Professional Documents
Culture Documents
HIỂU NHANH VỀ
VẬT CHẤT
Geoff Cottrell
TÌM HIỂU NHANH VỀ VẬT CHẤT
Geoff Cottrell
Oxford University Press 2019
Trần Nghiêm dịch
MỤC LỤC
1 Vật chất là gì? .................................................................................................................. 1
2 Nguyên tử ......................................................................................................................... 9
3 Các dạng vật chất ........................................................................................................ 18
4 Năng lượng, khối lượng, và ánh sáng ................................................................ 38
5 Thế giới lượng tử của nguyên tử ........................................................................ 51
6 Vật chất lượng tử ....................................................................................................... 76
7 Các hạt sơ cấp .............................................................................................................. 94
8 Các nguyên tố từ đâu mà có? .............................................................................. 113
9 Vật chất tối và năng lượng tối ............................................................................. 128
Tài liệu tham khảo .......................................................................................................... 139
Vật chất là chất liệu cấu tạo nên bạn và vạn vật trong thế giới xung
quanh bạn. Giá như bạn có trong tay một chiếc kính hiển vi siêu mạnh, hãy
hình dung bạn có thể soi vào bên trong cơ thể mình và nhìn thấy bạn được
làm bằng các nguyên tử. Bên trong mỗi nguyên tử là một hạt nhân bé xíu, và
quay xung quanh hạt nhân là một đám mây electron. Hạt nhân được làm bằng
proton và neutron, và khi phóng to một hạt cấu thành hạt nhân bạn sẽ thấy
bên trong nó có những hạt còn nhỏ hơn nữa – đó là các quark. Quark là những
hạt nhỏ nhất mà chúng ta từng thấy, và nằm tại giới hạn phân giải của những
chiếc kính hiển vi vật chất mạnh nhất. Trong chừng mực mà chúng ta biết,
các electron và quark không được cấu tạo bởi thứ gì nhỏ hơn nữa và vì thế
chúng được gọi là các hạt sơ cấp. Toàn bộ vật chất đều được làm bằng đúng
những hạt này.
Các nguyên tử nhỏ bé đến mức một triệu nguyên tử có thể lắp khít vào
bề rộng của một sợi tóc người. Nếu một quả táo được phóng to lên bằng kích
cỡ Trái Đất, thì các nguyên tử của nó sẽ bằng cỡ với quả táo. Đường kính của
một nguyên tử vào cỡ 10 – 10 m. (Khi các con số định lượng được cho theo số
mũ của 10, ví dụ 106 là số 1 cùng với 6 số 0 theo sau, trong trường hợp này
là 1.000.000 hay một triệu; khi các con số được biểu diễn theo lũy thừa âm
của 10, ví dụ 10– 6 là số 1 ở vị trí thứ 6 sau dấu phân cách thập phân, tức là
0,000001 hay một phần triệu.) Cơ thể bạn chứa đại khái 1029 nguyên tử; kích
cỡ chừng 2 mét xác định thang bậc con người.
Một chất là một nguyên tố nếu nó không thể chia nhỏ thành hai hoặc
nhiều chất khác bởi các quá trình vật lí hay hóa học thông dụng. Có chín mươi
hai loại nguyên tố hóa học có mặt trong thiên nhiên, và mỗi loại có những đặc
tính độc đáo của riêng nó. Vào năm 1867, chỉ có sáu mươi ba nguyên tố được
khám phá. Khi ấy người ta biết các nguyên tử khác nhau có trọng lượng
nguyên tử khác nhau từ nhẹ nhất, hydrogen, với trọng lượng nguyên tử bằng
1, lên tới nguyên tố nặng nhất lúc ấy, chì, với trọng lượng 207. (Đơn vị hóa
học cơ bản là trọng lượng của một nguyên tử hydrogen, 1,67 ´ 10 – 27 kg,
được định nghĩa là đơn vị khối lượng nguyên tử.) Vào thời ấy, các nhà hóa học
đang tìm kiếm các kiểu đặc tính của chúng nhằm có thể làm rõ một cấu trúc
sâu sắc hơn. Tính chất của các nguyên tố được biết rõ đối với nhà hóa học
Nga Dmitri Mendeleev, ông đã viết tên và tính chất của các nguyên tố lên các
tấm card rồi sắp xếp chúng theo trật tự trọng lượng nguyên tử của chúng.
Ông để ý thấy các tính chất hóa học có một khuôn mẫu: chúng lặp lại sau
những quãng đều đặn, một quy luật tuần hoàn. Mendeleev mô tả khám phá
của ông như sau: “Tôi nằm mơ thấy tất cả các nguyên tố đều sắp vào đúng
chỗ theo yêu cầu. Tỉnh dậy, tôi lập tức viết nó ra một tờ giấy, sau này chỉ hiệu
Bảng tuần hoàn hiện đại (Hình 1) được sắp xếp không phải theo trọng
lượng nguyên tử, mà theo số nguyên tử, số lượng proton trong một hạt nhân,
xếp từ 1 (hydrogen) lên tới 92 (uranium). Số nguyên tử bằng với số lượng
electron trong nguyên tử. Các nguyên tố nặng hơn uranium được điều chế
nhân tạo. Henry Moseley đã phát triển một kĩ thuật tia X để đo số lượng
proton trong hạt nhân, và nhờ có ông mà về cơ bản chúng ta có được phiên
bản hiện đại của bảng tuần hoàn. Vì số nguyên tử tăng dọc theo các hàng
ngang liên tiếp, nên hóa tính lặp lại theo một chu kì bằng hai (hydrogen và
helium), rồi hai chu kì bằng tám (lithium đến neon, sodium đến argon), và
rồi ba chu kì bằng mười tám. Bảng tuần hoàn không đơn giản chỉ là một bảng
phân loại; nó làm bộc lộ một mô hình ẩn sâu trong tự nhiên và trong cấu trúc
của các nguyên tử.
Hình 1. Bảng tuần hoàn các nguyên tố.
Các nguyên tử khác nhau tựa như các chữ cái của một bảng chữ cái,
chúng kết hợp lại tạo thành các phân tử, tương tự như các từ của một ngôn
ngữ. Có bao nhiêu loại phân tử? Ngôn ngữ Anh có khoảng một phần tư triệu
từ được sử dụng hiện nay, toàn bộ được xây dựng trên bảng chữ cái hai mươi
sáu kí tự. Chữ cái a luôn luôn là a, dù nó xuất hiện trong từ ‘cat’ hay trong
những từ khác với những ý nghĩa hoàn toàn khác, ví dụ như ‘bat’. Tương tự
như vậy, mỗi nguyên tử hydrogen trong một phân tử nước là giống hệt với
các nguyên tử hydrogen kết hợp với carbon tạo thành methane (CH4), một
phân tử có những tính chất hoàn toàn khác. Trên lí thuyết có thể tạo ra hàng
tỉ hợp chất hóa học bền bằng cách kết hợp các nguyên tố của bảng chữ cái
nguyên tử theo những cách khác nhau.
Hình 2. Các cấp độ dài của vật chất (tính theo mét) sắp theo hình tròn.
Hãy lấy một thấu kính zoom tưởng tượng và, bắt đầu từ cấp con người,
phóng to dần vào những cấp nhỏ hơn. Để nhìn thấy các tế bào trong cơ thể
Nếu chúng ta bắt đầu trở lại với cấp con người và thu nhỏ mười triệu
lần, thì vùng nhìn bị choán đầy bởi Trái Đất. Từ đây trở đi, những cấu trúc
lớn được định hình bởi lực hấp dẫn. Tiếp tục thu nhỏ 100 lần thì khung cảnh
trước mắt chúng ta sẽ là ngôi sao của chúng ta, tức Mặt Trời. Cấu trúc lớn
tiếp theo, hệ Mặt Trời, có đường kính 300 nghìn tỉ km và, để mang cấu trúc
này vào tầm nhìn, ta phải thu nhỏ 10.000 lần nữa. Ánh sáng mất khoảng năm
giờ để đi tới Pluto ở góc ngoài hệ Mặt Trời. Chúng ta phải chờ 4,2 năm thì ánh
sáng lúc này đang rời khỏi bề mặt ngôi sao láng giềng nhất với Mặt Trời,
Thế nhưng, không giống như chúng ta từng tin tưởng hồi một thế kỉ
trước, Ngân Hà chưa phải là toàn bộ vũ trụ. Thiên hà của chúng ta chỉ là một
trong ba mươi thành viên của nhóm thiên hà địa phương; để đưa toàn bộ
nhóm địa phương vào khung nhìn, ta sẽ phải thu nhỏ thêm chừng mười lần
nữa. Vượt quá cấp độ này, còn có những cấu trúc lớn hơn nữa, ví dụ như đám
thiên hà Coma có đường kính hơn 300 triệu năm ánh sáng và chứa 1.000
thiên hà, được liên kết hấp dẫn thành một cụm đại khái có hình cầu. Để nhìn
thấy cụm này, ta sẽ phải thu nhỏ thêm 100 lần. Những cấu trúc lớn nhất được
biết trong vũ trụ là những siêu đám thiên hà khổng lồ, và những sợi thiên hà
khổng lồ vây xung quanh những khoảng không mênh mông trong không gian,
còn vượt ngoài đó nữa, khoảng cách xa nhất mà chúng ta có thể nhìn thấy
qua kính thiên văn, đó là ranh giới của vũ trụ khả kiến, đường kính của nó
chừng 100 tỉ năm ánh sáng. Toàn bộ vật chất có thể quan sát được chứa trong
quả cầu này, bao gồm 100 tỉ thiên hà, với khối lượng toàn phần bằng 1080
nguyên tử hydrogen. Chúng ta sẽ xét kĩ những cấu trúc rất lớn này ở Chương
9, nhưng điều đáng lưu ý là mật độ vật chất trung bình trong vũ trụ khả kiến
là khoảng vài nguyên tử hydrogen trong mỗi mét khối. Để so sánh, Trái Đất
có mật độ lớn hơn con số đó gần 1030 lần, khiến hành tinh chúng ta là một
vùng rất không tiêu biểu của vũ trụ. Phần lớn vũ trụ là không gian trống rỗng.
Trong quyển sách này chúng ta sẽ, trong Chương 3, xem các trạng thái
quen thuộc rắn, lỏng, và khí của vật chất phát sinh như thế nào, và xét một số
trạng thái khác của vật chất. Nếu, giống như Isaac Newton, chúng ta xem vật
chất là khối lượng, thì tương đương của khối lượng và năng lượng, được mô
tả trong Chương 4, đưa hiểu biết của chúng ta về vật chất tiến thêm một mức
2 Nguyên tử
Sự ra đời của khoa học phương Tây có thể truy nguyên đến các triết
gia Hi Lạp thời xưa. Vào khoảng năm 500 trước Công nguyên (tCN), Thales
xứ Miletus đã sáng lập một trường phái tìm cách giải thích thế giới bằng cách
vận dụng logic và lí giải cho sự quan sát tự nhiên. Ông đề xuất rằng toàn bộ
vật chất được cấu thành bởi một chất sơ cấp duy nhất, và ông tin rằng đó là
nước. Điều quan trọng không phải là ông đã sai lầm với nhận định này, mà là
ông đã khởi xướng một phương pháp tư duy dựa trên việc quan sát thế giới
như nó vốn thế. Cách tiếp cận này đã dẫn tới ý tưởng mang tính tiên tri rằng
những viên gạch cấu trúc của vật chất là nguyên tử, một giả thuyết được
người ta quy cho Leucippus và Democritus vào khoảng năm 450 tCN.
Lấy một quả táo và xẻ nó ra thành các mảnh nhỏ dần và nhỏ dần. Cuối
cùng xẻ tới một mức không còn xẻ được nữa, làm bộc lộ tính hạt tối hậu của
vật chất, tức là các nguyên tử. Từ nguyên tử (atom) có xuất từ tiếng Hi Lạp
atomos, nghĩa là không thể phân chia. Các hạt tối hậu này được xem là không
thể phá hủy, chỉ khác nhau về hình dạng, kích cỡ, vị trí, và cách sắp xếp. Người
Hi Lạp hình dung một không gian trong đó các nguyên tử chuyển động không
ngớt, gọi là khoảng không. Cái nhìn đơn giản mà thật đẹp của nhà nguyên tử
luận đó là vũ trụ được cấu thành chỉ bởi hai nguyên tố: các nguyên tử và
khoảng không.
Vào khoảng năm 350 tCN, Aristotle chấp thuận niềm tin cho rằng các
kết hợp khác nhau của chỉ bốn nguyên tố, đất, lửa, không khí, và nước, có thể
giải thích được vật chất thường ngày. Chính nhờ vị thế triết lí của Aristotle
Viết hồi mở đầu thế kỉ 17, triết gia Pháp René Descartes coi cái chất cơ
bản của vật chất là sự mở rộng, đó là cái chiếm giữ chiều dài, chiều rộng, và
chiều cao trong không gian, hay như chúng ta sẽ nói, là thể tích. Thời kì này
đánh dấu sự ra đời của kỉ nguyên khai sáng khi nền khoa học định lượng thật
sự bắt đầu cất cánh. Từ khoảng thời gian này, giả thuyết nguyên tử bắt đầu
xuất hiện trở lại theo yêu cầu của các lí thuyết lúc bấy giờ, thế nhưng vẫn
chưa có bằng chứng cho sự tồn tại của các nguyên tử.
Tính chất khối lượng là trọng tâm đối với khái niệm vật chất. Khối
lượng lần đầu tiên xuất hiện trong các định luật Newton về chuyển động, lí
thuyết tạo nền tảng cho cơ học cổ điển hiện đại. Newton đặt vấn đề có quy
tắc đơn giản nào để tính ra chuyển động của các hành tinh hay không, nếu
cho trước trạng thái chuyển động của chúng. Về vấn đề này, ông đã phát triển
giải tích toán học cần thiết để giải các phương trình mô tả sự biến đổi trạng
thái chuyển động của một chất điểm trong một thời gian nhỏ vô hạn, dưới
tác dụng của một lực ngoài. Ông kết nối khái niệm về lực, đã được biết rõ từ
nghiên cứu tĩnh học, với gia tốc, và khi làm thế ông đưa ra khái niệm khối
lượng. Ý nghĩa của khối lượng trong định luật thứ hai của Newton (lực = khối
lượng ´ gia tốc) là khối lượng quán tính, sức cản của một vật trước sự biến
đổi chuyển động của nó.
Bước đột phá vĩ đại của Newton là liên hệ các định luật về chuyển động
với định luật vạn vật hấp dẫn. Lực tác dụng lên một vật được xác định bởi vị
Thế quan điểm của Newton về vật chất thì sao? Trong quyển Optiks
năm 1704 của ông, Newton viết vật chất được hình thành bởi “các hạt rắn,
nặng, không thể xuyên thủng, linh động… vì thế rất cứng, không bao giờ mòn
hay vỡ thành mảnh…”, một quan niệm về nguyên tử rất khác với quan niệm
của Democritus. Cái mới mẻ là kiểu tất định luận trong đó ‘các hạt nặng’
chuyển động dưới tác dụng của các lực.
Trọng lượng và khối lượng dễ bị nhầm lẫn, nhưng có một khác biệt
quan trọng giữa chúng. Khi chúng ta cân một vật, cái chúng ta thật sự đang
làm là đo xem vật đó bị hút bởi lực hấp dẫn mạnh bao nhiêu. Nếu chúng ta
treo một kilogram táo vào một cái cân lò xo, thì một khối lượng lớn (Trái Đất)
hút lấy các quả táo (một khối lượng nhỏ) xuống dưới chống lại lực hút của lò
xo. Đối xứng lại, khối lượng nhỏ cũng hút khối lượng lớn; lực hút giữa chúng
với nhau là bằng nhau và ngược chiều, dù chúng ta nghĩ Trái Đất đang hút
các quả táo, hay các quả táo đang hút Trái Đất cũng được. Điều này thể hiện
định luật thứ ba của Newton. Tuy nhiên, Mặt Trời tác dụng một lực hấp dẫn
lên Trái Đất lớn gấp 1022 lần lực hấp dẫn của các quả táo, bởi thế các quả táo
có tác dụng không đáng kể đối với Trái Đất. Đây là lí do quỹ đạo của Trái Đất
bị kiểm soát bởi Mặt Trời chứ không phải bởi mấy quả táo. (Theo đối xứng,
Trái Đất cũng tác dụng một lực lên Mặt Trời. Tuy nhiên, do khối lượng của
Trái Đất chỉ bằng ba phần triệu khối lượng của Mặt Trời, nên tác dụng này là
nhỏ. Hai vật thể chuyển động xung quanh khối tâm chung của chúng, khối
Sau những thành tựu sáng giá của Newton, câu chuyện vật chất và các
nguyên tử chuyển sang tay của các nhà hóa học tiên phong. Vào cuối thế kỉ
18, đã có những tiến bộ quan trọng trong hóa học định lượng, phần lớn là do
sự phát triển những cái cân chính xác để đo trọng lượng của các chất đang
phản ứng. Các nhà hóa học cũng bắt đầu quen dùng thường xuyên hơn từ
‘nguyên tố’, khi ấy người ta được biết có khoảng ba mươi nguyên tố. Những
thí nghiệm hóa học định lượng đầu tiên của Joseph Priestley, người khám
phá oxygen, và Antoine Lavoisier cho thấy rằng các chất quen thuộc thường
là kết hợp của các nguyên tố như hydrogen, oxygen, carbon, sắt, và lưu
huỳnh. Vào năm 1789, Lavoisier khám phá định luật bảo toàn khối lượng; cụ
thể là, khi các chất kết hợp, khối lượng của các hóa chất đang phản ứng luôn
bằng khối lượng của các sản phẩm. Ví dụ, khối lượng hydrogen cộng với khối
lượng oxygen luôn bằng khối lượng nước được tạo ra. Một số phận bi thảm
đã xảy ra với Lavoisier. Ông là một nhân viên thuế quan và một quý tộc sinh
sống vào thời Cách mạng Pháp; ông bị phán là kẻ phản bội và bị chém đầu
vào năm 1794. Nhà toán học Joseph Lagrange đã tỏ lòng thành kính với ông
như sau: ‘họ chỉ mất một giây để chặt đầu ông, và [nước Pháp] phải mất một
trăm năm mới có lại một người con như thế.’
Thuyết nguyên tử giành được sự củng cố mạnh hơn vào đầu thế kỉ 19
với các thí nghiệm của nhà hóa học Anh John Dalton. Dalton đề xuất rằng mỗi
nguyên tố hóa học là một loại nguyên tử độc nhất, khác với các nguyên tử
khác bởi trọng lượng của nó. Dalton đã khám phá các tỉ số đơn giản về trọng
Các tỉ số nguyên đơn giản xuất hiện trong hóa học khiến nhiều người
tin vào sự tồn tại của các nguyên tử, nhưng số khác thì vẫn hết sức hoài nghi.
Các nhà hóa học đã làm rõ nhiều sự thật về các nguyên tử và phân tử, nhưng
họ không thể đo kích cỡ và trọng lượng tuyệt đối của chúng. Quan sát quan
trọng dẫn tới sự tồn tại chắc chắn của các nguyên tử rốt cuộc lại diễn ra từ
thời xa xưa. Vào thế kỉ thứ nhất tCN, nhà thơ La Mã Lucretius đã đi theo vết
chân của nhà nguyên tử luận Democritus khi ông sáng tác thiên sử thi De
Rerum Natura (Về bản chất của vạn vật). Điều may mắn là Lucretius có biết
được công trình trước đó, do phần lớn sách vở và bản thảo gốc của
Democritus đã bị phá hủy trong trận đại hỏa hoạn thiêu trụi thư viện
Alexandria ở Ai Cập vào khoảng năm 48 tCN. Trong bài thơ của ông, Lucretius
mô tả một căn phòng tối, trên cánh cửa chớp có đục một lỗ nhỏ cho ánh sáng
mặt trời xuyên vào. Ánh sáng rực rỡ làm nổi lên vô số hạt bụi li ti hiện ra
trong chùm sáng đó. Chúng run rẩy liên hồi, có vẻ như đang xô đẩy ngẫu
nhiên. Lucretius cho rằng chuyển động này là do các đám nguyên tử không
nhìn thấy liên tục hích lên các hạt bụi.
Hiện tượng tương tự như vậy được chứng kiến vào năm 1827 bởi nhà
thực vật học người Anh Robert Brown, ông đang nghiên cứu các hạt phấn
hoa trong nước. Những hạt tí hon này nhảy múa lung tung (Hình 3), như thể
chúng có một cuộc sống riêng vậy. Vào thời ấy nhiều người đang yêu thích
thuyết sức sống – tìm kiếm một lực sống giả định mà người ta tin rằng chính
Hình 3. Chuyển động Brown: đường đi của một hạt phấn hoa trong nước. Hạt phấn hoa từ
từ bị đánh bật ra khỏi vị trí ban đầu của nó vì các phân tử đập vào nó, và nó thực hiện một
chuyển động ngẫu nhiên.
Cần đến sự thiên tài của Einstein mới thấy được chuyển động Brown
đang nói lên điều gì, và ông đã sử dụng các quy luật xác suất để suy luận ra
sự tồn tại của các phân tử, và kích cỡ của chúng. Mặc dù bản thân các nguyên
tử quá nhỏ không thể nhìn thấy được, nhưng chúng có thể gây ra một chuyển
động cảm nhận được ở những hạt rất nhỏ khác và chuyển động đó là nhìn
thấy được. Một hạt bụi cỡ micron (10– 6 mét) trong không khí có thể xem là
một phân tử khí siêu lớn nhận khoảng 10.000 cú hích phân tử lên một bề mặt
tại một thời điểm bất kì. Một lượng cú hích tương đương như vậy đập lên
phía bên kia, vì thế tính trung bình không có lực toàn phần tác dụng lên hạt.
Tuy nhiên, số lượng cú hích như thế chịu các biến đổi thống kê. Các quy tắc
xác suất cho chúng ta biết rằng số lượng cú hích phân tử thăng giáng theo
căn bậc hai của số lượng phân tử. Số lượng cú hích nhận được bởi một hạt
Người ta biết rõ rằng dầu và nước không pha lẫn nhau. Dầu phân tán
thành một lớp mỏng dày hai phân tử trên mặt nước và các phân tử dầu sắp
liền cạnh nhau, sát bên nhau. Nhà bác học Benjamin Franklin hứng thú với
hiệu ứng rót dầu lên nước ‘nhấp nhô’ và tác dụng mà người ta cho rằng dầu
gây ra trong việc làm dịu mặt nước. Vào năm 1774, ông rót một muỗng cà
phê dầu lên mặt một cái hồ ở Clapham Common ở London và, khi nó phân
tán ra trên một diện tích lớn, ông để ý thấy mặt hồ trở nên ‘phẳng như
gương’. Về sau, nhà vật lí Anh Rayleigh đã sử dụng hiệu ứng này trong một
thí nghiệm đẹp và đơn giản để đo kích cỡ của các phân tử. Diện tích dầu bao
phủ dễ dàng nhìn thấy được nếu ban đầu nước có pha loãng một chất bột
mịn, dầu sẽ đẩy chúng ra xa trong quá trình nó lan tỏa. Một giọt dầu thể tích
một mili mét khối bao phủ diện tích khoảng một mét vuông. Kích cỡ phân tử
(vào khoảng hai nano mét) đơn giản bằng thể tích giọt dầu chia cho diện tích
màng dầu. Vì có xấp xỉ 12 nguyên tử trong mỗi phân tử dầu, nên kích cỡ của
một nguyên tử được xác định vào cỡ 1,7 ´ 10– 10 mét.
Cho đến đây, chúng ta vừa thấy những ý tưởng xa xưa của các nhà
nguyên tử luận Hi Lạp hồi 2.500 năm trước đã bị lãng quên như thế nào trong
hàng thế kỉ cho đến khi xuất hiện trở lại vào đầu kỉ nguyên khai sáng. Vào
thời của Newton, có ba ý tưởng cho định nghĩa vật chất: toàn bộ vật chất
được làm bằng các nguyên tử, các nguyên tử chiếm không gian, và các nguyên
tử có khối lượng. Khái niệm về nguyên tử trở nên bám rễ chắc chắn hơn vào
thời Dalton, và khám phá của ông về các tỉ số đơn giản của khối lượng nguyên
tử trong các phản ứng hóa học. Thế nhưng mãi đến cách giải thích của
Einstein cho chuyển động Brown vào năm 1905 thì bất kì phản bác nào với
giả thuyết nguyên tử mới bị đập tan hoàn toàn.
Hình 4. Ảnh tạo bởi Kính hiển vi quét chui hầm (STM) của các đám mây electron của từng
nguyên tử carbon trên một bề mặt graphite.
Giả thuyết nguyên tử cơ bản đến mức vào năm 1970 nó đã thúc nhà
vật lí Mĩ Richard Feynman viết trong Tập 1 Các bài giảng Vật lí nổi tiếng của
ông như sau:
Giả như, trong một thảm họa nào đó, toàn bộ tri thức khoa học bị phá
hủy hết, và chỉ còn lại một câu truyền lại cho các thế hệ sinh vật tương
lai, thì nói làm sao để câu đó chứa được nhiều thông tin nhất với số từ
ít nhất? Tôi tin đó là thuyết nguyên tử (hay sự thật nguyên tử, hay bạn
Trong Chương 3, tôi kể câu chuyện lực hút và lực đẩy giữa các nguyên
tử tạo ra các trạng thái quen thuộc của vật chất như thế nào.
Nước là một trong vài chất quen thuộc hằng ngày có thể tồn tại tự
nhiên trên Trái Đất ở dạng rắn, lỏng, và khí. Làm lạnh nước, nó biến thành
băng cứng như đá. Trên vệ tinh Titan của sao Thổ, nhiệt độ lạnh đến 180oC
dưới zero và có những ngọn núi băng, cao 3 km. Trên hành tinh điều độ hơn
của chúng ta, trạng thái bình thường của nước là lỏng. Khi bạn đun sôi một
ấm nước, một vòi khí không nhìn thấy, hơi nước, được tạo ra. Đám mây trắng
bay ra khỏi ấm nước có chứa các giọt nước li ti ngưng tụ trong không khí và
tán xạ ánh sáng. Đặt một bề mặt lạnh lên vòi khí ấy thì hơi nước ngưng tụ lại
thành các giọt chảy xuống và đọng lại. Các trạng thái hay các pha khác nhau
này của vật chất phát sinh do sự cạnh tranh giữa các đối nghịch: chuyển động
nhiệt làm các hạt rời xa nhau và lực hút liên nguyên tử hút chúng về với nhau,
lực đẩy và lực hút. ‘Hồ dán’ giữ các electron với nguyên tử, mang các nguyên
tử lại với nhau thành phân tử, và hút các phân tử lại thành chất rắn và chất
lỏng, là lực điện. Lực điện náu mình sau hóa học, sinh học, và bản thân sự
sống. Các trạng thái vật chất có thể chảy, chất lỏng và chất khí, được gọi là
chất lưu. Chất rắn, chất lỏng, và chất khí được gọi là các trạng thái cơ bản của
vật chất. Một chất rắn có hình dạng và thể tích, một chất lỏng có thể tích
nhưng không có hình dạng, và một chất khí không có hình dạng hay thể tích.
Chất lỏng và chất rắn được gọi là các trạng thái ngưng tụ của vật chất.
Trạng thái đơn giản nhất của vật chất là chất khí. Vào thế kỉ mười chín,
James Clerk Maxwell và Ludwig Boltzmann đã phát triển thuyết động học
Mặc dù có rất nhiều phân tử trong một chất khí, nhưng chúng rất nhỏ
bé, vì thế có rất nhiều không gian ở giữa chúng. Tính chất này của chất khí
khiến chúng có thể nén được. Nếu bạn hóa lỏng không khí bằng cách làm lạnh
đủ mạnh, nó co lại còn 1/2000 thể tích ban đầu. Thành bình chứa chất khí có
thể bị ép làm nén chất khí, giống như piston trong cái bơm xe đạp. Nhà khoa
học Anh thế kỉ 17 Robert Boyle đã thực hiện các thí nghiệm trên chất khí, ông
mô tả một cách màu mè là ‘chạm lên cái lò xo không khí’. Boyle khám phá
được rằng áp suất chất khí tăng tỉ lệ nghịch với thể tích của nó. Nếu thể tích
của một bình chứa giảm một nửa, thì các phân tử, lúc này bị nén vào không
gian còn một nửa, va đập với thành bình với tần suất gấp đôi, thành ra làm
tăng gấp đôi áp suất.
Các phân tử trong một chất khí không chuyển động ở cùng một tốc độ.
Những phân tử chậm hơn thu lấy động năng do các phân tử nhanh hơn va
đập vào chúng thường xuyên hơn, và các phân tử nhanh hơn mất năng lượng
thường xuyên hơn do va chạm với các phân tử chậm hơn. Các va chạm đưa
đến một phân bố thống kê của tốc độ hạt gọi là phân bố Maxwell-Boltzmann,
trong đó tốc độ trung bình được liên hệ với nhiệt độ của chất khí. Một phân
tử không khí ở điều kiện phòng có tốc độ trung bình khoảng 350 m/s, tức là
Có một phân biệt quan trọng giữa nhiệt lượng và nhiệt độ. Một số thứ
có nhiệt độ cao nhưng chứa ít nhiệt lượng; những thứ khác nguội hơn nhưng
chứa rất nhiều nhiệt lượng. Nhiệt lượng phụ thuộc vào cả nhiệt độ và số
lượng hạt tham gia. Hai xoong nước sôi bằng nhau chứa nhiệt lượng nhiều
gấp đôi một xoong, mặc dù chúng đều có nhiệt độ như nhau (100oC).
Một vật có thể thu động năng bằng cách tăng tốc độ của nó. Nhưng khi
vật đó được mang lên chóp đỉnh của một tòa nhà, nó thu thế năng từ trường
hấp dẫn của Trái Đất. Nếu bây giờ thả rơi nó, thì vật thu tốc độ khi nó rơi
xuống, biến đổi thế năng của nó thành động năng. Năng lượng là một khái
niệm hữu ích do bởi nguyên lí bảo toàn năng lượng: tổng thế năng và động
năng là không đổi trong suốt chuyển động của vật đó. Khi vật chạm đất, năng
lượng của nó biến đổi thành chuyển động ngẫu nhiên của các phân tử, hay
nhiệt năng.
Điều quan trọng là phân biệt giữa các dạng hữu ích của năng lượng, ví
dụ như động năng hay thế năng hoán đổi cho nhau, và năng lượng đã suy
biến đến mức không thể dùng nó để thực hiện công nữa. Năng lượng dễ dàng
giáng cấp thành một dạng vô dụng, còn quá trình ngược lại thì khó xảy ra hơn
nhiều. Động năng của một ô tô đang chuyển động, năng lượng trực tiếp của
các bộ phận của nó, sẽ biến đổi phần lớn thành nhiệt khi hãm phanh. Chuyển
động có trật tự của ô tô bây giờ biến thành chuyển động mất tổ chức, chuyển
động ngẫu nhiên của các nguyên tử và phân tử trong trống phanh. Nhiệt năng
đó không còn hữu ích trong việc làm cho ô tô chuyển động trở lại. Bản chất
không thuận nghịch của nhiệt được bao hàm trong Định luật thứ hai của nhiệt
động lực học. Định luật thứ nhất nói rằng chúng ta không thể thu được cái gì
đó từ hư vô, và định luật thứ hai nói rằng chúng ta thậm chí còn không thể
huề vốn nữa! Cái chất của năng lượng, hay khả năng của nó thực hiện công
có ích, được liên hệ với độ mất trật tự trong một hệ, và được đo bởi một đại
lượng nhiệt động lực học gọi là entropy. Entropy được định nghĩa lần đầu
tiên bởi Rudolf Clausius và được xây dựng cơ sở phân tử thống kê bởi
Boltzmann. Khái niệm mất trật tự trong một hệ hạt giữ một vai trò cơ bản
trong việc xác định những sắp xếp khác nhau của các nguyên tử gây ra các
trạng thái khác nhau của vật chất như thế nào.
Mỗi hạt trong một hệ có một số bậc tự do, hay những cách độc lập
trong đó nó có thể chuyển động hoặc hấp thụ năng lượng. Đối với một chất
khí cân bằng, tổng năng lượng được phân bố đồng đều giữa mọi bậc tự do
của các hạt, theo nguyên lí phân bố đều năng lượng. Một chất khí đơn nguyên
tử đơn giản, như neon, có ba bậc tự do, tương ứng với ba chiều không gian.
Khi nhiệt độ chất khí giảm, sự cân bằng giữa chuyển động nhiệt hỗn
loạn và các lực hút liên nguyên tử lúc này bị đảo lộn và nghiêng về các lực
liên nguyên tử khi chất khí bắt đầu ngưng tụ thành chất lỏng (Hình 5). Các
phân tử bây giờ ở đủ gần nhau để kháng lại sức nén toàn khối và đây là lí do
vì sao các chất lỏng phần lớn không nén được và được dùng để truyền lực
thông qua các đường ống trong hệ thống thủy lực. Ở cấp phân tử, có một sự
Hình 5. Sự biến đổi trạng thái của vật chất khi nhiệt độ tăng, từ chất rắn thành chất lỏng,
đến chất khí, rồi plasma.
Khi chất lỏng tiếp tục được làm lạnh thêm, chuyển động nhiệt trở nên
yếu ớt thêm. Chất lỏng đông đặc thành chất rắn, và toàn bộ lưu tính biến mất.
Các phân tử, trong khi vẫn tiếp tục dao động yếu ớt, ‘bị khóa’ vào những vị
trí nhất định và vật liệu trở nên cứng và có hình dạng xác định, với mỗi phân
tử có một vị trí rạch ròi trong chất rắn đó. Các phân tử trong một chất rắn kết
tinh chiếm giữ những vị trí xác định trên một mạng 3D tuần hoàn đều.
Một khác biệt cơ bản giữa chất rắn và chất lỏng là mức độ mà các phân
tử giữ được kiểu trật tự đều của chúng trên những cự li xa. Dấu xác nhận của
một chất rắn kết tinh là sự có mặt của trật tự xa, trong đó sự lặp lại đều đặn
của sự sắp xếp phân tử trải rộng trên nhiều khoảng mạng tinh thể. Mặt khác,
một chất lỏng thì đẳng hướng và đồng đều. Nó có cấu trúc phi tổ chức của
một chất khí nhưng các phân tử của nó cụm lại với nhau dưới các nội lực,
không cần áp suất ngoài tác dụng. Điều này xảy ra do bởi có một nhiệt độ tới
hạn, trên đó phải cần một áp suất ngoài nào đó mới giúp các phân tử ở lại với
nhau và chống lại chuyển động nhiệt. Khi tiến tới nhiệt độ tới hạn, pha khí và
Sự đối xứng
Sự sắp xếp đều đặn của các nguyên tử và phân tử trên các mạng tinh thể làm
bộc lộ một khía cạnh sâu sắc của vật chất: sự đối xứng. Chúng ta rất quen
thuộc với các ý tưởng về đối xứng, ví dụ các đối xứng ở dạng hình học như
giấy dán tường lặp đi lặp lại hay kiểu xếp ngói hai chiều; ngoài ra còn có sự
đối xứng của một quả cầu 3D hoàn hảo. Một quả cầu có thể quay một góc bất
kì, quay xung quanh vô số trục bất kì hoặc phản xạ gương vô số lần qua tâm
của nó, mà nó vẫn trông y như cũ.
Một toán tử đối xứng được định nghĩa là một tác dụng có thể thực hiện
trên một vật, để lại vật đó không thay đổi. Ví dụ, một mạng tinh thể có thể xê
dịch một số nguyên lần khoảng mạng dọc theo một trong các chiều mạng của
nó và nó vẫn trông như cũ. Một tinh thể có các đối xứng rời rạc như đối xứng
tịnh tiến, và còn có một tập hợp đối xứng quay và đối xứng gương. Tuy nhiên,
ở pha lỏng và pha khí không trật tự có vô số toán tử đối xứng liên tục. Vật
chất ở những pha này có thể tịnh tiến, phản xạ, hoặc quay theo vô số cách mà
nó vẫn trông y như cũ. Khi vật chất được cô đặc từ pha khí hoặc pha lỏng mất
trật tự năng lượng cao thành một tinh thể chất rắn, bậc đối xứng giảm đi, gây
ra cái gọi là đối xứng bị phá vỡ.
Một ví dụ cổ điển về sự phá vỡ đối xứng xảy ra ở các nam châm. Một
nam châm vĩnh cửu ví dụ một nam châm tủ lạnh, được cấu tạo bởi một ma
trận nam châm vi mô. Khi những nam châm bên trong thảy đều sắp thẳng
Sự đối xứng được xây dựng thành các định luật của tự nhiên ở cấp cơ
bản nhất. Mỗi đối xứng liên tục tìm thấy được trong tự nhiên đều gắn liền với
một đại lượng bảo toàn hay bất biến, như đã được chứng minh trong một
định lí nổi tiếng của Emmy Nöther vào năm 1915. Các tính chất của không
gian và thời gian cho chúng ta biết rằng các định luật của tự nhiên là như
nhau ở mọi nơi trong vũ trụ. Ví dụ, định luật bảo toàn động lượng là độc lập
với việc lựa chọn gốc tọa độ trong đó chuyển động của các vật được xác định.
Không gian có một tính chất gọi là bất biến tịnh tiến. Ngoài ra, thực tế các định
luật vật lí là như nhau ở mọi thời điểm hóa ra là tương đương với định luật
bảo toàn năng lượng. Sự bảo toàn năng lượng không phụ thuộc vào đồng hồ
tính giờ từ lúc nào. Không gian cũng đẳng hướng; định luật bảo toàn moment
động lượng không phụ thuộc vào trục quay của vật hướng theo chiều nào
trong không gian.
Thỉnh thoảng một lượng nhỏ điện tích có thể được truyền bởi sự ma
sát từ vật này sang vật khác, gây ra sự mất cân bằng. Hiện tượng này là tĩnh
điện, đã được biết tới từ thời xa xưa, trong đó những tác dụng như cởi áo len
hay chải tóc làm xuất hiện tia lửa điện hoặc tóc dựng lên. Vào năm 585 tCN,
Thales mô tả cách một miếng hổ phách (nhựa thông hóa thạch), khi chà xát
lên lông thú, có thể hút lấy những vật nhẹ như lông chim. Tiếng Hi Lạp gọi hổ
phách là elektron, từ đó mà chúng ta có từ electricity (điện) như ngày nay.
Hạt sơ cấp đầu tiên của vật chất được khám phá vào năm 1897 bởi J.
J. Thompson khi ông làm tróc electron ra khỏi các nguyên tử trong hiện
tượng phóng điện. Thiết bị của ông, một ‘ống tia cathode’, là một ống thủy
tinh đã hút chân không với hai điện cực hàn kín ở hai đầu. Khi thiết lập một
điện áp cao giữa hai điện cực, dòng electron (‘tia cathode’) chiếu ra theo
đường thẳng từ điện cực âm (cathode), chạy xuyên qua ống về phía điện cực
dương (anode). Chỗ nào ‘tia’ ấy đập trúng thủy tinh, nó lóe lên ánh huỳnh
quang màu vàng lục bí ẩn. Khi đưa lại gần các bản tích điện hoặc nam châm,
tia cathode có thể bị lệch hướng theo một kiểu có hệ thống, và Thompson đã
sử dụng các trường này để đo điện tích (e) và khối lượng của electron. Việc
ông khám phá rằng các nguyên tử chứa những hạt nhỏ hơn nữa, tức các
electron, đã đặt dấu chấm hết mãi mãi cho khái niệm về các nguyên tử không
thể phân chia kiểu Hi Lạp.
Di chuyển một vị trí trên bảng tuần hoàn từ neon sang sodium, nguyên
tử có thêm một electron nữa, gọi là electron hóa trị, nó phải tiến vào một lớp
vỏ nguyên tử mới nằm phía ngoài hơn, khiến sodium có hoạt tính cao. Nếu
chúng ta tiến lùi một ô từ argon, chúng ta có chlorine, nguyên tố thiếu một
electron nữa là có lớp vỏ đầy và vì thế nó cũng có hoạt tính mạnh. Khi các
nguyên tử sodium và chlorine kết hợp nhau, các orbital phía ngoài của chúng
chồng lấn, cho phép chúng có một thỏa thuận đôi bên cùng có lợi. Sodium có
thể cho đi electron hóa trị ngoài cùng của nó, nó dễ bị ion hóa, để chlorine
lấp đầy lớp vỏ ngoài của nó, và cấu trúc chung trở thành một phân tử muối
ăn bền (sodium chloride, hay NaCl).
Mỗi nguyên tử đều hưởng lợi bằng cách thu được cấu trúc lớp vỏ đầy
bền vững của khí hiếm, và mỗi nguyên tử là một ion mang điện, Na+ và Cl-;
Hydrogen thì khác. Nó có một electron trong một lớp chứa được hai
electron (helium), vì thế nó có thể biến thành H+ hoặc H- khi tạo thành một
hợp chất ion. Hydrogen có thể nhận một electron từ, nói ví dụ, lithium, để tạo
thành lithium hydride, hoặc chia sẻ electron của nó để thỏa mãn một nguyên
tố đói electron như fluorine hay oxygen. Các liên kết yếu hơn này được gọi là
liên kết hydrogen và thường gặp ở nhiều hợp chất hữu cơ và sinh học, ví dụ
liên kết giữa các cặp base tạo nên phân tử xoắn kép ADN.
Hai proton có thể kết hợp bằng cách chia sẻ hai electron để tạo ra một
phân tử hydrogen trung hòa, H2. Hai electron đó tạo thành một liên kết cộng
hóa trị mạnh; ‘tính ghép đôi’ của các electron ghép cặp là do một quy tắc
lượng tử gọi là nguyên lí loại trừ Pauli (xem Chương 5) cho phép hai và chỉ
hai electron tham gia. Do đó, các liên kết cộng hóa trị trở nên bão hòa, vì nếu
có một nguyên tử hydrogen thứ ba tiến đến gần cặp liên kết cộng hóa trị, nó
sẽ bị loại trừ và do đó không thể tạo thành một phân tử ba nguyên tử bền
vững.
Nguyên tố linh hoạt carbon có bốn electron trong lớp vỏ ngoài của nó,
và bốn chỗ trống. Cấu trúc này cho phép carbon hình thành các hợp chất hữu
cơ với oxygen, hydrogen, và nhiều chất khác, ví dụ như các phân tử sinh học
của sự sống. Chúng ta là ‘những dạng sống gốc carbon’, và cơ thể chúng ta
chứa các phân tử polymer. Polymer là một phân tử chuỗi dài, trong đó hàng
nghìn nguyên tử hay phân tử sắp thành hàng, giống như các hạt hột của một
xâu chuỗi đeo cổ, cùng với các nguyên tử hay phân tử khác dính vào hai bên
để lấp đầy những liên kết còn trống. Nhiều polymer hữu cơ có hình thức dạng
chuỗi này, trong đó có các plastic thông dụng như polyethylene, một chuỗi
dài các nguyên tử carbon, với các nguyên tử hydrogen gắn vào mạn bên.
Một số nguyên tố có thể tồn tại ở một vài hình thức vật lí khác nhau,
gọi là các thù hình. Graphite, than đá, và kim cương đều là thù hình của
carbon. Độ cứng cực cao và độ bền của hình thức kim cương nảy sinh từ sự
sắp xếp lập phương 3D của nó gồm bốn liên kết cộng hóa trị mạnh, trái ngược
hẳn với tính chất của những dạng thù hình khác của nó, ví dụ như graphite,
chỉ gồm ba liên kết cộng hóa trị. Graphite có cấu trúc phân lớp với lực liên
kết yếu giữa các lớp dai ấy khiến nó dễ trượt và có thể viết trên giấy; ‘chì’
trong bút chì thật ra là graphite. Còn có những dạng thù hình carbon khác, và
một họ lớn trong số này là fullerene, chúng có thể tạo nên các ống nano
carbon dày một nguyên tử, và các quả cầu rỗng Buckminster fullerene gồm
60 nguyên tử (‘bóng bucky’). Carbon liên tục khiến chúng ta bất ngờ, và vào
năm 2004, một pha mới của carbon đã được tạo ra, graphene, nó có các tính
chất cơ điện nổi bật. Graphene là lớp mỏng nhất có thể có của graphite, một
tấm nguyên tử carbon, dày một nguyên tử, sắp xếp trong một mạng lưới 2D
hình tổ ong (Hình 8).
Tinh thể
Diện mạo xinh đẹp của đá quý và hoa tuyết (Hình 9) bộc lộ sự đối xứng nền
tảng của các sắp xếp phân tử trong tinh thể. Khi một số lượng lớn hạt kết tập
lại, chúng luôn cố giảm thiểu thế năng của chúng, hút chúng thành những cấu
hình ‘xếp chặt’. Cấu hình năng lượng tối thiểu của ba nguyên tử là hình tam
giác. Nếu có thêm nguyên tử vào trong cùng mặt phẳng đó, thì chúng thiết
lập thành mô hình 2D sáu cạnh xếp chặt, ví dụ như bề mặt graphite ở Hình 4.
Điều này dễ dàng kiểm chứng được bằng cách sử dụng một cái khay nông
đựng những viên bi hình cầu bằng nhau. Khi lắc cái khay, chúng sẽ tạo thành
một lớp với một mô hình sáu cạnh xếp chặt. Một lớp nguyên tử mới có thể
chồng tiếp lên trên, khớp chặt với chỗ rỗng của lớp bên dưới. Với bốn nguyên
tử, chúng ta chuyển sang ba chiều, trong đó cấu hình năng lượng tối thiểu là
hình tứ diện. Khi có thêm nguyên tử tự gắn chúng vào để gieo mầm tinh thể,
chúng ưa chiếm các mặt tam giác và lớn lên thành những đám sáu cạnh lớn
hơn. Cấu hình nguyên tử và phân tử hiệu quả trong cấu trúc tinh thể lục giác
xếp chặt (HCP) là chung cho nhiều tinh thể.
Cấu trúc sáu cạnh của hoa tuyết phản ánh sự sắp xếp phân tử của nó.
Trong mỗi phân tử nước, hai nguyên tử hydrogen liên kết với hai đám mây
electron nửa-trống hiện ra vuông góc với nguyên tử oxygen. Hai nguyên tử
hydrogen nạy liên kết ra một chút, đến góc 105o để phân tử có hình giống
chữ ‘V’ in thường với nguyên tử oxygen tại đỉnh dưới. Dạng hình học đem lại
cho nước một tập hợp tính chất độc nhất vô nhị. Khi các phân tử nước tạo
thành băng, cấu hình năng lượng tối thiểu của chúng là một vòng lục giác, với
một cái lỗ ở giữa. Vật chất dãn ra một chút khi đông đặc, điều đó giải thích vì
sao các ống nước vỡ tung và đá nứt. Khối lượng riêng hơi thấp hơn của băng
Các trạng thái trung gian: thủy tinh và tinh thể lỏng
Sẽ thật dễ dàng nếu nghĩ vật chất được phân chia thành các pha rắn, lỏng, và
khí mà thôi. Nhưng tự nhiên còn phức tạp hơn thế nhiều. Các khoáng chất có
rất nhiều hình thức đa dạng và tôi sẽ nêu bật hai ví dụ: thủy tinh, một dạng
chẳng phải chất rắn hay chất lỏng mà là ‘chất lỏng đóng băng’, và tinh thể
lỏng, loại vật liệu có các tính chất lưng chừng giữa một chất lỏng và một tinh
thể.
Khi một chất lỏng được làm lạnh đến mức hình thành một chất rắn kết
tinh, các phân tử phải chuyển từ cấu hình mất trật tự, xếp chặt của pha lỏng
sang cấu hình trật tự xa và đều đặn của mạng tinh thể. Cần có thời gian cho
các phân tử thực hiện các điều chỉnh vị trí này và, nếu quá trình làm lạnh diễn
ra rất nhanh, thì chúng không phải lúc nào cũng có đủ thời gian để định hình
lại thành cấu hình trật tự xa của tinh thể. Nói chung, các phân tử ‘bất ngờ’
mất tính linh động của chúng và bị mắc kẹt trước khi chúng đi đến những vị
trí kết tinh của chúng. Đây là trạng thái dịch, hay giống thủy tinh, của vật chất
và là một trạng thái trong đó có một trật tự phân tử mất tổ chức giống chất
lỏng, nhưng vật liệu còn có độ cứng của chất rắn. Các chất rắn, như thủy tinh,
không có cấu trúc hình học rõ ràng được gọi là chất rắn vô định hình, và trong
trạng thái mất trật tự của chúng không có đủ năng lượng cho các phân tử
chảy qua nhau. Thủy tinh là ‘chất lỏng đóng băng’, không phải chất rắn, chẳng
phải chất lỏng, và ở trong một trạng thái siêu bền có độ nhớt cao, nghĩa là
trong những khoảng thời gian rất dài thủy tinh có xu hướng từ từ biến thành
tinh thể.
Khi làm lạnh một chất lỏng đơn nguyên tử như argon đến đông đặc,
các nguyên tử hình thành nên một mạng tinh thể đều xếp chặt. Mỗi nguyên
tử có thể được hình dung là một quả cầu rắn chắc, nghĩa là chẳng có hướng
ưu tiên nào trong không gian khi thiết lập cấu hình năng lượng tối thiểu của
Tương tự, các phân tử dài trong pha tinh thể lỏng không chiếm giữ các
vị trí đều đặn trên mạng tinh thể, mà chúng có thể đều được làm cho hướng
theo một chiều duy nhất. Một tinh thể lỏng có trật tự và các đặc trưng vị trí
của một chất lỏng, và còn có cái gọi là trật tự định hướng. Nếu tinh thể lỏng
bị làm nóng, thì các phân tử dạng que sẽ biến đổi lại thành pha lỏng tiêu
chuẩn, với các phân tử định hướng ngẫu nhiên theo mọi chiều. Do đó, tinh
thể lỏng là một trạng thái của vật chất nằm trung gian giữa một chất lỏng và
một tinh thể có trật tự. Những vật liệu này là cơ sở cho màn hiển thị tinh thể
lỏng (LCD) quen thuộc ở điện thoại thông minh, màn hình máy tính, và ti vi.
Các tinh thể lỏng có thể được định hướng bằng cách thiết lập các lực điện,
chuyển đổi dễ dàng từ một trạng thái mất trật tự sang một trạng thái trong
đó các phân tử sắp thẳng hàng, một cấu hình làm thay đổi phương thức
truyền ánh sáng của vật liệu. Trong LCD, điều này được thực hiện bằng cách
thiết lập điện áp lên các ảnh điểm của màn hình.
Plasma cũng có thể được tạo ra khi các nguyên tử bị ion hóa bởi các
hạt năng lượng cao, ví dụ như tia vũ trụ, hoặc các hạt được sinh ra bởi sự
phóng xạ tự nhiên. Một lượng nhỏ sự ion hóa tự nhiên có mặt trong đa số
chất khí. Plasma còn có thể hình thành khi dòng điện đi qua chất khí. Không
khí bình thường là chất cách điện tốt. Tuy nhiên, nếu có một điện trường rất
mạnh áp lên nó, như trong một cơn bão điện, thì nó có thể ‘bị đánh thủng’ và
trở thành chất dẫn điện. Trong một tia sét, các điện tích tự do được gia tốc
đến tốc độ cao trước khi va chạm với các phân tử chất khí và đánh bật ra các
mảnh vỡ tích điện. Điều này có thể gây ra một dòng thác gồm các hạt tích
điện, làm khuếch đại và tập trung các cặp ion-electron thành một hồ quang
Đặc điểm đáng chú ý nhất của plasma là sự dẫn điện của nó, kết quả
từ các điện tích linh động mà nó chứa. Các dòng điện chạy trong plasma sinh
ra từ trường tác dụng lực làm cho plasma đó ‘thắt lại’ và hình thành những
sợi hẹp. Những cấu trúc dạng sợi như vậy đã được quan sát thấy ở những
chỗ phình lên và tai lửa trên bề mặt Mặt Trời. Tính chất điện từ của plasma
trong các lò phản ứng nhiệt hạch địa cầu được khai thác theo nhiều cách, vừa
để làm nóng chúng, vừa để giam cầm chúng, thông thường ở bên trong ‘chai’
toroid từ tính. Nếu plasma rất nóng trong một dụng cụ như thế chạm trúng
thành vật liệu, thì tác động của các hạt plasma năng lượng cao sẽ làm thành
vật liệu bị ăn mòn, do chúng đánh bật các nguyên tử ra ngoài.
Một trong những tính chất độc đáo của plasma là nó biểu hiện hành
trạng tập thể. Các ví dụ như vậy là các sóng có thể lan truyền qua plasma mà
không xảy ra bất kì va chạm hạt nào. Trong không khí, sóng âm bình thường
lan tỏa khi các phân tử va chạm, truyền năng lượng của chúng dưới dạng ép
và rút khí. Trong plasma có số lượng điện tích dương và âm bằng nhau, khiến
nó trung hòa điện đến độ chính xác rất cao. Nếu không phải vậy, thì lực điện
do một sự mất cân bằng nhỏ về điện tích sẽ làm các điện tích xung quanh
chuyển động cho đến khi thiết lập trung hòa. Các plasma có thể chịu được
nhiều kiểu sóng. Chẳng hạn, giả sử một nhiễu loạn bất ngờ làm cho các
electron dồn cục ở một vùng nào đó của plasma. Các ion, vốn nặng nề và chậm
chạp, không thể phản ứng đủ nhanh để hồi phục tình trạng mất cân bằng, và
lực điện phát sinh và đẩy các electron ra. Thế nhưng động lượng của các
electron khiến chúng bay vọt khỏi vị trí ban đầu, rồi lực điện kéo chúng trở
lại. Một lần nữa, chúng lại đi vượt quá. Chu trình lặp đi lặp lại, tạo ra một
nhiễu loạn truyền đi trong plasma dưới dạng sóng Langmuir. Phần ngoài
cùng của khí quyển Mặt Trời, nhật hoa, là plasma rất nóng, nó truyền các
sóng Langmuir này. Plasma còn chịu được nhiều mode dao động khác, liên
Ở chương này, chúng ta đã thấy các lực tác dụng khi các nguyên tử ở
gần nhau. Ý tưởng trọng tâm là sự kết tập của các nguyên tử có xu hướng sẽ
rơi vào trạng thái năng lượng thấp nhất sẵn có với chúng. Có một sự cạnh
tranh giữa các lực điện liên nguyên tử, chúng có xu hướng hút các nguyên tử
và phân tử lại với nhau thành cụm, và hiệu ứng khuếch tán của chuyển động
nhiệt. Ở các chất khí, chuyển động nhiệt thắng thế và ở các chất rắn thì kẻ
chiến thắng là các lực liên nguyên tử. Có thể tồn tại một số trạng thái trung
gian, ví dụ như ‘chất lỏng đóng băng’ của thủy tinh, và các tính chất định
hướng của các tinh thể lỏng. Đa phần vật chất bình thường trong vũ trụ ở
trạng thái thứ tư của vật chất, plasma năng lượng cao, trong đó năng lượng
hạt cao đến mức các electron bị đánh bật ra khỏi nguyên tử và vật chất tồn
tại dưới dạng một chất khí ion và electron trộn lẫn mật thiết.
Trong Chương 4, chúng ta sẽ đi khỏi thế giới Newton luận và xem hiểu
biết của chúng ta về vật chất đã thay đổi hoàn toàn như thế nào bởi những
khám phá vĩ đại về điện từ học và thuyết tương đối.
Vào đầu thế kỉ 20, vật lí học đã chuyển mình với hai cuộc cách mạng vĩ
đại: thuyết tương đối và cơ học lượng tử. Những cuộc cách mạng này đã làm
thay đổi mãi mãi nhận thức của chúng ta về vật chất. Trong chương này, tôi
sẽ phác họa thuyết tương đối hẹp năm 1905 của Albert Einstein, lí thuyết mô
tả cái xảy ra khi các vật chuyển động ở tốc độ gần tốc độ ánh sáng. Lí thuyết
ấy đã làm thay đổi nhận thức của chúng ta về bản chất của không gian và thời
gian, và vật chất thông qua sự tương đương của khối lượng và năng lượng.
Vào năm 1916, Einstein còn mở rộng lí thuyết của ông để bao gộp cả lực hấp
dẫn thành thuyết tương đối rộng, lí thuyết này làm sáng tỏ rằng vật chất làm
ảnh hưởng đến không gian bằng cách bẻ cong không gian xung quanh nó.
Để đưa mọi thứ vào đúng ngữ cảnh, trước tiên chúng ta nên tiếp xúc
với bức tranh cổ điển Newton luận. Vào năm 1700, Newton đã thiết lập các
định luật về chuyển động và thuyết hấp dẫn. Cho biết tốc độ không quá cao,
và khối lượng không quá lớn, các định luật Newton đem lại một khuôn khổ
rất tốt để tìm hiểu thế giới, cho phép chúng ta, chẳng hạn, đưa người lên Mặt
Trăng. Vũ trụ quan Newton dựa trên hai giả định. Thứ nhất là ý tưởng về một
thời gian tuyệt đối; các định luật của ông có vẻ như chứa đựng quan niệm
rằng có một chiếc đồng hồ vũ trụ gõ nhịp đều đều mà mọi người trong vũ trụ
đều thống nhất, bất kể họ ở đâu. Thứ hai là khái niệm về một không gian tuyệt
đối và bất biến.
Hiểu biết của chúng ta về mối liên hệ giữa lực điện và lực từ có một
bước nhảy lớn vào những năm 1830 cùng với các thí nghiệm của Michael
Faraday trên các cuộn dây, pin, và mạch điện. Faraday phát hiện thấy một từ
trường biến thiên gây ra lực điện, một hiệu ứng gọi là sự cảm ứng điện từ,
hiện tượng chi phối mọi máy phát điện trên thực tế. Các thí nghiệm của
Faraday đem lại cho ông cái nhìn sáng suốt. Cái Faraday ‘nhìn thấy’ trong cặp
mắt trí tuệ của ông là trường điện từ, một sức căng vô hình lan tỏa trong
không gian trống rỗng. Trường điện từ biểu hiện sự có mặt của nó bằng cách
tạo ra các lực tác dụng lên các vật nhạy tác dụng ở gần đó. Faraday hình dung
các vật tích điện hay có từ tính tạo ra một bó đường sức, tỏa ra từ bề mặt của
chúng (Hình 10). Các đường sức truyền lực của chúng lên các vật như thể
chúng được kết nối bằng những sợi cáp vô hình, đẩy hoặc hút lấy chúng. Các
đường sức có thể xuất hiện rõ rệt khi rải mạt sắt lên một tấm giấy bìa đặt
trên một thanh nam châm. Mỗi miếng mạt sắt tự nó giống như một nam châm
nhỏ, sắp thẳng theo từ trường, giống hệt như kim la bàn canh theo từ trường
Trái Đất.
Các thí nghiệm tài tình của Faraday chỉ ra rằng các đường sức phân
tán trong không gian giữa các vật là những đường cong. Ý tưởng này xung
đột với cách Newton hình dung lực hấp dẫn được truyền đi tức thời giữa hai
vật cách xa nhau dọc theo đường thẳng nối liền chúng. Mặc dù các lí thuyết
của Newton đã hết sức thành công trong việc giải thích chuyển động của các
hành tinh, nhưng khái niệm ‘tác dụng từ xa’ tức thời có vẻ xa lạ với đa số quá
trình mà chúng ta quen thuộc trong cuộc sống thường ngày.
Trong một trường vật lí, mỗi điểm trong không gian có thể được gắn
nhãn bằng một con số biểu diễn cường độ trường, nó biến thiên từ điểm này
sang điểm khác. Ví dụ, trên các bản đồ thời tiết, nhiệt độ hoặc áp suất được
biểu diễn bằng một mạng lưới những con số bình thường. Các bản đồ như
vậy biểu diễn cái gọi là trường vô hướng, trong đó đại lượng trường được
biểu diễn bằng một con số gắn liền với mỗi điểm trong không gian. Còn có
những trường vector phức tạp hơn, ví dụ như các bản đồ vận tốc gió trong đó
tại mỗi điểm cần hai con số, tốc độ và hướng. Các bản đồ thời tiết được thể
hiện với các mũi tên chỉ tốc độ gió (độ dài của mũi tên), cùng với la bàn
(hướng của nó).
Sóng điện từ là gì? Hãy hình dung một electron, với các đường sức điện
gắn liền với nó tỏa ra ngoài, đang bị rung lắc thật nhanh. Điều gì xảy ra với
điện trường đó? Ở gần electron, các đường sức điều chỉnh nhanh đến những
vị trí biến thiên của nó. Nhưng cần có thời gian lâu hơn cho thông tin về vị trí
biến thiên của electron đi tới những điểm ở xa bên ngoài. Thông tin đó lan
tỏa trong không gian, có phần giống như các xô nước được chuyển từ người
này sang người khác trong một ‘biệt đội chuyền xô’; cần có thời gian cho một
xô nước chuyền xuống một hàng người. Các phương trình Maxwell dự đoán
rằng khi một electron bị rung lắc, điện trường dao động đó gây ra một từ
trường dao động tương ứng, đến lượt từ trường này gây ra một điện trường
dao động, và cứ thế. Hai trường hoán chuyển lan tỏa ra không gian trống rỗng
dưới dạng một thực thể sóng, truyền năng lượng cùng với chúng. Các phương
trình ấy chứa hai hằng số vật lí dễ dàng đo được, và khi Maxwell đưa hai hằng
số này vào lí thuyết của mình, ông phát hiện thấy nó dự đoán các sóng ấy
truyền đi ở một tốc độ cố định trong chân không, tốc độ ánh sáng, c. Quả vậy,
ánh sáng là một sóng điện từ. Lí thuyết của Maxwell là khám phá khoa học
quan trọng nhất của thế kỉ 19; thành tựu vĩ đại nằm ở chỗ Maxwell đã thống
nhất ba nhánh vật lí học: điện học, từ học, và quang học.
Chưa hết. Các phương trình Maxwell còn dự đoán rằng trường điện từ
phải dao động với một phạm vi bước sóng rộng hơn nhiều so với bước sóng
của ánh sáng nhìn thấy. Mắt chúng ta được tiến hóa để cảm nhận một dải hẹp
Bây giờ xét hiện tượng xảy ra khi người lái xe bus bật đèn pha. Nếu
bạn đo tốc độ ánh sáng từ trên xe bus, bạn sẽ thấy nó bằng c. Vậy nhà quan
sát ở bên đường của chúng ta sẽ đo được bằng bao nhiêu? Họ sẽ không đo
được nó bằng 70 + c, mà vẫn đo tốc độ ánh sáng là bằng c, y hệt như bạn đo.
Điều này làm nảy sinh một câu hỏi: có một vận tốc nào để làm mốc đo tốc độ
ánh sáng hay không?
Một cách giải quyết bài toán cộng vận tốc là sự tồn tại khả dĩ của
aether, một môi trường truyền sáng giả định tràn ngập không gian qua đó
ánh sáng lan truyền, nhưng là một chất liệu không tương tác với vật chất. Mọi
sóng thông thường đều cần một môi trường lan truyền: ví dụ, sóng âm truyền
qua không khí, và các gợn lăn tăn lan tỏa trên mặt nước. Khi chúng ta ngắm
Nhằm làm rõ vấn đề không tồn tại của aether, nhà vật lí Hà Lan
Hendrik Lorentz đã khảo sát các phương trình Maxwell, và đặc biệt cách
chúng biến đổi khi được biểu diễn trong những hệ quy chiếu quán tính khác
nhau. Một hệ quy chiếu quán tính là một hệ trục tọa độ đang chuyển động
theo đường thẳng ở một tốc độ không đổi nào đó so với một hệ quy chiếu
quán tính khác. Lorentz tìm thấy các phương trình ấy có hình thức khác khi
được thiết lập trong những hệ quy chiếu khác, hàm ý rằng tốc độ ánh sáng
phải thay đổi khi chuyển từ hệ quy chiếu này sang hệ quy chiếu kia, một dự
đoán rõ ràng mâu thuẫn với thí nghiệm vô hiệu của Michelson-Morley.
Lorentz định nghĩa một phép biến đổi toán học (phép biến đổi Lorentz), nó
cho phép các phương trình Maxwell có cùng hình thức trong những hệ quy
chiếu quán tính khác nhau.
Đây chính là vấn đề mà Einstein, một viên thư kí 26 tuổi trong một sở
cấp bằng sáng chế ở Bern, giải quyết bằng logic sắc bén vào năm 1905.
Einstein giải thích phép biến đổi Lorentz là thể hiện một mối liên hệ vật lí rõ
nét giữa không gian và thời gian đối với các nhà quan sát trong các hệ quy
chiếu khác nhau. Thuyết tương đối hẹp của ông được xây dựng trên hai ý
tưởng: đó là các định luật vật lí phải là như nhau, và tốc độ ánh sáng trong
chân không luôn bằng nhau đối với các nhà quan sát trong các hệ quy chiếu
khác nhau. Einstein nổi tiếng với các thí nghiệm giả tưởng của ông, và một
thí nghiệm ông thực hiện khi xây dựng thuyết tương đối hẹp của mình là nêu
Nếu tốc độ ánh sáng là như nhau đối với mọi nhà quan sát quán tính,
thì quan niệm của chúng ta về không gian và thời gian phải sửa lại và hợp
nhất để cho phép điều đó. Einstein đã thay thế các khái niệm không gian tuyệt
đối và thời gian tuyệt đối của Newton bằng một thực thể hợp nhất: kết cấu
của không thời gian bốn chiều (ba chiều thời gian cộng với một chiều thời
gian) trong đó không gian và thời gian trở nên đàn hồi và biến đổi đối với các
nhà quan sát khác nhau. Ví dụ, nếu bạn có một cái thước đang chuyển động
ở tốc độ rất lớn đi qua bạn, thì bạn sẽ thấy cái thước ngắn lại theo chiều
chuyển động của nó; hiện tượng này gọi là sự co Lorentz-Fitzgerald. Đồng
thời, nếu có một cái đồng hồ đang chuyển động đều ở tốc độ cao đi qua bạn,
thì bạn sẽ thấy nó chạy chậm lại; hiện tượng này gọi là sự dãn nở thời gian.
Sự dãn nở thời gian đã được kiểm tra rất chặt chẽ trong các thí nghiệm trong
phòng lab và là một hệ quả của thực tế mọi vật thể đang chuyển động trong
không-thời gian ở tốc độ ánh sáng. Nói chung, thuyết tương đối hẹp đã hoàn
thiện lí thuyết của Maxwell. Einstein nói rằng Maxwell là người duy nhất
trong số những tiền nhân của ông sánh ngang tầm với Newton.
Thế nhưng dự đoán vươn xa nhất của thuyết tương đối hẹp xuất phát
từ việc xét các định luật Newton về chuyển động phải được sửa đổi như thế
nào cho các vật đang chuyển động ở tốc độ cao. Tốc độ ánh sáng là giới hạn
tốc độ tối hậu của tự nhiên, và không có vật thể vật chất nào có thể chuyển
động nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Định luật thứ hai Newton cho chúng ta biết
vận tốc của một vật thay đổi như thế nào theo lực tác dụng, đó là tốc độ biến
thiên động lượng. Vậy nên, nếu có một lực không đổi tác dụng lên một vật,
thì chẳng có giới hạn nào cho vận tốc mà nó có thể thu được, cho dù có vượt
quá tốc độ ánh sáng, một điều vi phạm thuyết tương đối. Do đó, công thức
Newton cho động lượng của một hạt phải được sửa đổi, với một phép biến
E = mc2
Phương trình này cho chúng ta biết rằng khối lượng m và năng lượng
E thật sự là cùng một thứ; chúng chỉ được đo theo đơn vị khác nhau mà thôi
(hệ số c2 đơn giản biến đổi đơn vị khối lượng thành đơn vị năng lượng). Nếu
một vật đang chuyển động rất nhanh, thì nó mang theo rất nhiều năng lượng,
nhưng có một giới hạn cho lượng năng lượng mà nó có. Cho dù khi vật đứng
yên thì nó vẫn có một lượng ‘ẩn’ năng lượng gọi là năng lượng khối lượng
nghỉ, và đây là ý nghĩa thật sự của ‘m’ trong phương trình. Điều này khác với
cơ học Newton trong đó động năng của một hạt đứng yên là zero, chứ không
phải một đại lượng hữu hạn. Năng lượng khối lượng nghỉ là rất lớn đối với
vật chất vì hệ số chuyển đổi c2 quá lớn. Dù là một khối lượng nhỏ thôi cũng
có một năng lượng khổng lồ. Tương đương năng lượng của một gram vật
chất (trọng lượng của một tấm danh thiếp) là 25 triệu kilowatt giờ, đủ để
sưởi ấm và thắp sáng một thành phố lớn trong một ngày. Thế vì sao trong
cuộc sống thường ngày chúng ta chẳng để ý đến thành phần năng lượng của
vật chất bình thường? Nếu không có năng lượng nào được giải phóng ra bên
ngoài, thì lấy gì để ta quan sát thấy. Einstein bảo chúng ta hãy hình dung một
quý ông rất giàu có nhưng keo kiệt. Nếu ông ta chưa bao giờ xài một đồng xu
nào thì làm thế nào chúng ta biết được ông ta giàu khủng khiếp?
m = E/c2
Mặc dù nó y hệt về mặt toán học với hình thức nổi tiếng kia, nhưng trình bày
theo cách này thì công thức trả lời được cho câu hỏi ở tựa đề bài báo bằng
Thật dễ dàng cộng thêm năng lượng cho vật chất để làm tăng khối
lượng của nó, chẳng hạn bằng cách đun nóng nó. Nếu bạn đun sôi một ấm
nước lạnh thì độ tăng khối lượng tương đối tính là rất nhỏ (chừng 5 ´ 10– 13
kg). Cho dù trong các phản ứng hóa học tỏa năng lượng, như trong việc đốt
nhiên liệu, một lần nữa chỉ có một phần không đáng kể (một phần tỉ) của khối
lượng được giải phóng dưới dạng năng lượng. Do đó, định luật bảo toàn khối
lượng của Lavoisier là một gần đúng rất tốt cho các quá trình hóa học. Nhưng
trong các phản ứng hạt nhân, năng lượng được giải phóng lớn hơn rất nhiều
và phương trình Einstein được xem là phương trình đẹp nhất trong khoa học
bởi nó là cơ sở của năng lượng hạt nhân.
Các phản ứng hạt nhân mà chúng ta hàm ơn cho sự tồn tại của mình là
các phản ứng nhiệt hạch xảy ra ở sâu bên trong Mặt Trời. Tại đó, nhiệt độ đủ
cao để cho phép bốn proton hợp nhất thành hạt alpha (hạt nhân nguyên tử
helium), nó có khối lượng nghỉ 3727,3 MeV/c2. Trong sự hình thành hạt
alpha, các proton mất một lượng đáng kể (0,7%) khối lượng của chúng, và
độ hụt đó, 26,7 MeV, chuyển hóa thành năng lượng nhiệt. Mỗi hạt alpha nhẹ
hơn tổng các thành phần của nó gần 1%. (Đơn vị eV được định nghĩa ở
Chương 6.)
Những tỉ lệ năng lượng khối lượng nghỉ cao hơn nữa được giải phóng
trong các sự kiện ngoạn mục nhất trong vũ trụ, ví dụ khi các lỗ đen sát nhập.
Một vài sự kiện sát nhập của các cặp lỗ đen đã được quan sát thấy thông qua
tín hiệu bức xạ hấp dẫn của chúng, sự kiện đầu tiên được quan sát là vào năm
2015. Những vụ sát nhập này có thể liên quan đến các lỗ đen với khối lượng
bằng hàng chục khối lượng mặt trời (một khối lượng mặt trời là khối lượng
của Mặt Trời). Những giai đoạn cuối của sự kiện sát nhập xảy ra trong vài
phần chục của một giây và tạo ra những đứt gãy dữ dội trong kết cấu không-
thời gian đến mức tương đương một vài khối lượng mặt trời đã biến đổi
Cái tiềm ẩn trong công thức Newton về chuyển động hành tinh là khối
lượng quán tính và khối lượng hấp dẫn là bằng nhau và cùng là một thứ, một
giả định được cho là hiển nhiên. Einstein đã nâng tầm cho sự bằng nhau của
hai loại khối lượng thành một nguyên lí: nguyên lí tương đương, ông xây
dựng nó làm nền tảng cho thuyết tương đối rộng của ông vào năm 1915. Nó
là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của khoa học. Trong lí thuyết này,
ông công nhận ý nghĩa của thí nghiệm nổi tiếng của Galileo Galilei về việc thả
Einstein mất mười năm để kết hợp các hiệu ứng về lực hấp dẫn và gia
tốc thành một lí thuyết tổng quát, phức tạp, và chặt chẽ toán học hơn. Để làm
vậy, ông phải từ bỏ quan niệm rằng không-thời gian có thể được mô tả bằng
hình học Euclid thông thường và, trong sự có mặt của các khối lượng hấp
dẫn, thay vậy nó phải được xây dựng trên hình học của những mặt cong. Nói
không-thời gian bẻ cong có nghĩa là gì? Trong hình học mặt phẳng của không
gian phẳng Euclid, các góc của một tam giác cộng lại bằng 180o. Nhưng nếu
bạn vẽ một tam giác lớn trên bề mặt Trái Đất, bạn sẽ thấy rằng các góc tam
giác cộng lại không bằng 180o, do độ cong của Trái Đất. Nếu bạn hình dung
việc vẽ một tam giác trong không gian, ở gần một vật thể có trường hấp dẫn,
thì hình học của không gian đó bị bẻ cong và ở đây một lần nữa bạn thấy các
góc của tam giác cộng lại không bằng 180o.
Nguyên lí tương đương dẫn tới một quan điểm sáng giá về lực hấp dẫn,
đó là hiện thân của hình học về không gian và thời gian. Thực tế các vật có
khối lượng khác nhau rơi trong một trường hấp dẫn được gia tốc giống như
nhau và đi theo những quỹ đạo giống nhau, làm bộc lộ một sự thật sâu sắc:
quỹ đạo mà các vật chuyển động theo đó tự thân chúng là những đặc tính cố
hữu của không-thời gian. Vật chất bẻ cong không gian xung quanh nó. Hãy
hình dung một tấm cao su cùng với một vật có khối lượng-năng lượng lớn
Hình 11. Sự cong của không gian xung quanh một vật thể khối lượng lớn như Trái Đất.
Sự cong của không gian xung quanh một vật thể không chỉ ảnh hưởng
đến chuyển động của các vật, mà còn làm lệch hướng ánh sáng nữa. Vào năm
1919, Arthur Eddington đã kiểm tra lí thuyết của Einstein trong một kì nhật
thực toàn phần nổi tiếng. Vị trí biểu kiến của các sao quan sát thấy ở gần rìa
đĩa Mặt Trời bị dịch khỏi vị trí bình thường của chúng trên bầu trời một
lượng đúng như lí thuyết của Einstein dự đoán.
Thuyết tương đối rộng là lí thuyết đúng, được dùng khi mô tả những
gì xảy ra ở gần vật chất chịu sự co sụp hấp dẫn cực mạnh. Giới hạn bẻ cong
ánh sáng tối hậu xảy ra trong trường hấp dẫn vô cùng mạnh của một lỗ đen,
hình thức thu gọn nhất của vật chất mà chúng ta biết. Giả sử toàn bộ vật chất
trong Mặt Trời, có đường kính 1,4 triệu km, được nén thành một vật kích cỡ
chỉ 3 km, thì trường hấp dẫn tại bề mặt của nó sẽ mạnh đến mức không-thời
gian tự uốn cong xung quanh vật và một lỗ đen sẽ hình thành. Ánh sáng sẽ bị
bẻ cong đến mức tại bề mặt nó hoàn toàn bị giữ lại, cũng như bất kì vật thể
vật chất nào rơi vào trong nó. Chúng ta có thể yên tâm rằng những quá trình
Tóm lại, vào thế kỉ 19, các lực điện từ được hiểu là điện trường và từ
trường choán đầy không gian trống rỗng, chúng kết hợp với nhau và dao
động dưới dạng sóng. Trên thực tế, ánh sáng là một sóng điện từ. Einstein đã
xây dựng thuyết tương đối hẹp dựa trên hai giả thuyết: tốc độ của ánh sáng
là như nhau đối với mọi nhà quan sát, và các định luật là như nhau đối với
các nhà quan sát đang chuyển động ở tốc độ không đổi. Từ đây, ông suy luận
rằng không gian và thời gian hợp nhất thành một kết cấu chung: không-thời
gian, trong đó không gian và thời gian bị bóp méo khi được nhìn bởi những
nhà quan sát khác nhau. Các định luật Newton về cơ học cũng phải sửa đổi,
làm bộc lộ một tính chất trọng yếu của vật chất, khối lượng của nó, là tương
đương với năng lượng. Khi Einstein bao gộp chuyển động có gia tốc và lực
hấp dẫn làm cơ sở cho thuyết tương đối rộng của ông, gia tốc và lực hấp dẫn
được thấy là tương đương nhau. Hình học của không-thời gian được xác định
bởi sự phân bố khối lượng-năng lượng trong không gian. Nhà vật lí John
Wheeler đã tóm tắt cô đọng như thế này: vật chất bẻ cong không gian, và
không gian cho vật chất biết cách chuyển động.
Thuyết tương đối rộng của Einstein đã cách mạng hóa vật lí học. Trong
Chương 5, tôi sẽ chuyển sang thế giới của những hạt vật chất rất nhỏ và cuộc
cách mạng vĩ đại thứ hai trong vật lí học thế kỉ 20: cơ học lượng tử.
Một vài manh mối về cấu trúc nguyên tử đã được làm rõ, đặc biệt trong
thập niên cuối cùng của thế kỉ 19. Trong số này là tia X có tính đâm xuyên cao
(do Wilhelm Röngen khám phá) và sự phóng xạ (do Henri Becquerel khám
phá). Các nguyên tử phóng xạ, ví dụ uranium, giải phóng các mảnh vỡ của
chúng ở tốc độ cao, tự phát phân rã và phát ra các loại bức xạ ion hóa hay các
hạt khác nhau. Một loại phóng xạ, tia gamma, là bức xạ điện từ năng lượng
cao. Loại khác bao gồm các hạt alpha tích điện dương, chúng là những thực
thể rất bền, và được Ernest Rutherford chứng minh là hạt nhân helium được
Hình 12. Thí nghiệm của Rutherford làm tán xạ hạt alpha khỏi
các nguyên tử vàng đã dẫn tới khám phá hạt nhân nguyên tử.
Việc khám phá rằng hạt nhân chứa các proton làm nảy sinh một câu
hỏi sâu sắc hơn nữa. Khi di chuyển theo bảng tuần hoàn, trọng lượng nguyên
tử của mỗi nguyên tố tăng lên nhanh hơn nhiều so với số nguyên tử của nó.
Đối với hydrogen, số nguyên tử và trọng lượng đều bằng 1. Ở helium (số
nguyên tử 2), trọng lượng lớn gấp bốn lần. Rồi đến nguyên tố 92, uranium,
trọng lượng nguyên tử gấp hydrogen đến 238 lần. Phải có thứ gì đó tạo nên
độ hụt giữa điện tích và khối lượng trong hạt nhân, và Rutherford dự đoán
rằng, ngoài proton ra, phải có mặt những hạt nặng khác nữa. Ông gọi các hạt
này là neutron vì chúng không mang điện. James Chadwick đã tìm thấy
neutron vào năm 1932 khi ông bắn hạt alpha vào các nguyên tử beryllium và
đánh bật neutron ra khỏi chúng. Mỗi neutron cân nặng hơn proton một phần
mười phần trăm; nhưng ngoài sự trung hòa điện của nó thì hai hạt là giống
nhau. Proton và neutron trong hạt nhân được gọi là nucleon (Hình 13). Các
nguyên tố có cùng số proton trong hạt nhân của chúng đều có hóa tính giống
nhau, nhưng chúng có thể có số lượng neutron khác nhau, biến chúng thành
các đồng vị của nguyên tố đó. Ví dụ, helium-4 có hai proton và hai neutron
trong khi helium-3 có hai proton và chỉ một neutron.
Hạt nhân được giữ lại với nhau như thế nào? Với khoảng 100 proton
chen chúc vào một thể tích tí xíu của nó, lực đẩy tĩnh điện tương hỗ trong hạt
nhân là vô cùng lớn và một lực khác, lực hạt nhân mạnh, liên kết toàn đám
hạt lại với nhau. Lực mạnh lớn gấp nhiều lần so với lực điện, và hoạt động
trên một khoảng cách ngắn hơn nhiều, chừng 10-15 mét. Ta có thể mường
tượng lực này mạnh bao nhiêu bằng cách so sánh nó với sức chặt mà mỗi
electron liên kết với nguyên tử. Đơn vị năng lượng tiện dùng ở cấp vi mô của
vật chất là electron volt, hay eV. Công cần thiết để di chuyển một electron qua
một thế năng điện, nói ví dụ giữa hai điện cực của một cục pin ‘AA’ 1,5 volt,
là 1,5 eV. (Có 6,25 ´ 1018 eV trong một Joule). Để loại một electron ra khỏi
nguyên tử, cần năng lượng vào khoảng 15 eV, năng lượng này có thể được
cấp dễ dàng bởi 10 cục pin cỡ AA. Nhưng để loại một proton ra khỏi hạt nhân
sẽ cần năng lượng khoảng 10 MeV, tương đương với bảy triệu cục pin. Giả sử
bạn có thể tiếp cận hạt nhân nguyên tử với một cặp nhíp khỏe và kẹp một
neutron ra, thì lực cần thiết sẽ tương đương với lực nâng một cái va li nặng.
Khái niệm chủ chốt cần thiết để tìm hiểu sự bền vững nguyên tử đã
được đề xuất hồi năm 1900, nhưng trong một lĩnh vực khác của vật lí học –
nghiên cứu về bức xạ do các vật nóng phát ra. Trong khi nghiên cứu bức xạ
nhiệt, nhà vật lí Đức Max Planck đã có một ý tưởng căn bản: năng lượng bức
xạ phải bị lượng tử hóa. Planck đề xuất rằng năng lượng của trường điện từ
được bó lại thành những gói rời rạc, hay các lượng tử, thay vì tạo ra những
con sóng với dải năng lượng liên tục gần xuống zero, như lí thuyết của
Maxwell dự đoán. Năng lượng của mỗi lượng tử Planck tỉ lệ thuận với tần số
bức xạ, thế nên mỗi lượng tử ánh sáng lam tần số cao, chẳng hạn, mang năng
lượng nhiều gấp đôi mỗi lượng tử của ánh sáng đỏ. Hằng số tỉ lệ, h, là một
hằng số cơ bản của tự nhiên, được gọi là hằng số Planck. Nó có cùng đơn vị
với động lượng của một vật quay, hay moment động lượng. Hằng số Planck
là một con số rất nhỏ và xác định những bước nhảy nhỏ nhất mà tự nhiên
thực hiện, hay lượng tử tác dụng.
Chẳng mấy chốc sau đề xuất mang tính cách mạng của Planck, Einstein
đã mở rộng ý tưởng lượng tử hóa bằng cách chỉ ra rằng ánh sáng truyền đi
trong không gian gồm các hạt, gọi là photon, mang những gói năng lượng rời
rạc. Ý tưởng này giải thích cho một hiện tượng nổi tiếng gọi là hiệu ứng quang
điện trong đó các kim loại như kẽm có thể giải phóng electron khi chiếu ánh
sáng tử ngoại tần số cao lên chúng. Để tróc một electron ra khỏi kim loại, phải
có một năng lượng tối thiểu được phân phối đến nó, và tần số cao của photon
Nhà vật lí Đan Mạch Niels Bohr đã áp dụng sự lượng tử hóa năng lượng
cho cấu trúc điện tử của nguyên tử. Ông nêu lí thuyết rằng mỗi electron
chuyển động trong một quỹ đạo xung quanh hạt nhân chỉ có thể chiếm giữ
những quỹ đạo rời rạc với các giá trị số nguyên (1, 2, 3,…) lần moment động
lượng, theo đơn vị h/2p. Các giá trị số nguyên ấy được gọi là các số lượng tử
chính. Năng lượng của các quỹ đạo khác nhau tạo thành một cái thang rời rạc
gồm các trạng thái được phép với các thanh thang cách nhau không đều
(Hình 14). Quy tắc lượng tử nói rằng mỗi electron trong nguyên tử chỉ được
phép nằm ở trên các thanh thang, không bao giờ nằm lưng chừng giữa chúng.
Nó có thể nhảy lên một thanh cao hơn (một trạng thái kích thích) bằng cách
hấp thụ một lượng tử năng lượng bằng với hiệu năng lượng giữa hai thanh,
hoặc rơi xuống một thanh năng lượng thấp hơn bằng cách phát ra một
photon có năng lượng và tần số nhất định. Thanh thấp nhất trên thang năng
lượng được gọi là trạng thái cơ bản, và, do không có trạng thái nào bên dưới
nó, các electron bị ngăn cản lao vào hạt nhân; đây chính là chỗ khiến nguyên
tử bền vững. Ngoài việc giải thích sự bền vững của nguyên tử, mô hình Bohr
còn phân giải câu hỏi đã tồn tại dai dẳng về nguồn gốc của các vạch sắc nét
trong quang phổ nguyên tử. Khi ông sử dụng lí thuyết này dự đoán bước sóng
quan sát thấy của quang phổ vạch hydrogen, mô hình nguyên tử của ông lập
tức thu về một thắng lợi lớn.
Sóng và hạt
Tự nhiên áp đặt những quy tắc lượng tử chặt chẽ lên vật chất. Mỗi electron
không thể có năng lượng bất kì trong nguyên tử, mà nó bị ràng buộc với một
thang năng lượng lượng tử rời rạc. Làm thế nào hiểu cho đúng hành trạng kì
lạ này? Mấu chốt là nhận ra rằng các hạt vi mô có các đặc trưng dạng sóng.
Mọi kiểu sóng đều có những đặc trưng cơ bản như bước sóng (khoảng cách
giữa hai đỉnh sóng liên tiếp) và biên độ (độ cao của sóng). Chúng có thể
truyền tự do trong không gian dưới dạng sóng chạy, hoặc sóng đứng tại chỗ,
sóng dừng, ví dụ như các dao động của một sợi dây đàn ghita. Các electron
trong nguyên tử hành xử giống như các sóng dừng.
Tính chất tinh túy của các sóng là giao thoa. Nếu bạn ném đồng thời
hai cục đá xuống một mặt hồ tĩnh lặng, thì các gợn tròn từ mỗi chấn động lan
Hình 15. Thí nghiệm hai khe của Thomas Young cho thấy các dải vân giao thoa sáng và tối
được tạo ra bởi sự giao thoa tăng cường và triệt tiêu của các sóng ló ra từ hai khe.
Sau giải thích của Einstein về hiệu ứng quang điện theo khái niệm
photon, vấn đề trở nên sáng tỏ là ánh sáng vừa có đặc trưng dạng hạt vừa có
đặc trưng dạng sóng. Sự lưỡng tính sóng-hạt là (và vẫn là) một khái niệm khó
tiêu hóa đối với chúng ta; nhưng bằng chứng cho sự tồn tại của các photon
ℎ
!"# =
&'
Thang kích cỡ mà trên đó các hiệu ứng lượng tử dạng sóng trở nên
quan trọng được cố định bởi độ lớn của hằng số Planck ở tử thức. Động lượng
của hạt xuất hiện ở mẫu thức, dự đoán rằng một miếng vật chất càng nặng
và/hoặc tốc độ của nó càng lớn, thì bước sóng lượng tử càng nhỏ. Điều này
có nghĩa là các vật thể vĩ mô, ví dụ như quả billard, có bước sóng de Broglie
nhỏ đến mức không đáng chú ý. Nhưng ở cấp nguyên tử thì bản chất sóng
của vật chất là trọng tâm.
De Broglie hình dung các sóng tương ứng với các hạt chuyển động tự
do. Thế nhưng, khi nhìn dưới dạng sóng dừng, chúng đem lại nhận thức mới
cho cách các quỹ đạo electron của Bohr bị lượng tử hóa. Nếu người ta hình
dung việc bẻ cong một sóng elecron thành một vòng tròn vây xung quanh hạt
nhân, thì chỉ có những cách nhất định để làm như vậy sao cho hai đầu của nó
nối liền mượt mà với nhau. Điều kiện toán học là chu vi quỹ đạo phải chứa
đúng số nguyên lần bước sóng. Nếu bước sóng hoặc chu vi chỉ lệch một chút
khỏi điều kiện này, thì sóng electron sẽ không nối mượt và sẽ nhanh chóng
mất đồng bộ và triệt tiêu. Đây là lí do vì sao các electron không thể nằm trong
các khe trống giữa các thanh nganh trong thang năng lượng lượng tử.
Vào năm 1926, nhà vật lí Đức Werner Heisenberg đã xác định lí thuyết
hoàn chỉnh đầu tiên về cơ học lượng tử (gọi là cơ học ma trận, liên quan đến
những đối tượng toán học gọi là ma trận). Trong lí thuyết này, ông tập trung
vào ý nghĩa của việc tiến hành một phép đo trên một hệ lượng tử và kết luận
rằng kiến thức mà chúng ta có thể thu được về nó vốn bị hạn chế bởi tự nhiên,
với độ chính xác chẳng liên quan gì với các sai sót hay hạn chế trong trang
thiết bị đo. Một thực thể lượng tử không tự nó biết nó ở đâu và nó đang
chuyển động nhanh bao nhiêu hay nó đang chuyển động theo hướng nào –
thế giới lượng tử vốn dĩ là bất định. Heinsenberg đi tới ý tưởng chủ chốt,
nguyên lí bất định, thừa nhận rằng chúng ta có thể biết hoặc là một vật lượng
tử đang ở đâu hoặc nó đang chuyển động đi đâu, nhưng chúng ta không thể
biết đồng thời cả hai. Nguyên lí bất định là nền tảng cho toàn bộ cơ học lượng
tử và nó cho chúng ta biết rằng các thực thể lượng tử không phải thuần túy
là hạt hay thuần túy là sóng.
Nguyên lí bất định liên hệ độ chuẩn xác hay sai số (kí hiệu bằng D) về
vị trí của một hạt (Dx) với sai số về động lượng của nó (Dp), sao cho tích của
hai sai số lớn hơn hoặc bằng hằng số Planck/4p:
Dx.Dp ³ h/4p
Công thức này vận hành như thế nào? Giả sử chúng ta muốn đo vị trí và tốc
độ của một electron. Ta có thể chiếu một ánh sáng lên electron đó và tìm xem
Nguyên lí bất định rất quyền năng. Trong số nhiều hệ quả quan trọng
của nó là tính chất nói rằng khi một hạt lượng tử bị định xứ chặt trong không
gian thì nó chịu những thăng giáng lớn về động lượng và, do đó, động năng,
gọi là năng lượng điểm zero. Các thực thể lượng tử liên tục thăng giáng trong
trạng thái năng lượng thấp nhất của chúng. Nguyên lí bất định cấm vật chất
đạt tới độ không tuyệt đối do bởi, nếu đạt tới, thì các hạt sẽ có vị trí chính xác
trong không gian, và điều đó bị cấm.
Khái niệm về năng lượng định xứ hóa lượng tử còn giúp chúng ta hiểu
được sự bền vững của nguyên tử. Hãy hình dung việc xây dựng một nguyên
tử hydrogen bằng cách mang một electron và một proton từ vô cực lại với
nhau. Điểm xuất phát là hai hạt cách nhau rất xa, và điểm cuối là chuyển động
ràng buộc lượng tử của một electron trong trường lực tĩnh điện của hạt nhân
proton của nó. Khi electron tiến đến gần proton, động năng mà nó thu từ
trường tĩnh điện khiến nó loạng choạng, chao đảo dữ dội xung quanh proton
dưới dạng một quả cầu dao động nhòe nhoẹt. Thoạt đầu, quả cầu ấy lớn,
nhưng khi electron bức xạ dần năng lượng của nó thì quả cầu ấy co lại, và nó
càng lúc càng gần vùng phụ cận của proton, chiếm giữ một thể tích chặt chẽ
được xác định bởi cỡ Dx. Vì Dx nhỏ dần, nên độ phân tán động lượng Dp của
nó phải tăng tương ứng theo nguyên lí bất định. Thành ra động năng của
electron tăng, đối ngược với sự co lại. Cuối cùng, các tác dụng cạnh tranh của
lực hút tĩnh điện và năng lượng định xứ hóa lượng tử cân bằng nhau khi
electron rơi vào trạng thái cơ bản năng lượng tối thiểu của nó. Sự thỏa hiệp
Các nghiệm cho phương trình Schrödinger được gọi là các hàm sóng,
và chúng mô tả các sóng được kí hiệu bằng chữ Ψ. Điều này lập tức làm phát
sinh câu hỏi nên hiểu hàm sóng như thế nào cho đúng. Mọi sóng đều có các
giá trị dương và âm (ví dụ, sóng biển có trồi lên trên hoặc hụp xuống bên
dưới mặt nước biển). Vậy thì, nếu một hạt lượng tử được biểu diễn bằng một
hàm sóng, thì người ta nên giải thích như thế nào về các giá trị âm? Max Born
quả quyết rằng bình phương của hàm sóng Ψ2 (không bao giờ âm) biểu diễn
xác suất (và không phải sai số) tìm thấy hạt trong một vùng không gian nhất
định.
Một đặc điểm căn bản thứ hai của phương trình Schrödinger là nó
tuyến tính. Trong một phương trình tuyến tính, tổng của hai hoặc nhiều
nghiệm tự nó là một nghiệm. Điều này có nghĩa là tổng của các hàm sóng cũng
là một hàm sóng biểu diễn một trạng thái hỗn hợp cho phép một hệ lượng tử
ở nhiều hơn một trạng thái cùng lúc. Mỗi trạng thái lượng tử có thể diễn tiến
độc lập, như thể chẳng có trạng thái khác nào ở đó. Đặc điểm này làm phát
sinh một đặc điểm kì lạ và độc đáo của thế giới lượng tử, sự chồng chất lượng
Sự chồng chất lượng tử có thể giúp chúng ta hiểu được hành trạng kì
lạ của cách electron nguyên tử có thể nhảy giữa các thanh ngang trên thang
lượng tử, dường như biến mất khỏi một mức (trạng thái A) và xuất hiện ở
mức kia (trạng thái B), mà không đi qua bất kì trạng thái trung gian nào. Khi
nguyên tử thực hiện một bước nhảy lượng tử từ trạng thái A sang trạng thái
B, electron tương tác trong khoảnh khắc với một photon. Trong thời gian đó,
hàm sóng của các trạng thái ban đầu và cuối cùng chồng chất, và người ta nói
electron ở trong một sự chồng chất trạng thái. Sự chồng chất là một hỗn hợp
của hai trạng thái: electron ở trạng thái A, và electron ở trạng thái B. Khi
chuyển tiếp nguyên tử đó diễn ra, hàm sóng cho trạng thái A trở nên yếu đi,
còn hàm sóng của B trở nên mạnh hơn cho đến cuối cùng thì chỉ còn riêng
trạng thái B. Một tương tự thô cho tình huống này là ‘tiếng rít’ ngắn ngủi được
tạo ra bởi một nhạc cụ khí, khi nó đảo giữa hai mode dao động.
Có một thí nghiệm chủ chốt tiến thẳng vào tâm của nguyên lí chồng
chất: thí nghiệm hai khe của Young, được thực hiện với các hạt thay vì ánh
sáng. Thí nghiệm này là một ưa thích của Richard Feynman, ông nói: ‘trên
thực tế nó chứa đựng bí ẩn duy nhất… của toàn bộ cơ học lượng tử’. Hãy nhìn
lại thí nghiệm ở Hình 15, sử dụng một chùm electron chiếu vào một màn kim
loại có hai khe hẹp song song. Ở phía xa bên kia là một màn thủy tinh. Nếu
electron đi qua hai khe, chúng sẽ đập vào màn thủy tinh, và hiện thân dưới
dạng những lóe sáng bé xíu. Nếu che đi một trong hai khe, thì hình ảnh lóe
sáng trên màn thủy tinh được tìm thấy là đều, với các electron đi qua khe mở
và đập trúng điểm mục tiêu trên màn phía sau như thể chúng là những viên
đạn tí hon. Nếu bây giờ mở khe bị che ra, thì electron có thể đi qua cả hai khe
và hình ảnh các lóe sáng trên màn thủy tinh thay đổi rất nhiều. Hình ảnh đồng
đều bây giờ chuyển thành một hình ảnh dạng sóng, với các dải giao thoa tăng
cường và triệt tiêu. Điều quan trọng là các electron bây giờ bị cấm đi tới
những vùng nhất định trên màn, chúng vốn dĩ dễ dàng đập trúng những nơi
Thí nghiệm này có thể được xem xét ở một tầng sâu hơn. Tốc độ bắn
của súng electron bây giờ được chỉnh xuống sao cho chỉ có một electron bay
qua thiết bị tại mỗi thời điểm. Với cả hai khe đều mở, vị trí electron đập lên
màn thủy tinh được ghi lại và, theo thời gian, dần dần tạo nên một hệ vân
dạng sóng, giống hệt như một trong các thí nghiệm trước đây, khi hai khe
đều mở. Nhưng làm thế nào như vậy được khi mà chỉ có một electron trong
thiết bị? Phải chăng electron nhòa ra và bằng cách nào đó qua cả hai khe đồng
thời để giao thoa với chính nó? Nếu chúng ta cố nhận ra electron đi qua khe
nào, nói ví dụ bằng cách làm tán xạ một photon lên nó, tác dụng đo gây nhiễu
trạng thái của electron và hình ảnh trên màn thủy tinh lập tức chuyển về hình
ảnh đều.
Hãy tóm tắt hành trạng kì lạ này. Nếu chẳng có ai đang quan sát
electron, thì rõ ràng nó có thể đi qua cả hai khe cùng lúc. Trong trường hợp
đó, hàm sóng electron ở trong sự chồng chất của các trạng thái: cụ thể là,
electron đi qua khe thứ nhất, và cũng electron đó đi qua khe thứ hai. Còn nếu
electron được quan sát, thì hàm sóng của nó được nói là suy sụp thành một
trạng thái tương ứng với việc nó chỉ qua một khe. Như vậy, việc nhìn và
không nhìn vào electron gây ra hai thí nghiệm khác nhau, mỗi thí nghiệm
đem lại một kết quả khác nhau.
Khái niệm về sự suy sụp của hàm sóng là trọng tâm đối với ‘cách hiểu
Copenhagen’ của cơ học lượng tử, một tập hợp ý tưởng do Niels Bohr dẫn dắt
vào năm 1927. Tên gọi phát sinh từ nơi có viện nghiên cứu của Bohr. Bohr
công nhận rằng hiểu biết của chúng ta về thế giới lượng tử chỉ đến từ các
phép đo do chúng ta thực hiện ở cấp vĩ mô, sử dụng trang thiết bị thí nghiệm
tiêu biểu. Do một hệ lượng tử bị nhiễu khi các phép đo được tiến hành trên
nó, nên sẽ vô nghĩa nếu hỏi hạt lượng tử đang làm gì khi không có ai quan sát
Thế nhưng ngay cả Schrödinger cũng chẳng hài lòng với lí thuyết của
ông hay cách hiểu Copenhagen. Để minh họa cho những điều vô lí nảy sinh,
ông ngụy tạo một thí nghiệm giả tưởng gọi là con mèo của Schrödinger. Ông
hình dung việc đặt một con mèo vào trong một cái hộp kín, cùng với một
nguyên tử phóng xạ và một dụng cụ giải phóng một chất khí độc chết chóc
ngay thời khắc nguyên tử phân rã, một tác dụng sẽ giết chết con mèo. Sau
một thời gian nhất định, xác suất để nguyên tử đó đã phân rã là 50 phần trăm,
và nguyên tử đó ở trong sự chồng chất của hai trạng thái: chưa phân rã và đã
phân rã. Nếu nguyên tử đã phân rã, thì chất độc đã được giải phóng và con
mèo đã chết. Ngược lại thì nguyên tử vẫn nguyên vẹn, và con mèo còn sống.
Vì cái hộp đóng kín, nên ta chẳng có cách nào biết được con mèo còn sống
hay đã chết, và thí nghiệm mời chúng ta xem xét sự chồng chất của hai trạng
thái của nguyên tử đã ‘rò rỉ’ và ảnh hưởng đến cái đựng bên trong hộp, kể cả
con mèo, nó cũng phải ở trong sự chồng chất của sống và chết. Nếu cách hiểu
Copenhagen là đúng, thì mọi thứ vẫn u minh cho đến khi một nhà quan sát
nhìn vào bên trong cái hộp. Vào lúc này sự chồng chất suy sụp và con mèo
trở nên hoặc chết hoặc còn sống. Sự vô lí nằm ở thực tế chúng ta biết con mèo
trên thực tế hoặc là chết hoặc là sống, chứ không bao giờ cả hai cả.
Trạng thái kì lạ này đã khuyến khích một vài cách lí giải khác của cơ
học lượng tử. Một trong số này được nêu ra vào những năm 1950 bởi Hugh
Everett và được gọi là ‘cách hiểu đa thế giới’. Theo cách hiểu này, không có
Điều đó đề xuất rằng cơ học lượng tử chưa phải là lí thuyết cuối cùng,
mà chỉ là một gần đúng rất tốt cho thực tại vật chất ở những cấp độ rất nhỏ
và với các định luật rất khác nhau mô tả các vật thể vĩ mô. Thế giới vi mô và
vĩ mô dường như biệt lập với nhau. Thế nhưng cũng quả thật là các vật thể vĩ
mô được làm từ số lượng lớn các thực thể lượng tử, và điều hợp lí là hỏi xem
đường ranh giới nằm ở đâu? Mới đây, thí nghiệm hai khe đã được thực hiện
với các phân tử khá lớn, các quả bóng bucky, thay cho electron. Các chùm
phân tử C60 này (mỗi phân tử nặng gấp một triệu lần một electron) biểu hiện
các hiệu ứng chồng chất lượng tử và giao thoa.
Một phương diện của thế giới lượng tử đặc biệt ma quái. Các thực thể
lượng tử có thể đi xuyên qua những rào cản tưởng chẳng thể xuyên thủng
như thể chúng là những bóng ma, một hiện tượng gọi là sự chui hầm lượng
tử. Ảnh chụp STM ở Hình 4 được tạo ra bởi sự chui hầm lượng tử của các
electron giữa một kim dò nhọn và các nguyên tử carbon nằm bên dưới đầu
dò. Theo cổ điển, các electron không có đủ năng lượng để trèo qua hàng rào
năng lượng tại đỉnh nhọn của đầu dò. Tuy nhiên, có một hình thức khác của
nguyên lí bất định (DE. Dt ³ h/4p) kết nối sai số của một cặp biến bổ sung
khác, năng lượng (DE) và thời gian (Dt). Điều này cho phép một hạt lượng tử
vay mượn năng lượng DE mà nó cần để vượt qua một hàng rào năng lượng,
Sự chui hầm lượng tử xảy ra khi các hạt alpha được giải phóng bởi các
hạt nhân phóng xạ, và giữa các proton trong lõi nóng của các sao. Khi hai
proton tiến đến gần nhau, chúng chịu một lực đẩy tĩnh điện lớn, cố đẩy chúng
ra xa. Tuy nhiên, bản chất dạng sóng của chúng cho phép chúng mở rộng và
chui hầm qua khe trống, mang chúng đến đủ gần cho lực hạt nhân mạnh hợp
nhất chúng với nhau và giải phóng năng lượng nhiệt hạch. Không có sự chui
hầm lượng tử, các sao sẽ không tỏa sáng, và chúng ta sẽ không tồn tại.
Trong thí nghiệm hai khe, chẳng hạn, nếu chúng ta cố khám phá xem
electron đi qua khe nào, thì việc quan sát làm cho sóng vật chất lượng tử của
nó không còn đồng bộ với chính nó (mất kết hợp) và vì thế hình ảnh giao
thoa dạng sóng trên màn thủy tinh bị phá hủy. Tác dụng quan sát tương
đương với việc đánh dấu một thực thể lượng tử, điều tự nhiên ngăn cấm. Quỹ
đạo của những hạt lượng tử y hệt nhau là không thể quan sát được. Không
Các hạt không thể phân biệt và y hệt nhau liên quan với cách vật chất
và lực được phân biệt ở cấp cơ bản. Ở cấp con người, chúng ta thường cảm
nhận vật chất và lực là những thứ khác nhau. Vật chất rõ là thứ gì đó sờ mó
được, còn lực là phương thức của tự nhiên để khối vật chất này đẩy hoặc lấy
hút khối vật chất khác ở lân cận. Tuy nhiên, trong thế giới vi mô, bản thân các
lực được mang bởi các hạt. Tất cả các hạt của thế giới vi mô thuộc về một
trong hai họ lớn: fermion và boson. Các hạt vật chất là fermion và các hạt
mang lực là boson, chúng trung chuyển lực. Hai loại hạt cơ bản có tên gọi của
chúng từ các quy luật thống kê mà chúng tuân theo khi số lượng lớn những
hạt giống nhau kết hợp cùng nhau. Fermion, mang tên nhà vật lí Italy Enrico
Fermi, tuân theo thống kê Fermi-Dirac còn boson, mang tên nhà vật lí Ấn Độ
Satyendra Nath Bose, tuân theo thống kê Bose-Einstein.
Sự đối xứng giữ một vai trò trọng yếu trong việc phân biệt fermion với
boson. Trong một hệ gồm những hạt y hệt nhau, xác suất Ψ2 không thể thay
đổi nếu hoán đổi hai hạt bất kì trong số chúng. Khi hoán đổi một cặp hạt, điều
này dẫn tới hai khả năng: hoặc là dấu của hàm sóng thay đổi (Ψ → − Ψ), trong
trường hợp đó các hạt là fermion và có hàm sóng phản đối xứng, hoặc là dấu
không đổi (Ψ → Ψ), và các hạt là boson với hàm sóng đối xứng.
Fermion và boson có các tính chất rất khác nhau. Khi các fermion cụm
lại với nhau, chúng tránh chia sẻ trạng thái lượng tử của nhau và thay vậy
chúng ưa phân tán trên thang mức năng lượng lượng tử, chiếm đầy các trạng
thái sẵn có từ trạng thái cơ bản trở lên (Hình 17). Nếu có thêm một fermion
gia nhập đám đông, nó phải chiếm giữ một thanh cao hơn của thang năng
lượng và mảnh vật chất kết hợp chiếm giữ thể tích lớn hơn. Sự bất khả của
các fermion trong việc chia sẻ cùng một trạng thái lượng tử cản trở các
electron trong một nguyên tử tiến đến quá gần trạng thái của láng giềng của
chúng, và gây ra nhiều tính chất của vật chất, ví dụ như sự kiên cố của nó. Mặt
khác, các boson chẳng quan tâm các trạng thái bị chiếm giữ bởi boson khác,
Hình 17. Tất cả các hạt trong vũ trụ hoặc là fermion hoặc là boson. Các hạt vật chất là
fermion và các hạt mang lực là boson. Các hạt lượng tử y hệt nhau cụm lại với nhau trên
thang mức năng lượng theo loại của chúng; các fermion tụ tập với mỗi hạt ở một trạng thái,
còn các boson ưa suy sụp vào trạng thái cơ bản năng lượng thấp nhất.
Cái xác định một hạt là boson hay fermion liên quan đến một trong
những tính chất lượng tử bí ẩn và khó hiểu nhất: spin. Các hạt lượng tử có thể
có một moment động lượng nội tại như thể chúng đang quay tròn xung
quanh một trục. Không có thứ tương đương chính xác nào cho spin lượng tử
trong vật lí cổ điển. Thứ tương đương cổ điển gần gũi nhất cho spin là chuyển
động tự quay, chẳng hạn chuyển động tự quay của Trái Đất quanh trục của
nó. Nhưng đây là một cái bẫy. Trái Đất quay tròn một góc 360o quanh trục
của nó trong hai mươi bốn giờ và vào hai ngày liên tiếp Mặt Trời mọc lên hầu
như cùng lúc. Thế còn một hạt lượng tử, nó phải quay một góc bao nhiêu để
Mỗi fermion là một hạt có spin lẻ bán nguyên (như 1/2, 3/2,…), còn
mỗi boson có spin nguyên (0, 1, 2,…). Spin của một số boson và fermion được
cho trên Bảng 1. Số lượng fermion trong vật chất bình thường được bảo toàn
(ngoại trừ khi bị phân hủy bởi các hạt phản vật chất, chúng ta sẽ bàn tới ở
Chương 6). Còn các boson không có giới hạn như thế; chúng được tạo ra và
phân hủy với số lượng vô số bởi một tác dụng đơn giản như bật và tắt ánh
sáng.
Nói boson trung chuyển lực giữa các hạt vật chất có nghĩa là gì? Hãy
hình dung hai người trượt băng, trên mặt băng không ma sát. Khi họ trượt
về phía nhau, một người ném một quả bóng nặng cho người kia chụp. Họ đều
chuyển động theo chiều mới, động lượng và năng lượng được bảo toàn trong
trao đổi vừa rồi. Một nhà quan sát ở xa cũng quan sát hai người trượt băng
nhưng vì ở quá xa nên không nhìn thấy quả bóng mà chỉ thấy sự thay đổi
Các boson trung chuyển lực giữa các hạt vật chất bằng cách thoắt ẩn
thoắt hiện dưới dạng các hạt ảo; đây là những ‘quả bóng nặng’ của thế giới vi
mô. Chúng ta sẽ thấy vai trò trung tâm của chúng đối với vật chất ở Chương
7. Một photon ảo vận hành như thế nào? Trong khoảnh khắc tồn tại ngắn
ngủi của nó, một photon ảo vay mượn năng lượng của nó từ chân không, như
được phép bởi nguyên lí bất định Heisenberg. Sự tồn tại phù du của các hạt
ảo có nghĩa là ngay cả một hệ năng lượng zero cũng tự phát tạo ra các hạt
giàu năng lượng. Khi hai electron đẩy lẫn nhau, lực điện từ giữa chúng được
mang bởi một photon ảo, một boson vector spin-1. Hạt được gọi là boson
vector do nó là lượng tử của một trường vector, và có ba chiều không gian
khả dĩ trong đó trục spin của hạt có thể định hướng. Cơ học lượng tử cấm
một hạt ảo được quan sát. Hoặc là lượng tử ảo phải được hấp thụ toàn bộ
bằng cách nhận lấy hạt hoặc là không.
Hình 18. Các phân bố mật độ electron hình cầu và hình quả tạ cho trạng thái cơ bản của
hydrogen (trái) và một số trạng thái kích thích. Mật độ biểu diễn kiểu sóng, và lượng thời
gian electron cư trú ở một điểm cho trước ở gần hạt nhân ở giữa.
Các electron lấp đầy các mức nguyên tử từ trạng thái cơ bản trở lên.
Vào năm 1925, Wolfgang Pauli đã khám phá nguyên lí chi phối cách electron
lấp đầy các trạng thái. Nếu tráo đổi hai electron ở cùng một trạng thái, thì Ψ
không thể thay đổi. Vì electron là fermion, nên điều này ngụ ý rằng Ψ = 0, nói
cách khác có xác suất zero để hai electron chiếm giữ cùng một trạng thái. Đây
là nguyên lí loại trừ Pauli, nguyên lí giữ vai trò then chốt trong cấu trúc
nguyên tử và gây ra cấu trúc giống lớp vỏ của các nguyên tố thuộc bảng tuần
hoàn, tạo nên các nhóm với 2, 8, 8, 18,… thành viên.
Khi hình thành nên các nguyên tử vượt quá hydrogen, các phân bố
đám mây electron tương tự như các minh họa ở Hình 18 nhưng, do có điện
tích hạt nhân lớn hơn, nên các đám mây electron bị hút vào chặt hơn. Nguyên
tố tiếp theo trên bảng tuần hoàn là helium, với hai proton trong hạt nhân.
Nguyên lí Pauli cho phép electron ghép cặp spin, với một spin ‘up’ và một
spin ‘down’, tiến vào trạng thái cơ bản để hình thành lớp vỏ bền đầu tiên
Một đặc điểm nổi bật của bảng tuần hoàn là tính tuần hoàn ‘quãng tám’
của nó. Tính chất này phát sinh từ việc có bốn hình dạng cơ bản của các
orbital nguyên tử: một hàm sóng hình cầu và ba quả tạ, mỗi quả tạ cho một
chiều không gian. Mỗi orbital này có thể nhận một cặp electron spin đối song,
tạo ra tám trạng thái trong một lớp vỏ hoàn chỉnh. Vì thế, khi di chuyển theo
hàng ngang sang cột tiếp theo của bảng tuần hoàn, từ lithium sang neon, tám
electron được thêm từng electron một để cân bằng với điện tích hạt nhân.
Neon có lớp vỏ đầy gồm tám electron, khiến nó là một khí hiếm trơ về mặt
hóa học, giống như helium. Vượt quá neon là nguyên tố sodium hoạt tính;
electron hóa trị thêm vào phải bắt đầu một lớp vỏ mới, và vì thế quá trình lặp
lại.
Trong chương này, chúng ta đã nhìn vào những khám phá nổi bật hồi
đầu thế kỉ 20 làm bộc lộ cấu trúc bên trong của nguyên tử, và nền vật lí mới
mang tính cách mạng phát triển song hành với chúng: cơ học lượng tử. Hạt
nhân nguyên tử rất nhỏ, khiến nguyên tử chủ yếu là không gian trống rỗng,
cư trú trong đó là trường điện từ hút lấy các electron trong các lớp vỏ lượng
tử của chúng. Hạt nhân chứa hai loại hạt, proton và neutron, chúng được liên
kết với nhau bằng lực hạt nhân mạnh tầm ngắn. Trường điện từ trơn mượt
Mặc dù các tính chất lượng tử của vật chất chủ yếu ràng buộc với các
cấp vi mô, nhưng thỉnh thoảng chúng có thể tự biểu hiện trên vĩ mô. Ở
Chương 6 chúng ta sẽ tìm hiểu cách các đám gồm rất nhiều hạt có thể biểu
hiện những hiệu ứng lượng tử vĩ mô.
Toàn bộ vật chất là vật chất lượng tử. Các định luật cơ lượng tử là nền
tảng cho hành trạng của các phân tử, nguyên tử, và các hạt hạ nguyên tử.
Dưới các điều kiện thông thường, bước sóng lượng tử của vật chất quá nhỏ,
không đáng chú ý tới ở cấp vĩ mô. Nhưng, dưới những tình huống đặc biệt,
những mẩu lớn vật chất chứa 1023 hạt tiêu biểu có thể biểu hiện hành trạng
lượng tử vĩ mô. Đây là nội dung chính của chương này.
Khi các hạt ngưng tụ thành một mẩu vật chất vĩ mô, hai điều kiện phải
được thỏa mãn để nó biểu hiện các hiệu ứng lượng tử vĩ mô. Thứ nhất, mỗi
thực thể cấu thành nên kết tập đó phải mất ‘nhân dạng’ của chúng, sao cho
các tương tác lượng tử của chúng có thể mở rộng trên khoảng cách lớn, cho
phép các hạt tương tác với các hạt khác. Thứ hai, các hạt đó phải tự do hoán
đổi, sao cho hệ có thể ‘nhận ra’ nó chứa những hạt y hệt nhau và tuân theo
thống kê thích hợp: Bose-Einstein hoặc Fermi-Dirac. Điều kiện thứ hai có
nghĩa là các hạt phải có thể chuyển động dễ dàng, như trong một chất lưu
vậy, và hệ mà chúng ta đang nói tới được gọi là chất lưu lượng tử.
Có những khác biệt quan trọng giữa các hệ làm bằng boson hoặc bằng
fermion. Ở nhiệt độ cao, khác biệt đó là nhỏ, vì các hạt giàu năng lượng đến
mức xác suất để hai hạt ở chung một trạng thái lượng tử là rất nhỏ. Nhưng ở
độ không tuyệt đối, các fermion phải chiếm giữ những trạng thái khác nhau,
tuân theo nguyên lí loại trừ, trong khi các boson có thể rơi hết vào trạng thái
năng lượng thấp nhất. Các fermion lấp đầy thang trạng thái lượng tử sẵn có
Sự thiết lập hành trạng lượng tử ở một chất khí được minh họa ở Hình
19. Ở nhiệt độ cao, các hạt chuyển động cổ điển theo đường thẳng, và chỉ đổi
chiều chuyển động của chúng khi bị va đập nhanh kiểu bóng billard. Khi nhiệt
độ giảm, động lượng của các hạt giảm và bước sóng de Broglie của chúng
tăng. Ở một nhiệt độ đặc trưng nhất định, bước sóng của mỗi hạt trở nên so
sánh được với khoảng cách trung bình của chúng, và chúng có thể tương tác
với các hạt khác theo một kiểu giống sóng. Điều này liên quan đến các thực
thể có khả năng nhiễu xạ qua các khe trống, và giao thoa tăng cường và triệt
tiêu với nhau. Nhiệt độ đặc trưng để thiết lập hành trạng lượng tử phụ thuộc
vào nghịch đảo các khối lượng hạt đang xét, và đối với electron nó lớn hơn
nhiều so với đối với các nguyên tử helium ở cùng mật độ. Nếu hạt là boson,
thì một tỉ lệ trong số chúng có thể ngưng tụ vào cùng một trạng thái cơ bản
năng lượng thấp và tạo ra cái gọi là một ngưng tụ Bose-Einstein (hay BEC).
Khi nhiệt độ tiến tới độ không tuyệt đối, về cơ bản toàn bộ các boson đổ thác
vào trạng thái này. Sự chuyển tiếp sang BEC đánh dấu một chuyển tiếp pha
lượng tử từ hành trạng cổ điển sang lượng tử, liên quan đến các sóng vật chất
kết hợp. Do đó, một chuyển tiếp pha lượng tử tương phản hẳn với các chuyển
tiếp cổ điển, như đã trình bày ở Chương 3, trong đó các pha rắn, lỏng, và khí
nảy sinh từ sự cạnh tranh của các lực nhiệt và lực liên nguyên tử. Các thí
nghiệm với hai BEC chồng lấn, mỗi BEC chứa số lượng lớn hạt, đã chứng minh
rằng chúng có thể giao thoa theo kiểu giống sóng.
Mặc dù các trạng thái mới lạ của vật chất mô tả trong chương này liên
quan đến các nguyên tử ở nhiệt độ rất thấp, nhưng có một ví dụ về chất lưu
lượng tử xảy ra dưới các điều kiện nhiệt độ cao hơn. Nó liên quan đến các
electron và nó giải thích vì sao một số vật liệu dẫn điện và một số vật liệu
khác thì không.
Các electron dẫn trong một kim loại tạo thành một chất lưu tập thể, đó
là một kiểu plasma. Các ion dương trong kim loại chìm trong chất lưu
electron đó, và toàn bộ khối chất được giữ lại bằng lực hút của các điện tích
dương và âm. Đây là liên kết kim loại, nó chi phối nhiều tính chất của kim loại,
không chỉ riêng độ dẫn điện cao của chúng. Tính lưu chất của ‘hồ dán’
electron trong kim loại cho phép các ion tập hợp thành những cấu trúc tinh
thể xếp chặt. Đồng thời, tính ánh kim hay sáng bóng của kim loại là do các
sóng điện từ không thể xuyên qua một vùng điện tích linh động. Điều này giải
thích tại sao ánh sáng bị phản xạ khỏi bề mặt kim loại.
Một miếng đồng và một viên kim cương, mỗi vật đều được tạo ra bởi
sự kết tập của số lượng lớn nguyên tử đồng hoặc carbon, nhưng độ dẫn điện
Hình 20. Cách tạo ra các trạng thái electron trong một chất rắn. Trái: hai mức năng lượng
cho một nguyên tử được phân chia rõ nét; ở giữa: đối với hai nguyên tử đang tương tác,
các mức năng lượng tách làm đôi; phải: với nhiều nguyên tử, các mức năng lượng tiếp tục
phân tách và tạo thành dải năng lượng.
Hình 21. Cách các trạng thái được điền đầy electron. Các dải năng lượng được biểu diễn
bằng các hộp. Trái: dải lấp đầy một phần của kim loại; phải: dải lấp đầy hoàn toàn của chất
cách điện.
Mặc dù các electron dẫn trôi giạt tự do trong khối kim loại, nhưng vẫn
có sự tiêu hao năng lượng đi cùng với sự dẫn điện. Các electron tán xạ do các
dị mạng ví dụ như các ion tạp chất, các kiểu khuyết tật mạng tinh thể, và các
dao động nhiệt. Khi chúng tán xạ, các electron tiêu hao động năng của chúng
dưới dạng nhiệt. Sự tán xạ là một hình thức ma sát gây ra điện trở, đó là lí do
vì sao dây lò sưởi giúp bạn ấm áp, và vì sao các chip vi xử lí của máy vi tính
phải được làm nguội.
Đối với helium-4, nhiệt độ đặc trưng cho sự thiết lập hành trạng lượng
tử là 3 K, còn đối với đồng vị helium-3 nhẹ hơn thì vào khoảng 5 K. Quy tắc
spin lượng tử cho một hạt phức, ví dụ một nguyên tử, là nếu nó chứa một số
chẵn fermion thì nó là boson, ngược lại thì nó là fermion. Proton, neutron, và
electron cấu tạo nên nguyên tử đều là fermion spin ½, và các spin đó luôn
thẳng hàng song song hoặc đối song với nhau. Như vậy một hệ với số lẻ
fermion phải tự nó có spin bán nguyên. Một nguyên tử helium-4 gồm sáu
fermion và do đó là một boson, còn một nguyên tử helium-3 với năm fermion
của nó là một fermion.
Nghiên cứu về vật chất ở những nhiệt độ gần độ không tuyệt đối đã
bắt đầu từ năm 1908 khi nhà vật lí Hà Lan Kamerlingh Onnes thành công
trong việc hóa lỏng helium ở nhiệt độ 4 K. Bằng cách bơm helium lỏng để hạ
áp suất, người ta đạt được những nhiệt độ còn thấp hơn nữa, khiến nó thành
vật chất lạnh lẽo nhất trong vũ trụ, với nhiệt độ còn thấp hơn nhiệt độ 2,7 K
của bức xạ nền vi sóng vũ trụ.
Các chất lưu bình thường có tính nhớt. Độ nhớt là sự ma sát nội hay
‘mức nhớp nháp’ giữa các phân tử trong một chất lưu có xu hướng cản trở
dòng chảy đều. Cần có năng lượng để thắng độ nhớt; hãy nghĩ tới việc bơi
trong hồ. Vào năm 1937, nhà vật lí Nga Pyotr Kapitsa phát hiện thấy khi làm
lạnh helium-4 dưới nhiệt độ khoảng 2 K, chất lỏng này tự phát thực hiện một
biến đổi pha sang một pha siêu chảy mới lạ, trong đó độ nhớt giảm xuống dốc
đứng với hệ số lớn hơn đến 1011 lần. Helium-4 siêu chảy có nhiều tính chất
cơ lượng tử kịch tính, ví dụ như khả năng chảy qua các ống mao dẫn rất hẹp
mà không hề có ma sát, và tạo thành một màng mỏng (gọi là màng Rollin), nó
có thể trườn lên thành bên của bình chứa và trèo ra ngoài (Hình 22). Khi
được làm nóng, chất siêu chảy tạo ra một dòng suối phun đẹp mắt (Hình 23).
Dưới nhiệt độ đặc trưng lượng tử ấy, toàn bộ các nguyên tử boson tính của
helium-4 có xu hướng ngưng tụ vào trạng thái lượng tử năng lượng thấp
Hình 22. Helium siêu chảy trườn ra khỏi thành bình chứa và rơi giọt xuống dưới.
Hình 23. Hiệu ứng suối tuôn. Helium siêu chảy được làm nóng nhẹ tạo ra một dòng suối
phun.
Sau khi Onnes phát hiện cách hóa lỏng helium, ông đã sử dụng kĩ thuật
mới đó làm lạnh các kim loại xuống nhiệt độ rất thấp để nghiên cứu độ dẫn
điện của chúng. Vào năm 1911, ông sửng sờ phát hiện điện trở của thủy ngân
đột ngột giảm dốc đứng xuống zero dưới một nhiệt độ chuyển pha khoảng 4
K. Đây là khám phá về sự siêu dẫn. Dòng điện (hay siêu dòng) chạy trong một
chất siêu dẫn không bị tắt trên cấp thời gian nhiều năm. Các chất siêu dẫn
kim loại khác sớm được tìm thấy. Một tính chất đặc trưng của chất siêu dẫn
là nó hoàn toàn đẩy toàn bộ từ trường ra khỏi bên trong nó, ngoại trừ trong
một lớp bề mặt rất mỏng. Chất siêu dẫn đẩy như vậy bằng cách tạo ra các
dòng điện nội sản sinh từ trường triệt tiêu với từ trường ngoài đặt vào. Hiện
tượng này gọi là hiệu ứng Meissner, và nó có thể có những hệ quả đẹp mắt.
Nếu thả một thanh nam châm vào một cái bát siêu dẫn, thì công thực hiện
trong việc đẩy thông lượng từ có thể chống đỡ trọng lượng của nam châm,
nâng và giữ nó lơ lửng trong bát.
Cuối cùng sự siêu dẫn được hiểu là một hiệu ứng khá tinh vi. Vào năm
1957, John Bardeen, Leon Cooper, và Robert Schrieffer (được gọi chung là
BCS) suy luận rằng các electron ghép cặp (gọi là cặp Cooper) mang siêu dòng.
Ở trạng thái bình thường không siêu dẫn, hai electron đẩy lẫn nhau. Nhưng
ở các chất siêu dẫn nhiệt độ thấp, các cặp Cooper tương tự như các boson
Sự kết hợp yếu của các cặp Cooper khiến trạng thái siêu dẫn nhiệt độ
thấp thông thường là một trạng thái mong manh, có thể bị phá vỡ dễ dàng
bởi các thăng giáng nhiệt và các vật liệu như thế thường có nhiệt độ chuyển
pha dưới khoảng 20 K. Nhưng vào năm 1986, Georg Bednorz và Alex Mueller
đã thực hiện một khám phá bất ngờ về một họ chất siêu dẫn gốm sứ, với nhiệt
độ chuyển pha siêu dẫn cao hơn nhiều. Các chất siêu dẫn nhiệt độ cao này
hiện nay vẫn chưa được hiểu rõ và, cho đến hiện nay, chất siêu dẫn nhiệt độ
cao nhất được biết là một hợp chất tương đối phổ biến, hydrogen sulphide
(H2S), dưới áp suất rất cao nó là chất siêu dẫn ở 203 K (−70oC). Mục tiêu tối
hậu là tìm thấy một chất siêu dẫn nhiệt độ phòng. Một vật liệu như thế có thể,
chẳng hạn, mở ra khả năng truyền điện cực kì hiệu quả trên những khoảng
cách lớn.
Lớp tiếp xúc Josephson có các tính chất thú vị. Thứ nhất, vì các cặp
Cooper electron trong chất siêu dẫn mang điện, nên lớp tiếp xúc có thể được
kiểm soát bằng cách thiết lập trường điện từ bên ngoài. Nếu đặt một điện áp
vào lớp tiếp xúc, thì nó gây ra dao động (thông thường ở tần số vi sóng đối
với điện áp ngoài trong mức mili volt). Đây là do bởi pha của các hàm sóng
hai bên lớp tiếp xúc ‘đấu’ nhau na ná như hai dây piano lệch tông, gây ra một
dòng điện xoay chiều, dòng điện Josephson. Điều ngược lại cũng có thể. Nếu
lớp tiếp xúc chịu một trường vi sóng dao động, thì siêu dòng biểu hiện ‘các
bước’ lượng tử hóa xảy ra ở những điện áp nhất định. Các bước lượng tử hóa
này đem lại một cách rất chính xác để đo điện áp (đến độ chuẩn xác 1 phần
108), hoặc là đo một hằng số cơ bản của tự nhiên, e/h, với độ chính xác cao.
Mức độ lượng tử hóa chính xác đến mức có thể dùng các lớp tiếp xúc
Josephson trong đo lường học để định nghĩa volt.
Có những khả năng khác nữa. Hai lớp tiếp xúc Josephson có thể kết nối
song song, để tạo ra cái gọi là SQUID (hay Dụng cụ Giao thoa Lượng tử Siêu
dẫn). Trong mạch SQUID, khi áp đặt một từ trường, mối liên hệ pha giữa hai
lớp tiếp xúc bị thay đổi, và SQUID có thể được dùng làm một từ kế để đo các
từ trường rất nhỏ, ví dụ như từ trường sinh ra bởi các dòng điện tí hơn trong
não bộ. SQUID còn có thể dùng làm công tắc tốc độ cao hiện đang được phát
triển cho máy tính lượng tử.
Hiệu ứng Hall cổ điển đã được khám phá trước đó một thế kỉ bởi nhà
vật lí Hoa Kì Edwin Hall khi ông đang nghiên cứu dòng điện chạy trong một
bản kim loại mỏng. Ông phát hiện thấy khi áp đặt một từ trường vuông góc
với bản, giữa hai mặt bản xuất hiện một điện áp gọi là điện áp Hall. Khi một
hạt mang điện bất kì, ví dụ một electron, cố chuyển động theo đường thẳng
trong từ trường, từ trường có xu hướng bẻ cong nó thành một quỹ đạo tròn.
Trong thí nghiệm của Hall, sự có mặt của điện áp Hall có thể giải thích được
bằng tác dụng của từ trường làm bẻ cong các electron sang bên, hướng về
phía rìa của bản, nơi tích tụ điện tích. Điện áp Hall, và điện trở đi kèm với nó,
biến đổi mượt mà khi cảm ứng từ biến thiên.
Von Klitzing quan tâm đến cái tương đương lượng tử của hiệu ứng
Hall, và ông đã bố trí một thí nghiệm nghiên cứu dòng điện chạy trong một
lớp electron 2D rất mỏng, được làm lạnh xuống nhiệt độ rất thấp sao cho các
electron tạo nên một hệ lượng tử kết hợp. Lớp mỏng đó được đặt trong một
từ trường vuông góc rất mạnh, sao cho các electron có thể hoàn tất những
quỹ đạo tròn trọn vẹn, nằm trong mặt phẳng mẩu. Chuyển động tròn này làm
nhớ tới chuyển động electron trong mô hình Bohr của nguyên tử; và chúng
ta có thể nghĩ tới lớp electron 2D đó như là được phân chia thành một số
vùng được xác định bởi kích cỡ của những quỹ đạo khép kín này. Khi chuyển
động tròn này bị lượng tử hóa, một thang trạng thái năng lượng lượng tử rời
rạc hình thành, tạo ra một khe năng lượng chia tách dải bị chiếm giữ và dải
trống, y hệt như trong một chất cách điện bình thường.
Khi von Klitzing cho cảm ứng từ biến thiên, ông phát hiện một hiệu
ứng kịch tính: điện trở Hall không biến đổi trơn mượt, mà nhảy gián đoạn
giữa các bước trên một ‘cầu thang’ rộng, cho thấy sự lượng tử hóa ở cấp vĩ
mô (Hình 24). Đây là cách Hiệu ứng Hall Lượng tử được khám phá. Một bất
Hình 24. Hiệu ứng Hall Lượng tử nguyên: đồ thị biểu diễn điện trở Hall đo được theo cảm
ứng từ đặt vào. Các số nguyên n chỉ các tô pô khác nhau của hàm sóng electron.
Hành trạng chưa có tiền lệ này không thể hiểu được trên cơ lí thuyết
chuẩn của sự dẫn electron. Trong khi toàn khối mẩu hành xử giống như một
chất cách điện khe chuẩn, thì có thứ gì đó không bình thường xảy ra tại rìa
khối chất. Ở đó, một electron không thể hoàn tất một quỹ đạo tròn mà không
va phải rìa ‘cứng’ phía ngoài, dội trở lại, và nhảy dọc theo rìa qua một loạt
bước nhảy. Các quỹ đạo không theo một hướng nào như vậy được gọi là ‘quỹ
đạo nhảy’ tạo nên một dòng điện biên. Một vật liệu QHE có tính chất khác lạ
và thú vị ở chỗ toàn khối chất của nó là một chất cách điện, còn bề mặt của
nó thì là chất dẫn điện.
Để hiểu được hệ thống Hall Lượng tử phải nhận ra rằng lớp electron
đó tự nó phải được xem là một hệ lượng tử vĩ mô. Các tính chất đặc biệt của
Hình 25. Một cốc cà phê là tương đương tô pô với một cái bánh vòng, vì chúng đều có một
lỗ thủng; nhưng chúng đều thuộc một họ tô pô khác với cái bánh quy xoắn, vì bánh quy
xoắn có ba lỗ thủng.
Trong hệ Hall Lượng tử, mỗi đoạn bằng phẳng trong độ dẫn Hall đo
được (Hình 24) biểu diễn cho một họ tô pô, mỗi họ được gắn nhãn bằng một
con số nguyên, n. Ở một cấp rất thô, có thể xem các họ khác nhau là những
cách khác nhau ‘thắt nút’ hàm sóng electron. Tô pô bổ sung thêm một
phương pháp mới để phân loại vật chất. Ví dụ, ta có thể nghĩ tới việc làm biến
dạng một loại chất cách điện rắn thành một loại khác, bằng những tác dụng
khác nhau. Các tác dụng này có thể bao gồm các biến dạng vật lí như kéo dãn,
nén ép, hoặc bẻ cong vật liệu. Các tác dụng này làm thay đổi các mức năng
lượng và dải năng lượng trong chất rắn. Tuy nhiên, biết rằng chất cách điện
đó vẫn luôn là chất cách điện trong một quá trình biến dạng nhất định (nói
cách khác, luôn luôn có mặt một dải năng lượng bị cấm), nên chất cách điện
sau cùng phải cùng họ tô pô với chất cách điện ban đầu. Thế nhưng nếu tại
một điểm nào đó dải năng lượng khép lại, làm cho vật liệu trở thành kim loại,
dù trong khoảnh khắc ngắn, thì chất cách điện ban đầu và sau cùng thuộc về
những họ tô pô khác nhau.
Kể từ khi khám phá Hiệu ứng Hall Lượng tử, hiểu biết của chúng ta về
cái ngày nay gọi là các chất cách điện tô pô đã có tiến bộ rất lớn. Di chuyển ra
khỏi hai chiều, tiến sang thế giới của những vật liệu thực tế, các chất cách
điện tô pô 3D ngày nay đã được khám phá. Hóa ra thì nhiều hợp chất hóa học
cách điện phổ biến, chẳng hạn các hợp chất chứa các nguyên tố như bismuth,
selenium, và tellurium, là chất cách điện tô pô, toàn bộ được đặc trưng bởi
các bề mặt dẫn điện và bên trong cách điện. Các vật liệu này biểu hiện những
tính chất nổi bật; nếu một chất cách điện tô pô bị cắt thành các mảnh, thì các
Kilogram
Theo Isaac Newton, một đặc tính then chốt của vật chất là khối lượng, và
kilogram là đơn vị cơ bản của khối lượng trong hệ SI. Nó cũng là đơn vị duy
nhất còn lại được định nghĩa bằng một vật thể cụ thể, một cục hợp kim
platinum-iridium đúc hồi năm 1879 và được bảo quản trong một tầng hầm
an toàn tại Cục Cân Đo Quốc tế (BIPM) ở Paris. [Quyển sách này được viết
trước khi BIPM thông qua định nghĩa mới của kilogram dựa trên hằng số
Planck – ND] Vật mẫu ấy được gọi một cách trìu mến là ‘Le Grand K’ (Hình
26). Cứ bốn năm một lần, nó được lấy ra để đối chiếu với các bản sao kilo
trên khắp thế giới.
Hình 26. Nguyên mẫu Kilogram Quốc tế được bảo quản bên trong ba
cái chai hình chuông, cất an toàn trong một tầng hầm ở ngoại ô Paris.
Định nghĩa mới và chính xác hơn của kilogram điện được xây dựng
trên các hiệu ứng Josephson và Hall Lượng tử, chúng đem lại độ chính xác
cao cho các phép đo điện áp và dòng điện cần thiết. Chuẩn tiếp xúc Josephson
sẽ được dùng làm chuẩn điện áp và một dụng cụ hiệu ứng Hall Lượng tử làm
chuẩn dòng điện/điện trở. Với kilogram chuẩn điện mới đã đề xuất, các
phòng thí nghiệm ở bất cứ đâu trên thế giới đều có thể định nghĩa kilogram
tại chỗ, không cần phải vận chuyển một vật thể cụ thể nào. Sai số chung của
trọng lượng kilogram điện là 1 phần 108.
Chương này đã khảo sát một số ví dụ về chất lưu lượng tử, vật chất
biểu hiện các hiệu ứng lượng tử ở cấp vĩ mô. Hành trạng lưu chất lượng tử
giải thích sự khác biệt giữa chất dẫn điện và chất cách điện, cũng như các tính
chất kịch tính của các chất siêu chảy và siêu dẫn. Các hệ lượng tử vĩ mô mới
lạ này còn có các công dụng thực tế, và đã đưa tới những cách mới và rất
chính xác để thực hiện các phép đo điện. Các kĩ thuật này sẽ được khai thác
để đưa ra một định nghĩa được cải thiện rất nhiều về đơn vị cơ bản của khối
lượng, kilogram, nó được liên hệ với các hằng số vật lí cơ bản, và không đối
chiếu với một mẩu vật chất cụ thể nào.
Trong Chương 7 chúng ta sẽ nhìn cận vào các hạt hạ nguyên tử và khảo
sát những hạt nhỏ nhất và cơ bản nhất của vật chất.
Vừa hơn một thế kỉ trước, thật hợp lí khi hình dung rằng các viên gạch
cấu trúc tối hậu của vũ trụ là các nguyên tử. Vào năm 1932, nguyên tử của
vật chất bình thường có thể được giải thích theo đúng ba loại hạt hạ nguyên
tử: proton, neutron, và electron. Bức tranh xinh đẹp đơn giản này của các
thành phần sơ cấp của vật chất không tồn tại được lâu. Khi ấy, vật chất bắt
đầu được khảo sát ở các năng lượng cao hơn, và các phát triển lí thuyết về cơ
lượng tử xảy ra đã làm thay đổi tận gốc rễ hiểu biết của chúng ta về thế giới
vi mô.
Những nỗ lực đầu tiên thống nhất thuyết lượng tử với thuyết tương
đối hẹp đã bị ngã ngựa với một vấn đề toán học. Trong các phương trình sóng
cổ điển, không gian và thời gian được xem xét tách biệt, còn trong thuyết
tương đối hẹp, chúng được dệt thành một kết cấu duy nhất: không-thời gian
4D. Dirac tìm thấy rằng ông có thể sát nhập thuyết tương đối hẹp bằng cách
sử dụng các ma trận phân chia phương trình sóng thành bốn phần, đem lại
phương trình Dirac nổi tiếng. Tính chất của spin electron xuất hiện tự nhiên
từ lí thuyết đó, trực tiếp từ thuyết tương đối hẹp. Electron còn xuất hiện dưới
dạng một hạt sơ cấp có kích cỡ zero. Hai trong bốn phần của phương trình
thật dễ dàng lí giải: hai phần này tương ứng với electron quay theo chiều kim
đồng hồ (up) hoặc ngược chiều kim đồng hồ (down). Nhưng câu đố đặt ra là:
hai thành phần kia tương ứng với cái gì?
Positron có thật sự tồn tại không, hay nó chỉ là một thủ thuật toán học?
Một vài năm sau dự đoán của Dirac, nhà vật lí Carl Anderson đang nghiên
cứu các electron tia vũ trụ. Tia vũ trụ là các hạt năng lượng cao đến từ Mặt
Trời và không gian bên ngoài và bắn phá Trái Đất. Anderson bố trí một
detector buồng mây bên trong một nam châm mạnh để ghi lại đường đi của
các tia vũ trụ. Khi một hạt tích điện đi qua một buồng mây, nó tạo ra một vệt
ngưng tụ của những giọt chất lỏng nhỏ xíu phía sau nó, giống như vệt đuôi
của máy bay phản lực bay trên tầng bình lưu. Khi một electron tích điện âm
đi qua một từ trường, nó bị lệch hướng sang bên, luôn luôn theo cùng một
chiều. Anderson quan sát thấy ngoài các electron, còn có các hạt cùng khối
lượng với electron, nhưng mang điện dương, với chiều lệch ngược lại. Các
positron của Dirac đã được tìm thấy.
Khi một electron và một positron gặp nhau, chúng hủy nhau, và biến
đổi toàn bộ năng lượng khối lượng nghỉ của chúng, tổng cộng 1,022 MeV,
thành một vụ nổ bức xạ gamma. Quá trình này là đối xứng. Nếu một photon
tia gamma giàu năng lượng va chạm với một nguyên tử, thì từ trường mạnh
xung quanh hạt nhân nguyên tử làm cho vật chất biến đổi trực tiếp từ năng
lượng trong quá trình gọi là sinh cặp (Hình 27). Các cặp electron-positron mà
Anderson quan sát thấy là các sự kiện sinh cặp.
Tất cả các hạt, chứ không riêng electron, đều có đối tác phản hạt, và
chẳng mấy chốc thì những loại hạt khác đã được tìm thấy, luôn là một hạt
trong một cặp, trong đó điện tích được bảo toàn chặt chẽ với giá trị bằng
nhau và ngược dấu. Nếu một phản proton tích điện âm đi qua gần một
proton, thì hai điện tích triệt tiêu để lại hai hạt trung hòa, một neutron, và
một phản neutron. Phản nguyên tử đã được tạo ra là phản hydrogen, với một
positron kết hợp với một phản proton. Ánh sáng phát ra từ một chuyển tiếp
Lí thuyết trường lượng tử thành công đầu tiên được xây dựng là điện
động lực học lượng tử (QED), nó mô tả tương tác của ánh sáng và vật chất.
Thoạt đầu, nó vướng phải những khó khăn lí thuyết. Một trong những khó
khăn thấy rõ nhất là tương tác của electron với trường điện từ của nó, cái gọi
là năng lượng tự thân của electron. Lực điện Coulomb từ một electron
(nguồn của trường) biến thiên tỉ lệ nghịch với khoảng cách bình phương. Vì
thế, nếu electron có kích cỡ zero, thì lực điện phải vô cùng lớn ở vị trí của hạt
(một chia cho khoảng cách zero bằng vô cùng). Năng lượng trong trường
điện từ bao quanh mỗi electron, do đó, phải là vô hạn và, vì năng lượng và
khối lượng là tương đương, khối lượng của electron cũng phải là vô hạn.
Các vô hạn chán ngắt ấy liên quan đến năng lượng tự thân của electron
và sự phân cực của chân không. Để hình dung sự phân cực chân không, hãy
hình dung việc cố tạo ra chân không hoàn hảo nhất, bằng cách loại hết các
Nhà lí thuyết Hans Bethe đã chinh phục bài toán về các vô hạn bằng
một thủ thuật toán học, gọi là tái chuẩn hóa, nó trừ một đại lượng vô hạn ra
khỏi một vô hạn khác cho ra một đáp số hữu hạn. Bị một số người xem là
không thỏa đáng, nhưng tái chuẩn hóa hoạt động tốt trên thực tế và đã cho
phép QED được phát triển thành lí thuyết vật lí chính xác nhất mà chúng ta
biết. Một trong những phép kiểm tra đầu tiên mà nó đối mặt là giải thích cái
gọi là dịch chuyển Lamb. Willis Lamb đã quan sát thấy một trạng thái lượng
tử đặc biệt của hydrogen bị phân tách thành hai mức năng lượng sít nhau.
Dịch chuyển Lamb là do bởi sự tự tương tác của electron với trường của nó
và không thể giải thích được bằng lí thuyết của Dirac. Sự phân tách đó được
dự đoán cực kì chính xác trong lí thuyết hiện đại về QED, được phát triển vào
năm 1947 bởi Richard Feynman, Julian Schwinger, và Shin’ichiro Tomonaga.
Các nhà vật lí còn nghiên cứu lực hạt nhân mạnh và yếu. Các lực hạt
nhân khác với lực điện từ và lực hấp dẫn ở chỗ chúng hoạt động trên những
cự li rất ngắn, khoảng dưới 10-15 mét. Trên cấp độ kích cỡ một nguyên tử
(10-10 mét), các lực hạt nhân về cơ bản không tồn tại. Các lực hạt nhân giống
như Velcro vậy: khi hai mảnh Velcro tiếp xúc thì chúng gắn chặt với nhau,
còn khi chúng bị kéo ra thì chúng chẳng chịu lực nào nữa. Lực mạnh còn
trung lập với điện tích; nó liên kết các proton tích điện dương và các neutron
bên trong hạt nhân với nhau với cỡ lực như nhau. Hãy nhớ lại ở Chương 5 ví
dụ tương đương về hai người trượt băng trao đổi một quả bóng nặng để minh
Lực hạt nhân yếu, hay chính xác hơn là tương tác yếu, có một đặc tính
tinh vi hơn. Nó chịu trách nhiệm cho sự phóng xạ beta và còn giữ vai trò then
chốt trong cách Mặt Trời bùng sáng. Một neutron đơn độc là không bền và sẽ
phân hủy thành một proton và một electron trong chừng mười phút. Tuy
nhiên, bên trong hạt nhân thì neutron bền hơn, nhưng nếu nguyên tử có tính
phóng xạ thì một neutron có thể phân hủy thành một proton, làm thay đổi
đặc điểm nhận dạng hóa học của nguyên tử sang nguyên tố cao tiếp theo
trong bảng tuần hoàn. Quá trình phân rã beta này được đi kèm bởi sự phát
xạ một electron năng lượng cao, hạt beta của sự phóng xạ. Khi phân rã beta
lần đầu tiên được nghiên cứu, người ta tìm thấy các electron được ‘nhả ra’
khỏi hạt nhân với một quãng năng lượng liên tục, từ zero lên tới một giá trị
cực đại. Điều này thật rắc rối, bởi nó có vẻ như định luật bảo toàn năng lượng
và động lượng đang bị vi phạm.
Wolfgang Pauli đã đi tới lời giải đúng khi ông đề xuất rằng một hạt bí
ẩn và chưa nhìn thấy, một neutrino (hay ‘tiểu neutron’) được phát ra cùng
với electron đó, vì thế làm cân bằng năng lượng và động lượng. Trong phân
rã beta, hạt được phát ra là một phản neutrino; trong quá trình ngược lại,
phân rã beta nghịch, các proton biến đổi thành neutron bằng cách phát ra
Từ mô tả của tương tác yếu, hẳn người ta sẽ nêu câu hỏi rất hợp lí: tại
sao nó được xem là một trong bốn lực cơ bản của tự nhiên? Trên con đường
tìm hiểu một thực tại vật lí sâu sắc hơn, các nhà vật lí thường tìm kiếm những
phương diện khác nhau biểu kiến của tự nhiên nhưng lại có một nguyên nhân
chung và vì thế là có thể thống nhất. Một ví dụ là sự thống nhất của Maxwell
về điện trường và từ trường, như chúng ta đã thấy nó làm bộc lộ trường điện
từ cơ bản hơn nữa. Một ví dụ khác là sự thống nhất của Dirac về thuyết tương
đối hẹp với cơ lượng tử, đem lại dự đoán về phản vật chất. Một ví dụ thứ ba
là sự thống nhất lực điện từ và lực hạt nhân yếu (tương tác điện yếu), được
thiết lập vào năm 1967 bởi Sheldon Glashow, Steven Weinberg, và Abdus
Salam. Nói ngắn gọn, lí thuyết của họ đề xuất rằng các hạt mang lực ở lực điện
từ và lực hạt nhân yếu thật ra là giống nhau. Chúng chỉ xuất hiện khác nhau
do bởi các boson mang lực (các hạt W và Z) có khối lượng trong tương tác
yếu, còn trong lực điện từ thì hạt tương ứng, photon, là không khối lượng.
Lực hạt nhân yếu chỉ bằng khoảng 1/1000 cường độ của lực điện từ,
nhưng hai lực có nhiều điểm chung. Để tìm hiểu chúng liên hệ với nhau như
thế nào, hãy nhớ lại rằng lực điện từ tầm xa được mang bởi photon, hạt không
khối lượng và không mang điện. Có thể so sánh hạt này với các hạt mang W
và X của lực yếu, chúng có khối lượng khoảng 100 lần khối lượng proton,
chừng bằng khối lượng một nguyên tử bạc. Hạt W có thể mang điện dương
hoặc âm, và Z trung hòa điện. Khi một neutron trải qua phân rã phóng xạ
Tầm tác
Lượng tử Khối lượng Độ lớn Ví dụ trong tự
Lực dụng
(tích nguồn) (E/c2, GeV) tương đối nhiên
(mét)
Các hadron
Mạnh Gluon (màu) 10-15 0 1
(quark)
Liên kết các
Photon electron với hạt
Điện từ µ 0 1/100
(điện) nhân trong
nguyên tử
0,08 (W)
Yếu W, Z 10-18 1/100.000 Phóng xạ beta
0,09 (Z)
Hấp Graviton Hệ Mặt Trời,
µ 0 10-40
dẫn (khối lượng) thiên hà
Không giống như các lực khác của tự nhiên, W làm thay đổi đặc tính
của một hạt. Khi một neutron biến đổi thành một proton, một đơn vị điện
tích âm bị loại bỏ, và hạt W phát ra sau đó phân hủy thành một electron và
một neutrino. Thời gian sống ngắn của W liên quan với khối lượng lớn của
nó; nó là một boson nặng với tầm tác dụng hạn chế. Trong các tương tác điện
từ, một photon ảo không mang điện, và nói cho chặt chẽ thì phải xem là nó
hình thành một dòng trung hòa. Cái tương đương với dòng trung hòa trong
tương tác yếu được mang bởi một boson trung hòa, hạt Z. Ba boson (W+, W-,
và Z0) được gọi là các boson vector trung gian. Vào năm 1983, các thí nghiệm
tại máy gia tốc Super Proton Synchrotron tại CERN ở Geneva đã quan sát trực
tiếp thấy các hạt W và Z0.
Thế nhưng vẫn còn thiếu cái gì đó – một hiểu biết về nguồn gốc của
khối lượng. Lí thuyết trường lượng tử dự đoán rằng các hạt W và Z, giống
như photon, phải là không khối lượng. Vậy làm thế nào các hạt W và Z có
Tính chất này của chất siêu dẫn ứng với mọi từ trường, kể cả từ trường
gắn liền các thăng giáng lượng tử của các photon ảo. Khi một photon ảo đi
vào tồn tại bên trong một chất siêu dẫn, chất siêu dẫn phản ứng bằng cách
tạo ra các siêu dòng cố triệt tiêu từ trường đang thăng giáng của photon. Do
đó, từ trường của photon yếu đi, và cần có thêm năng lượng để duy trì các
thăng giáng. Năng lượng bổ sung này gán lên khối lượng trên các photon ảo,
gọi là khối lượng hiệu dụng. Các photon có được khối lượng bằng cách hiện
diện bên trong một chất siêu dẫn.
Ý tưởng sáng giá này được nắm lấy để giải thích nguồn gốc khối lượng
của các boson W và Z. Liệu toàn bộ không gian có thể tràn ngập một trường
lượng tử chưa được nhận dạng mà, bằng cách tương tự với sự siêu dẫn, nó
tương tác với các hạt sơ cấp để cấp cho chúng khối lượng hay không? Vào
năm 1964, các nhà vật lí Peter Higgs, Robert Brout, và Francois Englert đã đề
xuất một trường lượng tử như thế, trường Higgs, tràn ngập vũ trụ. Nếu đúng
vậy, thì trên thực tế chúng ta đang sống bên trong một chất siêu dẫn vũ trụ.
Theo lí thuyết này, toàn bộ các hạt sơ cấp đều không khối lượng cho đến khi
chúng tương tác với trường Higgs bằng cái gọi là cơ chế Higgs. Một bức tranh
vật lí thô của cơ chế này là các hạt có được khối lượng bởi ‘sự dính’ với
trường như thể chúng đang cố chuyển động qua nước mật đường dày.
Trường Higgs góp một mật độ năng lượng hữu hạn cho chân không và, do nó
không có chiều ưu tiên trong không gian, là một trường vô hướng.
Cơ chế liên quan đến với sự thống nhất lực điện từ và tương tác yếu
thông qua sự phá vỡ đối xứng tự phát. Hãy nhớ lại từ Chương 3 cách đối xứng
bị phá vỡ khi một chất lỏng đông đặc, hoặc khi nhiệt độ của một miếng sắt
Hạt lượng tử của trường Higgs là boson Higgs. Việc tìm kiếm hạt nổi
tiếng bị săn lùng này là một mục tiêu chủ chốt của các thí nghiệm đã khởi
động hồi năm 2013 trong Máy Va chạm Hạt nặng Lớn (LHC) của CERN. Các
thí nghiệm cho các chùm proton va chạm với nhau với năng lượng kết hợp 8
nghìn tỉ electron volt (8 TeV, hay 8 ´ 1012 eV). Các va chạm này đập vào
trường Higgs rất mạnh, và làm cho nó dao động và sinh ra một lượng tử của
kích thích trường: boson Higgs. Khối lượng đo được của hạt (125 GeV/c2)
phù hợp với thời gian sống rất ngắn khoảng 10-22 giây. Hạt Higgs không được
quan sát trực tiếp, mà sự tồn tại của nó được suy luận rõ ràng từ các hạt mà
sau đó nó phân hủy thành.
Quark
Để nghiên cứu những hạt nhỏ nhất của vật chất, cần có một chiếc kính hiển
vi rất mạnh. Nếu vật thể nghiên cứu nhỏ hơn một hạt nhân thì chúng phải
được khảo sát bằng các hạt năng lượng cao, bước sóng rất ngắn. Các máy gia
tốc hạt năng lượng cao là những chiếc kính hiển vi của thế giới hạ nguyên tử;
máy gia tốc càng lớn và càng mạnh, thì kính hiển vi đó càng mạnh.
Từ thập niên 1940 đến 1960, nhiều trăm loại hạt hạ nguyên tử mới đã
hiện thân trong các thí nghiệm máy gia tốc. Trong các thí nghiệm này, người
ta cho các proton năng lượng cao đập vào bia, sinh ra hỗ lốn hạt không bền.
Tình trạng không phải không giống hồi một thế kỉ trước đó, khi các nhà hóa
học đối mặt trước số lượng lớn khủng khiếp các nguyên tố hóa học với các
đặc tính khác nhau. Việc cố gắng nắm bắt các hạt, như lời Richard Feynman
Các hạt hạ nguyên tử thuộc về hai gia đình hạt đông đúc: hadron và
lepton. Hadron (từ tiếng Hi Lạp có nghĩa là ‘chắc’) có một gia đình giống với
proton và neutron ở chỗ chúng chịu lực hạt nhân mạnh, tương tác yếu, và lực
điện từ. Các thành viên nhẹ nhất là proton và neutron, nhưng đa số hadron
có khối lượng lớn hơn nhiều, và ở trong các trạng thái kích thích với năng
lượng nội tại cao và thời gian sống ngắn. Gia đình hadron được chia nhỏ
thành hai loại nữa, baryon và meson. Từ baryon có nghĩa là ‘nặng’. Lepton (từ
tiếng Hi Lạp có nghĩa là ‘mỏng’, hoặc ‘nhỏ’) là các hạt như electron và
neutrino, và chỉ chịu lực yếu và lực điện từ.
Các nhà vật lí đã săm soi mớ dữ liệu trong vườn thú hadron, tìm kiếm
các kiểu hình có thể bộc lộ một sự phân loại cho thế giới hạ nguyên tử kiểu
như bảng tuần hoàn của Mendeleev cho các nguyên tố. Vào năm 1964,
Murray Gell-Mann và George Zweig thật sự đã tìm thấy các kiểu hình trong
mớ hỗ lốn hadron, và kết luận rằng tất cả các hạt đó có thể được xây dựng
bởi các quark, các hạt sơ cấp với điện tích phân số. Gell-Mann chọn tên gọi
‘quark’ từ một dòng trong quyển tiểu thuyết Finnegans Wake của James
Joyce: ‘Ba quark cho ngài Mark.’
Vật chất bình thường được làm từ hai loại quark: quark ‘lên’ (u, khối
lượng 2,3 MeV/c2), và quark ‘xuống’ (d, khối lượng 4,8 MeV/c2). Mỗi loại
mang một điện tích phân số khác nhau; quark lên mang +2/3 điện tích
electron, còn quark xuống mang –1/3 điện tích electron. Các baryon được
làm từ ba quark, và các meson được làm từ một cặp quark-phản quark. Mỗi
proton (Hình 28) có thể được hình dung là một quả cầu tí hon, đường kính
chừng 10-15 mét, chứa ba quark: (u, u, d) cho nó điện tích toàn phần +1 đơn
vị. Neutron tương tự vậy, nhưng có các quark (u, d, d) cho nó điện tích zero.
Các quark chuyển động bên trong nucleon ở gần bằng tốc độ ánh sáng, phản
Hình 28. Baryon nhẹ nhất, proton, được làm từ ba quark, hai ‘up’ (tích màu ‘lam’ và ‘đỏ’)
và một ‘down’ (tích màu ‘lục’). Cả ba màu phải có mặt, làm cho hạt không màu.
Bằng chứng có tính quyết định cho sự tồn tại của các quark đến từ một
loạt thí nghiệm ‘tán xạ sâu electron’ được thực hiện vào những năm 1960 và
1970 bởi Jerome Friedman, Henry Kendall, và Richard Taylor. Họ sử dụng
Máy gia tốc Thẳng Stanford (SLAC) dài 3 km để bắn phá proton bằng đạn
electron có tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng. Họ thấy các electron tán xạ khỏi
những vật thể tí hon dạng hạt chuyển động rất nhanh bên trong proton.
Những vật thể tí hon này là các quark đã được tìm kiếm bấy lâu.
Chẳng mấy chốc, những biến thể nặng hơn khác của quark được tìm
thấy, xuất hiện dưới dạng các ‘mùi’ khác nhau, biểu thị các tính chất đối xứng
của chúng. Có quark duyên (c, charm) với khối lượng 1,3 GeV/c2, quark lạ (s,
strange) với khối lượng 0,95 GeV/c2, và quark đáy (b, bottom) với khối lượng
4,2 GeV/c2. Vào năm 1995, một quark nặng hơn nữa, quark đỉnh (t, top) 180
GeV/c2 được tìm thấy, sử dụng cỗ máy va chạm năng lượng cao tại Fermilab.
Các quark nặng không bền nhanh chóng phân hủy sang các trạng thái khối
lượng thấp hơn. Có sáu loại quark, và tất cả đều là fermion spin ½. Trong
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của các quark là chúng không
bao giờ được tìm thấy đơn độc. ‘Nguyên lí cầm tù’ liên quan với cách các
quark tương tác với trường gluon bên trong mỗi hadron và giữ cho chúng
liên kết chặt ở bên trong. Khái niệm ‘buộc chặt’ các thứ với nhau đặc biệt
thích hợp cho các quark bởi lẽ quy tắc lực giữa các quark hành xử như thể
chúng được gắn kết bằng những sợi dây đàn hồi. Nếu bạn kéo dãn một sợi
dây đàn hồi, thì lực cần thiết tăng lên khi sợi dây càng bị dãn. Còn nếu không
Tương tác giữa các tích màu được mô tả trong một lí thuyết trường
lượng tử, sắc động lực học lượng tử, hay QCD, được xây dựng bởi David Gross,
Frank Wilczek, và David Politzer. QCD khác với QED ở một mặt then chốt. Ở
lực điện từ, hai photon không mang điện có thể tự do đi qua nhau, phớt lờ sự
tồn tại của nhau. Sóng vô tuyến trong không khí tràn ngập các tín hiệu điện
từ phát ra từ nhiều đài phát thanh và truyền hình cùng với tín hiệu điện thoại
di động, toàn bộ cứ đi qua nhau và chồng chất mà không ảnh hưởng gì nhau.
Còn các gluon mang tích màu, nghĩa là chúng tương tác mạnh với nhau, một
đặc điểm có những hệ quả lớn. Nếu bạn đập một quark bên trong một
nucleon đủ mạnh thì nó có thể ló ra một đoạn nhỏ vào thế giới bên ngoài,
nhưng nó vẫn kết nối với hai quark còn lại thông qua lực màu, loại lực chúng
ta đã nói là nó hành xử giống như một miếng đàn hồi mạnh. Quark ló ra càng
nhiều, thì lực hút nó trở lại càng mạnh, và, để kéo nó ra thêm, cần có năng
lượng lớn hơn. Cuối cùng khi cung quá nhiều năng lượng thì tính đàn hồi
biến mất. Khi điều này xảy ra, toàn bộ năng lượng dự trữ trong ‘sự đàn hồi
kéo dãn’ của trường màu biến đổi thành vật chất và phản vật chất, và một
cặp quark-phản quark ra đời. Những chuỗi gồm các cặp quark-phản quark
thường được tạo ra trong các thí nghiệm máy gia tốc hạt, và được gọi là các
vòi hạt.
Mô hình Chuẩn
Mô hình Chuẩn của Vật lí Hạt (Hình 29) là một trong những thành tựu rực rỡ
của khoa học, và là kết tinh của nhiều thập niên công sức của vô số nhà khoa
học. Mô hình đã được xác thực tốt bằng thí nghiệm, và mang lại toàn bộ các
hạt lực và vật chất sơ cấp mà chúng ta biết. Nền tảng xây dựng nên mô hình
chuẩn là QED, tương tác điện yếu, và QCD. Toàn bộ hạt sơ cấp cần thiết để
xây dựng vật chất bình thường là đây: từ các quark, đến các hạt nhân, đến
Hình 29. Mô hình Chuẩn của vật lí hạt, tổng hợp kiến thức của chúng ta về các hạt vật chất
và lực cơ sơ cấp từ đó cấu tạo nên vũ trụ.
Các hạt vật chất, fermion, được thể hiện ở bên trái, và các hạt lực,
boson, ở bên phải, cùng với boson Higgs ở giữa. Mỗi fermion có một song
sinh phản vật chất không được thể hiện ở đây. Toàn bộ vật chất của thế giới
hằng ngày được xây dựng từ đúng ba hạt vật chất chiếm giữ cột bên trái:
quark lên và quark xuống, và electron cùng với neutrino của nó. Di chuyển
một cột sang phải, kiểu hình cơ bản lặp lại, nhưng lần này nó chứa quark
duyên và quark lạ và muon (µ) cùng neutrino của nó; cột này được gọi là thế
hệ thứ hai. Các hạt thế hệ thứ hai nặng hơn các hạt ở thế hệ đầu, và kém bền
hơn. Kiểu hình lặp lại thêm một lần nữa, làm nên một thế hệ thứ ba gồm các
hạt nặng hơn nữa và kém bền hơn nữa, gồm quark đỉnh và quark đáy, lepton
Trong câu chuyện của chúng ta về vật chất, hiểu theo một nghĩa nào
đó, chúng ta đã đi tới đích đến của mình: một quan điểm Democritus đích
thực về thế giới theo những viên gạch cấu trúc cơ bản: các hạt sơ cấp có kích
cỡ zero. Con dao cắt mảnh vật chất ra thành những mảnh càng lúc càng nhỏ
hơn, trong chừng mực mà chúng ta có thể thấy được, đã không còn cắt tiếp
được nữa. Nếu các hạt sơ cấp thật sự là các điểm không kích thước, tương
tác thông qua các lực của tự nhiên, thì chúng ta đã đi tới một bức tranh đáng
chú ý trong đó vật chất là trống rỗng, và chính bốn tương tác đã đem lại cho
nó hình dạng và hình thức. Thế nhưng rút kinh nghiệm từ lịch sử, chúng ta
không nên phán chắc rằng chúng ta đã có hết mọi câu trả lời. Đã nhiều lần
các nhà khoa học tin rằng cuối cùng họ đã đạt tới bức tranh tối hậu, nhưng
rồi họ chỉ thấy rằng tự nhiên còn vi tế hơn họ nghĩ và ẩn bên dưới vẫn còn
một thực tại sâu sắc hơn.
Mặc dù Mô hình Chuẩn hiện nay là lí thuyết đã được kiểm tra tốt nhất
và toàn diện nhất về những thành phần cơ bản của vật chất, nhưng vẫn còn
đó nhiều bí ẩn và thiếu sót nổi cộm. Chúng ta vừa lưu ý sự vắng mặt của lực
hấp dẫn trong bức tranh trên. Nếu bạn thả rơi một quả táo, nó sẽ rơi trong
trường hấp dẫn của Trái Đất. Vì thế, vật chất thật sự tương tác với lực hấp
dẫn, nhưng không có chỗ nào trong Mô hình Chuẩn giải thích điều này. Chúng
ta biết rằng trường hấp dẫn lan truyền các dao động, vì sóng hấp dẫn đã được
phát hiện từ các sự kiện dữ dội trong vũ trụ. Hạt mang lực như dự đoán của
trường hấp dẫn là graviton, nhưng cho đến nay hạt này chưa được phát hiện.
Ngoài ra, chúng ta không biết vì sao lại có mười hai hạt vật chất, nhóm lại
thành ba thế hệ. Chúng ta cũng chẳng biết vì sao các quark và lepton khác
nhau, và tại sao fermion và boson khác nhau. Hồi thập niên 1970, một lí
thuyết, gọi là siêu đối xứng, hay viết tắt là SUSY, đã được xây dựng vốn nhằm
kết nối vật chất và lực bằng cách đề xuất rằng mỗi hạt trong Mô hình Chuẩn
Còn những vấn đề khác nữa. Người ta tin rằng khối lượng của các hạt
sơ cấp được tin là từ cách các quark và lepton và các hạt W và Z tương tác
với trường Higgs. Chúng ta không hiểu tại sao các hạt này lại tương tác theo
cách như vậy để đem lại cho chúng những khối lượng khác nhau. Khi xét đến
nguồn gốc của khối lượng, điều dễ thấy là hãy còn nhiều thứ để khám phá.
Ngoài ra, có bằng chứng cho thấy lượng vật chất trong vũ trụ lớn hơn nhiều
so với lượng có thể được giải thích theo mô hình chuẩn. Đây là cái gọi là vật
chất tối và năng lượng tối mà chúng ta sẽ thảo luận ở Chương 9.
Một proton có khối lượng nghỉ 938,28 MeV/c2. Một quark lên được
ước tính có khối lượng khoảng 2,3 MeV/c2, và một quark xuống có khối lượng
khoảng 4,8 MeV/c2. Với ba quark thì tổng khối lượng là 9,4 MeV/c2. Nhưng
đây mới là khoảng 1 một phần trăm khối lượng của proton! 99 phần trăm
còn lại của khối lượng nằm ở đâu? Câu trả lời đến từ việc áp dụng công thức
Einstein: m = E/c2, cho chúng ta biết rằng: ở đâu có năng lượng, ở đó có khối
Trong chương này chúng ta đã nhìn vào bức tranh chiều sâu của vật
chất – bóc trần từng lớp vỏ củ hành của nó để lộ ra những hạt sơ cấp nhất
nhỏ nhất làm nên vật chất. Chỉ một nhúm hạt sơ cấp cấu tạo nên thế giới:
quark, lepton, và các hạt lực, chúng có mặt trong Mô hình Chuẩn của Vật lí
Hạt. Các hạt này là các lượng tử trường của một vài trường lượng tử. Các hạt
sơ cấp có khối lượng của chúng bằng cách tương tác với trường Higgs tràn
ngập vũ trụ, còn nguồn gốc chính của khối lượng của vật chất bình thường là
đến từ năng lượng của các trường quark và gluon bên trong các nucleon.
Mô hình Chuẩn là một thành tựu đỉnh cao của khoa học, nhưng nó
chưa hoàn chỉnh. Trong Chương 9, chúng ta sẽ nhìn vào hai mảnh bí ẩn và
còn thiếu của câu đố ghép hình này: vật chất tối và năng lượng tối. Nhưng
trước khi đó, chúng ta hãy thiết lập vũ đài cho những cấp độ rất lớn của vật
chất, bằng cách lần theo lịch sử hóa học của vũ trụ trong 13,8 tỉ năm kể từ Vụ
Nổ Lớn (Big Bang).
Để tìm hiểu các nguyên tố hóa học có xuất xứ từ đâu, chúng ta phải trở
lại với một phần nhỏ của một giây sau sự ra đời của vũ trụ trong ‘Big Bang’.
Sự liên minh hùng mạnh của kính thiên văn và quang phổ kế lần đầu tiên đã
vén màn các nguyên tố hóa học trong các sao, rồi đến thập niên 1920 khi
Edwin Hubble và Milton Humason sử dụng chiếc kính thiên văn lớn nhất thế
giới khi ấy, kính thiên văn Hooker 100 inch tại Đỉnh Wilson ở California, đo
khoảng cách và vận tốc xuyên tâm của các thiên hà. Y hệt như tiếng còi trên
một chiếc xe đang chạy bị giảm độ cao khi nó chạy ra xa bạn, bước sóng của
các vạch phổ đến từ các sao ở các thiên hà đang lùi ra xa bị dịch chuyển (hay
bị lệch đỏ sang các bước sóng dài hơn tại đầu đỏ của quang phổ). Cỡ lệch đỏ
này cho phép tính ra được vận tốc lùi ra xa của các thiên hà. Định luật Hubble
cho chúng ta biết rằng các thiên hà đang lùi ra xa chúng ta ở tốc độ tăng dần
tỉ lệ với khoảng cách của chúng. Vũ trụ đang dãn nở, và nếu chúng ta hình
dung một bộ phim dãn nở chiếu ngược lại, thì chúng ta suy luận ra có một
Khi vũ trụ dãn nở, nó nguội dần. Sự nguội đi này là một hệ quả tự nhiên
của định luật bảo toàn năng lượng. Lúc một micro giây tuổi, vũ trụ nguội đến
nhiệt độ 1013 K (hay 1 GeV), tương đương với khối lượng-năng lượng của
một proton. Bởi thế, nó còn quá nóng cho các quark và gluon kết hợp với
nhau thành các nucleon. Vũ trụ khi ấy gồm một plasma quark-gluon khác lạ,
hay một nồi súp quark, một mớ hỗ lốn vô cùng nóng bao gồm quark, gluon,
và photon, chúng quá giàu năng lượng nên không dính vào nhau. Người ta
cho rằng đây là thời điểm duy nhất trong lịch sử vũ trụ khi các quark tự do
có thể tồn tại.
Lúc này, các điều kiện quá cực độ nên vật chất và năng lượng tự do
hoán đổi. Các định luật vật lí không phân biệt giữa vật chất và phản vật chất,
vì thế nếu những lượng chính xác bằng nhau của nó được tạo ra và hủy nhau
với sự đối xứng hoàn toàn, thì hẳn chúng ta sẽ có một vũ trụ chỉ tràn ngập
Một thiên lệch như thế từ đâu mà có? Sự bất đối xứng chút ít ở các
định luật có thể liên quan với sự vi phạm một kiểu đối xứng gọi là chẵn lẻ,
hay đối xứng P, sự bất lực của tự nhiên không phân biệt được giữa thế giới
và ảnh qua gương của nó. Điều này được bao gộp trong Mô hình Chuẩn, và
liên quan với tương tác hạt nhân yếu. Vào năm 1956, nhà vật lí người Mĩ gốc
Trung Chien-Shiung Wu (Ngô Kiện Hùng), theo đề xuất của T. D. Lee và C. N.
Yang, đã bố trí một thí nghiệm đo spin từ của hạt nhân cobalt-60 phóng xạ
beta. Bằng cách canh thẳng spin hạt nhân với từ trường, bà tìm thấy hạt nhân
cobalt-60 giải phóng electron từ cực nam của nó nhiều hơn phía cực bắc. Đây
là một bất ngờ lớn vì nó cho thấy rằng có một sự khác biệt tuyệt đối giữa hai
cực của một hạt nhân. Sự bất đối xứng ấy được gọi là ‘không bảo toàn tính
chẵn lẻ’.
Một đối xứng nữa của các định luật vật lí là đối xứng liên hợp điện tích,
hay đối xứng C. Nó là một phép biến đổi sao cho, nếu hoán đổi các hạt bằng
phản hạt của chúng, thì dấu của mọi điện tích đều thay đổi. Điều này đúng
Hình 30. Bản đồ toàn bầu trời của bức xạ phông nền vi sóng vũ trụ, ánh le lói của Big Bang,
cho thấy vũ trụ thời sơ sinh. Diện mạo lốm đốm là do các thăng giáng nhiệt độ, và các thăng
giáng này cung cấp thông tin về sự phân bố vĩ mô của vật chất tại những thời điểm sơ khởi.
Khi vũ trụ dãn nở, nhiệt độ giảm xuống dưới 1013 K (1 GeV), và vũ trụ
trở nên tương thích năng lượng cho các quark ngưng tụ thành proton và
neutron. Vào lúc vũ trụ ba phút tuổi, nhiệt độ hạ xuống còn 109 K (100 keV),
và những phản ứng hạt nhân đầu tiên có thể xảy ra để tổng hợp các nguyên
tố nhẹ nhất của vật chất. Hạt nhân deuterium, helium-3, và lithium-7 được
tạo ra trong một phức hợp phản ứng gọi là sự tổng hợp hạt nhân Big Bang.
Tuy nhiên, vũ trụ vẫn quá nóng để các nguyên tử trung hòa tồn tại, và
vũ trụ tiếp tục dãn nở dưới dạng plasma, trong đó các photon tán xạ liên tục
khỏi các electron tự do. Trước một nhà quan sát tưởng tượng đắm mình
trong nó, vũ trụ sẽ trông như một màn sương dày đặc. Lúc 380.000 năm tuổi,
nhiệt độ giảm xuống còn chừng 3.000 K, khi đó các electron có thể kết hợp
với hạt nhân tạo nên những nguyên tử bền đầu tiên, lúc ấy màn sương tan
(‘tái kết hợp’). Từ đấy trở đi, các photon không còn kết hợp mạnh với vật chất
nữa và có thể truyền đi tự do trong không gian. Các photon ló ra khỏi rìa màn
sương, ‘mặt tán xạ sau cùng’, là những photon xưa nhất mà ngày nay chúng
ta có thể phát hiện trong các kính thiên văn của mình dưới dạng bức xạ phông
nền vi sóng vũ trụ. Các photon cổ xưa này mang theo chúng thông tin về các
điều kiện vật lí trong vũ trụ ở giai đoạn tiến hóa này của nó, và cho thấy rằng
các kết tập vĩ mô đầu tiên của vật chất đã bắt đầu hình thành. Các thăng giáng
nhiệt độ CMB thể hiện trên Hình 30 là rất nhỏ, tiêu biểu là 1 phần trong
100.000 của nhiệt độ trung bình 2,7 mà chúng ta quan sát thấy. Trong sự dãn
nở sau đó, các thăng giáng mật độ tiếp tục lớn lên và tập trung vật chất
nguyên thủy thành các sao, các thiên hà, các đám, và siêu đám thiên hà.
Ở giai đoạn này, một ngôi sao mới sinh có một khối lượng và kích cỡ
ổn định, và được gọi là mầm sao. Khi lõi của mầm sao đạt tới nhiệt độ tại đó
phản ứng nhiệt hạch giữa các proton có thể xảy ra (khoảng 15 triệu độ),
hydrogen bắt đầu cháy giải phóng năng lượng, năng lượng này được truyền
lên bề mặt bởi các photon và bức xạ vào không gian. Nhiệt độ của một ngôi
sao tăng mạnh theo khối lượng của nó. Những ngôi sao đầu tiên có khối
lượng lớn và nóng, và tỏa ra ánh sáng tử ngoại cường độ mạnh, làm ion hóa
chất khí xung quanh. Thời kì này được gọi là kỉ nguyên tái ion hóa. Sự tái ion
hóa của chất khí giữa các sao vây xung quanh các sao mới ra đời vẫn tiếp tục
cho đến ngày nay trong các vùng hình thành sao mạnh như tinh vân Orion
trong Ngân Hà.
Với sự xuất hiện của những ngôi sao đầu tiên, bắt đầu diễn ra giai đoạn
thứ hai của sự sản sinh các nguyên tố hóa học, sự tổng hợp hạt nhân sao. Để
hiểu sự tổng hợp hạt nhân sao vận hành như thế nào, trước tiên chúng ta cần
tìm hiểu một khái niệm cơ bản liên quan đến sự bền vững của các hạt nhân.
Xét độ bền vững của các hạt nhân kích cỡ khác nhau. Trong một hạt nhân nhỏ
với chỉ vài ba nucleon, một tỉ lệ lớn các hạt nằm trên bề mặt, tại đó chúng
chịu lực mạnh tầm ngắn ‘kiểu Velcro’ liên kết chúng với các nucleon láng
giềng mà chúng tiếp xúc gần. Tuy nhiên, vì các nucleon trên bề mặt chịu lực
mạnh chỉ hướng về phía tâm hạt nhân, nên chúng có thể ‘bốc hơi’ tương đối
dễ dàng khỏi hạt nhân. Đây là lí do tại sao các hạt nhân rất nhỏ không phải là
những hạt nhân bền nhất. Ở thái cực kia, một hạt nhân lớn với nhiều proton
tạo ra một lực đẩy tĩnh điện mạnh, cố phá vỡ hạt nhân. Những hạt nhân nặng
nhất có xu hướng phóng xạ tự phát. Một hạt nhân lớn như uranium, nằm trên
bờ mép của sự kém bền vững, có thể tống ra một hạt alpha (nguồn gốc của
Độ bền vững của hạt nhân có thể được hình dung một cách hữu ích
trên sơ đồ năng lượng liên kết trên nucleon (Hình 31). Đường cong năng
lượng liên kết có dạng chữ ‘U’, với một thung lũng tại đó tìm thấy các hạt
nhân bền vững khối lượng trung gian (ví dụ sắt với 56 proton và 30 neutron).
Càng lên cao trong sơ đồ thì năng lượng cần thiết để loại một nucleon ra khỏi
một nguyên tố càng hạ. Các hạt nhân ở cao trên sơ đồ, do đó, kém bền hơn
các hạt ở phía dưới. Các nguyên tố nhẹ: deuterium, tritium (đồng vị hydrogen
với một proton và hai neutron), helium-3, helium-4,… nằm ở một mức cao
bên trái, và các hạt nhân nặng không bền như uranium nằm phía trên thung
lũng về bên phải. Các phản ứng hạt nhân sản sinh năng lượng có thể diễn ra
theo hai hướng, luôn di chuyển về phía các nguyên tố bền hơn ở gần đáy
thung lũng. Phản ứng nhiệt hạch kết hợp các hạt nhân nhẹ thành hạt nhân
nặng hơn, và phản ứng phân hạch liên quan đến sự phân tách các hạt nhân
nặng thành những mảnh nhỏ hơn.
Hình 31. Đường cong năng lượng liên kết trên mỗi nucleon cho các hạt nhân khác nhau.
Các phản ứng hạt nhân tỏa năng lượng tiến theo chiều của hạt nhân bền vững nhất, sắt, tại
đáy đường cong.
Các nguyên tố nặng hơn được tạo ra theo kiểu ‘xây gạch’, trong đó các
đơn vị hạt nhân helium bền vững (hạt alpha) hợp nhất với nhau tạo thành
những hạt nhân to hơn. Khi lí thuyết về quá trình này lần đầu tiên được triển
khai, dường như có một trở ngại. Có vẻ như việc hình thành nguyên tố không
bao giờ có thể vượt qua nổi bước đầu tiên, sự hợp nhất hai hạt alpha. Hai hạt
alpha tạo ra một hạt nhân không bền, beryllium-8, nó phân hủy nhanh trước
khi một hạt alpha thứ ba có thể kết hợp vào. Không có hạt nhân nào bền với
khối lượng bằng 8 trong tự nhiên. Vào năm 1953, nhà thiên văn người Anh
Robert Hoyle dự đoán rằng hạt nhân của nguyên tố tiếp theo trong chuỗi,
carbon 12, phải có cái gọi là một cộng hưởng trạng thái kích thích. Khái niệm
cộng hưởng quen thuộc với bất kì ai từng chứng kiến một cốc rượu vỡ do bởi
một ca sĩ opera. Ở tần số cộng hưởng của nó, cái cốc hấp thụ năng lượng bằng
các dao động hưởng ứng lớn dần về biên độ cho đến khi vật liệu nứt vỡ. Trong
các sao, sự cộng hưởng của hạt nhân carbon-12 là kết quả của sự gia tăng xác
suất để carbon-12 hình thành trước khi beryllium-8 có thể phân hủy. Hoyle
thúc các nhà thực nghiệm tìm kiếm sự cộng hưởng đó, và họ đã tìm thấy ở
đúng năng lượng mà ông dự đoán. Carbon được tạo ra trong các sao ở nhiệt
Để cho những hạt nhân lớn hơn hợp nhất, cần nhiệt độ cao hơn để
chiến thắng lực đẩy tĩnh điện lớn hơn của chúng. Ví dụ, trong sự cháy carbon
ở các sao, hai hạt nhân carbon, mỗi hạt gồm sáu proton, phải hợp nhất, còn
trong sự cháy oxygen thì các hạt nhân có tám proton. Nhiệt độ lõi của một
ngôi sao vào khoảng 20 lần khối lượng mặt trời có thể đạt tới vài tỉ độ, đủ cao
cho các nguyên tố lên tới nickel được tổng hợp. Phần lõi nóng của một sao
như thế được bao quanh bởi một lớp vỏ hydrogen và helium. Xét từ bề mặt
tương đối nguội bên ngoài vào dần lõi nóng bên trong, có các lớp kiểu củ
hành có nhiệt độ tăng dần trong đó xảy ra các phản ứng hạt nhân khác nhau.
Các phản ứng tiếp tục từ sự cháy helium trong lớp vỏ ngoài nguội hơn tạo ra
carbon và oxygen; các nguyên tố này cháy trong lớp vỏ nóng tiếp theo sản
sinh neon và magnesium, rồi đến lưu huỳnh, và, trong lõi nhiệt độ cao, sự
cháy silicon tạo ra nickel. Sản phẩm nhiệt hạch của mỗi phản ứng hạt nhân
cấp nhiên liệu cho các lớp bên trong và ngôi sao tiến hóa khi nó tiêu thụ nhiên
liệu của nó.
Tóm lại: các sao tỏa sáng bằng cách giải phóng năng lượng nhiệt hạch
của các nguyên tố nhẹ, nằm cao phía trên thung lũng của đường cong năng
lượng liên kết, tạo ra các nguyên tố trung bình nằm thấp hơn về dưới thung
lũng. Lúc ngôi sao tiêu thụ hết toàn bộ nhiên liệu nhiệt hạch dễ dàng sẵn có
của nó, nó có thể sản sinh rất ít năng lượng từ việc đốt silicon tạo thành
nickel, vì các hai nguyên tố đều nằm dưới đáy thung lũng. Do đó, giai đoạn
đốt silicon sau cùng diễn ra nhanh chóng, chỉ kéo dài vài ba ngày, và nickel
phân hủy tạo thành lõi sắt của sao. Nhóm nguyên tố sắt có các hạt nhân liên
kết chặt nhất trong bảng tuần hoàn, và để tạo ra các nguyên tố vượt quá sắt
đòi hỏi phải cấp năng lượng, điều này không thể xảy ra bởi các quá trình nhiệt
hạch. Trong quá trình tổng hợp nguyên tố bên trong các sao, sắt nằm ở đầu
cuối của quá trình. Câu hỏi đặt ra là: các nguyên tố nặng hơn sắt được tạo ra
bằng cách nào?
Ở sao lùn trắng, sự co sụp hấp dẫn bị chặn đứng bởi một nguồn áp suất
mới: áp suất suy thoái electron. Áp suất cơ lượng tử này là do năng lượng cao
của các electron, khi chúng bị nén vào một thể tích nhỏ, tuân theo nguyên lí
bất định. Mật độ vật chất trong sao lùn trắng bằng khoảng một triệu lần mật
độ của nước. Tuy nhiên, có một giới hạn mà áp suất suy thoái electron có thể
cung cấp. Nếu khối lượng của ngôi sao đang co lại lớn hơn một khối lượng
tới hạn gọi là khối lượng Chandrasekhar (khoảng 1,4 khối lượng mặt trời),
thì áp suất suy thoái electron sẽ không đủ để ngăn cản sự co lại tiếp tục.
Khi một sao lõi sắt 20 khối lượng mặt trời cạn kiệt nhiên liệu, giới hạn
Chandrasekhar bị vượt qua, và áp suất suy thoái electron không thể chống
đỡ cho ngôi sao. Áp suất trung tâm giảm nhanh, và ngôi sao không còn chống
nổi lực hút hấp dẫn không thể tránh khỏi. Lõi sắt bắt đầu co lại, giải phóng
lượng thế năng hấp dẫn lớn khủng khiếp, và nổ vào trong, đạt tới một phần
ba tốc độ ánh sáng trong vòng một giây. Nhiệt độ tăng lên khủng khiếp và các
hạt nhân sắt suy thoái thành các nucleon thành phần của chúng. Electron và
proton hợp nhất thông qua tương tác yếu để tạo ra dạng giàu neutron của
vật chất. Nếu có hơn một tỉ lệ nhỏ nucleon của nó vẫn là proton, thì lực đẩy
điện sẽ áp đảo.
Bất ngờ một thứ đặc biệt xảy ra. Một nguồn áp suất mới khác, áp suất
suy thoái lượng tử của neutron, được thiết lập và chặn đứng sự co lại chết
chóc đó. Chẳng biết điều gì vừa xảy ra ở trong lõi, phần còn lại của ngôi sao
tiếp tục rơi vào trong. Khi các lớp ngoài của ngôi sao đập trúng lõi lúc này đã
Siêu tân tinh là một vụ nổ hạt nhân với sức công phá lớn gấp 1027 lần
một quả bom H nhân tạo. Siêu tân tinh tỏa sáng với độ trưng gấp hàng tỉ lần
của Mặt Trời, và trong vài ba tháng nó có thể sáng hơn cả thiên hà chủ của
nó. Sóng xung kích nổ ra ngoài chứa nhiều khối lượng mặt trời vật liệu, gồm
các nguyên tố trung bình và các hạt bụi, chìm trong một thông lượng neutron
tốc độ cao. Các hạt nhân bị tống ra nhanh chóng hấp thụ neutron, rồi neutron
biến đổi thành proton qua phân rã beta, biến đổi hạt nhân thành các nguyên
tố từ chì cho đến uranium.
Lõi sao giàu neutron theo số phận sẽ trở thành sao neutron, một hình
thức kì lạ nhất của vật chất mà chúng ta biết. Thật ra nó là một hạt nhân
nguyên tử khổng lồ được liên kết bằng lực hấp dẫn, một vật thể có kích cỡ
bằng một thành phố cỡ trung, cân nặng chừng gấp đôi Mặt Trời. Một thìa cà
phê vật chất sao neutron cân nặng một tỉ tấn, ngang ngữa với Núi Everest.
Có một sự cộng sinh giữa các sao và đám mây khí của môi trường loãng
giữa các sao mà chúng hình thành. Trong cơn giãy chết của chúng, các sao
phóng thích các nguyên tố nặng sang môi trường để làm giàu chất khí nguyên
thủy đó, và hỗn hợp được tái chế lại để sinh ra các sao mới. Mặt Trời và hệ
mặt trời là 4,5 tỉ năm tuổi, và được làm từ vật chất có xuất xứ từ ít nhất một
thế hệ sao trước đó, chúng đã cháy hết hàng tỉ năm trước khi Mặt Trời và hệ
mặt trời ra đời. Các nguyên tố của thế giới quen thuộc của chúng ta, carbon
tạo nên sự sống, oxygen mà chúng ta thở, và sắt trong ô tô của chúng ta, đều
đến từ các sao.
Có chừng một vụ nổ siêu tân tinh trong thiên hà của chúng ta trong
mỗi thế kỉ. Vào ngày 4 tháng Bảy năm 1054, các nhà thiên văn Trung Hoa đã
ghi lại vị trí của một ‘ngôi sao khách’ trên bầu trời. Các nhà thiên văn hiện đại
Hình 32. Tinh vân Con Cua là tàn dư của một ngôi sao đã phát nổ vào năm 1054.
Pulsar đôi đầu tiên được tìm thấy vào năm 1974, và gồm hai sao
neutron quay sát nhau xung quanh khối tâm chung của chúng. Hệ thống này
đặc biệt gây hứng thú vì nó cho phép thuyết tương đối rộng được kiểm tra
trong trường hấp dẫn mạnh và không-thời gian cong ở gần những vật thể đã
co lại rất nhiều. Hai khối lượng quay tròn làm biến dạng không gian xung
quanh chúng, làm xoáy không gian, tạo ra các gợn sóng trong không-thời
gian, các sóng hấp dẫn mang năng lượng ra xa ở tốc độ ánh sáng. Hai ngôi sao
đang mất năng lượng đều đều, xoáy càng lúc càng nhanh hơn xung quanh
khối tâm chung của chúng khi chúng càng tiến lại gần nhau hơn. Chu kì quỹ
đạo của hệ sao đôi này đã giảm khoảng một phút kể từ khi khám phá ra nó,
vì năng lượng quay của chúng biến đổi thành bức xạ. (Trái Đất quay xung
quanh Mặt Trời cũng mất năng lượng do bức xạ hấp dẫn, nhưng may thay
cho chúng ta, tỉ lệ mất đó rất nhỏ không đo được.) Sau pha ‘xoắn ốc vào trong’
diễn ra thật nhanh lúc cuối cùng, các sao đôi neutron sẽ hợp nhất trong một
vụ sát nhập tàn khốc sẽ làm rung lắc dữ dội kết cấu không-thời gian và giải
phóng một xung năng lượng sóng hấp dẫn mạnh.
Sóng hấp dẫn được dò thấy lần đầu tiên vào năm 2015, từ các cặp lỗ
đen đang hợp nhất. Các nhà thiên văn còn háo hức dò tìm sóng hấp dẫn được
phát ra khi hai sao neutron va chạm và sát nhập. Vào ngày 17 tháng Tám năm
2017 sự kiên nhẫn của họ cuối cùng đã được đền đáp khi ba đài quan trắc
sóng hấp dẫn, hai ở Mĩ (LIGO) và một ở gần Pisa ở Italy (VIRGO), đã dò thấy
một vụ nổ bức xạ hấp dẫn đến từ sự sát nhập của hai sao neutron (một sự
kiện gọi là GW170817). Việc canh chỉnh thời gian của tín hiệu vũ trụ tại ba
địa điểm đã cho phép các nhà vật lí lấy tam giác đạc vị trí của nó đủ chính xác
để làm tương quan sự kiện với một chớp tia gamma cường độ mạnh được
kính thiên văn vũ trụ Fermi của NASA ghi được sau đó 1,7 giây. Việc quan
trắc GW170817 đã phát cảnh báo 100 đội thiên văn tìm kiếm tín hiệu quang
học tương ứng. Họ tìm thấy tín hiệu này trong một thiên hà ở xa 130 triệu
Các sao neutron đang hợp nhất không chỉ sản sinh sóng hấp dẫn; mà
chúng còn giải phóng những khối vật chất nóng đặc ở tốc độ lên tới một nửa
tốc độ ánh sáng. Đám mây mảnh vụn đang dãn nở tạo ra một quả cầu lửa
trong đó các proton và neutron kết hợp nhanh tạo thành các hạt nhân nặng.
Các hạt nhân này bắt giữ thêm neutron, khiến chúng không bền và có tính
phóng xạ cao. Các neutron trong hạt nhân bị biến đổi thành proton qua các
quá trình phân rã beta diễn ra chậm hơn, và giải phóng năng lượng làm thắp
sáng quả cầu lửa. Lan rộng vào không gian, quả cầu lửa ấy chứa một mớ hỗn
tạp gồm một số nguyên tố nặng nhất trong bảng tuần hoàn. Kết cục của va
chạm ấy được gọi là kilonova, một sự kiện nhất thời rực rỡ, kém sáng hơn
siêu tân tinh, nhưng sáng gấp 10 triệu lần Mặt Trời.
Các quan trắc quang phổ do các nguyên tố này phát ra, sử dụng Kính
thiên văn Rất Lớn ở Chile, cho thấy dấu hiệu của các nguyên tố đất hiếm nặng
(họ lanthanide). Điều này cấp bằng chứng rằng các nguyên tố nặng trong
bảng tuần hoàn (các nguyên tố từ niobium đến uranium) đã được tạo ra
trong các sự kiện hợp nhất. Ước tính GW170817 đã phóng thích vào không
gian vài lần khối lượng Trái Đất ở dạng vàng và bạch kim, còn hơn cả những
giấc mơ điên cuồng nhất của các nhà giả kim!
Kilonova 2017 là sự kiện đầu tiên được dò thấy của hai sao neutron
đang va chạm, và là sự kiện thiên văn đầu tiên trong đó sóng hấp dẫn và sóng
điện từ được quan trắc phối hợp cùng nhau. Nó báo hiệu sự ra đời một lĩnh
vực thiên văn học mới: thiên văn học đa kênh. Sự tới nơi gần như đồng thời
của các xung hấp dẫn và điện từ đến từ một sự kiện xảy ra hồi 130 triệu năm
trước tự nó đã nổi bật và có nghĩa là tốc độ lan truyền của sóng hấp dẫn và
sóng điện từ khác biệt không quá 1 phần 1015, phù hợp với các dự đoán của
thuyết tương đối rộng của Einstein.
Trong Chương 9 chúng ta sẽ tìm hiểu hai hình thức bí ẩn và át trội của
vật chất trong vũ trụ: vật chất tối và năng lượng tối.
Khi chúng ta nhìn vào không gian sâu thẳm với kính thiên văn của
mình, chúng ta nhìn thấy một vũ trụ tràn ngập một trăm tỉ thiên hà. Mỗi thiên
hà chứa khoảng một nghìn tỉ sao, và nhiều thiên hà giống với thiên hà của
chúng ta, cái đĩa xoắn ốc của Ngân Hà. Ở cấp độ dài lớn nhất, từ kích cỡ của
các tiểu hành tinh lên tới của vũ trụ khả kiến, vật chất bị thống lĩnh bởi một
lực duy nhất: lực hấp dẫn.
Lực hấp dẫn là lực yếu nhất trong bốn lực của tự nhiên. Nó là lực giữ
chân chúng ta bám chắc trên mặt đất, và vươn xa vào không gian chỉ dẫn các
hành tinh trong quỹ đạo của chúng xung quanh Mặt Trời, và kẹp chặt hàng
nghìn tỉ sao khi chúng xoáy tít lượn quanh thiên hà quê hương của chúng.
Chuyển động của các hành tinh được mô tả cực kì chính xác bằng định luật
hấp dẫn của Newton. Khi khám phá định luật hấp dẫn, ý tưởng sáng giá của
Newton là hình dung rằng lực tác dụng lên quả táo rơi và lên Mặt Trăng thật
ra là như nhau; cả hai vật chuyển động trong lực hấp dẫn của Trái Đất, chỉ có
điều với Mặt Trăng lực yếu đi do nó ở rất xa Trái Đất. Ông tưởng tượng đặt
một khẩu đại bác trên núi cao, bắn đạn về phía đường chân trời ở tốc độ tăng
dần, sao cho chúng tiếp đất càng lúc càng xa. Cuối cùng, viên đạn bay đủ
nhanh sẽ quay tròn xung quanh Trái Đất ở một độ cao không đổi và vì thế trở
thành một vệ tinh.
Thí nghiệm giả tưởng của Newton cho chúng ta biết rằng vận tốc của
một vệ tinh, độ cao của nó, và khối lượng của vật thể mà nó quay xung quanh,
Các sao trong một đĩa thiên hà quay xung quanh tâm với tốc độ phụ
thuộc vào khoảng cách từ chúng đến tâm. Nếu giả sử toàn bộ khối lượng thiên
hà tập trung vào giữa, nơi thường có một chỗ phình lên thấy rõ chứa mật độ
sao rất cao, thì vận tốc quay của các sao trong đĩa ngoài phải giảm khi tiến
dần ra xa. Sự giảm này được nhìn thấy với các hành tinh của hệ mặt trời, nơi
lực hấp dẫn của Mặt Trời yếu dần theo khoảng cách. Vào thập niên 1970, nhà
thiên văn người Mĩ Vera Rubin đã đo vận tốc quay của đĩa thiên hà của các
thiên hà láng giềng và tìm thấy rằng, trái với trông đợi, tốc độ quay không
giảm theo khoảng cách, mà giữ nguyên không đổi. Các thiên hà đang quay
quá nhanh đối với vật chất khả kiến mà chúng chứa. Khi bà tính khối lượng
của các thiên hà, bà phát hiện thấy có lượng khối lượng gấp năm lần so với
khối lượng kết hợp của các sao và chất khí.
Nhà thiên văn Thụy Sĩ Fritz Zwicky đã đi tới một kết luận tương tự hồi
thập niên 1930 khi đo chuyển động của các thiên hà tụ tập với nhau thành
cụm. Trong đám Coma mạnh gấp 1000 thiên hà, ông phát hiện thấy các thiên
hà trong phần ngoài của đám đang chuyển động nhanh hơn trông đợi so với
lượng khối lượng khả kiến có trong đám. Điều này đề xuất rằng đám đang
được liên kết bởi một khối lượng hấp dẫn không nhìn thấy, ông đặt tên cho
nó là ‘dunkle Materie’, hay vật chất tối. Kết luận là phần lớn khối lượng trong
các thiên hà và đám thiên hà là vật chất không nhìn thấy, ngày nay chúng ta
tin rằng nó được phân bố trong các quầng lớn vây xung quanh những phần
nhìn thấy của thiên hà. Cái gọi là ‘vật chất mất tích’ này tự bộc lộ bởi sự tương
tác hấp dẫn của nó với vật chất bình thường, nhưng không giải phóng hay
bức xạ ánh sáng theo bất kì cách nào.
Ánh sáng từng được phát ra bởi các nguyên tử trong các sao thuộc
những thiên hà xa xôi nhất hồi hàng tỉ năm trước đây đến lúc này mới đi tới
Trái Đất. Trên hành trình dài đằng đẵng của nó, ánh sáng đã vượt khoảng
cách mênh mông hàng tỉ năm ánh sáng. Nếu, ở đâu đó trên đường đi của nó,
một photon đến từ một trong những thiên hà rất xa này đi qua gần một vật
thể khối lượng lớn và gặp phải không gian cong xung quanh nó, thì ánh sáng
bị bẻ cong và đi vào một quỹ đạo khác. Điều này tương tự với cái xảy ra khi
các tia sáng bị bẻ cong hay khúc xạ lúc chúng đi từ không khí sang một môi
trường trong suốt ví dụ như nước hay một thấu kính thủy tinh, thuộc kiểu
bạn có thể tìm thấy ở kính lúp. Ý tưởng thú vị khởi xuất từ đây là người ta có
thể sử dụng hiệu ứng bẻ cong ánh sáng này, gọi là thấu kính hấp dẫn, để đo
xem có bao nhiêu khối lượng có mặt trong không gian và cách nó phân bố. Ở
một thấu kính hấp dẫn, thứ duy nhất đáng quan tâm là độ cong của không
gian; ánh sáng không nói được điều gì khác biệt nếu độ cong đó là do vật chất
tối hay do các sao và vật chất khác trong thiên hà gây ra.
Để hình dung thấu kính hấp dẫn hoạt động như thế nào, hãy xét Hình
33, nó cho thấy hình ảnh gạch lát nền ở đáy của một hồ bơi, nhìn thẳng đứng
từ trên xuống xuyên qua nước. Các gợn sóng trên mặt nước hành xử giống
như thấu kính khúc xạ, và làm biến dạng hình ảnh lát nền, đại diện cho các
thiên hà nền ở xa. Ta có thể nghĩ tới các gợn sóng trên mặt nước là tương
đương với độ cong của không gian gắn liền với sự tập trung khối lượng xen
ở giữa trong vũ trụ. Có ba trường hợp. Khi mặt nước phẳng lặng, không có
biến dạng và hình ảnh lát nền xuất hiện đều đặn; điều này tương ứng với một
Hình 33. Minh họa hiệu ứng thấu kính hấp dẫn, với các gợn sóng nước trong một hồ bơi.
Ảnh chụp nhanh của hình ảnh gạch lát nền ở đáy hồ bơi khi mặt nước: (trái) phẳng lặng;
(giữa) gợn sóng nhẹ, và (phải) gợn sóng mạnh.
Thấu kính hấp dẫn mạnh có thể được tạo ra bằng cách bẻ cong không
gian xung quanh những tập trung khối lượng lớn, ví dụ các đám thiên hà, và
có thể kéo dãn hình ảnh của những thiên hà phông nền thành những cung
sáng dài (Hình 34). Thấu kính hấp dẫn yếu được quan sát thấy nhiều hơn và,
như tên gọi cho thấy, là hình thức kém kịch tính hơn, nó làm biến đổi hình
dạng của các thiên hà phông nền một cách tinh vi hơn. Trong trường hợp
này, thông tin về khối lượng của thấu kính vẫn có thể được suy luận thông
qua phân tích thống kê các méo mó hình dạng của rất nhiều thiên hà phông
nền có đường nhìn đi gần qua nó. Trong ví dụ tương đương hồ bơi, lượng
méo mó đối với hình ảnh lát nền cung cấp thông tin về cỡ của các gợn sóng
trong nước.
Trong thời gian gần đây, thấu kính hấp dẫn đã gia nhập vào kho kĩ
thuật thiên văn hiện đại nhằm cung cấp thông tin về số lượng và phân bố của
vật chất trong vũ trụ, đặc biệt thông qua các quan trắc sẽ được thực hiện với
thế hệ sắp tới của các kính thiên văn chuyên dụng mới. Thấu kính hấp dẫn
đã được quan sát bởi Kính thiên văn Vũ trụ Hubble, nhưng chỉ với một vạt
nhỏ của bầu trời rộng vài ba độ vuông. Để đánh giá lượng vật chất tối có mặt
trong vũ trụ, điều cần thiết là khảo sát một phần lớn hơn nhiều của bầu trời.
Một chiếc kính thiên văn đã được thiết kế cho nhiệm vụ này là kính thiên văn
Khả năng thứ hai và là khả năng hàng đầu cho vật chất tối cho rằng nó
là một loại hạt hạ nguyên tử mới lạ, gọi là Hạt Nặng Tương tác Yếu, hay WIMP.
Các WIMP có thể đã được ra trong Big Bang cùng với các quark và bức xạ.
Mỗi WIMP sẽ phải nặng (có khối lượng từ 1 đến 1.000 khối lượng proton),
bền trong thời gian ít nhất bằng tuổi của vũ trụ, và tương tác ở mức yếu ớt
nhất với các hạt khác trong Mô hình Chuẩn của Vật lí Hạt. Chẳng có hạt nào
trong Mô hình Chuẩn hiện nay có các tính chất này. Những lựa chọn khác cho
WIMP bao gồm khả năng tự nhiên là siêu đối xứng. Siêu đối hạt nhẹ nhất cho
một hạt Mô hình Chuẩn, neutralino trên giả thuyết, là một hạt ứng viên vật
chất tối. Ngày nay người ta tin rằng các neutrino có khối lượng rất nhỏ, bằng
một phần triệu khối lượng electron, và do đó được xem là những ứng cử viên
WIMP khả dĩ. Neutrino xuất hiện dưới danh mục vật chất ‘nóng’, trong ngữ
cảnh này có nghĩa là chúng chuyển động ở tốc độ gần với tốc độ ánh sáng.
Thực tế vật chất tối chiếm khoảng sáu lần lượng vật chất bình thường
mà chúng ta biết có nghĩa là nó phải giữ một vai trò trụ cột trong việc kiểm
Các hạt vật chất tối có thể cư trú trong quầng sáng Ngân Hà, theo dự
kiến sẽ tuồn liên tục qua đĩa thiên hà và do đó sẽ đi qua hệ mặt trời. Nếu
chúng đi qua, thì có khả năng dò tìm trực tiếp khi chúng đi tới Trái Đất. Nếu
có một tương tác phi hấp dẫn yếu giữa các hạt vật chất tối và vật chất bình
thường, thì các hạt vật chất tối có thể biểu lộ trong các va chạm hiếm hoi với
hạt nhân của vật chất bình thường. Một dấu hiệu khả dĩ sẽ là một photon
được sinh ra từ một hạt vật chất tối tương tác với một hạt nhân nặng. Một thí
nghiệm bố trí để tìm kiếm những sự kiện như thế là thí nghiệm Xenon Lớn
Dưới lòng đất (LUX), nó là một bể lớn chứa xenon lỏng, bao bọc xa là các
detector nhân quang rất nhạy. LUX nằm sâu 1,5 km dưới lòng đất trong mỏ
vàng Homestake ở South Dakota, đủ sâu để chặn hết các hạt giả mạo. Xác suất
để một hạt WIMP đập trúng một hạt nhân xenon là rất thấp và cho đến nay
thí nghiệm vẫn chưa dò thấy tín hiệu nào có ý nghĩa.
Tuy nhiên, trong vòng vài năm sau mô hình vũ trụ đã đề xuất của
Einstein, Hubble công bố khám phá của ông rằng vũ trụ đang dãn nở và
không tĩnh tại. Phương trình gốc của Hubble, không có số hạng Λ, có thể giải
thích một vũ trụ dãn nở. Khi nghe nói tới khám phá của Hubble, Einstein đã
rút lại hằng số vũ trụ học của ông và nói rằng nó là ‘sai lầm lớn nhất của đời
tôi’. Nhưng, như chúng ta sẽ thấy, có bằng chứng tươi mới đề xuất rằng phản
ứng của Einstein có lẽ là hấp tấp.
Vũ trụ sẽ tiếp tục dãn nở mãi mãi, hay một ngày nào đó nó sẽ bắt đầu
co lại, cuối cùng kết thúc trong một cú ‘nghiền’ lớn? Số phận của vũ trụ phụ
thuộc vào sự cạnh tranh giữa động năng dãn nở của Big Bang và lực hấp dẫn
của toàn bộ vật chất trong vũ trụ đang cố hút vạn vật về với nhau. Vận tốc lùi
ra xa của các thiên hà đã dẫn tới khám phá định luật Hubble liên hệ động
năng dãn nở và đối lập với nó là lực hút hấp dẫn của vật chất. Nếu mật độ vật
chất quá nhỏ, thì lực hấp dẫn sẽ quá yếu, không ngăn được vũ trụ dãn nở mãi
mãi. Nếu mật độ đủ lớn, thì cuối cùng sự dãn nở sẽ dừng lại, vũ trụ sẽ co lại,
và sẽ có một cú nghiền lớn. Còn nếu vật chất có một giá trị tới hạn được điều
chỉnh tinh vi, thì vũ trụ sẽ tiếp tục dãn nở mãi mãi, và không gian sẽ có hình
học ‘phẳng’. Mật độ tới hạn đó rất nhỏ, tương đương với khoảng năm nguyên
tử hydrogen trong mỗi mét khối (để so sánh, có khoảng 1025 nguyên tử
hydrogen trong một cốc nước). Bằng chứng dường như cho thấy mật độ
trung bình của vũ trụ ở gần với giá trị tới hạn đó.
Vào những năm 1990, hai nhóm nhà thiên văn học đã cố đo hình học
của vũ trụ bằng cách xác định sự dãn nở Hubble càng chặt chẽ càng tốt trên
Các nhà thiên văn tìm thấy rằng các siêu tân tinh xa nhất mờ hơn nhiều
so với trông đợi. Kết luận bất ngờ là rằng không gian mà ánh sáng truyền qua
đã dãn nở nhiều hơn trông đợi, và các siêu tân tinh đó ở xa hơn trước đây
người ta vẫn nghĩ. Điều này hàm ý rằng sự dãn nở của vũ trụ đang tăng tốc,
một điều không được trông đợi từ một vũ trụ choán đầy các khối lượng hút
hấp dẫn. Cứ như thể là bạn ném một quả bóng lên không trung, và ngay khi
nó bắt đầu rơi xuống, nó tăng tốc ra xa bạn và tiếp tục tiến lên. Kết quả bất
ngờ như thế đó.
Tuy nhiên, một gia tốc trong sự dãn nở của vũ trụ chính là cái mà số
hạng Λ của Einsten có thể cung cấp. Lực đẩy vũ trụ mà nó gây ra được gọi là
năng lượng tối, một dạng năng lượng bí ẩn choán đầy không gian. Mật độ
năng lượng tối là không đổi, nghĩa là khi vũ trụ dãn nở và tạo ra nhiều thể
tích hơn, tổng lượng năng lượng tối mà nó chứa tăng theo sự dãn nở đó. Đây
là một khái niệm đặc biệt. Chúng ta tin rằng năng lượng tối rải đều trên khắp
vũ trụ và mật độ khối lượng-năng lượng của nó là nhỏ. Bên trong thể tích
Trái Đất chẳng hạn, tương đương khối lượng của năng lượng tối là một phần
triệu của một gram. Câu đố là tại sao nó nhỏ như vậy. Chúng ta biết rằng
không gian trống rỗng có mật độ năng lượng tiềm ẩn gọi là năng lượng chân
không liên quan đến các hạt ảo liên tục thoắt ẩn thoắt hiện ở cấp lượng tử.
Tuy nhiên, mật độ năng lượng chân không lượng tử thấp hơn mật độ năng
lượng tối được suy luận đến 10120 lần, và vì thế bản chất đúng của năng lượng
tối vẫn còn là một bí ẩn lớn. Trong vũ trụ rất sơ khởi, các hiệu ứng của năng
lượng tối sẽ bị che khuất bởi mật độ năng lượng cao hơn nhiều khi ấy của vật
chất và bức xạ. Nhưng khi vũ trụ dãn ra, sự có mặt của thành phần năng lượng
Sự thật phũ phàng hiện ra trước mắt là vật chất bình thường gồm các
nguyên tử và phân tử của cơ thể chúng ta, và của mọi sinh vật sống, vật chất
được nghiên cứu trong sinh học, hóa học, khoa học vật liệu, trong kĩ thuật và
phần nhiều thiên văn vật lí học, cấu thành chưa tới một phần hai mươi lượng
vật chất mà chúng ta tin là tồn tại trong vũ trụ. Bởi thế, vật chất bình thường
có vẻ như chỉ là một ‘tạp chất’ trong vật chất thật sự ‘ở ngoài kia’. Sự thật bất
ngờ và nhún nhường là chúng ta không biết khối vật chất trong vũ trụ là thứ
gì.
Để khép lại câu chuyện về vật chất này, chúng ta có thể nghe lại lời
nhận xét của Feynman, được trích dẫn ở cuối Chương 3 – rằng sự thật quan
John Polkinghorne, VSI Quantum Theory (OUP, 2002) (quyển sách này mô tả
sự liên đới lượng tử, hiện tượng không được nhắc tới trong Chương 5).