You are on page 1of 10

Lược sử các phương pháp đo thời gian

 Bài của Helen Margollis đăng trên tạp chí Physics World, tháng 11/2018

Vào ngày 1 tháng Mười Một năm 2018, khi bài báo này được đăng lần đầu
tiên trên bản in của tạp chí Physics World, đó cũng là lúc tôi làm việc tại Phòng thí
nghiệm Vật lí Quốc gia của Anh (NPL) ở Teddington đúng 20 năm lẻ sáu ngày. Sở
dĩ tôi biết điều này dễ như vậy – tôi đến phòng thí nghiệm vào ngày 26 tháng Mười
năm 1998 – là vì có sự trợ giúp của đồng hồ và lịch, tôi có thể đo thời gian đã trôi
qua. Nhưng trước khi có đồng hồ thì người ta làm thế nào? Họ đã đo thời gian bằng
cách gì?

Trong hơn một thiên niên kỉ, vô số dụng cụ đã được phát minh ra để đo thời
gian, song chúng đều có điểm chung là chúng phụ thuộc vào các hiện tượng thiên
nhiên với chu kì dao động đều đặn. Đo thời gian đơn giản là vấn đề đếm các dao
động này để đánh dấu sự trôi qua của thời gian.

Trong phần lớn lịch sử, hiện tượng tuần hoàn được chọn là chuyển động
biểu biến của Mặt Trời và các sao trên bầu trời, do Trái Đất quay xung quanh trục
riêng của nó. Một trong những phương pháp đo thời gian sớm nhất được biết – có
niên đại từ hàng nghìn năm trước – liên quan đến việc cắm một cái cọc thẳng đứng
ở mặt đất và lần theo cái bóng di chuyển của nó khi ngày trôi qua. Phương pháp
này đã phát triển thành đồng hồ mặt trời, hay đồng hồ bóng nắng, với các vạch dọc
theo đường đi của cái bóng phân chia ngày thành từng đoạn.

Tuy nhiên, đồng hồ mặt trời sẽ vô tác dụng nếu Mặt Trời không tỏa nắng. Đó
là nguyên do các dụng cụ cơ giới – ví dụ đồng hồ nước, đồng hồ nến và đồng hồ cát
– được phát triển. Sau đó, vào thế kỉ 17, đồng hồ quả lắc được phát triển, chúng
chính xác hơn nhiều so với bất kì dụng cụ đo thời gian nào trước đó. Chu kì dao
động của chúng (trong phạm vi sai số bậc thấp nhất) được xác định bởi gia tốc
trọng trường và độ dài của con lắc. Do bởi chu kì này ngắn hơn nhiều so với chuyển
động quay hằng ngày của Trái Đất, nên thời gian có thể được chia thành những
khoảng nhỏ hơn nhiều, khiến nó có thể đo đến giây, hoặc thậm chí những phần nhỏ
của một giây.

Tuy vậy, chuyển động quay của Trái Đất vẫn là “đồng hồ sư phụ” dựa trên
đó các đồng hồ khác được chế tạo và điều chỉnh thường kì.

Từ tinh thể đến nguyên tử

Khi công nghệ tiến bộ, nhu cầu đo thời gian phân giải cao hơn ngày càng tăng. Đồng
hồ quả lắc dần dần bị qua mặt bởi đồng hồ thạch anh, chiếc đầu tiên trong số này
được chế tạo vào năm 1927 bởi Warren Marrison và Joseph Horton, khi ấy họ làm
việc tại Phòng thí nghiệm Bell Telephone ở Mĩ. Ở những dụng cụ này, một dòng
điện làm cho tinh thể thạch anh dao động ở một tần số nhất định cao hơn nhiều so
với các dao động của con lắc.

Tần số của các đồng hồ ấy ít nhạy với các nhiễu loạn môi trường hơn các
dụng cụ đo thời gian xưa cũ, nên chúng chạy chính xác hơn. Dẫu vậy, đồng hồ thạch
anh vẫn dựa trên một dao động cơ có tần số phụ thuộc vào kích cỡ, hình dạng và
nhiệt độ của tinh thể. Không có hai tinh thể nào hoàn toàn y hệt nhau, vì thế chúng
phải được hiệu chỉnh theo một tham chiếu khác – đó là chu kì quay của Trái Đất,
với giây được định nghĩa là 1/86.400 của ngày mặt trời trung bình (xem phần
trong khung bên dưới).

Tiêu chuẩn hóa thời gian

Giờ mặt trời ở mọi nơi không giống nhau. Ở Anh, chẳng hạn, Birmingham muộn hơn
London tám phút, và Liverpool muộn hơn 12 phút. Khi mà thời gian truyền thông và đi lại
giữa các trung tâm dân cư chính còn chậm, thì điều này ít có vấn đề gì. Thế nhưng tình
hình thay đổi rất nhiều với việc xây dựng đường sắt vào thế kỉ 19. Việc có thời gian địa
phương khác nhau ở mỗi trạm thật sự gây phiền phức và, khi mạng lưới đường sắt mở
rộng, nó đưa đến các vụ tai nạn và trễ tàu. Vì thế cần có một thời gian chuẩn hóa duy nhất.

Đường sắt Đại Tây (ở Anh) hoạt động vào năm 1840 và “giờ đường sắt” dần dần được sử
dụng bởi các công ty đường sắt khác trong mấy năm sau đó. Thời gian biểu được chuẩn
hóa theo Giờ Trung bình Greenwich (GMT), và vào năm 1855 các tín hiệu giờ được truyền
qua điện báo từ Greenwich đến khắp mạng đường sắt nước Anh. Tuy nhiên, mãi đến năm
1880 thì vai trò của GMT là một giờ chuẩn thống nhất cho toàn quốc mới được pháp luật
thừa nhận. Bốn năm sau, tại Hội nghị Đo lường Quốc tế tổ chức tại thủ đô Washington ở
Mĩ, GMT được thông qua là chuẩn tham chiếu cho các múi giờ trên toàn cầu và giây được
định nghĩa chính thức là 1/86.400 của ngày mặt trời trung bình.

Tuy nhiên, có những vướng mắc với định nghĩa này của giây. Khi khả năng của
chúng ta đo đơn vị này của thời gian được cải thiện, cái trở nên rõ ràng là chu kì
quay của Trái Đất không phải là hằng số. Chu kì này không những từ từ chậm lại
do ma sát thủy triều, mà nó còn biến thiên theo mùa và, tệ hơn nữa, nó thăng giáng
theo những kiểu không thể dự đoán trước.

Vào năm 1955, NPL đã khởi xướng một cuộc cách mạng về đo thời gian khi
Louis Essen và Jack Parry tạo ra được chuẩn tần số nguyên tử caesium thực tiễn
đầu tiên (xem phần trong khung bên dưới). Dụng cụ của họ không thật sự là cái
đồng hồ vì nó không chạy liên tục, và nó chỉ là dùng để hiệu chỉnh tần số của một
đồng hồ thạch anh bên ngoài với tần suất vài ngày một lần. Tuy vậy, bằng cách
nghiên cứu tần số cộng hưởng ấy phụ thuộc như thế nào vào các điều kiện môi
trường, Essen và Parry đã chứng minh một cách thuyết phục rằng các chuyển tiếp
giữa các mức năng lượng rời rạc trong các nguyên tử caesium cô lập tốt có thể đem
lại một tham chiếu khoảng-thời gian ổn định hơn nhiều so với bất kì chuẩn nào
dựa trên chuyển động của các thiên thể. Như Essen sau này đã viết: “Chúng tôi đã
mời giám đốc [NPL] đến và chứng kiến cái chết của giây thiên văn học và sự ra đời
của giờ nguyên tử.”
Đồng hồ nguyên tử hoạt động như thế nào

Trong một đồng hồ nguyên tử caesium, tần số của một nguồn vi sóng được điều chỉnh cẩn
thận cho đến khi nó đạt tới tần số cộng hưởng ứng với hiệu năng lượng giữa hai mức siêu
tinh tế của trạng thái cơ bản của các nguyên tử caesium: 9.192.631.770 Hz. Các nguyên tử
hấp thụ bức xạ vi sóng, và một tín hiệu hồi tiếp phát ra từ tín hiệu hấp thụ được dùng để
giữ cho nguồn vi sóng chỉnh đến tần số rất đặc biệt này. Thời gian hiển thị được tạo ra
bằng cách đếm các dao động của nguồn vi sóng bằng mạch điện tử.

Đồng hồ nguyên bản của Louis Essen tại Phòng thí nghiệm Vật lí Quốc gia Anh sử dụng
một chùm nhiệt nguyên tử caesium và chuẩn xác đến khoảng một phần 10 10. Ngày nay,
các chuẩn sơ cấp caesium sử dụng một sắp xếp gọi là “vòi phun nguyên tử”, trong đó các
nguyên tử làm lạnh bằng laser được bắn lên thẳng đứng trong một hộp cộng hưởng vi
sóng trước khi rơi trở xuống do trọng lực. Sử dụng các nguyên tử lạnh có nghĩa là thời
gian tương tác có thể lâu hơn nhiều so với ở một đồng hồ chùm nhiệt, cho độ phân giải
phổ cao hơn nhiều. Cùng với sự định lượng cẩn thận các chuyển dịch tần số hệ thống phát
sinh từ các nhiễu loạn môi trường, các vòi phun caesium tốt nhất ngày nay đạt tới độ chuẩn
xác một phần 1016, tuy rằng các phép đo phải được lấy trung bình trong vài ngày mới đạt
tới mức này. Chúng góp phần làm các chuẩn sơ cấp cho Giờ Nguyên tử Quốc tế (TAI).

Thế nhưng việc chứng minh tiêu chuẩn mới là ổn định thì chưa đủ để định nghĩa
lại giây. Một định nghĩa mới phải khớp với định nghĩa cũ trong phạm vi giới hạn kĩ
thuật của sai số đo. Vì thế Essen và Parry đã tiến tới đo tần số của chuẩn caesium
của họ so với thang thời gian thiên văn học được thông qua bởi Đài thiên văn Hoàng
gia Greenwich.

Trong khi đó, các nhà thiên văn đã chuyển sang dùng giờ thiên văn, dựa trên
chu kì quỹ đạo của Trái Đất xung quanh Mặt Trời. Lí do cơ bản của họ là vì nó ổn
định hơn chuyển động tự quay của Trái Đất, nhưng thật không may là đối với đa
số các mục đích đo lường thực tế nó đúng là dài đến mức phi thực tiễn. Tuy vậy, Ủy
ban Quốc tế về Cân nặng và Đo lường đã đi theo chỉ dẫn của họ, và vào năm 1956
đã chọn giây thiên văn là đơn vị cơ bản của thời gian trong Hệ Đơn vị Quốc tế. Đúng
như Essen nhận xét: “Ngay cả các tổ chức khoa học cũng có thể đưa ra những quyết
định xàm xí.”

Nhưng dù xàm xí hay không, ông cần phải liên hệ tần số caesium với giây
thiên văn, một nhiệm vụ ông làm chung với William Markowitz đến từ Đài thiên
văn Hải quân Mĩ. Cuối cùng, vào năm 1967, Hội nghị Toàn thể về Cân nặng và Đo
lường đã quyết định định nghĩa lại giây là “khoảng thời gian gồm 9.192.631.770
chu kì bức xạ ứng với chuyển tiếp giữa hai mức siêu tinh tế của trạng thái cơ bản
của nguyên tử caesium-133.”

Jack Parry và Louis Essen đã phát triển chuẩn tần số caesium của họ vào năm 1955 nhưng các
nhà khoa học ngày nay đang tập trung vào đồng hồ quang học. (Ảnh: NPL)
Thế hệ tiếp theo

Nhỏ gọn hơn và ít tốn kém hơn – mặc dù kém chính xác hơn – các phiên bản đồng
hồ nguyên tử caesium cũng được phát triển, và các ứng dụng nở rộ. Có thể chúng
ta không nhận ra, song việc đo thời gian chính xác là nền tảng cho nhiều thứ đặc
trưng trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Điện thoại di động, thanh toán
tài chính, Internet, điện năng và các hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu thảy đều hoạt
động trên các chuẩn thời gian và tần số.

Mặc dù chuyển tiếp caesium tỏ ra là một nền tảng lâu bền cho định nghĩa
của giây, thế nhưng các đồng hồ nguyên tử caesium ngày nay có lẽ đang đạt tới giới
hạn chuẩn xác của chúng và các cải tiến có thể mở ra những ứng dụng mới. Đáp lại,
một thế hệ mới đồng hồ nguyên tử đang ra đời dựa trên các chuyển tiếp quang học,
thay cho vi sóng. Các đồng hồ mới này có được độ chính xác cải thiện của chúng
nhờ các tần số hoạt động cao hơn nhiều của chúng. Tất cả những thứ khác là ngang
bằng, mức ổn định của một đồng hồ nguyên tử tỉ lệ thuận với tần số hoạt động của
nó và tỉ lệ nghịch với bề rộng chuyển tiếp điện tử của nó. Dẫu vậy, trên thực tế, mức
ổn định còn phụ thuộc vào tỉ số tín-hiệu-trên-nhiễu của đặc trưng phổ hấp thụ
nguyên tử.

Trong một đồng hồ nguyên tử quang học, người ta khóa một laser cực kì ổn
định với một chuyển tiếp điện tử phổ hẹp trong vùng quang học của quang phổ -
cái gọi là “chuyển tiếp đồng hồ”. Các đồng hồ quang học đang được nghiên cứu
ngày nay thuộc vào hai thể loại: một số hoạt động trên các ion độc thân làm lạnh
bằng laser bị bẫy giữ và một số khác hoạt động trên các nguyên tử làm lạnh bằng
laser bị bẫy trong một mạng quang học.

Loại thứ nhất, một ion độc thân làm lạnh bằng laser nằm trong một bẫy điện
từ tần số vô tuyến, gần với lí tưởng quang phổ về một hạt hấp thụ nằm yên trong
một môi trường không nhiễu loạn. Khi lạnh đi, nó có thể bị giam trong một vùng
không gian với kích thước nhỏ hơn bước sóng của ánh sáng laser của đồng hồ,
nghĩa là sự mở rộng Doppler của phổ hấp thụ bị loại trừ.
Bằng cách điều khiển chuyển động tàn dư của nó để đảm bảo nó bị giam chặt
với tâm bẫy, các chuyển dịch tần số hệ thống khác cũng có thể bị khống chế nhiều.
Do đó kiểu đồng hồ này có tiềm năng cho độ chuẩn xác rất cao. Nhược điểm là mỗi
ion độc thân cho một tín hiệu hấp thụ có tỉ số tín-hiệu-trên-nhiễu thấp, làm hạn chế
mức ổn định đồng hồ có thể thu được.

Mặt khác, các nguyên tử trung hòa có thể bị bẫy và làm lạnh với số lượng
lớn, đem lại một tín hiệu có tỉ số tín-hiệu-trên-nhiễu tốt hơn nhiều. Mức ổn định,
chẳng hạn, tăng theo căn bậc hai của số lượng nguyên tử, mọi thông số khác là
ngang bằng. Ngày nay các nhà nghiên cứu có thể giam giữ hàng nghìn nguyên tử
làm lạnh bằng laser trong bẫy mạng quang học – thông dụng nhất là một ma trận
1D gồm các giếng thế được hình thành bởi các chùm laser giao cắt nhau.

Người ta có thể kì vọng rằng các chùm ánh sáng dùng để bẫy các nguyên tử
sẽ làm thay đổi tần số của chuyển tiếp đồng hồ. Tuy nhiên, điều này có thể tránh
được bằng cách điều chỉnh laser dùng để tạo ra mạng quang đến một bước sóng
“thần kì” tại đó mức trên và mức dưới của chuyển tiếp đồng hồ xê dịch một lượng
y hệt nhau – một giải pháp được đề xuất lần đầu tiên vào năm 2001 bởi Hidetoshi
Katori đến từ Đại học Tokyo ở Nhật Bản.

Kỉ lục hiện nay về mức ổn định đồng hồ quang học thuộc về nhóm Andrew
Ludlow ở Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia Mĩ ở Boulder, Colorado. Đồng hồ
mạng quang ytterbium của họ mới đây đã thể hiện mức ổn định một phần 10 18
trong thời gian trung bình vài ba nghìn giây. Tuy nhiên, các đồng hồ quang ion bị
bẫy cũng đã thể hiện mức ổn định dưới mức của các đồng hồ nguyên tử caesium,
và cả hai loại hiện nay đã đạt tới sai số hệ thống ước tính ở những phần thấp trong
mức 1/1018. Mức này vượt xa độ chuẩn xác của các chuẩn sơ cấp caesium và làm
phát sinh một câu hỏi hiển nhiên: phải chăng đã đến lúc định nghĩa lại giây một lần
nữa?
Các nhà khoa học ngày nay đang tập trung vào các đồng hồ quang học. (Ảnh: NPL)

Tương lai của thời gian

Tất nhiên, tần số của chuẩn quang học được chọn sẽ phải được xác định chính xác
theo tần số caesium, để tránh bất kì khiếm khuyết nào trong định nghĩa. Song điều
này có thể thực hiện dễ dàng bằng cách sử dụng một cái lược tần số quang học
femto giây – một nguồn laser có quang phổ là một cái lược tần số cách nhau đều
đặn – để bắt cầu nối khe trống giữa tần số quang và tần số vi sóng. Một chướng
ngại đối với một định nghĩa lại là chẳng rõ đồng hồ quang nào sẽ là tốt nhất. Mỗi
hệ thống đang được nghiên cứu đều có ưu điểm và nhược điểm – một số đem lại
mức ổn định có thể đạt được cao hơn, còn một số thì miễn dịch cao với các nhiễu
loạn môi trường.

Một thách thức nữa là xác nhận bằng thực nghiệm các sai số hệ thống được
ước tính của chúng thông qua so sánh trực tiếp giữa các đồng hồ quang được phát
triển độc lập ở các phòng thí nghiệm khác nhau. Về mặt này, các nhà nghiên cứu ở
châu Âu có lợi thế là có thể so sánh các đồng hồ quang ở Anh, Pháp và Đức với độ
chuẩn xác cần thiết bằng các đường truyền cáp quang. Thật không may, các kĩ thuật
này hiện nay không thể sử dụng trên quy mô xuyên lục địa và người ta phải tìm các
cách khác để liên kết các đồng hồ quang ở Mĩ và Nhật Bản.

Các thí nghiệm so sánh đồng hồ từ xa cũng phải tính đến sự lệch đỏ do hấp
dẫn của các tần số đồng hồ. Đối với các đồng hồ quang có sai số dưới một phần
1018, điều này có nghĩa là thế hấp dẫn tại các vị trí đặt đồng hồ phải được biết với
độ chuẩn xác khoảng 1 cm về độ cao, một cải tiến đáng kể trên hiện trạng lúc này.
Các dao động thủy triều của thế hấp dẫn cũng phải được xét đến.

Mặc dù toàn bộ những thách thức này có khả năng được khắc phục trong
thời gian nhất định, song một định nghĩa lại của giây sẽ đòi hỏi sự đồng thuận quốc
tế và vẫn còn một số cách khác nữa. Cho đến khi ấy, cộng đồng đo lường thời gian
và tần số toàn cầu thống nhất rằng các đồng hồ nguyên tử quang học trên nguyên
tắc có thể đóng góp cho thang thời gian quốc tế với vai trò là đại biểu thứ cấp của
giây.

Thật vậy, độ chính xác chưa có tiền lệ của các đồng hồ nguyên tử quang học
đã sinh lợi cho vật lí cơ bản. Ví dụ, các giới hạn cải thiện đã được thiết lập cho sự
biến thiên theo thời gian hiện nay của hằng số cấu trúc tinh tế (α ≈ 1/137) và tỉ số
khối lượng proton-trên-electron bằng cách so sánh tần số của các đồng hồ khác
nhau trong khoảng thời gian vài năm.

Đồng hồ quang học còn có thể mở ra những ứng dụng hoàn toàn mới. Bằng
cách so sánh tần số của một đồng hồ quang di động với một đồng hồ tham chiếu cố
định, chúng ta sẽ có thể đo được các chênh lệch thế hấp dẫn giữa những nơi cách
nhau xác định với độ nhạy cao, đồng thời với độ phân giải cao về thời gian và không
gian. Các phép đo như thế sẽ đưa đến các định nghĩa thích hợp hơn cho độ cao trên
mực nước biển – hiện nay các nước khác nhau đo so với các chuẩn thủy triều khác
nhau, và mực nước biển không giống nhau ở mọi nơi trên Trái Đất. Chúng cũng có
thể cho phép chúng ta theo dõi sự biến thiên mực nước biển trong thời gian thực,
theo dõi các xu hướng theo mùa và dài hạn ở các khối băng và các biến thiên khối
đại dương nói chung – dữ liệu như thế cung cấp thông tin quan trọng cho các mô
hình dùng để nghiên cứu và dự báo các tác động của sự biến đổi khí hậu. Thật mỉa
mai là có lẽ chúng ta sẽ có thể nghiên cứu Trái Đất – chuyển động quay của nó ban
đầu được dùng để định nghĩa giây – chi tiết hơn nhiều với sự hỗ trợ của kẻ soán
ngôi mới đây nhất của nó: đồng hồ quang học.

Bài được dịch từ tạp chí Physics World, tháng 11/2018

You might also like