao việc lắng nghe những ý tưởng thách thức tư duy truyền thống lại quan
trọng. Công trình năng lượng của Ryle cũng mang tính toàn diện: nó nghiên cứu việc khai
thác, sử dụng và dự trữ năng lượng, và xem xét dưới góc độ kinh tế và chính trị một hệ
thống kết nối.
Cuối cùng, và có lẽ quan trọng nhất, Ryle xem việc nghiên cứu năng lượng là một
vấn đề đạo đức. Đối với ông, đó là một sự thôi thúc cá nhân muốn giúp giải quyết cái vốn
là – và vẫn là – một trong những vấn đề thực tiễn nhất của thời đại chúng ta.
Trích từ tạp chí Physics World, tháng 9/2018
Bản dịch của Trần Nghiêm

You might also like